"
Mẹ Frisby và Gia Đình Chuột - Robert C. O"Brien full prc pdf epub azw3 [Thiếu nhi]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Mẹ Frisby và Gia Đình Chuột - Robert C. O"Brien full prc pdf epub azw3 [Thiếu nhi]
Ebooks
Nhóm Zalo
MRS FRISBYAND THE RATS OF NIMH
Copyright © 1971, by Robert C. O’Brien
All Rights Reserved. This edition published by arrangement with The Karpfinger Agency through Andrew Nurnberg Associates International Limited.
Xuất bản theo hợp đồng chuyển nhượng bản quyền giữa The Karpfinger Agency thông qua Andrew Nurnberg Associates International Limited và Công ty TNHH Sách Phương Nam.
Bản quyền tiếng Việt © Công ty TNHH Sách Phương Nam, 2012.
Mọi sao chép, trích dẫn phải có sự đồng ý bằng văn bản của Công ty TNHH Sách Phương Nam.
Timothy Frisby ngã bệnh
Chị Frisby là chủ một gia đình chuột đồng, sống trong căn nhà ở sâu dưới lòng đất trong vườn rau ông chủ trại người tên là Fritzgibbon. Nhà này chỉ ở trong mùa đông, nhiều hộ chuột đồng vẫn hay dời nhà vào rừng khi tới mùa thức ăn thiếu thốn và đời sống trong rừng hay bãi chăn thả trở nên khó khăn. Còn lớp đất mềm trong luống đỗ, khoai tây, măng tây hay đậu rốn nâu trong vườn là nguồn thức ăn thừa thãi cho họ nhà chuột sau khi con người đã thu hoạch xong phần mình.
Chị Frisby cùng gia đình tìm được cái nhà này cũng là may mắn lắm. Đấy là một khối bê tông có hơi sứt mẻ, loại rỗng ruột với hai lỗ trái xoan xuyên từ mặt này sang mặt kia. Không hiểu vì sao nó bị bỏ lại trong vườn suốt mùa hè, gần như lấp hẳn dưới đất, nếu không có mẩu góc ló lên chị Frisby đã không phát hiện được. Cái khối bê tông nằm nghiêng nên hai vách đặc trở thành trần và sàn nhà, cả hai đều không thấm nước, còn khoang rỗng thì đủ làm hai phòng rộng ơi là rộng. Lá cây lá cỏ, vải vụn nùi bông, lông chim và các thứ mềm mềm khác được chị Frisby và các con nhặt nhạnh về lót, giúp cho căn nhà khô ráo, ấm áp dễ chịu suốt mùa đông. Họ đào đường hầm dẫn lên mặt đất bên mé đông khu vườn, vừa đủ rộng hơn cái thân chuột và hẹp hơn chân trước của mèo một chút, nó không chỉ là đường đi lại mà còn thông khí và thậm chí chiếu sáng khá đủ cho phòng khách. Còn phòng ngủ ở lỗ trái xoan thứ hai thì ấm nhưng tối, ngay giữa trưa cũng vậy. Một đường hầm ngắn đào vào đất đằng sau khối bê tông làm lối đi giữa hai phòng.
Ở góa nuôi con (bố lũ trẻ vừa mất hè rồi) nhưng nhờ may mắn và làm lụng tần tảo mà các con chị Frisby - bốn đứa tất cả - vẫn được vui và no đủ. Tháng Giêng, tháng Hai là hai tháng khó khăn nhất. Đợt rét căn cắt bắt đầu từ tháng Chạp kéo dài đến hết tháng Ba, mà cuối tháng Hai thì đậu thường cùng đậu rốn nâu đã bị nhặt sạch rồi (cũng do cả bầy chim nữa), rễ măng tây đã đóng cứng thành đá, khoai tây thì rã đông rồi đông lại không biết bao nhiêu lần, đã thành nhơn nhớt và nếm có vị ôi. Nhưng nhờ mẹ con nhà Frisby chịu khó giật gấu vá vai nên vẫn xoay xở đủ để không bị đói.
Rồi một hôm khi tháng Hai sắp qua đến nơi, đứa con nhỏ của chị Frisby là Timothy đổ ốm.
Buổi sáng ngày hôm ấy trời khô và giá buốt. Chị Frisby dậy sớm, vì hôm nào chị cũng dậy sớm như vậy. Chị và các con ngủ sát cạnh nhau trên giường lót lông tơ, bông và vải giẻ nhặt các nơi về, ấm như một cuộn lông.
Chị ngồi dậy thật khẽ khàng để khỏi làm động các con, nhẹ nhàng đi qua đường hầm ngắn sang phòng khách. Bên này không ấm bằng nhưng cũng không quá lạnh. Nhìn qua ánh sáng lọt xuống qua cửa đường hầm chính, chị thấy mặt trời đã lên rất cao. Chị xem lại thức ăn trong chạn, là một hốc khoét vào đất đằng sau phòng khách, đáy lót sỏi nhỏ. Còn rất nhiều đồ ăn cho bữa sáng, cho cả bữa trưa và tối nữa, nhưng chị nhìn mà rầu lòng, bởi đấy vẫn là thứ đồ ăn chán ngấy nhà chị đã ăn hàng ngày, hàng bữa suốt tháng rồi. Chị ước giá mình biết có chỗ nào tìm được một lá diếp xanh, quả trứng nhỏ, mẩu phó mát hay miếng bánh ngô. Trứng thì ở ngay gần đây có kha khá, trong chuồng gà. Nhưng gà mái và trứng gà đều thuộc loại ngoại cỡ mà hạng ruồi như chuột đồng không kham nổi, chưa kể từ nhà chị đến chuồng gà sẽ phải qua một vạt cỏ và cây bụi rất rộng, nhiều chỗ mọc khá cao. Lãnh địa của mèo.
Chị theo đường hầm lên mặt đất, râu thò lên trước, cảnh giác nhìn quanh. Khí trời lạnh gắt, sương muối trắng đọng dày trên mặt đất và trên đám lá rụng bên rìa rừng đằng kia mảnh vườn.
Chị Frisby băng qua lớp đất vườn đánh luống sơ, đến hàng rào thì rẽ phải, chạy quanh mép rừng, đôi mắt tròn sáng sục sạo tìm một mẩu cà rốt, một củ cải đóng băng, hay bất cứ cái gì màu xanh. Nhưng chẳng cái gì xanh còn trụ lại được vào mùa đó trừ lá kim trên cây thông hay lá cây nhựa ruồi, chẳng phải thứ mà chuột - hay bất cứ con gì - ăn được.
Và rồi ngay trước mặt chị bỗng hiện ra một vệt xanh xanh. Lúc này chị đã chạy đến tít góc đằng kia mảnh vườn, và ở ngay chỗ bìa rừng giáp với hàng rào có một gốc cây cụt. Trong gốc cây có một cái lỗ, trong lỗ thò ra vật gì nhìn hơi giống lá nhưng không phải.
Chị Frisby dễ dàng lọt qua hàng rào mắt cáo lớn, nhưng chị tới gần cái lỗ vô cùng thận trọng. Nhìn có
vẻ như gốc cây này rỗng, mà nếu đúng thế thì ai biết được có con gì hay cái gì sống bên trong.
Còn cách cái lỗ khoảng một bộ thì chị dừng lại, đứng yên nhìn và nghe ngóng. Không nghe tiếng động gì cả, nhưng đứng đó chị nhìn rõ hơn cái vật xanh xanh kia. Đúng hơn là xanh pha vàng và một tí nâu: một mẩu áo ngô đấy. Nhưng sao ở đây lại có áo ngô? Đồng ngô ở tận đầu kia trang trại, tít bên kia bãi chăn thả cơ mà. Chị Frisby nhảy đến gần hơn rồi thận trọng bò lên sườn gốc cây ngó vào trong. Khi mắt đã nhìn quen với bóng tối, chị thấy trước mắt là cả một kho tàng: dự trữ lương thực đủ dùng cho suốt mùa đông, tích lũy cẩn thận rồi không hiểu vì sao bị quên hay bỏ lại.
Nhưng ai là người tích trữ? Gấu trúc chăng? Không có lẽ, ở đây quá xa dòng suối. Chắc là sóc hay chuột chũi rồi. Chị biết cả hai loài đó năm nào cũng thoải mái thăm viếng đồng ngô, và cũng đủ khỏe để tha các bắp ngô đi xa mà cất trữ.
Nhưng dù là ai đi nữa thì tại sao bỏ lại kho thức ăn? Rồi chị nhớ ra. Hồi tháng Mười một gần bìa rừng đã vang lên cái tiếng động khiến mọi loài vật trong rừng đều run rẩy chui vào chỗ núp - tiếng súng săn nổ, thứ tiếng động mà với ai đó sẽ kèm theo cơn đau xé thịt. Và hắn sẽ chẳng bao giờ còn cần đến kho đồ ăn.
Nhưng vì còn không biết đó là loài vật nào, cũng chẳng biết tên của hắn, chị Frisby chẳng thể khóc thương hắn nhiều - mà đây dù sao cũng là đồ ăn. Không phải rau diếp xanh như chị đã mơ tưởng, nhưng cả chị lẫn đàn con đều khoái ngô kinh khủng, và trong gốc cây có đến tám bắp ngô lớn, quả là báu vật đối với bất cứ gia đình chuột nào. Dưới mấy bắp ngô chị còn thấy một vốc lạc còn tươi (từ một đầu trang trại khác nữa), mấy hạt mạy châu và một lô nấm đã héo tỏa mùi ngòn ngọt.
Chị dùng móng chân trước và răng xé rách một phần vỏ áo bắp ngô trên cùng rồi gập đôi lại tạm dùng làm bao đựng. Rồi chị tẽ các hạt vàng óng vừa đủ sức mang, đặt hết vào bao áo ngô và thoăn thoắt chạy về nhà. Ăn sáng xong chị sẽ quay lại lấy thêm và đem cả tụi nhỏ theo giúp.
Chị chui giật lùi trở lại đường hầm, đuôi xuống trước, kéo bao ngô xuống theo, vừa đi vừa hớn hở gọi to:
“Các con ơi! Dậy đi! Xem mẹ có gì ăn sáng này! Bất ngờ lớn nhé!”
Lũ trẻ chạy ùa ra, dụi lấy dụi để mắt vì phấn khởi, bởi thức ăn mà có bất ngờ là một chuyện hiếm có đáng ăn mừng trong mùa đông lạnh chết người. Teresa, cô chị cả, chạy ra đầu tiên. Chạy sát đằng sau là Martin, đứa to con nhất, khỏe và nhanh nhẹn, lông đen và điển trai giống hệt ông bố quá cố. Rồi đến Cynthia út ít, một cô bé chuột thon thả xinh đẹp, lông màu sáng và tình thực là đầu óc hơi lãng đãng, cô nàng mê nhất là nhảy nhót.
“Đâu rồi?” nó hỏi. “Đấy là cái gì? Bất ngờ gì thế?”
“Timothy đâu?” chị Frisby hỏi.
“Mẹ ơi,” Teresa nói vẻ lo lắng, “em nó nói nó ốm, không dậy được.”
“Chỉ nói linh tinh. Martin, bảo em con dậy khỏi giường ngay, không thì không được ăn sáng đâu.” Martin ngoan ngoãn chạy lại phòng ngủ nhưng chốc sau đã quay lại có một mình.
“Nó nói nó mệt lắm, không muốn ăn gì đâu, không cần cả bất ngờ nữa. Con sờ trán thấy nó nóng phừng phừng.”
“Ôi trời ơi,” chị Frisby nói. “Có vẻ lần này nó ốm thật rồi.” Đã có vài dịp Timothy nghĩ là mình ốm dù chẳng có chuyện gì cả. “Đây, các con ăn sáng cả đi - chừa phần lại cho Timothy nhé - để mẹ đi xem có chuyện gì.”
Chị cởi bao đựng đổ hạt ngô lên bàn, chia thành năm phần bằng nhau. Bàn ăn là một miếng gỗ phẳng hai đầu đặt lên hai hòn sỏi.
“Ngô à!” Martin hét lên. “Nhất mẹ rồi. Mẹ kiếm được ở đâu thế?”
“Ăn đi,” chị Frisby ra lệnh, “rồi chốc nữa mẹ sẽ chỉ cho các con, vì ở đó vẫn còn nhiều lắm.” Và chị biến mất trong hành lang nhỏ dẫn sang phòng ngủ.
“Vẫn còn nhiều lắm,” Martin lặp lại khi ngồi xuống cạnh hai chị em. “Có vẻ là đủ cho tới ngày dọn nhà đấy.”
“Em hy vọng thế,” Cynthia nói. “Nhân thể hôm nào dọn nhà ấy nhỉ?”
“Hai tuần nữa,” Martin nói vẻ hiểu biết. “Có thể là ba.”
“Martin này, làm sao em biết được?” Teresa phản đối. “Nếu trời cứ rét tiếp thì sao? Chưa kể, nhỡ may Timothy chưa khỏe lại thì sao?”
Ý nghĩ đáng sợ ấy được nhắc đến có vẻ tình cờ nhưng vẫn khiến tất cả đều lo lắng và im lặng. Rồi Cynthia nói:
“Teresa, chị đừng có bi quan thế. Tất nhiên là anh ấy sẽ khỏe lại rồi. Anh ấy chỉ cảm cúm chút thôi. Có thế thôi.” Nó ăn nốt phần ngô và cả hai đứa kia cũng vậy.
Trong phòng ngủ chị Frisby sờ trán Timothy. Chú nhóc quả nóng hầm hập và đẫm mồ hôi. Chị bắt mạch cho chú rồi hoảng hốt đánh rơi cả tay chú xuống.
“Con có đau bụng không đấy?”
“Không mẹ ạ. Con khỏe, mỗi tội lạnh thôi, với cả lúc nào ngồi dậy con đau đầu lắm. Con cũng thấy khó thở nữa.”
Chị Frisby lo lắng nhìn chăm chú vào mặt con, chị định xem lưỡi chú nữa nhưng trong phòng tối quá, chỉ nhìn thấy lờ mờ cái đầu thôi. Chú là đứa gầy nhất trong nhà, da đen y như bố với anh. Mặt chú cũng gầy, mắt thì to sáng lạ thường, mỗi lần chú nói thì đôi mắt ấy sáng bừng lên vì những suy nghĩ sôi sục
bên trong. Chị Frisby biết đây là đứa con thông minh chu đáo nhất trong số lũ trẻ nhà mình, dù chị chẳng bao giờ nói ra điều đó cả. Nhưng chú cũng lại là đứa mỏng manh nhất, cứ khi nào có dịch cảm cúm hay virus lây lan bao giờ chú cũng là đứa nhiễm đầu tiên rồi khỏi cuối cùng. Chắc cũng vì thế mà chú hơi chút là tưởng mình mắc bệnh. Nhưng lần này thì chẳng có gì phải ngờ nữa, rõ là chú ốm rồi. Đầu chú nóng bỏng còn mạch thì nhanh như ngựa tế.
“Tội nghiệp Timothy của mẹ. Con nằm xuống đi, trùm chăn kín vào.” Chị đắp kín người chú ít mảnh vải cả nhà dùng làm chăn. “Chút nữa sẽ xếp cho con cái ổ trong phòng khách để con được nằm chỗ sáng nhé. Sáng nay mẹ tìm được cả một kho ngô thích lắm, tha hồ ăn đến sang xuân cũng chưa hết. Con có ăn ngô không?”
“Không mẹ ạ. Con chưa thấy đói. Để sau đi ạ.”
Chú nhắm mắt, một lúc sau có vẻ như đã ngủ. Nhưng giấc ngủ không yên, chú vẫn liên tục trăn trở và rền rĩ.
Đến giữa buổi sáng chị Frisby dẫn Martin và Cynthia đến chỗ gốc cây khuân thêm ít ngô về, cả lạc và nấm nữa (hạt mạy châu thì bỏ lại, vì cứng quá răng chuột không cắn vỡ nổi, mà gặm ruột lại quá mất công). Teresa ở nhà trông Timothy, cả nhà đã quấn chăn kín người rồi đỡ chú vào cái giường bệnh tạm thời trong phòng khách. Khi phái đoàn về đến nhà lúc gần giờ ăn trưa với chiến lợi phẩm ê hề, ba mẹ con thấy cô bé đã gần phát khóc vì lo lắng.
Bệnh Timothy đã nặng hơn nhiều. Mắt chú dại đi, lạc thần vì sốt. Chú cứ run lẩy bẩy và thở dốc như tìm cách níu kéo sự sống.
Teresa kêu lên, “Ôi, mẹ về rồi con mừng quá. Em cứ mê sảng mãi, la hét về ma quỷ và mèo, con cố nói chuyện nhưng em chẳng nghe thấy con gì cả.”
Không chỉ là Timothy chẳng nghe thấy gì: mắt chú mở trừng trừng nhưng chẳng nhìn thấy gì hết, hoặc nếu có thấy cũng chẳng nhận ra mình đang nhìn gì. Khi chị tìm cách nói chuyện, cầm tay chú hỏi han, chú cứ nhìn đi đâu đâu như là chị không có đó. Rồi chú thở một hơi dài rất trầm và hình như định nói gì đó, nhưng không nói nổi tròn vành rõ chữ và chẳng thành lời gì cả.
Các anh chị em lặng im nhìn chú hoảng kinh. Cuối cùng Martin cũng hỏi:
“Mẹ ơi, thế là sao? Em bị sao thế?”
“Em ốm nặng lắm. Em sốt cao đến thành hôn mê rồi. Chẳng còn cách nào khác, mẹ phải đi gặp thầy Ages thôi. Timothy phải uống thuốc mới được.”
Thầy Ages
Thầy Ages là một ông chuột bạch sống bên kia trang trại, xa hơn thế nữa, nhà ông nằm trong một bức tường gạch. Tường đó ngày xưa thuộc hầm một ngôi nhà trại cũ. Nhưng nhà trại đã cháy từ nhiều năm trước, chẳng còn ai nhớ trông nó thế nào hay ngày xưa có ai sống ở đó. Hầm thì vẫn còn, nhưng chỉ là một lỗ hình vuông lớn trên mặt đất, những bức tường đổ nát che chắn gió và tuyết cho hằng hà sa số sinh vật nhỏ chọn đây làm chốn an cư. Mùa hè ở đây có rắn, rất nguy hiểm, nhưng mùa đông thì chẳng có gì phải lo.
Dù sao thì đấy vẫn là một chuyến đi dài gian khó, có thể còn liều lĩnh nữa nếu chị buông lơi cảnh giác. Thực tế là nơi đó xa đến nỗi thông thường chị Frisby chẳng đời nào đi muộn thế này, vì sợ chưa về đến nhà thì đã tối rồi. Nhưng Timothy rõ ràng không thể đợi thêm ngày nào nữa. Thế nên chỉ vừa mới nói phải đi thì năm phút sau chị đã ở trên đường rồi.
Nếu có thể thẳng đường mà tiến, theo đường ngắn nhất đến chỗ thầy Ages, chị sẽ đi được khá dễ dàng. Nhưng vì đi như thế sẽ phải qua gần nhà ông chủ trại cùng nhà kho, là nơi con mèo không ngớt sục sạo săn lùng, chị đành chọn lối rất vòng vèo ôm lấy cả sân trại rộng, men sát bìa rừng mà đi.
Chị chạy thoăn thoắt, kiểu chạy nước kiệu dễ dàng theo lối họ nhà chuột vẫn làm khi muốn chóng tới nơi. Chị đi hầu như không tiếng động, lựa nơi nào mặt đất trống hay cỏ mọc, tránh những lá khô hay sột soạt lạo xạo dù chân chị khẽ đến đâu. Chạy tới đâu chị để ý nhìn quanh tìm nơi ẩn nấp tới đó: gỗ đổ, rễ cây, hòn đá, những nơi có thể lánh tạm bên dưới nếu chẳng may gặp con gì to dữ tợn hơn. Vì dù con mèo là kẻ thù số một, vẫn còn vô số con vật ưa truy đuổi chuột trong rừng.
Khắp chặng đường, chị vẫn lo âu nghĩ về Timothy và hy vọng thầy Ages biết phép gì đó có thể chữa lành cho đứa con bé bỏng.
Phải mất hơn hai giờ đồng hồ chị mới nhận ra đã đến gần bức tường gạch nơi thầy sống. Mặc dù anh Frisby ngày xưa đánh bạn thân thiết với thầy Ages và thường xuyên tới thăm thầy, chị Frisby mới đến đây mỗi một lần, vào đợt mùa hè. Nhưng chị vẫn nhớ rất kỹ nơi đó. Đấy là một khoảng trống hơi bất thường giữa khu rừng. Ngày xưa, khi cái nhà trại còn có người ở, khi nó còn chưa bị cháy, hẳn là có một thảm cỏ rộng rãi xung quanh nhà. Dần dà trên khu đất trống đủ loại cây cối lộn xộn mọc lên, các lá cỏ cao rậm rạp, các loại cỏ dại bò lan, nhiều thứ quả mọng và hoa dại. Mùa hè nơi đây đẹp một vẻ hoang dã, hoa đua nở sáng bừng, mâm xôi và cỏ ba lá tím thơm ngát. Cũng có những loài cây đáng sợ hơn: cà độc dược chĩa gai tua tủa hay quả thương lục tím sẫm có độc, và ong bay vo ve khắp nơi.
Nhưng đến mùa đông thì nơi này trông hoang vu và gần như ma quái nữa, vì hoa và lá xanh đã tàn cả, chỉ còn trơ lại những nhánh xương khô của các loại cỏ dại, trên đó cuống hoa hay bầu hạt rủ xuống kêu loạt xoạt trong gió. Chính những loại hạt này cùng hoa và rễ cây dưới đất là nguyên liệu để thầy Ages bào chế các loại thuốc nước hay thuốc bột, đôi khi giúp người bệnh cải tử hoàn sinh.
Lần trước chị đến đây cũng là vì Timothy, hồi ấy mới là đứa bé tí xíu, chỉ to hơn hòn bi một tí. Trong lúc chơi đùa với các anh chị, chú đi lang thang rồi bị con gì đó có nọc cắn hay đốt phải. Chẳng ai biết là con gì. Khi lũ trẻ tìm thấy em thì chú đã nằm cuộn tròn người, tê liệt, gần như không thở được.
Hồi đó anh Frisby còn sống, và hai anh chị luân phiên nhau mới mang được Timothy đến nhà thầy Ages. Chuyến đi ấy buồn thảm và sợ hãi làm sao, khi đến nơi hai anh chị còn lo có thể chú nhóc đã chết rồi. Thầy Ages kiểm tra chú bé, khám lưỡi, bắt mạch rồi tìm thấy một cục sưng nhỏ màu đỏ gần cổ chú. “Bị nhện cắn rồi,” thầy nói. “Không phải con góa phụ đen, nhưng cũng nguy hiểm lắm.” Thầy vắt vài giọt chất lỏng đùng đục như sữa vào miệng Timothy rồi dựng chú ngồi thẳng cho nước chảy xuống họng, vì Timothy còn không nuốt được. Chỉ sau vài phút các bắp cơ tí xíu của chú đã lỏng ra, chú đã có thể cử động chân tay được. “Bé này sẽ lành lại thôi,” thầy Ages nói, “nhưng cũng phải xuôi xị thêm vài tiếng nữa.”
Lần đó cả ba hoan hỉ trở về nhà, lũ trẻ ở nhà mừng mừng rỡ rỡ thấy em mình còn sống. Nhưng chị Frisby nghĩ chuyện ấy đã mở đầu cho thể trạng yếu ớt của cậu con. Từ hồi đó chú rất hay va vấp khi đi
lại, nhất là khi nào ốm mệt, và chú chẳng bao giờ lớn mạnh cường tráng được như cậu anh Martin. Nhưng chú suy tư rất nhiều, và về mặt này thì chú thật giống bố.
Bây giờ chị đã đến nhà thầy Ages, một lỗ khoét vào tường gạch từng để đỡ một đầu rầm sàn nặng. Nhà thầy thấp hơn nóc tường khoảng hai bộ, muốn xuống phải trèo qua một cầu thang lởm chởm là những đầu gạch vỡ. Chị gõ lên hòn cuội làm cánh cửa. “ Lạy trời cho ông có nhà,” chị nghĩ, nhưng thầy đi vắng. Không thấy ai trả lời, chị ngồi bệt xuống đợi trên rìa gạch hẹp trước cửa nhà.
Mất nửa tiếng rồi, mặt trời thì cứ xuống thấp dần ở phía Tây, chị mới nghe thấy tiếng sột soạt khe khẽ trên đầu và thầy hiện ra, trên lưng còn cõng túi vải căng lên vì thứ gì lồng phồng bên dưới. Bộ lông xám bạc bóng đến nỗi trông thầy như sáng ngời lên. Chị Frisby từng nghe đồn thầy Ages không hẳn thuộc loài chuột bạch, nghĩa là không phải lông trắng từ lúc chào đời mà là ngả bạc vì tuổi tác. Có đúng không thì chị cũng không rõ. Hẳn là thầy có vẻ rất già, và rất thông thái, nhưng chân tay thầy vẫn nhanh nhẹn như thường.
“Ôi thầy Ages, thầy đã về tôi mừng quá,” chị nói. “Tôi là vợ anh Frisby, chắc thầy không nhớ.”
“Tất nhiên tôi vẫn nhớ chứ. Cho tôi gửi lời chia buồn chuyện anh Frisby. Cháu bé nhà chị thế nào rồi - nó tên Timothy phải không nhỉ?”
“Tôi đến gặp thầy chính là vì cháu nó đấy. Nó lên cơn ốm nặng rồi.”
“Thật à? Tôi đã lo có thể rồi đây nó sẽ không được khỏe mạnh như những đứa khác.” “Tôi rất mong thầy chữa được cho cháu nó.”
“Cũng có thể đấy. Chị vào nhà đi, để tôi bỏ túi này xuống đã.”
Nhà thầy Ages hơi lớn hơn hộp giày một tí nhưng hình dáng cũng tương tự, trông đúng là nhà một vị ẩn cư. Đồ đạc gần như không có gì ngoài ít đệm nằm trong góc, một miếng gạch làm ghế và một miếng khác dùng làm chày giã thuốc đã mòn nhẵn. Chạy dọc một bên tường là từng đống nhỏ sắp xếp gọn gàng, những nguyên liệu thô nhặt về từ khắp nơi: rễ, hạt cây, lá khô, bầu quả, vỏ cây lột thành từng dải và các loại nấm đã khô quắt.
Cái túi được trút ra bên cạnh dãy dược liệu. Ở trong là mấy cái cây nhỏ cùng một giống, rễ chùm, lá xanh thẫm đầy gân trông như lá bạc hà.
“Hỉ đông thảo,” thầy Ages nói. “Ngôn ngữ thực vật học thì là Chimaphila umbellata . Cây này xanh
suốt mùa đông, sang xuân làm thuốc bổ thì tuyệt hảo. Phần lớn người ta chỉ dùng lá, nhưng tôi phát hiện ra rễ còn công hiệu hơn nhiều.” Thầy thu vén mớ cây thành một đống thật gọn. “Nhưng chị đến đây có phải vì nó đâu. Bé Timothy bị sao vậy?”
“Nó lên cơn sốt cao lắm. Mê sảng nữa. Tôi chẳng biết phải làm gì bây giờ.”
“Cao đến cỡ nào?”
“Cao đến nỗi sờ vào bỏng tay, mồ hôi chảy đầm đìa, thế mà nó vẫn run cả người vì lạnh.” “Quấn chặt vào trong chăn ấy.”
“Tôi có làm thế rồi.”
“Thế còn mạch thì sao?”
“Mạch nhanh đến nỗi chẳng phân biệt được nhịp nào ra nhịp nào nữa.”
“Lưỡi thì sao?”
“Lưỡi đóng cặn đến nỗi trông như màu tím ấy.”
“Nó thở thế nào?”
“Nó thở gấp lắm, ngực thì khò khè. Ban đầu nó còn nói không thở được.”
“Nhưng nó lại không ho à?”
“Không.”
“Nó bị viêm phế quản rồi,” thầy Ages nói. “Tôi có mấy thứ thuốc này có thể chữa nó khỏi. Nhưng quan trọng nhất là phải giữ ấm. Và phải cho nó nằm yên trong giường.” Thầy đi vào góc nhà, lấy trên hòn gạch nhô ra làm kệ xuống ba gói thuốc bột gói cẩn thận trong giấy trắng.
“Tối nay cho bé nhà chị uống một gói. Pha vào nước rồi cho nó uống. Nếu vẫn còn mê sảng thì bóp mũi rồi đổ thẳng vào họng. Sáng mai cho uống gói thứ hai, rồi sáng ngày kia uống nốt gói còn lại.”
Chị Frisby nhận ba gói thuốc. “Liệu cháu có đỡ không?” chị hỏi, run sợ phải nghe câu trả lời.
“Lần này thì nó sẽ đỡ hơn. Đến mai sẽ hạ sốt, ngày kia sẽ dứt hẳn, nếu nó chịu uống hết thuốc. Nhưng như thế vẫn chưa phải là khỏi hẳn, phổi vẫn còn rất yếu và nhạy cảm. Nhiễm lạnh một chút hoặc hít phải khí lạnh, chỉ cần một hơi thôi, chắc chắn nó sẽ lại mắc viêm phổi nặng hơn trước. Và lần sau có thể sẽ không hồi phục. Sẽ phải đề phòng trong vòng ba tuần tới, có thể là cả tháng.”
“Sau đó thì sao ạ?”
“Sau đó nữa vẫn phải cẩn thận, nhưng hy vọng đến lúc đó trời đã ấm lên rồi.”
Đến lúc này mặt trời đằng tây đã xuống rất thấp và đang lặn vào sau dãy núi cao bên kia cánh rừng. Chị Frisby cảm ơn thầy Ages và hết sức vội vã lên đường trở lại.
Quạ và mèo
Chị Frisby lại nhìn mặt trời, thấy mình đang gặp lựa chọn khó khăn. Chị có thể đi vòng trở lại như khi đến, nếu thế chắc chắn sẽ phải đi một mình giữa rừng trong đêm - đấy là một viễn cảnh đáng sợ, vì rừng đêm nhung nhúc những hiểm nguy. Đấy là lúc con cú bắt đầu săn mồi, sau mỗi thân cây lại còn cáo chồn và các giống mèo hoang lạ lùng rình rập.
Còn đường kia cũng nguy hiểm không kém, nhưng nếu gặp may chị có thể về nhà trước khi tối hẳn. Đường này thì đi thẳng qua sân trại, giữa nhà kho và khu chuồng gà, không quá gần ngôi nhà chính nhưng cũng rút ngắn được nửa quãng đường. Con mèo chắc sẽ quanh quẩn đâu đó, nhưng nhờ trời sáng - và nhờ đi giữa đường quang, tránh quàng bụi rậm - chắc chị sẽ nhìn ra nó trước khi nó kịp nhìn ra mình.
Con mèo: tên nó là Rồng. Vợ ông chủ trại Fitzgibbon đã đặt tên đùa hồi nó còn là con mèo con vờ vịt dữ tợn. Nhưng khi nó lớn lên thì cái tên hóa ra hợp hết sức. Người nó to đùng, cái đầu khổng lồ bè ra, cái miệng rộng đầy nanh cong nhọn hoắt như kim. Mỗi chân nó có bảy móng, cái đuôi dày xù lông lúc nào cũng giận dữ quật từ bên này sang bên kia. Thân nó màu cam pha trắng, mắt thì lóe lên vàng khè, và mỗi khi nhảy chồm vào kết liễu con mồi thì nó ré lên the thé khiến nạn nhân chết đứng tại chỗ.
