" Minh Mạng Mật Chỉ PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Minh Mạng Mật Chỉ PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Ebook:  ©Facebook: We Love Ebook MÁY ĐỌC SÁCH TỐT Hệ thống máy đọc sách và ghi chú số 1 VN  Website: https://MayDocSachTOT.com  Hotline: 0983 996 448   Khoác lên mình vỏ bọc là một kiến trúc sư nam tính, hào hoa, yêu lịch sử - Kỳ Phương thực chất là một người chuyên đi tìm kho báu. Sau một thời gian tạo mối quan hệ anh đã được một người bạn mang dòng dõi hoàng tộc đề nghị tham gia khai quật và giải mã một thư tịch cổ của vua Minh Mạng. Vào cuộc anh mới biết mình đang tham gia một nghi lễ bàn giao thần bí giữa hai thế lực cổ xưa là Hội Đạo sĩ cơ mật và những hậu duệ hoàng tộc có sứ mệnh đặc biệt. Thế nhưng nhân tố bí ẩn bất ngờ xuất hiện làm cho lễ bàn giao không thực hiện. Kỳ Phương định thoái lui song đã quá muộn. Anh bị cuốn vào cuộc đấu tranh giữa hàng loạt các thể lực đối nghịch và trở thành nhân tố chủ chốt trong việc tìm kiếm kho báu. Cuối cùng, sau khi đi hết miền đất cố đô Huế chứa đừng bề dày truyền thống lịch sử, văn hóa, trải qua biết bao gian nan, vất vả cũng như những cảm xúc bất ngờ, bi thương đến tột cùng. Kỳ Phương đã giải mã được "bí ẩn thế kỷ" này. Vậy thực chất "Mật chỉ" Minh Mạng là gì và kho báu đó có giá trị đến mức nào mà khiến cho một vị vua thời phong kiến lại có thể thiết lập cơ chế bảo mật ngoạn mục đến như vậy? Mục lục MINH MẠNG MẬT CHỈ NHỮNG SỰ KIỆN LỊCH SỬ CÓ THẬT[*] LỜI NÓI ĐẦU CHƯƠNG 1 CHƯƠNG 2 CHƯƠNG 3 CHƯƠNG 4 CHƯƠNG 5 CHƯƠNG 6 CHƯƠNG 7 CHƯƠNG 8 CHƯƠNG 9 CHƯƠNG 10 CHƯƠNG 11 CHƯƠNG 12 CHƯƠNG 13 CHƯƠNG 14 CHƯƠNG 15 CHƯƠNG 16 CHƯƠNG 17 CHƯƠNG 18 CHƯƠNG 19 CHƯƠNG 20 CHƯƠNG 21 CHƯƠNG 22 CHƯƠNG 23 CHƯƠNG 24 CHƯƠNG 25 CHƯƠNG 26 CHƯƠNG 27 CHƯƠNG 28 CHƯƠNG 29 CHƯƠNG 30 CHƯƠNG 31 CHƯƠNG 32 CHƯƠNG 33 CHƯƠNG 34 CHƯƠNG 35 CHƯƠNG 36 CHƯƠNG 37 CHƯƠNG 38 CHƯƠNG 39 CHƯƠNG 40 CHƯƠNG 41 CHƯƠNG 42 CHƯƠNG 43 CHƯƠNG 44 CHƯƠNG 45 CHƯƠNG 46 CHƯƠNG 47 CHƯƠNG 48 CHƯƠNG 49 CHƯƠNG 50 CHƯƠNG 51 CHƯƠNG 52 CHƯƠNG 53 CHƯƠNG 54 CHƯƠNG 55 CHƯƠNG 56 CHƯƠNG 57 CHƯƠNG 58 CHƯƠNG 59 CHƯƠNG 60 MINH MẠNG MẬT CHỈ Tiểu thuyết trinh thám Trừ một số địa danh và nhân vật lịch sử là có thật, Tất cả các chi tiết còn lại trong cuốn tiểu thuyết này đều là hư cấu. NHỮNG SỰ KIỆN LỊCH SỬ CÓ THẬT[*] Kho báu của Vua Minh Mạng được phát hiện lần đầu tiên vào thời Vua Thành Thái. Năm Thành Thái thứ 11 (1899), Khâm sứ đại thần Boulloche sau khi nhận được tin báo của Hoằng Trị quận vương Hồng Tố nói đời vua Minh Mạng và Thiệu Trị có chôn nhiều vàng trong Đại công nội. Đúng như dự đoán, hầm vàng được Khâm sứ đại thần Boulloche tìm thấy không phải là hầm vàng duy nhất. Mười sáu năm sau, năm Duy Tân thứ 9 (1915), một hầm khác được phát hiện. Trong quá trình đào đất sau cửa Tường Loan để sửa chữa đường nước trong khuôn viên Đại nội, toán thợ chạm phải hầm vàng, một số phái viên của Bộ Công đã trình lên triều đình. Trong các tài liệu nhà Huế học Phan Thuận An sưu tầm được thì bộ sách Đại Nam nhất thống chí (tập Kinh sư), Đại Nam thực lục và Đại Nam Điển Lệ có nhắc đến kho báu của triều Nguyễn dưới thời vua Gia Long, gọi là Nội Đồ Gia, được thiết lập ở phía tả của Hưng Khánh thuộc Tử Cấm Thành, qua năm đầu thời Minh Mạng được đổi tên là Nội vụ Phủ. Năm 1836, kiểm kê cho thấy hầm chứa vàng bạc ở kho này đã chứa đến 200.000 lượng vàng, bạc. Đến năm 1838, kho vàng bạc này được vua Minh Mạng cho di dời và chỉ các đại thần thân cận như Trương Đăng Quế và Hà Duy Phiên mới được chỉ định đến giám sát. Nơi kho báu này dời đến được cho là khu vực bên trái Hoàng thành (tức khuôn viên trường Cao Đẳng Mỹ Thuật ngày nay). Đến năm 1915, liên tiếp hai hầm bạc khác được tìm thấy trong Đại nội. Trong đó, một hầm khi đào lên kiểm biên phát hiện có đến 60 hòm gỗ với 10.000 hốt bạc và nhiều bia đá khắc chữ. Hầm bạc thứ ba thì được phát hiện khi những người thợ thi công đụng phải phiến đá lớn tại khu vực cửa Tường Loan. Như vậy theo chính sử nhà Nguyễn, đã có ba lần tìm thấy hầm vàng, bạc thời vua Minh Mạng. Cả ba lần tìm kiếm kho báu ấy đều có sự hiện diện, giám sát chặt của người Pháp. Câu chuyện kho báu Minh Mạng càng trở nên phức tạp hơn khi giặc Pháp bắt được vua Hàm Nghi với tấm bản đồ vẽ vội những nơi chôn cất vàng bạc mà theo sử sách lên tới 950 thùng vàng được chất lên hàng chục chuyến xe di tản khỏi kinh thành khi thất thủ tháng 7/1885. Con số chính xác như vậy không phải là truyền miệng mà là tư liệu của nhà truyền giáo Pháp Henri De pirey viết trên tạp chí Bulletin des amis du vieux Hue 1914. Cuộc khai quật kho báu dưới lòng Đại nội Huế 100 năm sau cua người Việt. Sự kiện diễn ra vào mùa Đông năm 1988. Theo nhà Huế học Phan Thuận An: “Lúc bấy giờ, một số cán bộ có thẩm quyền của Bộ Nội vụ (cũ) vào Bình Trị Thiên (cũ) phối hợp với Sở Nội vụ và Tỉnh ủy để cho đào. Dĩ nhiên, mọi việc đều được tiến hành trong vòng bí mật. Một góc của Tử Cấm thành bị phong tỏa và được canh gác kỹ lưỡng. Lực lượng đào gồm khoảng 10 người thuộc lực lượng trinh sát chính trị và kinh tế của Sở Nội vụ Bình Trị Thiên đóng tại Huế. Chính những người đào cũng chẳng được cho biết mình đang đào tìm gì, cứ nghĩ rằng có lẽ việc đào bới tìm tòi này liên quan đến một vụ án chính trị hoặc kinh tế nào đó. Hoặc đào hầm vũ khí chôn giấu từ trước năm 1945”. Cũng theo nhà Huế học Phan Thuận An. “Trước hết, lực lượng tìm kiếm đào thám sát ba hố gần bờ hồ và gần một gốc cây đại thụ nằm không xa chân tường, phía trong của Tử Cấm Thành. Sau khoảng ba tuần đào bới thấy được một viên đá có hình thù và diện mạo hơi lạ, cỡ lớn hơn viên gạch. Nó nằm ở bậc thềm xây để bước xuống một cái hầm nay đã bị lấp. Trên mặt viên đá có một dấu vết khả nghi. Người ta đoán rằng có lẽ đó là chữ Hán viết thảo[*] để cho biết kho vàng nằm ở đâu. Viên đá được đem về Sở Nội vụ rồi dùng xe chở đi nhờ nhà sư ở các chùa và các vị túc nho[*] ở Huế đọc chữ Hán ấy. Tất cả các vị đều không nhận ra là chữ gì. Viên đá được đem về Phòng An ninh kinh tế của Sở Nội vụ đặt vào tủ kính kèm theo hồ sơ nói về lai lịch và kích thước của nó. Sau đó mấy tuần, Sở Nội vụ thông báo và mời Công ty Quản lý Di tích lịch sử và văn hóa Huế sang nhận viên đá về để nghiên cứu.” Gần đây, viên đá bí ẩn kia không thuộc những cơ quan đó nữa. Ông Phan Thanh Hải - Giám đốc trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế cho biết: “Vì một số lý do, chúng tôi không thể cho người ngoài tiếp cận viên đá đó nữa. Nó chỉ dùng để phục vụ vào mục đích nghiên cứu của các nhà chuyên môn.” Tuy nhiên, cho tới thời điểm này chưa có cơ quan chuyên môn nào công bố những kết quả nghiên cứu di vật đó. Phần còn lại thuộc về nhận định của những người quan tâm. Một nhà Huế học có nhiều năm nghiên cứu di sản Huế nói hòn đá đó đang nằm trong két sắt của Bộ Quốc phòng. Có người khẳng định rằng nó được một cơ quan tình báo nước ngoài phái người sang đánh cắp rồi mang ra khỏi biên giới để giải mã từ lâu. Lại có vài nhân vật khả tín thuộc hậu duệ Hoàng gia đinh ninh rằng nó được một hội kín có từ thời Minh Mạng đã kịp thời thu hồi manh mối này đi cất giấu trong một ngôi chùa cổ đâu đó quanh thành Huế. Giả thiết thứ ba này nhiều điểm khớp với truyền thuyết hội kín Đạo sĩ cơ mật được thành lập bởi Cơ mật viện dưới thời Minh Mạng để đảm trách bảo vệ lăng mộ và kho báu vương triều kéo dài suốt hai thế kỷ nay. LỜI NÓI ĐẦU Nếu ai đó có một đấu vàng chôn giấu dưới nền nhà hay ngoài vườn thì người đó cũng phải đánh dấu rồi ghi nhớ bằng cách nào đó để sau này còn dễ tìm lại, hoặc nếu không may người đó đột tử mà chưa kịp di chúc kèm sơ đồ thì phải có manh mối gì đó để con cháu sau này đào lên. Tương tự, nếu ai đó có một tài khoản ở ngân hàng thì người đó cũng có một tấm thẻ và mật khẩu nhận dạng chủ sở hữu. MẠNG Cũng với giả định như trên, nếu chẳng may người đó chết bất đắc kì tử nhưng không muốn đám con cháu chia chác tài sản mà muốn hiến tặng cho một nhân vật bí ẩn nào đó thì làm sao? Cho dù với cách giữ tài sản truyền thống như chôn vàng hay hiện đại như gửi nhà băng thì chủ nhân luôn luôn nắm một thông tin cốt tử để sử dụng khối tài sản đó. Nếu đánh mất bí mật, người đó sẽ bị tước quyền sở hữu ngay tức khắc. Quản lí một tài sản cá nhân khiêm tốn mà người đó phải lao tâm khổ tứ như vậy, thử hỏi bảo mật một kho báu vương triều lên đến hàng tỉ đôla thì triều đình phong kiến xưa kia phải cân não đến mức nào? Thế nhưng rất hiếm kho báu lớn trong lịch sử được tìm thấy bởi hệ thống bảo mật siêu việt đi kèm những thế lực âm binh lẫn dương binh đang ẩn mình đâu đó chờ đợi những kẻ săn tìm kho báu. Tóm lại, kho báu Minh Mạng là hoàn toàn có thật không cần phải bàn cãi hay đưa ra thêm bằng chứng gì nữa. Vấn đề là kho báu này hiện ở đâu và bao gồm những gì? Có lực lượng bí ẩn nào canh giữ hay không? Và làm cách nào để người ngoài cuộc chúng ta tìm thấy? Đây là những câu hỏi không dễ trả lời nếu không đầu tư nghiên cứu một cách nghiêm túc và bài bản trong một thời gian không hề ngắn. Thậm chí khi chúng ta phát hiện được manh mối khả tín thì việc tiếp cận kho báu không phải là chuyện của khoa học nữa mà phải là một lực lượng đặc nhiệm đủ mạnh để đương đầu với những thế lực giấu mặt dưới dạng một hội kín siêu phàm được hoàng đế Đại Nam lập ra chỉ để thực thi một sứ mệnh lịch sử duy nhất - bảo vệ kho báu hoàng gia. Tác giả. CHƯƠNG 1 K ỳ Phương có mặt trên chuyến bay VN827 lúc 14h35 trên hành trình Hà Nội - Huế khá đột xuất sau cú điện thoại khẩn từ một người bạn. Lí do cuộc gặp người đó chưa tiết lộ ngoài lời cầu khẩn “anh hãy vào Huế gặp em gấp”. Bay hằng trăm cây số để biết vì sao mình bị điều động, nếu đó không phải là một hậu duệ dòng dõi hoàng gia từng cung cấp cho anh nhiều tư liệu quan trọng về triều Nguyễn thì anh đã khước từ ngay. Nàng là Tôn Nữ Bạch Lan - một cái tên rất quen thuộc trong giới nghiên cứu văn hóa Huế và nhiều hội văn nghệ sĩ. Là một phụ nữ nhan sắc và đa tài, sinh ra trong cái nôi hoàng tộc, nàng đang nắm nhiều bí mật về vị vua Đại Nam chưa từng được công bố. Chỉ ngần đó thôi, nàng đã ẩn chứa một sức hút mãnh liệt đối với những nhà nghiên cứu, đặc biệt là trong lĩnh vực sử học triều Nguyễn. Cởi mở trong giao tiếp nhưng đầy chuyên nghiệp trong học thuật càng làm cho cô ta mang một nét tao nhã sắc sảo. Bất cứ ai từng tiếp xúc hay cộng tác với nàng dù không thu hoạch được gì nhưng đều thừa nhận được quen nàng đã là một may mắn. Ngược lại, mỗi khi nàng đòi hỏi gì ở ai, thì hiếm khi người đó để nàng phải về không. Kỳ Phương cũng không ngoại lệ, khi nàng gọi vào nhờ vả, anh chỉ còn cách gác mọi việc để vào hầu nàng trước dù biết rằng việc được nhờ chẳng dễ dàng gì, đó là giải mật mã. Dĩ nhiên, cô ta không để anh thiệt bởi những đồng thù lao cao ngất ngưởng. Chiều nay, bất chấp miền Trung đang mưa bão, chuyến bay giá rẻ vẫn xé toang rừng mây cuồng đảo để đáp xuống phi trường duyên hải phía đông nam thành phố Huế. Kỳ Phương đứng dậy lấy chiếc cặp da trên giá rồi xếp hàng rời khỏi chỗ ngồi. Sau chặng đường rung lắc dữ dội đảo tung nội tạng trên không trung, anh vẫn chưa hoàn hồn dù chân đã chạm đất. Đầu óc chếnh choáng, anh hít thở thật sâu để lấy lại thăng bằng trước khi diện kiến nàng. Chẳng biết đêm nay cô gái Huế này muốn gì ở mình đây? Trước đây, Kỳ Phương đến Huế rất nhiều lần nhưng trong tình cảnh “đi không ai biết về chẳng ai hay”. Năm nay, anh đã có bảy lần âm thầm đến Huế và còn phải đi nữa cho đến khi đạt được mục đích. Một sự di chuyển con thoi tốn kém bằng tiền túi không thể có ở bất cứ du khách nào dù họ mê mẩn nét đẹp cố đô đến đâu đi nữa. Vì mang nặng tính bí mật mà mỗi lần đến đây anh lại phải tạo ra ngần ấy cái vỏ bọc khác nhau nhằm che những con mắt săm soi mà anh vẫn thường bắt gặp đâu đó trong hành trình. Bất chấp cái vỏ bên ngoài lịch lãm hay bụi đời thì sứ mệnh của Kỳ Phương không hề lay chuyển: Tìm kiếm kho báu thất truyền của vua Minh Mạng. Hơn chục năm qua, anh đơn độc cất bước trên con đường in đầy dấu chân của các nhà thám hiểm đã đứt gánh xanh cỏ vì phải trả giá đắt do tham vọng sai lầm của họ. Chung dòng người tiến ra tiền sảnh, Kỳ Phương