"Nghề Giúp Việc PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nghề Giúp Việc PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Dành tặng Mia; Chúc con ngủ ngon Mẹ mãi yêu con Chúng ta sẽ gặp nhau vào sớm mai thức giấc Tôi đã học được rằng kiếm sống không phải là sống. – Maya Angelou Lời nói đầu: Chào mừng đến với Thế giới của Stephanie Land Để được xã hội thừa nhận, bạn phải rũ bỏ mọi dấu ấn của cuộc sống nội trợ, cha mẹ đơn thân và định kiến về sự nghèo khổ dưới con mắt của truyền thông. Stephanie là người chăm chỉ và “hoạt ngôn”, khi sử dụng lời khen ngợi hợm hĩnh của giới thượng lưu dành cho những con người thông minh vượt trội mà lại không được học cao. Nghề giúp việc là câu chuyện về hành trình làm mẹ của Stephanie. Cô ấy vừa cố gắng đem đến cho con gái Mia một cuộc sống và một mái nhà êm ấm vừa bươn chải nhờ sự giúp đỡ của chính phủ và nguồn thu nhập thấp đến nỗi thảm thương từ nghề giúp việc. Nghĩ đến từ “giúp việc”, nhiều người sẽ liên tưởng tới những khay trà, bộ đồ hầu gái như vẫn thấy trong phim truyền hình dài tập Downtown Abbey. Nhưng trên thực tế, thế giới của người giúp việc toàn những vết dầu mỡ cứng đầu và đủ thứ bẩn thỉu két dính khác. Họ phải moi những búi tóc ra khỏi đường ống thoát nước, tận mắt trông thấy những thứ bẩn thỉu của chúng ta, cả theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Nhưng họ vẫn là những con người vô hình - bị chính trị và chính sách của nước Mỹ bỏ qua, bị chính chúng ta khinh thường, coi rẻ. Tôi biết vì tôi từng có một thời gian ngắn sống cuộc đời đó khi là một phóng viên tìm hiểu về những công việc lương thấp làm tư liệu cho cuốn sách Nickel and Dimed của mình. Không giống như Stephanie, tôi luôn có thể quay về tiếp tục cuộc sống viết lách thoải mái hơn rất nhiều của mình. Và không giống cô ấy, tôi không phải cố nuôi nấng một đứa trẻ chỉ vỏn vẹn với đồng lương của mình. Các con tôi đã trưởng thành và không muốn sống cùng tôi trong căn nhà ở di động - tôi thích thế để lấy cảm hứng viết văn. Vì thế tôi rất hiểu công việc dọn dẹp nhà cửa -sự kiệt sức và bị khinh rẻ khi tôi mặc áo đồng phục có tên công ty “Giúp việc Đa quốc gia” ở chốn công cộng. Nhưng tôi chỉ có thể đoán được phần nào sự căng thẳng và tuyệt vọng của những đồng nghiệp. Giống như Stephanie, rất nhiều người là mẹ đơn thân, coi công việc dọn dẹp nhà cửa là kế sinh nhai, đồng thời luôn lo lắng vì con đến nỗi không đành lòng đi làm. Nếu may mắn, bạn sẽ không bao giờ phải sống trong thế giới của Stephanie. Trong Người giúp việc, bạn sẽ thấy ở đó toàn những sự thiếu hụt. Không bao giờ đủ tiền và đôi lúc không đủ thức ăn; bơ lạc và mì tôm là món ăn chính; chẳng mấy khi họ dám động tới đồ ăn McDonald. Không có gì đáng tin cậy trong cái thế giới ấy -dù là xe cộ, đàn ông, nhà cửa. Tem phiếu thực phẩm là cây cột chống trời quan trọng, và điều luật gần đầy yêu cầu ta phải đi làm mới có tem phiếu chỉ khiến bạn siết tay thành nắm đấm. Không có các nguồn trợ cấp chính phủ ấy, những người lao động đó, những ông bố bà mẹ đơn thân đó sẽ không thể sống nổi. Chúng không phải của bố thí. Như những người khác, họ cũng muốn có chỗ đứng trong xã hội. Có lẽ điểm nhức nhối nhất trong thế giới của Stephanie là định kiến của những người may mắn hơn. Đó là định kiến giai tầng, và nó đặc biệt nhắm vào những người lao động tay chân, luôn bị coi là kém thông minh và kém văn hóa hơn những người quần là áo lượt hay ngồi bàn giấy. Tại siêu thị, những khách hàng khác nhìn xe đẩy của Stephanie một cách đầy định kiến khi cô thanh toán bằng tem phiếu thực phẩm. Một ông lão đã nói lớn “Cứ thoải mái nhé!” như thể ông ta vung tiền thanh toán thay cô. Định kiến này không chỉ là với Stephanie mà còn đại diện cho quan điểm của phần đông trong xã hội. Câu chuyện về thế giới của Stephanie có lúc tưởng như sẽ dẫn tới kết thúc bi thảm. Đầu tiên đó là những mệt mỏi thể xác và nước mắt do phải nâng vác, hút bụi, kì cọ vệ sinh từ sáu đến tám tiếng mỗi ngày. Tại công ty dọn vệ sinh mà tôi từng làm việc, mỗi đồng nghiệp của tôi, từ mười chín tuổi trở lên, dường như đều ít nhiều bị tổn thương thần kinh cơ - đau lưng, tổn thương dây chằng, khớp gối và mắt cá chân. Stephanie phải dùng một lượng thuốc giảm đau ibuprofen đáng báo động mỗi ngày. Có lúc cô còn thèm thuồng thuốc phiện trong nhà vệ sinh của một khách hàng, nhưng thuốc kê theo đơn không phải dành cho cô; massage, vật lí trị liệu hay đi khám bác sĩ chuyên khoa là những thứ xa xỉ. Trên hết, hoặc xen vào những mệt mỏi thể xác, là những xúc cảm mà Stephanie phải đối diện. Cô là hình mẫu “kiên cường” điển hình mà các nhà tâm lí học khuyên người nghèo nên noi theo. Khi đối mặt với những chướng ngại, cô tìm cách tiến lên. Nhưng nhiều lúc có quá nhiều thứ dồn dập đến. Tất cả những gì giúp cô kiên gan bền chí là tình yêu vô tận dành cho con gái, và đó là ánh sáng trung trinh rọi khắp cuốn sách này. Cũng không phải hé lộ gì khi nói rằng cuốn sách này có một cái kết có hậu. Qua nhiều năm vật lộn, Stephanie vẫn nuôi một khát vọng với nghề văn. Tôi gặp Stephanie vài năm về trước, khi cô mới bắt đầu nghiệp cầm bút. Ngoài là nhà văn, tôi còn là người sáng lập dự án Economic Hardship Reporting Project, một tổ chức thúc đẩy các nhà báo có những bài viết chất lượng về sự bất bình đẳng kinh tế, nhất là từ chính những người đang phải vật lộn mưu sinh. Stephanie gửi cho chúng tôi một câu hỏi, và chúng tôi đã tìm đến cô, làm việc với cô để phát triển ý tưởng, gọt giũa bản thảo và đưa chúng lên những tờ báo danh tiếng nhất có thể, trong đó bao gồm New York Times và New York Review of Books. Cô đúng là mẫu người mà chúng tôi tìm kiếm - một cây bút vô danh từ giai cấp cần lao cần một chút thúc đẩy để phát triển sự nghiệp. Nếu cuốn sách này thắp lửa trong bạn, hãy nhớ rằng nó suýt không bao giờ được viết ra. Stephanie rất có thể đã buông xuôi theo số phận nghiệt ngã; cô rất có thể bị chấn thương vĩnh viễn khi làm việc. Xin cũng hãy nghĩ đến những người phụ nữ vì những lí do tương tự mà chưa bao giờ có cơ hội được kể ra câu chuyện của đời mình. Stephanie nhắc nhở chúng ta rằng họ ở ngoài kia, giữa hàng triệu con người, mỗi người đều là người hùng theo một cách của riêng họ, đang chờ đợi được chúng ta lắng nghe. – Barbara Ehrenrich Tác giả, nhà báo và nhà hoạt động chính trị người Mỹ PHẦN MỘT 1. Căn nhà tạm Thế đấy, con gái tôi đã chập chững những bước chân đầu tiên trong một căn nhà chung dành cho người vô gia cư*. Đó là một buổi chiều tháng Sáu, ngay trước sinh nhật đầu tiên của con bé một ngày. Tôi ngồi chồm hỗm trên chiếc ghế sofa mòn xơ, giơ máy ảnh kĩ thuật số cũ kĩ lên để chụp lại những bước đi đầu đời ấy. Mái tóc rối và bộ đồ liền kẻ sọc mỏng manh hoàn toàn đối lập với sự quyết tâm ánh lên trong đôi mắt Mia khi nó co duỗi các ngón chân để giữ thăng bằng. Từ đằng sau máy ảnh, tôi thu vào tầm mắt tất cả: Những nếp da nơi mắt cá chân, dáng đi lắc lư và cái bụng tròn xoe. Nó chập chững đi về phía tôi, đôi chân trần bước từng bước trên nền nhà lát gạch. Bụi đất bao nhiêu năm đã két dính vào sàn nhà, mặc cho tôi có cố công kì cọ thế nào đi chăng nữa cũng không tài nào làm sạch được. Đó là tuần cuối cùng của thời hạn 90 ngày chúng tôi được sống trong một căn nhà tạm ở phía bắc thị trấn, do ủy ban nhà ở cấp cho những người không nơi nương tựa. Sau đây chúng tôi sẽ chuyển đến nhà ở chuyển tiếp - một khu chung cư phức hợp cũ đã xuống cấp, sàn lát xi măng, từng được dùng làm nơi ở cho những người vừa ra tù hoặc rời khỏi bệnh viện tâm thần. Tôi đã cố gắng hết sức để biến căn nhà tạm này trở thành tổ ấm cho con gái. Tôi trải tấm phủ màu vàng lên cái ghế sofa, không chỉ để làm cho những bức tường trắng và sàn nhà xám xịt ủ dột trông ấm mắt hơn, mà còn để thêm một chút gì đó tươi vui vào khoảng thời gian đen tối này. Bên cạnh cửa ra vào, tôi treo một tờ lịch nhỏ chi chít lịch hẹn với các chuyên viên tư vấn tại những tổ chức có thể giúp tôi. Tôi đã tìm mọi phương cách, lui tới văn phòng của mọi cơ quan trợ cấp chính phủ và nối vào hàng dài những con người cầm những tập hồ sơ giấy tờ lộn xộn chứng minh họ không có tiền. Tôi bị choáng ngợp bởi đủ loại thủ tục chỉ để chứng minh rằng tôi nghèo*. Theo quy định, chúng tôi không được phép có người đến thăm và cũng chẳng được phép có quá nhiều tài sản. Hai mẹ con tôi sở hữu vỏn vẹn một túi đồ đạc. Mia chỉ có một giỏ đồ chơi. Tôi có một chồng sách khiêm tốn đặt trong các kệ nhỏ ngăn buồng khách với bếp. Trong căn nhà còn có một chiếc bàn tròn được tôi gắn cùng chiếc ghế ăn dặm của Mia, và một chiếc ghế nơi tôi thường vừa ngồi nhìn con ăn vừa uống cà phê để chiêu cơn đói bụng. Vừa dõi theo Mia bước những bước đầu đời, tôi vừa cố không nhìn chiếc hộp màu xanh lá cây đằng sau đựng toàn bộ giấy tờ pháp lí ghi lại hành trình tôi đấu tranh giành quyền nuôi con với bố của Mia. Tôi gắng hết sức chỉ tập trung vào con, cười với con như thể tất cả đều ổn. Nếu tôi quay máy ảnh chụp bản thân một tấm, tôi sẽ không nhận ra nổi mình mất. Trong một vài bức ảnh, tôi gần như khác hẳn hồi xưa, có lẽ cả đời tôi chưa từng thấy một ai gầy đến thế. Tôi nhận việc chăm sóc vườn tược bán thời gian, dành vài giờ mỗi tuần để cắt tỉa tạo hình cây cảnh, bắt những bụi cây mâm xôi “nổi loạn” phải đi vào khuôn khổ, nhổ bỏ những nhành cỏ dại bé tí ở những nơi chúng không được phép xuất hiện. Có lúc tôi vệ sinh nhà cửa và toilet cho người quen hoặc bạn bè, những người biết tôi đang cần tiền vô cùng. Họ không giàu nhưng dù sao cũng có của ăn của để, chứ không như tôi. Với họ, mất đi một khoản tiền lương là vấn đề không nhỏ, nhưng đó không phải khởi điểm cho một chuỗi sự kiện dẫn đến nông nỗi phải sống trong một căn nhà chung dành cho người vô gia cư. Bố mẹ hoặc người thân có thể giúp họ chút tiền để thoát khỏi thảm cảnh ấy. Nhưng không ai cứu giúp mẹ con tôi. Tôi và Mia chỉ biết dựa vào nhau. Trong các giấy tờ gửi lên cơ quan cấp nhà ở, khi được hỏi về mục tiêu cá nhân cho vài tháng tới, tôi đã viết sẽ cố gắng giải quyết những khúc mắc với Jamie, bố của Mia. Tôi từng nghĩ nếu tôi chịu cố gắng, chúng tôi có thể hòa thuận. Có lúc tôi đã hình dung ra những khoảnh khắc chúng tôi là một gia đình thực sự, có bố có mẹ và một cô con gái xinh xắn. Tôi ấp iu những ảo mộng ấy như thể chúng là sợi dây giữ một quả bóng bay khổng lồ sẽ đưa tôi vượt qua những trận bạo hành của Jamie và những nỗi nhọc nhằn khi phải làm mẹ đơn thân. Nếu nắm chặt sợi dây ấy, tôi sẽ bay qua tất cả. Nếu tôi chú tâm vào hình ảnh gia đình như tôi muốn, tôi có thể vờ như tất cả những chuyện tồi tệ kia chưa từng xảy ra, như thể đoạn đời này chỉ là tạm thời chứ không phải là một trang mới. Vào sinh nhật, tôi mua cho Mia một đôi giày mới màu nâu thêu những con chim màu hồng và xanh. Tôi mua nó bằng những đồng lương tằn tiện cả tháng ròng. Tôi gửi thiệp mời sinh nhật như một bà mẹ bình thường và mời Jamie như thể chúng tôi là một cặp đôi chia tay trong hòa bình và cùng nhau nuôi dạy con cái. Chúng tôi tổ chức tiệc sinh nhật tại một bàn dã ngoại nhìn ra đại dương, nằm trên một sườn đồi xanh rì tại công viên Chetzemoka của thành phố Port Townsend thuộc bang Washington - nơi chúng tôi sinh sống. Mọi người ngồi trên chiếc thảm họ mang theo, thoải mái nói cười. Tôi mua nước chanh và bánh xốp bằng tem phiếu thực phẩm tháng này. Bố và ông tôi đã ngồi xe gần hai tiếng đồng hồ từ đầu kia thành phố tới tham dự. Em trai tôi và vài người bạn của tôi cũng đến. Một người còn mang theo cây đàn guitar. Tôi nhờ một người bạn chụp hình cho Mia, Jamie và tôi, vì chuyện ba người chúng tôi ngồi bên nhau thế này thật quá hiếm hoi. Tôi muốn Mia có một kỉ niệm đẹp để sau này nhớ lại. Nhưng gương mặt Jamie trong mọi bức hình đều hững hờ, cau có. Mẹ tôi bay đến cùng người chồng mới, William, từ London, hoặc Pháp, hay bất kì nơi nào họ đang sống vào thời điểm đó. Sau sinh nhật của Mia, họ ghé thăm - vi phạm quy định “không tiếp khách” của khu nhà chung dành cho người vô gia cư - để giúp chúng tôi chuyển đến khu chung cư chuyển tiếp. Tôi thầm lắc đầu ngán ngẩm với trang phục của họ: William mặc quần bò đen bó, áo len đen và đi giày đen; mẹ tôi mặc chiếc đầm sọc đen trắng bó chặt lấy cái bụng mỡ, đi tất liền đen, phối cùng một đôi giày Converse thấp cổ. Trông họ như đang sẵn sàng ngồi nhâm nhi một tách cà phê espresso chứ không phải giúp chuyển nhà. Tôi không cho ai biết mẹ con tôi sống ở đâu nên sự xuất hiện của chất giọng Anh đặc trưng và những bộ trang phục cảnh vẻ đậm chất Âu khiến căn nhà tạm, tổ ấm của mẹ con tôi, bỗng nhiên như nhếch nhác hơn. William có vẻ ngạc nhiên khi thấy chúng tôi ra đi chỉ vỏn vẹn đem theo một cái túi hình trống. Ông ta xách nó lên mang ra ngoài, mẹ tôi đi theo. Tôi quay lại nhìn sàn nhà lần cuối cùng, nhớ lại hình ảnh tôi đã ngồi đọc sách trên cái sofa ấy, Mia lục giỏ đồ chơi, cảnh con ngồi lọt thỏm trong cái ngăn kéo bên dưới cái giường đôi. Tôi vui vì được rời khỏi chốn này, nhưng đây là một khoảnh khắc ngắn ngủi giúp tôi hiểu mình đã vượt qua được những gì, để tôi gửi lời từ biệt ngọt ngào pha lẫn xót xa với cái chốn nhỏ bé là khởi đầu của chúng tôi. Một nửa trong số những cư dân sống trong khu chung cư mới - Chương trình Cung cấp Nhà ở Chuyển tiếp cho Hộ Gia đình Hành lang Tây Bắc - cũng cùng chung cảnh ngộ như tôi: Họ vừa chuyển ra khỏi khu tạm trú cho người vô gia cư, nhưng nửa còn lại thì vừa