Nhưng chị Frisby thấy tốt hơn là không nghĩ đến chuyện này. Thay vì thế trên đường từ nhà thầy Ages ra khỏi rừng tới chân hàng rào quanh trang trại chị nghĩ đến Timothy của chị. Chị nhớ đến đôi mắt sáng ngời thích thú mỗi lần chú nhóc nói đùa, mà chú nói đùa thường xuyên, và lúc nào chú cũng trìu mến rất kiên nhẫn với cô em Cynthia đầu óc trên mây. Mấy đứa lớn thỉnh thoảng cười nhạo khi cô út mắc nhầm lẫn gì đó hay bực bội vì cô suốt ngày đánh mất đồ, nhưng Timothy thì chẳng bao giờ thế. Ngược lại chú thường giúp em đi tìm lại. Và cái lần chính Cynthia nằm bẹp giường vì cảm lạnh, chú ngồi bên em hàng giờ kể chuyện cho em nghe. Những chuyện đó tự chú nghĩ ra trong đầu và hình như có cả một nguồn vô tận.
Giữ chặt mấy gói thuốc vừa xin được, chị Frisby luồn dưới hàng rào chạy về phía sân trại. Trước tiên sẽ phải qua một bãi chăn thả dài, cái nhà kho vuông to màu đỏ mọc lên đằng xa xa bên phải, xa hơn nữa về bên trái là dãy chuồng gà.
Khi cuối cùng cũng chạy ngang nhà kho, chị thấy trước mắt đã là rào thép gai chắn trâu bò ở đầu kia bãi chăn, và đang đến gần thì chị giật mình nghe có tiếng ầm ĩ. Ban đầu chị nghĩ là gà mái đi lạc ra ngoài chuồng - hay là bị cáo chộp chăng? Chị nhìn sang chỗ hàng rào, nhận ra chẳng phải gà qué gì cả mà là một con quạ non, cánh vỗ phành phạch trên mặt cỏ, trông kỳ quái hết sức. Chị nhìn thấy nó đập cánh bay lên sợi rào trên cùng, run rẩy đậu ở đó một chốc. Rồi nó xòe cánh vỗ thật mạnh bay đi - nhưng chỉ mới vài thước đã khựng lại ngã chúi xuống đất lần nữa, làm bay tung một mớ lông đen rụng và kêu quang quác.
Con quạ bị buộc vào hàng rào. Một miếng gì đó trắng lóng lánh - trông có vẻ là dây thép - bị quấn vào một chân nó, đầu kia mắc vào rào. Chị Frisby đến gần hơn, rồi nhận ra chẳng phải dây thép mà là một đoạn dây màu bạc, rất có thể ở gói quà Giáng sinh nào sót lại.
Con quạ đang đậu trên hàng rào vô vọng rỉa khúc dây, quàng quạc khe khẽ một mình nghe rất đáng thương. Sau một lúc nó lại dang cánh lên và chị nhận ra nó lại định cố bay đi nữa.
“Đợi đã,” chị Frisby nói.
Quạ nhìn xuống thấy chị trong đám cỏ.
“Đợi làm cái gì? Chị không thấy tôi bị mắc lại à? Tôi phải giật ra mới được.”
“Nhưng anh mà cứ làm ồn như thế nữa thì con mèo sẽ nghe thấy đấy. Có thể nó nghe rồi cũng nên.” “Chị cũng sẽ làm ồn lên nếu chị bị buộc dây vào hàng rào thế này, mà đêm thì đang xuống.”
“Tôi sẽ không làm thế,” chị Frisby nói, “nếu tôi còn khôn ngoan mà lại biết gần đây có mèo. Ai buộc anh lại thế?” Chị tìm cách trấn an con quạ đang hốt hoảng thấy rõ.
Quạ tỏ ra ngượng ngùng nhìn xuống chân. “Tôi tự nhặt mẩu dây lên đấy. Nó vướng nhằng vào chân tôi. Tôi ngồi lên hàng rào định rẩy nó ra, nhưng nó mắc phải rào.”
“Anh nhặt mẩu dây làm gì hả trời?”
Con quạ - đúng là còn rất nhỏ, chính xác là mới chỉ một tuổi - chán chường đáp, “Vì nó lấp lánh.” “Anh phải khôn hơn chứ.”
“Câu đó tôi nghe nhiều rồi.”
Đúng là đầu óc chim, chị Frisby nghĩ, rồi nhớ ra anh Frisby vẫn nói: Chẳng thể lấy kích cỡ bộ óc để đo lường khả năng của nó. Mà chị nhớ ra cũng hợp lý, vì cái đầu quạ còn to gấp đôi đầu chị.
“Ngồi im lại đi,” chị nói. “Nhìn ra phía nhà xem có thấy con mèo không?”
“Tôi không thấy. Nhưng tôi cũng không nhìn quá các bụi cây được. Ôi, giá mà tôi bay lên được cao hơn...”
“Đừng làm gì cả,” chị Frisby nói. Chị nhìn mặt trời: đã xuống quá ngọn cây rồi. Chị nghĩ đến Timothy và chỗ thuốc mang theo. Nhưng chị biết không thể bỏ mặc con quạ ngố này ở đây cho chết được - và
chắc chắn nó sẽ bị giết trước khi trời sáng - chỉ vì tiếc vài phút vất vả. Nếu chạy thật nhanh chị vẫn có thể về kịp lúc chạng vạng.
“Bay xuống đây đi,” chị nói. “Tôi sẽ tháo dây cho anh.”
“Bằng cách nào?” quạ nghi ngờ hỏi.
“Đừng có cãi. Tôi chỉ dành được vài phút thôi.” Giọng chị có vẻ uy thế đến mức con quạ bay xuống ngay lập tức.
“Nhưng mà nếu mèo đến...” nó nói.
“Nếu mèo đến thì chỉ cần một cú nhảy là nó xô anh khỏi hàng rào và thêm cú nữa là chộp được. Đứng yên nào.” Chị đã bắt đầu dùng hàm răng sắc nhọn gặm sợi dây rồi. Nó bị quấn rồi vặn rồi quấn lần nữa quanh mắt cá chân phải quạ, chị thấy sẽ phải cắt qua ba vòng mới rời ra được.
Khi chị đã cắn đứt vòng thứ hai, quạ đang nhìn chăm chăm ra phía nhà chợt kêu toáng lên: “Tôi thấy con mèo rồi!”
“ Im nào !” chị Frisby thì thào. “Nó có thấy chúng ta không?”
“Tôi không biết. Có. Nó đang nhìn tôi. Tôi không nghĩ là nó nhìn thấy chị đâu.” “Đứng càng yên càng tốt. Đừng có hoảng.” Chị không nhìn lên mà tiến công ngay vào sợi thứ ba. “Nó đang di chuyển về phía này.”
“Nhanh hay chậm?”
“Trung bình. Tôi nghĩ nó đang đoán thử tôi đang làm gì.”
Chị cắt đứt vòng thứ ba, giật nhẹ và sợi dây rơi ra.
“Đấy, anh được giải phóng rồi. Bay đi, nhanh lên.”
“Thế còn chị thì sao?”
“Có thể nó chưa nhìn thấy tôi.”
“Nhưng rồi sẽ thấy thôi. Nó đang tiến lại đây.”
Chị Frisby nhìn quanh. Gần đó chẳng có nơi nào trú ẩn được cả, không có đá cũng chẳng có hố hay khúc cây, gần nhất chỉ có khu chuồng gà - lại nằm phía con mèo đang tới và vẫn còn rất xa.
“Nhìn này,” quạ nói. “Trèo lên lưng tôi đi. Nhanh lên. Rồi bám chặt lấy.”
Chị Frisby làm theo, sau khi đã dùng răng tóm chặt những gói thuốc quý giá.
“Chị lên chưa?”
“Rồi.”
Chị nắm chặt những lông vũ trên lưng quạ, cảm thấy nhịp đập từ đôi cánh mạnh mẽ, thấy mình bị nhấc bổng lên đến chóng mặt và nhắm tịt mắt lại.
“Vừa xoẳn,” quạ nói và chị nghe tiếng gào rống điên giận khi con mèo nhảy chồm đến chỗ cả hai vừa rời đi. “May là chị lại rất nhẹ. Tôi hầu như không cảm thấy chị đang ở đó.” May với chả mắn, chị Frisby nghĩ; nếu mày không ngốc nghếch như thế thì tao đâu mắc cảnh hú hồn như thế này. Nhưng chị nghĩ khôn ngoan hơn là không nói ra câu đó, xét theo tình thế hiện giờ.
“Chị sống ở đâu?” quạ hỏi.
“Trong vườn. Gần tảng đá lớn ấy.”
“Tôi sẽ thả chị xuống đó.” Nó lạng nghiêng đi rất rùng rợn, trong một thoáng chị Frisby tưởng nó định thả rơi mình theo nghĩa đen. Nhưng chỉ vài giây sau - vì quạ bay rất nhanh - cả hai đã tà tà lượn xuống đất cách cửa nhà chị chưa đầy thước.
“Cảm ơn anh rất nhiều,” chị Frisby nói và nhảy xuống đất.
“Tôi phải cảm ơn chị mới đúng,” quạ đáp. “Chị cứu mạng tôi còn gì.”
“Anh cũng cứu mạng tôi.”
“À, nhưng hai chuyện đó đâu có giống nhau. Chị đâu có phải liều mạng nếu không có tôi - và cái sợi dây của tôi.” Và vì chính mình cũng nghĩ như vậy, chị Frisby không phản đối.
“Chúng ta cùng giúp đỡ nhau đối phó với con mèo,” chị nói.
“Đúng thế. Dù sao thì tôi vẫn mang ơn chị. Nếu có bao giờ tôi giúp đỡ gì được chị, hy vọng chị sẽ nói với tôi. Tên tôi là Jeremy. Cứ nói với bất cứ con quạ nào trong rừng, nó sẽ tìm được tôi.”
“Cảm ơn anh,” chị Frisby nói. “Tôi sẽ nhớ.”
Jeremy rời đi bay vào rừng, còn chị trở vào nhà mang theo ba liều thuốc.
Lưỡi cày của ông Fitzgibbon
Vào đến nhà , chị Frisby thấy Timothy đã ngủ còn các con ngồi quanh đợi, vừa sợ vừa buồn, nín lặng.
“Mẹ đi thì em ngủ luôn,” Teresa nói. “Em bị tỉnh dậy hai lần, lần sau thì không mê sảng. Em nói bị đau ở ngực và đau đầu nữa. Nhưng em có vẻ yếu lắm mẹ ạ, em gần như không nói được. Em hỏi mẹ ở đâu nên con trả lời. Rồi em ngủ lại.”
Chị Frisby đến bên Timothy đang nằm, cuộn tròn thành nắm lông ướt dâm dấp dưới mẩu chăn vải. Trông chú chẳng lớn hơn cái hồi sơ sinh được bố mẹ mang tới nhà thầy Ages là mấy, và nghĩ tới đó chị lại ước giá gì anh Frisby còn sống, anh sẽ vỗ về lũ trẻ, bảo chúng đừng lo. Nhưng anh mất rồi, nên chính chị sẽ phải nói thay câu đó.
“Các con đừng lo,” chị nói. “Thầy Ages có cho mẹ ít thuốc cho em uống, thầy bảo em sẽ khỏi.” Chị hòa thứ bột nửa xanh nửa xám trong một gói vào nước, rồi nhẹ nhàng lay Timothy.
Chú mỉm cười. “Mẹ về rồi à,” chú chỉ đủ sức thì thầm rất khẽ.
“Mẹ về rồi, mẹ mang thuốc về cho con đây. Thầy Ages nói uống vào con sẽ đỡ lắm.” Chị nâng đầu chú trên tay, chú uống hết cốc thuốc. “Mẹ nghĩ là đắng đấy,” chị nói.
“Không đắng lắm đâu,” chú nói. “Vị nó như hạt tiêu thôi.” Rồi chú lại lập tức ngủ thiếp.
Sáng hôm sau, như đã tính, cơn sốt hạ xuống, chú thở dễ hơn và nhịp tim cũng dịu lại, nhưng chú vẫn ngủ thẳng bảy giờ liền mới tỉnh mỗi lần. Ngày hôm sau chú thức được lâu hơn, đến ngày thứ ba thì hoàn toàn không sốt nữa, đúng như thầy Ages nói. Nhưng thầy Ages đã nói đúng mọi chuyện ấy thì chị Frisby hiểu rằng chắc chắn thầy cũng nói đúng những chuyện còn lại: Timothy vẫn chưa khỏe hẳn đâu. Chú sẽ phải nằm yên trong giường, giữ ấm và chỉ được thở không khí ấm.
Trong ba ngày đó chị ở sát bên giường chú, nhưng đến ngày thứ tư chị đã hởi lòng hởi dạ quyết định ra ngoài đi dạo, và đi lấy thêm ít ngô ở gốc cây cụt làm bữa tối cho cả nhà.
Chị bước ra cửa trước là chìm trong ánh nắng và rất ngạc nhiên thấy mùa xuân đang đón chờ mình. Trong mấy ngày chị ở trong nhà thì trời đã chuyển ấm, tháng Hai đã qua và tháng Ba đã về như một chú cừu non tung tăng, như người ta thường nói. Không khí có mùi ẩm ướt vì băng đang tan trên nền đất đông, mùi vạn vật chuẩn bị vươn vai dậy. Cảnh đó khiến chị càng thêm khoan khoái, chị gần như hớn hở bước đi qua khu vườn.
Thế nhưng dù ngày có ấm áp dễ chịu đến mấy - hoặc đúng hơn là chính vì thế - chị Frisby chẳng thể xua tan nỗi lo lắng dai dẳng vẫn lấp ló trong đầu; đấy là thứ nỗi lo nếu đẩy ra khỏi góc này thì sẽ lại nảy ra ở góc kia trong trí, rồi cuối cùng ở chính giữa và lúc đó thì chẳng thể trốn đối mặt với nó được. Đấy là nỗi lo về buổi Dọn Nhà.
Ai cũng biết là chuột mác mốt thường ló đầu khỏi cái hang sâu đã ngủ suốt mùa đông, nhìn quanh một vòng, và nếu nghĩ trời vẫn chưa hết lạnh sẽ chui xuống ngủ thêm sáu tuần nữa. Chuột đồng như nhà chị Frisby thì không có được cái may mắn này. Khi đông hết, họ sẽ phải dời ra khỏi vườn, trở lại đồng cỏ hay bãi chăn thả. Vì ngay khi thời tiết thuận lợi, ông chủ trại Fitzgibbon sẽ cho máy kéo chạy ầm ì, kéo lưỡi cày sắc bén qua lòng đất mà lật tung từng tấc một. Chẳng con vật gì kẹt lại trong vườn hôm ấy hòng sống sót, mọi nhà ở mùa đông dù là đường hầm hay hang hốc, tổ chim hay kén đều bị xé toang. Sau lưỡi cày là đến lưỡi bừa, những vành tròn nặng ken két, sau nữa là đoàn người vác cuốc gieo hạt.
Tất nhiên cũng không phải chuột đồng nhà nào cũng dọn vào vườn sống mùa đông. Một số tìm đến gác xép kho thóc, số khác thậm chí còn lẻn vào nhà con người, ở dưới mái hiên hay gác mái, liều mình sống chung với bẫy chuột. Nhưng nhà Frisby trước nay vẫn vào ở trong vườn để có được sự an toàn và tự do tương đối của cuộc sống ngoài trời.
Vì thế ngày Dọn Nhà của họ phụ thuộc vào thời tiết, và cũng vì thế ngày đẹp trời khiến chị Frisby lo
lắng, tuy vẫn làm chị vui lòng. Chỉ cần băng giá thôi đóng cứng đất là lưỡi cày sẽ bập xuống, và ngày ấy có thể lệch sớm tới một tháng (hay một tháng muộn hơn) từ năm này qua năm khác.
Và chị lo lắng là vì thế này: Nếu ngày ấy tới sớm quá, Timothy sẽ chưa thể đi lại được. Chú cần phải ở yên trên giường, mà dọn nhà thì sẽ phải đi bộ quãng dài qua đồng lúa mạch vụ đông, lên đồi rồi xuống đồi cho tới ven con suối là nơi có nhà ở mùa hè của gia đình Frisby. Không chỉ có thế, nhà ấy cũng sẽ ẩm ướt lạnh lẽo mất vài tuần đầu (vì nhà mùa hè nào cũng thế) tới khi đầu xuân chuyển qua cuối xuân và đêm ấm hẳn. Cứ như mọi khi thì chị Frisby và các con chẳng bao giờ lấy đó làm lo ngại; thậm chí ngày Dọn Nhà thông thường còn là một ngày vui, chấm dứt thời tiết u ám và băng giá. Chẳng khác nào ngày mở đầu kỳ nghỉ hè.
Nhưng còn năm nay thì sao? Đã đối mặt với vấn đề này, chị Frisby chẳng tìm ra cách nào mà chỉ còn hy vọng ngày ấy không đến sớm quá. Chỉ một tháng nữa (theo thầy Ages bảo), Timothy sẽ khỏe khoắn trở lại. Có thể chị chỉ đang mua phiền chuốc não thôi. Chị tự nhủ một ngày ấm chẳng làm nên mùa hạ. Kể cả mùa xuân cũng không.
Chị đi tiếp qua vườn thấy đằng trước có một dáng hình nhỏ con quen thuộc. Đấy là một bà chuột chù tí xíu, thân hình chỉ nhỉnh hơn hột lạc nhưng cái lưỡi thì sắc bén chẳng kém gì bộ răng. Bà ta sống trong cái hang đơn giản dưới lòng đất chỉ cách đó mấy thước. Chị Frisby gặp bà ta đã nhiều và dần dà trở nên mến bà ta, mặc dù chuột chù ít khi giành được cảm tình của các loài khác, do tính khí cắm cảu và cái bụng vô đáy đã thành tiếng.
“Chúc bác một buổi sáng đẹp trời,” chị Frisby nói.
“À, bác gái Frisby đấy à. Trời đẹp thật. Đẹp không chịu nổi là đằng khác.” Bà chuột chù đang cầm một cọng rơm, cắm nó xuống mặt đất. Cọng rơm thun thút lún xuống cả năm tấc rồi mới cong lại dưới tay bà. “Bác nhìn xem. Lớp giá trên cùng đã tan đi rồi. Vài ngày như thế này nữa là hết hẳn. Rồi là chúng ta sẽ lại gặp cái lưỡi cày ở đây, đi đến đâu phá đến đấy.”
“Sớm thế cơ à? Bác nghĩ thế thật à?” chị Frisby hỏi, nỗi lo lại ập về mạnh hơn bao giờ hết.
“Ông ta lúc nào cũng cày ngay khi tan giá. Nhớ mùa xuân năm sáu lăm không? Năm đó ông ta cày ngày 11 tháng Ba, mà là Chủ nhật nữa đấy. Tôi dọn xuống rừng ngay đêm đó, suýt tí chết cóng trong một bọng gỗ rỗng xập xệ. Và đấy là sau một tuần toàn những hôm y hệt hôm nay.”
Chị Frisby nhớ rõ lần đó, cả nhà chị cũng đã run lập cập cả mấy đêm rét buốt ấy. Vì sự thể là, buổi Dọn Nhà càng đến sớm thì đêm càng rét ra trò.
“Chao ôi,” chị nói. “Tôi hy vọng năm nay không phải thế. Cháu Timothy ốm quá không thể đi được.” “Nó ốm à? Mang đến chỗ thầy Ages ấy.”
“Tôi đã tự đến rồi. Nhưng cháu nó yếu quá không ra khỏi giường được, giờ vẫn vậy.”
“Khổ thân bác. Đành hy vọng sẽ có một đợt rét nữa, hay là cái máy kéo sẽ hỏng vậy. Tôi mong có ai lái máy kéo ủi qua nhà ông ta , xem ông ta có thích thú được không.” Vừa lẩm bẩm, bà chuột chù vừa đi mất, và chị Frisby lại đi tiếp qua vườn. Nhận xét thế thì tất nhiên hơi bất hợp lý, vì cả hai đều biết không có lưỡi cày của ông Fitzgibbon thì cũng chẳng có vườn mà sống đâu, và ông ta có cách nào xới đất mà không xới tung nhà cửa của họ lên được.
Hay là vẫn có cách? Bà chuột chù nói thế tỏ ý chia sẻ, nhưng chẳng giải quyết được gì. Chị Frisby nhận ra nói thế có nghĩa là chính bà cũng chẳng nghĩ ra được giải pháp nào cho tình thế ấy. Nhưng không có nghĩa là hoàn toàn chẳng có giải pháp nào hết. Chị nhớ lại một câu anh Frisby vẫn thường nói: Cửa nào cũng khó mở trừ khi tìm đúng chìa. Phải rồi. Chị phải cố tìm ra chìa khóa. Nhưng tìm ở đâu? Hỏi ai bây giờ?
Và rồi, như muốn tình hình xấu thêm, chị nghe thấy một âm thanh làm chị chấn động toàn thân. Âm thanh ấy từ bên kia hàng rào bay lại, một tiếng gầm lớn phành phạch nổi lên trong sân trại. Ông Fitzgibbon đang khởi động máy kéo.
Năm ngày
Có tiếng máy kéo vẫn chưa chắc là ông Fitzgibbon chuẩn bị cày. Ông ta dùng máy làm nhiều việc khác nữa: kéo cỏ khô và củi sưởi chẳng hạn, cắt cỏ và cào tuyết trong mùa đông. Chị Frisby tự nhủ mình như thế trong lúc hối hả chạy đến cây cọc góc vườn.
Đấy là một cọc rào lớn ở góc vườn gần nhất so với nhà chủ trại và nhà để xe kéo. Chị đã phát hiện từ lâu là cách mặt đất tầm chục phân trên cọc có một hốc sẹo, đằng sau có lỗ rỗng có thể náu mình rất tiện khi cần, quan sát những chuyện xảy ra trong sân. Con mèo tên Rồng cũng biết cái hốc đó, nên chị phải dè chừng nhìn kỹ trước khi trở ra.
Chị thận trọng tới sau cái cọc, liếc nhìn bốn phía xung quanh, rồi chạy vọt vòng qua bên kia trèo vào trong lỗ. Ổn cả.
Ông Fitzgibbon đã cho máy kéo lùi khỏi cái nhà xe to bừa bộn bình thường vẫn cất. Để máy chạy không, ông xuống khỏi ghế lái gọi lớn về phía nhà. Trong nháy mắt con trai đầu của ông là Paul đã hiện ra, cẩn thận khép cửa sau lưng. Mười lăm tuổi, Paul là một cậu bé ít nói và cần cù, cử chỉ tư thế có phần vụng về nhưng làm việc rất năng nổ và cẩn thận. Ngay sau đó cậu em Billy cũng ra theo, cậu nhóc mười hai tuổi này rất ồn ào và có trò nghịch đáng ghét là quăng sỏi qua mặt cỏ khi thấy bất cứ gì động đậy. Chị Frisby chẳng để tâm mấy đến Billy.
“Được rồi hai ông tướng,” ông Fitzgibbon nói, “ta cùng nhấc nó ra xem cái chốt trục xe nào.”
“Hồi mùa thu năm ngoái nó mòn vẹt muốn long ra rồi, con nhớ mà,” Paul nói. Hai cậu con biến vào trong nhà xe, còn ông Fitzgibbon lại trèo vào buồng lái, ông cho cái máy kéo quay đầu rồi lại lùi chầm chậm vào trong nhà xe, khiến đuôi xe khuất hẳn khỏi mắt chị Frisby.
Có tiếng lách cách xủng xoảng trong nhà xe trong khi ông Fitzgibbon ngoái nhìn qua vai, ấn mấy cái đòn bẩy bên sườn máy.
“Sẵn sàng chưa?”
Ông ta vào số, chiếc máy kéo lại trườn lên trước. Đằng sau đuôi, lưỡi cày đã gắn lơ lửng trên mặt đất. Tim chị Frisby thắt lại. Ông ta không định cho máy chạy ngay bây giờ chứ, phải không?
Nhưng vừa đưa lưỡi cày ra dưới nắng thì ông Fitzgibbon tắt máy. Nó phành phạch tắt, và ba cha con cùng châu lại quanh bệ gắn lưỡi cày.
“Quả có thế,” ông Fitzgibbon nói. “Sắp tuột ra đến nơi rồi. Paul, con nhớ ra được là tốt lắm. Nếu đặt từ
hôm nay thì chỗ Henderson sẽ có cái mới chỉ trong ba bốn ngày nữa.”
“Lần trước mất năm ngày,” Paul nói.
“Ừ thì năm ngày. Cũng vừa đúng lúc. Bây giờ mà cày thì còn quá ẩm, nhưng năm ngày thời tiết thế này nữa thì đất sẽ khô thôi. Đã cho máy ra rồi thì bơm chút dầu mỡ là phải lắm. Billy lấy cho bố vịt dầu nào.”
Trong chỗ nấp chị Frisby thở dài nhẹ nhõm, rồi tức khắc lại thấy lo âu. Thêm năm ngày cũng trì hoãn được đôi chút, nhưng sao mà ngắn ngủi quá. Thầy Ages đã nói sớm nhất cũng ba tuần nữa Timothy mới được ra khỏi giường, ba tuần nữa mới có thể sống qua đêm lạnh giá mà không mắc sưng phổi lại. Chị thở dài, những muốn bật khóc. Giá mà nhà ở mùa hè cũng ấm áp như nhà bê tông thì tốt biết bao. Nhưng lại không phải thế, mà nếu thế thì thằng bé cũng chẳng chịu nổi hành trình dài dằng dặc. Cả nhà có thể tìm cách khiêng nó đi - nhưng mà để làm gì? Chỉ để cho nó ốm lại ngay đêm đầu tiên đến nơi ư?
Chị nghĩ, cũng có thể quay lại tìm thầy Ages, xin ý kiến thầy xem có cách nào khác không. Liệu thầy có thứ thuốc gì để Timothy khỏe lại chóng hơn không? Chắc là không, nếu có thầy đã cho chị mang về ngay từ hôm đầu. Chị cứ nghĩ mãi chuyện đó khi trèo qua hốc cọc rồi trượt xuống mặt đất bên dưới - chưa đầy mười bộ cách con mèo.
Con Rồng nằm ưỡn người trong nắng, nhưng không ngủ. Cái đầu nó ngỏng lên, cặp mắt vàng mở to chĩa thẳng về phía chị. Chị thở gấp kinh sợ, chạy ngoắt ra sau cọc rào để có gì chắn giữa hai bên. Rồi không dừng lại, chị nhấc chân chạy bổ qua vườn bán sống bán chết, nghĩ bất cứ lúc nào cũng có thể nghe tiếng khè và cảm thấy móng vuốt con mèo dận lên lưng mình. Chị chạy đến lỗ nhà chuột chù và do dự nửa giây có nên chui tọt vào trong không, nhưng cái lỗ bé quá.
Rồi chị ngó lại đằng sau và nhận ra một cảnh tượng đáng kinh ngạc. Con mèo chẳng hề động đậy! Nó vẫn nằm nguyên như lúc trước, có điều một mắt nhắm lại mà thôi. Nhưng mắt kia vẫn đang nhìn thẳng về phía chị, nên chị không ngừng chân mà vẫn chạy tiếp.
Cuối cùng, khi đã cách xa một khoảng an toàn - cách hai phần ba khu vườn và về rất gần nhà rồi - chị đứng lại quay nhìn cho kỹ hơn. Con mèo vẫn nằm đó, dường như đã ngủ rồi. Chuyện lạ lùng quá đỗi - lại chưa hề có tiền lệ - đến nỗi chị khó mà tin được. Cảm thấy đã an toàn nhưng bối rối hết sức, chị tìm một cao điểm để nhìn được rõ hơn. Đúng lý thì giờ này chị đã xong đời rồi mới phải, và mặc dù đã thoát thân nhờ một phép lạ hay gần như thế, chị vẫn mắng mỏ mình quá lơ là. Nếu con mèo đã nuốt chửng chị thì ai sẽ chăm lo cho lũ nhỏ bây giờ?
Chị thấy một cây măng tây khô, cao và cứng, cành tỏa ra trông như cây gỗ nhỏ. Chị bám cây trèo lên gần tới đỉnh, nhìn lại sân trại. Ông Fitzgibbon và hai con đã bôi dầu xong cho cái máy và đi nơi khác rồi. Nhưng con mèo vẫn nằm yên trên cỏ, có vẻ như đang ngủ. Sao nó không đuổi theo chị? Có thể nào chị đến gần như thế mà nó vẫn không nhìn thấy chị không? Chị không tin nổi. Lời giải đáp duy nhất chị nghĩ ra là nó vừa chén một bữa no kễnh bụng đến mức lười nhác chẳng muốn nhấc mình dậy nữa. Nhưng chuyện đó cũng khó tin chẳng kém, chắc chắn là chưa từng xảy ra. Hay là có thể nó đang ốm?
Rồi trong cái ngày mới đó đã toàn chuyện bất thường và hốt hoảng này, chị nhận ra một điều lạ lùng nữa. Đằng sau con mèo rất xa, giữa nhà kho và nhà chính, có cái gì trông như một toán những hình thù xám đen diễu binh thành hàng một. Diễu binh à? Không hẳn thế, nhưng vẫn là di chuyển chậm chạp theo hàng ngũ.
Đấy là chuột cống.
Có đến một tá, và ban đầu chị chưa hiểu rõ chúng định làm cái gì. Rồi chị nhận ra có vật gì đó đang dịch chuyển, nằm giữa chúng và đằng sau nữa. Trông như một sợi thừng dày, rất dài, có đến hai mươi bộ. Không phải. Cứng hơn thừng nhiều. Đấy là dây điện, loại to nặng màu đen vẫn dùng bắc ngoài trời, chăng ngang các trụ điện thoại. Bầy chuột cống đang cực khổ tha đi giữa bãi cỏ, nhích từng ly về phía bụi hồng dại rất lớn ở góc đằng kia sân. Chị Frisby đoán ngay ra chúng vác đi đâu, dù không đoán được tại sao. Trong bụi hồng ấy, đằng sau những đám gai nhọn hoắt chằng chịt che giấu và bảo vệ, là lối vào hang chuột cống. Tất thảy loài vật đều biết điều đó và đều tìm cách tránh xa.
Nhưng lũ chuột cống làm gì mà cần sợi dây điện dài đến thế? Chị Frisby chẳng nghĩ ra nổi. Kỳ lạ hơn
nữa, làm sao chúng lại dám tha đi ngời ngời giữa sân khi con mèo đang ở ngay đấy? Chuột cống to hơn chị Frisby nhiều, và nếu cần có thể đánh nhau chí mạng, nhưng chúng cũng chẳng phải là đối thủ của Rồng.
Chị nhìn theo chúng hồi lâu. Rõ ràng là chúng biết chắc việc mình đang làm, và trông có vẻ kỷ luật như một toán lính tráng thật sự. Còn phải đi khoảng hai mươi thước nữa mới đến được chỗ bụi hồng; cứ như theo hiệu lệnh (mà dù sao chị cũng ở xa quá không nghe được), chúng cùng nhắc lên, kéo sợi dây đi khoảng một bộ. Rồi chúng cùng dừng lại, đứng nghỉ, và lại nhấc lên tiếp. Mất khoảng hai mươi phút thì con chuột đầu hàng mới chui vào bụi rậm. Một chốc sau khúc chót đoạn dây mất hút theo sau cả đoàn như một con rắn đen nhỏ, và chị Frisby trèo xuống khỏi bụi măng.
Từ đầu đến cuối con mèo vẫn ngủ.
Jeremy ra tay giúp đỡ
Lo lắng chuyện ngày Dọn Nhà và mải theo dõi máy kéo, con mèo rồi sau cùng là bầy chuột, chị Frisby đã quên biến mình đi cốt để lấy ít ngô về ăn tối. Bây giờ chị đã lại nhớ ra, vì thế chị không chạy tiếp về nhà nữa mà trở lại góc vườn xa nhất phía gốc cây cụt ở mép rừng đằng sau. Chị vẫn còn hơi mệt sau khi chạy trốn con mèo nên chỉ từ tốn đi, vừa đi vừa cảm nhận ánh nắng ấm áp và mùi gió thoảng.