bật điện thoại kiểm tra email, tin nhắn và anh được biết cô chủ xinh xắn đã đến sân bay đón từ lâu. Anh mỉm cười rồi đưa tay vuốt khan mái tóc hoa râm lâu ngày không được chăm chuốt rồi chỉnh lại chiếc cravast lụa oặt ẹo sau chuyến bay dài. Cố gạt mọi lo âu, anh đi chậm lại để tỏ ra đạo mạo, từ tốn sao cho ăn nhập với bộ comple sang trọng và đôi giày da bóng lộn dưới chân. Mắt anh nhìn thẳng và cố nắn khuôn mặt hốc hác sao cho thật tươi tắn trước khi gặp nàng “công chúa” triều Nguyễn. Dù không để tâm, nhưng anh biết mình khá điển trai và nổi bật lên trong đám du khách phờ phạc ngơ ngác. Kỳ Phương nán lại mấy giây tự hỏi mình là ai? Một vai diễn chính đang để ngỏ trong một vở kịch đang chờ sẵn? Sảnh đón nhộn nhịp sáng láng hiện lên trước mắt. Nàng kìa rồi! Vẫn vóc người cao ráo trong chiếc áo choàng mỏng không cài cúc khoe tấm thân tròn đầy trong lớp áo thun cao cổ màu tím bó sát thân. Cô chủ trẻ trông rạng rỡ như đóa hoa mọc lên trong đám đông u ám. Nàng cũng mau chóng nhận ra anh rồi bước tới đưa bàn tay mềm mại cho anh bắt. “Chuyến bay bị trễ ba tiếng” Kỳ Phương nhìn đồng hồ nói. “Nghe nói bão đêm nay đổ bộ vào Huế thì phải?” “Đúng thế, gió rất mạnh. Chúc mừng anh đã đến Huế an toàn. “Kể cả biết trước là chuyến bay không an toàn, liệu có ai dám khước từ yêu cầu của tiểu thư Tôn Nữ Bạch Lan không nhỉ?” “Em rất may mắn vì có một người bạn nhiệt thành như anh.” “Nhưng nhiệt thành tiếp hay không còn tùy thuộc cái việc em nhờ đêm nay có nguy hiểm không đã.” “Không lẽ anh coi em là hạng người dã tâm kéo bạn mình vào nguy hiểm hay sao?” “Anh biết em là một người có trách nhiệm, Kỳ Phương nói chân thành,“nhưng có nhiều thứ chúng ta không lường hết. Bạch Lan bỗng bước chậm lại nhìn xung quanh rồi quay hẳn sang Kỳ Phương ra vẻ quan trọng. “Nhưng em chưa hề tiết lộ công việc dành cho anh đêm nay cơ mà” “Anh vượt bảy trăm cây số để chờ câu trả lời đây. Chắc là không ngoài việc dịch giải mã cổ ngữ mà anh vẫn làm?” “Nếu em cần việc khác cái việc ấy, anh có muốn làm không?” Kỳ Phương ra vẻ nghi ngại rồi đáp. “Sẵn sàng, miễn đừng bắt anh chui gầm tủ như lần trước là được. Cả hai cùng cười. Chút kỉ niệm nhỏ nhoi đó đã đưa họ về cái ngày mùa đông trong thư viện Hán - Nôm Hà Nội ba năm trước. Sáng đó, Kỳ Phương đang thu dọn sách chuẩn bị ra về sau một buổi tra cứu tư liệu thì có một cô gái trẻ mặc áo len màu tím bước tới. Một giọng Huế nhỏ nhẹ thoát ra từ đôi môi tím tái vì lạnh miền bắc. “Chào anh, phiền anh một chút.” Cô gái chỉ về phía chiếc kệ sách lớn kê sát tường. “Anh giúp em lấy cuốn sách vừa rơi trong kia. Kỳ Phương đành phải chui đầu xuống gầm tủ và khó nhọc lắm mới moi được cuốn sách cũ ra ngoài. Cô gái nói vẻ ngượng ngùng. “Không hiểu sao em chưa đụng tới thì nó lại tự chui xuống gầm tủ” Kỳ Phương đọc qua bìa sách thì nhận ra câu nói kia có hàm ý bèn nói. “Chắc nó sợ em cưỡng ép làm vua nên nó mới lẩn trốn” Cuốn sách có tựa đề “Hoàng tử Vĩnh San”, kể về vị vua yêu nước Duy Tân lúc còn thơ ấu. Trong những giai thoại chốn cung đình có một chuyện dở khóc dở cười về hoàng tử này bị ép lên ngôi lúc bảy tuổi. Khi biết mình được chọn, do sợ quá nên hoàng tử đã trốn vào gầm giường để tránh bị bắt lên ngai vàng. Kỳ Phương đáp xong rồi nhìn lên mặt cô gái và anh hoàn toàn bất ngờ. Cặp mắt đen lung linh vừa nãy chợt tối sầm lại. “Anh đã làm gì khiến em không vui sao?” Kỳ Phương băn khoăn hỏi. “Không sao đâu anh, chút mặc cảm vẩn vơ thôi mà. Kỳ Phương nhận ra mình hồ đồ. Cô ta nói “nó” để chỉ cuốn sách nhưng anh nói nó để ám chỉ hoàng tử. “Xin lỗi, dù sao anh cũng hơi khiếm nhã” “Có gì đâu anh, cô gái nhanh chóng tươi tắn trở lại. “Người đời thường thành kiến vua tôi nhà Nguyễn mà. Có điều em... Kỳ Phương hấp tấp. “Không lẽ em là... hậu duệ của vua Duy Tân?” “À không. Không phải vua Duy Tân mà là vị vua khác. Mắt Kỳ Phương sáng lên. “Ai? Anh có thể biết được không?” Cô gái trẻ lấy lại cuốn sách rồi lảng sang chuyện khác. “Rất vui khi được gặp anh, vả lại một người am hiểu về triều Nguyễn càng làm em quý mến. “Anh đang muốn tìm hiểu nghiêm túc về lịch sử triều Nguyễn. Nếu được người trong gia đình hoàng gia chỉ bảo thêm thì còn gì bằng” “Rất vui lòng. Nếu anh có dịp vào Huế, em có nhiều thứ cho anh xem. Quả thật, tuần sau họ lại ngồi dưới mái hiên một ngôi nhà rường cổ kính bên bờ sông Hương thơ mộng để cùng thưởng thức trà cung đình và ôn lại những câu chuyện xưa cũ về cố đô. Kỳ Phương biết cô ta từng xuất bản nhiều cuốn sách nghiên cứu về vua Gia Long, Minh Mạng. Đúng là cơ hội hiếm có, anh cũng đang gian nan trên con đường thầm lặng tìm kiếm những bí mật chốn cung đình nhưng với mục đích thực dụng hơn là tìm kho báu Minh Mạng đang thất lạc. Nay quen được cô nàng này mà chịu làm tay trong thì còn gì bằng? Từ đó, mỗi lần đến Huế, anh luôn ghé thăm cô. Lúc thì mượn sách, lúc thì đàm luận nhưng chưa lần nào cô từ chối gặp anh và sau này anh cũng biết rằng cô không từ chối bất cứ ai nếu họ đến vì sử học. Vì thế mà sinh ra nhiều kẻ ham đọc sách chỉ để được gặp tác giả xinh đẹp. Có thể nói không ngoa rằng cô cũng là một pho sách sống mà bất cứ con mọt nào cũng thích mon men đục khoét. Vẫn độc thân dù ngoài ba mươi và tuổi tác chẳng có nghĩa lí gì bởi niềm đam mê cháy bỏng luôn làm cho cô tràn trề sức sống mãnh liệt. Bạch Lan dẫn anh lên chiếc xe thể thao hai chỗ láng cóng đậu trong gara sân bay. Chiếc Peugeot màu trắng này là món quà sinh nhật đắt giá của người cha nhạc sĩ tặng cô con gái rượu trước ngày ông xuất gia đi biền biệt. Nhạc trong xe được bật lên. Chẳng biết vô tình hay cố ý lại đúng bài hát của cha cô sáng tác cho một đôi bạn trẻ trước giờ li biệt. Buồn da diết. Kỳ Phương ngả người lên thành ghế lim dim mắt thả hồn cho giai điệu âu sầu mang đi. “Thế nào?” Giọng Bạch Lan vang lên. “Luận án thạc sĩ của anh đến đâu rồi? Tư liệu em cho mượn đã đủ chưa?” Câu hỏi trực diện làm Kỳ Phương giật mình trở về hiện tại. “Cũng rối lắm, tài liệu thì không thiếu mà thiếu giáo viên hướng dẫn. “Bớt chút thời gian vào đây, em hướng dẫn cho. “Em rất bận nên anh ngại phiền em. “Anh em giúp nhau có gì mà ngại. Lúc cần em vẫn gọi anh vào làm giúp đấy thôi.” “Nói thật, nếu giúp em thì anh chẳng đắn đo gì đâu, nhưng em cứ đưa ra mức thù lao cao như thế làm anh cực kì ngại. Trên đường đến đây anh cứ nghĩ việc này chắc nguy hiểm lắm người ta mới trả mình cao thế.” Bạch Lan tủm tỉm cười không nói gì càng làm Kỳ Phương thêm tò mò. Cô đánh lảng. “Em làm luận án rồi nên hiểu. Thực tế là em đã cân nhắc rất kĩ khi mời anh vào đây. Việc này sẽ mở thông trước mắt anh những cánh cổng đang đóng kín hàng trăm năm nay. Hi vọng luận án của anh sẽ có nhiều điểm đột phá làm kinh ngạc giới sử học. Đây không phải là câu Kỳ Phương muốn nghe lúc này. Thực ra thì anh chẳng hề làm luận án nào cả, cũng chẳng có tham vọng cao xa nào ngoài ý định tìm kho báu thất truyền của nhà Nguyễn được cho là lớn nhất Việt Nam. Anh đã nói dối cô đang làm luận án thạc sĩ để dễ xin tư liệu mật về vua Minh Mạng bởi số tài liệu này rất quan trọng cho anh mà cô thì rất sẵn có. Kỳ Phương lạy trời cho cô không thấy âm mưu đen tối của mình bởi không một ai muốn giao thiệp với một kẻ đang nhăm nhe cướp kho báu của tổ tiên mình cả. Đã mấy lần anh định thổ lộ sự thật nhưng vẫn chưa có dịp thích hợp. Kỳ Phương lái sang vấn đề chính. “Cứ úp mở mãi. Nào, nói đi, tóm lại em triệu anh vào đây làm gì?” Bạch Lan trầm ngâm như thể gọi anh vào là một việc rất khiên cưỡng. “Thực ra em cảm thấy phiền anh lắm, nhưng em không còn biết tin ai nữa cả.” “Anh cũng không tin sở học què quặt của mình lại giúp nổi bà tiến sĩ.” “Anh mỉa mai em à? Tiến sĩ thì tài cán hơn ai đâu. “Nhưng dịch thư tịch cổ thì ở nước ta có cả tá người giỏi hơn anh. Ngay cả đất thần kinh này cứ ra ngõ là gặp nhân sĩ thì thiếu gì người thuộc làu kinh sử Hán Nôm. “Nhưng đây là dịch văn tự trên kiến trúc cổ. Việc này đúng sở trường của anh hơn. “Công trình nổi trên mặt đất ở Huế, bọn anh đã lọc dịch lưu trữ hết cả rồi, trừ phi em vừa khai quật được cung điện ngầm dưới đất?” “Bộ thư tịch cổ này được cất giấu trong gạch đá kiên cố nên chắc chắn chưa ai nhìn thấy.” Kỳ Phương quay sang nhìn cô đầy e ngại. “Vậy sao em biết, hay là mắt em nhìn thấu gạch đá?” “Sự thật là hơi khó hiểu với người ngoài, còn bọn em biết trong ngôi chùa này đang chôn dấu một bộ thư tịch quý giá của một vị hoàng đế nhà Nguyễn. Bọn em cần khai quật trong đêm nay nên muốn mời anh tham gia.” Lạ lùng. Kỳ Phương chưa từng nghe nói chuyện giấu thư tịch hoàng đế trong gạch đá bao giờ. Và anh cũng không biết “bọn em” mà cô nhắc đến là bọn nào, thành phần nhân sự ra sao. Anh lơ mơ biết cô ta là một nhân vật khá nổi tiếng trong nhiều lĩnh vực và là hội viên của một lô xắc xông các hội đoàn trong nước đến quốc tế mà chỉ liệt kê ra cũng mất trang giấy. Với danh tiếng của mình nên cô được giữ nhiều trọng trách trong những hội đó nhưng việc của hội này không phải là thứ mang ra để nói với hội kia. Hơn nữa, nàng gọi một kẻ vô tổ chức như anh vào để tiết lộ điều cơ mật của hội là điều không nên chút nào. “Giờ em muốn nhờ anh moi nó ra và giải nghĩa chứ gì?” Anh hỏi. “Vâng, đại loại là như vậy, cô mỉm cười duyên dáng. “Nhưng nếu chỉ có thế thì cũng chưa đến nỗi em phải làm tội làm tình anh đêm hôm mưa gió thế này.” “Khổ quá! Vậy em còn muốn anh làm gì nữa?” Kỳ Phương hoang mang nhìn cô gái đã ngoài ba mươi. “Trước hết, đây là bộ thư tịch tuyệt mật do đích thân vua viết ra để trao lại cho hậu thế. Vì vậy nó không phải là dạng văn bản thông thường như văn khắc, bia kí mà anh vẫn cặm cụi bấy lâu nay. Nó phải thể hiện dưới dạng mã hóa rồi chôn sâu cất kín để tránh kẻ khác săn tìm. Việc dịch ra nó sẽ rất cần người am hiểu về kiến trúc, cổ ngữ và mật mã. Kỳ Phương ngửi thấy mùi kho báu bốc lên ngùn ngụt như thể đưa tay sờ được nhưng mặt anh vẫn lạnh tanh và thậm chí ra vẻ đùn đẩy. “Về kiến trúc thì anh có thể cáng đáng được nhưng cổ ngữ lại đi kèm với mật mã thì đó lại là một chuyên ngành khác khá hóc búa. Cổ ngữ kèm mật mã là âm thanh không thể cất lên được của tiền nhân trước khi về cõi vĩnh hằng, là tiếng kêu bí ẩn của quá khứ, là lời trăng trối để lại trên cổ vật của những linh hồn chưa siêu thoát. “Em biết việc này hóc búa nhưng trong tầm khả năng của anh.” “Vì sao em chưa nhìn thấy bộ thư tịch đó mà đã dám chắc thư tịch của vua?” “Em là một hậu duệ trực hệ chín đời của một vị vua lớn triều Nguyễn. Theo truyền thống, ngoài tài sản vật chất thì còn nhiều tài sản tinh thần vô giá mà bọn em phải có trách nhiệm gìn giữ. Bộ thư tịch này có tính sống còn đến dòng máu hoàng gia nên nó phải được cất giữ một cách tối mật. Mặc dù không ngừng bị săn lùng ráo riết hai trăm năm nay nhưng nó vẫn an toàn vượt qua bao biến cố. Hôm nay đã đến lúc thích hợp nhất để lấy ra xem tổ tiên mách bảo điều gì. “Cất trong một ngôi chùa cổ kiên cố, chắc còn nguyên vẹn chứ?” “Đây thuộc thư tịch triều chính cơ mật nên được lưu giữ theo tiêu chuẩn bảo mật tối ưu nhất thời đó. Nó được bao bọc nhiều tầng lớp, nhiều rào cản vô hình và hữu hình mà kẻ ngoại đạo không thể chạm đến.” Kỳ Phương từng nghĩ rằng những tác phẩm hội họa và hàng ngàn bài thơ được bài bố trên các cung điện, chùa chiền lẫn lăng tẩm Huế chứa đựng những mật mã dẫn đến kho báu. Hôm nay anh lại nghe thêm một cách nữa càng li kì hơn. “Thú vị đấy! Đây là lần đầu tiên anh nghe nói thư tịch được chôn cất trong gạch đá. Bạch Lan nói. “Đêm nay anh sẽ tận mắt thấy một ngôi chùa như vậy.” “Bí hiểm quá, em có thể nói luôn chùa nào không?” “Anh cứ bình tĩnh. Em sẽ đưa anh đến tận nơi” Kỳ Phương tôn trọng sự từ chối của cô cũng như của bất cứ khách hàng nào nếu họ không muốn nói. Làm cái nghề dịch thư tịch cổ dính dáng đến kho báu là một nghề nguy hiểm. Kỳ Phương luôn chuẩn bị tình huống bị họ gạt ra ngoài cuộc thậm chí bị thủ tiêu bất cứ lúc nào nếu họ cảm thấy anh là mối nguy hiểm. Từ lúc tìm ra kho báu Champa trong tay hội kín Naga anh vẫn chưa hết ám ảnh bị thủ tiêu và luôn chuẩn bị sẵn sàng cho tình huống xấu nhất. Kỳ Phương ngả người lên ghế tận hưởng chút thời gian bình an ngắn ngủi trước sóng