mới ra tù. So với khu nhà chung dành cho người vô gia cư thì đây đáng ra phải là một bước tiến, nhưng tôi đã bắt đầu thấy nhớ cảm giác riêng tư của căn nhà tạm. Ở đây, trong tòa nhà này, cuộc đời tôi lồ lộ trước con mắt của mọi người, kể cả của chính tôi. Mẹ và William chờ ở phía đằng sau tôi khi tôi tiến đến cửa căn nhà mới. Tôi đánh vật với ổ khóa, đặt cái hộp xuống và cố sức vặn tới khi cuối cùng chúng tôi cũng vào được trong nhà. “Chí ít thì nơi này cũng được cái an toàn”, William bông đùa. Chúng tôi bước vào một hành lang hẹp; cửa chính đối diện với nhà vệ sinh. Tôi ngay lập tức để ý tới cái bồn tắm, nơi tôi và Mia sau này có thể tắm chung. Đã lâu rồi chúng tôi không được hưởng cái thú xa xỉ ngâm mình trong bồn tắm. Hai phòng ngủ nằm ở bên phải, mỗi phòng có một cửa sổ nhìn ra đường. Trong căn bếp chật hẹp, cánh tủ lạnh suýt chạm vào cái chạn bếp ở phía đối diện. Tôi sải bước qua sàn nhà lát những viên gạch lớn màu trắng trông khá giống sàn căn nhà tạm và mở cửa ra một lô gia nhỏ, chỉ vừa đủ rộng cho tôi ngồi duỗi chần. Cách đây hai tuần, Julie, chuyên viên tư vấn, đã dẫn tôi đi xem qua nơi này. Gia đình trước đã sống ở đây 24 tháng, vừa hết thời gian cho phép. “May cho chị là căn này còn trống”, cô bảo. “Nhất là khi thời gian lưu lại ở khu tạm trú của chị đã hết.” Ngày đầu mới gặp Julie, tôi ngồi đối diện cô, lắp bắp cố trả lời những câu hỏi về kế hoạch tương lai, tôi định cho con một mái ấm bằng cách nào. Tôi định làm gì để có nguồn tài chính ổn định. Tôi làm được những công việc gì. Julie có vẻ hiểu những hoang mang của tôi và đưa ra một vài gợi ý để gỡ rối. Chuyển đến sống ở khu nhà dành cho người thu nhập thấp có lẽ là lựa chọn duy nhất. Trung tâm Hỗ trợ Nạn nhân của Bạo hành Gia đình và Lạm dụng Tình dục có cung cấp nơi tạm trú an toàn cho những con người bơ vơ không nơi nương tựa, nhưng tôi có cái may mắn được ủy ban nhà ở cấp cho một chỗ ăn ở riêng và một con đường để an cư lạc nghiệp. Julie và tôi lượt qua danh sách dài bốn trang liệt kê các luật lệ ngắn gọn trong buổi gặp đầu tiên - những quy định tôi buộc phải tuần thủ nếu muốn sống trong khu tạm trú của họ. Khách phải hiểu rằng đây là nơi tạm trú khẩn cấp; đây KHÔNG PHẢI nhà của bạn. Yêu cầu PHÂN TÍCH MẪU NƯỚC TIỂU NGẪU NHIÊN có thể được đưa ra bất kì lúc nào KHÔNG tiếp khách KHÔNG CHẤP NHẬN NGOẠI LỆ. Julie nói rõ rằng thi thoảng người ta kiểm tra ngẫu nhiên để đảm bảo cư dân có thực hiện những công việc vệ sinh gia đình cơ bản như rửa bát, không để thức ăn thừa trên bàn bếp và quét nhà. Tôi một lần nữa đồng ý với yêu cầu thử nước tiểu ngẫu nhiên, kiểm tra nhà ở ngẫu nhiên và quy định giới nghiêm từ 10 giờ tối. Không được phép cho khách ở lại qua đêm khi chưa nhận được sự đồng ý và cũng không được quá ba ngày. Tất cả những thay đổi về thu nhập phải được báo cáo ngay lập tức. Tôi cũng phải nộp báo cáo hằng tháng với đầy đủ chi tiết rằng nguồn tiền đến từ đâu, chi cho mục đích gì. Julie tốt tính và luôn giữ nụ cười trên môi khi nói chuyện. Tôi mừng vì cô không mang vẻ mệt mỏi, khó chịu như một số chuyên viên tư vấn trong những cơ quan chính phủ khác. Cô đối xử với tôi như giữa con người với con người, khi nói thi thoảng cô lại vén những lọn tóc ngắn màu đỏ đồng ra sau tai. Ấy vậy nhưng dòng tư duy của tôi như hẫng lại khi cô bảo tôi “may mắn”. Tôi không thấy mình may mắn. Chắc chắn là tôi thấy cảm kích, nhưng may mắn ư? Không. Không thể nào nói tôi may mắn khi tôi sắp chuyển đến ở tại một nơi đầy rầy những quy định khiến tôi có cảm giác mình là một kẻ nghiện ngập, bẩn thỉu hoặc rối loạn tâm thần đến mức cần một lệnh giới nghiêm và được thử nước tiểu. Nghèo, sống trong cái nghèo cũng khá giống với việc phải chịu án treo - vì tội thiếu cần câu cơm. William, mẹ và tôi thong thả chuyển đồ từ chiếc xe bán tải đi mượn lên căn hộ tại tầng hai. Chúng tôi chuyển đồ đạc từ một nhà kho do bố thuê cho tôi trước khi tôi chuyển vào căn nhà tạm. Mẹ và William trưng diện quá nên tôi đành đưa cho họ mấy cái áo phông, nhưng họ từ chối. Trước nay mẹ tôi luôn to béo, trừ trong giai đoạn mẹ li hôn bố. Mẹ bảo mẹ giảm cân là nhờ phương pháp ăn kiêng Atkins. Bố tôi sau đó phát hiện ra chuyện mẹ tự nhiên thích đi tập thể dục chẳng phải để giữ dáng mà là đi ngoại tình, cùng với đó là khát khao được thoát khỏi vòng kiểm tỏa của việc làm vợ làm mẹ. Sự thay đổi ngoại hình của mẹ tượng trưng cho sự thoát ra hoặc thức tỉnh một cuộc đời mà mẹ luôn muốn có nhưng đành hi sinh vì gia đình. Với tôi, mẹ như đột nhiên trở thành người xa lạ. Bố mẹ tôi li hôn chính vào mùa xuân em tôi tốt nghiệp trung học phổ thông, và mẹ dọn tới một căn hộ riêng. Đến Lễ Tạ ơn, mẹ đã lọt thỏm trong chiếc đầm ngày trước và nuôi tóc dài. Chúng tôi tới một quán rượu và tôi đã thấy mẹ hôn những gã trai chỉ bằng tuổi tôi, sau đó say quắc cần câu không biết giời đất là gì tại một quán ăn. Tôi xấu hổ, nhưng rồi cảm giác đó biến thành một nỗi mất mát mà tôi không biết phải khóc thương như thế nào. Tôi cần mẹ. Một thời gian sau bố tôi cũng lập gia đình mới. Bạn gái mới của bố hay ghen và có ba cậu con trai riêng. Bà ấy không thích sự có mặt của tôi. “Hãy tự lập đi”, bố đã nói vậy với tôi sau bữa sáng tại quán Denny gần nhà họ. Bố mẹ tôi đã tiếp tục cuộc sống của mình, bỏ lại tôi bơ vơ không nơi nương tựa về mặt tình cảm. Tôi thề sẽ không bao giờ để tôi và Mia phải xa rời nhau, cả về thể xác lẫn tinh thần. Giờ, nhìn mẹ, kết hôn với một anh chàng người Anh chỉ hơn tôi có bảy tuổi, tôi nhận thấy mẹ đã tăng vài cỡ quần áo so với hồi trước, đến mức mẹ có vẻ không thoải mái với cơ thể mình. Tôi không thể nào không nhìn mẹ chằm chằm khi mẹ đứng cạnh tôi và nói thứ giọng Anh ngụy tạo. Mẹ chuyển đến châu Âu mới có bảy năm, nhưng số lần tôi được gặp mẹ thì đếm trên đầu ngón tay. Đang chuyển dở mấy thùng sách, mẹ bắt đầu huyên thuyên về một chiếc bánh burger thật ngon. “Với cả một cốc bia nữa”, mẹ nói thêm vào lần tiếp theo chúng tôi đi qua nhau trên cầu thang. Chưa qua trưa mà mẹ đã nghĩ đến nghỉ ngơi, nghĩa là bà sẽ sớm nốc rượu thôi. Bà đề nghị chúng tôi tới Sirens, một quán rượu ở trung tâm thành phố có ghế ngồi ngoài trời. Tôi tứa nước miếng. Mấy tháng rồi tôi chưa đi ăn tiệm. “Chuyển đổ xong con còn phải đi làm, nhưng thôi được”, tôi nói. Tôi nhận công việc dọn dẹp trường mẫu giáo của một người bạn mỗi tuần một lần để kiếm 45 đô la. Tôi còn phải trả xe và đón Mia từ nhà Jamie nữa. Hôm đó, mẹ tôi cũng bỏ đi vài thùng đồ của mình - chứa những tấm ảnh cũ và đồ nữ trang lặt vặt được cất trong garage của một người bạn. Mẹ mang tất cả đến nhà mới của tôi làm quà. Tôi vui vẻ nhận lấy vì hoài niệm quá vãng, mà chúng thì giống như những bằng chứng về một thời đã xa chúng tôi từng bên nhau. Mẹ giữ tất cả những tấm ảnh chân dung thời học sinh, kể cả ảnh Halloween. Tôi ôm con cá đầu tiên mình cầu được. Tôi nâng niu bó hoa sau chương trình nhạc hội của nhà trường. Mẹ đã đi dự, ủng hộ tinh thần cho tôi, đã cười rất tươi và giơ cao chiếc máy ảnh. Nhưng nay, trong căn hộ này, mẹ nhìn tôi như thể nhìn một con người trưởng thành khác, ngang hàng, trong khi tôi cảm thấy mất mát hơn bao giờ hết. Tôi cần gia đình. Tôi cần trông thấy họ gật đầu, mỉm cười và trấn an rằng tôi sẽ ổn thôi. Nhân lúc William vào nhà vệ sinh, tôi ngồi bệt xuống sàn nhà, bên cạnh mẹ. “Mẹ ơi”, tôi nói. “Gì thế?” Mẹ đáp như thể tôi sắp xin xỏ điều gì. Tôi luôn có cảm giác mẹ sợ tôi xin tiền, dù tôi chưa từng ngửa tay cầu cạnh một đồng nào. Mẹ và William sống tằn tiện ở châu Âu, cho thuê căn hộ của William tại London, còn bản thân thì sống tại một căn nhà nhỏ nơi miền quê nước Pháp, không xa Bordeaux là mấy, có lẽ họ đã biến nó thành một nhà trọ qua đêm rồi cũng nên. “Liệu hai mẹ con mình có thời gian dành cho nhau không?” Tôi hỏi. “Chỉ hai chúng ta thôi ấy?” “Steph, có vẻ không hay lắm đâu.” “Vì sao?” Tôi ngồi thẳng người, hỏi. “Ý mẹ là, nếu con muốn dành thời gian với mẹ, con sẽ phải chấp nhận cả William nữa”, bà nói. Đúng lúc đó, William bước về phía chúng tôi, xì mũi đánh rột vào chiếc khăn tay. Bà nắm tay William và nhướng mày nhìn tôi như thể tự hào vì đã đặt ra giới hạn đó. Chuyện tôi không thích William cũng chẳng có gì phải giấu giếm. Khi tôi đến thăm họ tại Pháp vào hai năm trước, William và tôi đã tranh cãi kịch liệt khiến mẹ tôi buồn đến mức phải bỏ ra ngoài xe khóc. Trong chuyến thăm đó, tôi đã ước sẽ hàn gắn lại mối quan hệ với mẹ. Không phải với một người có thể giúp tôi chăm sóc Mia, mà tôi cần một người mẹ, một người tôi có thể tin tưởng, một người chấp nhận tôi vô điều kiện mặc cho tôi đang sống trong khu nhà chung dành cho người vô gia cư. Nếu tôi có một người mẹ để mà hàn huyên tâm sự, có lẽ mẹ sẽ giải thích cho tôi hiểu chuyện gì đang đến với tôi, hoặc khiến tất cả dễ chịu hơn và giúp tôi không có cảm giác mình là một kẻ thất bại. Chấp nhận việc mình tuyệt vọng đến mức muốn tranh giành sự chú ý của mẹ thật sự vô cùng khó khăn. Thế là tôi cười ha hả mỗi khi William kể chuyện cười. Tôi mỉm cười mỗi khi anh ta tếu táo về ngữ pháp tiếng Anh của dân Mỹ. Tôi không hề buông một lời nhận xét về ngữ điệu mới của mẹ, cũng chẳng đả động đến chuyện bây giờ mẹ hay tỏ ra cảnh vẻ, cứ như thể bà ngoại tôi chưa từng trộn salad từ trái cây đóng hộp và những lốc kem sữa mua sẵn bao giờ. Bố mẹ tôi lớn lên ở hai khu vực khác nhau thuộc quận Skagit, một địa danh nổi tiếng với những cánh đồng hoa tulip, cách thành phố Seattle một giờ chạy xe về hướng bắc. Cả hai bên nội ngoại của tôi đều sống trong cảnh nghèo khó đã vài thế hệ. Bên nội có gốc gác từ phía sườn đồi xanh rì bên trên hồ Clear Lake. Nghe đâu những người bà con xa của bố tôi vẫn nấu rượu lậu. Nhà mẹ ở trong thung lũng, nơi những người nông dân trồng bạt ngàn đậu đũa và cải bó xôi. Ông bà ngoại đã ở bên nhau gần bốn mươi năm. Trong những kí ức đầu đời của tôi, họ sống ở căn nhà di động bên một cánh rừng gần suối. Tôi ở với ông bà vào ban ngày khi bố mẹ đi làm. Ông thường phết bơ và sốt mayonnaise lên những lát bánh mì Wonder để ăn trưa. Ông bà không giàu có, nhưng những kí ức của tôi về họ luôn tràn ngập tình yêu và sự ấm áp: Bà khuấy xúp cà chua Campbell trên bếp, một tay cầm lon soda và đứng chân co chân duỗi như một “nàng” hồng hạc, gần bên bà luôn có một điếu thuốc lá đỏ đầu nằm gác trên cái gạt tàn. Rồi họ chuyển tới sống ở thành phố Anacortes, trong một căn nhà cũ đã xuống cấp đến mức khó có thể coi là chỗ cho người ở. Ông làm môi giới bất động sản và thi thoảng sẽ ghé qua nhà giữa những lần đi môi giới. Khi ấy, ông sẽ mở toang cửa, hồ hởi đưa cho tôi những món đồ chơi nho nhỏ mà ông tìm thấy hoặc thắng được từ máy gắp đồ chơi trong khu bowling. Hồi còn bé, khi không ở nhà ông bà thì tôi thường gọi điện cho bà. Tôi dành nhiều thời gian nói chuyện với họ đến nỗi trong những thùng đựng ảnh phải có đến bốn, năm bức chụp tôi đứng trong bếp với một cái ống nghe điện thoại màu vàng áp bên tai. Bà bị bệnh tâm thần phân liệt thể hoang tưởng, và dần dần tôi gần như không thể trò chuyện với bà. Bà bị loạn trí ngày một trầm trọng. Vào lần cuối cùng tôi và Mia tới thăm bà, tôi đã mang đến một chiếc pizza của tiệm Papa Murphy mua bằng tem phiếu. Gần như trong suốt thời gian chúng tôi đến chơi thì bà, với bộ dạng mắt kẻ viền đen sì và môi tô hồng chóe lọe, đứng bên ngoài hút thuốc. Chúng tôi phải đợi ông về để được vào nhà và cùng ăn bánh. Đến lúc đó, bà lại kêu là không thấy đói nữa và gán cho ông tội ngoại tình, thậm chí là tán tỉnh tôi. Nhưng Anacortes là nơi lưu giữ những kỉ niệm thời thơ bé của tôi. Dù tôi càng ngày càng ít gắn kết với người thân, nhưng tôi luôn kể cho Mia về vịnh Bowman thuộc eo biển Deception - một “con hẻm” giữa đại dương ngăn cắt đảo Fidalgo và đảo Whidbey - nơi bố thường đưa tôi đi dã ngoại hồi còn thơ bé. Cái vịnh nhỏ thuộc tiểu Washington ấy, với bạt ngàn những cây thường xanh và cây dương mai cao ngất, là nơi duy nhất mà tôi cảm thấy giống quê nhà. Tôi khám phá từng ngóc ngách của nó, biết rõ mọi con đường mòn và sắc thái của mọi dòng hải lưu; tôi đã khắc những chữ cái viết tắt tên mình lên một thân cây dương mai khẳng khiu màu cam đỏ, và đến giờ vẫn biết chính xác nó ở đâu. Mỗi khi trở lại Anacortes để thăm ông bà, tôi lại tha thẩn ra bãi biển bên dưới cầu Depception, đi vòng qua phố Rosario và những căn nhà lớn trên các con dốc để về nhà. Tôi nhớ những người thân yêu ruột thịt, nhưng cũng lấy làm khuây khỏa vì mẹ và bà vẫn nói chuyện với nhau vào mỗi Chủ nhật. Mẹ sẽ gọi cho bà từ một nơi nào đó ở châu Âu. Điều đó an ủi tôi, như thể tôi không hoàn toàn mất mẹ, và rằng trong thâm tâm, mẹ vẫn còn vấn vương một chút gì của con người thời xưa cũ. Mẹ gọi thêm một cốc bia nữa khi bồi bàn đưa hóa đơn thanh toán tiền ăn của quán Sirens tới. Tôi xem đồng hồ. Tôi cần hai tiếng để dọn dẹp trường mẫu giáo trước khi đón Mia. Sau khi xem mẹ và William tự mua vui cho mình bằng những giai thoại lạ lùng về nơi họ đang sống tại Pháp thêm mười lăm phút nữa, tôi đành thú nhận rằng mình phải về trước. “Chà”, William nói và nhướng mày. “Để tôi gọi bồi bàn tới cho cô thanh toán tiền ăn trưa nhé?” Tôi trố mắt nhìn. “Không cần”, tôi nói. Chúng tôi nhìn nhau như kiểu thách thức. “Tôi không có tiền mà trả.” Đáng ra tôi nên mời họ bữa trưa vì họ đến thăm và giúp tôi chuyển nhà, nhưng dù gì thì họ cũng ít nhiều là bố mẹ của tôi. Tôi muốn nhắc William nhớ rằng