Cơn gió nhẹ mang hơi ẩm ướt đầu xuân khiến lá khô lay động dọc đường, đến bên kia vườn gần hàng rào thì thổi bay thứ gì đó lấp lánh trong nắng. Vật ấy động đậy ở khóe mắt chị Frisby. Chị liếc nhìn, nhận ra chỉ là một mẩu giấy thiếc (hay giấy nhôm gì đó) từ đâu bay tới nên nhìn đi chỗ khác. Rồi chị nhìn trở lại, vì đúng lúc ấy một hình thù đen bổ nhào trên trời xuống, và chị nhận ra anh bạn cũ là quạ Jeremy.
Chị Frisby thoáng có một ý nghĩ. Chị lại đổi hướng, chạy nhanh hơn băng qua khoảnh đất đến chỗ Jeremy đang đứng. Anh chàng đang nhảy lóc chóc quanh miếng giấy bạc sáng loáng, ngắm nghía hết góc này lại chuyển góc khác.
Ý nghĩ vừa đến với chị Frisby là mặc dù Jeremy chẳng phải thông minh sáng láng cực độ trong số những con vật chị quen, và dù còn trẻ măng, nhưng nó cũng biết nhiều nơi, nhiều điều chị không hay, và chị cũng cần đầu mối nào đó chứ. Khi chị lại gần, nó đã cắp được mẩu giấy bạc trong mỏ, đang dang cánh chuẩn bị bay đi.
“Xin đợi một chút,” chị gọi.
Quạ quay nhìn, xếp cánh rồi đặt trả lại miếng giấy nhẹ nhàng trên đất.
“Chào chị.”
“Anh còn nhớ tôi à?”
“Nhớ chứ. Chị cứu thoát tôi khỏi vuốt mèo.” Rồi nó nói thêm, “Chị thấy miếng giấy bạc này thế nào?” Chị Frisby thờ ơ nhìn.
“Chỉ là một miếng giấy bạc thôi. Cũng chẳng to lắm.”
“Cũng đúng. Nhưng nó lấp lánh khiếp không - nhất là lúc nắng chiếu vào như mới rồi.” “Sao anh lại thích những thứ lấp lánh thế?”
“Ừm, thực tình thì không hẳn thế. Tôi cũng không thích lắm đâu. Nhưng có một người bạn tôi rất thích, thế nên hễ thấy cái nào tôi lại nhặt về.”
“Tôi hiểu rồi. Anh thật là chu đáo. Thế bạn anh là nữ à?”
“Thực tình là đúng thế. Đấy là một cô quạ. Làm sao chị biết?”
“Tôi đoán mò thôi,” chị Frisby nói. “Anh nhớ có lần đã bảo nếu tôi cần giúp đỡ thì có thể hỏi anh không?”
“Có chứ. Lúc nào cũng được. Cứ hỏi Jeremy. Quạ nào cũng biết chỗ tìm tôi. Còn bây giờ thì xin lỗi chị nhé...” Nó cúi xuống định nhặt lại miếng giấy.
“Xin đừng đi vội,” chị Frisby nói. “Tôi nghĩ có thể bây giờ là lúc anh giúp được tôi.”
“À,” Jeremy nói. “Tôi giúp được gì? Chị có đói không? Tôi mang cho chị ít hạt ở xép kho thóc nhé. Tôi biết người ta cất ở đâu.”
“Không cần đâu, cảm ơn anh,” chị Frisby đáp. “Chúng tôi có đủ đồ ăn rồi.” Rồi chị kể cho quạ nghe thật ngắn gọn về Timothy, về bệnh trạng của chú và vấn đề nan giải ngày Dọn Nhà sắp tới. Jeremy cũng biết ngày Dọn Nhà: quạ thì không phải dọn nhưng luôn để mắt tới việc cày bừa gieo hạt để giành phần hạt gieo, và cặp mắt tinh của chúng dễ dàng phát hiện đàn đàn lũ lũ sinh vật nhỏ kéo nhau đi trước khi cày.
Thế nên quạ vẫn tặc lưỡi ra vẻ thông cảm khi nghe chị Frisby kể chuyện, đầu nghiêng sang một bên, cố gắng nghĩ ngợi thật lung mất một lúc thật lâu, khoảng chừng ba mươi giây. Mắt nó nhắm nghiền lại vì ráng sức.
“Tôi không biết chị nên làm gì,” cuối cùng nó nói. “Tôi xin lỗi. Nhưng có lẽ tôi vẫn giúp chị được. Ít nhất tôi cũng có thể cho chị biết chúng tôi làm gì khi không biết phải làm gì.”
“Chúng tôi à?”
“Họ quạ ấy. Hầu hết nhà chim đều thế.”
“Vậy thì các anh làm gì?”
“Ở đằng kia,” Jeremy hất đầu về phía rừng rậm núi xa vươn lên đằng sau hàng rào, “cách đây khoảng một dặm có một cây sồi rất lớn, lớn nhất cả cánh rừng. Trên thân cây gần ngọn có một cái hốc. Đấy là nhà một cụ cú già nhất cánh rừng - có người còn bảo là già nhất thế giới nữa cơ.”
“Khi nào không biết phải làm gì chúng tôi vẫn đến hỏi cụ ấy. Có lúc cụ trả lời chúng tôi, cũng có lúc không. Tùy xem tâm trạng cụ thế nào. Hay là như cha tôi thường nói - tùy xem tình tự của cụ ra sao.”
Hoặc cũng có thể tùy xem cụ ta có biết cách trả lời hay không, chị Frisby nghĩ. Nhưng chị vẫn nói:
“Vậy anh có thể hỏi hộ cụ ấy có biết cách nào giúp tôi được không?” Dù chị không nghĩ là có khả năng ấy.
“À không,” Jeremy nói, “như thế không được đâu. Nghĩa là tôi hỏi được, nhưng tôi không nghĩ cụ cú sẽ nghe đâu. Chị cứ tưởng tượng xem. Quạ mà lại đi hỏi cách giúp một chị chuột có con ốm. Cụ sẽ chẳng tin tôi đâu.”
“Thế phải làm gì bây giờ?”
“Phải làm gì bây giờ à? Chị phải tự đi mà hỏi cụ ấy thôi.”
“Nhưng làm sao tôi tìm thấy cái cây ấy được. Và nếu thấy thì tôi cũng không trèo cao thế được đâu.”
“Bình tĩnh nào. Chính đây là chỗ tôi giúp được đấy, như đã hứa với chị mà. Tôi sẽ cõng chị chở đến đó như lần trước. Tất nhiên rồi lại trả chị về nhà.”
Chị Frisby ngần ngừ. Nhảy lên lưng quạ khi con mèo chỉ cách có ba cú nhảy là một chuyện, nhưng chủ động làm thế lại là chuyện khác, lại còn phải bay vào giữa khu rừng âm u xa lạ. Nói tóm lại là chị sợ.
Rồi chị nghĩ đến Timothy và lưỡi cày thép khổng lồ. Chị tự nhủ: Mình không còn cách nào khác. Nếu có mảy may cơ hội nào ông cú có thể giúp hay khuyên bảo gì thì mình phải đi thôi. Chị nói với Jeremy:
“Cám ơn anh nhiều lắm. Tôi sẽ đến gặp cụ cú nói chuyện nếu anh thuận lòng đưa đi. Như thế là anh đã giúp tôi rất nhiều.”
“Có gì đâu,” Jeremy nói. “Việc nhỏ nhặt mà. Nhưng bây giờ thì không đi được đâu.” “Sao lại không?”
“Ban ngày khi còn nắng, cụ cú rúc vào sâu trong hốc ngủ. Nghĩa là người ta bảo cụ ngủ, nhưng tôi thì không tin lắm. Ai mà ngủ lâu đến thế được? Tôi nghĩ cụ vào đó ngồi, ít nhất cũng một phần trong ngày, để suy nghĩ. Và vì thế nên cụ mới biết nhiều đến thế.”
“Nhưng dù là cớ gì thì cụ cũng không nói chuyện lúc ban ngày, không tiếp ai cả. Còn ban đêm thì cụ ra ngoài bay khắp nơi săn mồi...”
“Tôi biết,” chị Frisby nói, đấy cũng là một điều đáng sợ nữa.
“Gặp cụ thích hợp nhất là đúng lúc xế tà. Lúc ấy khi ánh sáng mờ dần, cụ ra đứng ở cửa hốc nhìn bóng tối đang kéo đến. Đấy là lúc có thể đặt câu hỏi cho cụ.”
“Tôi hiểu rồi,” chị Frisby nói. “Chúng ta đi luôn chiều nay được không?”
“Đúng năm giờ chiều,” Jeremy nói, “tôi sẽ đến nhà chị.” Nó đưa mỏ gắp miếng giấy thiếc, vẫy cánh chào tạm biệt và bay mất.
Cụ cú
Jeremy đến đúng giờ đã hẹn khi vành nắng cuối ngày vắt mình trên dãy núi bên kia cánh đồng. Chị Frisby đã đợi sẵn, tim đập thùng thùng trong tai, và ba đứa trẻ cũng ở đó chứng kiến - Teresa và Martin đứng cạnh chị, còn Cynthia sợ quạ nên chỉ chĩa cặp mắt tròn nhìn ra từ ô cửa tròn. Timothy thì ở dưới nhà, đang ngủ, chú không được cho biết về chuyến đi để khỏi lo lắng trách mình khiến mẹ phải làm chuyện liều lĩnh. (Thực tế là chuyện Dọn Nhà còn không ai nhắc đến trước mặt chú.) Ngay cả ba đứa kia cũng chỉ được chị cho biết một phần, nghĩa là chúng không biết chỉ còn lại có năm ngày, cũng không biết gì về ông Fitzgibbon và cái máy kéo cả. Chị không muốn chúng cũng phải lo lắng.
Jeremy đáp xuống đánh soạt - có lẽ hơi có phần phô diễn - và gật đầu chào đám trẻ cùng chị Frisby. “Xin chào,” nó nói. “Tôi đến rồi đây.”
Chị Frisby giới thiệu Martin và Teresa (cùng cặp mắt Cynthia). Martin đang ước giá mình là người được đi chuyến ấy, nó háo hức hỏi Jeremy:
“Anh bay được cao đến đâu?”
“Ầy, tôi cũng không rõ lắm,” Jeremy đáp. “Khoảng hai ba dặm gì đấy, chắc thế.” “Mẹ ơi, mẹ nghe thấy không? Mẹ sẽ ở trên trời cao hai dặm cơ đấy.”
“Martin, đi chuyến này không cần bay cao đến thế đâu.”
Jeremy vui vẻ nói, “Không cần, nhưng tôi vẫn bay được nếu chị thích.”
“Không cần đâu, cảm ơn anh. Tôi không muốn anh phải nhọc sức quá.” Chị đang cố gắng lắm mới giấu được nỗi khiếp sợ, mà Martin thì lại đang làm cho trầm trọng hơn. Nhưng Jeremy chợt thấy chị đang run rẩy và nhận ra chắc chị phải sợ lắm.
“Không sao đâu,” quạ hiền từ nói. “Chẳng có gì chị phải lo đâu. Tôi ngày nào cũng bay qua rừng đến cả chục lần.”
Đúng thế, chị Frisby nghĩ, nhưng anh đâu có cưỡi trên lưng anh, và anh cũng chẳng thể rơi ngã.
“Được lắm,” chị cố hết sức tỏ ra can đảm. “Tôi sẵn sàng rồi. Teresa và Martin, hai con chăm sóc em Timothy đến lúc mẹ về, và nhớ đừng có để em biết mẹ đi đâu đấy.” Nhún một cú nhẹ chị đã nhảy lên lưng Jeremy, nằm thật bẹp xuống sát người quạ và nắm chắc những sợi lông bóng bẩy giữa hai cánh, như người cưỡi ngựa ghì chặt bờm trước khi thúc nhảy. Martin và Teresa vẫy tay chào, nhưng chị không nhìn thấy vì còn đang áp mặt vào bộ lông và nhắm tịt mắt lại.
Lại lần nữa chị cảm thấy luồng lực ùa tới khi đôi cánh quạ rộng đập vào không khí, lần này lâu hơn vì họ cần lên cao hơn lúc trước. Rồi lực đập nhẹ dần trong lúc họ giảm dần độ dốc, rồi chị phát hoảng khi thấy cánh thành ra ngừng hẳn. Có chuyện gì đây? Chắc quạ cảm thấy chị đang căng người lên, vì bỗng nghe tiếng nó cất lên bên dưới:
“Một dòng khí thăng thiên đấy,” quạ nói. “Chúng ta đang cưỡi gió. Ở quãng rừng này ban tối vẫn thường có dòng khí đó.” Một luồng khí ấm từ khu rừng đẩy lên đang bốc họ theo. Họ bay êm đến mức cứ tưởng như là đứng yên, nên chị Frisby cũng dám mở mắt ngóc đầu lên một tí xíu. Chị không nhìn thẳng được xuống dưới - sẽ chỉ thấy lưng Jeremy - nhưng chếch về bên phải, hơi lùi ra đằng sau một chút, có một mảng vuông màu nâu xám to cỡ con tem. Chị giật mình nhận ra đấy chính là khoảnh vườn nhà mình, còn Martin và Teresa dù còn ở đó thì cũng nhỏ xíu không thấy nổi.
“Nhìn sang bên trái kìa,” Jeremy đang ngoảnh cổ nhìn chị nói. Chị nhìn theo, thấy cái gì đó trông như một con rắn to bè đáng sợ, màu lam lẫn lá cây, chạy ngoằn ngoèo giữa khu rừng.
“Cái gì thế?” chị ngỡ ngàng hỏi.
“Chị không biết thật à? Sông đấy.”
“Ồ,” chị Frisby thốt lên, ngượng ngùng thấy mình dốt quá. Tất nhiên chị có nghe kể về dòng sông rồi, nhưng chưa bao giờ biết trông nó lại y như con rắn thế này. Chị chưa bao giờ tới đó vì muốn thế phải vượt qua suốt chiều rộng khu rừng. Làm một con chim cũng có nhiều điều lợi thật.
Một phút sau họ đã rời khỏi luồng khí ấm, cánh Jeremy lại bắt đầu vỗ nhịp nhàng. Cả hai lên cao hơn, chị Frisby lại nhắm mắt lại. Khi chị mở mắt, khoảnh vườn đã biến mất tít đâu đó đằng sau và Jeremy vừa sục sạo nhìn các ngọn cây vừa bắt đầu một cú liệng xéo dài xuống dưới. Cuối cùng khi quạ thình lình nghiêng người, chị Frisby nhìn qua chóp cánh thấy một vệt nâu xám giữa rặng thông xanh rất cao. Từ tít trên này nhìn xuống tưởng là một bụi cây xám xương xẩu, nhưng khi quạ lượn vòng xuống thấp hơn nữa, chị thấy hóa ra là một cái cây khổng lồ không lá, trơ trọi và héo một nửa rồi. Có một cành lớn mới gãy rời rơi xuống, đè lên ba thân cây thông ở dưới làm chúng oằn gập lại. Nơi này toát lên vẻ u mặc và nguyên thủy khi chìm trong bóng xám hoàng hôn. Jeremy lượn thêm vòng nữa, nhìn đăm đăm vào một điểm quãng ba phần tư chiều cao thân cây chính lừng lững. Ngay dưới điểm này là một cành cỡ đại nữa, to bằng cả cái cây bình thường, chìa ra bên trên các ngọn thông, và đây là nơi cuối cùng Jeremy cũng nhẹ nhàng đập cánh đậu xuống. Hai người còn cách thân chính chừng chục bộ, và chị Frisby nhìn thấy ngay trên gốc cành có một hốc tròn đen ngòm, to như đĩa ăn.
“Đến nơi rồi,” Jeremy nói thấp giọng. “Cụ ấy sống ở đây.”
“Tôi có nên nhảy xuống không?” Chị Frisby cũng bất giác nói thầm.
“Có. Chúng ta phải đi lại gần hơn. Nhưng mà nhẹ chân thôi. Cụ ấy không thích ồn ào đâu.” “Cao quá đi mất.” Chị vẫn còn bám chặt trên lưng quạ.
“Cành rộng lắm. Chị sẽ an toàn mà.”
Và quả là cành cây rộng rãi bằng cả lề đường. Chị Frisby thu hết can đảm tuột xuống, cảm thấy chân mình chạm nền gỗ rắn; nhưng chị vẫn không thể tránh nghĩ về độ cao thăm thẳm so với mặt đất bên dưới.
“Cụ ấy kia rồi,” Jeremy nói, đang nhìn chăm chú vào hốc cây. “Vừa đúng lúc.”
Họ nhích từng bước theo cành cây, chị Frisby bám thật chặt vào vỏ cây thô ráp, thật cẩn thận không để vấp ngã; và khi tới gần hơn chị thấy lờ mờ một hình thù như cái bình thắt đáy ngồi lọt bên trong lòng cây. Gần trên đỉnh bình và cách nhau khá xa, hai con mắt vàng tròn xoe sáng quắc trong bóng tối.
“Cụ chưa nhìn thấy mình đâu,” Jeremy thì thầm. “Vẫn còn sáng quá.”
Có thể không nhìn nhưng hẳn nhiên là nghe thấy, vì lúc ấy một giọng trầm vang dội, nghe như tiếng đàn dương cầm, vọng ra từ hốc rỗng:
“Ai đứng ngoài nhà ta đó?”
Jeremy đáp lời:
“Thưa cụ, cháu là một con quạ. Tên cháu là Jeremy. Cháu dẫn theo một người bạn đến đây. Cháu hy vọng chúng cháu không làm phiền cụ. Bạn cháu cần thỉnh lời khuyên của cụ.”
“Ta hiểu. Vậy anh bạn của anh không thể tự trình bày được à?”
“Thưa cụ, bạn cháu là nữ giới, một chị chuột đồng.”
“Chuột ấy hả?” Cái giọng rền vang có vẻ nghi hoặc. “Sao quạ lại đánh bạn với chuột là thế nào?” “Cháu bị mắc bẫy, thưa cụ, chị ấy đã giải thoát cho cháu. Chị ấy cứu cháu thoát khỏi con mèo.”
“Điều này cũng có thể,” cú nói, “mặc dù rất lạ thường. Ta cũng đã từng nghe những chuyện tương tự. Chúng ta đều giúp đỡ nhau chống lại tên mèo.”
“Đúng thế ạ. Và bây giờ chính bạn cháu lại gặp khó khăn, thưa cụ.”
“Ta hiểu rồi,” cú nói và tiến lại gần ô cửa tròn. “Bà Chuột kia, ta không nhìn thấy bà được vì ánh sáng ban ngày vẫn còn lóa mắt. Nhưng nếu bà bước hẳn vào trong nhà, ta sẽ lắng nghe những gì bà muốn trình bày.”
Chị Frisby do dự. Chị có hiểu một hai điều về thói quen ẩm thực của loài cú và chẳng thích gì viễn cảnh bị nhốt trong nhà ông ta. Cuối cùng chị nhút nhát đáp:
“Thưa cụ, tôi không muốn quấy quả cụ quá. Tôi đứng đây cũng nghe được khá rõ rồi ạ.”
“Bà Chuột kia, bà nên hiểu nói chung ta không hào hứng giúp đỡ loài chuột giải quyết những phiền phức của chuột đâu. Nếu đúng là bà đã cứu thoát một con chim khỏi miệng mèo, ta có thể dành cho bà vài phút được. Nhưng ta không bàn luận giải quyết vấn đề với những kẻ ta không thấy mặt. Hoặc là đi vào đây hoặc bảo bạn bà đưa bà về đi.”
Đằng sau chị có tiếng Jeremy thì thầm rất khẽ, “Không sao đâu. Ngay trong nhà mình cụ ấy không làm hại chị đâu.”
Chị thì thầm đáp, “Tôi hy vọng là thế.” Chị leo dọc cành lên đến hốc cây, trèo qua ngưỡng cửa bước vào trong nhà.
Khi nhìn gần thế này trông cú vô cùng to lớn. Mỗi bàn chân tua tủa lông lại chĩa ra năm cái vuốt óng ánh dài cỡ hai phân. Cái mỏ thì khoằm, nhọn trông rất độc ác. Cú chớp cặp mắt vàng mà nói:
“Bà hãy đi qua phòng, đứng tránh xa ánh sáng.”
Chị Frisby làm theo. Khi đã quen với cảnh tờ mờ, chị nhìn quanh một vòng. Cái phòng chị vừa bước vào hết sức rộng rãi - lên đến đó, khoảng rỗng đã choán gần nửa thân cây khổng lồ - và sạch sẽ, nhưng sàn khấp khểnh kinh khủng. Đó cũng không hẳn là sàn nữa, mà chỉ là những đầu gỗ chết lởm chởm chĩa lên dưới chân như măng đá trong thạch động, khiến chị Frisby không phải đi mà là trèo qua phòng. Vào trong cùng vách tường thắt lại thành một góc hẹp, ở đó chị nhận thấy cú đã dùng cành con và lá cây soạn cho mình cái tổ to như xô nước, trên cùng còn thò ra ít lông phơ phất lót làm nền.
Khi đến gần tổ rồi chị dừng lại quay nhìn, cú đã ngoảnh khỏi ánh sáng bên cửa và giờ đang dõi đôi mắt vàng to bự xoáy vào chị. Jeremy thì chẳng thấy đâu. Chị chỉ cầu mong nó vẫn còn đợi trên cành cây bên ngoài.
“Giờ thì,” cú nói, “bà có thể trình bày khó khăn của mình.”
“Hãy tới tìm chuột cống”
Chị Frisby bứt rứt mở lời trong khi cố xếp đặt các suy nghĩ trong đầu:
“Đấy là vì con trai út của tôi là Timothy. Nó đang ốm, ốm lắm, không dậy khỏi giường được. Mà ngày Dọn Nhà thì chỉ còn năm hôm nữa là đến rồi.”
“Hượm đã,” cụ cú nói. “Dọn từ đâu? Dọn đi đâu?”
“Dọn từ khoảnh vườn chúng tôi sống đến mép bãi chăn thả bên suối.”
“Vườn nào?” Bây giờ chị Frisby mới nhận ra những con chim bay lượn thoải mái trên hàng dặm đồng quê sẽ bay qua rất nhiều khu vườn khác nhau.
“Vườn nhà ông Fitzgibbon.”
“Vườn có tảng đá lớn à?”
“Vâng. Nhà tôi ở cạnh tảng đá.”
“Làm sao bà biết chắc là ngày Dọn Nhà chỉ năm hôm nữa là đến?”
Chị Frisby kể về cái máy kéo và những gì ông Fitzgibbon đã nói: năm ngày nữa bắt đầu cày. “Tất nhiên,” chị nói, “cũng có thể trời sẽ rét lại, và đóng băng, hay cả tuyết nữa...”
“Không,” cú nói chắc nịch, “không có chuyện đó đâu. Hành dại đã nảy trên bãi chăn thả rồi.” Tiếp đó cú hỏi nhà chị như thế nào, tương quan vị trí với tảng đá lớn chính xác là ở đâu; rõ ràng ông ta biết rõ nơi đó.
Nhưng càng nói chuyện với cú thì chị Frisby càng tin chắc ông ta sẽ chẳng nghĩ ra được cách giải quyết nào cho mối bận tâm của chị. Chị thật ngớ ngẩn mới nghĩ là ông ta làm được, ngớ ngẩn ngay từ chuyện đi đến đây. Bởi vì thực sự là chẳng có cách giải quyết nào, chị nghĩ. Cuối cùng chị lặng im, cú cũng không hỏi thêm nữa. Rốt cuộc cú nói:
“Ở vị trí đó thì nhà bà bị cày lên là bất khả kháng rồi, có thể còn bị đập vụn ra nữa. Chẳng có cách nào khả dĩ ngăn chặn chuyện đó cả. Lời khuyên duy nhất của ta là thế này: Nếu còn ở lại trong nhà chắc chắn cả nhà bà sẽ bị nghiến nát và chết hết, từng người một. Thế nên đánh liều chuyển nhà còn hơn. Hãy quấn cho Timothy con bà thật ấm, giúp đỡ nó thật nhiều trong chuyến đi, và hãy hy vọng ngày Dọn Nhà trời ấm. Như thế ít nhất bà cũng chắc chắn cứu được mình cùng lũ trẻ còn lại.”
Cú ngừng lại, quay lưng về phía chị và lại nhìn ra cửa vào hốc cây; mảng ánh sáng lọt vào qua đó đang tối đi nhanh chóng.
“Còn bây giờ xin phép bà - đêm đang xuống rồi, ta không còn dư dả thời gian nữa. Ta rất tiếc không thể góp ý được cách giải quyết nào trọn vẹn hơn cho bà. Chúc bà buổi tối đẹp trời, bà...” ông ta dừng lại. “Hình như bà vẫn chưa cho ta được biết tên.”
“Frisby.” Chị chuột đáng thương nấc lên trả lời, bởi cú nói đúng những gì chị lo sợ ông ta sẽ nói. Và chị chẳng hy vọng được gì về phần Timothy cả. Lời ông ta có thể tóm lại là: Hoặc Timothy chết một mình, hoặc là tất cả nhà chết hết. Ngay cả nếu ngày Dọn Nhà có ấm áp khác thường đi nữa thì đêm chắc chắn vẫn giá lạnh, và đấy sẽ là dấu chấm hết cho thằng bé. Thế nhưng vẫn phải tỏ ra lễ độ, và chị buồn rầu nói thêm, “Tôi xin cám ơn cụ đã lắng nghe tôi...”
Nhưng ngay khi nghe thấy tên chị thái độ cú đã thay đổi hết sức kỳ dị. Ông ta quay lại trước mặt chị lần nữa và nhìn chị chăm chú cực kỳ. Thậm chí ông ta còn kích động vỗ vỗ cánh và nửa bay nửa nhảy đến gần chị, cúi xuống mãi đến khi cái mỏ sắc lớn chỉ còn cách mặt chị mấy phân. Chị Frisby rúm người lại kinh hoảng. Chị đã làm gì sai chăng?
“Bà vừa nói là Frisby à?”
“Vâng. Cụ vừa hỏi tên tôi mà.”
“Họ hàng gì với Jonathan Frisby không?”
“Có ạ. Đấy là chồng tôi. Anh ấy qua đời mùa hè trước. Anh ấy là bố của Timothy. Nhưng sao cụ lại biết anh ấy?”
“Không quan trọng,” cú nói, lùi lại chút ít và nhìn chị bằng ánh mắt khác hẳn - gần như là kính nể. “Ta sẽ nói với bà điều này: Trong rừng này không ai là không biết tên anh ấy. Và nếu bà là người vợ góa của anh ấy thì mọi chuyện lại hoàn toàn khác hẳn.”
Có sắc thái nào đó trong giọng cú khiến chị Frisby lại chớm nở hy vọng.
“Cụ nói thế là sao ạ?” chị hỏi.
“Ta muốn nói là, thưa quý bà, quả là có cách may ra có thể cứu mạng con bà. Ta không nói với bà lúc trước bởi không nghĩ có cách nào bà làm được việc đó, mà ta không muốn gieo rắc hy vọng hão huyền. Nhưng nếu bà là vợ góa của Jonathan Frisby - biết đâu chuyện đó lại có thể được.”
“Tôi không hiểu chút nào hết,” chị Frisby nói. “Chuyện đó là chuyện gì?”
“Đấy là một việc chính ta cũng không thể làm được. Bà phải tới tìm chuột cống.” “Gặp chuột cống à? Nhưng tôi không quen chuột cống nào cả. Chúng chẳng có liên quan gì tới tôi.”
“Ta không lấy đó làm thắc mắc. Họ chẳng mấy liên quan tới bất kỳ ai ngoại trừ chính họ, mà càng về sau sẽ càng ít hơn. Tuy nhiên ta nghĩ họ sẽ chịu giúp bà, mà nếu họ chịu giúp thì chắc chắn giúp được.”
“Nhưng mà chúng làm được gì?”
“Họ cần chuyển ngôi nhà của bà đến một nơi an toàn, tránh xa lưỡi cày.”
Nghe đến đó tâm trạng chị Frisby lại chùng xuống, và chị nói có phần oán trách:
“Cụ đang đùa rồi thưa cụ, cụ không nói chuyện nghiêm túc. Chẳng chuột cống nào chuyển nổi cái nhà của tôi đâu. Nó nặng lắm, to lắm.”
“Số chuột cống ở trang trại ông Fitzgibbon có những - điều - những cách - bà không biết chút gì đâu. Họ không giống như đám còn lại trong chúng ta. Thậm chí ta nghĩ họ cũng không giống phần lớn các chuột cống khác. Họ bí mật làm việc ban đêm. Bà Frisby, bà có biết cửa vào chính của họ không?”
“Trong bụi hồng ạ? Tôi biết.”
“Bà hãy đi đến đó. Sẽ có một người gác cổng. Tên anh ta là Justin. Hãy nói bà là ai và nói mình đến đó theo chỉ dẫn của ta. Nói với anh ta bà muốn gặp chuột tên là Nicodemus. Ta nghĩ là họ sẽ cho bà vào, mặc dù có thể sẽ buộc bà thề phải giữ bí mật. Nếu họ có đòi hỏi như thế, tất nhiên bà phải tự quyết đoán lấy, nhưng ta thì khuyên nên làm theo họ yêu cầu là hơn.”
Chị Frisby lúc này đã hoang mang cực điểm.
“Bí mật ạ,” chị nói. “Bí mật gì cơ?”
“Cái đó ta không thể tiết lộ được. Cả ta cũng đã chấp thuận là giữ bí mật. Thêm nữa có rất nhiều điều ta cũng không biết, dù ta có cố vấn vài phần trong cái dự án của họ.”
“Chà,” chị Frisby nói, “tôi chẳng hiểu tí gì cả. Nhưng nếu làm thế có thể cứu được Timothy thì tôi sẽ cố làm theo cụ bảo.”
“Cứ bảo họ,” cú thêm, “ta khuyến cáo nên chuyển ngôi nhà vào mé bế phong của tảng đá. Nhớ nhé - mé bế phong của tảng đá. Và cũng đừng quên mấy cái tên: Justin và Nicodemus.”
“Justin. Nicodemus. Mé bế phong của tảng đá,” chị Frisby nhắc lại. “Tôi sẽ nhớ.” Bây giờ thì chị rối trí lắm rồi, chẳng còn đầu óc hỏi xem câu đó nghĩa là gì nữa. Chắc là chuột cống sẽ biết thôi.
“Và này bà Frisby ạ,” cú nói khi lại đi về phía cửa vào, “xin bà hiểu cho. Ta rất ngưỡng mộ người chồng quá cố của bà dù chưa bao giờ giáp mặt anh ấy ngoài đời. Ta mong bà gặp những điều tốt lành nhất. Ta hy vọng con bà sẽ được cứu thoát. Bà biết đấy, ta đồng cảm với mong mỏi cụ thể của bà vì chính ta cũng gặp vấn đề tương tự.”
“Cụ ư?” chị Frisby hỏi. “Nhưng cụ đâu có phải dọn nhà.”
“Ta đã sống trong cây này, trong chính hốc này,” cú nói, “bao nhiêu năm chẳng còn ai nhớ nổi. Nhưng bây giờ mỗi lần gió mùa đông thổi rát lắc lư cả cánh rừng, ta ngồi đây trong bóng tối và từ sâu thẳm trong lòng thân cây, dưới gần bộ rễ, ta nghe một tiếng động lạ. Đấy là tiếng những thớ gỗ nứt ra trong cái lạnh và đứt lìa từng thớ một. Cành đang rụng dần, cây đã già lắm rồi và đang hấp hối. Thế nhưng sau chừng ấy năm ta chẳng thể buộc mình rời đi, tìm một ngôi nhà mới để dọn vào trong đó, thậm chí chẳng đủ sức đấu tranh vì nó nữa. Cả ta cũng đã già rồi. Một ngày nào đó, một năm nào đó, cây sẽ đổ và khi ấy nếu ta còn sống, ta cũng sẽ đổ theo.”