gió. Trước ánh đèn pha, quang cảnh phố phường mờ mịt trong cơn mưa xóa nhòa ánh hoàng hôn nhàu úa. Ngay cả lúc thiên nhiên nổi giận, cảnh sắc cố đô vẫn hiện lên nét nên thơ trữ tình để làm vui lòng cố nhân và giữ chân lữ khách tha phương. “Anh cố chợp mắt chút đi. Đêm nay sẽ là đêm trắng đấy. Kỳ Phương ngoan ngoãn nghe theo. Tuy nhiên vừa nhắm mắt thì câu chuyện dang dở của Bạch Lan kéo theo hàng chục câu hỏi lại ùa về trong đầu. Thư tịch đó hàm chứa gì mà phải chôn sâu cất kín lâu đời trong chùa đến vậy, nếu như không phải là manh mối kho báu? Trước đến nay giới học giả đã phát hiện hàng ngàn bút tích của những vị vua liên quan đến kho báu triều Nguyễn. Không một kí tự nào được họ bỏ qua mà không mổ xẻ nghiền ngẫm. Đã có thời người ta giải mã Truyện Kiều với một kì vọng bởi họ cho rằng Nguyễn Du từng nắm chức Đại học sĩ Điện Cần Chánh nên biết rất rõ kho báu ở đâu. Tương truyền, kho báu Minh Mạng được chôn trong lăng mộ ông ta lẫn Hoàng thành và được bảo vệ nghiêm ngặt bởi một hội kín do Cơ mật viện triều đình Huế lập ra, nhưng để tìm ra thành viên hội kín này lại cần đến những hậu duệ hoàng tộc. Kỳ Phương nhìn trộm Bạch Lan. Mình tìm đúng người rồi sao? Cất giấu thư tịch một nơi bí mật sau hai trăm năm vật đổi sao dời để đến tay hậu duệ chính tông là chuyện không thể làm được nếu như không có bàn tay siêu nhiên xuyên suốt thời gian nắm giữ. Kỳ Phương dò hỏi. “Cái thư tịch bí mật kia đã qua chín đời, vậy mà các hoàng đế vẫn giao đúng người như em thì đáng khâm phục.” “Anh nói đúng. Lưu truyền di vật bí mật xuyên suốt mấy trăm năm qua bao nhiêu biến cố cuộc đời là điều không thể. Để làm được điều này là nhờ một tổ chức được vua thành lập và duy trì xuyên suốt thế hệ bởi các luật lệ hà khắc với một sứ mệnh duy nhất là bảo vệ thư tịch. “Tổ chức nào!” Kỳ Phương bật lưng khỏi thành ghế. “Hi vọng không phải hội Tam Hoàng đấy chứ? Nếu đúng, xin hãy dừng xe cho anh xuống ngay!” Bạch Lan nhận ra Kỳ Phương không hề đùa tí nào. Vết sẹo dài bên mang tai mà anh đã từng kể cho cô nghe là quà của hội Naga tặng cho kẻ cướp kho báu. Cô vội vã trấn an. “Anh yên tâm, trước đây là do anh xâm nhập trái phép đến hang ổ nên họ phải chống lại. Còn lần này chúng em là chủ nhân đích danh mời anh vào giúp. Vả lại, các thành viên đêm nay là nữ và các nhà sư tham gia. Không ai thèm và đủ sức ăn thịt anh đâu. Đây giấy mời của anh đây này” Bạch Lan trao cho anh một phong bì. Kỳ Phương mở ra thấy một tờ giấy đánh máy nhưng đơn vị tổ chức và thời gian khai mạc còn để trống. Cũng không có gì lạ bởi đây là một cuộc họp kín thì cách tốt nhất là không công khai địa điểm lẫn thời gian cho đến phút chót. Dòng khách mời là tên của Kỳ Phương nhưng chữ này vừa điền tay khá ngập ngừng đầy cân nhắc. Dòng dưới cùng được in đậm đầy trịch thượng “Không mang vé, miễn vào cổng”. Thấy Kỳ Phương chau mày, cô tiếp. “Để em tóm tắt chương trình cho anh hay nhé. Đêm nay sẽ có nhiều đạo sĩ vốn quen ở ẩn sẽ cùng chúng ta thực hiện một nghi lễ cổ xưa ngay tại chùa để xin phép vong linh các vị vua có công làm nên thư tịch. Sau đó thư tịch sẽ được đưa ra khỏi nơi chôn giấu trước sự chứng kiến của mọi thành viên và khách mời. Tiếp theo sẽ đến lượt chúng ta dịch và giải mã nó. Toàn bộ quy trình phải diễn ra đúng thủ tục và kín đáo dưới sự bảo vệ nghiêm ngặt của hàng chục vệ sĩ. Theo em..” Cô nói giọng đầy vẻ ban ơn. “Đây là cơ hội tốt để anh có thêm tư liệu làm thạc sĩ. Em biết có nhiều người trong hội cũng khao khát chứng kiến lễ này nhưng họ không đủ trình độ hoặc tố chất đạo đức nghề nghiệp. Khi em đề xuất mời anh, các vị kia đã tra cứu lí lịch anh rất lâu. Em phải thuyết phục mãi và bảo lãnh họ mới chấp nhận. Cô ngừng lại cho ra vẻ hệ trọng. “Nói thật, đây là một đặc ân em dành cho anh đấy. Anh nên lấy làm tự hào mới phải. Khiếp. Cứ như xin vào hội nào đó danh giá lắm. “Một đặc ân dành cho em thì có?” “Cho anh!” Cô nhắc lại. “Hàng trăm chuyên gia Hán Nôm muốn được tham dự mà bị đánh trượt cơ đấy. Phải thú nhận rằng xung quanh Bạch Lan không thiếu người tài nhưng Kỳ Phương vẫn nhận ra anh vẫn là cái tên được cô chọn đầu tiên. Nhưng chuyện nào ra chuyện nấy, công việc thì phải xét khả năng và sự phù hợp anh mới nhận chứ không phải nể nang hay tiền bạc gì khác. “Thôi được. Đây là việc em nhờ nên anh không câu nệ gì. Nhưng anh có một điều kiện, nếu em trả lời thật anh sẽ chính thức nhận lời. Đồng ý không?” Bạch Lan nói đầy vẻ khiên cưỡng. “ Vậy thì anh nói đi. “Lúc nãy em nói có tổ chức nào đó đang giữ bí mật thư tịch. Sau đó em lại nói đến có đạo sĩ và các cô gái trẻ cũng tham gia. Vây rốt cuộc cái hội đó là hội gì?” Bạch Lan ngập ngừng giây lát. Một sự lúng túng khi bị hỏi bất ngờ làm cho người ta nghĩ cô đang chuẩn bị nói dối. “Chắc anh biết Hội Tao đàn thị xã?” “Hội này do vua Lê Thánh Tông sáng lập ra đầu thế kỷ XV cơ mà?” “Đúng. Sau này vua Thiệu Trị muốn khôi phục hội này nên đã quy tụ các tài năng thi ca trong triều đình lại để sáng tác. Hội này không ngừng phát triển và đã quy tụ những tên tuổi lớn như Phan Thanh Giản, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ.” “Không lẽ hội thơ này vẫn còn được duy trì đến bây giờ sao?” “Vẫn tồn tại nhưng với cái tên Hội Thơ cổ Huế. Thay vì thành viên là các bá quan văn võ như trước đây thì nay là những nhân sĩ có tiếng.” “Vậy hội này đang nắm giữ thư tịch tuyệt mật của hoàng đế sao?” “Vâng” “Anh không tin. Những thi sĩ tay mơ không hợp với việc đó. Anh cứ nghĩ phải là một hội kín siêu việt nào đó cơ.” “Anh xem nhẹ họ đấy. Trên ba trăm thành viên của hội đều là những người thông tuệ Hán - Nôm. Ban lãnh đạo hội đều là những trí thức nổi danh người Huế đảm trách. Kỳ Phương vẫn nghe không xuôi. Cơ cấu và chức năng của những hội đoàn mang nặng tính phong trào này quá lỏng lẻo và không phù hợp cho việc cáng đáng một sứ mệnh bảo vệ văn kiện bí mật. Không có một nhà nước nào lại lẩn thẩn mang bí mật quốc gia trao cho hội thơ văn hay hội chơi chim cất giữ cả. Vị trí xứng đáng của bộ thư tịch dạng đó phải là két sắt của cục tình báo. “Anh không tin. Kỳ Phương nhìn thẳng vào đôi mắt đen lánh của Bạch Lan. “Em có gì đó chưa nói hết cho anh?” Bạch Lan mắt vẫn chăm chú lái xe và muốn lấp liếm vấn đề. “Hội nào không quan trọng, vấn đề nằm ở con người. Canh chừng một ngôi chùa có nhiều văn tịch quý không phải là quá sức với họ” “Anh tin Hội Thơ cổ Huế là cái vỏ bọc của một hội kín?” Kỳ Phương kiên quyết. “Em đừng vòng vo nữa. Hội gì?” Xe bỗng chậm lại áp vào rìa đường rồi dừng hẳn, Bạch Lan quay sang nhìn Kỳ Phương với cắp mắt sắc lạnh lẽo. “Thôi được, anh có thể từ chối lời mời này sau khi em nói ra. “Anh hứa giúp khi em nói ra. Hội gì?” “Hội Đạo sĩ cơ mật!” Kỳ Phương nhìn phắt lên mặt cô, tai anh không thể tin nổi bốn từ vừa nghe được. CHƯƠNG 2 C ách trung tâm Huế hơn 30km về phía đông nam, trong một dinh thự xa hoa thuộc khu nghỉ dưỡng Vedana Lagoon tuyệt đẹp nhìn ra cửa biển Chân Mây có một người đàn ông trạc bốn mươi lăm tuổi. Hôm nay y đã giam mình hàng giờ liền để nghiền ngẫm lần cuối một cuốn nhật ký cũ nát mang từ Pháp sang. Những dòng chữ viết tay trên giấy dó đã bong tróc do chính ông nội của y viết ra trong suốt nửa đời người làm truyền giáo trên đất An Nam. Những điều tai nghe mắt thấy và chiêm nghiệm được từ đầu thế kỷ trước được người ông minh họa rất sống động như đang diễn ra trước mắt y. Theo chân những con tàu buôn xuyên đại dương, ông nội của y từng thâm nhập vào những dinh thự nguy nga và cuộc sống giàu sang của vua quan triều Nguyễn dưới thời Gia Long, Minh Mạng. Ông y cũng chính là người chứng kiến cuộc đào tẩu mang theo 950 thùng vàng của vua Hàm Nghi rời kinh thành Huế tiến về Quảng Bình trong đêm 7/7/1885. Mười hai năm trước, sau khi tốt nghiệp Đại học ngoại thương Toulouse, y nhận ngay một tin sét đánh: mẹ y, người phụ nữ giàu thứ năm nước Pháp qua đời vì một tai nạn máy bay. Nỗi buồn đó kéo dài không lâu, nửa năm sau tòa phán quyết y được thừa kế hàng tỉ Euro. Giã bỏ cơ sở kinh doanh bề thế mẹ y để lại để Đông tiến, y quyết tìm lại con đường châu báu của người ông kính yêu năm xưa. Mang những tấm thẻ nhà băng đầy ắp con số đến Việt Nam, y mua ngay cổ phần của một tập đoàn bất động sản hàng đầu và nghiễm nhiên trở thành Chủ tịch hội đồng quản trị. Sức bật của đồng đôla đã biến cậu sinh viên ngơ ngác trở thành người đàn ông quyền lực chỉ trong chớp mắt. Y sắm dinh thự, du thuyền, siêu xe và thâu tóm bất động sản. Bệ phóng đã hình thành, nhiều lúc nhìn vào con số tài chính khổng lồ của mình đang nhảy nhót trên sàn chứng khoán, y lại tự hỏi mình rằng liệu trên thế giới này đã có ai điên rồ bỏ ra hàng triệu đôla để đi săn lùng kho báu chưa nhỉ? Có! Rất nhiều là đằng khác nhưng may ra có Huân tước người Anh Carnarvon mới sánh được với y mà thôi. Vị triệu phú chịu chơi này đã dốc hết tài sản của mình cho việc khai quật các lăng mộ Pharaon Ai Cập. Tiếc rằng thần tượng của y đã chết thảm bởi lời nguyền trong lăng mộ. Với địa vị cao và vốn tiếng Việt dắt lưng, y tự tin hòa nhập vào xã hội Việt Nam cuồn cuộn muôn màu. Chủ tịch - y thích được người đời gọi như vậy. Sở hữu vóc dáng cao lớn và nước da au đỏ tây Địa trung hải cộng với khối tài sản kếch sù nhưng y không mấy thành công trên tình trường. Với sở thích tu mình trong thư phòng và lầm lũi trong những chuyến đi như một thợ săn đơn độc, y dần dần biến mình thành một kẻ lẻ loi lạc lõng trên đất khách quê người. Sách Hán - Nôm, tuyển tập thi ca cổ của các đại thi hào An Nam như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức và hàng tập Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện chính là những người bạn câm lặng thủy chung nhất của y trên xứ sở này. Hôm nay là một đêm cân não. Tất cả sách vở, quan hệ, tiền tài đang hội tụ về một mục tiêu cuối cùng. Kho báu. Rạng sáng nay, y bắt cóc được một hậu duệ của hội kín Đạo sĩ cơ mật - một tổ chức siêu bí mật trong Cơ mật viện của Minh Mạng. Ông nội y từng chép. “Dù muốn hay không, khi đặt chân đến Đại Nam người Pháp đã phải đối mặt với đối thủ ngang sức ngang tài. Chúng là bộ não, là cánh tay mặt của hoàng đế Đại Nam nên không dễ gì bị bẻ gãy. Khi sức mạnh của triều đình Tự Đức bị lung lay, sứ mệnh duy nhất của hội Đạo sĩ cơ mật là bảo vệ tính mạng thành viên hoàng tộc và tẩu tán hàng chục tấn vàng ngay trước mắt người Pháp. Một tổ chức đa nhiệm, siêu phàm không rõ mặt mũi hình hài được nhào nặn bởi các bàn tay lông lá trong Cơ mật viện”. Nhà thám hiểm kiêm truyền giáo này phải cay đắng tố cáo kẻ hại mình chính là cái hội mà ông ta nhắc đến tám mươi lần trong hơn bảy trăm trang nhật kí của mình. “Ta bị trúng tên độc. Hoại tử đang diễn ra từng giờ, ta không thể kéo dài cuộc sống nếu không trở về Pháp ngay. Mũi tên tẩm độc quái ác đó bắn vào ta từ bàn tay Hội Đạo sĩ cơ mật khi ta tiến vào khu rừng phía sau lăng Minh Mạng” Trong chục năm qua, lần theo bút tích của ông nội, Chủ tịch đã xới tung hàng ngàn thư tịch đang lưu giữ khắp nơi để truy vết Hội Đạo sĩ cơ mật mong tìm ra kho báu khổng lồ nhưng chưa phát hiện được gì. “Hội Đạo sĩ cơ mật đang trấn giữ cánh cửa đó, hãy hỏi chính họ”. Dòng này được ông y gạch chân như một kim chỉ nam. Vậy hội Đạo sĩ cơ mật là ai đây? Tìm thành viên của một hội kín vốn không hề dễ. Một vài quan lớn triều đình Huế xưa kia bị nghi là thành viên hội kín được y lên danh sách để lần theo phả hệ rồi bắt được một hậu duệ của họ. Theo lời khai, y biết các manh mối về kho báu vẫn được cất giấu đâu đó trong các ngôi chùa cổ quanh Kinh thành dưới sự bảo vệ nghiêm ngặt của hội kín này. Trước mặt y là một thiết bị kim loại cầm tay. Đây là một trong hai kỉ vật quan trọng nhất mà ông y mang về từ đất An Nam rồi trao lại cho y trước khi qua đời. Y nhấc lên ngắm nghía dòng chữ khắc chìm mặt trong đã hoen rỉ “Minh Mạng thập bát niên”. Tức là cái vật này được đúc trước khi vị vua này băng hà hai năm. Thời gian khá trùng khớp với tư liệu về kho báu được cấp tốc xây dựng trước khi vị vua này tạ thế. Y biết vật này là một chiếc chìa khóa kiểu cổ chỉ dành cho một cánh cửa siêu bí mật. Cùng với mật khẩu, chìa khóa là hai thứ giúp y mở