anh ta vừa giúp tôi chuyển ra khỏi một căn nhà tạm dành cho người vô gia cư, nhưng tôi không nói gì và đưa mắt cầu xin mẹ. “Mẹ có thể thanh toán tiền bia bằng thẻ tín dụng”, mẹ tôi đề nghị. “Con chỉ còn 10 đô trong tài khoản”, tôi nói. Cục nghẹn trong cổ tôi đang lớn dần. “Thế thì còn chưa đủ cho cái bánh burger của cô”, William buột miệng. Anh ta nói đúng. Cái burger của tôi có giá 10,59 đô. Tôi đã gọi một món ăn có giá thấp hơn số tiền trong tài khoản của tôi chẵn tròn 28 xu. Nỗi xấu hổ dập dồn trong ngực tôi. Bất kì chút cảm giác mừng vui chiến thắng nào mà tôi có trong ngày hôm ấy vì được chuyển ra khỏi căn nhà ở tạm đã tan thành mây khói. Tôi còn chẳng đủ tiền để mua lấy một cái bánh burger chết tiệt. Tôi nhìn mẹ và William, sau đó xin phép vào nhà vệ sinh. Tôi không có nhu cầu gì cần giải quyết. Tôi chỉ muốn khóc. Tôi thấy trong gương một tôi gầy như que củi, mặc cái áo phông của trẻ con và cái quần bò bó xắn gấu để giấu đi chuyện nó quá cộc. Trong gương, là người phụ nữ đó - làm việc quần quật nhưng vẫn chẳng ra tiền, một người không mua nổi chiếc burger chết tiệt cho mình. Tôi thường căng thẳng đến nỗi không muốn ăn uống gì, nhiều bữa ăn cùng Mia, tôi cứ ngồi đó ngắm con bé đút từng thìa vào miệng mà lòng mừng thầm. Cơ thể tôi gân guốc và hốc hác, và tất cả những gì tôi có cho riêng mình là được khóc trong cái nhà vệ sinh này. Nhiều năm trước, khi nghĩ về tương lai, việc mình lâm vào cảnh túng thiếu đối với tôi dường như là một cái gì đó lạ lùng, vượt ra ngoài thực tế. Tôi chưa từng nghĩ mình sẽ rơi vào tình cảnh này. Nhưng giờ đây, sau khi có một đứa con và một cuộc chia tay không êm thấm, tôi rơi vào cái thực tế bi đát mà tôi không biết cách nào để thoát ra. Khi tôi quay lại, William vẫn ngồi đó, lỗ mũi phình ra như một con rồng thu nhỏ. Mẹ tôi nghiêng người về phía anh ta thì thầm gì đó, và anh ta lắc đầu phản đối. “Tôi có thể trả 10 đô”, tôi ngói xuống, nói. “Ừ”, mẹ bảo. Tôi không nghĩ mẹ sẽ chấp nhận đề nghị của tôi. Phải vài ngày nữa tôi mới được nhận lương. Tôi lục túi tìm ví tiền, sau đó đưa thẻ của mình để thanh toán cùng mẹ. Sau khi kí hóa đơn, tôi đứng dậy, nhét thẻ vào túi quần, rồi chẳng thèm ôm mẹ mà cứ vậy đi luôn. Tôi vừa cách bàn được vài bước thì nghe thấy William nói, “Anh chưa từng thấy ai chảnh chọe như vậy!” 2. Căn nhà lưu động Vào lễ Noel năm 1983, tôi được bố mẹ tặng cho một con búp bê vải. Mẹ đã xếp hàng nhiều giờ liền trước khi JCPenny mở cửa. Các nhân viên quản lí cửa hàng bách hóa giơ cây chày đập bóng chặn bên trên đầu khách để ngăn đám đông nhất tề xông vào. Mẹ huých trái né phải như một võ sĩ nhà nghề và huơ lấy cái hộp cuối cùng trên giá trước khi một người phụ nữ cố giật lấy. Hoặc đó là câu chuyện của mẹ. Tôi trợn tròn mắt nghe như nuốt từng lời, tận hưởng cảm giác mẹ chiến đấu vì tôi. Mẹ tôi, một nữ anh hùng. Một nhà vô địch. Người đã giành được con búp bê cuối cùng. Sáng Noel, tôi bế con búp bê vải. Nó có mái tóc ngắn màu vàng xoăn lọn và đôi mắt màu xanh lá. Tôi đứng trước mẹ, giơ bàn tay phải lên và trịnh trọng thề thốt: “Sau khi làm quen với em búp bê Cabbage Patch Kid này và biết nó cần gì, con muốn kí giấy tờ chính thức để trở thành một người mẹ tốt của Angelia Marie.” Sau đó tôi kí giấy nhận nuôi - một phần quan trọng tạo nên hiện tượng “cơn sốt” búp bê Cabbage Patch Kid. Nó thể hiện các giá trị gia đình và khuyến khích tinh thần trách nhiệm. Khi tôi nhận được giấy khai sinh của con búp bê cùng tên tôi in trên đó, mẹ đã dành cho cả tôi và Angelia (nay đã gọn gàng sạch sẽ cho dịp trọng đại này) một cái ôm hãnh diện. Tôi nhớ lâu nay tôi vẫn muốn trở thành một nhà văn. Lớn lên, tôi viết truyện và đắm chìm trong những cuốn sách như thể chúng là những người bạn lâu năm. Một số trong những ngày tôi nhớ mãi không quên lại là những ngày mưa, khi tôi bắt đầu một cuốn sách mới vào buổi sáng tại một quán cà phê và đọc hết lúc tối muộn trong một quầy rượu. Vào mùa hè đầu tiên bên Jamie, khi tôi sắp bước sang tuổi ba mươi thì Đại học Montana tại Missoula bắt đầu hút hồn tôi bằng những tấm áp phích quảng cáo khóa đào tạo sáng tác văn chương. Tôi tưởng tượng mình trong những tấm áp phích đó, lang thang trên vùng Montana đồng quê, đâu đó bên dưới cầu trích dẫn bằng phông chữ viết tay từ cuốn Đi cùng Charley của Steinbeck: “… nhưng với Montana thì đó là tình yêu”, ông viết đơn giản có vậy. Chính dòng chữ ấy sau này đã đưa tôi tới “tiểu bang bầu trời lớn” Montana, trong hành trình đi tìm cho mình một mái nhà thực thụ. Tôi đã gặp Jamie khi đang trên đường về nhà từ một quán bar, nơi các đồng nghiệp và tôi hay lui tới sau khi hết ca làm. Đã gần nửa đêm và đám dế giữa hè kều rả rích trong cỏ. Cái áo len có mũ được tôi đem buộc ngang hông vì tôi đã đổ mồ hôi do nhảy nhót suốt tối. Giờ tôi cần đến nó cho cuốc đạp xe đường dài về nhà. Mặt trước của chiếc quần hiệu Carhartt của tôi còn dính chút ít cà phê espresso từ tiệm ăn nơi tôi làm việc, và trong miệng tôi vẫn còn phảng phất hương vị của ngụm whiskey cuối cùng. Bước ra ngoài trời hiu hiu gió, tôi nghe thấy tiếng guitar vẳng tới từ một chiếc ghế đá công viên và giọng hát không lẫn vào đầu được của John Prine. Tôi dừng lại đủ lâu để nhận ra bài hát và nhận thấy có một anh chàng đang cầm máy nghe nhạc MP3 và đặt đôi loa di động trên đùi. Anh ta mặc áo sơ mi vải đũi màu đỏ và đội mũ fedora màu nâu, hơi cúi người và nhẹ nhàng gục gặc theo tiếng nhạc. Chẳng buồn suy nghĩ, tôi bèn ngồi xuống bên cạnh. Cảm giác ấm nóng từ rượu whiskey nhộn nhạo trong lồng ngực tôi. “Xin chào”, tôi nói. “Chào”, anh ta cười nói với tôi. Chúng tôi cứ ngồi thế một lúc, lắng nghe những bài hát anh ta yêu thích, hít căng hai lá phổi thứ không khí buổi đêm bên bờ dải trung tâm của Port Townsend. Những tòa nhà gạch phong cách Victoria sừng sững bên trên những con sóng vỗ vào bến tàu. Khi tôi đứng dậy định về, trong niềm vui được gặp một chàng trai mới, tôi ghi số điện thoại của mình vào sổ tay rồi xé ra đưa anh ta. “Anh có muốn chúng ta đi chơi đâu đó không?” Tôi hỏi. Anh ta ngước nhìn, sau đó quay đầu về phía tiếng cười vọng lại từ những người vừa rời khỏi quán Sirens. Anh ta nhận mảnh giấy từ tay tôi rồi gật đầu. Tối hôm sau, khi tôi đang lái xe vào thành phố thì điện thoại đổ chuông. “Em đang đi đâu thế?” “Vào thành phố.” Tôi vừa quẹo xe vừa giữ điện thoại. “Gặp anh bên ngoài Penny Saver Market nhé”, anh ta nói và cúp máy. Khoảng năm phút sau, tôi dừng xe. Jamie đang tựa người vào chiếc xe con bọ Volkswagen màu đỏ đợi tôi, vẫn mặc bộ đồ tối hôm trước. Anh ta cười hiền, khoe hàm răng khấp khểnh mà hôm trước vì trời tối nên tôi không để ý thấy. “Đi uống bia nào”, anh ta nói, ném mẩu thuốc lá cuộn xuống vỉa hè. Anh ta trả tiền cho hai chai bia Samuel Smith lùn, sau đó chúng tôi lên chiếc Volkswagen của anh ta và tới một con dốc để ngắm hoàng hôn. Anh ta nói chuyện, còn tôi thì lật qua cuốn tạp chí New York Times Book Review tìm thấy trên ghế phụ lái. Anh ta huyên thuyên về chuyến đi phượt bằng xe đạp mà anh đã lên kế hoạch - men theo bờ biển Thái Bình Dương qua quốc lộ 101 tới tận San Francisco. “Anh đã xin nghỉ phép rồi”, anh ta nói và liếc nhìn tôi. Mắt anh ta nâu sẫm hơn mắt tôi. “Anh làm ở đâu?” Tôi hỏi, bỗng nhiên nhận ra mình chẳng biết gì về anh chàng này ngoài sở thích âm nhạc. “Quán Fountain”, anh ta lấy một điếu thuốc lá. “Anh từng làm bếp phó, nhưng giờ chỉ làm món tráng miệng thôi.” “Anh biết làm bánh tiramisu chứ?” Tôi hỏi, dừng tay giữa lúc đang vụng về tự cuốn cho mình một điếu thuốc. Anh ta gật đầu và tôi biết mình sẽ lên giường với người đàn ông này. Tiramisu ngon thế kia mà. Cuối tuần, Jamie lần đầu tiên đưa tôi tới căn nhà lưu động. Tôi đứng trong không gian chật hẹp, ngắm nghía những vách gỗ, chiếc ghế nệm hơi màu cam và những giá sách. Jamie xin lỗi khi thấy tôi nhìn quanh quẩn, và lúng búng giải thích rằng căn nhà lưu động này chỉ là cách để anh ta tiết kiệm tiền cho chuyến đi phượt bằng xe đạp tới đây. Nhưng tôi đã thấy tác phẩm của Bukowski và Jean Paul Sartre trong chồng sách trên bàn nên chẳng thèm quan tâm đến nội thất chiếc xe nữa. Tôi quay ngay sang hôn anh ta. Anh ta đẩy tôi từ từ lùi về chiếc giường trải ga trắng. Chúng tôi hôn nhau hàng giờ, như thể chẳng còn gì khác tồn tại trên thế giới này. Anh ta bao bọc lấy tôi. Cuối cùng, Jamie và tôi dự định đi theo hai hướng khác nhau -tôi đến Missoula còn anh ta tới Portland, Oregon. Khi anh ta đề nghị tôi chuyển đến ở cùng trong căn nhà lưu động này để tiết kiệm tiền, tôi đồng ý liền. Chúng tôi sống trong cái xe dài vỏn vẹn năm mét nhưng giá thuê tổng cộng chỉ hết 150 đô la. Mối quan hệ của chúng tôi có mục tiêu rõ ràng: Chúng tôi giúp nhau rời khỏi thành phố này. Lực lượng lao động của Port Townsend chủ yếu làm việc trong ngành công nghiệp dịch vụ, phục vụ khách du lịch và những con người dư dả sẽ ghé qua đây vào những tháng ấm áp hơn. Những chuyến phà chở đầy những hành khách như thế, qua lại giữa vùng lục địa và bán đảo sang các khu rừng mưa và suối nước nóng trên bờ biển. Những biệt thự phong cách Victoria, cửa hàng cửa hiệu, tiệm ăn ở bến cảng mang nguồn thu về cho thành phố, nhờ vậy cung cấp kế sinh nhai cho nhiều cư dân. Nhưng, số tiền đổ vào chẳng phải tiền tấn. Trừ khi một cư dân Port Townsend bắt đầu công việc làm ăn, còn không thì một công nhân bình thường chẳng có nhiều nhặn gì để làm mà gầy dựng tương lai. Những dòng họ ăn đời ở kiếp tại đây đã có tương lai chắc chắn cho mình. Vào cuối những năm 1960 hoặc 1970, một nhóm dân hippy đã tới Port Townsend, rồi sang một thành phố ma ở gần đó, với dân cư ít ỏi làm việc tại một xưởng sản xuất giấy. Thành phố này vốn được kì vọng sẽ trở thành một trong những hải cảng lớn nhất bờ tây nhưng rồi lụn bại vì thiếu nguồn vốn do Đại khủng hoảng, khiến chính phủ thay đổi tuyến đường sắt tới Seattle và Tacoma. Những người dân hippy, một vài trong số đó hiện là ông bà chủ và khách hàng quen của tôi, đã mua lại các tư trang phong cách Victoria đã xuống cấp sau gần một thế kỉ bị bỏ không. Họ dành nhiều năm tu sửa, biến chúng thành các điểm tham quan đậm dấu ấn lịch sử, phát triển thành phố, mở các tiệm bánh, quán cà phê, quán bia, quầy bar, tiệm ăn, cửa hàng tạp hóa và khách sạn. Port Townsend trở nên nổi tiếng với những chiếc thuyền gỗ neo bên bến cảng, với một trường công và lễ hội hằng năm. Giờ thì nhóm dân ngụ cư cật lực hồi sinh thành phố đã tạm nghỉ và trở thành giai cấp tư sản. Tất cả những người lao động chúng tôi phục vụ họ, làm việc cho họ theo nhiều cách. Chúng tôi sống trong những căn nhà tạm, nhà cấp bốn và những căn hộ bé tí teo. Chúng tôi ở đây vì thời tiết - vùng râm mát nhiều mưa nhờ dãy núi Olympic ban tặng - và vì cộng đông dân nghệ sĩ sống ẩn dật chỉ cách Seattle một chuyến phà. Chúng tôi ở đây vì vùng nước đại dương êm ả trong vịnh, và vì những công việc nặng nhọc và lối sống hối hả mà những căn bếp bận rộn đem lại. Cả Jamie và tôi đều bỏ cả thanh xuân và sự tự do để làm trong các tiệm đồ ăn thức uống. Cả hai đều biết mình mong muốn những điều lớn lao hơn và tốt đẹp hơn. Anh ta phụ giúp chuyện kinh doanh ăn uống của một người bạn và làm bất cứ công việc lặt vặt nào được nhận tiền mặt. Ngoài làm trong tiệm ăn, tôi còn làm cho một cửa hàng chăm sóc thú cưng và bán bánh mì ở các chợ nông sản. Cả hai đều không có bằng đại học - Jamie thú nhận rằng anh ta chưa tốt nghiệp trung học - và chúng tôi làm bất cứ việc gì kiếm ra tiền. Jamie làm ca cố định từ sẩm tối đến đêm, nên hầu như khi anh ta về nhà, trong trạng thái biêng biêng men rượu sau khi cà kê ở quán bar, thì tôi đã ngủ rồi. Thi thoảng tôi vào quán gặp anh ta, tiêu tiền tip của mình cho vài chai bia. Sau đó, tôi phát hiện ra mình có bầu. Sau cả một buổi sáng nôn thốc nôn tháo, tôi bỗng cảm thấy hẫng hụt và thế giới như đột nhiên thu nhỏ lại tới khi ngừng quay. Tôi đứng trước gương nhà tắm một lúc lâu, vén áo lên nhìn bụng. Tôi hoài thai vào đúng sinh nhật hai mươi tám tuổi, một ngày trước khi Jamie đạp xe đi phượt. Nếu quyết định giữ đứa bé, tôi sẽ phải chấp nhận ở lại Port Townsend. Tôi muốn giữ bí mật chuyện có bầu và tiếp tục kế hoạch chuyển đến Missoula, nhưng điều đó dường như là bất khả. Tôi cần cho Jamie một cơ hội làm cha - cướp mất cơ hội đó khỏi tay anh ta thì thật sai trái. Nhưng ở lại đồng nghĩa với việc trì hoãn giấc mơ trở thành nhà văn, tạm thời chia tay với con người mà tôi hằng mong ước mình một ngày nào đó sẽ trở thành. Con người ấy sẽ tiếp tục dấn bước trên đường đời, trở thành một nhân vật vĩ đại. Tôi không chắc mình muốn từ bỏ điều đó. Tôi từng dùng biện pháp tránh thai và không thấy việc nạo thai có gì sai trái, nhưng tôi không thể thôi nghĩ về mẹ tôi: Có lẽ mẹ cũng từng ngắm nhìn bụng mình, nghĩ về mọi lựa chọn cuộc đời giống như tôi bây giờ. Mặc dù hi vọng đời mình sẽ khác đi, nhưng tôi cũng dần nguôi ngoai và bắt đầu thấy hạnh phúc vì sắp được làm mẹ. Khi tôi kể cho Jamie nghe về đứa bé, anh ta vừa kết thúc chuyến đi. Giọng nói ngon ngọt dụ dỗ tôi bỏ đứa bé đã thay đổi ngay tắp lự sau khi tôi bảo rằng tôi sẽ không đời nào làm việc ấy. Tôi mới quen Jamie được bốn tháng và cơn giận dữ, sự căm thù của anh ta dành cho tôi thật đáng sợ. Một buổi chiều, Jamie xông vào cái nhà xe lưu động trong lúc tôi đang ngồi trên ghế bành bên cạnh tivi, cố chiêu món xúp gà trong lúc xem Maury Povich tiết lộ các kết