Buông lời tiên đoán rầu rĩ ấy cú bước qua ngưỡng cửa, giương đôi cánh lớn và thoắt đã biến mất, lặng lẽ liệng xuống vạt rừng tối tăm bên dưới.
Chị Frisby theo cú ra ngoài cành cây. Chị nhẹ cả người thấy Jeremy vẫn đứng chờ chỗ cũ, dù cực kỳ sốt ruột.
“Phải đi nhanh thôi,” nó nói. “Đêm tới nơi rồi. Tôi không được phép ở ngoài đường muộn thế này.” Chị Frisby cùng chung cảm giác, trèo lên lưng quạ, giờ đã vững tin hơn nhiều vì hai lý do: Thứ nhất chị đã quen với du hành trên không, thứ hai rừng bên dưới đã tối đặc lại nên chị chẳng còn nhận ra mặt đất xa xôi đến đâu nữa.
“Cụ nói chuyện với chị lâu lắc,” Jeremy nói trong lúc họ bay đi. “Cụ có nói gì có ích không?”
“Tôi không biết,” chị Frisby nói. Vì cú đã đề cập tới chuyện bí mật và bản thân cũng tỏ ra hết sức bí mật, chị không biết có thể nói cho Jeremy bao nhiêu phần.
“Chị không biết là sao?”
“Ý tôi là, cụ có nói với tôi vài điều, nhưng tôi không biết là có ích hay không.” Chị quyết định đáp lại bằng một câu hỏi khác. “Mé bế phong nghĩa là gì?”
Jeremy cũng như mọi chim khác rất hiểu biết về gió, nó mau mắn trả lời. “Nghĩa là mé yên ả, mặt khuất gió không bị thổi đến. Khi có gió mạnh phải bay lên kho thóc từ hướng bế phong, mới không bị gió quật vào tường. Cha tôi dạy tôi thế.”
“Tôi hiểu rồi,” chị Frisby nói và càng thắc mắc hơn bao giờ hết. Gió thì có liên quan gì đến chuyện này?
“Cụ ấy bảo tôi,” cuối cùng chị nói sau khi quyết định chẳng có gì mà hỏi, “hãy tới tìm chuột cống.” “Chuột cống à?” Jeremy giật nảy mình. “Chuột cống có liên quan gì tới chúng ta đâu.” “Tôi biết thế. Nhưng cụ ấy nghĩ là biết đâu chúng giúp được.”
“Chúng có thể làm gì?”
“Cụ nghĩ chúng có thể chuyển cả cái nhà của tôi đi. Nhưng làm cách nào thì tôi vẫn chưa hình dung ra được.”
“Ồ, tôi chẳng có gì phải ngờ chúng sẽ làm được ,” Jeremy nói. “Ai cũng biết - ít ra là trong số các chim - chuột cống có thể làm rất nhiều điều. Chúng có dự tính gì đấy, chẳng ai biết chắc là cái gì. Ví dụ một điều là chúng đang xây cho mình cái nhà mới tít tận trong rừng, đằng sau dãy núi. Chúng còn phát quang một vạt khá rộng gần đấy nữa cơ. Bình thường tôi sẽ chỉ cho chị, nhưng bây giờ tối quá rồi.”
“Ngày trước chúng vẫn tha thức ăn đi như tất cả chúng ta. Nhưng bây giờ chúng tôi gặp chúng tha nhiều thứ khác - các mẩu kim loại, các mảnh máy móc, những thứ tôi còn không biết là gì nữa. Chúng mang hết vào trong bụi hồng ấy, rồi làm gì với những thứ đó tôi không biết. Nhưng cụ cú biết nhiều hơn hầu hết mọi người. Tôi đoán là cụ ấy có làm việc gì đó với chúng. Nhưng thế nào thì tôi cũng chưa bao giờ nghe nói chúng giúp đỡ ai ngoài bản thân mình.”
“Tôi cũng thế. Nhưng tôi vẫn sẽ tới hỏi. Có còn ai khác hỏi được đâu.”
Đến lúc họ về đến vườn thì trời đã gần tối mịt, nên Jeremy không ở chơi được.
“Chúc ngủ ngon, Jeremy,” chị Frisby nói, cảm thấy gần như trìu mến với con quạ non. “Cảm ơn anh đã chở tôi đi, lại đợi đưa tôi về.”
“Không có gì,” Jeremy đáp. “Nếu chị cần tôi giúp nữa thì cứ nói. Suy cho cùng nếu không có chị, tôi cũng chẳng còn ở đây để mà nghe.” Và nó bay vút vào bóng tối, là con quạ cuối cùng về nhà trong đêm ấy.
Chuyện trong bụi hồng
Khi về đến nhà chị Frisby thấy Teresa, Martin và Cynthia đang ăn tối như chị đã dặn nếu mình chưa kịp về khi trời tối. Lặng lẽ đi vào đường hầm, chị nghe tiếng lũ trẻ nói chuyện trong phòng bên dưới, nên ngừng lại một chút nghe xem chúng nói chuyện gì. Xem ra là Cynthia đang lo lắng lắm, còn Teresa thì tìm cách an ủi em.
“Mẹ chưa về sớm thế được đâu, Cynnie. Em không nhớ à? Anh quạ bảo phải mất cả dặm mới đến được cái cây ấy. Có thể còn xa hơn cũng nên.”
“Vâng, nhưng quạ bay nhanh lắm cơ mà.”
“Nhưng nếu anh ấy phải bay lên cao hai dặm,” đây là Martin, “thì sẽ là ba dặm tất cả.” “Sáu chứ,” Teresa nói. “Hai dặm lên, hai dặm xuống, một dặm bay tới đó và một dặm về.” “Đúng rồi. Mẹ chưa về là phải.”
“Nhưng còn cụ cú thì sao? Cú là loài thế nào thì ai cũng biết rồi đấy.”
“Hai người đến đó thì vẫn còn sáng mà. Cụ ta đâu nhìn thấy gì.”
“Nhưng bây giờ trời tối rồi,” Cynthia nói. “Ôi, ước gì mẹ đã về. Em sợ lắm.”
“Đừng nói to quá,” Teresa nói. “Timothy nghe thấy đấy.”
“Mẹ về rồi,” chị Frisby nói lớn và nhanh chân chạy xuống đến nơi.
Và lúc đó chị mới biết hình như đứa nào cũng lo lắng tợn, vì cả ba đều chạy ùa đến chị, và cả Martin bình thường vốn tránh những màn thể hiện lộ liễu nay cũng ôm choàng lấy chị.
“Ôi mẹ ơi,” Cynthia mếu máo. “Con sợ quá.”
“Tội nghiệp con gái. Không sao cả đâu.”
“Mẹ bay cao bao nhiêu?” Martin hỏi, nó đã kịp bình tĩnh lại.
“Cao lắm, đến nỗi cây cối nhìn chỉ như bụi cỏ, vườn thì như tấm thiếp còn sông thì như con rắn ấy.” “Mẹ có gặp cụ cú không? Cụ ấy nói gì?”
“Mẹ gặp rồi. Mẹ sẽ kể chuyện cho các con sau. Đầu tiên mẹ muốn xem Timothy đã. Em nó sao rồi? Sao các con không chuyển giường em ra ngoài này?”
Teresa nói: “Con định chuyển rồi, nhưng em nói muốn ở trong phòng ngủ. Con nghĩ là em lại mệt hơn rồi.”
Nhưng khi chị Frisby vào thăm con, chú nhóc đang ngồi thẳng trên giường và trán chẳng còn nóng tí gì hết.
“Con khỏe mẹ ạ,” chú nói. “Con ở trong này vì con muốn suy nghĩ một chuyện.” “Chuyện gì?”
“Chuyện hôm Dọn Nhà.”
“Hôm Dọn Nhà à! Nhưng sao phải nghĩ? Có chuyện gì?”
Có phải rốt cuộc chú cũng nghe thấy chị nói chuyện với mấy đứa kia không? Nghe chuyện chị bay đi gặp cú? Nhưng không phải, chú đang giải thích:
“Từ hồi ốm con chưa ra ngoài đường nên không biết ở ngoài thế nào cả. Ý con là thời tiết ấy. Nhưng
hôm nay lúc chiều con nhận thấy một điều.”
“Điều gì?”
“Không khí có mùi khác, vừa ẩm vừa âm ấm. Nếu hít mạnh mẹ vẫn ngửi thấy đấy, dù bây giờ không đậm bằng.”
Chị Frisby tất nhiên đã nhận thấy mùi ấy cả trong nhà lẫn bên ngoài.
“Đấy là mùi băng đang tan,” Timothy nói tiếp. “Con vẫn nhớ năm ngoái đã ngửi thấy. Và sau đó chỉ ít lâu là mình dọn nhà. Mẹ ơi, năm nay lúc nào nhà mình sẽ dọn?”
“Ồi, vẫn còn lâu lắm.” Chị Frisby cố tỏ ra thản nhiên như thường. “Trời vẫn còn lạnh lắm, chưa đến lúc nghĩ chuyện đó đâu.”
“Con không thể không nghĩ được,” Timothy nói. Giọng chú có vẻ nghiêm nghị nhưng vẫn bình tĩnh không mấy lo lắng. “Vì nếu sớm quá thì con không biết có đi được không. Hôm nay con đã thử đi vài bước trong này, khi mọi người ra ngoài hết.”
“Timothy, con phải ở yên trong giường chứ! Con sẽ ốm lại mất thôi.”
“Con biết rồi, con biết rồi. Nhưng con phải biết. Mà con cũng đâu có đi nhiều. Con cũng chẳng đi được ấy. Mới bước vài bước con đã chóng mặt phải nằm lại rồi.”
“Tất nhiên là thế rồi. Con đã khỏi hẳn đâu.”
“Con nghĩ chắc là chưa. Thế nên con mới cần suy nghĩ.”
“Timothy, con không được lo nghĩ chuyện ấy. Như thế bệnh chỉ càng nặng hơn thôi.”
“Con có lo tí nào đâu. Con tưởng là sẽ lo, nhưng không phải thế - hoặc có thể con nghĩ là mình nên lo, nhưng con không cảm thấy lo nổi. Điều con thực tình nghĩ tới là ở đấy dễ chịu biết bao khi mùa hè đến bên dòng suối, và đúng là con rất muốn đi. Nhưng con không sợ. Con e là mẹ sợ, hoặc mẹ nghĩ là con sợ. Đấy là điều con thực tình muốn nói với mẹ. Con sẽ yên tĩnh đợi xem chuyện gì đến thôi. Thế nên mẹ cũng đừng lo nghĩ chuyện ấy, mẹ nhé.”
Chị Frisby nhận ra cả hai dường như đã đổi vai. Chú đã nhận thấy nguy hiểm chờ đợi mình - không hiểu sao lại đoán được ngày Dọn Nhà đã tới gần, và đoán được nguy cơ cao mình sẽ phải chết. Thế mà chính chú lại đang an ủi chị. Chị muốn kể ngay cho chú về ông cú và đàn chuột cống, nói chú biết rằng vẫn còn có thể làm được điều gì đó. Nhưng rồi chị nghĩ không kể thì tốt hơn, chị vẫn chưa biết chắc chúng có chịu giúp đỡ không. Tốt nhất là đợi đến khi chị gặp được chúng hẵng.
Nên chị chỉ nói khá ấp úng: “Timothy, con đừng nghĩ đến chuyện đó nữa. Khi nào đến lúc chúng ta sẽ xem sức khỏe con thế nào rồi quyết định làm gì sau.”
***
Sáng hôm sau mới bình minh chị đã lên đường đi tìm chuột cống. Chị chưa bao giờ vào trong bụi hồng, thậm chí chưa bao giờ đến thật gần, và lúc này chị càng đến gần thì càng căng thẳng. Chị chưa từng nghe ai bảo - mà theo chị biết thì các loài vật khác cũng thế - không được đến gần bụi hồng. Đấy là điều người ta tự biết. Chuột cống trong trang trại ông Fitzgibbon sống khép kín. Chẳng ai tìm mồi trong lãnh thổ của chúng.
Trước khi ra khỏi vườn, chị đã nhìn quanh cẩn thận để biết chắc Rồng không quanh quẩn gần đây. Nhưng ngay cả Rồng dù có đuổi theo chuột cống đến tận bụi hồng thì cũng chẳng đời nào theo tiếp vào trong cả.
Gai bụi hồng tất nhiên cũng góp phần cản bước người ngoài. Chị Frisby chưa bao giờ nhận ra trước khi đứng sát bụi cây như bây giờ, nó mới to làm sao, mới dày đặc, mới tua tủa những gai làm sao. Nó còn to hơn cả nhà để máy kéo, cành đan cài xoắn xuýt đến mức nhỏ như chị Frisby cũng chẳng thấy có đường nào dễ dàng luồn vào trong, dù chị đã đi cả một vòng quanh bụi cây tìm lối. Chị có nhớ láng máng quãng
đàn chuột đi vào, và ngắm nghía khu đó thật cẩn thận. Chúng làm cách nào nhỉ?
Rồi chị nhận ra trên một cành gần sát mặt đất, gai đã bị cạo đi, và chừng một phân trên đó - chỉ vừa đủ nắm tay - đã mòn nhẵn. Chị đặt tay lên rụt rè đẩy vào. Cành cây mở ra êm ru, không khác gì một cánh cửa quay, và đằng sau hiện ra một con đường, gần như một đường hầm xuyên qua bụi, đủ rộng cho chị bước vào mà không bị vướng gai hai bên. Khi bước tới chị buông cành cây, nó bật lại im lìm về chỗ cũ sau lưng chị. Chị đã vào bên trong bụi rồi, ở đây tối mịt.
Chị bước lên mãi, mắt dõi vào bóng tối mờ, đi theo con đường nhỏ lượn vòng cung dẫn về chính giữa bụi hồng, nền đất đã được bao nhiêu bàn chân nhỏ giẫm đến cứng chắc. Rồi thẳng ngay trước mặt, chị nhìn thấy lối vào.
Chị đã tưởng sẽ thấy - thấy gì nhỉ? Một hố tròn đào vào đất, chắc hẳn, nhưng dù sao cũng không phải thứ trước mặt chị đây. Trước tiên là một khoảnh đất quang khá rộng - bề ngang chừng năm bộ - mở ra ở giữa bụi cây. Cả các cành thẳng trên đầu cũng bị phạt đi, không lên hết ngọn nhưng cũng gần tới, cho ánh nắng dễ dàng chiếu qua và mặt đất mọc đầy rêu mịn. Chính giữa cái giếng xanh ngập sáng này có một ụ đất nhỏ, chừng hai mươi phân, dưới chân ụ là lối vào dưới cổng vòm xếp sỏi đều đặn, như một cửa vào nhỏ không có cánh. Qua lối vào là đường hầm, sàn cũng lát sỏi, dẫn vào trong và đổ xuống.
Bên cạnh cửa vào, đưa cặp mắt đen không chớp nhìn chị là con chuột cống lớn nhất chị từng gặp trên đời.
Brutus
“Đứng nguyên tại chỗ,” chuột cống nói. “Làm thế nào ngươi vào được đây?”
“Tôi bước vào,” chị Frisby đáp lại, cố sức nói năng bình thản. “Tôi tìm thấy một cành đã tuốt hết gai. Tôi đẩy vào, và tìm thấy...”
“Ta biết rồi,” chuột cống ngắt ngang khá thô lỗ. “Bây giờ thì bước trở ra ngay. Ngươi không được phép vào đây.” Hắn ta xích vài phân lại gần chị, đứng chắn giữa chị và cửa vào. Chị nhìn thấy cơ bắp hắn cuồn cuộn dưới bộ cánh bóng mượt. Hắn có thể gần như ngang cơ với Rồng - dù chưa ngang hẳn.
“Đi đi,” hắn nhắc lại.
“Nhưng tôi có lý do...”
“Ta không quan tâm lý do gì. Đi đi. Ngươi rất bé. Ta không muốn tấn công ngươi.” “Anh có phải là Justin không?” Chị Frisby nhích về sau khi chuột cống nhích tới trước.
“Ta là Brutus. Justin không có đây.” Cái đó thì hiển nhiên, chị Frisby nghĩ. Con chuột tên Brutus tiếp: “Ngươi quen Justin à?”
“Không,” chị Frisby nói. “Không hẳn thế.”
“Nếu ngươi không quen anh ấy thì làm sao lại biết tên anh ấy được?” Brutus có vẻ lúng túng, và chị Frisby để ý thấy mặc dù nó to quá khổ và thân hình vạm vỡ, mắt sáng lấp lánh, nhưng trông nó còn rất trẻ.
“Có một người bạn nói cho tôi. Tôi có gặp anh ấy được không?”
“Justin à? Không được. Anh ấy đang họp. Ta gác thay anh ấy. Tất cả đều đang họp trừ ta.” Quá không may, chị Frisby nghĩ. Chỉ là một gã thế chỗ. Chị nói:
“Vậy tôi sẽ đợi anh ấy vậy.”
“Không được,” Brutus nói. “Ngươi không được ở lại đây. Đấy là mệnh lệnh. Bây giờ thì đi ngay, nếu không ta sẽ phải đích thân cho ngươi ra ngoài.” Nó lại bước tới trước.
“Tôi là vợ của Jonathan Frisby,” chị chuột cùng đường nói. “Tôi muốn gặp Nicodemus.” Không ăn thua.
“Ta chẳng cần biết ngươi là gì, và ngươi không được phép gặp Nicodemus, cái đó là chắc.” Brutus lúc này trông vừa lúng túng vừa cáu kỉnh. “Đi ngay, nhanh lên.”
“Được rồi,” chị Frisby nói. “Anh không cần thúc tôi. Tôi đi đây.” Chị chầm chậm trở mình bước ngược đường vừa tới. Chị thấy ức phát khóc - sau bao nhiêu đường đất, sau khi bay cả đi gặp cú, lại bị đuổi về gọn lỏn thế này. Chị nghĩ khi bước vào bóng đen trong lòng bụi cây, có lẽ chị chỉ cần đợi khoảng một hai tiếng nữa, đến khi cuộc họp (mà họp cái gì đây nhỉ?) kết thúc rồi quay lại, có thể lúc đó chuột cống tên Justin đã trở lại vị trí gác. Nhưng liệu Justin có lắng nghe chị hơn Brutus chút nào không? Chị cảm giác rằng có.
Nhưng khi dừng lại chị nghe tiếng chân bước đằng sau. Chị ngoảnh lại thấy Brutus đang đi theo, nên chị lại hối hả đi tiếp để tránh xa tầm mắt nó. Một lát sau chị lại dừng chân lắng nghe. Lần này không thấy tiếng gì. Chắc nó đã quay lại bên cửa rồi. Chị ngồi xuống đất.
Rồi ngay phía trước, đằng chỗ chị đã từ đó vào trong bụi, có tiếng sột soạt, tiếng cào nho nhỏ. Chính là cái cành cây chị đẩy mở vào đây. Có kẻ khác đang đẩy cành. Có ai đó đang đi vào, bước trên con đường hẹp về phía chị. Chắc hẳn là một chuột cống nữa. Chị chợt sợ hãi run người. Hắn sẽ làm gì khi thình lình gặp chị giữa cảnh tối tăm này?
Chị rúm lại nép sát vào một bên, càng gần bức tường gai càng tốt, bụng mong có là kẻ nào đi nữa thì cũng sẽ đi vượt qua mà không nhìn ra chị.
Rồi kẻ đó xuất hiện sau vòng cung, và chị nhìn thấy rõ. Đấy chính là người bạn cũ của chị, ông chuột bạch Ages.
Thầy đang bước đi hết sức chậm chạp, và chị nhận ra thầy bị khập khiễng rất tệ. Một chân thầy đã bị thương, bó nẹp và quấn băng kín.
“Thầy Ages,” chị gọi khẽ, “Tôi Frisby đây.”
“Ai?” Thầy nhìn vào bóng tối. “Tôi không nhìn thấy.”
“Frisby.” Chị bước ra giữa đường trước mặt thầy.
“A, phải rồi. Chị Frisby. Chị có khỏe không?” Thầy có vẻ khá thân mật, nhưng rõ ràng là bị giật mình. “Tôi không biết chị cũng... Làm sao chị lại ở đây?”
“Chuyện dài lắm.”
“Vậy thì kể trong lúc tôi nghỉ ngơi vậy. Tôi đáng lẽ phải đến dự một cuộc họp, nhưng đằng nào thì cũng muộn rồi, thêm vài phút nữa chẳng sao hết. Chị thấy đấy, tôi ngã một cú khá nặng trẹo cả mắt cá rồi.”
“Tôi rất tiếc. Hy vọng thầy không đau quá.”
“Cũng đang khỏi dần. Nhưng tôi chỉ đi được rất chậm mà chốc lại phải nghỉ.” Thầy thở dài ngồi xuống. “Bây giờ thì kể đi, chị đang làm gì trong bụi chuột cống thế này.”
Chị Frisby (cũng đang thắc mắc như vậy về thầy) kể thật ngắn gọn về Timothy, Jeremy, ông cú và Brutus. Thầy Ages yên lặng lắng nghe, chỉ ngắt lời đúng một lần.
“Chị đi hẳn vào trong cây của cú à?”
“Vâng. Nhưng tôi rất sợ.”
“Tôi cũng đoán thế. Phải dũng cảm lắm.”
“Tôi cần phải làm thế.”
Khi chị kể xong, thầy Ages ngồi lặng mất một lúc suy nghĩ về câu chuyện.
“Tội nghiệp Timothy,” cuối cùng thầy cũng nói. “Lẽ ra tôi đã phải nghĩ đến chuyện đó. Nhưng tất nhiên khi tôi cho chị thuốc thì trời vẫn chưa trở ấm. Rồi tôi bị ngã gãy chân, thế là chẳng còn nhớ gì cả.” Thầy đứng dậy.
“Tôi nghĩ,” thầy nói, “chị nên đi với tôi quay lại lối vào.”
“Nhưng tôi không đi được. Brutus vẫn còn ở đấy.”
“Chị Frisby, sau khi đã làm từng ấy việc rồi chị không thể bỏ cuộc lúc này được. Tôi sẽ nói chuyện với Brutus.”
“Thầy quen hắn à?”
“Tôi biết nó từ hồi nó sinh ra. Nó cũng chưa lớn lắm, chị thấy đấy. Tôi nghĩ nó sẽ làm theo lời tôi thôi.” Nghe cách thầy nói thì chị Frisby hiểu rằng đây không chỉ là phỏng đoán, mà thầy biết chắc. Nhưng tại sao?
“Được thôi,” chị nghi ngại nói. “Tôi sẽ thử lại vậy. Nhưng tôi không hiểu lắm. Làm sao thầy lại quen Brutus?”
“Chúng ta đi thì hơn.” Cả hai lại đi ngược về phía cửa theo tốc độ cà nhắc của thầy Ages. “Thế còn làm sao tôi lại biết Brutus thì chuyện đó còn dài hơn cả chuyện của chị nữa, và tôi nghĩ kể cho chị không phải là việc của tôi. Đấy là việc của Nicodemus.”
“Nhưng tôi phải nói với chị điều này: Nếu chúng ta đi qua lối vào - và chắc chắn ta sẽ vào nếu chị cần yêu cầu giúp đỡ - chị phải hứa với tôi sẽ không bao giờ kể với ai bất cứ điều gì chị sẽ nhìn hay nghe thấy.”
“Tôi hứa,” chị Frisby nói. Chị nghĩ, lại lần nữa mình không được quyền lựa chọn. “Cụ cú cũng đã dặn tôi.”
Khi họ lại đến gần cửa, chị Frisby thấy Brutus vẫn đứng nguyên chỗ cũ nhưng đã có thêm một chuột cống khác bên cạnh. Hai tên liền, chị nghĩ. Mình hy vọng thầy Ages quen cả hai. Con chuột kia nhìn thấy họ lại gần. Trông nó lanh lợi, lông màu xám đậm và cực kỳ điển trai, dù không to con đến như Brutus.
“Thầy Ages à,” nó nói. “Chân thầy sao rồi?”
“Đỡ hơn rồi. Nhưng còn phải lâu nữa tôi mới chạy nổi.”
“Justin,” Brutus giương mắt nhìn chị Frisby và nói. “Bà ta kia kìa. Chính là cái kẻ em vừa nói với anh.” “Là bà ta đấy à?” Justin thản nhiên nhìn sang chị. Trông nó chẳng có gì cảnh giác lắm. “Chị Frisby,” thầy Ages trịnh trọng nói, “cho phép tôi giới thiệu hai người bạn là Justin và Brutus.” “Hân hạnh làm quen?” Giọng Brutus có vẻ ngờ vực.
“Chị Frisby à?” Justin hỏi. “Không phải vợ anh Jonathan Frisby đấy chứ?”
“Chị ấy chính là vợ anh Jonathan Frisby đấy,” thầy Ages nói. “Chị ấy đang ở góa, như các anh biết đấy.”
“Thưa quý phu nhân,” Justin nói và cúi chào lễ độ, “được gặp chị thật vinh dự cho tôi.” Brutus lúc này tỏ ra kinh ngạc. “Cả hai người đều biết bà ta à? Bà ta là ai?”
“Brutus,” thầy Ages từ tốn nói, “anh không nhớ ông Jonathan à?”
Brutus nhăn mày. “Ông Jonathan à? Ý thầy là cái người mà con Rồng...”
“Phải,” Justin nói nhanh. “Và đây là vợ anh Jonathan.”
“Ồ,” Brutus nói. Rồi quay sang chị Frisby: “Sao bà không bảo tôi. Nếu thế tôi đã chẳng đuổi bà đi.” “Ừ,” chị Frisby nói, “tôi đã cố đấy chứ. Nhưng không sao đâu.”
“Không sao,” thầy Ages nói thêm. “Vì trên đường ra chị ấy gặp tôi đi vào. Chị ấy cần nói chuyện với Nicodemus, gấp lắm.”
Brutus lại có vẻ nghi ngờ. “Nicodemus à? Nhưng bà ta có quyền không? Ý con là, còn nội quy thì sao? Còn Kế hoạch thì sao?”
Thầy Ages nói: “Cái đó đã được lo liệu rồi. Chị ấy đã hứa giữ bí mật và cần tin tưởng tuyệt đối chị ấy. Tôi có thể tự mình đảm bảo điều đó. Suy cho cùng, xét theo tư cách chị ấy.” Như chợt nhớ ra điều gì, ông nói thêm, “...và các con chị ấy nữa.”
Vậy tư cách mình là sao? Chị Frisby ngạc nhiên tự nhủ. Mình nghĩ chắc cả chuyện đó cũng phải nghe Nicodemus.
Thầy Ages hỏi Justin: “Thế còn buổi họp thì sao? Không thể nào mới đó đã xong được.” “Buổi họp tạm hoãn lại,” Justin nói, “để đợi thầy. Thực tình là con ra đây để tìm thầy.” “Vậy thì tôi nghĩ chúng ta nên vào là hơn.”
Jusin dẫn đường qua cổng vòm, chị Frisby và thầy Ages theo sau. Brutus vẫn đứng bên ngoài canh gác.
Trong thư viện
Đường hầm dốc xuống thoai thoải , và sau chừng chục bước đầu họ đã chìm trong bóng tối. Chị Frisby chẳng còn nhìn thấy gì. Sau lưng chị là thầy Ages đi khập khiễng, đằng trước vang lại tiếng sột soạt khi Justin bước đi. Chị cứ mù lòa mà bước theo tiếng ấy. Rồi chị nghe giọng anh ta.
“Cứ bước thẳng tới trước thưa chị Frisby. Không sợ vấp phải cái gì đâu, cũng chẳng có gì mà đâm vào. Nếu đi chệch đường chị sẽ chạm vào tường thôi.” Anh ta nói thêm, “Đoạn đường tối cũng không dài lắm.”
Anh ta nói thế nghĩa là thế nào? Chị nghĩ ngợi mãi mất một hai phút trong khi vẫn bước và vừa định sẽ hỏi thì hết sức sửng sốt thấy có ánh lờ mờ trước mặt. Có ánh sáng! Nhưng làm sao lại có ánh sáng tít dưới sâu như thế này? “Đấy, chúng ta đã qua rồi,” Justin vui vẻ nói. “Tôi biết là đoạn đường đen ấy khó chịu lắm, nhưng cần phải thế.”
“Nhưng chẳng phải ta xuống dưới mặt đất rồi à?”
“À đúng. Sâu khoảng ba bộ ở đoạn này, tôi đoán thế.”
“Vậy thì làm sao lại có ánh sáng được?”
“Tôi nói cho chị cũng được,” Justin nói, “nhưng nếu đợi chừng mười lăm giây thôi, chị sẽ tự hiểu tại sao.”
Thêm vài bước nữa thì đường hầm - lúc này chị Frisby đã có thể lờ mờ nhận thấy hình dạng và hướng đi rồi - ngoặt sang phải, và chị đã tự hiểu tại sao. Chị đứng sững lại vì kinh ngạc.
Trước mặt chị trải ra một hành lang dài sáng rỡ. Trần và tường hai bên tạo thành một vòm cung nhẵn nhụi, sàn vừa phẳng vừa cứng, một lớp thảm mềm chạy dọc chính giữa. Ánh sáng từ hai bên tường phát ra, cứ độ một bộ lại có một bóng đèn nhỏ sáng chói đặt âm sâu trong tường, hốc đặt đèn được che bằng tấm kính vuông như ô cửa sổ nhỏ, màu lam, lục hay vàng. Chúng tạo cảm giác như những cửa sổ kính màu trong nắng.
Justin đang quan sát chị, mỉm cười. “Chị có thích không? Thảm và kính màu thực ra cũng không cần lắm. Có mấy bà nội trợ tự động nghĩ ra làm, chỉ để cho đẹp thôi. Chị có tin không, họ cắt kính từ lọ thủy tinh cũ đấy. Còn thảm là một mẩu trang trí áo chẳng biết họ kiếm đâu ra.”
“Đẹp quá đi mất,” chị Frisby nói. “Nhưng làm sao mà...”
“Chúng tôi có điện được bốn năm nay rồi.”
“Năm chứ,” thầy Ages nói.
“Năm,” Justin tỏ ý tán đồng. “Bóng đèn thì” - đều là những bóng đèn rất nhỏ, rất sáng và nhấp nháy - “chúng tôi lấy từ trên cây. Thực tế là hầu hết đèn chúng tôi đều lấy từ cây xuống. Tất nhiên là phải sau Giáng sinh - quãng độ Năm mới gì đó. Bóng đèn sáng lớn chúng tôi khó vận chuyển được.”
Chị Frisby biết điện là gì (chồng chị biết đủ mọi điều, anh từng giải thích cho chị hiểu). Chị đã thấy đèn sáng trong nhà ông Fitzgibbon vào ban đêm, và mỗi Giáng sinh đã thấy dây đèn các con ông treo trên cây thông đặt ngoài sân.
“Ý anh là cứ thế lấy thôi à?” chị hỏi.
“Chúng tôi hạn chế chỉ lấy mỗi cây vài bóng thôi,” thầy Ages nói.
“Cứ như đi hái quả ấy,” Justin có vẻ mơ màng nói. “Mùa trẩy bóng đèn hàng năm. Chúng tôi phải đi ngược đường một quãng khá xa mới đủ. Thế mà cũng mất hai Giáng sinh đấy.”
“Justin,” thầy Ages nói. “Tôi nghĩ chúng ta nên đi tiếp được rồi.”