toang cánh cửa kho báu. Máy tính bỗng vang lên tiếng bíp. Nhìn cái tên đang nháy, y nhấn nút “OK” và màn hình video bất ngờ mở rộng. Thoáng chút rùng mình, Chủ tịch giương cặp mắt xanh lục nhìn một người thanh niên trần truồng bê bết máu đang nằm trên nền nhà. Thật khó tin là nó được truyền đi từ chính tầng hầm của dinh thự này - ngay dưới chân y. Giọng nói trầm đục từ video vang lên. “Thưa Chủ tịch, hắn rất ngoan cố không chịu khai mật khẩu.” Chủ tịch nhìn người thanh niên in chằng chịt các vết roi ứa máu trên người mà chạnh lòng cho dù tổ tiên anh ta đã bắn tên độc vào ông nội của mình. “Chủ tịch nghe rõ không?” Tiếng loa lại réo lên. “Hắn ngoan cố không khai, chúng ta nên làm gì đây?” “Đánh tiếp!” Y lạnh lùng đáp. Chiếc loa lại vang lên âm thanh vun vút của roi điện lẫn tiếng gào rống dội thẳng vào tai y. Không ổn, y không thể moi tin bằng cách tra tấn vốn tàn bạo và lỗi thời này bởi Hội Đạo sĩ cơ mật chưa bao giờ bị khuất phục trước bạo lực. Điện thoại reo vang, y bật chiếc iphone lên nghe. “Thưa chủ tịch” giọng một thuộc hạ vang lên,“thượng khách đã tới.” Y tiến về phía cửa sổ ngó xuống ngọn đồi thoai thoải có những ngôi biệt thự sang trọng vừa mọc lên. Không ai để ý một chiếc Rolls Royce màu đen lướt êm ái tiến về phía dinh thự của y rồi mất hút dưới hầm gara. Từ gã bảo vệ resort cho đến các cư dân thượng lưu ở đây đã không lạ gì cảnh những chiếc xe sang xếp hàng vào ngôi biệt thự số 25 mỗi khi ông Chủ tịch hội đồng quản trị người Pháp về nghỉ cuối tuần. Hôm nay, vị thượng khách của Chủ tịch hoàn toàn khác xa đám doanh nhân tầm thường đó. Có vài xung động ghê tai lan truyền từ dưới tầng hầm lên đến trần nhà. Y trở lại máy tính quan sát thượng khách qua màn hình video. Các cửa xe há ra, bốn người bịt mặt dìu một ông lão gầy gò bị trói chặt cánh gà bước xuống. “Thưa Chủ tịch Tiếng loa vang lên. “Xử lão ra sao đây ạ?” CHƯƠNG 3 Đ ạo sĩ cơ mật. Hội này không quá xa lạ với Kỳ Phương nhưng anh cũng không phân định rạch ròi giữa sự thật và truyền thuyết bao trùm lên nó. Bốn từ này chỉ xuất hiện một lần trên kệ sách tiếng Hán trong cuốn Đại Nam thực lục tiền biên rồi biến mất. Rõ ràng có một định hướng ngầm từ thế lực nào đó muốn xóa sổ cái tên này ra khỏi bộ nhớ của nhân loại. Nhưng một khi đã là sự thật thì không có sức mạnh nào thủ tiêu được. Điều đáng nói là Kỳ Phương biết đến sự tồn tại của hội Đạo sĩ cơ mật không phải từ cái nôi sinh ra nó mà là từ... bên kia đại dương. Hội kín này như một xác ướp chôn sâu lấp kín bỗng dưng được đào lên dựng dậy từ các trang hồi kí, những tập tài liệu mật và cả những cuốn sách do các nhà truyền giáo và quan lại người Pháp lần lượt được xuất bản ở hải ngoại. Luồng gió lạ “Đạo sĩ cơ mật” như một đám mây đen tích tụ thành gió rồi tìm đúng đường trở về đất mẹ. Nó vấn vít, quẩn quanh, vần vũ rồi trở thành những trận cuồng phong làm chao đảo những con người đang mang nhiều duyên nợ với nó. “Anh biết hội kín này sao?” Bạch Lan phá tan sự im lặng. Kỳ Phương nhìn cô gái trẻ bên cạnh mà chưa hết bàng hoàng. Anh đáp dè chừng. “Anh nghe đồn hội này từ lâu nhưng chưa thấy tài liệu nào viết. Thật không ngờ em lại có liên hệ với họ. Thú thực, giờ này anh vẫn chưa hết ngạc nhiên. “Em nghĩ anh đang sợ thì đúng hơn?” Thấy Kỳ Phương trầm ngâm, cô nói tiếp. “Trước khi mời anh, em đã dự phòng tình huống anh sẽ từ chối hoặc bỏ cuộc giữa chừng. Nên em đã mời thêm vài dịch giả nữa và họ cũng sẽ có mặt đêm nay” “Hóa ra anh không phải là dịch giả duy nhất được mời?” “Vâng ạ.” Kỳ Phương bỗng hụt hẫng vì giá trị của mình bị hạ xuống phân nửa. Cách nói của cô ta có thể được hiểu là anh sẽ bị sa thải bất cứ lúc nào. Đã quá quen với môi trường cạnh tranh cao, điều đó không làm anh tự ái mà lại càng thêm hăng máu dự phần. Kỳ Phương nói. “Anh đã nói rồi. Dù sao anh vẫn giữ lời hứa đến cùng” Bạch Lan tươi tắn trở lại nhìn anh đầy vẻ hài lòng. Chiếc Peuguot rền máy chạy nhanh hơn trên con đường ven sông Hương rợp bóng cây đang ngả nghiêng trước gió bão. Kỳ Phương biết việc mời nhiều dịch giả không hẳn là dự phòng thay thế nhau mà là mục đích khác. Trong nghề giải mã có một quy tắc bảo mật rất nghiêm khắc. Để phòng tránh trường hợp một nhân viên giải mã nắm bắt được toàn bộ nội dung, người tổ chức sẽ phân bản mã ra nhiều mảnh rồi trao cho các nhân viên xử lí độc lập, riêng rẽ. Người này không biết việc người kia làm. Sau khi các mảnh bản mã được giải hoàn tất, người chủ trì ghép nối lại để hiển thị toàn bộ nội dung. Các chuyên gia giải mã làm việc chung không được phép quen biết nhau và được cách li cho đến khi không còn nguy cơ rò rỉ bí mật. Điều này rất sơ đẳng trong công việc nên Kỳ Phương không có gì phải băn khoăn. Anh càng lúc càng nhận ra công việc đêm nay không phải dạng vừa và cô nàng đã chuẩn bị nó từ rất lâu. Bạch Lan rút từ trong ngăn kéo ra một chiếc túi giấy đưa cho Kỳ Phương và nói. “Anh hãy cầm nó, khi nào đến cổng chùa thì nhớ đeo vào. Kỳ Phương rút từ túi giấy ra và kinh ngạc khi thấy một chiếc mặt nạ bằng bìa cứng được tô vẽ rất kì công. “Mặt nạ? Anh phải đeo nó sao?” “Vâng. Hi vọng anh thích nó.” Nhận ra đây là mặt nạ trang trí trong các vở tuồng truyền thống Đàng Trong có từ chúa Sãi, Kỳ Phương ngắm nghía khuôn mặt đàn ông đen đỏ đầy râu ria hung dữ như muốn ăn tươi nuốt sống kẻ thù. Trông qua hao hao vai diễn tướng giặc Tôn Sĩ Nghị mà du khách được xem trong Đại nội. “Hóa ra đêm nay em bắt anh làm giặc à?” “Tượng trưng thôi mà. Mấy dịch giả kia cũng có mặt nạ na ná nhau hết.” “Anh hiểu rồi. Các cô âm mưu tổ chức một nghi lễ của hội kín Đạo sĩ cơ mật dưới vỏ bọc của một vở tuồng cổ. Đúng không?” Bạch Lan im lặng một lúc rồi đáp. “Em cũng nghĩ anh đoán ra từ khi thấy mặt nạ.” Vậy là đã rõ. Kỳ Phương đã đánh hơi đây là vấn đề nghiêm trọng chứ chả chơi. Dùng mặt nạ để bảo vệ nhân vật đến mức này đồng nghĩa với tính mạng sẽ bị đe dọa nếu không may bị lộ mặt. Cách bảo mật kiểu này thường thấy ở những hội kín tội phạm cổ xưa khá nguy hiểm. Nhưng vấn đề Kỳ Phương lo nằm ở chỗ khác. Đó là bộ thư tịch bí mật mà anh phải giải mã này ảnh hưởng tới ai đến mức nào mà người ta phải chọn cách bảo mật thái quá như vậy? Trong thế giới hội kín, chiếc mặt nạ còn để che mặt các hội viên tránh nhận ra mặt nhau hoặc kẻ thù nhận diện trong trường hợp phải xuất hiện cùng một chỗ. Giữ mặt nạ là giữ mạng sống. Rơi mặt nạ là rơi đầu. Kỳ Phương mân mê tấm “bùa giữ mạng” rồi nói. “Anh hơi tiếc là việc quan trọng như vậy mà em không báo trước vài ngày để anh chuẩn bị. “Em lại nghĩ nếu nói trước anh sẽ từ chối thì sao? Thực ra đây là một nghi thức bắt buộc khi vua trao bộ thư tịch cho Hội Đạo sĩ cơ mật và các nhà sư tại ngôi chùa đó. Nay chúng ta lấy lại cũng phải tuân thủ nghi thức y như vậy để thể hiện sự tôn kính tiền nhân và giữ không khí thiêng liêng cho giờ phút chuyển giao lịch sử. “Hóa ra bộ thư tịch này bí hiểm hơn anh tưởng” Bạch Lan thanh minh. “Sở dĩ em không nói cho anh trước bởi nhữ may anh buột miệng với ai đó là buổi lễ có nguy cơ bị phá sản, và để tạ lỗi với hội em chỉ còn cách là tự cắt đầu mình mang dâng cho họ. Kỳ Phương khẽ rùng mình, anh đeo mặt nạ lên ngắm khuôn mặt cô hồn của mình trên gương và tự hỏi rằng có phải cô nàng đã sắp đặt sẵn cho mình một cái kết không có hậu như nhân vật họ Tôn trong vở tuồng đầy hung hiểm này không. Chưa biết cô trao cho anh “đặc ân” thế nào nhưng anh đã ngửi thấy mùi chết chóc rồi. Kỳ Phương gỡ mặt nạ xuống cất cẩn thận vào túi trong áo vest cùng tấm giấy mời là hai thứ bất li thân nếu muốn vào cuộc. Anh đang nghĩ mông lung thì chiếc xe chạy chậm dần rồi phanh két lại. “Đến rồi, anh xuống đi.” Kỳ Phương định rút bùa hộ mệnh và giấy mời ra thì thấy trước mắt mình chẳng có ngôi chùa nào cả mà là một toàn nhà năm tầng lung linh trước ánh hoàng hôn. “Đây là đâu? Sao em bảo đưa anh lên chùa mà?” “Đây là khách sạn Hương Giang ạ” “Tổ chức nghi lễ thiêng liêng trong khách sạn?”. Kỳ Phương ngạc nhiên. “Không. Chưa đến giờ lên chùa đâu. Em sẽ đưa anh đi ăn một bữa đặc sản Huế thật ngon đã.” “Thôi, em nói vậy làm anh liên tưởng đến bữa ăn cuối cùng của tử tù. Chắc để xong vụ này mới ăn ngon được. Nếu còn thời gian, anh tự đi loanh quanh phố một lát” “Không được. Anh bây giờ là yếu nhân của em. Xin anh đừng đi đâu làm gì trước khi việc này được giải quyết. “Chà, lần đầu có người lo đến sự an toàn của anh đấy. Thôi được anh lên phòng đây” “Anh lên phòng VIP 308. Em đã trả tiền trước rồi”. Bạch Lan vẫn ngồi trong xe, cô vẫy tay anh lại gần rồi nói nhỏ.“Em ở cũng phải về thu xếp và bàn bạc với các vị trong hội. Đến giờ G em sẽ đến đón anh đi. Trường hợp trục trặc gì đó, em sẽ báo địa điểm rồi anh sẽ tự đến đó bằng taxi. Bạch Lan lưỡng lự một lát rồi lại rỉ tai anh. “Nếu em không gọi điện được thì anh hãy đến chùa Diệu Đế nhé” “Chùa Diệu Đế à?” Kỳ Phương tròn mắt. “Mấy giờ?” “Thời gian em sẽ báo lại qua điện thoại. Nhưng nếu em không gọi thì khi nào có năm tiếng chuông chùa là anh hãy đến đó ngay. Nhớ là đừng đến sớm cũng đừng đến muộn phút nào đấy” Kỳ Phương định hỏi thêm nhưng cô ta đã đóng cửa kính. Chùa Diệu Đế ư? Đây là một ngôi chùa cổ mang nhiều dấu ấn nhất của các vị hoàng đế triều Nguyễn. Những thông tin ồ ạt ập đến trong đầu Kỳ Phương. Vua Thiệu Trị từng sinh sống và lớn lên ở chùa đó. Chùa thuộc một trong hai mươi cảnh vật đẹp nhất cố đô Huế thời Thiệu Trị. Chùa này cũng được vua Minh Mạng ban sắc phong lên hàng Quốc tự. Chùa lưu giữ thanh bảo kiếm của vua Tự Đức và sở hữu bức tranh trần tả rồng lớn nhất Việt Nam. Đặc biệt, chùa vinh dự được lưu giữ bộ tranh kính quý giá của vua Thiệu Trị thuộc hạng báu vật quốc gia. Có thể nói đây là ngôi chùa linh thiêng và bí ẩn nhất kinh kì xưa nay. Nếu đúng như Bạch Lan nói thì ngôi chùa này còn giữ một bộ thư tịch cổ bí mật về kho báu. Thật kinh khủng! Đợi cho xe Bạch Lan khuất hẳn thì Kỳ Phương cũng quay trở ra bắt taxi nhằm hướng chùa Diệu Đế với ý đồ thám thính trước. Mưa gió tả tơi, trời đã tối hẳn và thành phố đã sáng đèn. Kỳ Phương xuống xe đầu cầu Gia Hội rồi thả bộ dọc phố cổ Bạch Đằng ven sông Đông Ba hướng về cổng chùa nhá nhem đằng xa. Nằm giữa con phố đẹp nhất nhì kinh thành xưa còn sót lại là một ngôi chùa lọt giữa vườn cây cổ thụ âm u rậm rạp quanh năm soi bóng bên dòng sông Đông Ba hiền hòa lượn lờ bên kinh thành. Cổng chùa đóng kín, Kỳ Phương nhìn xuyên qua kẽ hở vào sâu bên trong chỉ thấy lờ mờ vài người đi lại trong một chiếc rạp lớn bằng bạt được căng lên ngay trước sân chùa. Cờ ngũ sắc Phật giáo, đèn lồng lá bùa, tờ phướn bay lất phất chập chờn trước cổng. Kỳ Phương định đi một vòng quanh tường rào để nhìn vào nhưng lại nghĩ không cần thiết phải nhìn trộm. Mình sẽ đĩnh đạc bước vào trong tư thế khách mời. Chỉ lát nữa thôi. CHƯƠNG 4 C hủ tịch phóng to hai cửa sổ video quan sát mặt mũi hai người đàn ông đã biến dạng đến khó tin sau trận đòn của đám đồ tể. Y nhỏ giọng hỏi qua micro. “Đúng là hai cha con không?” Âm thanh đáp lại cũng nhỏ xuống. “Thưa, chính lão ta là bố đẻ thằng kia và chúng là hậu duệ của một tên Đạo sĩ cơ mật năm xưa. “Miệng lão khai hay mày tự nói?” Chủ tịch thì thào. Tiếng đáp lại ấp úng. “Chúng câm như hến. Bọn Đạo sĩ cơ mật này khét tiếng ngoan cố.” “Vậy sao mày dám chắc lão ta là hội viên Đạo sĩ cơ mật?” Y hỏi giọng giễu cợt. “Rất đơn giản, chúng nó tuân chỉ luật huyết thống. Thằng con đã nhận là người của hội thì cha nó cũng... “Tao muốn chính miệng chúng nó khai. Y gắt lên rồi tắt vội loa trước khi những âm thanh xót óc kia lại dội vào tai. Cứ để cho người Việt “tẩn” người Việt. Y cần phải giữ sinh lực và đầu óc tỉnh táo trước khi bước vào một điệp vụ cân não hơn nhiều. Hơn chục năm tiêu tốn hàng triệu Euro để giăng bẫy bắt thành viên Đạo sĩ cơ mật nhưng khó hơn cả bắt chim trời. Chỉ đến giờ chót y mới tóm được một tên. Hóa ra hội này chưa bị xóa sổ như y từng lo lắng. Lùng được một hội viên đã khó, bắt nó khai ra đồng bọn còn khó hơn. Theo truyền thuyết hội này sẵn sàng hi sinh để bảo vệ bí mật và bảo vệ thành viên của mình cũng theo nguyên tắc đáng sợ như vậy. Chủ tịch ra ban công hít căng ngực bầu không khí trong lành từ cửa