quả xét nghiệm di truyền. Jamie vừa đi đi lại lại vừa nhìn tôi chằm chằm, giống hệt những người đàn ông trên tivi đang gào thét không muốn tên mình xuất hiện trên giấy khai sinh của đứa trẻ. “Tôi không muốn cô moi tiền tôi cho đứa trẻ đáng nguyền rủa đó”, anh ta cứ nhay đi nhay lại, vừa chì chiết vừa chỉ vào bụng tôi. Tôi luôn ngồi im mặc cho anh ta chửi rủa, chỉ hi vọng anh ta không bắt đầu đá thúng đụng nia. Nhưng lần này, anh ta càng thóa mạ, càng đánh đập tôi và bảo rằng tôi đã phạm sai lầm, tôi càng thấy mình gần gũi với đứa bé và muốn bảo vệ con hơn. Sau khi anh ta bỏ đi, tôi gọi cho bố, giọng run rẩy. “Con quyết định đúng chứ?” Tôi hỏi sau khi thuật cho bố nghe những lời của Jamie vừa nãy. “Con thật tình không biết nữa. Nhưng con có cảm giác mình nên chắc chắn về quyết định của mình. Con rối trí lắm rồi.” “Chết tiệt”, bố tôi buông một tiếng chửi thề, rồi dừng lại. “Bố rất mong Jamie hành động đúng đắn trong chuyện này.” Bố lại ngừng, có lẽ để đợi tôi trả lời nhưng tôi chẳng biết phải nói gì. “Con cũng biết là bố mẹ cũng ở vào tình thế tương tự khi phát hiện ra có con, nhưng hồi đó bố mẹ còn chưa hoàn toàn trưởng thành. Và con biết đó, chuyện không suôn sẻ. Bố không biết nói thế liệu đã sát với sự thật hay chưa. Bố mẹ không biết mình đang làm gì, hay có đang hành động đúng đắn không. Nhưng con, em con, bố và mẹ - tất cả đều ổn. Và bố biết con, Jamie và đứa bé cũng sẽ ổn, dù cho con không nghĩ thế.” Sau khi tâm sự với bố, tôi ngồi nhìn ra ngoài cửa sổ. Tôi cố không để cảnh sắc xung quanh - ngôi nhà lưu động nằm bên một cửa hàng lớn trong rừng - làm mình sao nhãng khỏi việc hình dung ra tương lai. Tôi bắt đầu tự nhủ với mình rằng tương lai sẽ khác, để dập tắt mọi nghi ngờ. Có lẽ Jamie sẽ nghĩ lại. Có lẽ phải mất một thời gian. Nếu sự việc không như tôi mong đợi đi chăng nữa, tôi quyết định mình vẫn có thể đương đầu với nó, dù chưa biết là bằng cách nào. Tôi không thể cứ tiếp tục chiều theo ý Jamie chỉ vì tôi có con với anh ta, nhưng chí ít thì tôi nên trao cho anh một cơ hội được làm bố. Con tôi xứng đáng được hưởng điều đó. Dù đây không phải một tình huống lí tưởng, nhưng tôi sẽ làm những điều mà bậc làm cha mẹ nên làm và đã làm xưa nay - tôi sẽ làm được. Không nghi ngờ gì nữa. Không có lựa chọn khác. Tôi đã là mẹ. Suốt phần đời còn lại, tôi sẽ mãi coi đó là một vinh dự. Tôi đứng dậy, và vừa ra khỏi nhà tôi vừa xé đơn xin học đại học và đi làm. 3. Căn hộ chuyển tiếp Bố mẹ đưa chị em tôi rời khỏi Washington khi tôi lên bảy, xa những người bà con thân thích. Chúng tôi đến sống trong một ngôi nhà nằm dưới chân dãy núi Chugach ở thành phố Anchorage thuộc tiểu bang Alaska. Hồi đó nhà thờ ở đấy có vài chương trình hỗ trợ những người vô gia cư và thu nhập thấp. Khi còn bé, tôi thích được trao tặng các gia đình những thứ họ cần cho ngày lễ. Sau buổi đi lễ Chủ nhật, mẹ sẽ cho chị em tôi lấy một thiên thần giấy trên cây thông Noel trong hành lang nhà thờ. Sau bữa nửa buổi, chúng tôi sẽ đi siêu thị để chọn những món quà đã được lên danh sách sẵn để tặng cho một cô bé hoặc cậu bé không rõ tên trạc tuổi chúng tôi. Những món quà đó thường là đồ chơi, quần áo mặc đi ngủ, giày và tất. Một năm nọ, tôi cùng mẹ đi đưa bữa tối cho một gia đình. Tôi háo hức đợi tới lượt mình trao những món quà được gói bọc tỉ mẩn cho người đàn ông ra mở cửa căn hộ chung cư ẩm thấp. Chú ấy mặc áo phông trắng, tóc đen dày và da nâu sạm. Sau khi tôi trao túi quà, mẹ liền đưa cho chú ấy một hộp gà tây, khoai tây và rau củ đóng hộp. Chú ấy chỉ gật đầu rồi lẳng lặng đóng cửa. Tôi thất vọng ra về. Tôi cứ tưởng mẹ con tôi sẽ được mời vào nhà, tôi sẽ được giúp con gái chú ấy bóc những gói quà do tôi đích thân chọn lựa, và được chứng kiến chúng đã khiến cô bé kia hạnh phúc đến nhường nào. Tôi sẽ nói với bạn ấy rằng: “Đôi giày mới bóng loáng này là đẹp nhất cửa hàng.” Tôi đã tự hỏi vì sao bố cô bé không vui vẻ hơn khi đưa chúng cho con gái mình. Lớn hơn một chút, tôi thường dành vài buổi chiều ở khu trung tâm thành phố Anchorage làm thiện nguyện trao những túi đồ ăn trưa cho người vô gia cư. Chúng tôi ở đó để “chứng kiến” và chia sẻ Kinh Phúc âm với họ. Để được họ lắng nghe, chúng tôi cho họ táo và sandwich. Tôi nói Chúa yêu thương họ, nhưng một người đàn ông đã cười khẩy và nói, “Có vẻ Chúa yêu cháu nhiều hơn một chút.” Tôi rửa xe để gây quỹ cho chuyến đi tới các trại trẻ mồ côi ở Baja Mexico hoặc tổ chức các trại hè Công giáo cho trẻ nhỏ tại Chicago. Ngẫm lại những cố gắng hồi đó và phận mình hiện tại, đang chật vật tìm việc làm và một chỗ ở an toàn, tôi mới thấy những nỗ lực đó, tuy cao quý, đều là việc từ thiện chỉ là cho người ta con cá chứ chẳng cho cần câu. Nói cách khác chính tôi đã góp phần biến những người nghèo thành tranh biếm họa - những thiên thần giấy vô danh đính trên cây. Tôi nhớ lại người đàn ông đã ra mở cửa và được tôi trao cho một túi quà nhỏ. Giờ thì tôi lại là người mở cửa, đón nhận những món quà từ lòng tốt của người khác. Đến lượt tôi chấp nhận rằng mình không thể nuôi nổi gia đình. Chấp nhận những món quà của họ - một đôi găng tay mới, một món đồ chơi - chỉ vì họ muốn thể hiện lòng tốt. Nhưng trong danh sách đó không thể có dịch vụ “chăm sóc sức khỏe” hay “chăm sóc trẻ nhỏ”. Vì bố mẹ nuôi nấng chị em tôi cách xa quê nhà ở tây bắc Washington - nơi ông bà tôi sống hàng ngàn dặm, thành thử vào thời niên thiếu, tôi khá giống với giai cấp trung lưu Mỹ. Chúng tôi không thiếu những nhu yếu phẩm cơ bản, nhưng bố mẹ tôi không đủ tiền chi trả cho những sở thích đắt đỏ như học khiêu vũ hay học karate, cũng chẳng thể trang trải học phí đại học cho hai chị em tôi. Tôi biết về giá trị đồng tiền từ khá sớm. Tôi bắt đầu đi trông trẻ kiếm tiền khi mười một tuổi và sau đó gần như luôn làm một hoặc hai công việc. Đó thật ra chỉ là sở thích, chứ chị em tôi được bảo bọc an toàn nhờ các đức tin tôn giáo và nguồn tài chính ổn định của bố mẹ. Sự an toàn đã bao phủ con người tôi. Tôi an toàn và chưa bao giờ nghi ngờ điều đó, cho tới khi không còn được hưởng điều ấy nữa. Mắt Jamie nheo lại khi tôi bảo rằng tôi muốn đưa Mia về sống cùng bố và mẹ kế của tôi, Charlotte. Mia chưa đầy bảy tháng tuổi nhưng đã phải chứng kiến quá nhiều cơn thịnh nộ của bố; những đòn hành hạ về thể xác và tinh thần làm tôi tổn thương sâu sắc. “Tôi tìm trên mạng”, tôi nói và lấy tờ giấy trong túi quần ra trong lúc vẫn bế xốc nách Mia. “Họ đã ước tính khoản hỗ trợ nuôi con hằng tháng, và số tiền có vẻ vừa phải.” Anh ta giật tờ giấy khỏi tay tôi, vò nát và ném vào mặt tôi, cái lườm hằm hè không hề rời khỏi tôi. “Đừng hòng tôi chi tiền hỗ trợ nuôi con cho cô”, anh ta nói giọng đều đều. “Cô phải là người trả tiền cho tôi!” Giọng anh ta mỗi lúc một lớn khi vừa nói vừa đi đi lại lại. “Cô sẽ không đi đâu hết.” Anh ta chỉ vào Mia. “Cô nên nhớ, nếu muốn tôi cướp được nó ngay.” Cùng với đó, anh ta quay lưng bỏ đi, hét lên một tiếng bực dọc và đấm thủng cửa. Mia giật mình khóc thét lên lần đầu tiên trong đời. Tay tôi run run trong lúc nhấn số của đường dây nóng về bạo hành gia đình. Tôi còn chưa kịp trình bày thì Jamie đã bắt đầu gọi cho tôi liên tục. Họ khuyên tôi nên cúp máy và gọi cảnh sát. Vài phút sau, ánh đèn pha của xe ô tô đi tuần đã chiếu sáng dọc một bên căn nhà lưu động. Một viên cảnh sát nhẹ nhàng gõ vào cánh cửa đã hỏng. Anh ta cao ráo, đầu gần chạm nóc. Trong lúc tôi trần tình, anh ta ghi chép lại, xem xét cửa, gật đầu và hỏi xem chúng tôi có ổn không. Liệu chúng tôi có cảm thấy an toàn không. Sau một năm bị bạo hành, đe dọa và chửi rủa, câu hỏi đó khiến tôi nhẹ lòng ghê gớm. Hầu hết những cơn thịnh nộ của Jamie đều gây hậu quả vô hình. Chúng không để lại một vết bầm hay một vết trẩy xước. Nhưng cái này - cái này tôi có thể chỉ cho người khác thấy. Tôi có thể yêu cầu người khác nhìn lấy nó. Tôi có thể nói, “Anh ta đã làm thế. Anh ta đã làm thế với mẹ con tôi.” Và họ sẽ nhìn vào nó, gật đầu rồi nói, “Tôi thấy rồi. Tôi thấy anh ta đã làm gì với mẹ con chị.” Tờ báo cáo mà anh cảnh sát đó để lại là bằng chứng cho thấy tôi không bị điên. Tôi giữ nó trong ví suốt nhiều tháng trời như thể đó là một tờ chứng nhận. Những đêm đầu tiên mẹ con tôi sống trong căn hộ nhà ở chuyển tiếp trên một con phố chính khiến trong tôi dâng lên một nỗi bất an. Mỗi tiếng động vọng qua các bức tường và sàn nhà của khu phức hợp này đều làm tôi giật mình thon thót. Mỗi khi ở nhà là tôi liên tục kiểm tra cửa nẻo xem đã khóa chưa, và đó là một chuyện mà trước nay tôi chưa từng làm. Nhưng ở đây chỉ có tôi và con gái, và chỉ có tôi mới bảo vệ được chúng tôi. Khi mẹ con tôi ở trong khu nhà dành cho người vô gia cư, lối đánh xe dẫn thẳng đến cửa căn nhà tạm nên tôi luôn đỗ ngay bên ngoài để phòng trường hợp cần phải đi ngay. Tôi chưa từng nhìn thấy hay nghe thấy tiếng hàng xóm, tất cả sống trong những căn nhà biệt lập nằm giữa thiên nhiên - cây cối và những cánh đồng đem lại cảm giác yên bình, vô lo. Không gian nhỏ bé đó thuộc về tôi và tôi không sợ bị xâm phạm. Nhưng trong căn hộ này, tường và sàn nhà dường như rất mỏng, xung quanh có quá nhiều giọng nói lạ. Ở cầu thang bộ, người ta đi lên đi xuống, hét lên với nhau. Tôi chăm chú nhìn cánh cửa chính, thứ duy nhất ngăn cách chúng tôi với phần còn lại của thế giới, biết rằng bất kì ai cũng có thể tông đổ nó bất cứ lúc nào. Các căn hộ khác vây quanh chúng tôi trong khối hộp chữ nhật xám xịt này, nhưng bằng chứng duy nhất về sự tồn tại những cư dân là giọng nói từ đằng sau các bức tường, rác chất thành núi trong thùng rác, những chiếc xe đậu trong bãi đỗ xe. Có lẽ tôi sẽ cảm thấy an tâm hơn nếu tôi được gặp hàng xóm, được biết trông họ như thế nào. Những tiếng động ban đêm, tiếng guốc khua lộc cộc trên sàn, giọng nói trầm đến lạ lùng, rồi tiếng cười của một đứa trẻ, tất cả len lỏi vào giấc ngủ của tôi. Đêm tôi dậy vài lần để xem Mia thế nào. Con bé ngủ trong chiếc cũi ở phòng bên cạnh. Nhưng chủ yếu thì hằng đêm, tôi nằm thao thức nhớ lại những phiên tòa giành quyền nuôi con với Jamie. Tôi đứng trước thẩm phán, bên cạnh Jamie và luật sư của anh ta. Tôi đã trở thành người vô gia cư, và đang giành quyền nuôi Mia. Chuyện những lời nhiếc móc tàn tệ của Jamie suốt nhiều tháng ròng đã làm tôi trầm cảm không phải là bí mật, và giờ thì anh ta dùng nó làm cái cớ cho rằng tôi không đủ sức khỏe nuôi con. Những thiếu sót của tôi đang chống lại tôi. Có vẻ như luật sư của Jamie và quan tòa nghĩ rằng tôi chọn rơi vào tình trạng này, như thể tôi cho rằng việc nuôi một đứa trẻ trong khi không thể cho nó một mái ấm là bình thường. Như thể mỗi giây mỗi phút tôi không nghĩ xem phải thay đổi tình thế bằng cách nào, nếu tôi có thể. Không hiểu sao, tôi bỗng có cảm giác chuyện mình đưa Mia ra khỏi cái nơi mà tôi bị đánh đập hành hạ tới mức phải nằm co ro trên sàn, khóc nức nở như một đứa bé lại là một chuyện xấu. Không ai thấy tôi đang cố gắng cho con một cuộc đời tốt đẹp hơn - họ chỉ thấy tôi đang lôi nó ra khỏi cái nơi mà họ cho là một mái nhà ổn định về mặt tài chính. Từ đâu đó, tôi tìm thấy một nguồn sức mạnh gần như nguyên thủy nhất, và tôi đã giành được quyền nuôi con. Tôi có chỗ ở của mình, một nơi để Mia sống cùng tôi. Nhưng hằng đêm tôi vẫn cảm thấy một nỗi mặc cảm tội lỗi vì chúng tôi còn thiếu thốn quá nhiều. Có những ngày cái cảm giác ấy lớn đến nỗi tôi không thể hoàn toàn tập trung với Mia được. Tôi sẽ đọc truyện ru con bé ngủ, nhẹ nhàng đong đưa con trên chính cái ghế mẹ từng đọc truyện cho tôi thuở xưa. Tôi tự nhủ rằng ngày mai sẽ tốt hơn; tôi sẽ là người mẹ tốt hơn. Tôi hay ngồi nhìn Mia ăn, hoặc sẽ đi lại trong bếp, uống cà phê và thẫn thờ nhìn sổ sách chi tiêu và lịch làm việc treo trên tường. Nếu chúng tôi ra ngoài mua đồ dùng, tôi sẽ dành buổi sáng để kiểm tra số dư tài khoản và thẻ EBT (electronic benefit transfer - chuyển phúc lợi điện tử), một loại thẻ ghi nợ tiền mua thực phẩm do chính phủ cấp, để xem chúng tôi còn bao nhiêu tiền. Thẻ EBT mới được đưa vào sử dụng từ năm 2002. Tôi đã xin được cấp tem phiếu khi đang mang bầu, và Jamie vẫn còn nhớ mẹ anh ta từng trả tiền mua đồ bằng tem giấy và luôn nhạo báng kí ức đó. Tôi cảm ơn các chương trình đã nuôi sống gia đình tôi, nhưng tôi cũng mang về nhà sự tủi hổ, lần nào cũng thầm đánh vật với cảm giác không biết nhân viên thu ngân sẽ nghĩ gì về mình - một người phụ nữ địu con, mua thức ăn nhờ sự trợ giúp từ chính phủ. Tất cả những gì người ta nhìn thấy là tem phiếu, những phiếu giấy WIC giúp chúng tôi mua trứng, phô mai, sữa và bơ lạc. Cái họ không nhìn thấy là số dư, rơi khoảng chừng 200 đô tùy theo thu nhập của tôi, và rằng đó là tất cả số tiền tôi có để mua thức ăn. Tôi phải tằn tiện chi tiêu cho đủ đến cuối tháng, tới khi số dư tài khoản được làm mới sau đầu tháng sau. Họ không thấy tôi ăn bánh mì phết bơ lạc và trứng luộc, dè xẻn li cà phê buổi sáng. Hồi đó tôi không biết, nhưng chính phủ đã đổi tên cho “cái dấu nung” đóng lên 29 triệu con người dùng tem phiếu: Chương trình Hỗ trợ Dinh Dưỡng Bổ sung (snap). Nhưng dù cho ta có gọi nó là tem phiếu hay SNAP đi chăng nữa thì cái định kiến người nghèo ăn cắp tiền thuế từ những người dân Mỹ lao động vất vả để mua đồ ăn vặt vẫn không thay đổi. Dù đầu óc rối bời nhưng tôi vẫn bị ám ảnh bởi suy nghĩ liệu tôi có phải một người mẹ tồi không. Tôi đang thất bại; tôi mải mê với việc làm cách nào để sống qua một tuần chứ không