Cả ba tiếp tục đi dọc hành lang, đường hơi vòng sang bên phải khiến chị Frisby không đoán nổi là dài đến bao nhiêu, một chốc sau lại ngoặt dốc hơn nữa xuống lòng đất. Chị Frisby nhận thấy không khí dưới sâu này lẽ ra phải ẩm ướt thì lại rất sạch và tươi mát, thậm chí hình như chị nhận thấy cả luồng gió cực kỳ nhẹ lướt qua tai chị khi đi.
Vài phút sau hành lang đột ngột mở rộng thành một căn phòng lớn hình trái xoan. Vào đây đèn lại gắn trên trần; ở đầu kia chị Frisby thấy đường hầm dài vẫn đi tiếp, trông có vẻ lại dốc lên trên - có lẽ là dẫn đến một lối vào khác, một cửa sau. Vậy đây là đích đến, là đại sảnh của chuột cống chăng? Nhưng nếu là thế đi nữa thì những chuột khác đâu cả rồi? Phòng hoàn toàn trống trơn - một mẩu bàn ghế cũng không có.
“Đây là nhà kho,” Justin nói. “Đôi lúc cũng đầy. Bây giờ thì trống.”
Rồi chị nhận ra một bên phòng còn cầu thang xuống nữa, bên cạnh có cánh cửa nhỏ. Justin dẫn họ đến cửa ấy.
“Cửa này chỉ chuyển hàng thôi,” anh ta nhe răng cười với thầy Ages. “Nhưng xét tình trạng chân cẳng thầy thì con nghĩ chúng ta có thể coi như ngoại lệ. Cầu thang sẽ khó cho thầy.”
Chị Frisby nhìn cầu thang. Đấy là một đường xoắn ốc thẳng xuống, mỗi bậc đều lát một phiến đá chữ nhật vuông vức. Chị không thấy nó xuống sâu đến đâu vì không nhìn thấy gì cả sau vòng cuộn trên cùng, nhưng chị cảm giác phải sâu lắm lắm. Đúng như Justin nói, sẽ khó cho thầy Ages.
Justin mở cửa. Sau cửa là một phòng hình vuông trông như ngăn để chổi.
“Mời chị đi trước,” anh ta nói. Chị Frisby đi vào, hai người kia đi theo và cánh cửa đóng lại. Trên tường có hai cái núm. Justin nhấn vào một cái, và chị Frisby vốn chưa bao giờ đi thang máy thở gấp suýt ngã khi thấy sàn thình lình sụp xuống dưới chân. Justin giơ tay đỡ lấy chị.
“Không sao đâu,” anh ta nói. “Lẽ ra tôi phải báo trước cho chị.”
“Nhưng mà chúng ta đang rơi!”
“Không hẳn đâu. Chúng ta đang đi xuống, nhưng có hai sợi cáp rất chắc và một cỗ máy chạy điện giữ chúng ta lại.”
Thế nhưng chị Frisby vẫn nín hơi cho đến hết chặng hành trình, tới khi rốt cuộc cỗ thang máy nhỏ cũng từ từ ngừng lại và Justin mở cửa. Rồi chị lại thở ra và nhìn ra ngoài.
Căn phòng trước mặt chị to phải ít nhất gấp ba căn phòng họ vừa đi qua, từ đó mọc ra những hành lang khắp các phía như một đóa hoa cúc nhiều cánh. Thẳng trước mặt thang máy là một cổng vòm mở, có vẻ dẫn vào một phòng còn lớn hơn nữa - hình như là một hội trường gì đấy, vì cuối phòng có một lễ đài cao.
Và bây giờ đã thấy chuột cống xung quanh. Hàng tá chuột - chuột đứng khắp nơi trò chuyện thành từng nhóm hai hoặc ba hoặc bốn, chuột bước chậm, chuột hối hả đi, chuột mang giấy tờ. Khi chị Frisby từ trong thang máy bước ra, có thể thấy rõ ở đây người lạ hiếm gặp đến mức nào - vì cả chục cuộc chuyện trò lao xao bỗng ngừng bặt, và mọi cái đầu đều ngoảnh ra nhìn chị. Chúng không có vẻ thù nghịch, cũng không hoảng hốt - vì hai người đi cùng chị đều quen thuộc - chỉ là tò mò. Rồi cũng nhanh như khi lặng đi, tiếng chuyện trò lại nổi lên như thể các chuột đều quá lịch thiệp không muốn đứng trơ mắt nhìn. Nhưng một trong số đó, một chuột mảnh dẻ có vết sẹo trên mặt, rời khỏi nhóm đi về phía họ.
“Justin. Thầy Ages. Và tôi thấy chúng ta có một vị khách.” Ông ta có lối ăn nói rất tao nhã với vẻ tự tôn trầm tĩnh, nhưng ngoài ra chị Frisby còn nhận thấy hai điều khác. Thứ nhất là vết sẹo chạy vắt ngang mắt trái ông, nên ông đeo một miếng băng đen che con mắt nhờ sợi dây thắt qua đầu. Thứ hai là cái cặp - nhìn hao hao như túi xách - đeo chéo qua vai ông.
“Chắc hẳn là một vị khách anh có biết tên,” Justin nói. “Chị ấy chính là vợ Jonathan Frisby. Thưa chị Frisby, đây là Nicodemus.”
“Quả là ta có biết cái tên này,” chuột tên Nicodemus nói. “Bà Frisby - chẳng hay bà có biết điều này chăng? - người chồng quá cố của bà là một trong những người bạn lớn của chúng tôi. Nơi này luôn đón chào bà.”
“Cảm ơn ông,” chị Frisby nói, nhưng chỉ càng hoang mang hơn nữa. “Thực tình là tôi cũng không biết ông có quen chồng tôi. Nhưng nghe vậy tôi rất mừng, vì tôi đến đây là để xin ông giúp đỡ.”
“Chị Frisby gặp phải một vấn đề,” thầy Ages nói. “Một vấn đề rất cấp bách.”
“Nếu chúng tôi có thể giúp được thì xin sẵn lòng,” Nicodemus nói. Ông ta quay hỏi thầy Ages: “Chuyện này có thể đợi sau buổi họp được không? Một tiếng thôi? Chúng ta vừa chuẩn bị bắt đầu lại.”
Thầy Ages nghĩ ngợi. “Một tiếng cũng chẳng thay đổi gì, tôi nghĩ thế.”
Nicodemus nói: “Justin, hãy đưa bà Frisby tới thư viện nghỉ ngơi chờ cho cuộc họp kết thúc.”
Cho đến lúc này thì những chuột cống đang tụ họp lúc trước đã đi hết vào trong hội trường lớn, ngồi quay mặt lên lễ đài. Nicodemus vào theo, vừa lôi một tập giấy tờ và cái kính lão nhỏ trong cặp đeo bên hông ra vừa bước lên đầu phòng.
Justin dẫn chị Frisby theo ngả khác, vào hành lang bên trái và lần nữa chị lại cảm giác có luồng gió mát lướt nhẹ qua mặt mình. Chị nhận ra hành lang vừa đi trên kia chỉ là một tiền sảnh dài, và những sảnh quanh chị đây mới là khu gia cư thực của dân chuột cống. Nơi Justin đang dẫn chị đi hai bên sắp hàng những cửa, anh ta đẩy một cánh ra.
“Trong này,” anh ta nói.
Căn phòng họ bước vào rất lớn và vuông vức, tràn đầy ánh sáng và lại có mùi xạ hương thoang thoảng. “Ở đây khá dễ chịu, và nếu chị muốn đọc thì...” anh ta khoát tay chỉ lên tường. Trên tường sắp đầy giá từ sàn đến tận trần, còn trên giá - chị Frisby cố sức nhớ lại. “Sách,” chị nói. “Đấy là sách.”
“Phải,” Justin nói. “Chị có hay đọc không?”
“Chỉ một chút thôi,” chị Frisby nói. “Chồng tôi có dạy tôi. Và lũ trẻ nữa...” Chị toan kể cho anh ta nghe. Vạch từng chữ miệt mài bằng que trên đất - chuyện ấy hình như xa xôi thăm thẳm rồi. Nhưng Justin đã chuẩn bị đi.
“Xin thứ lỗi - tôi cần đến phòng họp. Tôi ghét họp hành lắm, nhưng lần này rất quan trọng. Chúng tôi đang hoàn thiện nốt bảng tiến độ cho Kế hoạch.” Anh ta nói chữ “Kế hoạch” như là danh từ riêng.
“Kế hoạch à?”
Nhưng anh ta đã ra đến cửa và nhẹ nhàng khép lại rồi.
Chị Frisby nhìn quanh. Trong căn phòng - thư viện như Nicodemus đã gọi - bên cạnh các giá sách còn
có nhiều bàn hai bên đặt ghế dài, trên bàn còn chất thêm nhiều sách nữa, vài quyển đang mở.
Sách đấy. Jonathan chồng chị từng kể cho chị nghe. Anh cũng đã dạy chị và lũ trẻ đọc (lũ trẻ nhanh chóng thông thạo, nhưng còn chị thì khó khăn lắm mới nắm được vài từ đơn giản, chị đã nghĩ có thể là vì chị già hơn chúng). Anh cũng đã kể cho chị nghe về điện. Anh đã biết về những chuyện này - và hóa ra cả đàn chuột cống cũng vậy. Cho đến tận lúc ấy chị chưa bao giờ băn khoăn vì sao anh lại biết những chuyện đó. Anh lúc nào cũng biết rất nhiều điều, và chị đã coi đấy là chuyện đương nhiên. Nhưng ai là người dạy cho anh đọc? Lạ lùng hơn nữa, còn hóa ra là anh có quen chuột cống. Họ đã dạy cho anh ư? Anh có liên hệ gì với họ? Chị nhớ đến những chuyến thăm nom rất lâu ở nhà thầy Ages của anh. Và thầy Ages cũng có quen chuột cống.
Chị thở dài. Có thể khi cuộc họp đã xong và chị có cơ hội nói chuyện với Nicodemus - sau khi kể xong về Timothy và ngày Dọn Nhà - có thể khi chuyện kia đã được giải quyết, ông ta sẽ giải thích hết mọi điều cho chị.
Chị nhận thấy ở tít đầu bên kia căn phòng có một đoạn tường không bày giá sách. Thay vào đó là một tấm bảng đen viết đầy chữ và số bằng phấn trắng. Có mấy mẩu phấn và một miếng lau ở kệ dưới mép bảng. Bảng treo gần cuối cái bàn dài nhất. Có phải thư viện cũng dùng làm phòng học không? Khi chị đến nhìn lên bảng đen và vất vả đọc xong những gì viết trên đó, chị nhận ra là không. Đúng hơn, nơi này được dùng làm phòng hội thảo.
Trên bảng, trên cùng, viết bằng chữ hoa rất lớn, là dòng chữ: “ KẾ HOẠCH CỦA CÁC CHUỘT CỐNG Ở NIMH.”
Isabella
Chị Frisby đánh vần lại thật chậm: Kế hoạch của các chuột cống ở Nimh. Vậy Nimh là gì, hay là đâu? Cái tên ấy đọc lên nghe lạ lùng và xa xôi quá. Như thế là những chuột cống này từ nơi khác đến đây? Có phải vì thế mà họ có sách vở, đèn điện, dây điện, máy phát điện không? Thế nhưng họ đã sống ở đây - hoặc ít ra đã có chuột cống sống ở đây - từ thuở chị bắt đầu nhớ được. Nhưng như thế cũng chẳng phải lâu lắm.
Chị tự hỏi họ còn có những gì khác nữa. Bất chợt chị thấy tò mò khủng khiếp muốn nhìn một vòng xung quanh - muốn xem có gì đằng sau những cửa khác, qua những hành lang khác. Chị đến bên cửa mở ra, ngó ra ngoài sảnh. Sảnh vắng hoe và lặng ngắt, chỉ có điều khi chú ý lắng tai chị nghe thấy tiếng ầm ì xa xa, như cái gì đó đang chạy - một cỗ máy khác chăng?
Chị dợm bước ra ngoài sảnh, rồi lại đổi ý. Tốt hơn là không nên. Nicodemus tỏ ra niềm nở - tất cả bọn họ đều niềm nở - nhưng rất rõ ràng. Ông đã nói chị phải đợi trong thư viện. Và chị đến đây không phải để rình mò mà là để xin giúp đỡ. Chị quay vào thư viện, đóng cửa, ngồi lên một băng ghế. Sách trên bàn hầu hết đều là sách bìa mềm - nhỏ đủ để chuột cống dễ dàng cầm xem, nhưng vẫn quá to so với chị, nên chị ngồi xuống trước tấm bảng đen đọc lại lần nữa.
Dưới hàng tiêu đề trên cùng là những cột chữ và con số bằng phấn, viết tay nắn nót:
Tiến độ
Tháng Giêng:
Nhóm 1 (10): Yến mạch 30gánh = 2giạ
Nhóm 2 (10): Lúa mì 30gánh = 2giạ
Nhóm 3 (10): Ngô 20gánh = 1½giạ
Nhóm 4 (10): Hạt khác TC khoảng 10 gánh
Cả bảng là những hàng con số như vậy, trên đề tên từng tháng: Tháng Hai, tháng Ba, tháng Tư, tháng Năm, cứ thế cho đến tháng Bảy. Dưới cùng có một ô vuông đóng khung riêng ra:
Cày (Nhóm Arthur) (14)
Cày lần 2. Hoàn thành: 1/1
Cày lần 3. Hoàn thành: 10/2
Cày lần 4. Hoàn thành: 20/3
Chị Frisby nhìn trân trối, cố luận xem thế nghĩa là thế nào nhưng không đoán ra. Chuyện này hoàn toàn không hiểu nổi.
Chị vẫn còn đang băn khoăn nghĩ thì cửa mở ra, một chuột cống khác bước vào. Đấy là một cô chuột gái, nhỏ con và còn khá trẻ theo vẻ bề ngoài. Cô ta mang bút chì với vài tờ giấy và vừa đi vừa nhìn vào đó, nên mới đầu chưa nhìn thấy chị Frisby. Khi nhận ra cô ta giật mình đánh rơi tập giấy bay tung tóe trên sàn. Cô ta mở tròn mắt.
“Bà là ai?” cô ta hỏi. “Tôi không biết bà. Làm sao bà vào được đây?” Cô ta lùi lại phía cửa.
“Không sao đâu,” chị Frisby nói. “Tôi là bạn của thầy Ages.” Cô chuột kia quả là còn rất nhỏ, chỉ là một đứa bé.
“Nhưng sao bà lại ở đây? Ai cho bà vào?”
“Nicodemus. Ông ấy bảo tôi đợi ở đây.”
Cô bé chuột có vẻ ngờ vực. “Bà có thể là gián điệp.”
“Gián điệp á! Làm sao được? Gián điệp cho ai?”
“Tôi biết đâu được. Cho bên ngoài. Có thể là cho Nimh chăng?”
“Tôi còn không biết Nimh là cái gì.”
“Đấy là bà nói thế.”
“Nhưng tôi không biết thật. Nó là cái gì?” chị Frisby hỏi, thấy hơi cáu kỉnh.
“Đấy là một chỗ.” Cô bé chuột hẳn nhiên đã đỡ sợ, bắt đầu nhặt nhạnh giấy tờ nằm rải rác. “Bây giờ tôi phải tập đọc.”
“Một chỗ nào?”
“Chúng tôi từ đó đến đây. Tôi cũng không biết nhiều lắm. Tôi chưa ở đấy bao giờ.” “Làm sao mà cô từ đó đến đây được nếu cô chưa bao giờ ở đó?”
“Bố mẹ tôi đến đây từ đó. Sau rồi tôi mới sinh. Tôi nghĩ là ở đó màu trắng. Nhưng tôi biết một điều này. Chúng tôi không muốn quay lại. Chúng tôi không muốn bị bắt.”
Như thế là, chị Frisby nghĩ, có vẻ như dù Nimh có là gì thì đàn chuột cống cũng đã trốn thoát khỏi đó tới đây. Nhưng chị nhận ra ít có khả năng tìm hiểu thông tin rõ ràng nếu chỉ hỏi một đứa trẻ. Lần nữa chị lại hy vọng Nicodemus sẽ giải thích chuyện này.
“Nicodemus cũng từ Nimh đến à?”
“Phải.”
“Cả Justin nữa?”
“Phải. Bà biết Justin à?”
“Có biết.”
“Chắc bà không phải là gián điệp,” cô bé chuột cống nói. Nó có vẻ hơi thất vọng. Rồi nó thêm, chẳng
ăn nhập vào đâu: “Justin chưa có vợ đâu.” Nó trèo lên một chiếc ghế và mở sách ra. “Anh ấy là người giỏi vô địch. Anh ấy còn không sợ thằng Rồng nữa.” Cô nhỏ đọc sách khoảng chừng ba mươi giây, cầm bút chì lên rồi lại bỏ xuống. “Tôi còn nhỏ quá chưa đến tuổi lấy chồng.”
“Tôi cũng nghĩ thế,” chị Frisby nói. “Ít nhất là một thời gian nữa. Nhưng cũng không lâu lắm đâu.” “Mẹ tôi cũng nói thế. Nhưng có vẻ lâu lâu là. Rồi Justin có thể lấy người khác mất.”
“Cũng có thể là không,” chị Frisby nói, chị không thuộc loại người chỉ biết sự mình. “Bản thân anh ấy cũng còn khá trẻ mà. Tên cô là gì?”
“Isabella.”
“Tên đẹp nhỉ.”
“Tên cũng được. Mỗi tội anh tôi gọi tôi là Izzy. Tôi chẳng thích tí nào.”
“Hẳn nhiên rồi. Anh cô đâu?”
“Đi họp rồi. Anh ấy lớn lắm. Chuột đàn ông đi họp hết rồi. Nhưng mẹ tôi không đi. Các bà mẹ không phải lúc nào cũng đi. Mẹ tôi đang ở trong kho hạt đóng gói.”
“Đóng gói à?”
“Cho Kế hoạch ấy mà. Nhưng mẹ không thích Kế hoạch.”
Lại là Kế hoạch.
“Kế hoạch là gì? Sao mẹ cô lại không thích?”
“Kế hoạch là kế hoạch thôi. Xem chúng tôi sẽ sống ở đâu các thứ ấy. Mẹ không thích vì mẹ nói sống như thế khó quá - chẳng có đèn điện, chẳng có tủ lạnh, chẳng có nước máy nữa. Nhưng mẹ sẽ không đào ngũ hay gì đâu. Không phải như Jenner. Chúng tôi không ưa Jenner.”
“Jenner là ai?”
“Ông ta từng ở trong nhóm, nhưng bỏ cuộc rồi. Có thể là ông ta về lại Nimh. Chẳng ai biết.”
Chị Frisby dần dà phác thảo được bức tranh đời sống khu định cư chuột, có hơi rối rắm vì Isabella vẫn còn bé, nhưng cũng có vài nét rõ ràng: Họ có kho hạt (chắc hẳn để trữ thực phẩm); giới phụ nữ đôi lúc đến dự họp còn đôi lúc không; Nicodemus có vẻ là lãnh đạo; họ có một Kế hoạch về tương lai không phải chuột nào cũng thích; và một kẻ, tên là Jenner, đã đào ngũ. Hay là có những chuột khác đi cùng? Chị sắp sửa hỏi Isabella thì cửa thư viện mở ra và Nicodemus, Justin cùng thầy Ages đi vào. Còn có thêm một chuột cống đi cùng nữa, một người lạ mặt.
Thuốc cho Rồng
Chuột lạ mặt tên là Arthur. Anh ta người bè, vai vuông, chân tay vậm vạp, mắt đanh nhưng rất sáng. Trông anh ta đã thấy năng nổ.
“Đây có thể gọi là kỹ sư trưởng của chúng tôi,” Nicodemus giới thiệu với chị Frisby, “cũng như có thể gọi Justin là trưởng vệ sĩ, thật thế, nếu chúng tôi có chức danh nào như vậy, mặc dù không có. Thầy Ages nghĩ là nên đưa Arthur đi cùng dù thầy không nói vì sao. Nên chúng tôi vẫn chưa biết vấn đề của bà là gì.”
Isabella đã đi mất. Cô bé đã lại đánh rơi tập giấy lên sàn khi số chuột kia xuất hiện, và Justin đã giúp cô nhặt lên, khiến cô lúng túng cao độ mà cũng hoan hỉ thấy rõ.
“Chào Izzy,” lúc đó anh ta nói. “Việc đọc của em thế nào rồi?”
“Cũng ổn ạ,” cô bé đáp. “Tuần trước em đã xong quyển Ba rồi. Bây giờ em đang đọc quyển Bốn.”
“Quyển Bốn rồi cơ à! Em đã trưởng thành gớm rồi đấy!” Nghe tới đó suýt nữa cô bé đánh rơi giấy lần thứ ba và vội vàng vọt về phía cửa. Chị Frisby để ý, Justin có gọi cô bé là Izzy cũng chẳng sao miễn là anh có gọi cô.
Nicodemus đóng cửa khi cô bé ra, rồi ngồi xuống một chiếc ghế dài đối diện chị Frisby, những chuột kia cũng ngồi theo, thầy Ages duỗi dài cẳng chân bó bột trước mặt. Nicodemus lấy kính trong cặp, mở ra, và nhìn qua nó mà nghiêm nghị soi xét khuôn mặt chị Frisby. “Xin bà thứ lỗi cho cặp kính và cái nhìn này,” ông ta nói. “Khi mắt trái tôi bị hỏng thì mắt phải cũng trúng thương; không có kính thì tôi chẳng nhìn thấy gì ở gần cả - thực tế là có thì cũng vậy.” Hồi lâu sau ông ta cũng gập kính lại đặt lên bàn.
“Bây giờ thì,” ông nói, “chúng tôi có thể giúp bà chuyện gì?”
Thế là một lần nữa chị Frisby thuật lại những sự kiện đã dẫn chị đến đây, và kết thúc bằng lời cú khuyên. Chị nói - “chuyển ngôi nhà vào mé bế phong của tảng đá.”
Chị nói thêm: “Tôi không hiểu lắm cụ ấy nói thế nghĩa là sao. Jeremy - anh quạ - nói nghĩa là phía bên khuất gió. Nhưng như thế thì được gì?”
“Tôi nghĩ là tôi hiểu ý ông ta,” Nicodemus nói. “Theo nghĩa rộng thì mé bế phong nghĩa là phía được che chở. Chim bay ngang vườn nhà ông Fitzgibbon tất sẽ nhận ra điều phần lớn chúng ta không thấy được.”
Ông ta lại thò tay vào cặp lấy ra xấp giấy trắng và bút chì, và lại mở cặp kính. Vừa nói ông ta vừa vẽ phác trên giấy:
“Khi người chủ trại cày thửa ruộng có tảng đá lớn, ông ta sẽ cày xung quanh tảng đá - cày sát hai bên, nhưng chừa lại một khoảng tam giác không đụng đến ở hai đầu.
“Nhà bà Frisby ở cạnh tảng đá nên sẽ bị xới lên - chắc hẳn sẽ bị nghiền nát, như ông cú nói. Nhưng nếu chúng ta có thể dịch chuyển chỉ vài bộ - để nó nằm dưới đất đằng sau tảng đá - trong mé bế phong - thì bà cùng các con có thể ở lại đó đến chừng nào bà muốn.
“Từ trên không theo mắt cú nhìn xuống, khu vườn trông sẽ như thế này.” Ông ta theo dõi bức vẽ qua kính rồi bỏ lên bàn.
Chị Frisby trèo lên băng ghế nhìn bản vẽ. Đấy là một sơ đồ mô tả khu vườn, tảng đá lớn gần chính giữa, và những luống cày do xe xới lên sẽ cong vòng qua hai bên tảng đá thế nào, gần giống như vệt sóng quanh một con thuyền.
“Xin cho biết vị trí nhà bà ở đâu,” Nicodemus nói. Chị Frisby chỉ vào điểm tương ứng trên sơ đồ. “Tôi có biết cái khối bê tông ấy,” chuột tên Arthur nói. “Thực tế là tôi đã có ý định mang nó vào đây,
nhưng lại thấy sẽ phải lôi một đoạn quá dài. Họ đã buộc nó lên đỉnh bừa cho đằm, nó rơi ra vừa lúc họ sắp bừa xong vườn.”
“Liệu anh có thể chuyển nó đi,” Nicodemus hỏi và chỉ vào sơ đồ, “đến điểm ngay ở đây rồi lại chôn xuống đất không?”
“Được,” Arthur nói. “Không có gì khó.”
Chị Frisby hởi dạ; khi nhìn vào sơ đồ thì tất cả đã rõ ràng, và chị thấy ý tưởng này thần hiệu mà lại đơn giản thế nào. Khi cày ông Fitzgibbon sẽ đi qua ngay sát nhà chị; chị sẽ không phải chuyển nhà đến khi Timothy khỏe lại và thời tiết đã thực sự ấm lên. Chị nhớ lại chồng mình từng bảo - cửa nào cũng dễ mở nếu có đúng chìa. Chị đã tìm được chìa. Hay đúng hơn là ông cú đã tìm được.
Nicodemus hỏi Arthur: “Sẽ phải mất bao lâu?”
“Cũng tùy. Với một đội mười người thì khoảng hai giờ. Có hai mươi người thì cũng có thể là một giờ.”
“Chúng ta có thể dành ra hai mươi người. Nhưng vẫn lâu quá.” Ông ta có vẻ lo ngại.
Arthur cũng vậy. “Đúng thế,” anh ta nói. “Chúng ta sẽ phải làm việc về đêm - nhưng ngay cả thế... Chẳng có gì che chắn cả. Tất cả đều phơi ra.”
“Chúng ta sẽ phải xử lý con Rồng,” Justin nói.
“Phải,” thầy Ages nói, “và chân cẳng thế này thì tôi chẳng thể làm nổi. Tôi sẽ chẳng đến được cái bát chứ đừng nói chuyện quay về.”
Chị Frisby nhìn những khuôn mặt bối rối xung quanh và thấy niềm vui vợi hẳn. Rõ ràng là có điều gì không hay.
“Tôi không hiểu,” chị nói. “Tôi biết con Rồng, tất nhiên, nhưng...”
“Vào ban đêm,” Justin nói, “con Rồng săn lùng quanh trang trại như một con hổ đích thực. Và chẳng ai thấy nó cho đến khi nó đã cưỡi lên cổ mình.”
“Nghĩa là tóm lại các anh không thể chuyển được nhà tôi.”
“À,” Justin nói, “thông thường thì...” Anh ta quay sang Nicodemus. “Tôi có nên giải thích cho chị ấy không?”
“Có,” Nicodemus nói.
“Thông thường thì,” Justin nói, “khi chúng tôi có kế hoạch gì mất thời gian phải làm đêm - có khi kể cả
ban ngày nữa - chúng tôi cần biết chắc con Rồng sẽ không cản trở. Chúng tôi bỏ thuốc ngủ bột vào thức ăn của nó. Thầy Ages chế ra thuốc. Con mèo chẳng bị sao đâu, nhưng sẽ lơ ma lơ mơ suốt chừng tám giờ đồng hồ. Chúng tôi cắt người gác, và chúng tôi thoải mái làm việc mình.”
“Các anh cũng làm thế hôm qua!” chị Frisby kêu lên, nhớ lại những hình thù kéo lê dây điện qua thảm cỏ, nhớ lại Rồng đã dửng dưng bất thường khi nhìn thấy chị. “Tôi thấy con mèo nằm ngủ trong sân.”
“Phải,” Justin nói, “nhưng hôm nay thầy Ages đã bị gãy chân.”
“Nghĩa là thầy không thể chế thêm thuốc à?”
“Không phải thế,” thầy Ages nói. “Tôi còn nhiều thuốc lắm.”
“Cái rủi là,” Justin nói, “chính thầy Ages là người vẫn bỏ thuốc vào bát ăn tối của Rồng trong bếp trại. Nhưng chân gãy rồi thầy ấy chẳng thể chạy nhanh được.”
“Nhưng sao phải là thầy Ages?” chị Frisby hỏi. “Người khác không làm được à?” “Tôi sẵn lòng làm thay,” Justin nói, “nhưng tôi lớn xác quá.”
“Thế này nhé,” Nicodemus giải thích, “ông Fitzgibbon cho mèo ăn ngày hai lần sáng và tối, bát ăn của nó lúc nào cũng để đúng một chỗ - bên cạnh tủ bếp trong góc. Có một khoảng hở cực nhỏ giữa sàn bếp và đáy tủ. Mấy năm trước khi lần đầu nghĩ ra chuyện đánh thuốc ngủ con Rồng, chúng tôi đục lỗ trên sàn ngay dưới tủ - nếu ở nơi nào khác chủ nhà sẽ để ý. Thầy Ages bò dưới tủ để đến chỗ cái bát. Khi bò đến mép rồi thầy sẽ chạy vọt ra, bỏ thuốc vào bát rồi chạy vọt vào không ai thấy. Nhưng chân gãy rồi thì chạy làm sao được đây.”
“Ta có thể bỏ mồi nhử đâu đó bên ngoài,” Justin nói. “Cách đó từng có tác dụng một lần đấy.”
“Trong số cả chục lần thử,” Nicodemus đáp. “Cách này không đảm bảo, mà chúng ta không còn nhiều thời gian. Để an toàn nhất thì phải chuyển ngay đêm nay.”
“Nếu ta lấy được ít thức ăn mèo...” Justin đang phát biểu ý nghĩ thành tiếng. “Nếu để ngoài hiên cũng có thể nó sẽ ăn, vì nó biết đấy là đồ ăn của mình. Có lẽ đêm nay tôi có thể vào gác mái rồi xuống dưới bếp...”
“Không ăn thua đâu,” thầy Ages nói. “Họ để trong cái tủ sắt đóng tít trên tường. Không phái một đội đi thì chẳng cách nào lấy được. Mà như thế sẽ quá ồn ào.”
“Mà như thế,” Nicodemus nói, “chuyện dời nhà sẽ phải lùi sang đêm mai.”
“Vậy thì,” Justin nói, “tôi nghĩ ta sẽ đặt người canh ở mọi nơi có thể, theo dõi đường đi nước bước con Rồng, và hy vọng mọi chuyện sẽ ổn. Có nhiều đêm nó còn chẳng hề ra đến vườn. Có thể ta sẽ gặp may.”
“Hoặc có thể không,” Arthur nói. “Tôi không ưa cách đó. Chúng ta không thể đào khối bê tông lên mà không gây tiếng động, anh biết mà.”
Chị Frisby lặng lẽ chen vào. “Vẫn còn một cách khác,” chị nói. “Nếu thầy Ages có thể vào bếp được thì tôi cũng thế. Chỉ cần các anh đưa thuốc cho tôi và chỉ đường đi, tôi sẽ cố gắng bỏ vào bát con Rồng.”
Justin cướp lời: “Không được. Việc này không thể để cho phụ nữ làm.”
“Anh quên là,” chị Frisby nói, “tôi là mẹ cháu Timothy. Nếu anh hay Arthur và mọi người khác trong nhóm có thể liều mình cứu cháu thì tất nhiên tôi cũng vậy. Và điều quan trọng là: Tôi không muốn ai trong số các anh bị con Rồng làm hại - thậm chí có thể giết chết. Nhưng hơn tất thảy tôi không muốn nhiệm vụ này thất bại. Có thể với các anh, nếu may mắn, khả năng xấu nhất là các anh sẽ phải tản ra bỏ chạy, nhà tôi vẫn không chuyển được. Nhưng nếu thế chúng tôi sẽ gặp chuyện gì? Ít nhất là Timothy sẽ chết. Vậy nếu không còn ai có thể bỏ thuốc cho mèo thì tôi phải làm.”
Nicodemus ngẫm nghĩ rồi lên tiếng:
“Tất nhiên, bà ấy nói đúng. Nếu bà ấy quyết chấp nhận nguy cơ thì chúng ta phải chấp nhận bà có
quyền.” Ông ta ngoảnh sang chị Frisby nói tiếp: “Nhưng bà phải biết rằng nguy hiểm lớn lắm. Chính trong bếp ấy mà ngày hôm qua thầy Ages bị gãy chân khi chạy khỏi cái bát mèo. Và cũng chính vì việc đó mà chồng bà đã hy sinh năm ngoái.”
Khu chợ
Chị Frisby gục đầu vào hai tay. “Tôi chẳng hề được biết,” chị nói. “Tôi chỉ biết một điều là anh ấy không trở lại. Nhưng tôi không biết đã có chuyện gì xảy ra. Tôi còn không biết anh ấy có quen các anh. Tại sao anh ấy chẳng hề cho tôi biết?”
Justin chạm khẽ vào vai chị. “Thật khổ cho chị phải biết chuyện đó đột ngột như thế này,” anh ta nói. “Chúng tôi đã nghĩ có nên nói với chị khi chuyện xảy ra, nhưng lại quyết định thôi. Sẽ chẳng mang lại điều gì hay cả.”
“Bà hỏi vì sao Jonathan không bao giờ cho bà biết về chúng tôi,” Nicodemus thêm vào. “Anh ấy có lý do, một lý do rất chính đáng. Nhưng anh ấy vẫn trăn trở rất nhiều chuyện ấy, và có thể rốt cuộc cũng sẽ kể với bà. Nhưng rồi đã thành quá muộn.”
“Lý do ấy là gì?” chị Frisby ngẩng mặt lên. Trên má chị có vệt nước mắt, nhưng chị đã ngừng khóc.
“Muốn trả lời tôi sẽ phải kể cho bà một câu chuyện rất dài - toàn bộ sự tích về chúng tôi, Nimh, và Jonathan, và việc chúng tôi đến đây bằng cách nào. Anh ấy cũng đi cùng chúng tôi, bà hiểu không. Tôi không phiền kể ra, nhưng không biết có đủ thời gian không.”
“Tôi nghĩ là đủ đấy,” Justin nói, “nếu thầy Ages và tôi đi lấy thuốc trong khi anh kể.” “Với cái chân này thì,” thầy Ages ủ ê nói, “sẽ đủ thời gian kể hai lần ấy chứ.”
“Tôi quên mất,” Justin nói vẻ hối lỗi. “Hay là tôi đi một mình sẽ tốt hơn?”
“Không được,” thầy Ages nói. “Trong kho nhà tôi có nhiều loại bột khác nhau lắm. Anh chẳng biết phải lấy loại nào đâu. Tôi sẽ đi với anh. Nhưng chúng ta cần đi chậm thôi.”
“Còn tôi,” Arthur nói, “tôi đi soát các dụng cụ cần dùng đêm nay. Chúng ta sẽ cần xẻng, xà beng, ròng rọc, con lăn...” Anh ta bỏ đi, miệng vẫn kể tên dụng cụ.
Nicodemus nói với chị Frisby, “Tôi nghĩ chúng ta cũng nên ra khỏi thư viện. Các chuột khác sẽ vào đây tập đọc giống như Isabella, một số cần nghiên cứu nữa.”
“Nghiên cứu à?”
“Chúng tôi vừa có vài cuốn sách mới về nghề nông - trồng trọt, làm vườn, phân bón, đại loại thế - và chúng tôi cần học. Đấy cũng nằm trong Kế hoạch.”
“Tôi không biết Kế hoạch này là gì.”
“Bà không biết,” Nicodemus đồng ý, “nhưng khi tôi đã kể xong câu chuyện thì bà sẽ hiểu cả phần đó nữa.”
Ông mở cửa dẫn chị Frisby ra hành lang đi quá vài cửa nữa, cửa nào cũng đóng. Ông dừng lại trước một cánh và mở ra.
“Đây là văn phòng của tôi,” ông nói. “Mời bà vào.”
Căn phòng này nhỏ hơn thư viện, nhưng bài trí ở đây tiện nghi hơn nhiều, gần như sang trọng nữa. Trên sàn có thảm (cùng kiểu hoa văn như trên hành lang phía trên, chị nhận ra), đèn gắn âm trên trần và trên tường cạnh bàn. Có nhiều tủ sách, trên một tủ cái đồng hồ điện đang rù rì một mình. Trên bàn mở một quyển sách, bên cạnh có cái ghế tựa, tường đối diện đặt một ghế bành nhỏ phủ vải gọn gàng làm nệm. Nhưng chị Frisby chú ý nhất là cái hộp ở một góc phòng, trên có mặt số và ánh sáng tỏa ra nhè nhẹ, cái hộp phát ra tiếng nhạc dìu dịu. Chị ngẩn người nghe.
“Chị thích âm nhạc à?” Nicodemus hỏi. “Tôi cũng thế.”
“Đấy hẳn là máy thu thanh.” Đây cũng lại là một thứ lờ mờ nhớ được từ những gì Jonathan có lần kể cho chị. Âm nhạc à. Chị mới chỉ nghe thấy có hai ba lần trong đời, khi nhà Fitzgibbon để mở cửa sổ và có người chơi trong nhà. Chưa bao giờ nghe gần cả. Âm thanh thật du dương.
“Phải,” Nicodemus nói. “Tất nhiên chúng tôi mang về không phải để nghe nhạc mà nghe tin tức. Nhưng vì nó đã ở đây rồi thì tại sao không dùng chứ?”
Ông ngồi xuống, và chị Frisby làm theo.
“Giờ thì,” ông nói, “tôi sẽ kể chị nghe về Nimh. Chị sẽ quan tâm, tôi đoán thế, vì chồng chị cũng là một phần trong đó. Và khi kể xong thì tôi nghĩ chị sẽ hiểu sao anh lại thấy anh chẳng thể tự mình kể ra.”
Câu chuyện bắt đầu (Nicodemus nói tiếp) không phải ở Nimh, mà ở khu chợ bên rìa một thành phố lớn. Nơi ấy gọi là Chợ Nông Phẩm, đấy là một quảng trường lớn một phần có mái che nhưng chẳng hề có tường. Mỗi sáng sớm các nhà nông đến đó từ khắp mọi miền quê xung quanh, đánh từng xe tải chở đầy cà chua, ngô, bắp cải, khoai tây, trứng, thịt gà, thịt nguội, thực phẩm mang cho thành phố. Một góc chợ dành riêng cho dân chài, mang bán cua, sò, cá vược, thờn bơn. Đấy là một nơi dễ chịu, ồn ào với đủ loại mùi.
Gia đình tôi sống gần chợ ấy - bố, mẹ, chín người anh chị em và tôi - sống ngầm dưới đất trong một đường ống lớn, ngày xưa thuộc về cống thoát nước nhưng bây giờ không dùng đến nữa. Có hàng trăm chuột cống sống trong vùng. Cuộc sống gian khổ nhưng cũng không tệ như bà chắc hình dung, là nhờ khu chợ.
Mỗi chiều đến đúng năm giờ các nông dân và ngư dân lại đóng quầy, chất đồ lên xe tải về nhà. Đến đêm, sau mấy tiếng đồng hồ, sẽ có công nhân vệ sinh cầm chổi và vòi xả tới. Nhưng giữa hai thời điểm ấy, cả chợ thuộc toàn quyền chúng tôi. Các nông dân để lại bao nhiêu là món ngon vật lạ! Những đậu ván đậu hạt từ trên xe rơi xuống, cà chua và bí, những mẩu cá thịt thừa quẳng đi - tất cả vương vãi trên vỉa hè hay trong rãnh, tràn đầy những thùng lớn lẽ ra phải đậy nhưng chẳng mấy khi. Có đến gấp mười lượng chúng tôi ăn nổi, nên chẳng bao giờ có chuyện đánh nhau tranh giành thức ăn.
Đánh nhau à? Ngược lại là khác, khu chợ là nơi lý tưởng cho việc vui chơi, và chúng tôi đã vui chơi ra trò, ít nhất là các thanh niên chuột, khi đã ăn no. Có bao nhiêu hộp rỗng để nấp khi trốn tìm, có tường để leo, hộp thiếc để lăn, có những sợi thừng đem buộc lại chơi nhảy dây. Thậm chí giữa quảng trường còn có đài phun nước để bơi khi nào trời nóng. Rồi ngay khi nghe tiếng chuông người dọn vệ sinh ở đằng xa, một trong những chuột lớn tuổi hơn sẽ kêu lên cảnh báo, và mọi người gom đồ ăn hết sức mình mang về nhà. Tất cả chúng tôi đều có kho dự trữ, bởi có những hôm - Chủ nhật hay ngày lễ - khu chợ đóng cửa, mà chúng tôi không biết chắc lúc nào thì đến ngày.
Mỗi khi đến chợ tôi thường đi với hai chuột khác, anh trai tôi là Gerald và một người bạn tên Jenner. Đấy là hai bạn thân nhất của tôi. Chúng tôi cùng thích những trò chơi giống nhau, những câu đùa như nhau, những chủ đề nói chuyện như nhau - thậm chí cả đồ ăn cũng giống nhau. Tôi vô cùng hâm mộ Jenner, anh ấy rất thông minh và nhanh nhẹn.
Một buổi tối đầu thu Jenner và tôi lên đường ra chợ. Độ ấy chắc quãng tháng Chín, vì lá thu vừa chuyển vàng và có vài đứa trẻ đang chơi bóng bầu dục trong bãi đất trống. Gerald tối hôm ấy phải nằm nhà, anh bị cảm lạnh và vì khí trời khá rét nên mẹ tôi không cho anh ra đường. Thế nên Jenner với tôi đi mà không có anh. Tôi còn nhớ chúng tôi đã hứa sẽ mang về một ít đồ ăn ưa thích của anh là gan bò, nếu có tìm được.
Chúng tôi theo đường thường lệ đến chợ, không phải trên phố lớn mà qua hẻm nhỏ giữa các nhà quanh quảng trường, chủ yếu là nhà kho chứa hàng và gara. Trên đường đi có thêm nhiều chuột nữa nhập bọn; giờ ấy tất cả tập trung về khu chợ từ mọi ngả xung quanh. Khi đến quảng trường, tôi nhận ra có một ô tô tải màu trắng hình vuông rất kỳ dị đỗ trên phố rìa quảng trường, cách đó một khối nhà thì phải. Tôi nói là tôi nhận ra nó - tôi không chú ý gì lắm vì ở khu này của thành phố xe tải rất nhiều; nhưng nếu chú ý chắc tôi đã thấy hai bên sườn xe có tô bốn chữ cái nhỏ: NIMH. Tôi cũng sẽ chẳng biết là chữ gì, tất nhiên, vì lúc ấy cả tôi lẫn các chuột khác chưa ai biết đọc.
Trời đang tối dần khi chúng tôi vào đến chợ, nhưng trong bóng chập choạng chúng tôi vẫn nhận thấy có một lượng thức ăn khổng lồ - cả một núi lớn - gần chính giữa quảng trường, cách xa phần che mái. Tôi nghĩ đấy lẽ ra phải là tín hiệu cảnh giác, nhưng chẳng ai nhận ra. Tôi còn nhớ Jenner đã nói, “Hôm nay chắc chợ náo nhiệt lắm,” trong lúc cùng nhau hớn hở chạy về núi thức ăn với vài chục chuột khác.
Ngay khi đến chỗ thức ăn thì chuyện đó xảy ra. Bốn phía xung quanh thình lình bỗng vang tiếng hét. Ánh đèn pha sáng nhức mắt vụt bật lên, chiếu vào chúng tôi cũng như vào núi đồ ăn, nên khi cố chạy cho xa chúng tôi chẳng thấy mình đang đi về đâu cả. Giữa những ngọn đèn và đằng sau chúng có những cái bóng di chuyển rất nhanh, và khi chúng xáp lại gần tôi thấy đấy toàn là người - những người mặc đồng phục trắng mang theo vợt, vợt hình tròn cán rất dài.
“Coi chừng!” Jenner hét lên. “Chúng định bắt bọn mình đấy.” Anh ấy phóng về một phía, tôi phóng về phía khác, và chúng tôi không thấy nhau nữa.
Tất cả chúng tôi đều chạy - chạy thẳng về phía bọn người cầm vợt. Chẳng còn đường nào khác, bọn chúng đã quây tròn lấy chúng tôi rồi. Những cái vợt bổ xuống, múc lên, lại bổ xuống tiếp. Tôi nghĩ cũng có vài chuột thoát được nhờ chui lọt giữa đám người, chạy qua ánh đèn. Tôi nghe có tiếng vút - một cái vợt suýt quét trúng tôi. Tôi quay người chạy trở lại đồi thức ăn, nghĩ có thể trốn trong đó. Nhưng rồi lại một tiếng vút, và lần này tôi cảm thấy những sợi mềm rơi xuống vây bủa lấy tôi. Chúng quấn vào bốn chân rồi cả vào cổ tôi. Tôi bị nhấc khỏi mặt đất cùng ba chuột nữa, và cái vợt khép miệng lại.
Trong lồng
Chị Frisby hỏi: “Nhưng sao họ lại muốn bắt các ông? Và làm sao các ông lại thoát ra được?”
“Ban đầu,” Nicodemus nói, “tôi tưởng là vì chúng không thích chúng tôi lấy trộm đồ ăn. Nhưng làm sao có thể gọi đấy là trộm được - toàn là đồ ăn bỏ đi, và con người cũng chỉ lôi đến lò đốt rác thành phố là cùng. Vậy thì chúng tôi ăn bớt một phần có hại gì chứ? Tất nhiên có nhiều kẻ chỉ là ghét chuột cống, dù chuột cống có làm hại gì đến họ hay không.”
“Cả chuột nhắt nữa,” chị Frisby nói.
“Đúng thế,” Nicodemus nói. “Dù không ghét bằng chuột cống, tôi nghĩ thế. Tuy nhiên đấy cũng chẳng phải là lý do, lý do thực là gì thì phải một thời gian sau tôi mới biết. Còn việc thoát ra thì, cả chuyện ấy cũng phải mãi về sau.”
Không, tôi đã bị tóm chặt hết đường cựa quậy, trói chặt trong cái vợt, hoàn toàn không có lối thoát (Nicodemus kể tiếp). Khi cái con người cầm vợt thấy đã tóm được bốn chuột cống, hắn ta rút một sợi dây thắt miệng vợt lại. Hắn ta bỏ vợt xuống nhặt một cái rỗng khác lên. Hắn ta tiếp tục đi vào quảng trường, mặc chúng tôi nằm đó. Tôi cố gặm vợt thoát ra, nhưng những sợi lưới làm bằng loại nhựa gì đó cứng như sợi thép.
Tiếng ồn và cảnh láo nháo cuối cùng cũng lắng lại. Tôi đoán là chuột trong quảng trường đã bị bắt hết hoặc đã thoát ra rồi. Tôi nghe một người gọi một người khác: “Có lẽ thế là đủ rồi.” Một kẻ khác đang chiếu đèn bốn bề, tìm kiếm những góc chợ còn lại.
“Chẳng thấy con nào.”
“Ta có thể nấp đợi một đợt mới.”
“Sẽ chẳng còn đợt nào nữa đâu. Ít ra là đêm nay. Có thể phải thêm bốn năm đêm nữa.” “Tiếng dữ đồn xa.”
“Anh nghĩ là chúng truyền tin cho nhau à?” Giọng thứ ba.
“Chắc chắn là chúng truyền tin cho nhau. Và lần sau chúng còn đến thì anh có thể biết chắc chúng sẽ dò xét khu này thật cẩn thận. Chúng ta gặp may đấy. Tụi chuột này không bị ai đụng đến nhiều năm nay rồi. Chúng trở thành bất cẩn.”
“Phòng lab đòi bao nhiêu?” Có ai đó đang tắt đèn từng cái một.
“Sáu chục. Chúng ta có bao nhiêu?”
“Khoảng đó. Có thể hơn.”
“Xếp lên xe thôi.”
Sau khoảng một phút tôi thấy mình bị nhấc lên, đung đưa qua lại trong lòng vợt, tôi cùng ba người bạn bị đưa đến cái xe tải trắng đã thấy lúc đầu hôm. Cửa thùng xe mở, bên trong thắp đèn. Tôi thấy cả thùng xe là một cái lồng thép lớn. Cái vợt đựng chúng tôi bị thọc vào trong, rồi người kia rút dây thắt miệng và chúng tôi bị dốc xuống sàn xe phủ đầy mạt cưa. Những vợt còn lại cũng bị đổ ra như thế từng chiếc một; và chỉ sau vài phút chúng tôi đã thành một đám khá đông đảo trên sàn, tất cả đều có phần choáng váng và tất cả (nếu tôi là điển hình) đều hoảng kinh. Cái lồng bị khóa, hai cánh cửa đóng xoạch, đèn tắt ngóm. Tôi nghe máy xe nổ, rồi một giây sau sàn xe đã lắc lư dưới chân. Chúng tôi đang di chuyển. Chúng đưa chúng tôi đi đâu? Để làm gì?
Rồi trong bóng tối, tôi nghe có giọng nói bên mình.
“Nicodemus à?” Đấy là Jenner. Bà tưởng tượng xem tôi mừng biết bao khi nghe giọng anh. Nhưng tôi
cũng rầu rĩ nữa.
“Jenner. Em tưởng anh chắc đã thoát rồi.”
“Anh ở trong cái lưới cuối cùng. Anh đã nghĩ là nhìn thấy em trên sàn.”
“Chúng ta đi đâu đây?”
“Anh không biết.”
“Phòng lab là cái gì?”
“Phòng thí nghiệm.”
“Vâng, nhưng thế nghĩa là gì?”
“Anh không biết. Anh mới chỉ nghe chữ đó ở đâu đấy thôi.”
“Chậc, em nghĩ là chúng ta đang đến đấy. Dù nó là cái gì đi nữa.”
Cái xe ì ầm đi trong màn đêm, ban đầu qua những đường phố mấp mô, rồi sau đó tăng tốc trên đường cao tốc phẳng phiu. Thùng xe chẳng có cửa sổ, nên chẳng thấy được chúng tôi đang đi đâu - mà có thấy tôi cũng không biết, vì chưa bao giờ đi xa nhà quá sáu dãy phố. Ước chừng xe đi mất khoảng hai giờ, mà cũng có thể ít hơn, rồi chậm lại, rẽ ngoặt, và cuối cùng cũng dừng hẳn.
Cửa sau lại mở ra, và qua bức tường thép của cái lồng tôi thấy chúng tôi đã tới một tòa nhà bằng xi măng trắng và kính trông rất hiện đại. Ngôi nhà hình vuông, rất lớn, cao khoảng mười tầng. Đêm đã xuống hẳn, phần lớn cửa sổ tối đèn, nhưng bậc thềm mà xe tải đang nhằm đến thì sáng và có nhiều người đang đứng đợi chúng tôi.
Một cánh cửa mở cho ba người đàn ông đi ra. Một kẻ mang theo xe đẩy hàng, loại chở hành lý sân bay, chất đầy những lồng thép nhỏ. Đi bên cạnh là một người mặc áo choàng dày, đi ủng, đeo găng da dày. Người thứ ba đeo kính gọng sừng mặc áo choàng trắng. Rõ ràng là kẻ cầm đầu.
Mấy người trong xe tải, những kẻ đã bắt chúng tôi, bây giờ nhập bọn với đám này. “Anh bắt được bao nhiêu?” người mặc áo trắng hỏi.
“Khó đếm lắm, chúng cứ chạy loanh quanh. Nhưng tôi ước lượng khoảng sáu mươi đến bảy mươi gì đấy.”
“Tốt. Có rắc rối gì không?”
“Không. Dễ như bỡn. Chúng gần như hiền lành là khác.”
“Tôi hy vọng không phải thế. Tôi có quá nhiều con hiền lành rồi.”
“Ôi, chúng cũng hoạt bát lắm mà. Và trông có vẻ khỏe mạnh lắm.”
“Cho chúng ra thôi.”
Người đi găng vận ủng lúc này trùm thêm cả mặt nạ lưới rồi trèo vào giữa chúng tôi. Hắn ta mở cánh cửa sập ở đuôi lồng; một người đứng ngoài giơ một cái lồng nhỏ áp vào cửa, và chúng tôi từng đứa một bị đẩy vào những nhà tù tí hon nhốt riêng. Vài chuột cống gầm gừ tìm cách cắn lại, tôi không phản ứng và Jenner cũng vậy, chúng tôi thấy rõ làm thế chỉ vô ích. Khi đã xong người áo trắng bảo: “Sáu mươi ba, tốt đấy.” Một trong số ở xe đáp, “Cảm ơn ông, bác sĩ Schultz.” Còn chúng tôi bị chất lên xe đẩy và đẩy vào trong tòa nhà.
Bác sĩ Schultz. Lúc đó tôi còn chưa biết, nhưng tôi sẽ phải làm tù nhân (và học trò) của ông ta suốt ba năm tiếp theo.
Từ đó đến sáng chúng tôi ở trong một phòng dài màu trắng. Đấy thực tế đúng là một phòng thí nghiệm, có rất nhiều dụng cụ ở một đầu phòng mà hồi đó tôi còn chưa hiểu tí gì - chai lọ, những đồ kim
loại sáng loáng, những hộp đen mọc ra đủ thứ dây nhợ. Nhưng đầu bên chúng tôi chỉ có hàng dãy lồng đặt trên kệ, mỗi lồng có gắn nhãn riêng, bị chắn khỏi hai lồng bên bằng hai bức vách gỗ. Ai đó mang theo một giá những hũ nhỏ đến, gắn một hũ vào lồng tôi, có ống nhỏ dẫn qua các song lồng như ống hút - đấy là nước uống. Rồi đèn tối đi và chúng tôi còn lại một mình.
Lồng ấy sẽ thành nhà tôi trong một thời gian dài. Trong đó không phải không dễ chịu: sàn lồng bằng một chất nhựa gì đó mềm vừa phải và khá ấm; thành và trần chỉ toàn song chắn nên cũng thoáng mát. Nhưng nội việc đây là một cái lồng cũng đáng sợ lắm rồi. Tôi trước nay vẫn chạy nhảy bất cứ nơi nào mình muốn thì bây giờ chỉ có thể nhảy lên trước ba bước, nhảy về sau ba bước là hết đường. Nhưng kinh khủng hơn nữa là cái cảm giác đáng sợ - tôi biết tất cả chúng tôi đều có - rằng chúng tôi hoàn toàn nằm trong tay một kẻ chúng tôi không biết là ai, vì một lý do chúng tôi chẳng biết là gì. Họ có kế hoạch nào cho chúng tôi?
Như sau này thấy, nỗi băn khoăn ấy là điều tệ nhất chúng tôi phải trải qua. Chúng tôi được đối xử khá tử tế, ngoại trừ vài đợt đau đớn rất nhẹ và rất nhanh, cũng nằm trong việc tập huấn. Và chúng tôi luôn được ăn uống đầy đủ, dù thức ăn là những viên nhỏ điều chế theo tính toán khoa học chẳng ngon lành gì.
Nhưng tất nhiên những điều đó chúng tôi chưa thể biết khi mới tới, và tôi nghĩ đêm đầu tiên ấy chẳng đứa nào ngủ nổi. Tôi thì chắc chắn không. Thế nên tôi có phần nào nhẹ nhõm khi sáng sớm hôm sau đèn bật sáng và bác sĩ Schultz đi vào. Cùng với ông ta còn có hai con người khác, một đàn ông và một đàn bà, đều còn trẻ. Ông ta đang dở câu chuyện với họ khi cả ba đi vào phòng tiến đến lồng chúng tôi.
“...ba nhóm. Hai mươi sẽ tập huấn dùng mũi tiêm loạt A, hai mươi loạt B. Như vậy là còn hai mươi ba con trong nhóm đối chiếu. Chúng không được tiêm gì - ngoại trừ ta sẽ chích bằng kim không thuốc để cho kết quả tuyệt đối cân bằng. Ta hãy gọi là nhóm A, B và C là nhóm đối chiếu. Hãy đeo thẻ và đánh số chúng từ A-1 đến A-20, B-1 đến B-20 và cứ thế. Lồng cũng đánh số như thế và mỗi con chuột ở nguyên trong một lồng. Thức ăn cho tất cả đều như nhau.”
“Khi nào thì ta bắt đầu tiêm?”
“Ngay khi đánh số xong. Chúng ta sẽ bắt đầu ngay bây giờ. George, em đánh số thẻ và lồng. Julie, em đeo thẻ vào chuột. Thầy sẽ giữ.”
Vậy là người đàn bà trẻ tên Julie, người đàn ông trẻ tên George. Tất cả họ đều đeo găng vào, thứ găng nhựa dai dài đến tận khuỷu. Chúng tôi từng đứa một bị bắt ra khỏi lồng, bị nắm nhẹ nhưng rất chắc trong tay bác sĩ Schultz trong khi Julie buộc quanh cổ mỗi đứa một dải nhựa vàng hẹp mang số. Sau cùng tôi cũng biết mình là số A-10.
Bọn họ đều rất hiền từ, nhất là Julie. Tôi vẫn nhớ khi một chuột được đeo thẻ, cô ta nhìn nó nói: “Cậu nhỏ tội nghiệp này đang sợ hãi quá. Nhìn nó run lẩy bẩy kìa.”
“Em là nhà sinh vật học kiểu gì vậy?” bác sĩ Schultz nói. “‘Cậu nhỏ tội nghiệp’ của em thực ra là một ‘cô nhỏ’ đấy.”
Khi đến lượt tôi, cửa lồng chỉ trượt ra một khoảng đủ để bác sĩ Schultz thò bàn tay đi găng vào. Tôi rúm người nép vào cuối lồng, chính là điều ông ta muốn, một bàn tay ấn tôi sát vào thành lồng, rồi những ngón tay nắm lấy vai tôi. Bàn tay kia nắm đầu tôi ngay sau tai, thế là tôi hoàn toàn bất lực. Tôi được nhấc ra khỏi lồng và cảm thấy cái đai nhựa bập vào quanh cổ. Tôi được trả lại trong lồng chỉ trong chưa đầy một phút. Cái đai không chặt lắm, nhưng có co giật hay giẫy giụa và vặn vẹo thế nào tôi cũng không tuột nổi ra.
Tôi nhìn qua các song mặt trước lồng thấy những chuột khác lần lượt bị tóm và đeo thẻ. Cách khoảng sáu lồng cũng trên kệ của mình tôi thấy họ đeo đai vào cổ Jenner, nhưng một khi anh đã vào lại lồng tôi không nhìn thấy anh nữa.
Quãng cuối buổi sáng họ trở lại phòng, lần này đẩy theo cái bàn có bánh xe. Trên bàn đặt một chai đựng chất lỏng không màu gì đó, một giá cắm đầy kim nhọn, và một cái pit tông. Lần này George giữ trong khi bác sĩ Schultz cắm một cây kim vào pit tông. Tôi cảm thấy đau nhói bên sườn, rồi thế là xong. Chúng tôi đều quen dần với việc đó, vì từ ngày đó trở đi chúng tôi bị tiêm ít nhất tuần hai lần. Người ta tiêm gì và để làm gì, tôi còn chưa biết. Nhưng với hai mươi đứa chúng tôi, những mũi tiêm ấy rồi sẽ biến đổi cả cuộc đời.
Mê cung
Trong những ngày tiếp theo đời chúng tôi dần đi vào nền nếp, và lý do chúng tôi bị bắt giữ dần dần rõ hơn. Bác sĩ Schultz là chuyên gia thần kinh học - nghĩa là ông ấy rất am hiểu về não bộ, dây thần kinh, trí thông minh và cách người ta học hỏi các thứ. Ông ta hy vọng thí nghiệm trên chúng tôi sẽ giúp hiểu rõ liệu những mũi tiêm nào đó có giúp người ta học nhanh và nhiều hơn được không. Hai người trẻ hơn đang làm việc với ông, George và Julie, là các nghiên cứu sinh về sinh học.
“Phải luôn chú ý,” ông bảo họ, “tìm những dấu hiệu tiến triển, tiếp thu nhanh hơn, phản xạ mau hơn ở nhóm Aso với nhóm B, và cả hai nhóm so với nhóm đối chiếu.”
Quá trình tập huấn của tôi bắt đầu vào ngay hôm sau mũi tiêm đầu tiên. George là người thực hiện; tôi đoán Julie và bác sĩ Schultz cũng đang làm thí nghiệm đó với những chuột khác. Anh ta mang lồng đựng tôi trên kệ xuống, đem sang một phòng khác, tương tự như phòng kia nhưng có nhiều dụng cụ hơn, và không có kệ sắp lồng. Anh ta đặt lồng vào cái rãnh áp vào tường, kéo cho mặt sau lồng mở ra, mở cái cửa trên tường khớp với cửa lồng - và tôi được tự do.
Đấy là tôi tưởng thế. Cánh cửa nhỏ trên tường dẫn đến một hành lang ngắn, đầu bên kia - trông có vẻ thế - mở ra một thảm cỏ xanh rờn. Tôi nhìn rõ rành rành trước mắt, cả vài bụi cây sau thảm cỏ, và con phố sau bụi cây - thế giới bên ngoài chẳng có gì ngăn cách với tôi ngoài không khí. Thêm nữa tôi còn ngửi thấy mùi gió thoảng mát lành đang thổi vào. Họ đang thả tôi đi thật sao?
Tôi chạy vụt đến đầu bên kia hành lang - rồi giật ngược trở lại. Tôi không đi tiếp được. Vừa qua lồng chỉ khoảng hai bộ (vẫn đang mở đằng sau tôi) là mặt sàn bị hỏng hóc gì đó rất đáng sợ. Khi tôi giẫm lên đó, một cảm giác rung giật kinh khủng lan khắp da tôi, bắp thịt thắt lại, mắt lòa đi còn đầu tôi thì váng cả. Tôi chẳng bao giờ quen được với cảm giác ấy - chẳng ai trên đời này quen được - nhưng tôi đã phải nhận rất nhiều lần, và cuối cùng cũng hiểu đó là gì: điện giật. Không hẳn đau, nhưng không thể chịu nổi.
Thế nhưng tôi đang điên cuồng muốn thoát ra thảm cỏ rộng rãi kia, muốn chạy nhào đến các bụi cây, muốn tránh xa khỏi cái lồng. Tôi thử lại lần nữa - và lần nữa giật ngược lại. Chẳng ích gì. Rồi tôi nhìn thấy một hành lang khác rẽ sang bên trái. Ban đầu tôi không nhận ra vì còn mải háo hức nhìn theo đầu kia hành lang này. Hành lang kia có vẻ chỉ sau năm bộ là bị một bức tường trống chặn lại. Thế nhưng ở đó có ánh sáng - hẳn là phải có một chỗ rẽ nữa. Tôi chạy vào hành lang đó thật thận trọng, hết sức dè chừng mặt sàn. Đến cuối đường thì có lối rẽ sang phải - và trước mặt lại là thảm cỏ, lại là cửa mở. Lần này tôi đã đến gần hơn, rồi vừa lúc tưởng chuẩn bị ra đến nơi thì lại một cú giật nữa. Tôi lùi lại và nhận ra còn một hành lang thứ ba, mở về bên phải. Lại một lần tôi chạy, lại một lần thấy cửa mở thoát ra ngoài, và lại một lần tôi bị cản đường vì điện giật. Chuyện này cứ lặp đi lặp lại, thế nhưng mỗi lần hình như tôi lại đến gần tự do hơn.
Nhưng khi rốt cuộc tôi cũng đến nơi và chỉ một bước nữa là ra thảm cỏ thì một bức vách dây thép sập xuống trước mặt tôi, đằng sau cũng một bức nữa; trần hành lang mở ra bên trên và một bàn tay đi găng thò vào nhặt tôi lên.
Một giọng nói cất lên: “Bốn phút ba mươi bảy giây.”
Đấy là George.
Tôi đã chạy qua bao nhiêu hành lang chỉ để cuối cùng chui vào cái bẫy cách nơi xuất phát có vài bộ, và qua một cửa nóc giấu kín George đã quan sát mọi việc tôi làm.
Tôi vừa ở trong cái gọi là mê cung, một thứ công cụ kiểm tra trí thông minh và trí nhớ. Tôi còn bị đặt vào đó nhiều lần nữa, cũng như các bạn tôi. Lần thứ hai tôi đi qua nhanh hơn, vì còn nhớ được - phần nào - hành lang nào có sàn mắc điện còn hành lang nào thì không. Lần thứ ba tôi đi nhanh hơn nữa; và sau mỗi đợt George, hay có khi là Julie, có khi là bác sĩ Schultz, đều ghi lại thời gian. Chắc bà sẽ hỏi: Vì sao tôi phải mất công chạy qua đó nếu biết đấy chỉ là mánh khóe? Đấy là vì tôi không đừng được. Nếu sống trong lồng bà không thể không chạy, kể cả chỉ là chạy tới một ảo ảnh.
Còn nhiều mũi tiêm sau đó, còn nhiều bài kiểm tra khác nữa, một số còn quan trọng hơn mê cung, vì mê cung chỉ nhằm đo xem chúng tôi học được nhanh đến đâu, trong lúc vài bài khác dạy chúng tôi nhiều điều mới - hoặc ít ra cũng mở đường cho việc dạy dỗ thực sự.
Có một bài bác sĩ Schultz gọi là “nhận dạng hình học”. Chúng tôi được đặt vào một phòng nhỏ có ba cánh cửa dẫn ra ngoài - một cửa tròn, một cửa vuông, một tam giác. Các cửa này đều gắn bản lề và có lò xo tì vào cho đóng, nhưng cũng dễ đẩy mở, và mỗi cửa lại dẫn vào phòng khác có thêm ba cửa như phòng đầu. Nhưng vấn đề ở chỗ: Nếu đi nhầm cửa thì sẽ vào phải phòng có sàn điện và sẽ bị điện giật. Thế nên chúng tôi phải học: Ở phòng đầu tiên dùng cửa tròn, phòng tiếp theo cửa tam giác, vân vân.
Những hoạt động này khiến thì giờ trôi qua rất chóng, nháy mắt đã qua mấy tuần, nhưng không vì thế mà chúng tôi vơi mong mỏi được thoát khỏi đây. Tôi nhớ căn nhà cũ trong đường ống cống, tôi ước gì được gặp lại bố mẹ mình, được cùng anh trai chạy đến khu chợ. Tôi biết mọi chuột còn lại đều cảm thấy như thế, nhưng đấy hình như là một điều vô vọng. Thế nhưng vẫn có một chuột quyết định thử xem.
Đấy là một chú chuột trẻ, có lẽ trẻ nhất trong số bị bắt, và tình cờ lại ở lồng ngay cạnh tôi. Tôi nên nói thêm là cũng như Jenner và tôi, cậu ở trong số bác sĩ Schultz gọi là nhóm A. Tên cậu là Justin.
Một đêm muộn tôi nghe cậu gọi mình rất khẽ bên kia tấm vách gỗ ngăn các lồng. Những vách này nhìn chung ngăn chúng tôi không làm quen được với nhau dễ dàng như chúng tôi có thể muốn, cản trở không cho nói chuyện nhiều, bởi nghe qua vách gỗ rất khó khăn và tất nhiên chẳng bao giờ nhìn thấy mình đang nói với ai cả. Tôi nghĩ bác sĩ Schultz đã cố tình đặt làm từ một vật liệu cách âm gì đó. Nhưng vẫn có thể nghe được, nếu hai bên cùng đi vào góc lồng gần nhau nhất nói vọng qua mặt song chắn đằng trước.
“Nicodemus à?”
“Ừ?” Tôi đi lại góc lồng.
“Chúng ta ở đây bao lâu rồi?”
“Ý cậu là từ đầu ấy à? Từ lúc ta bị bắt hả?”
“Vâng.”
“Tôi không biết nữa. Vài tháng gì đó - tôi nghĩ thế, nhưng không biết cách nào tính được.” “Tôi hiểu. Tôi cũng không biết. Anh có nghĩ là ngoài kia đã sang đông rồi không?” “Có thể lắm. Hoặc cũng là cuối thu.”
“Trời chắc lạnh lắm.”
“Nhưng trong này không lạnh.”
“Không. Nhưng tôi sẽ cố thoát ra ngoài.”
“Thoát ra ngoài? Nhưng bằng cách nào? Lồng của cậu đóng chặt rồi.”
“Ngày mai là ngày tiêm nên họ sẽ mở ra. Khi nào lồng mở thì tôi sẽ chạy.”
“Chạy đi đâu?”
“Tôi chưa biết. Ít nhất là tôi sẽ xem xét được xung quanh. Có thể sẽ có đường ra. Tôi có gì để mất đâu?”
“Cậu có thể bị làm hại.”
“Tôi nghĩ là không. Ít nhất thì họ cũng sẽ không làm gì tôi.”
Ý cậu ta nói đến bác sĩ Schultz và hai người trẻ tuổi. Cậu ta tin tưởng nói thêm:
“Bao nhiêu mũi tiêm, bao nhiêu thời gian đã đổ vào ta - bây giờ chúng ta đối với họ quý giá lắm. Họ sẽ
cực kỳ cẩn thận.”
Tôi chưa bao giờ nghĩ đến điều này, nhưng bây giờ tôi nhận ra cậu nói đúng. Bác sĩ Schultz, Julie cùng George đã dành gần hết thời gian làm việc cho chúng tôi trong hàng tháng trời, họ không thể để chuyện gì xảy ra cho chúng tôi được. Mặt khác thì họ cũng chẳng thể để đứa nào trong chúng tôi thoát đi.
Justin thử vận may sáng hôm sau. Chuyện đó quả có gây ra chút ít náo động, nhưng chẳng giống như chúng tôi đã tưởng. Julie là người mở lồng cậu, cầm theo một ống tiêm dưới da. Justin một bước nhảy vọt đã lao ra ngoài lồng, đập xuống sàn (cách khoảng bốn bộ) đánh bẹp, lắc mình rồi chạy thẳng về phía đầu kia phòng hút khỏi tầm nhìn của tôi.
Julie chẳng hề tỏ ra rối trí. Cô bình tĩnh đặt kim lên giá, rồi đi tới cửa phòng thí nghiệm nhấn nút trên tường cạnh cửa. Một ngọn đèn đỏ trên cửa bật sáng. Cô cầm cuốn sổ cái bút trên bàn gần cửa và đi theo Justin khuất mắt tôi.
Vài phút sau bác sĩ Schultz và George vào. Cả hai mở cửa rất thận trọng rồi đóng lại đằng sau. “Cửa ngoài cũng đóng rồi,” bác sĩ Schultz nói. “Nó ở đâu?”
“Dưới này,” Julie nói, “đang điều tra đường dẫn khí.”
“Thật à? Con nào thế?”
“Một con nhóm A, đúng như thầy đoán. Số 9. Em đang ghi chép hành vi của nó.”
Rõ ràng ngọn đèn đỏ là một loại tín hiệu cảnh báo cả ngoài lẫn trong cửa - “động vật thí nghiệm chạy loạn”. Và bác sĩ Schultz không chỉ biết một đứa trong chúng tôi thoát ra mà còn đoán trước chuyện này sẽ xảy ra.
“...sớm hơn vài ngày so với thầy tưởng,” ông ta đang nói, “nhưng như thế càng tốt. Em có thấy...”
“Nhìn này,” Julie nói. “Nó đang xem xét khắp tấm ván lát chân tường - nhưng cũng quan sát các cửa sổ nữa. Thấy nó lùi lại để nhìn lên cao hơn không?”
“Tất nhiên,” bác sĩ Schultz nói. “Và trong lúc đó cũng đang nhìn chúng ta. Các em thấy không?” “Cậu này khá là trình cao đấy,” George nói.
“Các em có tưởng tượng con nào trong đám chuột thí nghiệm bình thường làm việc đó không? Hay kể cả nhóm đối chiếu nữa? Chúng ta phải thử mới hiểu rõ đang nắm được gì trong tay. Nhóm A bây giờ đã tiến bộ ba trăm phần trăm so với nhóm đối chiếu về tốc độ học rồi, và càng lúc lại càng khôn hơn. Nhóm B chỉ tiến bộ có hai mươi phần trăm. Chính là nhờ loại ADN mới nên mới có chuyện đó. Chúng ta đã đạt được một bước đột phá, và vì đây là ADN nên rất có thể chúng ta có một cuộc đột biến thật sự, một
giống chuột mới hoàn toàn. Nhưng chúng ta sẽ phải rất cẩn thận. Thầy nghĩ bây giờ chúng ta nên tiếp tục với lượt tiêm thứ hai.”
“Steroid [1] à?”
(Dù tôi chẳng hiểu thế nghĩa là gì.)
“Phải. Có thể sẽ làm chúng chậm lại một ít - dù thầy cũng không tin lắm. Nhưng kể cả thế thì cũng đáng công, vì thầy đoan chắc lần này sẽ kéo dài tuổi thọ của chúng ít nhất là gấp đôi. Có thể còn hơn nữa. Có thể còn hơn nữa rất nhiều .”
“Nhìn kìa,” Julie nói. “A-9 vừa có một phát hiện. Nó đã tìm thấy đám chuột nhắt.” George nói: “Xem nó đang quan sát bọn kia kìa.”
“Rất có thể,” bác sĩ Schultz đùa khô khan, “nó đang nghĩ không biết đám này cũng đã sẵn sàng nhận mũi tiêm steroid chưa. Thực tế là thầy nghĩ nhóm G đến lúc rồi. Chúng nó đang tiến triển cũng gần ngang với nhóm Ađấy.”
“Em đi lấy vợt bắt nó lại nhé?” George hỏi.
“Thầy nghĩ là không cần đâu,” bác sĩ Schultz nói, “vì bây giờ nó đã hiểu nó chẳng thể thoát ra rồi.” Nhưng họ đang đánh giá thấp Justin. Điều cậu hiểu chẳng phải là chuyện đó.
[1] Steroid là một hợp chất hữu cơ có nhiều chức năng khác nhau trong cơ thể. Trong y học, phổ biến nhất là steroid đồng hóa mô phỏng nội tiết tố nam, sau khi tổng hợp nhân tạo thành công vào thập kỷ 1930 bắt đầu được sử dụng rộng rãi với mục đích kích thích tăng trưởng, chữa trị nhiều chứng rối loạn cũng như làm một chất doping trong thể thao (hiện nay bị cấm trong thi đấu) - ND.
Bài học đọc
Tất nhiên Justin không trốn thoát vào hôm đó, cho đến hết năm đó cũng không. Khi họ - Julie - đi găng vào tới nhặt cậu lên, cậu tuân theo khá ngoan ngoãn và chẳng mấy chốc đã trở lại trong lồng.
Tuy nhiên cậu đã hiểu ra một số chuyện. Như Julie để ý, cậu đã xem xét đường dẫn khí - những lỗ mở trên tường đưa khí ấm tràn vào phòng trong mùa đông, khí mát vào mùa hạ - và đã quan sát các cửa sổ. Điều chủ yếu cậu hiểu ra là mình có thể nhảy khỏi lồng, không nhiều nhưng cũng thỉnh thoảng, và đi dạo xung quanh mà không phải hứng chịu bực tức hay thương tích. Cái đó rốt cuộc là một điều quan trọng. Bởi chính Justin, cùng với Jenner, là người cuối cùng đã đoán ra cách thoát khỏi đây. Tôi cũng có đóng góp vào việc đó. Nhưng những chuyện này là về sau.
Tôi sẽ không đi quá sâu về quá trình tập huấn còn lại ngoại trừ một phần quan trọng nhất. Nhưng tóm lại trong những tháng tiếp đó, có hai điều xảy ra:
Thứ nhất là chúng tôi học được nhiều hơn bất cứ con chuột nào từng học, và trở thành thông minh hơn bất cứ con chuột nào trên đời.
Điều thứ hai xét từ khía cạnh nào đó còn quan trọng hơn nữa - và chắc chắn là sửng sốt hơn nhiều - so với điều kia. Bác sĩ Schultz (chắc bà vẫn nhớ) đã nói lượt tiêm thứ hai có thể tăng tuổi thọ chúng tôi lên gấp đôi hoặc hơn nữa. Nhưng cả ông ta cũng không lường trước được điều sẽ xảy ra. Có thể đấy là do tác dụng kết hợp của cả hai loại thuốc trộn vào nhau - tôi không biết, cả ông ta cũng vậy. Nhưng kết quả là trong chừng mực có thể đo đạc được thì ở nhóm A, quá trình lão hóa có vẻ đã dừng lại gần như hoàn toàn.
Chẳng hạn như - trong những năm chúng tôi ở trong phòng thí nghiệm, phần lớn chuột trong nhóm đối chiếu đều già hoặc ốm, cuối cùng thì chết; nhóm B cũng vậy, vì dù cũng được tiêm nhưng công thức của họ không giống chúng tôi. Nhưng trong số hai mươi chuột ở nhóm A, không hề có dấu hiệu gì cho thấy chúng tôi có già đi chút nào. Hiển nhiên là (dù chúng tôi chẳng mấy khi thấy họ) chuyện đó cũng đang xảy ra với nhóm G, nhóm chuột nhắt đang tiêm cùng một thứ như chúng tôi.
Bác sĩ Schultz cực kỳ phấn khích. “Tuổi thọ ngắn vẫn luôn là yếu tố chủ yếu gây hạn chế cho giáo dục,” ông ta nói với George và Julie. “Nếu ta có thể tăng gấp đôi tuổi thọ và đồng thời lại đẩy nhanh tiến trình học, các khả năng sẽ là vô tận.” Tăng gấp đôi ư! Đến tận bây giờ, hàng bao nhiêu năm sau kể từ khi thôi nhận các mũi tiêm, chúng tôi vẫn hầu như chẳng già thêm so với hồi ấy.
Bản thân chúng tôi thì chẳng nhận ra được hai điều đó. Nghĩa là chúng tôi không hề cảm thấy có gì khác, và vì chẳng tiếp xúc với các nhóm kia bao giờ, chúng tôi không có cơ sở nào so sánh được. Chúng tôi chỉ có thể dựa vào lời bác sĩ Schultz. Ông cùng hai người kia đang chuẩn bị một bài báo khoa học về chúng tôi - định đăng trong một tạp chí chuyên ngành nào đó - nên sáng nào ông cũng đọc kết quả thí nghiệm ngày hôm trước vào băng ghi âm. Chúng tôi nghe thấy hết, dù có rất nhiều từ ngữ chuyên môn chúng tôi chẳng hiểu được, nhất là ban đầu. Chừng nào bài báo còn chưa được in (ông cứ nhắc nhở George và Julie mãi chuyện này), toàn bộ thí nghiệm còn phải giữ hết sức bí mật.
Chặng huấn luyện quan trọng nhất bắt đầu một hôm sau nhiều tuần cực khổ rèn luyện bài “nhận dạng hình học” tôi đã kể lúc nãy. Nhưng lần này khác. Lần đầu tiên họ dùng âm thanh kết hợp với các hình dạng, thêm cả hình ảnh, những hình ảnh thật chúng tôi nhận ra được. Ví dụ như trong những bài tập đầu đơn giản nhất có bài đưa ra hình ảnh, một tấm ảnh rất rõ nét chụp một chuột cống. Tôi đoán là họ tin chắc chúng tôi sẽ hiểu đấy là gì. Bức ảnh chiếu trên màn hình, ánh đèn sáng đằng sau. Rồi sau khi tôi đã nhìn và nhận ra bức ảnh, có một hình dạng hiện lên trên màn hình đằng sau - như nửa vầng trăng quá cong, hay một vòng tròn đứt đoạn. Rồi giọng nói cất lên:
“Cờ.”
“Cờ.”
“Cờ.”
Đấy là giọng Julie, đọc rất rành mạch nhưng có âm sắc hơi cứng - chỉ là băng ghi âm. Sau khi nhắc lại “Cờ” đến khoảng chục lần, hình này biến mất và một hình khác lại hiện ra trên màn hình, vẫn ở dưới ảnh con chuột. Đấy là một cái thang chỉ có một nấc. Và giọng Julie lại cất lên:
“Hờ.”
“Hờ.”
“Hờ.”
Sau đó còn ba hình khác theo nhau hiện ra: một móng ngựa, một vòng tròn có mũ, một hình chữ thập. Giọng Julie lần lượt nói:
“U.”
“Ô.”
“Tờ.”
Và rồi cả năm hình cùng xuất hiện, băng ghi âm đọc:
“Cờ.”
“Hờ.”
“U.”
“Ô.”
“Tờ.”
“Chuột.”
Chắc bà đã nhận ra thế nghĩa là gì: họ đang dạy chúng tôi đọc. Các ký hiệu dưới bức tranh là các chữ cái C-H-U-Ô-T. Nhưng tôi chưa hiểu ngay được điều này, cũng như các bạn khác, sau một thời gian dài nữa. Bởi vì tất nhiên, chúng tôi còn chưa hiểu đọc là gì.
Ồ, nhưng chúng tôi cũng học cách nhận biết các hình dạng rất nhanh, và khi nào thấy bức ảnh chuột tôi biết ngay sẽ có ký hiệu nào xuất hiện bên dưới. Cũng như vậy khi có ảnh mèo, tôi biết cũng sẽ có ba hình xuất hiện, một dãy núi, một cái lược ba răng, một vòng tròn, và giọng Julie sẽ nhắc lại: “Mờ-mờ mờ”, “E-e-e”, “O-o-o”. Nhưng tất cả những chuyện đó để làm gì thì chúng tôi không ai biết.
Chính Jenner cuối cùng đã đoán ra. Đến lúc này chúng tôi đã xây dựng một thứ hệ thống đưa tin, khá đơn giản, chỉ là truyền các thông điệp miệng từ lồng này sang lồng kia không khác gì chuyển thư trong lớp. Justin vốn vẫn ở lồng bên cạnh một hôm gọi tôi:
“Tin của Jenner nhắn Nicodemus. Anh ấy nói là quan trọng.”
“Được rồi,” tôi hỏi, “nội dung là gì?”
“Hãy nhìn các hình trên tường cạnh cửa. Anh ấy nói phải nhìn thật kỹ.”
Lồng của tôi, cũng như của Jenner và mọi chuột nhóm A còn lại, ở khá gần cửa nên tôi hiểu ý anh muốn nói: Cạnh cửa có một miếng hình vuông trắng lớn gắn vào tường - một tấm bảng. Trên đó vạch đủ loại dấu hiệu màu đen nhưng tôi chưa bao giờ để ý (dù chúng có ở đó từ ngày chúng tôi tới đây).
Bây giờ lần đầu tiên tôi nhìn kỹ và hiểu ngay Jenner đã phát hiện thấy gì.
Dãy dấu hiệu trên cùng tôi nhận ra tức khắc: C-H-U-Ộ-T; vừa nhìn thấy tôi đã nghĩ ngay đến hình ảnh vẫn đi kèm với chúng, và khi làm vậy lần đầu tiên tôi đã đọc. Vì tất nhiên đọc chỉ là như vậy: dùng các ký hiệu để nói về một hình ảnh hay ý tưởng. Từ đó trở đi tôi dần nhận ra các bài học có ý nghĩa gì, và khi đã hiểu tôi càng háo hức muốn học thêm. Tôi nôn nóng đợi đến bài kế tiếp, và tiếp nữa. Khái niệm về sự đọc, ít nhất đối với tôi, là hết sức tuyệt vời. Tôi vẫn nhớ mình tự hào vô kể khi mấy tháng sau tôi có thể
đọc hiểu toàn bộ tấm bảng ấy. Tôi đã đọc hàng trăm lần và tôi sẽ chẳng bao giờ quên:
CHUỘT KHÔNG ĐƯỢC MANG RA KHỎI PHÒNG THÍ NGHIỆM MÀ KHÔNG CÓ GIẤY CHO PHÉP. Và dưới cùng, viết nhỏ hơn là chữ NIMH.
Nhưng rồi một chuyện kỳ quái xảy ra, một điều đến tận giờ chúng tôi vẫn chưa biết chắc. Rõ ràng là bác sĩ Schultz, người điều khiển các bài học, không nhận ra mức độ thành công của mình. Ông ta tiếp tục quá trình huấn luyện, mỗi ngày lại thêm nhiều từ và hình ảnh mới; nhưng thực tế là sau khi đã nắm được lý thuyết chung và học thuộc những âm thanh riêng gắn với mỗi chữ cái, chúng tôi đã bỏ xa ông. Tôi vẫn nhớ rất rõ cái lần trong một bài học nhìn bức ảnh chụp một cái cây. Dưới bức ảnh sáng lên các chữ cái: C-Â-Y. Nhưng dù cái cây ở tiền cảnh, trong ảnh còn có một tòa nhà phía sau với một cái biển bên cạnh. Tôi hầu như chẳng buồn nhìn C-Â-Ymà tập trung đọc tấm biển. Trên đó viết:
NIMH. BÃI XE TƯ THEO GIẤY PHÉP. CHỈ DÀNH CHO BÁC SĨ VÀ NHÂN VIÊN. KHÁCH THĂM KHÔNG ĐỖ Ở ĐÂY. Tòa nhà đằng sau màu trắng và cao, rất giống cái nhà chúng tôi đang ở.
Tôi biết chắc bác sĩ Schultz đã lập kế hoạch kiểm tra trình độ đọc của chúng tôi. Tôi còn đoán được, qua những chữ ông đang dạy, các bài kiểm tra đó sẽ có dạng thế nào. Ví dụ như ông dạy “trái”, “phải”, “cửa”, “đồ ăn”, “mở” và các thứ loại đó. Chẳng khó hình dung ra: tôi sẽ được đặt vào một phòng, đồ ăn trong phòng khác. Sẽ có hai cửa và một tấm biển viết: “Muốn đồ ăn, mở cửa phải”. Hay cái gì đó đại loại thế. Rồi nếu tôi - nếu tất cả chúng tôi - đều tự tin tiến về cái cửa đúng, ông sẽ biết chúng tôi hiểu biển nói gì.
Như vừa nói, tôi tin chắc ông định làm thế, nhưng rõ ràng ông không nghĩ chúng tôi đã đạt yêu cầu. Tôi nghĩ có thể ông còn hơi e ngại làm việc đó nữa, vì nếu quá sớm hoặc vì lý do gì khác mà không thành công, thí nghiệm của ông sẽ bị coi là thất bại. Ông ta muốn chắc chắn đã, và tính cẩn trọng đã làm ông hỏng việc.
Một tối Justin tuyên bố bên kia tấm vách:
“Đêm nay tôi sẽ ra khỏi lồng đi dạo chơi chút ít.”
“Cậu làm thế nào được? Cửa lồng khóa rồi.”
“Đúng là khóa. Nhưng anh có để ý dải chữ in hoa dọc mép dưới không?”
Tôi chưa từng để ý. Có lẽ tôi nên giải thích thêm rằng khi bác sĩ Schultz cùng hai người kia mở cửa lồng chúng tôi không bao giờ thấy rõ họ làm cách nào; họ thao tác cái gì đó dưới sàn lồng nhựa, chúng tôi không nhìn thấy.
“Nó viết cái gì?”
“Tôi đã thử đọc khi về lồng sau ba chuyến tập huấn vừa xong. Chữ viết nhỏ lắm. Nhưng tôi nghĩ là cuối cùng mình cũng đoán ra rồi. Trên đấy viết: Kéo núm tới trước rồi đẩy sang phải để mở cửa.”
“Núm nào?”
“Dưới sàn lồng lùi vào khoảng hai phân có một vật kim loại ngay trước kệ. Tôi nghĩ núm là cái đấy, và tôi nghĩ là có thể thò tay qua song tới được. Dù sao tôi cũng sẽ thử xem.”
“Bây giờ à?”
“Đợi đến lúc họ dọn cuối ngày đã.”
“Dọn cuối ngày” là một nghi lễ tối nào bác sĩ Schultz, George và Julie cũng thực hiện. Trong khoảng một giờ đồng hồ ba người ngồi ở bàn, ghi chép vào sổ, xếp giấy tờ vào tủ, cuối cùng khóa hết các tủ. Rồi họ kiểm tra từng lồng, vặn nhỏ đèn, khóa cửa và ra về, để lại chúng tôi trong cảnh yên tĩnh phòng thí nghiệm.
Đêm đó khi họ đã về chừng nửa tiếng, Justin bảo: “Tôi thử bây giờ đây.” Tôi nghe có tiếng loạt soạt, tiếng cạch và kim loại cọ nhau, và chỉ vài giây tôi đã thấy cửa bên cậu mở tung. Đơn giản có thế thôi - khi người ta biết đọc.
“Đợi đã,” tôi nói.
“Có chuyện gì à?”
“Nếu nhảy xuống cậu sẽ không lên lại được. Rồi họ sẽ biết mất.”
“Tôi nghĩ chuyện đó rồi. Tôi không nhảy xuống đâu. Tôi sẽ trèo lên theo mặt ngoài lồng. Dễ lắm. Tôi đã trèo lên mặt trong cả ngàn lần rồi. Trên cùng mấy cái lồng còn một kệ nữa chẳng để gì. Tôi sẽ đi trên đó nhìn ngó xem sao. Tôi nghĩ là có cách trèo xuống mặt sàn rồi trèo lên lại.”
“Tôi có nên đi với cậu không?” Cửa bên tôi cũng sẽ mở hệt như thế.
“Lần này thì chưa nên, anh nghĩ sao? Nhỡ có trục trặc gì tôi không quay lại được, họ sẽ bảo: Lại là con A-9 thôi mà. Nhưng nếu có hai chúng ta lọt ra ngoài, họ sẽ coi đấy là chuyện nghiêm trọng. Có thể họ sẽ lắp khóa mới vào lồng.”
Cậu nói đúng, và chắc bà thấy ngay khi đó chúng tôi đã có chung suy nghĩ trong đầu: đây có thể là bước đầu tiên đưa tất cả chúng tôi trốn thoát.
Đường dẫn khí
Và chuyện là thế đấy.
Dạy chúng tôi biết đọc, họ đã dạy chúng tôi cách thoát đi.
Justin trèo khá dễ dàng theo cửa lồng đã mở và biến mất trên đầu sau một cú quất đuôi. Cậu quay lại sau một giờ, cực kỳ phấn khởi, với rất nhiều thông tin mới. Nhưng đúng với tính khí mình, ngay cả khi phấn khích cậu cũng vẫn tỏ ra bình tĩnh, suy nghĩ sáng suốt. Cậu không trèo xuống cửa lồng mình mà lại xuống lồng tôi gọi khẽ - chúng tôi đều đoán là đến giờ đấy mọi chuột khác đều đã ngủ cả.
“Nicodemus à? Ra đây đi. Tôi sẽ chỉ cách cho anh.” Cậu hướng dẫn tôi thò tay ra ngoài các thanh song cửa rồi sờ quanh bên dưới. Tôi tìm thấy cái núm kim loại nhỏ, đẩy nó ra trước rồi sang ngang, cảm thấy cánh cửa tung ra bên vai. Tôi bắt chước cậu trèo theo cạnh lồng lên kệ bên trên. Đến đó chúng tôi dừng lại. Đây là lần đầu tiên tôi gặp Justin tận mặt.
Cậu nói: “Nói chuyện ở đây tốt hơn là qua vách ngăn.”
“Phải. Cậu có xuống được không?”
“Có.”
“Cậu trở lên bằng cách nào thế?”
“Cuối kệ này có một tủ lớn, các lồng chuột nhắt để trong đó. Tủ này có cửa lưới thép. Có thể trèo lên trèo xuống y như thang.”
“À phải,” tôi nói. “Tôi nhớ ra rồi.” Tôi đã nhìn thấy tủ ấy nhiều lần khi lồng tôi bị mang qua đó. Không hiểu vì sao - có lẽ vì chúng nhỏ hơn - tụi chuột nhắt bị nhốt trong một cái lồng-ở-trong-lồng.
Justin nói: “Nicodemus, tôi nghĩ mình tìm được cách trốn ra rồi.”
“Thế ư! Cách thế nào?”
“Ở hai đầu phòng đều có chỗ mở trên ván lát chân tường. Không khí thổi vào một bên và hút ra đầu bên kia. Cả hai đều đậy vỉ sắt, trên vỉ có biển đề: Nhấc lên để điều chỉnh khí lưu. Tôi nhấc thử một cái rồi, nó gắn bản lề như là cửa sập ấy. Đằng sau thì có một thứ như kiểu cửa sổ sắt, đẩy trượt ra thì khí thổi vào mạnh hơn.
“Nhưng cái chính là cửa đó đủ lớn cho chúng ta bước ra ngoài.”
“Nhưng đầu bên kia có gì? Cửa đó dẫn đi đâu?”
“Bên kia là đường dẫn khí, một thứ ống kim loại hình vuông gắn thẳng vào tường ấy. Tôi có đi theo không xa lắm, nhưng tôi cũng đoán được nó đi tới đâu. Mỗi phòng trong tòa nhà đều phải có một đường ống tương tự dẫn vào, và tất cả đều phải tỏa ra từ một ống trung tâm nào đấy - và tới điểm nào đó ống này phải dẫn ra ngoài. Vì không khí trong phòng là từ đó mà tới. Chính vì thế mà cửa sổ không bao giờ mở. Tôi còn nghĩ là các cửa này không mở được .”
Tất nhiên, cậu nói đúng. Tòa nhà này dùng hệ thống điều khí trung tâm; nhiệm vụ chúng tôi bây giờ là tìm ra ống trung tâm và thăm dò nó. Sẽ phải có một đầu mở đón khí vào và một đầu khác xả khí ra. Nhưng nói thì dễ, làm thì khó, mà trước khi làm còn có nhiều câu hỏi nữa. Còn các chuột kia thì sao? Có tất cả hai mươi đứa trong đây, và chúng tôi phải báo cho các bạn khác chứ.
Thế là chúng tôi đánh thức họ dậy, từng chuột một, chỉ cho họ cách mở lồng. Thật kỳ quặc cái nhóm hội lại đêm ấy dưới ánh đèn lờ mờ trong phòng thí nghiệm vang âm, trên kệ nơi tôi và Justin vừa nói chuyện. Chúng tôi tất cả đều hơi hơi biết nhau qua những tin nhắn trao đổi trong vài tháng qua, nhưng ngoại trừ Jenner và tôi, còn lại chưa ai thực sự quen mặt. Tất cả đều là người lạ - mặc dù như bà chắc hiểu, chẳng mấy chốc giữa chúng tôi nảy nở một tình cảm đồng đội, vì chỉ có hai mươi đứa tôi đơn độc
giữa thế giới lạ lùng này. Đơn độc đến đâu, lạ lùng thế nào, chưa ai hiểu ngay từ đầu, nhưng chúng tôi cũng cảm nhận được phần nào từ rất sớm. Cả nhóm coi tôi là lãnh đạo, chắc hẳn vì Justin và tôi là người đầu tiên giải phóng cho họ và vì Justin trông rành rành là nhỏ tuổi hơn.
Chúng tôi không tìm cách bỏ trốn ngay đêm đó mà cùng nhau đi xem xét cái vỉ sắt Justin đã tìm ra, cũng như lập kế hoạch thám thính hệ thống dẫn khí. Jenner rất sành sỏi những chuyện loại đó, anh luôn tiên liệu được các vấn đề có thể xảy ra.
“Nếu phòng nào cũng có ống khí như thế này dẫn đến,” anh nói, “ta sẽ rất dễ lạc. Trên đường thám thính ta cần có cách tìm lại lối về đây.”