biển thổi vào. Trước cơn bão, bầu trời lặng phắc lạ thường. Phía tít bên kia vịnh Chân Mây là tháp chuông chùa Thánh Duyên thoắt ẩn thoắt hiện giữa biển mây mù cuồn cuộn. Phía chân trời bên trái là bờ mái trùng thiềm điệp ốc Trúc Lâm Thiền Viện thấp thoáng sau cánh rừng Bạch Mã âm u. Y ngửng cao đầu nhìn về hướng tây, một áng mây đỏ sẫm hiếm hoi ngoi ngóp giữa rừng mây đen kịt trời. Đêm nay sẽ là một đêm rất dữ. Tiếng bíp bíp lại đánh thức Chủ tịch. Y tiến về màn hình và vặn to âm thanh. Giờ đây, đến lượt hình ảnh ông lão đang quằn quại trước mắt y. “Thưa Chủ tịch! Lão ta cứng đầu không khai mật khẩu. Vụ này cần Chủ tịch ra tay thôi ạ.” “Được!” y thở hộc ra. “Hãy để lão tỉnh táo, tao xuống ngay bây giờ. Chủ tịch tiến về một hộc tủ lấy ra khẩu Browing Hp luôn luôn được nạp no đạn dắt vào cạp quần. Nhét vài thứ quan trọng vào túi da, y bước ra thang máy xuống thẳng tầng hầm. Hai cha con cùng thuộc một hội kín rất hiếm xảy ra ở phương Tây. Từ khi hít thở bầu không khí Á Đông, Chủ tịch vẫn không khỏi lúng túng khi phải hòa nhập trong môi trường xã hội nơi mà truyền thống cha truyền con nối đã ăn sâu vào tận gốc rễ. Con vua rồi lại làm vua. Cha làm chủ tịch thì con cũng chủ tịch. Luật huyết thống len lỏi vào bất cứ đâu miễn đó có dấu chân người: Hội Tam Hoàng, Hội miền Tây, Hội Cờ đen, nhà hàng, nhà băng... và nơi duy nhất y chưa thấy luật huyết thống có lẽ là... nhà chùa. Trước mặt y, trên nền hầm là ông lão thoi thóm đang cố đưa chút dưỡng khí vào buồng ngực phô rõ từng dẻ xương sườn. Lồng ngực y như thắt lại. Hội Đạo sĩ cơ mật khét tiếng làm mưa làm gió một thời giờ đây thảm hại thế này sao? Ông nội ta sẽ nghĩ gì khi chứng kiến cảnh chạm trán giữa hai hậu bối cựu thù này nhỉ? “Mặc áo rồi đỡ lão ta ngồi lên!” Y ra lệnh. Chủ tịch ngồi xuống chiếc ghế đối diện nhìn ông lão tiều tụy với ánh mắt đầy ái ngại. “Này ông già! Chắc ông đã nghĩ nhiều về cái chết? Vậy đã bao giờ ông nghĩ cái chết của mình sẽ đau đớn và tủi nhục như thế này chưa?” Ông lão dường như không nghe thấy gì. Chủ tịch gắt lên: “Hay ông nghĩ sự can đảm và lòng trung thành của mình sẽ được đấng bề trên nể phục?” “Tao không cần biết người khác nghĩ gì”. Ông ta nhổ bãi máu xuống sàn rồi nói hắt ra. “Tao thà chết để bảo vệ điều thiêng liêng đó!” “Thiêng liêng ư?” Y cười nhạt. “Chiếm đoạt tài sản trên máu xương đồng bào và khước từ trả nó cho chủ là điều thiêng liêng ư? Phải gọi là trơ trẽn và nhục nhã.” Ông lão thét vào mặt y. “Nhưng mang dâng cho kẻ ngoại bang như mày không những nhục nhã mà còn là phản quốc. Tao thề không khai, đừng vô ích nữa” “Ông mới là kẻ ngoan cố vô ích. Giờ này, ở đây, những kẻ cùng bang hội với ông cũng đang chịu cảnh đau đớn và chúng đã khai” “Mặc xác mày! Tao không khai gì hết. “Trung thành sắt son lắm! Thật không hổ danh dòng dõi Đạo sĩ cơ mật. Nhưng sự chung thủy kia đã lỗi thời và không còn giá trị gì nữa hết.” “Nếu mày nghĩ đau đớn và cái chết sẽ khuất phục nổi tao thì mày vẫn chưa khôn hơn tiền nhân của mày đâu.” “Thưa chủ tịch!” Gã xăm trổ sấn tới cướp lời. “Lão ta còn cương lắm, mìNH tẩn cho lão trận nữa xem có chịu nôn ra cái mật khẩu kia hay không?” Lão cười mỉa. “Giết tao đi nếu chúng mày muốn, nhưng đừng hòng chiếm cái đó. Lũ súc sinh khoác mặt người!” Chủ tịch nhìn ông lão cười nham hiểm. “Ông phải sống chứ! Một ông bố sẽ hạnh phúc khi nhìn con cái trưởng thành. Hãy xem cậu quý tử của ông trả ơn cha mẹ và tổ tiên oanh liệt của nó thế này đây.” Chủ tịch đập bàn làm chiếc máy tính bật sáng. Sau vài thao tác, một tệp video được bật lên. Một đám người trần như nhộng đang bò trườn lúc nhúc trong tiếng kêu rên rỉ. Ông lão định quay mặt đi nhưng vội nhận một giọng quen thuộc không lẫn vào đâu được. Trời đất. Con trai ông đây ư? Ông lão nheo mắt nhìn màn hình rồi vục mặt xuống đôi bàn tay run rẩy của mình. “Quân khốn nạn, chúng mày cài bẫy con tao. Lũ đốn mạt!” “Con trai của ông thế đấy, y cười đểu cáng,“liệu nó có xứng đáng để kế tục sứ mệnh cha truyền con nối của các đại thi hào khoác áo Đạo sĩ cơ mật hay không?” Lời nói của y như mũi dao sắc cắt đứt từng khúc ruột của người cha già kiêu hãnh khốn khổ. Lão cũng biết rằng đứa con nối dõi tông đường của mình nhân cách lệch lẹo so với truyền thống nho sĩ của dòng họ. Gần đây ông đã dùng nhiều liệu pháp để chính đốn con trai như một nỗ lực cuối cùng trước khi ông chầu trời. Những tưởng điều hay lẽ phải sẽ cảm hóa thằng con hư để rồi một ngày đẹp trời, các cụ bộ tứ sẽ cân nhắc cho nó vào hội. Vậy mà ngờ đâu... “Hãy dựng lão dậy mà xem nữa đây này.” Giọng Chủ tịch lại ngân lên. Một cảnh truy hoan khác mà diễn viên chính trong phim không ai khác ngoài cậu ấm của ông. Với nỗi căm phẫn phun trào, ông vùng dậy định đạp đổ cái cảnh đồi bại kia nhưng bị Chủ tịch ấn trở lại ghế. “Đó chưa phải là điều tồi tệ nhất với con ông đâu. Nếu ông muốn cứu cậu ta thì chỉ có một cơ hội duy nhất là khai cái mật khẩu kia ra đây.” Y nhét tờ giấy và cây bút vào tay ông rồi quay sang dặn tên đồ tể. “Không được để lão tự sát. Còn có thứ tươi sống hơn cho lão xem.” Chủ tịch bỏ ra ngoài tiến về căn phòng cuối cùng nơi giam thằng con trai của lão đang nằm bẹp trên sàn nhà. “Lôi hắn dậy mà xem cha nó đang chờ chết.” Gã ra lệnh cho đàn em. Chủ tịch lại gần chiếc máy tính để sẵn ở đó rồi bật một cửa sổ truyền trực tiếp từ phòng ông lão. Hai phòng thông nhau qua màn hinh video. Thấy hình ảnh ông lão máu me be bét hiện lên trên màn hình, như một luồng điện sinh học đánh trúng, người thanh niên bật dậy thét lên. “Cha! Trời ơi cha!... Cha đang ở đâu?” Để cho hai cha con quặn thắt gọi nhau qua màn hình giây lát, Chủ tịch nói với chàng trai. “Mày sẽ bị xẻ thịt ngay trước mặt cha mày nếu lão ta không khai. Mạng sống của mày giờ đây hoàn toàn phụ thuộc ở cha mày và ngược lại!” Chủ tịch biết lời đe dọa đó cũng vang đến tại cha hắn. “Tiếp tục đánh, đánh nó cho cha nó xem. Tiếng roi lại réo lên, hai người đàn ông quằn quại trong tiếng gào khóc. “Cha! cha hãy cứu con, cha hãy cứu con.. ” Chủ tịch gắn lên. “Đánh tiếp! Mày chỉ được sống khi cha mày khai ra cho tao mật khẩu. Đánh tiếp.” Đòn roi giáng xuống như mưa, chàng trai gào lên thê thảm. “Cha!... con chết mất cha ơi...cha cứu con với cha...” Chủ tịch quay mặt mỉm cười với chiêu bài tra tấn đầy sáng tạo của mình. Điểm yếu cốt tử của luật huyết thống là đây. Một thành viên Đạo sĩ cơ mật có thể chịu đòn đến chết để bảo vệ đồng bọn của mình nhưng hiếm ai trụ vững khi thấy khúc ruột của mình bị vằm nát. Y nhìn gã trai gào đứt hơi rồi ngất lịm giữa nhà và tự hỏi trên đời này liệu có người cha nào vô cảm và tàn nhẫn để con mình chết thảm hay không. Bỗng dưng có tiếng bụp nhẹ phát ra từ đôi loa. Màn hình video truyền từ phòng ông lão bỗng dưng đen kịt. Đoán có việc bất thường xảy ra, Chủ tịch mở cửa lao ra ngoài đúng lúc gã đồ tể phòng bên lao tới. Mặt gã tái mét còn miệng líu ríu không ra hơi. “Chủ tịch!... lão ta.. “Lão ta làm sao?” Y gắt lên. “Lão đã tự sát...” Y đẩy văng hắn rồi lao thốc về phòng lão. Một cảnh tượng kinh hãi trên nền nhà đập vào mắt. Ông lão đang giãy giật trên vũng máu không ngừng lan ra từ phần đầu. Trên tay là chiếc máy tính đã bị đập quăn như ống bơ. Lão ta tự triệt khẩu? Chủ tịch đứng chết lặng, lòng trào lên một nỗi ân hận khôn nguôi. “Chủ tịch. Gã đồ tể lắp bắp sau lưng. “Lão ta để lại cái này... Y giật tờ giấy trên tay gã nhìn như nuốt từng chữ rồi hỏi gã đàn em. “Lão có nói gì nữa không?” “Trước khi đập đầu vào tường, lão xin cho con lão được sống và... | NH và cầu xin vong linh hoàng đế thứ lỗi.” Chủ tịch nhìn lại dòng chữ chưa ráo mực trên tay rồi nhìn dòng máu tươi từ một người cha khốn khổ lan chảy tận dưới chân mình. Sau bao năm quăng quật trường đời, lần đầu tiên y thấy có gì đó cay cay trong hốc mắt. Nếu như lão tự sát mà không để lại dòng chữ này thì tất cả sẽ chấm hết từ đây và bao nhiêu công lao của y hơn chục năm qua đổ hết xuống sông xuống bể. May thay lão đã hành xử bằng trái tim của người cha chứ không phải là một kẻ ngu trung của hội kín. Sau hai thế kỷ vật đổi sao dời, tình nghĩa phụ tử và sự bảo tồn giòng giống đã chiến thắng tất cả. Một người cha đáng kính. Chủ tịch đưa cặp mắt hoe đỏ nhìn xuống thi thể bất động góc phòng rồi nói với đám tay chân từng từ một. “Hãy lo cho lão thật chu đáo. Y đưa mảnh giấy lên nhìn lại dòng chữ lần nữa và chưa thể tin nổi cái mật khẩu bí ẩn nhất lịch sử triều Nguyễn đã nằm gọn trong tay mình. Đây là cái mà thiền sư đang chờ đợi từ y bao năm nay. Lấy iphone ra chụp mấy chữ Hán rồi gửi cho ngài. Chỉ vài phút nữa, y tin thiền sư sẽ hoàn tất sứ mệnh. Nán lại vài giây, y nhẩm thuộc dòng chữ rồi xé vụn mẩu giấy trước khi leo lên chiếc Rolls Royse biến mất trong bóng đêm. CHƯƠNG 5 K ỳ Phương trở về khách sạn để chờ điện thoại của Bạch Lan. Từng đợt gió bão quất phầm phập lên cửa kính như thể muốn phá nát vạn vật dưới gầm trời. Đã hơn một giờ đêm, pha một tách cà phê xua cơn buồn ngủ đang đến, Kỳ Phương tự nhủ rằng cần phải kiên nhẫn bởi những nghi lễ thần bí thường bắt đầu lúc vũ trụ đã ngủ say. Anh định cầm máy gọi điện cho Bạch Lan mấy lần nhưng chợt nghĩ không nên làm phiền cô ta trong lúc đang bàn bạc với các vị Đạo sĩ cơ mật trước giờ phút hệ trọng. Cũng lúc đó, trong ngôi nhà rường thuộc làng Kim Long bên dòng sông Hương, Bạch Lan đi đi lại lại không yên bởi cô sắp phải đi mà mẹ cô lại đi đâu mất. Cô vừa trở về sau cuộc họp mệt mỏi kéo dài với hội kín và đang chờ đến chùa thực hiện phận sự. Một tâm trạng vừa lo âu vừa hoang mang mà cô chưa từng trải qua bao giờ. Cũng như hơn hai chục hội viên cao cấp và những dịch giả được mời, cô giữ mình thận trọng và cầu mong không có trục trặc nào dù là nhỏ nhất. Bỗng có một cú điện thoại gọi đến, nhận ra số lạ và cô vội linh cảm đến chuyện không lành về mẹ mình. Bạch Lan choáng váng khi người kia mô tả đúng hệt mẹ mình đang gặp nạn ngoài phố. Chẳng còn thiết gì đến việc khác, cô lao ra khỏi nhà. Đang ngủ quên, Kỳ Phương bất thần choàng tỉnh. Tiếng chuông chùa như đang xé nổ bên tai. Anh vùng khỏi giường và chỉ trong vài giây thần kinh đột ngột căng vọt khi âm thanh chói chang đang khoan thẳng màng nhĩ. Chắc là năm tiếng chuông hiệu như Bạch Lan nói đây, ngoài nó ra không có hồi chuông chùa nào trái khoáy dở chừng vào giờ này như vậy cả. Vậy là Bạch Lan không thể gọi điện cho anh nhưng mật hiệu đã điểm. Nghi lễ lịch sử đã bắt đầu. Không phí một giây, Kỳ Phương mặc vội áo quần, ngoàng cravat vào cổ rồi khoác áo lao ra khỏi phòng. May mắn có chiếc taxi đang chờ ở cổng, anh leo lên xe chỉ tay. “Đến ngay chùa Diệu Đế. Khẩn trương!” Gã taxi có vẻ cũng vừa tỉnh giấc sau tiếng chuông, nét ngơ ngác và cau có còn nguyên trên cặp mắt lờ đờ. Chân nhấn ga, tay ấn còi inh ỏi, chiếc xe bẻ cua rồi lao vút đi. Mưa lất phất, phố xá sạch bong, không người qua lại. Bầu trời tạm yên lặng sau trận mưa gió kéo dài. Kỳ Phương nhìn đồng hồ và ngỡ ngàng đã 1h40 sáng. Thật không thể tin nổi lại có cuộc họp và nghi lễ diễn ra vào giờ này, anh định lấy máy gọi cho Bạch Lan báo đang trên đường đến đó nhưng chợt nhận ra đã bỏ quên máy trong phòng. Cả chiếc cặp tài liệu cũng bỏ quên một cách vụng về. Chợt nhìn đôi dép tổ ong của khách sạn anh mới nhớ mình đã quên đi giày. Trên mặc comple thắt cravat, dưới xỏ dép lê trông chẳng giống ai. Định quay lại lấy một thể nhưng xe đã dừng lại. “Đến chùa rồi” Người lái xe chỉ đồng hồ hiện lên con số 38 ngàn đồng. Kỳ Phương móc ví đưa hẳn từ năm mươi ngàn rồi nhảy xuống. Vừa hí hửng bước qua cổng tam quan thì anh vội sững lại. Có gì đó không ổn. Khuôn viên chùa âm u vắng ngắt như cánh rừng hoang không một tiếng động hay bóng người nào. Tất cả tĩnh lặng một cách dị thường. Hay mình nhầm chùa? Tiếng chuông có thể bắt nguồn từ một nơi khác và địa điểm đã thay đổi mà Bạch Lan không báo kịp cho anh. Tuy nhiên, chiếc rạp trang hoàng lộng lẫy trước mặt thì không thể là ảo giác. Ánh điện bên trong đã tắt nên dù có dãy cờ xí và đèn lồng đung đưa mời gọi nhưng đôi chân Kỳ Phương bỗng dưng chùn lại. Kỳ Phương tự nhắc mình đây là đại hội của một tổ chức bí mật với một loạt nhân vật giấu tên nên cuộc