phải là sống với con mình. Hồi còn sống cùng Jamie, công việc của anh ta cho phép tôi được ở nhà với Mia. Tôi nhớ những ngày chỉ có hai mẹ con với nhau, chúng tôi được dừng lại để nhìn, để học và để thắc mắc. Giờ tôi có cảm giác như chúng tôi chỉ đang xoay xở: luôn muộn một chuyện gì đó, luôn ở trên xe, luôn ăn vội ăn vàng cho xong bữa và dọn dẹp. Tôi mải miết với nhịp sống, chẳng kịp dừng lại để thở. Tôi luôn sợ rằng mình bị tụt lại đằng sau, quên mất thứ gì đó, và vì thế mà cuộc sống của chúng tôi đã rối lại càng thêm rối - tôi còn chẳng có thời gian cho Mia đứng lại ngắm nhìn một con sâu đo bò ngang vỉa hè. Dù tôi gần như nghe thấy tất cả tiếng xả toilet và kéo ghế của nhà hàng xóm, nhưng người phụ nữ sống bên dưới nhà tôi có cách giới thiệu bản thân rất hách dịch, luôn dùng cán chổi dộng lên trần nhà và lớn tiếng cằn nhằn mỗi khi Mia chạy. Khi chúng tôi mới chuyển đến, tôi quét lá và mạng nhện hất xuống dưới. Bà ta liền la làng, “Làm cái của nợ gì thế?” Ngoài vụ dộng cán chổi, đó là lần đầu tiên bà ta nói chuyện ít nhiều trực tiếp với tôi. “Tất cả đám rác rưởi khốn nạn này là cái gì?” Bà ta tiếp tục. “Thì là đám của nợ của bà đấy!” Nói rồi tôi rón rén bỏ vào trong nhà, khe khẽ đóng cửa và ngồi im trên ghế, hi vọng bà ta không chạy lên gõ cửa nhà mình. Hàng xóm ở tầng trên của tôi - một bà mẹ và ba đứa con - hiếm khi ở nhà. Trong vài tuần đầu tiên, tôi chỉ nghe thấy tiếng họ. Tôi đi ngủ tầm mười giờ tối và họ đi lên cầu thang cũng vào tầm ấy. Sau khoảng hai mươi phút, tất cả lại yên tĩnh như cũ. Một buổi sáng khi mặt trời vừa lên, tôi nghe thấy tiếng họ rời nhà và liền chạy đến bên cửa sổ để xem họ trông như thế nào. Tôi tò mò về những con người cùng chung cảnh ngộ với mình. Người mẹ cao ráo, mặc chiếc áo gió màu đỏ và tím, đi giày thể thao màu trắng. Cô bước đi tập tễnh. Hai cậu con trai và một cô con gái tầm tuổi đến trường đi ngay đằng sau. Tôi không thể biết cô đã trải qua những khó khăn đến mức nào. Tôi chỉ có một đứa con cần được chăm sóc. Sau đó thi thoảng tôi lại thấy cô. Tóc bé gái luôn gọn gàng, được tết hai bên buộc ruy băng sáng màu. Tôi tự hỏi cả ngày họ đi đâu, bằng cách nào cô có thể khiến tụi nhỏ ngoan ngoãn và vâng lời đến thế. Cô có vẻ là một bà mẹ tốt, có quyền uy - và đó là điều khiến tôi ghen tị. Con tôi mới chỉ vừa biết cách đi thẳng mà dường như luôn tìm cách chạy trốn hoặc phản kháng tôi ngay từ lúc nó tỉnh dậy. “Sống lâu rồi cũng quen thôi”, hàng xóm của tôi, Brooke, đã nói thế khi chúng tôi gặp nhau sau một lần bên chức năng đến kiểm tra nhà đột xuất, yêu cầu chúng tôi không được phép uống rượu. Chúng tôi thường ngại ngùng đi lướt qua nhau và đó là lần đầu tiên chúng tôi trò chuyện. Tôi quen Brooke từ lâu lắm rồi, từ hồi cô còn làm bồi bàn rót bia phục vụ tôi trong quán bar. Tôi tự hỏi không biết vì sao cô lại sống ở đây. Nhưng tôi chưa từng hỏi. Tôi cũng chẳng muốn cô tò mò chuyện của tôi. Tôi chưa từng nói chuyện với bất cứ người đàn ông nào sống ở kí túc xá bên kia khu phức hợp. Tôi thấy họ đứng trên đường vào khu kí túc, mặc quần thụng, đi dép lê và phì phèo điếu thuốc. Có một người đàn ông lớn tuổi hay có người nhà tới đón đi chơi, nhưng những người khác dường như chẳng đi đâu bao giờ. Chắc họ chỉ quanh quẩn ở đó, như tôi vậy. Tôi nhớ những ngày còn được cà kê ở những quán bar. Tôi nhớ cái cảm giác thích uống bia thì uống. Cũng chẳng phải tôi nghiện bia rượu, mà tôi thèm cảm giác không phải lo rằng ủy ban nhà ở sẽ xuất hiện bất cứ lúc nào, thèm dư vị tự do của thuở trước: Tôi muốn đi, muốn ở, muốn làm việc, muốn ăn hay không tùy thích, tôi được thoải mái nghỉ ngơi vào ngày nghỉ và thi thoảng có một ngày cho riêng mình. Mia và tôi có một cuộc sống có vẻ bình thường, ban ngày mỗi người sẽ ở một chỗ. Tôi được hỗ trợ chăm sóc trẻ nhỏ, nhưng chỉ nửa ngày. John, chồng của bạn tôi, có một công ty làm vườn nho nhỏ, và anh trả tôi 10 đô một giờ tỉa cây, nhổ cỏ và bỏ đi những bụi đỗ quyên héo úa. Tôi đi vòng qua khắp phần đông bắc bán đảo Olympic đến một khu dân cư nho nhỏ toàn những biệt thự kín cổng cao tường, với một thùng rác lớn trong cốp xe chứa một thùng sơn trắng đựng đồ nghề và vài đôi găng tay. Tại nhà của một vài khách hàng có khu vực riêng để đổ rác và cỏ dại, nhưng nếu không có, tôi sẽ phải cho tất cả vào túi và bỏ bên vệ đường, hoặc thậm chí lôi chúng vào trong cốp xe tôi mà chở đi. Thật ra cũng chỉ vài khách hàng là đưa ra nhiều yêu cầu công việc nên John mới cần tôi giúp, vì thế tôi dành phần lớn thời gian trong ngày làm những việc tự tìm được, cật lực để kiếm từ 20 đến 25 đô mỗi giờ, nhưng vì mất thời gian đi lại nên tôi chỉ làm được hai đến ba giờ mỗi ngày. Dọn vườn có nghĩa là phải trườn bò. Hầu hết người ta thuê tôi dọn cỏ trên cả một sườn đồi đâỳ những mảnh gỗ vụn. Tôi dành nhiều giờ dọn dẹp, tay đeo găng và mặc quần Carhartts may gia cố phần đầu gối, chất đầy vào những xô, thùng và túi rác đống cỏ dại mà người ta trả tiền cho tôi tiêu diệt bằng phương pháp hữu cơ là nhổ bỏ khỏi nền đất. Đây là một công việc hay, nhưng lại mang tính thời vụ và sẽ kết thúc chỉ trong vài tuần, còn sau đó tôi không biết mình sẽ kiếm việc gì để làm. Thị trường việc làm của Port Townsend cũng theo mùa, phụ thuộc vào những vị khách du lịch bụng lép kẹp túi đầy tiền. Không có nhiều công việc “bình thường” với giờ làm hợp cho các bà mẹ bỉm sữa, mà nếu có đi chăng nữa thì tôi lại không có nhiều kinh nghiệm. Lâu nay tôi luôn làm trong các tiệm ăn uống hoặc những việc linh tinh không thể đưa vào hồ sơ xin việc. Dù có dọn dẹp trường mẫu giáo vào mọi Chủ nhật cũng chẳng đủ cho tôi trang trải. Nhưng dù sao thời gian này tôi vẫn có việc làm, và tôi cố tập trung làm những gì tốt nhất có thể. Tôi gửi Mia ở nhà trẻ tới trưa, và ba ngày mỗi tuần bố Mia sẽ đón con và trông đến bảy giờ tối. Có những hôm khi Mia ở cùng Jamie, tôi ngồi ngoài ban công, thẫn thờ dựa lưng vào tường. Một trong những người hàng xóm của tôi rất hay ra ngoài chơi cùng con gái, trên bãi cỏ chạy dài giữa tòa nhà này và rừng cây. Con gái cô ấy lớn hơn Mia một chút. Cả hai mẹ con đều có làn da trắng đến gần như trong suốt. Tôi nghe thấy người mẹ trẻ dịu dàng hỏi, “Con sẽ trượt xuống chứ?” khi con gái nửa bò nửa trèo lên những bậc thang của cây cầu trượt bằng nhựa màu xanh đỏ đã bạc thếch. Có lẽ những cư dân cũ đã bỏ nó lại đây. “Hoan hô!” Người mẹ reo lên khi đứa trẻ trượt xuống. Cô ấy làm mẹ tốt hơn mình, tôi nghĩ trong lúc lắng nghe cô thuật lại những chuyến đi lên trượt xuống cầu trượt, biết rằng mình sẽ không bao giờ có thể thốt ra những tiếng reo hò phấn khích như thế. Nhưng cũng vào một buổi chiều nhá nhem như vậy, các bác sĩ và lính cứu hỏa đã đi qua cây cầu trượt nhỏ và dẹp nó sang một bên. Tất cả đi vào căn hộ của người mẹ da trắng ấy. Tôi không nghe thấy tiếng đứa trẻ. Tôi nhoài người trên lan can để xem có chuyện gì. Vài người hàng xóm của tôi cũng làm tương tự. Một anh lính cứu hỏa ngước nhìn chúng tôi, và tôi theo bản năng lùi lại một bước để giấu mình. Anh ta lắc đầu. Tôi tự hỏi những người đàn ông và phụ nữ trong khu nhà chuyển tiếp, đang nhoài người trên lan can này trông thế nào trong mắt họ. Tôi bâng khuâng tự hỏi cảnh sát và lính cứu hỏa nói gì về tòa nhà này, về chúng tôi; họ còn từng bị lôi đến nơi này vì những lí do gì khác nữa. Tôi vào trong trước khi họ đẩy người mẹ trẻ ra trên băng ca. Tôi không muốn cô ấy thấy tôi đang nhìn cô, dù mắt cô nhắm nghiền; tôi muốn cho cô ấy cái phẩm giá mà cô ấy xứng đáng được nhận. Nếu là tôi, tôi cũng muốn thế. Một tiếng sau, khi tôi rời căn hộ đi đón Mia, Brooke bước ra ngoài, mắt trợn tròn, má ửng, trông ra dáng sẵn sàng buôn chuyện. “Chị biết có chuyện gì, phải không?” Cô vừa rảo bước về phía tôi vừa nói. Tôi lắc đầu. Brooke kể khi người ta đưa con bé về nhà thì phát hiện ra người mẹ đã lịm đi trên ghế. Họ không gọi cô ấy dậy được. Cô ấy đã uống thuốc ngủ và nốc cả chai rượu vodka. “Nhưng họ tìm thấy cô ấy kịp thời. Cô ấy còn sống”, Brooke trấn an. Sau đó cô thở dài và nhún vai. “Đấy, thế mà bảo không được uống rượu.” Ý nghĩ đầu tiên của tôi không phải là liệu mẹ con nhà đó có ổn không. Tôi chỉ hi vọng Jamie không nghe được chuyện này. Tôi sống trong nỗi sợ hãi rằng bất cứ chuyện gì xấu xảy ra quanh Mia, bao gồm cả ở nhà trẻ Early Head Start, đều sẽ ảnh hưởng đến quyền được làm mẹ toàn thời gian vốn đã rất mong manh của tôi. Tôi đưa Mia vào một thế giới nghèo túng, lọt thỏm giữa những con người cố đương đầu với nó đôi khi theo những cách tuyệt vọng, những người phải đi tù hoặc cải tạo lâu đến mức mất cả nhà cửa, một số luôn bực dọc vì không bao giờ được nghỉ ngơi, những người có triệu chứng của bệnh tâm thần. Một người mẹ đã quyết định hoàn toàn buông tay. Trong một khoảnh khắc, tôi còn thấy ghen tị với người mẹ trẻ ấy, vì lựa chọn đó quá hấp dẫn. 4. Căn hộ triển lãm “Julie có ở đây không ạ?” Tôi hỏi trong lúc đợi người phụ nữ đằng sau tấm kính viết hóa đơn tiền thuê nhà của mình. Tiền thuê mỗi tháng một khác, phụ thuộc vào báo cáo thu nhập của tôi, và thường là ở mức 200 đô la. Người phụ nữ nheo mắt nhìn tấm bảng trắng ở bức tường phía sau phòng làm việc của mình. “Không”, cô ấy thở dài. “Julie đi gặp đối tác rồi. Chị có muốn nhắn gì không?” Tôi có. “Tôi không thể ổn định cuộc sống trong căn hộ đó.” Ngày hôm sau trong phòng họp, tôi đã nói với Julie như vậy. May mà Julie không hỏi nguyên nhân. Tất cả đã vượt quá sức chịu đựng khi tôi cứ phải lo lắng có phải ủy ban nhà ở tới gõ cửa nhà tôi hay không. Thậm chí ở trong căn hộ tôi cũng phải đi rón rén, chỉ sợ người phụ nữ tầng dưới lại mắng vốn và dùng cán chổi dộng lên. Có lần tôi còn mời Jamie đến ăn tối vì sợ cái cảm giác cô độc bắt đầu gặm nhấm mình. Tôi không ra ngoài, không gặp gỡ bạn bè, hoặc mời ai đến chơi. Tôi bị cô lập. Không có nơi nào cho tôi hết. “Chị đợi một chút”, Julie nói, vài phút sau cô quay lại với vài tập hồ sơ. “Chúng tôi có thể đăng kí cho chị tham gia TBRA.” Đó là chương trình Hỗ trợ Chi phí Thuê nhà cho Cư dân*. “Nó khá giống với Mục 8. Chị đang ở trong danh sách chờ của Mục 8, nhỉ?” Tôi gật đầu. Mục 8 giống như con kì lân của các chương trình hỗ trợ chính phủ - ta được nghe ra rả về nó nhưng không biết một ai được hưởng trợ cấp này. Nó là phiếu thuê nhà sẽ trả cho bất cứ giá thuê nhà nào vượt quá thu nhập của người trọ 30 đến 40 phần trăm. Nếu vậy, một người làm việc nhận được mức lương tối thiểu, mang về nhà chỉ vỏn vẹn 1000 đô một tháng, với một phiếu chỉ cần trả tiền thuê nhà là 300 đô, và chính phủ sẽ trả phần còn lại, miễn là nó đúng với kiểu nhà mà người thuê xứng đáng - thường là căn hộ hai đến ba phòng ngủ. Tòa nhà phải đáp ứng tiêu chuẩn của Mục 8, nhìn chung là khá cơ bản - ví dụ không dùng sơn chứa chì, có hệ thống ống nước còn sử dụng được, đại loại thế. Nếu được, đó là một vinh dự - miễn là bạn tìm được một người chủ cho thuê nhà chấp nhận nó - ở bất cứ nơi nào trong đất nước, và sẽ không bao giờ hết hạn. Tôi đang ở trong danh sách chờ của ba hạt khác nhau. Hạt Jefferson, Port Townsend trực thuộc đó, chỉ yêu cầu tôi đợi một năm, nhưng hầu hết những nơi tôi gọi đều yêu cầu chờ năm năm hoặc hơn. Một số nơi không chấp nhận đơn mới vì nhu cầu đã quá cao rồi. Julie giới thiệu tôi với một chuyên viên mới chuyên làm việc với chương trình Mục 8 và TBRA. Người phụ nữ này ngồi đằng sau một cái bàn lớn, mái tóc đen xoăn lọn ôm lấy khuôn mặt không có lấy một nét cười. Cô ấy yêu cầu tôi điền vào vài tờ đơn có những câu hỏi về kế hoạch cho vài năm tới và sau đó. Với những bằng chứng và tính toán chi tiết về thu nhập của tôi, cộng thêm tiền hỗ trợ nuôi con 275 đô hằng tháng, số tiền thuê tôi sẽ trả cho một căn hộ hai phòng ngủ, thì một căn hộ có giá thuê 700 đô mỗi tháng hiện sẽ là 199 đô. “Tiền thuê sẽ tăng hoặc giảm phụ thuộc vào báo cáo thu nhập của cô”, Julie bổ sung, tôi rất mừng vì cô đã ngồi cùng tôi suốt cuộc hẹn. TBRA cũng yêu cầu tôi tham gia một lớp học hoặc hội thảo để tìm hiểu về chương trình này, nhưng chủ yếu là để tiếp cận những chủ nhà trọ tiềm năng sẽ sử dụng TBRA (và cuối cùng là Mục 8) trả tiền thuê cho tôi. “Hầu hết chủ nhà trọ có chút ít kinh nghiệm với Mục 8”, Julie nói khi chúng tôi ra về. “Hoặc chí ít thì họ cũng biết về chương trình. Nhưng một vài trong số đó không biết đó thực sự là một chuyện tốt.” Tôi không chắc ý cô là gì và tự hỏi sao đó có thể là chuyện xấu được, nhưng tôi không hỏi. Chúng tôi dừng lại trong bãi đậu xe, rồi cô ghi cho tôi thời gian và chỉ dẫn tới lớp học về chương trình hỗ trợ nhà ở. “Chị may đấy, có một lớp vào ngày mai”, cô lạc quan nói. “Chị sẽ nhanh có một mái nhà mới thôi!” Tôi mỉm cười và gật đầu, nhưng tôi không quá hi vọng rằng có một chương trình nào có thể giúp. Cú sốc tinh thần từ sáu tháng qua kể từ khi chúng tôi không có nhà cửa, và đối diện với chuyện Jamie hay đánh tôi, đã làm tê liệt toàn bộ. Trí óc, dạ dày, thần kinh, mọi thứ luôn hoảng hốt cao độ. Chẳng có gì là an toàn cả. Chẳng có gì là mãi mãi. Mỗi ngày tôi bước đi trên tấm thảm có thể bị giật khỏi chân tôi bất cứ lúc nào. Tôi nhìn người ta cười với tôi, gật đầu, một lần nữa nói tôi may mắn thế nào khi có chương trình này hoặc có một chỗ ở, nhưng tôi không cảm thấy mình gặp may. Cả cuộc đời tôi đã hoàn toàn biến dạng. Các chuyên viên bảo tôi phải đi đâu, nộp đơn vào chỗ nào, cần điền những đơn gì. Họ hỏi tôi cần gì, và tôi nói, “một nơi để ở”, hoặc “để ăn” hoặc “nhà trẻ để tôi đi làm”, và họ giúp, hoặc tìm người có thể giúp, hoặc chẳng hề giúp gì. Nhưng đó là tất cả những gì họ có thể. Phục hồi từ tổn thương tinh thần cũng là điều quan trọng, có lẽ là quan trọng nhất, nhưng không ai có thể giúp tôi trong vấn đề đó, tôi không biết mình có cần điều đó không. Những tháng nghèo khổ, vất vưởng, và thiếu an toàn đã tạo nên một nỗi hoảng loạn phải mất nhiều năm mới tan biến được. “Các anh chị nghĩ rằng chủ nhà sẽ thích nó”, người đàn ông đứng trước lớp nói với hai mươi con người ngồi quanh hai cái bàn trong một căn phòng hẹp. Đó là Mark, chính là người đã dạy lớp LIHEAP (Chương trình Hỗ trợ Năng lượng cho Gia đình có Thu nhập thấp*) - Đã một năm trôi qua kể từ lần tôi tham gia một buổi hội thảo kéo dài ba giờ về cách sử dụng năng lượng điện sao cho tối ưu. Thông tin quá thừa mứa và bình thường, và tạm quên số phận hẩm hiu của mình, tôi cố tìm niềm vui trong việc học được rằng nếu muốn nhận được khoản trợ cấp 400 đô tiền nhiên liệu sưởi ấm, tôi cần phải tắt hết đèn đóm. Càng lúc tôi càng có cảm giác rằng những ai cần đến sự hỗ trợ của chính phủ đều bị coi là một đám người ngu dốt, ít học và nên được đối xử như vậy. Thật là đớn hèn khi biết rằng vì tôi cần tiền, tôi phải là người không biết cách tiết kiệm chi phí tiện ích. Giờ tôi phải ngồi vài giờ để nghe về cách một chương trình hỗ trợ tiền thuê thanh toán tiền cho chủ nhà để tôi có thể cam đoan với chủ nhà rằng họ sẽ được nhận tiền. Chính phủ và những người khác có một định kiến cố hữu rằng đừng tin tôi. Toàn bộ việc này dường như phản tác dụng. Tôi phải nghỉ làm và gửi con đi nhà trẻ rồi ngồi đây, chằm chằm nhìn Mark đứng trước lớp. Anh ta vẫn mặc cái áo sơ mi vải đũi dài tay và quần bò xanh cạp cao quá rốn hệt như lần trước. Mái tóc cột đuôi gà mỏng dính đã dài thêm một chút so với một năm trước. Tôi khẽ cười khi nhớ lại anh ta gợi ý giảm tiền điện bằng cách không đun nóng lò nướng trước và mở cửa để nó tự nguội đi. Anh ta còn nói, sau khi tắm, không bao giờ được đổ nước nóng đi ngay vì nhiệt độ từ nước có thể lan vào nhà và làm ấm. “Mục 8 có lợi cho chủ nhà vì nó đảm bảo tiền thuê nhà. Họ chỉ là không thích cho người thuộc Mục 8 thuê mà thôi”, Mark nói. “Việc của các anh chị là chứng minh cho họ thấy họ được lợi những gì.” Tôi bỗng nghĩ đến không biết bao lần cảnh sát, lính cứu hỏa và bác sĩ đến tòa nhà của chúng tôi trong hai tháng vừa qua để kiểm tra ngẫu nhiên rằng chúng tôi biết giữ nhà cửa sạch sẽ và chịu sửa chữa xe chết máy trong bãi đậu xe. Họ muốn giám sát chúng tôi không làm những điều tệ hại mà họ nghĩ người nghèo sẽ làm, ví như để đồ giặt và rác rưởi chất thành đống, rằng chúng tôi lười nhác và không chịu làm những công việc mà chẳng ai khác muốn làm. Họ hi vọng chúng tôi có thể sống với mức lương tối thiểu, làm dăm ba công việc vào những giờ giấc thất thường để đảm bảo được nhu cầu cơ bản trong khi tranh nhau một chỗ ở an toàn cho con cái. Không hiểu sao chẳng ai nhận thấy chúng tôi phải vất vả thế nào; họ chỉ thấy kết quả của việc sống một cuộc đời liên tục bóp nghẹt ta bằng những điều bất khả thi. Dường như mặc cho tôi có cố gắng chứng minh rằng sự thật khác xa định kiến như thế nào đi chăng nữa, người ta vẫn cho rằng “nghèo” luôn đi liền với “hèn”. Làm sao tôi có thể cho chủ nhà hiểu tôi là một khách trọ có trách nhiệm trong khi tôi đang phải đối diện với một bức tường ghi đầy những vết nhơ đây? “Những người được hưởng trợ cấp TBRA sẽ phải giải thích việc chương trình này được chuyển đổi thành Mục 8 như thế nào, nhưng anh chị nhớ phải làm rõ lợi ích của cả hai chương trình là như nhau!” Mark nhấn mạnh. “Hai chương trình tuyệt vời này sẽ chia tiền thuê thành hai phần - do anh chị trả và do chương trình trả.” Mark có vẻ khoái trá trước tuyên ngôn đó. Bạn có lẽ sẽ nghĩ anh đang bán đấu giá một món hàng nào đó chứ không phải đang giảng dạy các ứng viên Mục 8. “Chủ nhà không thích chuyện Mục 8 sẽ thanh toán tiền nhà vào một ngày nhất định: Họ muốn tiền vào đầu tháng, nhưng các bạn có thể thuyết phục họ!” Anh phát một tệp giấy tờ khác. “Mục 8 là tiền thuê nhà được đảm bảo”, anh lặp lại. Sẽ có thêm nhiều rào cản khác chờ đợi bạn sau khi bạn vượt qua bức tường định kiến và thuyết phục được chủ nhà. Dù đáng ra chủ nhà phải có trách nhiệm xin phê duyệt từ chương trình, căn nhà hoặc căn hộ phải đáp ứng một vài tiêu chuẩn an toàn bao gồm có hệ thống báo khói hoạt động và những điều kiện sống an toàn khác. Thường thi nếu một căn hộ hoặc nhà ở không đạt tiêu chuẩn, người có phiếu hỗ trợ cũng không được phép thuê. Điều này gây ra một nghịch lí, vì chủ của những căn nhà tại khu dân cư trị an tốt lại không muốn cho người “Mục 8” thuê. Chúng tôi đành phải tìm những căn nhà đã xuống cấp và tại những nơi chúng tôi sợ không qua nổi đợt kiểm tra tiêu chuẩn. “Chủ nhà phải đạt các tiêu chuẩn mà Mục 8 đưa ra, nhưng rất nhiều người không thích điều đó.” Mark nói rõ. “Đó là lựa chọn của họ. Họ không hề phạm pháp hay kì thị ai… ” “Đó chắc chắn là kì thị”, cô gái ngồi cạnh tôi nói lớn. Tôi biết cô từ quán Waterfront Pizza. Chúng tôi cười với nhau. Tôi nghĩ hình như cô ấy tên là Amy nhưng không chắc chắn lắm. “Bạn trai và tôi đã tìm được một căn nhà nhỏ khá dễ thương”, cô nói, “nhưng cuối cùng anh ấy mới là người thuê được nhà. Chủ nhà nói thẳng là không muốn cho người Mục 8 thuê vì sợ họ sẽ biến nơi đó thành bãi rác.” Cô xoa cái bụng bầu. “Ông ấy nói không muốn trở thành chủ một khu ổ chuột.” Mọi người đều quay sang nhìn Mark; anh vừa nhét tay vào túi quần. Lạ là tôi chỉ mất một tuần để tìm được nhà. Không những vậy, nó lại chưa được ai thuê vào đúng lúc tôi cần và vượt qua kì kiểm tra tiêu chuẩn an toàn. Mẹ con tôi có thể chuyển ra khỏi nhà chuyển tiếp ngay lập tức. Căn hộ này thuộc một chung cư nhìn ra khu hội trại, chỉ cách bãi biển Bắc vài dãy nhà. Gertie là tên bà chủ nhà. Khi nghe tôi nói tiền thuê sẽ được trả ra sao, bà chỉ nhún vai. Tôi giải thích rõ là tôi sẽ thanh toán phần của mình trước, và phần còn lại sẽ được chương trình trả vào mùng 10 hằng tháng. “Chắc là được thôi”, bà nói rồi mỉm cười với Mia đang úp mặt vào vai tôi. “Bé con có cần cũi hay gì đó không?” Tôi muốn nói là không. Bản năng của tôi là luôn từ chối mỗi khi có ai đó muốn giúp đỡ. Những người khác sẽ cần nó hơn chúng tôi. Nhưng sau đó tôi nghĩ về cái lỗ hổng bên cái giường cũi Pack’n Play của Mia. “Vâng”, tôi nói. “Con bé cần ạ.” “Vậy thì được”, Gertie nói. “Khách trọ trước có để lại một số thứ, mà cô chẳng biết phải làm gì với chúng.” Bà đi ra cái xe tải và lôi từ trong thùng xe ra một cái cũi trắng giống như trong nhà trẻ của Mia. Bên trong chiếc cũi là một cái áo xinh xắn màu đỏ. Tôi cầm lên và đưa cho Gertie. “Nếu muốn thì cháu cứ cầm đi”, bà nói. “Hình như nó là đồ hóa trang thì phải.” Tôi dùng tay không bế con rũ áo ra và thấy cái mũ có đính một đôi mắt, cùng một cái đuôi nhồi bông thò ra từ phía sau áo. “Là con tôm à?” Tôi hỏi và khẽ nhoẻn cười. Gertie bật cười. “Chắc vậy.” Mia không có một bộ trang phục Halloween nào. Bây giờ đã là tháng Mười mà tôi chưa hề mảy may nghĩ đến chuyện đó. Đầu óc tôi chỉ bận nghĩ cách kiếm cho chúng tôi một mái nhà mới. Gertie giúp tôi chuyển cái cũi vào trong nhà, rồi để chúng tôi lại với chùm chìa khóa trong tay. Mẹ con tôi ở căn hộ tầng một, hiên nhà dẫn ra một bãi cỏ nhỏ. Xa hơn một chút là một cánh đồng lớn. Phòng ăn bên ngoài bếp có những ô cửa sổ xung quanh. Em trai đã lắp cho tôi một chiếc máy vi tính và tôi đặt nó lên cái bàn cạnh kệ bếp, sau đó nhét một đĩa nhạc vào máy. Mia nhảy nhót một chút rồi bắt đầu chạy quanh bàn, ra phòng khách úp mặt vào ghế sofa, sau đó chạy trên hành lang trước khi lặp lại một vòng tương tự. Tôi xếp sách vào kệ trong phòng khách. Tôi treo vài bức tranh được mẹ cho - vẽ những cánh đồng tuyết trắng của những họa sĩ Alaska mà tôi quen biết. Tôi đang treo bức cuối cùng, vẽ một cây bạch dương, thì Jamie gọi điện. Lúc trước tôi có nhắn tin cho anh ta. “Cô muốn gì?” Anh ta nói khi tôi nghe máy. “Tôi… tôi có việc làm vào thứ Bảy. Anh có thể giúp tôi trông Mia lâu hơn không?” “Bao lâu?” Anh ta trông Mia vài giờ vào các ngày thứ Bảy và Chủ nhật, trừ đợt cuối tuần trước. “Chỗ làm ở ngoại ô thành phố”, tôi nói. “Công việc mất khá nhiều thì giờ nên anh trông được càng lâu càng tốt.” Jamie không nói gì trong vài giây. Tôi nghe thấy anh ta rít một hơi sâu, chắc là đang hút thuốc. Dạo này tôi hay nhờ anh ta trông Mia lâu hơn để cố làm được càng nhiều càng tốt trước khi mùa thu qua. “Không”, anh ta chốt hạ. “Vì sao thế? Jamie, chỉ có vậy thì tôi mới làm việc được.” “Tôi không muốn giúp cô”, anh ta buông một câu. “Cô đã cuỗm hết tiền của tôi, cô không gửi bỉm sang cho tôi. Tôi phải cho con ăn tối. Nên không là không.” Tôi nói tiếp để cố khiến anh ta đổi ý. “KHÔNG!” Anh ta hét lên. “TÔI KHÔNG GIÚP CÔ CÁI ĐÉ* GÌ HẾT!” rồi cúp máy cái rụp. Tim tôi bắt đầu đập thình thịch không đều hệt như sau những cuộc nói chuyện tương tự với Jamie, những cuộc nói chuyện luôn kết thúc với những tiếng la hét như hồi xưa. Lần này ngực tôi bắt đầu quặn thắt hơn, khiến tôi khó hít vào một hơi đầy đủ. Bác sĩ trị liệu trong chương trình chống bạo hành gia đình của tôi, Beatrice, khuyên tôi nên hít thở trong một chiếc túi giấy khi hiện tượng này xuất hiện. Tôi nhắm mắt và hít vào qua đường mũi năm nhịp, thở ra bằng miệng năm nhịp. Tôi cố thêm hai lần nữa trước khi mở mắt và trông thấy Mia đứng đằng trước - nhìn tôi chăm chú. “Mẹ xao thế?” Nó hỏi, lúng búng qua hàm răng đang ngậm chặt ti giả. “Mẹ ổn”, tôi nói và cúi xuống bế con, bàn tay xòe ra. “Quái vật cù đến đây!” Tôi hét lên, và Mia ré lên thích thú, chạy quanh bàn bếp với tôi theo sát phía sau. Tôi bắt được con ở sofa, cù đến nỗi làm con bé cười rũ rượi tới rơi cả ti giả. Đó là lúc tôi ôm lấy con, bế lên và ôm chặt hình hài bé nhỏ ấy, cảm nhận sự ấm áp và hương thơm của con gái. Con bé bắt đầu giãy giụa. “Không được, mẹ!” nó cười. “Nữa! Nữa!” Mia chạy vào phòng ngủ với tôi theo sát, không ai la hét bảo chúng tôi không được làm này làm nọ hay dộng vào mặt dưới sàn nhà tôi bằng một cái cán chổi. 5. Bảy chương trình trợ cấp khác nhau từ chính phủ Tôi cầm mũ áo mưa kéo qua đầu, nhưng cơn mưa cuối hè đã bắt đầu mau và nặng hạt đổ xuống mái tóc đã ướt đẫm của tôi. Tôi đi tới bức tường đá cuội nơi đồng sự của tôi đang đứng, gương mặt khuất dưới mũ áo mưa. “Bây giờ chúng ta làm gì?” Tôi hét lên cố át tiếng mưa. “Chúng ta về nhà”, John nói. Anh là chồng của Emily bạn tôi và đã thuê tôi giúp làm vườn từ sáu tháng trước. Anh nhún vai và cố cười với tôi, dù chiếc áo mưa màu xanh thẫm của anh vẫn lốm đốm những giọt mưa đá đã quất túi bụi xuống trước khi cơn mưa bắt đầu. Anh tháo kính, lau lớp sương mờ và những giọt nước mưa bám trên đó trước khi đeo lại. Tôi cúi đầu chấp nhận. Dạo này chúng tôi hay phải ngừng công việc vì gặp mưa. Đã sắp hết mùa và nguồn thu nhập chính của tôi theo đó cũng sắp đi tong. Chúng tôi chất những xô rác, máy xén và cái cào vào đằng sau chiếc xe bán tải màu vàng của John; anh lại cười với tôi trước khi lên xe và lái đi. Tôi nhìn theo trước khi quay lại với xe của mình, đậu bên vệ đường. Cửa kính ghế lái vẫn để mở. Chết tiệt. Về đến nhà, tôi đứng co một chân trên tấm vải sơn lót sàn đặt trước cửa, cố cởi đôi ủng nhựa Xtratuf. Tôi tháo khuy cái quần Carhatt và tụt xuống đầu gối để cởi ra. Nó bị đóng cứng bùn và nước mưa đến nỗi không chịu nằm ẹp xuống sàn vẫn ở nguyên dạng trông tựa cây đàn acordion. Người Alaska chính gốc có câu nói rằng khi và chỉ khi cởi quần Carhatt ra mà nó vẫn tự đứng được thì hẵng giặt. Tối hôm ấy, Mia ở với Jamie đến bảy giờ, và tôi không biết nên làm gì với thời gian còn lại. Vài cuốn giáo trình ngổn ngang trên bàn bếp, nhắc tôi nhớ đến bài tập về nhà đã trở thành một phần của cuộc sống thường ngày. Tôi đã bắt đầu một quá trình chậm rề rề để kiếm lấy một tấm bằng và đã đăng kí 12 tín chỉ: hai môn học từ xa và một tại một tòa nhà gần nhà trẻ của Mia. Khi tôi gặp chuyên viên tư vấn của nhà trường, tôi nói rằng mình chỉ muốn có bằng cao đẳng nghệ thuật chuyển tiếp. Tôi sẽ học hầu hết các môn tại trường trung học thông qua chương trình Running Start, cho phép tôi học các môn của chương trình cao đẳng bằng tín chỉ trung học, và trường Đại học Alaska chấp nhận kiểu đó. Một tấm bằng hai năm tại một trường cao đẳng cộng đồng sẽ là xuất phát điểm dễ dàng nhất, và tôi sẽ được học các môn chuyên ngành với chi phí thấp nhất có thể. Sau đó, tôi có thể thoải mái chuyển tiếp lên một khóa đại học bốn năm. Nhưng, giống như hầu hết những ông bố bà mẹ đơn thân không mấy dư dả, tôi sẽ mất nhiều năm để đạt được mục tiêu của mình. Vì tôi đã đăng kí tên Mia trong mục giảm trừ gia cảnh với bên thuế, việc xin trợ cấp học phí từ chính phủ là đơn giản. Đăng kí Mia làm người phụ thuộc và có các tờ khai thuế làm bằng chứng là cách đơn giản nhất để cho thấy tôi đang nuôi một đứa trẻ với mức lương (không biết đâu là) tối thiểu của mình. Pell Grant, chương trình liên bang hỗ trợ tài chính cho sinh viên có thu nhập thấp, trợ cấp cho tôi cao hơn mức học phí toàn thời gian cho một học kì, nên tôi dư ra 1.300 đô. Cùng với 275 đô tiền trợ cấp nuôi con và 45 đô mỗi tuần nhờ dọn dẹp trường mẫu giáo, mẹ con tôi có khoảng 700 đô để trang trải một tháng. Tiền tem phiếu thực phẩm rơi vào dưới 300 