họp này có lẽ cũng phải thầm lặng. Anh dợm chân đi sâu vào bên trong, mắt nhìn thẳng hóng chờ một ai đó bước ra tay bắt mặt mừng nhưng đó chỉ là ý nghĩ vớ vẩn. Có lẽ mọi người đang hành lễ bên trong và quên hẳn một thằng như anh? Kỳ Phương đi tới chiếc rạp lớn tối om choán kín trước sân định chui vào nhưng chợt nhớ lời Bạch Lan dặn. Anh nán lại rút giấy mời và đeo cái mặt nạ hung dữ kia lên mặt, miệng thầm niệm đây là lần đầu ra mắt hội kín khét tiếng chứ không phải chuyện đùa. Một tay anh cầm giấy mời như lá bùa, tay kia anh cầm mép rèm kéo toang cánh cửa và một sự kì quặc hiện ra đập thẳng vào mắt anh. Ra khỏi Resort, Chiếc Rolls Royce lao như tên bắn nhằm thành Huế. Ở khoảng cách lên đến ba mươi cây số, Chủ tịch tiếc nuối bởi không thể nào nghe được hồi chuông lịch sử mấy trăm năm mới gióng một lần. Trong cuốn nhật kí của ông nội, người đã đích thân nghe thấy hồi chuông năm tiếng đó được gióng lên khi kinh thành thất thủ năm 1885. Trong cái đêm binh đao loạn lạc đó, những ngôi cổ tự đã phải gồng mình chống chọi những toán người lạ đến cướp những báu vật linh thiêng. Xe phóng như bay trên con đường tỉnh lộ xuyên qua cánh rừng ngả nghiêng vì gió. Chủ tịch cố tưởng tượng thiền sư đang làm gì với mật khẩu mà y vừa cung cấp? Sau hồi chuông đó là những gì sẽ tiếp diễn? Hội Đạo sĩ cơ mật cùng các sư sãi sẽ ùa đến chùa Diệu Đế để bảo vệ báu vật hay thiền sư của y đã cô lập họ theo một kịch bản từ trước? Giờ này lẽ ra y đã có mặt tại ngôi chùa đó để hỗ trợ ngài một tay nhưng vì buổi tra tấn khai thác mật khẩu lại khó khăn và mất thời gian hơn y tưởng. Không sao. Chỉ mươi phút nữa, y sẽ có mặt tại đó để lãnh báu vật thiêng liêng từ tay đức thiền sư. CHƯƠNG 6 T rước mặt Kỳ Phương là nội trường trống trải, vắng ngắt không một bóng người. Hai dãy bàn ghế xếp ngăn nắp đã bày biện hoa quả và những chai rượu đầy chưa hề khui nắp. Phía đầu rạp là một chiếc bàn dài kê ngang phủ vải đỏ dành cho ban chủ tọa. Góc trong là chiếc giá gỗ cao hơn đặt lư hương, bình hoa, một pho tượng đồng đen vua Tự Đức và ba ngọn nến đang phả thứ ánh sáng chập chờn lên tấm phông nền thêu rồng đang bay phần phật. Quang cảnh kì bí hệt như một buổi lễ vừa bắt đầu thì con người đồng loạt biến mất. Kỳ Phương đứng chôn chân trước cửa đưa mắt tìm kiếm nhưng tuyệt nhiên không hề thấy đạo sĩ nào như Bạch Lan nói. Cả Bạch Lan nữa, cô ta nói sau tiếng chuông cũng sẽ có mặt ngay ở đây cơ mà? Kỳ Phương bắt đầu thấy rờn rợn và không có ý định đi vào một nơi vô chủ thế này. Ngoài sân, ánh sáng yếu ớt hắt lên dãy cờ phướn đang bay phần phật hệt như cổng một nhà tang lễ trong đêm. Một bầu không khí ma quái nhanh chóng lan khắp người. Mình cần phải ra khỏi đây. Kỳ Phương vừa bước ra thì nghe tiếng lào xào rồi một tiếng động chói tai từ phía ngôi chùa chính đằng sau vang đến. Anh gọi to. “Có ai không?” Im lặng. Nhận ra tiếng động đó sinh ra do con người, Kỳ Phương bình tĩnh đi ngang qua nội trường để lên bậc tam cấp ngôi chùa cổ kiên cố đằng sau. Không thể thấy gì sau những cánh cửa đóng chặt, anh áp tại lên và nghe thấy tiếng lào phào yếu ớt lẫn tiếng sột soạt như ai cào lên vải. Âm thanh bí ẩn phát ra từ bóng tối chốn linh thiêng làm anh rùng mình. Kỳ Phương tự hỏi mình liệu có quá vô duyên hay không khi các đại biểu đang hành lễ thì có một thằng cha đến quấy phá. Nhưng linh cảm vội mách anh rằng có chuyện bất thường bên trong. Tìm cái gì đó để chiếu sáng trước khi đột nhập, anh nhặt những mẩu đuốc đốt cháy rồi tiến về chính điện. Mấy thanh liếp tre khô bén lửa bùng bùng soi rõ bộ cửa gỗ lim đen nhánh chạm trổ những cặp sư tử đứng chầu đang nhe nanh múa vuốt đầy dọa nạt. “Có ai bên trong không?” Anh gọi to. Không đợi trả lời, anh đẩy mạnh cửa làm nó hé ra. Chẳng thấy gì ngoài một màu đen đặc nhưng cái âm thanh lúc nãy trở nên rõ rệt như rót thẳng vào tai. Tiếng một người đàn ông phì phào ngắt quãng trong hơi thở sắp cạn. Kỳ Phương gọi. “Có ai làm sao không? Làm ơn lên tiếng đi!” Vẫn không ai đáp. Lửa bén xuống bàn tay, Kỳ Phương dốc ngược đuốc hãm ngọn lửa rồi đẩy tung cánh cửa. Trên nền nhà, phía dưới bức tường hồi hiện lên một cảnh tượng không thể ngờ nổi. Một người đàn ông mặc áo thầy tu nằm thẳng đơ trên sàn. Bên cạnh là một người mặc áo dài trắng đang quỳ chân, ngực áp xuống mặt ông ta. Do người này quay lưng về phía ngoài nên Kỳ Phương không thấy mặt. Cả hai đang làm dang dở gì đó rất hệ trọng đến mức phớt lờ sự đột nhập của kẻ lạ. Kỳ Phương nín lặng mon men đến gần. Dưới ánh đuốc lập lòe, anh nhận ra người quỳ là phụ nữ bởi mái tóc dài và vết hằn sau lưng áo. Tấm lưng ong đang run lên trong khi tay nhà sư hình như đang mó máy gì đó phía trước ngực cô ta làm phát ra âm thanh sột soạt khế khẽ nhưng đầy gấp gáp. Đứng chết lặng giữa nhà, Kỳ Phương mặc kệ ngọn đuốc đã đốt bỏng lên bàn tay. Lồng ngực anh bỗng thắt lại, mặt nóng bừng, miệng muốn hét lên nhưng hàm răng đã cứng đờ. Thình lình, người phụ nữ đứng vụt dậy quay phắt về phía sau. Kỳ Phương giật mình ngã ngửa xuống sàn nhà kinh hãi khi thấy mặt người này. Một con quỷ!? Người phụ nữ này cũng hoảng hốt nhưng đã kịp định thần rồi lao thẳng về phía anh. “Ai? Các vị làm gì thế này?” Kỳ Phương thét lên. Mặc dù đã ngã nhưng tay anh vẫn cầm chặt ngọn đuốc đã tắt chỉ còn nắm tàn đỏ. Nghiến răng chịu nóng, anh gí tàn đuốc về phía trước và rùng mình phát hiện một thứ trên ngực cô ta. Trời ơi, gì thế này! Dưới ánh đóm lù mù, một dòng chữ Nôm nhòe máu hiện trên ngực áo trắng. (xem ảnh) Bị nhìn thẳng chỗ hiểm, cô gái vội đưa cả hai tay lên che ngực nhưng đã muộn. Toàn bộ hình ảnh đó đã in lên võng mạc rồi truyền thẳng lên não Kỳ Phương. Như để phi tang, người phụ nữ đột ngột lao thẳng vào người anh buộc anh phải ném thẳng nắm than vào cô ta làm đám bụi đỏ bùng lên. Ngay tức thì, một bàn tay phóng qua đám lửa li ti giáng vào ngực Kỳ Phương hất anh ngã xuống đất lần nữa. Choáng váng, anh ôm đầu lăn lộn trên sàn nhà để mặc kẻ đó chạy thoát. Kỳ Phương chống tay ngồi dậy dụi mắt và nhận ra mình đang đeo mặt nạ. Đồ chết tiệt. Anh lột tấm bìa ném toẹt xuống đất và liền nghĩ ra cô gái kia cũng đang đeo mặt nạ. Cô ta cũng giật mình khi thấy mặt nạ của anh. Cô ta là ai? Là Bạch Lan hay một hội viên Đạo sĩ cơ mật đến dự lễ? Kỳ Phương không có thời gian nghĩ ngợi, anh gắng ngồi dậy quờ quạng trong bóng tối định lao ra ngoài nhưng chợt nhớ còn một người nữa đang nằm phía trong. Căng hết nhãn cầu nhìn về phía vị thầy tu đang nằm bất động, Kỳ Phương rón rén đi qua bái đường về phía người kia. Giữa góc tối lổn nhổn những mảnh vỡ thủy tinh lấp lánh, người đàn ông trong bộ áo nghi lễ màu vàng đang tỏa ra thứ ánh sáng nhờ nhợ như một sinh vật kì dị dưới đáy biển. Kỳ Phương đưa tay sờ bàn chân ông ta và cảm nhận còn hơi ấm, anh nắm lấy bắp vai ông lay gọi thành tiếng. “Sư thầy! Sư thầy! Sư thầy có sao không?” Mặc cho anh kêu gào, vị thầy tu nằm lặng như đã ngủ say. Kỳ Phương vội áp tai vào ngực ông nhưng tim cũng lặng đi từ khi nào. Lúc này anh cảm thấy có chất ướt dính vào tay mùi tanh tanh. Máu? Ai đã giết sư thầy? Kỳ Phương nghĩ đến cô gái đeo mặt nạ và một ý nghĩ lóe lên: Bắt giữ cô ta lại! Lúc anh bị ngã cô ta đã mau chân tẩu thoát nhưng chắc chắn không phải ra cửa chính bởi sau hồi chuông bất thường nhiều người đang đổ dồn về đây. Hơn nữa, với dòng chữ bằng máu to tướng trước ngực kia, cô ta nhất định không dám để ai nhìn thấy. Chắc chắn cô ta chạy cửa sau hoặc đang nấp đâu đó. Kỳ Phương lò dò đi men chân tường ra cửa hậu. Khoảng sân trong dày đặc những chậu cây cảnh sum suê cao lút đầu người làm chắn mất tầm nhìn. Kỳ Phương đảo quanh rồi đi về dãy tăng phòng vắng ngắt. Điều kì lạ là ngôi chùa này có hơn chục vị tăng sư nhưng không hiểu sao họ đi đâu hết. Một mùi khét từ đâu đó thoảng qua, Kỳ Phương thấy một cửa sổ mờ sáng cuối dãy liền đi vội tới đó. Vừa ghé mắt lén nhìn vào, anh phải rụt lại ngay khi thấy một phụ nữ cởi trần đứng che ngọn đèn. Cô ta đang làm gì nhỉ? Hay cô ta đang nghĩ lõa thể sẽ làm cho anh ngại ngùng mà không dám lại gần và nếu vậy thì cô ấy nhầm to. Anh phải trói tay trước khi cô ta cởi thêm trang phục. Kỳ Phương đạp cửa xông vào. Cô ta cuống cuồng ôm chiếc áo đang cháy xèo xèo lên che ngực nhưng phản xạ đó làm cô ta kêu thét lên. “Bỏng bây giờ!” Kỳ Phương kêu toáng lên. Theo phản xạ, anh giật tung tấm áo đang bốc khói trên ngực cô ta. Một tòa thiên nhiên bất ngờ lộ ra làm anh không kịp né mắt. Dòng chữ bằng máu thấm qua lớp áo mỏng in trên làn da trắng mịn vừa bị nùi lửa ấn vào sém đỏ. Cô ta ôm chầm lấy bầu ngực rú lên đau đớn rồi khụy xuống. Kỳ Phương chợt lúng túng. Thay vì lao vào vật ngã rồi trói cô ta lại như dự tính thì giờ đây anh đứng trơ ra như phỗng Không thể đứng nhìn vô duyên thế này được, anh cởi phăng áo vest của mình ném sang nhưng cô ta gạt phắt rồi cầm chiếc áo đang cháy điên cuồng cấu xé. Lúc này, Kỳ Phương mới nhận ra cô ta quyết phi tang dòng chữ Nôm trên áo. Không phí một giây, anh vồ lấy chiếc áo đang cháy xèo xèo. Hai kẻ đang giằng co quyết liệt thì có tiếng hô đanh gọn vang lên sau lưng. “Tất cả đứng im!” CHƯƠNG 7 N gược về phía tây kinh thành, căn nhà vườn số 127C ngõ 47 đường Nguyễn Hoàng đang chìm lắng trong đêm khuya bỗng có tiếng chuông cửa đổ dồn. Cô gái đang ngủ say thì có tiếng động sát cửa sổ làm cô giật thót mình. Vùng dậy bật đèn, cô hỏi qua cánh cửa sổ vẫn khép chặt. “Ai đấy, đêm hôm có việc gì?” “Xin lỗi đã làm phiền gia chủ, một giọng nhỏ nhẹ bên ngoài đáp lại, minh “có đúng nhà Huế học Nguyễn Khắc Huynh đang ở đây phải không?” “Ai đó?” Cô gái cố hỏi thật to cho người nhà tỉnh giấc. “Sao lại tự tiện vào nhà tôi?” “Ni sư chùa Diệu Đế đây, chùa có việc rất gấp cần gia chủ giúp.” “Chùa Diệu Đế chỉ có tăng chứ làm gì có ni?” Cô gái hỏi lại. “Trước đây là như vậy, nhưng từ năm ngoái tăng ni đã được tu pháp chung một chùa rồi” Cô gái lặng thinh nhập các từ lạ tai vào bộ óc chưa tỉnh táo. Tiếng nói trầm và cách xưng hô làm cô học trò an tâm mở cửa sổ. Một phụ nữ khoác áo nâu ướt nhẹp đang đứng ngoài sân nhìn cô chủ. “Nhưng ông tôi đang ngủ, có việc gì xin sư cô để sáng mai được không?” “A di đà Phật! việc hệ trọng không thể chờ được. Con làm ơn đánh thức ông dậy đi.” Cô gái nhanh nhảu sang buồng bên lay gọi ông lão đang ngủ li bì. Rất ít khi ông về đây ngủ, chỉ có những việc quan trọng trong nội thành ông mới về đây mà thôi. Khá kì lạ, tuổi ông thường ngủ rất dễ tỉnh, ngay cả một tiếng lá rơi ngoài vườn cũng đủ đánh thức ông. Vậy mà hôm nay chuông kêu ầm ĩ, ông vẫn không biết. “Ông ơi có người gặp!” Cô gái nắm lấy tay lay mạnh thì ông mới mở choàng mắt. “Gì thế cháu?” “Có một nhà sư cứ khăng khăng đòi gặp ông” Ông lão gập người bật dậy nhưng liền ngã phịch trở lại giường. “Thôi chết, giờ là mấy giờ rồi?” “Hai giờ sáng ông ạ.” “Hỏng! Hỏng bét rồi. Cháu có nghe hồi chuông chùa nào không?” Ông lão vừa nói vừa bám tay vào thành giường ườn tấm thân bệ rạc ra ngoài mép. “Cháu ngủ say nên không nghe chuông chùa, chỉ nghe chuông cửa.” “Chết tiệt. Hỏng bét việc rồi!” Khó khăn lắm ông lão tàn tật mới lật nghiêng được người rồi ôm lấy mạ giường để hạ cái chân trái bại liệt thõng xuống đất trước. Nhưng phải nhờ tới chiếc gậy inox ông lão thất thập mới nhấc nổi bộ xương rệu rã tập tễnh đi ra cửa. Ánh đèn theo ông hắt ra ngoài hiên chiếu lên một khuôn mặt tu sĩ tái xanh tái xám. “Chào sư cô. Tôi thất lễ quá, mời sư cô vào nhà cho khỏi mưa” Sư cô vội vã xua tay khước từ. “Bần ni xin chào gia chủ. Lão Hòa thượng Thích Đại Pháp chờ ông đã lâu mà không có cách gì liên lạc được cả. Ngài quá sốt ruột nên sai bần ni đến tìm ông đấy” “Tôi ngủ quên khuấy đi mất” ông vỗ mạnh lên đầu. “Tôi đắc tội với Hòa thượng quá. Mọi người đã đông đủ, chắc chỉ thiếu mình tôi?” “Không có ai đến hết. Ông lão choáng váng suýt sụp xuống đất. “Trời ơi, đến giờ này mà vẫn không có một ai đến ư?” “Thực ra chỉ có đúng một người đến mà thôi. Lão Hòa thượng đã gọi điện đi khắp nhưng đều không liên lạc được với ai cho nên đã sai tất cả tăng ni đến tận nhà từng vị để đánh thức.” Nhà Huế học từ kinh ngạc đến hốt hoảng. “Tôi đúng là đồ bỏ đi. Xin sư cô thứ lỗi. Tôi sẽ cấp tốc đến chùa ngay bây giờ. Cháu ơi! Chuẩn bị xe cho ông” “Hãy nhanh lên. Sư cô giục. “Để lão Hòa thượng và người đó chờ lâu e xảy ra chuyện không hay. Cụ ông nhìn đồng hồ rồi thầm nguyền rủa cái bữa tiệc đêm qua. Không rõ kẻ nào đã cho họ uống loại rượu gì mà say như chết. Vỗ nhẹ cái đầu còn kêu oong oong, ông hối hả xỏ chân vào giày. “À, sư cô vừa nói có một người đến rồi? Sư có nhận ra ai không?” “Bần ni nhìn không rõ nam hay nữ, già hay trẻ vì đeo mặt nạ.” Ông lão lại giật thót. "Thế à, người này đang làm gì trên chùa?” “Người này sau khi thắp nhang niệm Phật thì trao đổi gì đó với lão Hòa thượng Thích Đại Pháp trong chính điện. Lát sau Hòa thượng sai bần ni đi đánh năm tiếng chuông xong rồi đi đến đây luôn.” Năm tiếng chuông. Lời nói nhẹ ru mà như một tiếng sét đánh ngang tai nhà Huế học. “Trời ơi! vậy là hồi chuông lịch sử đã gióng lên từ lúc nãy rồi hay sao?” “Đúng vậy, hình như bần ni không làm gì sai nghi thức chứ?” “À không,” ông lão rên lên. “Tôi sai, hỏng bét thật rồi.” Nhà Huế học thề rằng sư cô vừa thực hiện một hiệu lệnh sinh tử mà chính sư cô cũng không hiểu đó là gì. Đó là một hiệu bằng tiếng chuông chùa báo động cho các thành viên Đạo sĩ cơ mật trong tình huống nguy cấp. Trong lịch sử kể từ khi vua Tự Đức thiết lập cơ chế bảo mật trên chùa Diệu Đế, hồi chuông định mệnh này chỉ được gióng lên một lần vào đêm 5/7/1885 khi kinh đô thất thủ và đất nước rơi vào tình trạng rối ren, vô chủ. Nhà Huế học luống cuống tìm điện thoại đút vào bao rồi cùng ni cô hối hả đi ra cổng. Nhà Huế học đã được cha mình kể tường tận rằng, dưới sự bảo trợ của vua, Hội Đạo sĩ cơ mật đã kí thác nhiều tài liệu mật lên chùa cho sư trụ trì cất giữ. Nhà chùa nhận lời giúp đỡ và một loạt quy định khắt khe giữa hội và nhà chùa đã được thiết lập, trong đó một điều khoản là nhà chùa có quyền từ chối và trả lại tài liệu cho hội ngay bất cứ lúc nào họ muốn. Cũng như lúc tiếp nhận, thủ tục hoàn trả khá nghiêm ngặt và hoàn toàn dựa trên mật khẩu mà chỉ các lãnh đạo Hội Đạo sĩ cơ mật và sư trụ trì mới biết. Ai đọc đúng mật khẩu, sư trụ trì sẽ trao cho kẻ đó, bất kể kẻ đó là ai. Cơ chế bảo mật xa xưa này là sơ khai của cách thức rút tiền tự động mà các ngân hàng ngày nay đang áp dụng. Nếu có tấm thẻ và mật khẩu trong tay, bất cứ ai cũng có thể đi rút tiền, dù là thẻ người khác. Các đời sư trụ trì và Hội Đạo sĩ cơ mật ghi tạc và trao cho các thế hệ kế tiếp quy tắc vàng đó đã mấy trăm năm nay nhưng chưa hề áp dụng lấy một lần. Do vậy, bộ thư tịch từ khi cất vẫn y nguyên trên chùa. Giả dụ, khi có kẻ tìm sư trụ trì đọc đúng mật khẩu, sư trụ trì sẽ trao thư tịch cho kẻ đó sau khi gióng 5 tiếng chuông như một mật hiệu thông báo cho vong linh tiên đế lẫn Hội Đạo sĩ cơ mật rằng món nợ kia đã được trả. Theo đúng quy tắc, sau 5 tiếng chuông tất cả hội viên Đạo sĩ cơ mật phải đeo mặt nạ và có mặt tại ngôi chùa để chứng kiến cuộc chuyển giao đó. Nếu nhận ra kẻ lấy thư tịch có gì đáng ngờ, các hội viên có quyền bắt giữ ngay tức khắc. Nhưng hôm nay, hỡi ôi! Không một đạo sĩ nào kịp thời có mặt để giám sát kẻ đó. Vậy hắn là ai? Nhà Huế học dãy lên một niềm hối hận vô biên trong lòng. Mọi người có thể châm chước cho một hội viên già lão tàn tật như ông nhưng ông thì nhất định không thể tha thứ cho mình. “Sư cô dám chắc lúc đánh chuông chỉ có mỗi hai người trong chùa chứ?” Ông lão hi vọng lần này câu trả lời sẽ khác. “Chắc chắn. Sư cũng lấy làm lạ là buổi lễ đã chuẩn bị tươm tất nhưng các vị ấy lại đến muộn một cách khó hiểu. Rồi sư lại nghĩ chắc mưa to gió lớn nên các cụ bị trễ” Một nỗi bất an ghê gớm bùng lên làm ông lão run rẩy đôi chân. “Mời sư cô lên xe ta đi cho nhanh.” Ông nói khi chiếc xe xáp lại. “Ông cứ việc đi thẳng đến chùa đi.” Sư cô xua tay. “Bần ni còn phải đi báo cho người khác nữa.” Nhà Huế học lên xe nói nơi đến cho cô cháu rồi bấm máy gọi cho hai hội viên cốt cán nhưng máy trong trạng thái không có người bắt. Đêm nay quả là một đêm không bình thường. Chính hai vị này cũng như những hội viên quan trọng khác cách đây vài tiếng còn bàn bạc chốt lại nội dung công việc. Không lẽ họ đã bị đầu độc? Ông cố xua ý nghĩ đáng sợ đó để nghĩ cách đối phó tình huống xấu nhất. Với vị trí lãnh đạo tối cao của Hội Đạo sĩ cơ mật, từ mấy tháng trước phía nhà chùa đã triệu ông lên để báo một tin sét đánh. Đó là nhà chùa đã quyết định trao trả toàn bộ thư tịch tối mật sau hai trăm năm gìn giữ với một lí do lãng nhách: Đang có nhiều kẻ xấu nhòm ngó ngôi chùa. Để tránh mất bộ thư tịch quý và nguy hiểm cho nhà chùa, sư trụ trì quyết định trao trả cho hội. Với ông, đó là hành động đơn phương quá bất ngờ và phũ phàng với hội. Thực ra từ nhiều đời sư trụ trì trước đã lấy cớ đất nước bình yên rồi, triều Nguyễn cũng đã cáo chung từ lâu, Hội Đạo sĩ cơ mật đã đủ khả năng tự bảo vệ bộ thư tịch đó nên nhà chùa muốn trả về cho họ. Nhưng hồi đó, hội bất đồng với nhau nhiều vấn đề nhưng chủ yếu là chưa thống nhất cách xử lí kho tư liệu mật đó cho nên còn lần lựa mãi. Vấn đề nan giải nhất là bộ thư tịch đó có liên quan đến kho báu của vua muốn trao cho một hậu duệ hội tụ đầy đủ phẩm chất mà ngài mong muốn. Mà hậu duệ đó là ai thì chưa tìm hay bầu ra được. Hội không thể tìm được người đó là ai trong số hàng vạn con cháu hoàng gia đang tứ tán khắp năm châu. Một khi không thống nhất được người thụ hưởng hợp lệ, kho báu sẽ thành lí do tranh giành và xung đột khốc liệt giữa những người cùng huyết thống. Đó là đại họa. Đáng buồn thay, những day dứt của hội đâu phải là thứ nhà chùa để tâm. Các sư trụ trì chỉ nôn nóng tổng tiễn cái thứ mà họ coi là trái bom nổ chậm ra khỏi chùa càng sớm càng tốt. Sau bao lần đàm phán thương thảo, rốt cuộc hai phía cũng phải đi đến một cái ngày giờ cụ thể để giải quyết rốt ráo mối duyên nợ kéo dài lê thê tới hai thế kỷ. Đó chính là đêm nay. Vậy nhưng buổi lễ chưa bắt đầu thì đã kết thúc. Nhất định có kẻ nào đó trong hội đã phản bội bằng cách đầu độc họ để phá hủy nghi lễ bàn giao. Ông dồn hết nghi hoặc lên cái kẻ đang ở trên chùa cùng lão hòa thượng. Không hiểu sư trụ trì đã giao thư tịch cho kẻ ấy hay chưa? Giờ đây ông phải đến chùa thật nhanh may ra còn cứu vãn nổi. Chiếc Vios chạy đến cuối một con ngõ đâm ra đường lớn Kim Long. “Cẩn thận cháu, có xe ngược chiều.” Ông thốt lên từ ghế sau. Bỗng một tiếng nổ dưới gầm làm họ giật bắn mình. Chiếc xe lạng sang một bên, húc mạnh vào vệ đường. CHƯƠNG 8 K ỳ Phương chết điếng như bị sập bẫy, anh buông chiếc áo phụ nữ sặc mùi khỏi tay rồi quay mặt lại thấy một tốp người đã đứng sau lưng. Nhân lúc sơ hở, cô gái vội nhặt chiếc áo che lên người rồi lủi sau chiếc tủ bếp. “Hắn đang cưỡng hiếp!” Một giọng lè nhè vang lên từ đám đông. “Không, không phải như vậy. Oan cho tôi lắm. Kỳ Phương kêu lên. “Bắt quả tang rành rành mà còn chối hả?” Ai đó gầm lên. “Chính cô ta tự cởi ra. Kỳ Phương cãi lại. “Tôi chỉ ngăn cô ta đốt áo. “Ngăn cô ta mặc áo thì có, vẫn cái giọng lè nhè đó rống lên. “Tao thấy rõ ràng mày vật nhau với cô ấy. Bay đâu, gô cổ hắn lại còn chờ gì nữa?” Tốp người nhốn nháo, tiếng chửi bới lẫn gọi nhau đầy háo hức như cả họ đi đánh ghen. Lí ngay tình gian. Kỳ Phương bất lực để hai người mặc áo dân phòng lao tới bẻ cánh gà trói lại. Một tay trung niên thấp bé, đầu đội mũ bảo hiểm sùm sụp đi vào chỉ mặt Kỳ Phương nói. “Giở trò đồi bại nơi chùa chiền, có coi trời Phật là gì nữa không hả?” Kỳ Phương hất hàm về cô gái. “Giữ chiếc áo kia kẻo nó phi tang” Vẫn đeo mặt nạ, cô gái thà hở ngực chứ nhất quyết không để lòi mặt cho ai thấy. Kỳ Phương rất ngại cô gái vu khống anh hiếp dâm nhưng cho đến lúc này cô ta chưa để lộ giọng nói lẫn khuôn mặt. Người hiếu kì mỗi lúc một đông. Chả mấy chốc quanh họ có cả đám đông như đang xem hội. “Sư thầy chết hẳn rồi.” Ai đó nói to. “Tao báo công an rồi, giữ đôi này tại chỗ. Họ nói sẽ đến ngay đấy” Trên tay Kỳ Phương vẫn còn dây máu của sư thầy. Anh biết mình cùng một lúc dính dáng đến cả hai vụ án giết người và hiếp dâm. Nghĩ đến đây, Kỳ Phương bỗng run sợ và hối hận tột cùng. Chao ôi, nghi lễ lịch sử thiêng liêng của Hội Đạo sĩ cơ mật là đây ư? Bạch Lan đang ở đâu? Câu nói cô ta vẫn lanh lảnh bên tai “Em dành sự ưu ái này cho anh”. Ưu ái là đây sao? Chẳng khác gì tạo cái bẫy rồi ưu ái đẩy anh chui vào. Gã đội mũ bảo hiểm đi vào nhìn Kỳ Phương như để tận mắt thấy kẻ sát nhân đồi bại nhất lịch sử rồi nhìn vào cô gái vừa bị xâm hại. “Không để cô ta xé chiếc áo. Kỳ Phương tha thiết van nài. “Lấy chiếc áo trên tay cô ta. Trên đó có bút tích của sư thầy. Gã đội mũ bảo hiểm với sự trợ giúp của chiếc gậy đã giật phăng chiếc áo lụa khỏi tay cô gái rồi quay lại nói với toán dân phòng bằng chất giọng sặc mùi rượu. “Hãy đưa con bé này sang nhà kho chờ tao. Tuyệt đối không được đứa nào đụng vào người nó đấy.” Một người thương hại cởi áo mình cho cô ta mặc trước khi bị lôi xềnh xệch ra ngoài. Nghi phạm bị nhốt tại chỗ. Bóng tối ập đến, anh ngồi bệt xuống đất, đờ đẫn hoang hoải. Dòng chữ Nôm cùng bộ ngực căng đầy lại hiện lên nhảy múa trong óc anh. (Xem ảnh) Tại sao hòa thượng lại phải viết chữ Hán - Nôm vốn không mấy ai hiểu được thời nay? Nhà sư viết chữ đó lên ngực áo cô gái để nhắn nhủ gì cô ta chăng? Mà cô kia là ai cơ chứ? Chính cô ta giết nhà sư hay là một kẻ khác nữa? Kỳ Phương không tài nào hiểu nổi cái gì đang diễn ra nữa. Tất cả như một cơn ác mộng kinh hoàng ập đến. Anh tập trung trí lực hồi tưởng lại dòng chữ đỏ thẫm trên áo nhưng hình ảnh mờ nhạt đó lướt quá nhanh nên không thể đọc hết. Lúc chiếc áo rơi xuống, trên bộ ngực trần bỏng sém của cô ta còn dính nhiều vết chữ nhưng anh không nỡ nhìn lâu. Lúc này anh chỉ còn láng máng nhớ vài chữ. Bốn chữ này có nghĩa là: BAO. CHÀNG. LÚT. EM. Kỳ Phương cố gắng thư giãn để hồi phục lại những hình ảnh đã lỡ nhìn thấy trong mấy giây kinh hồn vừa qua. Hình như đây là một phần câu thơ cổ nào đó. Mấy từ Hán - Nôm này có đơn nghĩa hết sức dung dị, đời thường, không xứng với một thư tịch của vua như Bạch Lan nói. Nhưng nếu tầm thường thì nhà sư đã không phải phá giới viết lên trên ngực áo phụ nữ ngay trong lúc hấp hối như vậy. Một lời răn dạy của Phật chăng? Có thể! Bao nhiêu năm nay, con người vật vã đảo điên để giành giật những điều tầm thường vô nghĩa mà bỏ quên đạo làm người. Nếu đi chùa, họ cũng chỉ để cầu xin tiền tài danh vọng chứ không phải để dưỡng tâm thiền định nữa. Sinh thời, lão Hòa thượng Thích Đại Pháp trụ trì chùa Diệu Đế này là một thiền sư nức danh cả nước với trí tuệ uyên thâm và lòng từ bi vô lượng. Sư không ngại tuổi tác lẫn đường sá xa xôi để mang đến chúng sinh những giáo huấn vàng ngọc của Đức Phật. Bao nỗ lực của những người như ông đã thắp lên những đốm lửa hiếm hoi giữa đêm trường tối tăm của nhân loại. Đau lòng thay, con đường truyền pháp gian nan khổ hạnh của ông đêm nay bất ngờ dừng bước trước một phụ nữ và trong giây phút cuối đời ông đã kịp để lại một lời sám hối nào chăng? Có thể! Nhưng khi nghĩ đến mấy chữ “lút; em; bao; chàng” mà ông để lại trên áo đàn bà, Kỳ Phương không tin đến điều cao cả nữa, thậm chí nó tầm thường và dung tục hơn anh tưởng. Một nhà sư lén lút trao nhầm chỗ những chữ trần trụi lên người cô gái đã làm cho niềm tôn kính của anh với vị hòa thượng này gần như sụp đổ. Trước đây, Kỳ Phương tuyệt đối tin tưởng tư cách của những vị chân tu cao đạo này nhưng một thực tế cần thừa nhận là xưa nay có không ít những nữ cư sĩ rất ái mộ những vị tăng sĩ đẹp trai có lối ăn nói cuốn hút. Nhiều cô gái trẻ đã dành tình yêu đơn phương của mình cho họ dù biết đối phương không bao giờ phá giới. Thiên tình sử “bàn tay nhà sư và nước mắt công chúa” là một câu chuyện tình cảm động có thật được sử sách nhà Nguyễn chép lại giữa công chúa Nguyễn Thị Ngọc Anh và thiền sư đáng kính đất phương Nam Liễu Đạt Thiệt Thành. Nàng công chúa thứ ba của vua Gia Long này vốn xinh đẹp nết na nên được vua cha vô cùng yêu quý. Trong một lần trốn quân Tây Sơn năm 1801, nàng đã xin ở lại trong một ngôi chùa nguyện ăn chay niệm Phật. Đến khi Minh Mạng lên ngôi, ông liền triệu hồi cô về kinh thành. Nàng hoàn tục chưa được lâu thì xuất hiện một nhà sư uyên bác đức độ hơn người đất phương Nam là Liễu Đạt Thiệt Thành. Vị quốc sư quê miền Nam này cao lớn, khôi ngô tuấn tú, phúc hậu, oai nghiêm đĩnh dạc và có tài hùng biện bằng giọng nói truyền cảm. Khi Minh Mạng mời ông về chùa Thiên Mụ thuyết pháp và giảng dạy cho gia tộc Nguyễn, trong lần gặp gỡ đầu tiên, công chúa Ngọc Anh đã bị tiếng sét ái tình giáng trúng. Dù biết thiền sư đã là người nhà Phật không thể dính vào duyên trần nhưng nàng không thể nén nổi lòng mình và tìm mọi cách để đạt được mong ước luôn réo giục con tim thiếu nữ. Khi biết công chúa yêu mình, thiền sư vô cùng khổ tâm và dùng Phật pháp để hóa giải mong cô tỉnh ngộ khỏi mối tình trái ngang này nhưng mọi cố gắng của Thiền sư không làm cô tỉnh cơn si mà mà càng trở nên mê đắm ông hơn. Sự việc trầm trọng đến mức thiền sư đã bỏ trốn để về chùa Từ Ân tận trong Gia Định. Không cam phận chia lìa, công chúa lên đường vào Nam và công cuộc tìm kiếm gian nan, khổ hạnh bắt đầu. Bên trốn càng trốn biệt, bên tìm càng tìm riết. Thiền sư trốn vào tịnh thất đóng cửa cự tuyệt, còn công chúa tuyệt thực đòi quyên sinh. Rốt cuộc công chúa đã dụ được thiền sư đưa tay ra ngoài cửa sổ cho cô nhìn. Khi thiền sư đưa tay ra thì công chúa si tình đã nắm lấy hôn say đắm bàn tay đó. Nước mắt hòa trộn vời lời than khóc tràn trề bàn tay thiền sư. Đêm hôm đó người ta thấy một ngọn lửa bùng lên trong tịnh thất của thiền sư. Mọi người đến dập tắt thì nhục thân của ngài đã cháy đen. Điều kì lạ là trong đống tro tàn, bài kinh của ngài vẫn ánh lên trên vách tường. Thiệt đức rèn kinh vẹn kiếp trần Thành không vẩn đục vẫn trong ngần Liễu tri mộng huyễn chân như huyền Đạt đạo mình vui đạo mấy lần. Bốn chữ đầu kết thành câu thơ: Thiệt Thành Liễu Đạt. Đau lòng hơn, lo nhập thất cho thiền sư xong, công chúa đã uống thuốc độc tự vẫn, đó là ngày mồng hai tháng mười một năm Minh Mạng thứ ba. Kỳ Phương quên hẳn mình bị trói tay trong phòng tối khi câu chuyện tình bi thương đó đang chầm chậm trôi trong đầu. Rốt cuộc chuyện gì đang xảy ra đêm nay? Liệu câu chuyện tình sử bi ai đó có bao nhiêu phần giống với lão Hòa thượng Thích Đại Pháp và cô gái giấu mặt hôm nay? Nếu dòng chữ bằng máu trên áo cô gái cũng thống thiết cao cả như câu thơ của thiền sư Thiệt Thành Liễu Đạt thì tại sao cô ấy phải phi tang? Anh đang nghĩ mông lung thì có tiếng mở khóa rồi một ánh đèn pin chiếu vào buồng. “Đây ạ, chúng tôi đã bắt quả tang hắn tại chỗ” “Mở trói cho anh ta và dẫn ra ngoài.” Có tiếng đáp lại. Gã lùn đội mũ bảo hiểm vào cởi trói cho Kỳ Phương rồi để anh tự đi theo viên cảnh sát ra chính điện. Lúc này điện đóm sáng choang cả chùa. Cảnh sát cùng sư sãi áo quần vàng rợp tụ tập tại hiện trường hệt như một tòa án tôn giáo bày sẵn để phán quyết hung thủ. Không thấy nhà sư nằm ở đó nữa, Kỳ Phương cảm thấy nhẹ cả người nhưng sàn nhà vương vãi mảnh thủy tinh lẫn vết máu loang lổ cũng đủ làm anh gai người. Kỳ Phương nhìn xuống nền nhà in chi chít dấu dép tổ ong quanh một hình người đang nằm được vẽ tỉ mỉ bằng phấn phản quang. Tay phải hình người chĩa ra ngoài cùng ngón trỏ ngóc lên như đang chỉ. Tay trái hơi khum vào như thể đang ôm một vật vô hình nào đó. Hai chân hơi dạng ra, duỗi thẳng đầy vẻ gượng ép. Còn cổ thì hơi vẹo về phía tường hồi như thể đang cố gắng nhìn lên mấy bức tranh. Kỳ Phương ngước mắt lên và nhận ra một trong bốn bức tranh kính khổ lớn đã biến mất. “Nhìn gì?” Một tiếng quát sau lưng làm anh giật mình quay lại. Một sĩ quan áo vàng thấp đậm có chiếc đầu hói tròn trịa, cặp ria mép lơ phơ đang đứng giữa đám đông giống hệt một anh hề bắt đầu diễn. Để Kỳ Phương nhìn ngó một lúc, ông ta mới cất tiếng. “Lúc anh đến là mấy giờ?” “Tôi đến lúc gần 2 giờ sáng” Ông ta đưa tay xem đồng hồ rồi hất hàm nhìn sang một người đội mũ kepi đang cầm cuốn sổ. “Chép thật kĩ vào.” Kỳ Phương khai hết đầu đuôi một cách mạch lạc, đến đoạn tả cô gái bỏ chạy thì anh chợt nhớ ra. "À còn chiếc áo dài nữa, tôi cần lấy chiếc áo ấy ra đây” “Tôi đang hỏi anh đến đây làm gì?” Kỳ Phương nhớ đến tấm giấy mời vẫn trong túi áo nhưng chưa kịp nói thì từ phía sau hậu điện, gã đội mũ bảo hiểm thình lình xông ra giọng hốt hoảng “Báo cáo các anh... cô ta chạy mất rồi!” “Tại sao?” Viên đầu hói gầm lên,“Có người gác cơ mà!” Toán người nhốn nháo xô đẩy nhau chạy về phía sau. Viên đầu hói rút phắt bộ đàm rồi hô đanh. “Bao vây ngôi chùa ngay lập tức. Chặn ngay các ngõ phố và khám xét bất cứ ai khả nghi.” Toán cảnh sát đang chực ngoài sân liền túa ra mọi hướng. Ông ta đút máy vào túi rồi cũng chạy ra sân sau tức tối nhìn cửa sổ đã bị gãy một song gỗ. Vốn là một nhà kho lương thực không mấy kiên cố nên ông đã cho gã đội trưởng dân phòng canh gác bên ngoài. Ông nghĩ rằng kẻ muốn chạy trốn phải là thằng nghi phạm kia chứ đâu phải nạn nhân như cô ta. Định thẩm vấn xong Kỳ Phương, ông sẽ đưa cô ta ra đối chứng nhưng ai ngờ. Việc cô ta bất ngờ bỏ trốn nói lên đây minh mới là nghi phạm số một. Viên đầu hói trút bực tức lên gã đội trưởng. “Đã bảo canh một lát thôi, cậu để mắt đi đâu?” Gã cởi cái mũ trên đầu gãi gãi vẻ biết lỗi. “Em cũng canh chặt lắm. Cửa lại khóa ngoài. Cô ta cũng đâu có dấu hiệu bỏ chạy. “Thế lúc nó phá cửa thì cậu ở đâu hả?” Gã lắp bắp, miệng còn phả hơi men nồng nặc. “Dạ... em đi vào nhà tắm tìm... kem đánh răng ạ” “Trời ạ! Đánh răng lúc này để làm gì hả thằng điên?” “Không phải đánh răng, chả là em đang ngồi ngoài thì cô ta đập cửa bên trong. Em ghé tai qua cửa sổ thì nghe tiếng cô ta rên rỉ đau đớn. Em hỏi thì cô ta khóc lóc nói là bị bỏng nặng. Nghĩ cô ta lấy cớ để đòi ra ngoài nên em bảo cứ yên tâm sẽ có người mang thuốc đến. Cô ta không chịu cứ một mực đòi ra. “Thế là mày cho nó ra luôn?” “Dạ đâu có ạ. Cô ta kêu đau rát ở ngực. Em hỏi có nặng lắm không thì cô ta bèn cởi cúc áo cho em xem. Ôi trời ơi... xót quá, trên ngực cô quả đúng là có vết bỏng phồng lên rất to...” Gã gãi đầu lắp bắp làm cho toán dân phòng đang trợn trừng mắt cũng phải phì cười. “Thế rồi sao? Kể tiếp đi!” Viên đầu hói tò mò. “Cô ta nài nỉ em đi hái lá diếp cá hoặc lấy kem đánh răng cho cô ta bôi tạm cũng được. Làm sao em nỡ để cô ta đau đớn như vậy được chứ. Thế là em...” “Thế là toi!” Viên đầu hói ngán ngẩm. “Mẹ khỉ, cứ đàn bà hở cái gì ra là chúng mày lú lẫn hết là sao? Thôi, nó chạy mẹ từ đời tám hoánh nào rồi.” Ông ta rút bộ đàm quát tháo inh ỏi đám lính ngoài cổng rồi quay lại chính điện. Kỳ Phương ngồi trên bậu cửa, mắt nhìn đăm đăm lên bộ tứ bức tranh kính tuyệt đẹp của vua Thiệu Trị đã bị khuyết một bức mà lòng không khỏi xót xa. Đây là một kiệt tác cổ hiếm hoi có niên đại gần hai trăm năm còn nguyên vẹn. Một kỉ vật quý mà vua Thiệu Trị dâng tặng cho chùa để tri ân nơi đã nuôi dạy ông khôn lớn. Bốn bức tranh diễn tả bộ tứ linh: long - lân - quy - phượng kèm những bài thơ vịnh cảnh đẹp cố đô do chính vua Thiệu Trị sáng tác. Kỳ Phương tin chắc hầu hết du khách vào đây không hề biết rằng bộ tranh này được những nghệ nhân bậc thầy nhà Thanh chế tác và vẽ lại ý tưởng của sứ giả Đại Nam mang sang đặt hàng. Mỗi bức nặng không dưới chục cân, nếu rơi trúng đầu thì trâu bò còn gục huống hồ là một nhà sư có tuổi, số nhưng vì sao bức tranh rồng lại rơi và rơi đúng đầu nhà sư là một câu hỏi khó. Viên đầu hói đã xuất hiện trở lại. Tuy bị mắng té tát nhưng mỗi khi ông ta đi đâu, toán dân phòng vẫn lẽo đẽo đi theo như một gánh hề. Bên chiếc bàn ngoài sân vẫn có một vài cảnh sát đang lấy lời khai của mấy người. Rất tiếc không ai làm chứng cho anh vô tội bởi họ không có mặt lúc nhà sư gặp nạn. Kỳ Phương vẫn âm thầm đợi Bạch Lan đến nhưng nhìn quanh chỉ thấy những khuôn mặt lạ hoắc nhìn anh đầy ác cảm. Viên đầu hói đưa tay hất lọn tóc hiếm hoi ra sau gáy rồi đưa mắt tìm trong đám đông. “Các vị ở đây, những ai đã nhìn thấy mặt cô gái vừa chạy trốn?” Một dân phòng khác lên tiếng. “Tôi thấy, chính tôi đã lột chiếc mặt nạ của cô ta ra.” “Mặt mũi cô ta trông thế nào?” “Trời tối nên tôi nhìn không rõ. Vả lại cô ta luôn cúi đầu che mặt. Chỉ áng chừng trên dưới ba mươi và cao chừng một mét bảy.” “Có ai nhìn thấy nữa không?” Tất cả nhìn nhau lắc đầu. Ông ta quay sang gã đội mũ bảo hiểm. “Anh là thằng đứng gần nhất và lâu nhất, tả đi xem nào” Gã gãi đầu phân trần. “Lúc đó rất tối. Vả lại chúng tôi cũng ngại soi đèn vào một cô gái áo xống như vậy nên cũng chẳng thấy rõ mặt.” “Tối vậy mà mày còn thấy vết bỏng trên ngực cô ta cơ mà?” Gã xoa khoảnh trán đỏ au vì cả ngượng lẫn rượu rồi nói. “Tôi cũng thấy loáng thoáng khuôn mặt trái xoan, tóc ngắn, lông mày dài và hình như có nốt ruồi ở đuôi mắt thì phải. “Ghi chép thật kĩ. Lát nữa sẽ mời họa sĩ đến dựng lại chân dung cô ta đấy” Ông ta nhắc cấp dưới. Lúc đó, một sư nữ đi tới nói. “Sư có thấy mặt cô ta”. “May quá.” Viên đầu hói vồ lấy. “Vậy sư cô có thể mô tả lại được không?” “Tả lại cũng không biết nói thế nào. Nếu gặp lại sư nhận ra ngay.” Ông ta bước về phía Kỳ Phương hất hàm. “Anh là người vật lộn với cô ta, chẳng lẽ không thấy gì?” “Lúc đó cô ta đeo mặt nạ. Nếu các vị ấy tả lại được, tôi sẽ vẽ lại chân dung cô ta cho.” “Anh là họa sĩ à?” “Kiến trúc sư. Vẽ khá tốt.” “Được lắm! Hãy mang giấy bút lại đây.” Kỳ Phương ngồi xuống ghế và lần đầu tiên trong đêm nay cảm nhận được tầm quan trọng của mình. Mấy viên cảnh sát xúm quanh hồi hộp chờ đợi khuôn mặt bí ẩn hiện lên trên giấy nhưng Kỳ Phương không vẽ được ngay. Anh đang rát cả tay do vết bỏng và sợi dây siết còn đang lằn máu. Anh biết đây không phải vẽ tranh nghệ thuật. Chỉ sai lệch vài nét, có thể dẫn đến ai đó bị bắt oan hoặc bỏ sót nghi phạm. Kỳ Phương ngồi hình dung cô gái đã làm anh từ hoảng hốt, sợ hãi đến tức giận. Căn cứ mấy lời khai chắp vá, anh vẽ lại lên giấy. Gần đây, nhiều họa sĩ vẽ chân dung qua lời kể nhân chứng đã đạt tới trên chín mươi phần trăm thành công. Sau một hồi nắn nót xóa đi tẩy lại, cuối cùng một khuôn mặt “Có chút gì rất Huế” vẫn hiện ra. Viên cảnh sát cầm lên ngắm nghía rồi đưa cho gã đội trưởng dân phòng. “Giống không?” Gã cầm lên lắc lắc đầu. “Mỗi tóc và nốt ruồi thì giống. Nhân trung có lẽ phải sâu hơn, cằm tròn và mũi cao hơn chút nữa. Viên đầu hói chuyển sang gã dân phòng thứ hai. Gã này tỏ vẻ ngạc nhiên. “Giống phết, nhưng đôi môi phải mọng hơn tí nữa mới chuẩn.” Viên cảnh sát lườm chúng rồi nói. “Té ra chúng mày soi cũng kĩ phết đấy chứ. Vậy mà lúc nãy cứ lúng ba lúng búng như ngậm hột thị ông ta quay sang sư nữ. “Sư cô có thấy giống không ạ?” Nhà sư nheo mắt nhận xét. “Sư thì thấy cô gái này không tươi như hoa thế này đâu. Em nó khóc lóc cau có suốt buổi cơ mà.” Kỳ Phương thêm thắt các nét mới vừa thu thập thêm. Anh sửa đi sửa lại cho đến khi tất cả đều công nhận là giống mới thôi. Hài lòng nhất là viên đầu hói. Với nghiệp vụ của họ, chân dung thế này là quá đủ. Cộng thêm những dấu vết tại hiện trường, ông tin sẽ tóm được cô ta ngay đêm nay. Kỳ Phương trao tờ giấy cho ông ta rồi nghiêm túc nói. “Còn một đặc điểm nhận dạng cực kì quan trọng nữa, đây mới là dấu hiệu chính xác tuyệt đối. “Là gì? Sao không vẽ vào?” “Cái này không thể vẽ nổi.” Kỳ Phương làm động tác cởi cúc áo. “Vết bỏng nằm trên bầu ngực. Kích cỡ khoảng nửa bàn tay nằm trên đỉnh ngọn núi. Có đúng không anh dân phòng?” Gã dân phòng vỗ bốp vào mũ bảo hiểm rồi liếc xéo Kỳ Phương. Viên đầu hói lấy bút ra ghi một dòng chữ đậm ngay dưới bức tranh: “Chú ý: Nghi phạm có vài vết bỏng khá lớn trên ngực.” Một viên cảnh sát bật ipad chụp bức tranh. Sau vào thao tác, các chốt chặn trên địa bàn thành phố đã nhận được ảnh và chỉ vài tiếng nữa, chân dung nữ nghi phạm số một sẽ in đầy mặt báo. Kỳ Phương nhìn đám người đang bị ngăn lại ngoài cổng và nghĩ đến Bạch Lan có thể đang chờ anh ở đó. “Tôi về được rồi chứ?” Anh nói với viên đầu hói. “Chưa được, anh hãy đi cùng tôi về đồn. Kỳ Phương hi vọng họ sớm bắt được cô gái kia để minh oan cho anh, nếu không tình hình của anh sẽ đen tối hơn. Anh bị lôi ra ngoài sân để lên xe thùng đang chờ sẵn. Lúc bước qua hội trường thoang thoảng mùi hương trầm cháy dở, anh vẫn cảm nhận được không khí uy nghiêm u tịch của cái “nghi lễ cổ xưa” như thể vẫn đang thầm lặng diễn ra bởi những bóng ma và linh hồn của quá khứ. """