đô một chút, và chúng tôi vẫn có các tấm séc WIC. Nhờ TBRA và LIHEAP, tiền thuê nhà rơi vào chừng 150 đô, nên số tiền còn lại sẽ để dành cho bảo hiểm xe, tiền điện thoại và Internet. Vào mùa đông thì tôi thất nghiệp, nên tôi không được nhận tiền trợ cấp chăm sóc trẻ nhỏ nữa. Đi học, tới lớp sẽ không giúp tôi được nhận trợ cấp chăm sóc trẻ nên tôi phải tìm người trông Mia khoảng hai giờ mỗi tuần để học tiếng Pháp: Đó không chỉ là môn học bắt buộc mà còn thiết thân nữa. Dù tôi ghét phải học thứ ngôn ngữ này nhưng đó gần như là khoảng thời gian duy nhất tôi ngồi chung phòng với nhiều người khác. Nhiều đêm tôi pha cho mình một cốc cà phê tướng sau khi Mia đi ngủ và thức tới một, hai giờ sáng để làm cho xong bài tập về nhà. Mia không ngủ trưa và hiếm khi ngơi tay ngơi chân hoặc ngơi miệng. Con cần tôi toàn tâm chú ý và chăm sóc. Tôi không thể tìm được công việc phù hợp với thời gian rảnh của mình nên những lúc ấy, mẹ con tôi thường đi dạo trong rừng hoặc bên bờ biển, mặc cho tôi chỉ ngủ vỏn vẹn có bốn tiếng và cực kì thiếu tiền. Hồi Mia còn nhỏ hơn, chưa biết đi thì cuộc sống của tôi dễ thở hơn đôi chút, đã thế lúc nào còn thức là con bé còn chống đối tôi. Mia chắc chắn là một đứa bé tự lập; tự lập đến nỗi làm tôi mệt nhoài chỉ trong vòng một buổi sáng. Nhưng sau khi con ngủ, tôi đọc sách trong gian bếp yên tĩnh. Việc đọc các bài tập và câu hỏi thảo luận cuối chương chỉ làm tăng thêm sự cô độc. Mùa hè cuốn tôi đi khi tôi chỉ tập trung ổn định nhà cửa. Giờ thì mọi thứ đã vào đúng quỹ đạo, đầu óc tôi được nghỉ ngơi đôi chút và ý nghĩ tôi đang một mình chăm sóc một đứa trẻ len lỏi vào tâm trí tôi như một đám mây mù. Với quá nhiều vấn đề xảy ra trong thời gian Mia ở cùng bố và anh ta chỉ trông con có hai đến ba giờ, tôi chưa bao giờ có cảm giác mình được nghỉ ngơi. Năng lượng của Mia dường như không bao giờ cạn kiệt. Khi đi bộ, con tự đẩy xe với những bước chân lũn cũn. Ở công viên, con đòi tôi đẩy xích đu không biết chán, hoặc tôi sẽ xem con trượt cầu tụt hết lần này đến lần khác. Tôi đã gần ba mươi, và trong số bạn bè tôi nhiều người đã kết hôn, mua nhà và bắt đầu an cư lạc nghiệp. Họ làm tất cả theo một đường hướng đúng đắn. Tôi đã ngừng hẳn chuyện gọi điện cho họ, vì xấu hổ không dám thú thực những chuyện tồi tệ đến mức nào đã xảy đến với mình. Nếu tôi dừng lại để đếm thì hiện tôi đang đăng kí tổng cộng bảy chương trình hỗ trợ: Pell Grant, SNAP, TBRA, LIHEAP, WIC, Medicaid và chăm sóc trẻ nhỏ. Tôi cần đến bảy chương trình trợ cầyp khác nhau từ chính phủ để tồn tại. Thế giới của tôi tĩnh lặng giữa sự hỗn loạn liên miên vì đứa con, vì liên tục xê dịch, vì những căng thẳng mệt mỏi. Lần đầu tiên sinh nhật của tôi đến một cách âm thầm lặng lẽ, chẳng một người thân nào hay nhớ. Jamie hẳn là cảm thấy thương hại tôi và đồng ý đưa tôi cùng Mia ra ngoài vẽ cốc sứ. Trong bữa tối tại nhà hàng Olive Garden, tôi nhìn anh ta đặt Mia ngồi trên đùi trong khi con bé tọng cả thìa mì pasta vào miệng. Khi xe dừng trước chung cư, tôi ngồi im thêm một lúc trước khi mở cửa. “Anh có muốn vào chơi không?” Tôi hỏi. “Vì sao?” Anh ta hỏi và vỗ vô lăng. Tôi cố ngăn dòng nước mắt vì cảm giác muốn và cần anh ta bầu bạn. “Để anh được cho Mia đi ngủ chăng?” Anh ta trề môi bực bội, nhưng vẫn vặn chìa khóa tắt máy. Tôi nhìn anh ta một chút rồi ngoái lại cười với Mia. Jamie và Mia là những người thân duy nhất mà tôi có. Tôi muốn Jamie ở lại qua đêm, dù cho có phải ngủ trên sofa cũng được. Vào một ngày bình thường, mỗi khi nghĩ đến chuyện ngủ một mình, tôi lại có cảm giác như một con quái vật trong ngực đang cào cấu tôi từ bên trong. Tôi sẽ co người lại hết cỡ và có lúc tôi ôm chặt gối, nhưng không gì có thể vuốt ve cái lỗ hổng sâu hoắm bên trong tôi. Tôi cực kì muốn nó biến mất, nhưng mỗi đêm nó cứ kiên trì ở đó. Trong ngày sinh nhật của tôi, sinh nhật đầu tiên suốt nhiều năm không có ai ôm ngủ, tôi đang chiến đấu với cảm giác đó. “Hay là anh ở lại nhé?” Tôi lí nhí, cắm mặt nhìn sàn nhà vì không dám nhìn Jamie. “Không”, anh ta nói và suýt bật cười. Jamie rời khỏi nhà không buồn tạm biệt hay chúc mừng sinh nhật tôi. Tôi thấy hối hận vì đã mở miệng xin xỏ anh ta. Tôi ngồi bệt dưới sàn nhà và gọi điện cho bố. Đã gần mười giờ tối nhưng tôi biết bố vẫn còn thức và đang xem chương trình Coundown with Keith Olbermann trên MSNBC với vợ - Charlotte -như mọi tối. Tôi thích điều đó khi sống cùng họ. Sau khi Jamie đá chúng tôi ra khỏi cửa, tôi đã sống với bố vài tuần vì không có nơi nào để đi. “Alô, bố ạ”, tôi nói và dừng lại. Tôi không biết phải nói gì thêm; tôi cần bố nhưng không thể truyền đạt thành lời. Ngôn ngữ bí mật của gia đình tôi là ngôn ngữ không một ai nói ra. “Chào Steph”, bố đáp, có vẻ hơi ngạc nhiên. Dạo này tôi không gọi cho bố. Chúng tôi không gặp mặt hay nói chuyện từ sinh nhật Mia ba tháng trước, dù bố chỉ sống cách chỗ tôi vài giờ. “Có chuyện gì thế?” Tôi hít một hơi. “Hôm nay là sinh nhật con”, giọng tôi run run. “Ôi, Steph”, bố nói và thở dài thườn thượt. Cả hai cùng im lặng. Tôi không nghe thấy tiếng tivi vọng vào ống nghe, và hình dung ra phòng khách mờ mờ tối với ánh sáng duy nhất đến màn hình. Có lẽ Charlotte đã ra ngoài hút thuốc. Tôi tự hỏi có phải họ vẫn không uống rượu vào những ngày trong tuần hay không. Hồi tôi mới chia tay Jamie và nương nhờ nhà bố, bố đã nhìn tôi ngồi bên bàn bếp nhà mình tới tối muộn, xung quanh chồng chất những giấy tờ và trát của tòa. Tôi đồ rằng bố đang cố hiểu những chuyện xảy ra với cuộc đời tôi. Tất cả những gì bố biết là tôi không có tiền, không có nhà, và Mia chỉ mới bảy tháng tuổi. Bố không biết làm sao để cải thiện tình hình. Bố có thể nuôi tôi, nhưng không phải người dư dả gì cho cam. Cuộc khủng hoảng bất động sản đã ảnh hưởng đến nghề thợ điện của bố. Đó là vào năm 2008, và những nhà đầu tư trầy trật với chuyện chẳng còn ai đổ tiền đầu tư gì nữa. Tôi cố gắng giảm gánh nặng bằng cách mua thức ăn cho cả nhà bằng tem phiếu của mình. Tôi nấu bữa sáng, bữa tối và cố dọn dẹp nhà cửa trong ngày - nhưng tôi cũng biết như thế là không đủ. Tôi đang xin bố và Charlotte quá nhiều, mà họ đã phải vất vả mưu sinh lắm rồi. Họ đã mua một lô đất cách đây bốn hoặc năm năm gì dó và dự định sống trong một căn nhà lưu động để tiết kiệm tiền xây ngôi nhà mơ ước của mình. Sau đó giá trị bất động sản của họ rớt không phanh và kế hoạch cũng theo đó tan biến. Charlotte nhận công việc tạo mã y tế cho các công ty bảo hiểm tại nhà nên phải đi học lại để lấy một chứng chỉ đặc biệt. Bố tôi làm thợ điện từ hồi tốt nghiệp phổ thông. Charlotte đã mua căn nhà lưu động này sau khi li hôn và phải một mình nuôi con với mức lương khiêm tốn. Bố tôi, nhằm biến nó trở thành một tổ ấm, đã dựng một cái hiên lớn ở phía sau, để hơn chục hộp chứa hạt cho chim ăn các loại. Từ cửa sổ phòng khách, Mia thích ngắm nhìn những con chim giẻ cùi xanh sà xuống ăn lạc, vừa nhìn vừa vẫy vẫy tay và reo hò thích thú. Bố tôi bật cười mỗi khi trông thấy cảnh tượng đó. “Con bé giống hệt con hồi bằng này tuổi”, bố bâng khuâng, nói. Một tối nọ, bố tôi về muộn, tay ôm những túi thực phẩm. Sau khi cho Mia đi ngủ, tôi ngồi trong phòng khách xem tivi với Charlotte. Bố lẳng lặng đi ra bồn tắm nóng ngoài nhà, cầm theo một chai rượu. Lẫn giữa tiếng tivi, Charlotte và tôi bắt đầu nghe thấy một âm thanh gì đó như tiếng nức nở. Tiếng khóc của một người đàn ông. Tôi chưa từng nghe thấy một âm thanh như thế bao giờ. Charlotte chốc chốc lại ra ngoài xem bố tôi thế nào. “Ngừng ngay!” Cuối cùng tôi nghe bà hét lên. “Anh đang dọa con gái anh đấy!” Tôi chưa từng nhìn thấy hay nghe thấy bố khóc, nhưng tôi biết đó là lỗi của tôi. Tôi đã khiến bố phải mang một gánh nặng khi xin giúp đỡ vào lúc bố lực bất tòng tâm. Đầu tuần ấy, bố bảo tôi phải chuyển đi. Khi tôi nói với Charlotte, bà trấn an rằng tôi có thể ở bao lâu tôi cần. Tôi tự hỏi họ đã cãi vã về chuyện mẹ con tôi bao lâu rồi. Sự suy sụp của bố dường như là điềm gở báo trước mẹ con tôi phải chuyển đi nơi khác. Dù đã cố cảm thông cho bố, nhưng ý nghĩ tôi và Mia sống ở một nơi tôi phải trả tiền thuê dường như là bất khả thi khi mà tôi chẳng có nghề ngỗng gì, và tôi không thể tưởng tượng việc đó sẽ ra sao. Tôi chẳng có thời gian phục hồi từ cú sốc vừa không nhà không cửa vừa phải nuôi con. Charlotte nói đúng. Bố đang dọa tôi, nhưng có lẽ không phải theo cách bà nghĩ. Khi Charlotte trở vào trong nhà lần thứ ba, bà ngồi xuống ghế, và chúng tôi không ai nói với ai câu gì. Bà bật tiếng lên và chúng tôi tiếp tục xem Counting down with Keith Olbermann. Tôi không dám nhìn bà và cố ngồi thật yên. Bình tĩnh. Cuối cùng, tôi đứng dậy đi ngủ. Chú tôi đã mang đến một chiếc nhà xe lưu động ngắn và cho đậu ở lối đánh xe. Mia và tôi ở tạm trong đó. Nóc xe bị hổng ở phía trên cửa và chúng tôi không thể sử dụng căn bếp bé xíu lẫn nhà tắm, nhưng nó có máy sưởi điện và một chỗ để ngủ. “Con định đi ngủ hả, Steph?” Charlotte hỏi, trong nỗ lực biến tối nay thành một buổi tối bình thường. “Vâng, con hơi mệt”, tôi nói dối. Tôi dừng ở cửa và nhìn bà. “Cảm ơn dì đã cho mẹ con con ở lại đây.” Charlotte mỉm cười như thường lệ và nói, “Con cứ ở lại bao lâu con muốn.” Nhưng giờ thì cả hai chúng tôi có vẻ đều biết điều đó không còn là sự thật. Khi thò đầu vào cái nhà xe của mình, tôi thấy Mia ngủ ngon lành trên chiếc giường gấp. Tôi chui vào trong chăn, từ từ nhích lại gần con. Tôi không mệt, tôi chỉ muốn nằm đó lắng nghe tiếng con ngủ, quên đi mọi sự thay đổi trong thế giới mới của chúng tôi. Tôi nằm ngửa rồi nằm nghiêng, nhưng không thể nào quên tiếng khóc của bố. Có lẽ tôi có thể thuê một chỗ đậu xe ở khu cắm trại dã ngoại và đậu cái nhà xe này ở đó. Hoặc có lẽ chúng tôi sẽ chuyển nó ra đằng sau nhà của ông tôi ở Anacortes, nhưng tôi không thể tưởng tượng cảnh sống gần bà tôi vì nghe nói hiện bà đang nuôi tận 50 con mèo hoang. Một giờ sau, qua những bức vách mỏng của căn nhà lưu động, tôi nghe tiếng cửa đóng sầm lại. Bố và Charlotte đang cãi vã và tôi nghe thấy tiếng đổ vỡ. Sau đó là im lặng. Tôi lẻn vào nhà xem có chuyện gì. Trong bếp, những đồ trang trí gắn nam châm đính trên tủ lạnh rải rác khắp sàn. Bàn bị xô ra khỏi chỗ vốn có. Không gian yên lặng đến khó thở. Và sau đó tôi nghe thấy tiếng họ ở hiên sau. Bố tôi vẫn khóc nhưng đang xin lỗi Charlotte hết lần này đến lần khác. Khi Mia và tôi vào nhà vào sáng hôm sau để ăn sáng, bố đã đi làm. Charlotte ngồi bên bàn bếp, vẫn xiên xẹo như tối trước. Tôi ngồi xuống, theo bản năng nắm tay bà. Bà ngước nhìn tôi, đôi mắt sưng húp và buồn rười rượi. “Ông ấy chưa từng như vậy bao giờ”, bà nói, ánh mắt chăm chắm nhìn bức tường đối diện. Rồi đột ngột, bà nhìn thẳng vào mắt tôi. “Ông ấy như một con gấu bông vậy.” Charlotte dần dần kể cho tôi nghe chuyện tối hôm qua: Bà bảo với bố tôi rằng sẽ chuyển đến sống ở nhà em gái và bắt đầu dọn hành lí, bà còn nói sẽ đưa con chó cưng đi cùng. Tôi nhìn bà trầm trồ, chỉ ước giá mà mình có đủ sức mạnh để bỏ đi khi cơn thịnh nộ của Jamie bộc phát vào lúc biết tôi có bầu. Giá như tôi mạnh mẽ được như Charlotte. “Đó là lỗi của dì”, Charlotte nói với tôi và cúi nhìn Jack đang cuộn tròn nằm trên sàn bên chân bà. “Dì đã phạm sai lầm.” Bà đặt cốc cà phê xuống bàn và cẩn thận xắn tay áo, để lộ ra những vết bầm tím. Tôi cúi nhìn Mia đang vui vẻ chơi bên cạnh con chó trên sàn bếp, vừa vỗ lưng nó vừa nói, “Chó, chó.” Tóc nó xù bông vì vừa tỉnh dậy, và con bé vẫn mặc bộ đồ ngủ liền quần. Tôi nghĩ mà thấy nực cười - tôi trốn chạy khỏi một người đàn ông bạo lực này và đến trú ngụ trong nhà một người khác, tương tự. Tôi nhắm mắt. Tôi phải ra đi. Ngày hôm đó, tôi bắt đầu gọi đến các khu nhà dành cho người vô gia cư. Một căn nhà cấp bốn ít nhất cũng là mái nhà che mưa che nắng và cho tôi và con gái sống mà không sợ bị ai đó đánh đập một thời gian. Khi bố gọi điện bảo tôi hãy đi đi, tôi đã dọn đồ lên xe sẵn sàng rồi. Khi tôi cố gặng hỏi cô tôi và cậu em trai về những vết bầm Charlotte cho tôi thấy, bố đã nói chuyện với họ và bảo rằng tôi bịa chuyện để được quan tâm, rằng tôi còn bịa đặt tất cả những gì liên quan đến Jamie để được chú ý nữa. “Bố xin lỗi, Steph”, bố nói đi nói lại trong điện thoại vào cái tối sinh nhật tôi. Bố bắt đầu viện cớ bận công chuyện nhưng tôi đã ngừng nghe. Tôi thấy hối hận vì đã gọi. Ông cố bù đắp cho lỗi quên mất sinh nhật tôi. Một tuần sau, tôi nhận được một tấm thiệp cùng tờ séc 100 đô la. Tôi chăm chăm nhìn, biết đó là một món tiền lớn với bố. Không thể dẹp bỏ cảm giác giận dỗi vì bị bố đuổi ra khỏi nhà, tôi bốc đồng quyết định: Thay vì tiết kiệm tiền để trang trải các hóa đơn và mua nhu yếu phẩm, tôi sẽ dẫn Mia đi ăn trưa tại một nhà hàng Thái trong thành phố có phục vụ những tô cơm nhỏ rưới nước cốt dừa và có món xoài tráng miệng. Cơm bết đầy vào những lọn tóc xoăn xinh xắn của Mia nên con bé cần tắm rửa. Sau đó tôi cho con đi ngủ, rồi ngồi trước máy tính tại bàn bếp, quyết định làm gì đó chỉ riêng cho mình. Mấy hôm nay tôi đều mở trang web Match.com. Tôi đã điền thông tin cá nhân, đăng ảnh và tìm tiểu sử của những người đàn ông cùng tuổi. Bố mẹ tôi đã tìm được nửa kia của mình ở đó, và cô tôi cũng thế. Dù tôi không hoàn toàn chắc chắn rằng mình sẽ tìm được bạn đời ở đó nhưng tôi biết chắc chắn mình đang thiếu một thứ: giao tiếp xã hội. Hầu hết các mối quan hệ bạn hữu của tôi đã phai nhạt từ năm ngoái vì tôi tự cô lập mình và trốn tránh vì tủi hổ về cuộc sống thường ngày. Nhiều giờ trong đêm, rất lâu sau khi Mia đã ngủ, khi tôi được ngồi yên lần đầu tiên trong cả một ngày dài, tôi thèm có người bầu bạn, dù cho đó chỉ là bạn qua thư hay qua điện thoại. Đó không thể là người biết tất cả những sóng gió bủa vây tôi: Tôi đã chán ngán nghe mình lải nhải về những chuyện đó. Tôi muốn theo đuổi một ai đó, muốn lại là tôi của ngày xưa, trở thành cô gái mang những hình xăm có mái tóc nâu dài ngang vai, áo phông dài tay thắt ngang eo. Tôi muốn có bạn. Có vẻ trong hoàn cảnh này, tôi lại lên mạng tìm bạn thì thật quá tuyệt vọng, nhưng tôi không quan tâm. Tôi trò chuyện với những anh chàng ở tít tận thành phố Salt Lake, và Winthrop, Washington. Tôi thích những người sống xa tôi vì tôi không phải sợ sẽ quyến luyến họ. Tôi không thể gặp họ, họ cũng chẳng thể tới sống cùng tôi, vì Mia chỉ gặp bố trong những lần thăm nom ngắn ngủi. Đằng nào thì tất cả nghe đều bất khả thi. Tôi thật sự chỉ muốn được cười, gợi nhắc bản thân về con người thời son rỗi, trước khi cái nghèo mài mòn mọi nét cá tính của mình. Tôi đã đánh mất hoàn toàn con người đó, con người tự do đến và đi, thích gặp bạn bè hay không tùy ý, làm dăm ba công việc để tiết kiệm tiền và đi du lịch. Tôi cần biết con người đó còn tồn tại. Nếu tôi thành thật với chính mình, tôi sẽ thừa nhận mình đang tìm, hoặc đang thầm hi vọng sẽ tìm được một người bạn đời. Nỗi lo lắng của tôi, hoặc có lẽ là phần thực tế, lí trí của tôi, thừa biết cơ hội đó mong manh lắm. Tôi đang nhận sự hỗ trợ của chính phủ, thường xuyên trong trạng thái bất an, chưa thể vượt qua sự bạo hành cảm xúc vẫn tác động đến tôi sâu sắc. Có thể nói cuộc đời tôi đang bế tắc trong một nhân dạng mới,- bị khuất lấp bởi việc làm mẹ - một công việc mà tôi không chắc mình có thực sự yêu thích hay không. Ý tôi là, một người đầu óc minh mẫn làm sao lại muốn yêu một con người như thế? Chỉ sau một tháng lang thang trên mạng, bực mình thay là có người đã thực sự tới gặp tôi. Anh sống gần đây, tại một thành phố tên là Stanwood. Tôi đã có vài dịp đi qua đó trong cuộc săn tìm một chốn ở khác không phải là Port Townsend. Stanwood là một cộng đồng nông nghiệp nhỏ ở phía nam hạt Skagit - nơi cả gia đình tôi sinh sống. Nó gần nhưng cũng không quá gần, ở cạnh đảo Camano, với không biết bao nhiêu bãi biển kín đáo gần như còn nguyên sơ. Người đàn ông này không chỉ có chỗ ở mà các email của anh còn giống như của John Steinbeck viết khi anh kể về việc sống điền viên trong trang trại do cụ cố để lại. Travis tả nông trang nơi anh sống một cách tự hào vô cùng, vì anh mới chỉ từng rời đó một lần duy nhất một thời gian ngắn. Anh nói anh có ảnh chụp mình hồi còn bé tí, tắm trong cái bồn mà bây giờ, tối tối anh lại đứng cạnh để đánh răng. Bố mẹ anh, đã mua lại trang trại từ ông của anh, vẫn sống và làm việc tại đó, làm dịch vụ chăm sóc ngựa. Mẹ Travis vừa làm kế toán vừa chăm sóc năm đứa cháu vào các ngày trong tuần. Điều đó, còn hơn cả lời hứa cho tôi được cưỡi ngựa bất cứ lúc nào tôi muốn, đã quyến rũ tôi đến nỗi tôi chấp nhận lời mời đi ăn tối. Anh đã nhờ bố cho ngựa ăn cỏ, uống nước hộ vào buổi tối hôm đó, và khấp khởi tới Port Townsend. Khi tôi đón anh tại bến phà, anh mang dáng vẻ của người nhà quê ra phố. “Anh chưa từng đi phà”, anh nói với vẻ ít nhiều trầm trồ. “Anh còn không biết thành phố này ở đây.” Anh lo lắng bật cười, và tôi đề nghị chúng tôi đi bộ tới quán Sirens. Mới bốn giờ chiều nên quán rất vắng khách. Tôi biết nếu có ai thấy tôi đi ăn với một anh chàng lạ mặt, người ta sẽ đưa chuyện tới Jamie. Hai tháng trước, sau một ngày dài làm vườn, tôi vào thành phố để được một mình uống bia xả hơi. Có người đã kể với Jamie và anh ta áp cho tôi tội say xỉn khi tôi đón Mia. Sau đó tôi cố tránh xa các quán bar. Chúng tôi tìm một bàn và cả hai gọi burger với bia. Tôi liếc nhìn cái bàn ở tầng trên, nơi tôi đã ngồi cùng mẹ và William sáu tháng trước vào lần cuối cùng lui tới nơi này. Tôi không có cảm giác Travis hay đi ăn ngoài tiệm từ cách anh lúng túng lật giở thực đơn. Tôi đoán là anh căng thẳng. “Vậy, chính xác là anh làm gì?” Tôi hỏi, dù anh đã kể cho tôi qua email và điện thoại. “Anh dọn chuồng ngựa vào buổi sáng, cho ngựa ăn vào buổi tối, và sửa những thứ cần sửa trong ngày.” Travis có vẻ không phật ý trước sự tò mò và những câu hỏi thường xuyên của tôi, anh dễ bật cười khi một trong hai chúng tôi cố tỏ ra hài hước. “Nhưng vào mùa cỏ khô thì anh làm việc cả ngày.” Tôi gật đầu như thể đã hiểu. “Vậy gia đình anh tự trồng cỏ để nuôi dám ngựa mà người ta gửi à? Nhà anh chăm sóc bao nhiêu con?” “Bố mẹ anh có hai con trong trang trại, cộng thêm vài con khác nuôi giúp bạn bè.” Anh cắn một miếng burger to tướng và tôi đợi anh nói tiếp. Anh mặc đồ có vẻ là đồ lao động - quần bò xanh có những lỗ thủng và dính vết dầu nhờn, giày da nâu và một chiếc áo sơ mi dài tay có mũ khoác ngoài chiếc áo phông đã bạc màu. Đồ của tôi cũng tạm coi là ăn rơ với anh, chỉ khác là tôi mặc quần bò hiệu Lucky điệu đà mua hồi hè tại một cửa hàng đồ kí gửi. “Sau đó Susan, đã thuê một phần đất nhà anh, đã thuê nhà kho. Tàu ngựa chính có thể trông giữ khoảng 120 con, nhưng hiện trong nhà anh chỉ nuôi có một nửa số ấy, Người thuê nhà anh trông ngựa đã phá sản và không thể trả tiền cho lũ ngựa nữa. Họ còn không thể trả tiền để tống khứ chúng.” Tôi chưa từng nghĩ nuôi một con ngựa lại tốn kém như thế, nhưng tôi biết chúng cần được chăm sóc kĩ càng. Khi còn rất nhỏ và sống gần nhà ông bà, tôi dành rất nhiều ngày hè tại một cơ ngơi cuối con đường đất dài nơi bố tôi đã lớn lên. Ngày xưa ông làm thợ đốn củi và từng đưa những đàn ngựa thồ vào rừng. Ông đã đặt tôi ngồi lên lưng ngựa khi tôi chỉ bằng tuổi Mia. Tôi cưỡi ngựa giỏi hơn chạy trên đôi chân mình. Đầu tôi tràn ngập những hình dung Mia có cùng trải nghiệm ấy. Trời sẩm tối khi tôi cùng Travis về bến phà. Chúng tôi ôm tạm biệt, và tôi bỗng muốn vùi đầu vào ngực anh mãi. Anh có mùi ngựa, cỏ khô, dầu nhớt và mùn cưa. Anh có mùi của công việc, được đầu óc tôi dịch ra là sự ổn định. Những mùi hương kết hợp ấy làm tôi choáng ngợp bởi một nổii niềm hoài cổ: làm việc trên những chiếc xe, cưỡi ngựa cùng ông, đưa đinh cho bố khi còn thơ bé. Cái ôm của Travis làm tôi nhớ tới tất cả những kí ức đấy, nó an ủi tôi và bằng cách nào đó đưa tôi về nhà. 6. Nông trại Tôi gập con dao gấp hiệu Gerber lại và nhét vào túi quần Carhartt. Gió mùa thu mát lạnh phả trên mặt tôi khi Travis và tôi thảy hàng chục súc cỏ khô nặng hơn ba chục kí vào máy nghiền, cắt thành những mảnh dài chừng một đốt ngón tay để trộn cùng mùn gỗ rải chuồng ngựa. Tôi quệt lớp bụi màu vàng sẫm trên trán trước khi tiếp tục nhét tay vào đôi găng bảo hộ vừa kẹp dưới nách. Tôi dừng lại để lấy hơi rồi kéo sợi dây bện màu đỏ về phía mình. Nếu tôi cắt sợi dây bện buộc gia cố súc cỏ ngay trước nút thắt, tôi có thể kéo nó dễ dàng và cả súc cỏ sẽ không bị suy suyển để sau đó tôi dễ dàng vác lên bỏ vào máy nghiền. Cắt dây bện đằng sau nút thắt sẽ khiến nó toạc ra, những sợi cỏ sẽ vãi ra đất thành một đống, làm giảm năng suất. “Em làm sai rồi!” Travis lại kêu lên khi đống cỏ khô chất đống dưới chân tôi. “Xin lỗi!” Tôi đáp lại, cố sao cho thật chân thành. Tôi làm điều này hết lần này tới lần khác, qua cả một núi súc cỏ, để biến chúng thành một ngọn núi cỏ khô cắt nhỏ thậm chí còn lớn hơn. Mẹ con tôi đã chuyển tới Stanwood sống cùng Travis chỉ bốn tháng sau buổi hẹn hò đầu tiên, khi đó Mia gần hai tuổi. Sau đấy là chín tháng vất vả. Travis làm việc cật lực trong trang trại và ngoài nhà. Khi ở trong nhà, anh hiếm khi rời mắt khỏi tivi. Mối quan hệ của chúng tôi phát triển ổn định; nơi này trở thành một tổ ấm. Nhưng có lẽ quan trọng hơn, nó như đóng cho tôi một con dấu chấp thuận vô hình. Với Travis, tôi là một phần của gia đình. Tôi viên mãn. Nhưng tôi không thích mất đi sự độc lập, không nhận ra là mẹ đã định nghĩa tôi nhiều như thế nào. Trong mắt Travis, giá trị của tôi dựa vào công việc tôi làm bên ngoài nhà trong trang trại, vì công việc tôi làm bên trong - dọn dẹp và nấu nướng - với anh là vô giá trị. Nhưng tôi không tìm được việc làm nên giá trị của tôi phụ thuộc vào công việc tôi có thể giúp anh. Vấn đề là, tôi chỉ có số tiền ít ỏi Jamie trợ cấp nuôi con và tem phiếu để chăm sóc Mia. Tôi thấy Travis được trả tiền cho công sức lao động mà tôi góp phần kha khá nhưng tôi lại không được chia một chút nào. Lúc đầu, chuyện ra ngoài hằng đêm cho chừng năm mươi con ngựa được gửi nuôi ăn uống cũng khá thú vị. Khi các công nhân vệ sinh chuồng ngựa vào những ngày cuối tuần nghỉ hẳn, Travis xung phong nhận việc và kiếm thêm 100 đô la mỗi tuần ngoài khoản 100 đô la bố mẹ anh trả cho việc cho ngựa ăn. Trong những ngày cuối tuần Mia ở cùng bố con bé, tôi phải dậy từ bảy giờ sáng để giúp dọn phân ngựa trong khi hằng tối vẫn phải cho ngựa ăn, đồng thời nhìn Travis được nhận tiền công từ bố mẹ anh nhưng không chia cho tôi lấy một cắc. “Travis”, tôi nói vào lần thứ hai chuyện này xảy ra. “Chẳng lẽ em không nên được nhận chút nào à? Em có giúp cơ mà.” “Em cần tiền làm gì?” Anh gắt. “Em không hề trả một hóa đơn nào hết.” Tôi cố ngăn nước mắt vì sự bẽ bàng và cố nghẹn ngào nói rằng xe tôi cần đổ xăng. “Đây”, anh nói, đếm tiền và đưa tôi 20 đô. Chúng tôi bắt đầu cãi vã. Mỗi lần tôi từ chối giúp cho ngựa ăn. Mỗi lần không có bữa tối. Mỗi lần tôi quyết định ngủ một mạch đến sáng dù biết rằng sẽ bị anh chiến tranh lạnh như một kiểu hình phạt. Tôi tuyệt vọng ứng tuyển cho gần như mọi công việc đăng trên Craigslist hoặc báo địa phương, mỗi tuần ứng tuyển từ vài công việc đến cả tá, nhưng tôi hiếm khi được gọi lại. Sau đó một người bạn cho số điện thoại của tôi cho một người phụ nữ cần tìm nhân viên dọn vệ sinh mới, và tôi được trả 10 đô một giờ. Jenny, chủ công ty, hi vọng sẽ có cho tôi khoảng 20 giờ làm một tuần, vậy tôi sẽ có 200 đô la của riêng mình. Và có lẽ tôi có thể thôi việc ở nông trại. “Đó là một công việc tốt. Tất cả những ngôi nhà cần dọn vệ sinh đều ở Stanwood”, tôi kể với Travis khi anh xuống khỏi máy kéo. “Em không nghĩ họ yêu cầu thử việc. Em chỉ việc đi làm và kiếm tiền tươi thóc thật.” Tôi cố cười ngọt ngào, dù chúng tôi đã không nói với nhau quá vài từ suốt nhiều ngày nay. “Nghe thật sự được.” Mia, đã gần hai tuổi rưỡi, rất thích ở cùng Travis. Nếu tôi thành thật với bản thân thì chính tôi cũng thấy vậy, nhưng chủ yếu vì khi ở cùng anh, tấm màn những vết nhơ vì là mẹ đơn thân đã được lột bỏ. “Cái gì?” Travis hỏi, có vẻ bực bội và hình như mới nghe được một nửa những gì tôi nói. Anh vẫn mặc bộ đồ giống hệt lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau. Tôi cố nhớ lại cảm giác lần đầu tiên ôm anh. Một năm trước, tôi cảm thấy an toàn, thoải mái trong vòng tay anh. Giờ thì vòng tay ấy toàn những gắt gỏng chẳng thèm ôm tôi nữa. “Nếu em làm việc bán thời gian vào các buổi sáng”, tôi phân trần, theo sau anh khi anh nối rơ-moóc đằng sau máy kéo, “Mia sẽ ở nhà trẻ cả ngày, và em có thể giúp việc trang trại. Được chứ?” Tôi tự thuyết phục mình rằng làm việc ở trang trại cũng là một hình thức trả tiền thuê nhà và hóa đơn. Tôi chỉ không chấp nhận được việc phải ngửa tay xin tiền đổ xăng xe thôi. Travis nhìn tôi không tỏ thái độ gì. “Em sẽ làm việc chăm chỉ. Em sẽ dọn chuồng ngựa”, tôi nói, mặc kệ chuyện mình chẳng còn tự trọng khi gần như van xin anh. “Em sẽ cho ngựa ăn uống. Em sẽ cố gắng nấu bữa tối, dù không thích.” “Anh không quan tâm về chuyện bữa tối miễn là em làm việc trong trang trại”, anh nói, sau đó liền thở dài. Tôi đợi. “Giúp anh nghiền mấy súc cỏ khô này đi”, anh nói và lại leo lên máy kéo. “Vậy anh thấy được chứ?” Tôi hét lên át tiếng máy kéo. Anh liếc nhìn tôi nhưng không đáp. Lựa chọn duy nhất của tôi là hờn dỗi ở phía sau, đi theo xe rơ-moóc chất đầy súc cỏ khô về kho. Đó là đầu mùa đông năm 2009, trong thời kì suy thoái, khi người ta không còn tiền để nuôi ngựa cưng, hay để làm những điều khác. Hoạt động chăm ngựa thuê của Travis và bố mẹ anh bị đình trệ trong khi giá cỏ linh lăng và mùn gỗ để rải chuồng ngựa lại tăng vọt. Hầu hết vật dụng của họ đều cũ kĩ và hỏng hóc. Bố mẹ anh đã mệt mỏi vì phải duy trì công việc và dựa chủ yếu vào Travis. Anh làm việc cả ngày vào mùa cỏ khô, dành tới mười hai giờ trên máy kéo, và vào những tháng mùa lạnh, anh thường sửa chữa, thông ống nước và đi dọn phân thêm cho chừng 40 đến 80 chuồng ngựa của nhà khác mỗi sáng. Tôi ngước nhìn qua đám bụi cỏ khô bay bay trong không khí, ngạc nhiên khi thấy Travis mỉm cười với mình. Chúng tôi sắp nghiền xong súc cỏ thứ hai. Cỏ khô phủ kín đỉnh mũ lưỡi trai và vai cái áo len có mũ của anh. Khi Travis đưa bàn tay đeo găng vò tóc tôi, tôi tránh và sau đó ném một nắm dây bện về phía anh. Travis bật cười, đôi mắt long lanh khiến cả gương mặt rạng rỡ. Theo như tôi thấy thì công ty dọn vệ sinh của Jenny có vẻ được tổ chức rất tốt. Cô sắp xếp đâu ra đấy lịch dọn nhà cho các khách hàng trong sổ hẹn được cô cầm theo như một chiếc ví. Ngày đầu tiên tôi đi làm, cô giao cho tôi một bộ đồ vệ sinh và một cuộn khăn giấy. Tôi gặp cô và vài người phụ nữ khác bên ngoài căn nhà rộng rãi sơn màu nâu, nhìn ra thung lũng của một khách hàng. Jenny không giới thiệu tên tôi với mọi người mà chỉ nói, “Đây là người mới.” Những người khác gật đầu chào, không buồn dừng lại để bắt tay hay nhìn """