“Tại sao phải về đây làm gì?” ai đó hỏi.
“Vì có thể phải mất nhiều đêm mới tìm được đường ra. Nếu đúng là thế thì người thám thính phải trở lại lồng trước khi trời sáng. Nếu không bác sĩ Schultz sẽ phát hiện.”
Jenner nói đúng. Chuyện đó làm chúng tôi mất một tuần. Sau nhiều bàn luận, chúng tôi đi tìm vài thứ dụng cụ: trước hết là cuộn chỉ lớn trong một ngăn tủ mà một hôm mấy đứa đã nhìn thấy Julie cất vào. Thứ hai là cái tuốc nơ vít để trên kệ gần các thiết bị điện - vì như Jenner chỉ ra, rất dễ sẽ có lưới chắn ở đầu ống khí để lọc bụi bặm, có thể sẽ phải vặn nó ra. Cái thực sự cần là một ngọn đèn, bởi ban đêm trong đường ống tối mịt. Nhưng chẳng tìm được đâu ra đèn, bao diêm cũng không có cái nào. Chỉ và tuốc nơ vít chúng tôi giấu sẵn trong lòng ống, cách miệng vào vài bộ. Chỉ hy vọng người ta sẽ không nhận ra bị mất, hoặc nếu có thì cũng không ngờ cho chúng tôi.
Justin và hai chuột khác được chọn vào nhóm thám thính (một là Arthur, bà đã gặp rồi đấy). Lần đầu tiên đối với họ thật rợn người: đây là mê cung kinh hoàng nhất trong số các mê cung, bóng tối làm cho họ nhanh chóng mất phương hướng. Thế nhưng họ vẫn miệt mài hàng đêm, tìm hiểu mạng lưới ống khí đan nhau như một mạng nhện lập thể giăng giữa những trần và tường của tòa nhà. Mỗi lần họ lại buộc đầu sợi chỉ vào vỉ sắt trong phòng thí nghiệm rồi vừa đi vừa giở cuộn chỉ ra. Hết lần này đến lần khác họ đi đến mút chỗ rồi phải quay lại.
“Rõ là không đủ dài,” Justin không ngớt than phiền. “Mỗi lần hết chỉ tôi lại nghĩ: giá mình đi được thêm mười bộ nữa thì...”
Rốt cuộc cậu ta đã làm đúng như thế. Đêm thứ bảy, khi cuộn chỉ nhả hết, cậu cùng hai người bạn vừa đi tới một khúc đường ống rộng hơn tất cả những nơi đã qua, và càng đi họ càng có cảm giác nó chênh chếch hướng lên trên. Nhưng ống chỉ đã cạn.
“Hai anh đợi ở đây,” Justin nói với hai người kia. “Tôi chỉ đi thêm một chút nữa thôi. Giữ chặt lấy ống chỉ nhé, và nếu tôi gọi thì nhớ đáp.” (Họ đã buộc đầu chỉ vào ống để không mất dấu trong bóng tối.)
Justin đang có linh tính. Khí thổi qua lòng ống chỗ đó có mùi tươi mát hơn và hình như thổi mạnh hơn những nhánh khác. Ngay phía trước cậu nghĩ hình như mình nghe tiếng máy chạy rừ rừ, và sàn kim loại dưới chân rung động nhè nhẹ. Cậu tiến lên. Ống khí ngoặt lên cao rất dốc - và rồi thẳng trước mặt, cậu đã nhìn ra: một mảng đen sáng màu hơn cái đen ngòm bao vây quanh mình, và chính giữa có ba ngôi sao đang nhấp nháy. Đấy là bầu trời đêm. Bên kia khoảng hở, đúng như Jenner dự đoán, có một lưới mắt cáo thô bằng dây thép dày.
Cậu chạy về phía đó thêm vài giây nữa rồi dừng lại. Tiếng máy vừa bất chợt dội lên, từ tiếng rừ rừ biến thành tiếng ầm ầm. Rõ ràng nó đã chuyển tốc độ; cần gạt tự động đâu đó trong tòa nhà đã tăng từ thấp lên cao, và luồng gió nhè nhẹ vừa thổi qua giờ thốc vào Justin khiến cậu thở hắt. Cậu trụ chân thật chắc trên sàn kim loại cố đứng vững. Trong một phút, cũng đột ngột như khi vừa ồn lên, tiếng máy trở lại rì rầm. Cậu nhìn quanh, nhận ra may mà mình đã dừng lại. Nhờ ánh trời mờ mờ chiếu vào cậu thấy mình đang ở điểm có chừng hai tá ống khí cùng chụm vào như các cành cây nối vào thân. Chỉ thêm vài bước nữa cậu sẽ không còn phân biệt được cành nào là của mình. Cậu theo đường lộn ngược lại, mấy phút sau đã tới chỗ các bạn.
Đêm đó chúng tôi họp mặt, Justin kể với cả nhóm phát hiện của mình. Cậu đã để lại sợi chỉ, lấy tuốc nơ vít chặn lên, để dẫn đường chúng tôi. Một số đề nghị đi ngay tức khắc, nhưng lúc đó đã muộn rồi, và Jenner cùng tôi lập luận phản đối lại. Chúng tôi không biết phải mất bao lâu mới gỡ được lưới chắn ở cuối đường. Nếu quá một hoặc hai tiếng đồng hồ thì trời sẽ sáng. Như thế chúng tôi sẽ không thể liều quay lại phòng thí nghiệm được, mà phải ở cả ngày trong ống khí hoặc tìm cách ra ngoài giữa ban ngày. Bác sĩ Schultz có thể còn đoán được chúng tôi đi lối nào và nhốt cả lũ lại trong đường ống khí.
Cuối cùng, dù miễn cưỡng, tất cả đồng ý ở thêm một ngày nữa trong phòng thí nghiệm và đi ngay đầu đêm mai. Nhưng đến được quyết định ấy thật khó khăn, tự do thì đã ở quá gần và cả nhóm cũng như tôi đều nghĩ: “Giả thử...” Giả thử bác sĩ Schultz bỗng nghi ngờ khóa lồng lại thì sao? Giả thử có ai tìm thấy sợi chỉ và lôi nó ra? (Cái này không có nhiều khả năng - đầu bên này buộc vào ống chỉ, đặt cách miệng ống khí sáu bộ, được giấu rất kỹ.) Dù sao thì chúng tôi cũng bồn chồn.
Rồi đúng lúc chúng tôi chuẩn bị kết thúc cuộc họp, lại có rắc rối mới nảy sinh. Chúng tôi đứng họp thành vòng khá tròn trên sàn phòng thí nghiệm, ngay bên ngoài hai cánh cửa lưới đóng các lồng chuột nhắt. Lúc này từ trong tủ một giọng nói vọng ra:
“Nicodemus.” Tiếng gọi rành mạch nhưng nài nỉ, giọng một anh chuột nhắt. Chúng tôi đã gần như quên khuấy có chuột nhắt ở ngay đấy, còn tôi giật mình khi thấy một con trong đó biết tên tôi. Tất cả chúng tôi đều im lặng.
“Ai gọi tôi đấy?” tôi hỏi.
“Tôi tên là Jonathan,” giọng nói kia đáp. “Chúng tôi nghe các anh nói chuyện thoát ra từ lâu rồi. Chúng tôi cũng muốn đi lắm nhưng không tự mở lồng được.”
Bà có thể tưởng tượng là chuyện này làm chúng tôi kinh hãi chừng nào, lại ngay phút cuối. Chúng tôi không ai biết nhiều về tụi chuột nhắt trừ những gì nghe được bác sĩ Schultz đọc vào máy ghi âm. Qua đó chúng tôi chỉ biết chúng cũng nhận cùng những mũi tiêm như chúng tôi, và liệu pháp này đối với chúng cũng hiệu quả không kém. Chúng chỉ là một thí nghiệm bên lề, không có nhóm đối chiếu nào.
Justin đang ngắm nghía cánh tủ.
“Sao lại không nhỉ?” cậu nói. “Miễn là chúng tôi mở được cửa.”
Có ai đó lầu bầu: “Chúng nó sẽ làm ta chậm lại.”
“Không,” chuột nhắt tên Jonathan nói. “Chúng tôi không cản đường các anh đâu. Chỉ cần mở lồng cho chúng tôi khi nào các anh đi, chúng tôi sẽ tự tìm đường. Nếu các anh muốn thì thậm chí chúng tôi cũng không đi cùng các anh nữa.”
“Các anh có bao nhiêu người?” tôi hỏi.
“Chỉ có tám thôi. Cửa tủ dễ mở lắm. Chỉ có cái khóa móc ở lưng chừng thôi.”
Nhưng Justin và Arthur đã nhìn ra rồi. Họ trèo lên cửa lưới, tháo khóa ra và hai cánh tủ mở tung.
“Lồng cũng mở giống như lồng các anh,” một chuột nhắt khác nói, “nhưng tay chúng tôi ngắn quá không thò ra mở được.”
“Được rồi,” tôi nói. “Đêm mai ngay khi bác sĩ Schultz và hai người kia đi, chúng tôi sẽ mở cửa lồng cho các anh, các anh có thể theo sợi chỉ cùng chúng tôi thoát ra. Sau đó các anh tự đi đường các anh.”
“Nhất trí,” Jonathan nói, “và cảm ơn.”
“Còn bây giờ,” tôi nói, “tất cả chúng ta quay lại lồng thôi. Justin, cậu làm ơn gài lại tủ như cũ.”
Tôi đã đẩy khóa tự nhốt mình trong lồng và chuẩn bị ngủ thì nghe tiếng cào trên cửa, là Jenner đang trèo từ trên xuống.
“Nicodemus,” anh nói, “anh vào được không?”
“Tất nhiên được chứ. Nhưng sắp sáng đến nơi rồi.”
“Anh không ở lâu đâu.” Anh mở cửa chui vào. “Có chuyện này chúng ta cần quyết định.” “Em biết,” tôi nói. “Em cũng nghĩ nhiều về chuyện đó rồi.”
“Khi ra được hẳn thì ta sẽ đi đâu?”
Tôi không nhìn được mặt Jenner trong bóng tối lồng, nhưng nghe giọng tôi biết anh đang lo lắng. Tôi nói:
“Ban đầu em nghĩ, cố nhiên là về nhà rồi. Nhưng rồi khi bắt đầu nhớ lại, em nhận ra như thế không hay. Em nghĩ là tìm đường thì dễ vì bây giờ chúng ta biết đọc rồi. Nhưng nếu về được đi nữa thì sao? Chúng ta sẽ chẳng gặp ai quen biết cả.”
“Tuy thế,” Jenner nói, “em vẫn biết đấy không phải là điểm chính.”
“Vâng.”
“Điểm chính là thế này: Ta không biết phải đi đâu vì không biết ta là cái gì. Em có muốn trở lại sống trong ống cống không? Và ăn rác rưởi của con người? Vì loài chuột vẫn sống như thế. Nhưng thực tế là chúng ta không còn là chuột nữa. Chúng ta là thứ được bác sĩ Schultz tạo ra. Một thứ hoàn toàn mới. Bác sĩ Schultz đã nói trí tuệ của chúng ta đã tăng quá một nghìn phần trăm. Anh nghĩ ông ta tính toán lầm, anh nghĩ chúng ta ắt phải thông minh ngang bằng ông ta - có thể còn hơn nữa. Chúng ta biết đọc, và tập luyện một chút thì cũng sẽ biết viết. Anh quyết tâm làm được cả hai. Anh nghĩ ta có thể học bất cứ điều gì ta muốn. Nhưng chúng ta sẽ làm thế ở đâu? Một toán chuột văn minh có thể đi đâu được bây giờ?”
“Em không biết,” tôi nói. “Chúng ta sẽ phải tìm ra câu trả lời. Sẽ chẳng dễ dàng đâu. Nhưng dù thế thì việc đầu tiên vẫn là phải ra khỏi đây đã. Chúng ta may mắn có được cơ hội này, nhưng cũng sẽ không lâu đâu. Chúng ta đi trước bác sĩ Schultz, nếu ông ta biết chúng ta biết những gì thì sẽ chẳng để chúng ta lại một mình trong này thêm một đêm nữa. Và chắc chắn ông ta sẽ khám phá ra sớm thôi.”
“Lại thêm một chuyện cần lo nữa,” Jenner nói. “Nếu chúng ta có thoát ra ngoài, khi ông ta phát hiện ta biến mất - chẳng lẽ ông ta không đoán được ta ra bằng cách nào? Chẳng lẽ ông ta không hiểu được ắt chúng ta đã biết đọc?”
“Hẳn là có.”
“Rồi thì sao? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu ông ta loan báo có một toán chuột văn minh xổng chuồng - một toán chuột biết đọc, biết nghĩ, biết suy luận sự việc?”
Tôi nói: “Cứ đợi đến khi ta được tự do rồi hẵng lo việc đó.”
Nhưng Jenner nói đúng. Đấy là một chuyện đáng lo, lúc đó và có lẽ bây giờ vẫn vậy.
Ngày hôm sau thật là kinh khủng. Tôi cứ nghĩ ngay bây giờ bác sĩ Schultz sẽ nói: “Ai đã lấy tuốc nơ vít của tôi?” Và rồi Julie sẽ thêm: “Cuộn chỉ của tôi cũng biến mất nữa.” Chuyện đó hoàn toàn có thể xảy ra khiến họ phải suy nghĩ - nhưng đã không xảy ra, và đêm ấy, một tiếng sau khi Julie, George và bác sĩ Schultz đã rời phòng thí nghiệm, chúng tôi ra khỏi lồng và tụ tập toàn đội trước tủ chuột nhắt. Justin mở cửa tủ, kéo khóa lồng, và đám chuột nhắt chui ra. Trông chúng rất nhỏ bé sợ sệt, nhưng có một con can đảm tiến lên trước.
“Anh là Nicodemus?” anh ta nói với tôi. “Tôi là Jonathan. Cảm ơn đã đưa chúng tôi đi cùng các anh.” “Chúng ta vẫn chưa ra được mà,” tôi nói, “nhưng dù sao cũng sẵn lòng.”
Không có thời gian mà chuyện vãn. Ánh sáng qua cửa sổ bắt đầu ngả xám rồi; chưa đến một giờ nữa trời sẽ tối, mà chúng tôi cần ánh sáng để nghĩ cách mở lưới chắn đầu kia ống khí.
Chúng tôi đến bên miệng ống trên ván lót tường.
“Justin,” tôi nói, “cậu dẫn đầu. Đi đến đâu cậu quấn chỉ lại đến đấy. Tôi sẽ đi đoạn hậu. Không ai gây tiếng ồn. Chắc chắn trong nhà này đâu đó vẫn có người thức. Không được để họ nghe thấy chúng ta.” Tôi không muốn bỏ lại cuộn chỉ có nguy cơ bị tìm thấy: càng nghĩ kỹ tôi càng tin bác sĩ Schultz sẽ tìm cách truy đuổi chúng tôi, vì rất nhiều lý do.
Justin nhấc vỉ, đẩy tấm ván trượt mở ra, và chúng tôi đi vào từng đứa một. Nhìn những chuột khác qua trước mặt mình, lần đầu tiên tôi để ý trong số chuột nhắt có một con màu trắng. Rồi chính tôi cũng đi vào, đóng vỉ lại sau lưng và đẩy tấm chắn đóng lại gần kín như cũ.
Có Justin dẫn trước chúng tôi đi qua con đường tối rất mau chóng và thuận lợi. Chỉ mất mười lăm hay hai mươi phút chúng tôi đã đi hết cuộn chỉ. Đến đó, như Justin đã báo trước, đường ống rộng ra, ở đây nghe thấy tiếng rì rầm của cỗ máy trước mặt và gần như lập tức chúng tôi thấy khoảnh vuông là ánh ngày màu xám. Chúng tôi đã đến cuối đoạn ống, thì một chuyện kinh khủng xảy ra.
Justin, chắc bà còn nhớ, đã cho chúng tôi biết cỗ máy kia, cái bơm hút khí qua đường ống, đã chuyển từ mức thấp lên cao khi cậu lần đầu tiên đi đến đó. Thế nên chúng tôi đã được báo trước. Phiền một nỗi là cảnh báo cũng chẳng có tác dụng gì, đối với đoàn chuột nhắt.
Chúng tôi đang đi đến gần khoảng miệng sáng thì tiếng ồn nổi lên. Luồng gió phụt vào thình lình như một cơn gió huýt, khiến tôi không thở nổi và hai tai dính bẹp vào đầu, theo bản năng tôi nhắm mắt lại. Tôi vẫn còn ở sau cùng, khi mở mắt tôi thấy một chuột nhắt đang trượt qua mình, móng vuốt nhỏ xíu cào cấu vào mặt kim loại nhẵn dưới chân nhưng vô ích. Một con nữa bay theo, rồi lại một con nữa, từng con một bị thổi ngược lại vào mê cung đen ngòm những đường hầm chúng tôi vừa rời bỏ. Tôi đứng vững lại ở góc đường ống và chộp được một con đang trượt qua. Đấy là con chuột bạch. Tôi nắm được chân nó, kéo một vòng ra sau lưng mình và ôm chắc lấy. Một con nữa lao mặt vào chuột cống đằng trước tôi và được giữ lại - đấy là Jonathan vốn đi gần đầu. Nhưng số còn lại đã mất dấu, cả sáu con. Chỉ vì chúng nhẹ quá; chúng bị cuốn đi như lá vàng khô, và chúng tôi chẳng bao giờ còn gặp lại chúng.
Thêm một phút nữa tiếng ồn dừng lại, luồng khí cuồn cuộn giảm xuống và cơn gió chỉ còn phe phẩy, chúng tôi lại có thể lên đường.
Tôi nói với con chuột bạch: “Anh nên bám lấy tôi thì hơn. Chuyện này có thể còn xảy ra nữa.”
Anh ta nhìn tôi bất bình. “Nhưng còn mấy chuột kia thì sao? Sáu chuột mất tích! Tôi phải quay lại đi tìm họ.”
Jonathan nhanh chóng hùa theo: “Tôi sẽ đi cùng.”
“Không được,” tôi nói. “Như thế sẽ rất vô ích và ngớ ngẩn. Các anh đâu có biết họ bị thổi vào ống nào, còn không biết họ có rơi vào cùng một nơi không. Mà nếu có tìm ra họ - thì làm thế nào các anh tìm đường ra trở lại? Và nếu gió lại thổi nữa thì sao? Lúc đó sẽ là tám chuột mất tích chứ không phải sáu.”
Gió lại thổi nữa thật, đến cả năm sáu lần, giữa lúc chúng tôi dùng tuốc nơ vít cố cạy lưới chắn. Mỗi lần như vậy chúng tôi lại phải ngừng tay tìm cách bám chặt. Hai chuột nhắt bám lấy chính cái lưới, vài đứa trong chúng tôi đứng trụ sau lưng, đề phòng họ tuột tay. Còn Justin cầm theo cuộn chỉ làm dấu đường, quay lại tìm sáu chuột kia. Cậu đi hết ngõ này đến ngả khác đến tận mút cuộn chỉ, vừa đi vừa gọi khẽ - nhưng chẳng ích gì. Đến tận hôm nay chúng tôi cũng không biết số phận sáu chuột đó ra sao. Có thể cuối cùng họ đã tìm được đường ra, hoặc là họ đã chết trong ấy. Chúng tôi vẫn để ngỏ lưới chắn cho họ để phòng chừng.
Cái lưới chắn ấy. Nó bằng dây thép rất nặng, lỗ to cỡ quả hạt dẻ, bắt vào khung thép. Chúng tôi dùng tuốc nơ vít nạy rồi đập thử đủ kiểu, nhưng không tài nào làm nó nhúc nhích. Nó bắt vào từ bên ngoài - như thế nào thì chúng tôi không nhìn được. Cuối cùng chuột bạch có ý kiến.
“Cắm tuốc nơ vít vào lỗ gần sát đất,” anh ta nói, “rồi bẩy lên.” Chúng tôi làm theo, cái khe cong đi độ vài ly. Chúng tôi lặp lại, bẩy xuống dưới, rồi trái, rồi phải. Cái lỗ dần dần rộng ra, tới khi chuột bạch nói: “Tôi nghĩ là đủ rồi.” Anh ta trèo lên khe hở nhỏ và sau một hồi vặn vẹo luồn lách, anh ta cũng qua được. Jonathan theo sau; cả hai rơi xuống khuất tầm mắt, nhưng một phút sau đầu Jonathan đã lại hiện ra bên ngoài.
“Chốt này là loại trượt,” anh ta nói. “Chúng tôi đang cố mở.” Ở trong chúng tôi nghe thấy tiếng kèn kẹt khẽ do hai chuột nhắt kéo rồi giật chốt, cố đẩy nó ra. Rồi kẽ hở dưới đáy lưới nở ra; chúng tôi đẩy mở, và chúng tôi đã đứng trên mái nhà Nimh, tự do hoàn toàn.
Điền trang Boniface
Chị Frisby nói: “Jonathan và thầy Ages đã bung lưới chắn.”
“Phải,” Nicodemus nói, “và không có họ thì tôi không tin chúng tôi làm nổi. Khung thép rất khỏe, cái chốt rất chắc, còn lưới thì cứng đến nỗi chúng tôi chẳng đời nào uốn được đến khi đủ rộng cho một đứa trong bọn chui ra. Thế nên chúng tôi rất mừng có họ đi cùng và hỏi, sau cùng, họ có muốn ở lại cùng chúng tôi không. Vì chỉ còn lại hai người nên họ nói có, ít nhất là trước mắt.”
Và chuyện ấy khởi đầu cho một hành trình sẽ kéo dài gần hai năm, với vài lần ngắt quãng. Có những chặng dễ chịu (ban đầu cảm giác thật tuyệt vời, chỉ cần được tự do trở lại và quẳng hết những đai đeo cổ), có những chặng thật kinh hoàng. Tôi đã ghi chép lại tất cả mọi chuyện, và nếu có bao giờ chuột tự xuất bản sách thì tôi sẽ viết một cuốn về chuyện ấy. Đấy sẽ là một cuốn sách dài đầy khổ ải hiểm nguy, quá nhiều chuyện chẳng thể kể ngay bây giờ được. Cũng chính trong một giai đoạn nguy hiểm ấy mà tôi mất một bên mắt và nhận cái sẹo bà đang thấy bây giờ.
Nhưng chúng tôi cũng có nhiều thời điểm sung sướng, và một vài trường hợp đại may mắn, đặc biệt là hai lần, góp phần giải thích làm sao chúng tôi lại ở đây và kế hoạch bây giờ là gì.
Khi chúng tôi thoát ra thì đang là chớm hè. Chúng tôi đã biết từ trước - có thể đoán ra nhờ ánh sáng vào cửa sổ mãi cuối ngày, dù khi cuối cùng lên được mái nhà thì trời đã tối. Nhưng chúng tôi xuống theo mặt tường nhà không khó khăn gì. Ở góc tường có những máng nước dọc rất nhiều chỗ bám chân (chúng tôi thả tuốc nơ vít và cuộn chỉ vào một máng); thấp hơn tí nữa thì có dây thường xuân; chúng tôi đều leo trèo giỏi, và lại còn ánh trăng soi đường. Chưa đến mười lăm phút chúng tôi đã xuống tới mặt đất. Chọn đường trong những vệt bóng tối nhất, luồng dưới bụi rậm khi có thể, chúng tôi nhanh chân chạy xa khỏi Nimh, ban đầu chẳng biết cũng chẳng cần biết đang đi về phía nào. Không ai thấy chúng tôi cả.
Trong vài tuần tiếp theo chúng tôi cố sức sống. Về mặt nào đó chúng tôi phải học lại từ đầu cách sống như thế nào, bởi cho dù thế giới bên ngoài phòng thí nghiệm vẫn như cũ nhưng chúng tôi đã khác xưa rồi. Có đôi lúc chúng tôi buộc lòng phải tìm thức ăn trong đống rác hay thùng rác. Nhưng vì biết đọc, chúng tôi nhận ra được các biển hiệu: Thực phẩm, Siêu thị, Thịt & Rau, chẳng hạn, cho biết bên trong có thức ăn có thể lấy đi. Và có lần trong siêu thị ban đêm (người ta luôn để lại vài ngọn đèn) chúng tôi còn đọc được biển hiệu trên tường chỉ cho đến Khu số 8: Sản phẩm Bơ sữa (pho mát), Khu số 3: Bánh nướng các loại, vân vân. Ở nông thôn thì có những nhà kho hay hầm ủ chất đầy ngũ cốc, những chuồng gà đầy trứng gà.
Đôi lúc chúng tôi cũng gặp những chuột khác, hai ba lần còn nói chuyện với chúng nhưng chẳng được lâu. Vì chỉ sau vài lời trao đổi là chúng sẽ nhìn chúng tôi bằng con mắt lạ lẫm rồi lủi đi mất. Bằng cách nào đó chúng nhận ra chúng tôi không giống mình. Tôi nghĩ ngay cả bề ngoài chúng tôi cũng khác: hoặc đồ ăn, hoặc những mũi tiêm ở Nimh đã làm chúng tôi to khỏe hơn hẳn chuột bình thường, và mọi chuột lạ mặt chúng tôi gặp trông đều có vẻ yếu và lùn đến ngạc nhiên. Thế là ngay đến giống loài mình, chúng tôi cũng bị tách biệt.
Chính trong thời kỳ ở nông thôn mà chúng tôi gặp điều may mắn lớn đầu tiên. Khi ấy chúng tôi mới vừa quyết định kiếm nơi nào sống lâu dài sau bốn tháng tự do lang bạt, nếu không phải vĩnh viễn thì ít nhất cũng qua mùa đông. Chúng tôi nghĩ tốt nhất là ở nông thôn nhưng cũng đừng xa thành thị quá, để vừa tiện đường đến hàng thực phẩm vừa đến được kho thóc hay vườn.
(Cũng chính vào khoảng này tôi bắt đầu suy nghĩ, có phần e ngại, về chuyện bất cứ thứ gì mình ăn hay bất cứ thứ gì cần dùng đều phải đi ăn cắp. Đấy vẫn là cách sống của chuột trước nay. Thế nhưng - sao lại thế? Tôi có nói chuyện với vài người khác. Chuyện đó mở đầu cho một nỗi bức xúc và một ý tưởng mạnh lên không ngừng, dù chậm.)
Khi ấy là mùa thu. Tối hôm ấy chúng tôi đang đi trên con đường quê uốn khúc. Không hẳn là chúng tôi đi trên đường, mà là sát mép đường, dễ lẩn vào bụi cây hay mương nước nếu có người tới gần. Chắc bà cũng hiểu là hai chục chuột cống cùng một đôi chuột nhắt nối đuôi nhau đi sẽ gợi chút hiếu kỳ, mà chúng
tôi thì không muốn thế.
Đang đi, chúng tôi gặp một hàng rào sắt uốn rất cao, trông như một hàng giáo sắt đen chằng vào nhau, mũi chĩa lên trời - một hàng rào khá đắt tiền bao quanh một điền trang lớn, ở giữa có ngôi nhà to trông rất sang trọng, xung quanh là sân bãi vườn tược chỉn chu. Chúng tôi cứ đi qua hàng rào đến khi gặp cổng.
“Trong này chẳng có ai sống đâu,” Justin nói.
“Sao cậu biết?”
“Cổng có ổ khóa kìa. Và anh nhìn xem. Cỏ khô mọc ngay ngoài cổng và cũng không bị gãy gập nữa. Lâu lắm rồi chẳng có ai lái xe qua cổng này.”
Ngôi nhà trông có vẻ tĩnh mịch hoang vu. Trước cửa, hộp thư há hốc cái miệng rỗng. “Anh đang nghĩ không biết ta có vào được không,” Jenner nói.
“Để làm gì?”
“Nhà này rất lớn. Thế nào cũng có tủ thức ăn lớn, tủ ly lớn, tủ lạnh lớn. Nếu cái nhà cũng trống rỗng như bề ngoài thì...”
Chúng tôi hướng về phía sân bãi, di chuyển rất thận trọng, dừng chân dưới mấy bụi cây theo dõi các cửa sổ. Khi hoàng hôn xuống, đèn bật sáng ở vài cửa sổ cả tầng trên lẫn tầng dưới.
Jenner nói: “Cái đó là để chúng ta nghĩ có người bên trong.”
“Đúng thế,” Justin nói, “nhưng thực ra không có. Tôi nhìn thấy một cái đèn bật lên. Bên cạnh không có ai cả. Và tất cả cùng bật một lúc.”
“Công tắc tự động à. Để xua đuổi trộm.”
“Đừng hòng xua đuổi được tôi,” Justin nói. Cậu chạy lại ngôi nhà, trèo lên một bệ cửa sổ nhìn vào trong. Cậu chuyển sang cửa khác. Rồi cậu trở lại. “Chẳng có ai cả,” cậu nói.
Thế là chúng tôi kéo vào. Có một cửa sổ nhỏ sau nhà mặt kính bị nứt, chúng tôi gõ một góc cho rời ra rồi trèo vào qua đó. Ban đầu chúng tôi dự định chỉ đi tìm thức ăn. Thức ăn thì chúng tôi đã tìm được, đủ để sống một năm hoặc hơn nữa. Như Jenner đã dự đoán, có một tủ lạnh rất lớn với đủ chủng loại đồ ăn - bánh mì, thịt, rau, gì cũng có - lại còn cả một phòng chất đầy kệ toàn là đồ hộp. Ban đầu đồ hộp có làm chúng tôi lúng túng như lúc ở trong siêu thị. Chúng tôi đọc được bên trong có gì nhưng chẳng biết cách nào lấy ra được. Rồi Arthur tìm thấy cái máy trên mặt bếp. Anh đọc hướng dẫn trên thân máy: Đẩy lon vào dưới dao rồi gạt công tắc. Chúng tôi thử làm. Cái lon chầm chậm xoay trong máy và khi chúng tôi lôi ra thì nắp đã được cắt rời. Tôi chẳng bao giờ quên món đồ trong hộp ấy: trai hầm hành, ngon tuyệt.
Sau khi ăn no chúng tôi dạo quanh nhà. Đây đúng là biệt thự nhà giàu, đồ đạc tuyệt đẹp, thảm treo và thảm trải sàn cũng vậy. Phòng ăn có đèn chùm pha lê, phòng khách có lò sưởi đá lớn.
Nhưng món quà vô giá cho chúng tôi lại nằm trong phòng làm việc. Đấy là một căn phòng lớn hình chữ nhật, tường ốp gỗ óc chó, bàn gỗ óc chó, ghế bành da, sách xếp kín tường đến tận trần. Hàng ngàn cuốn sách về mọi chủ đề có thể tưởng tượng ra. Có hàng kệ sách bìa mềm, có từ điển bách khoa, sách sử, tiểu thuyết, sách triết, sách giáo trình vật lý, hóa học, điện tử học và các loại khác tôi không kể xuể. May hơn nữa là còn có cả một cái thang có bánh xe nhỏ người ta vẫn dùng trèo lên giá cao trong thư viện.
Thế là chúng tôi nhào vào kho sách ấy, hau háu còn hơn khi nhào vào đồ ăn nữa, và sau cùng chúng tôi dọn vào ở trong nhà ấy suốt mùa đông. Chúng tôi về sau đã phát hiện ra có thể làm thế mà không sợ bị bắt gặp. Phát hiện đó là nhờ vài mảnh báo cắt tôi thấy trên bàn trong phòng làm việc: tất cả đều đưa tin về một đám cưới, và hầu như báo nào cũng đăng ảnh đôi uyên ương mới cưới rời khỏi một ngôi nhà bắt đầu chuyến trăng mật. Chú rể là một ông Gordon Boniface nào đó - “người thừa kế gia sản nhà Gould Stetson”- còn ngôi nhà họ rời đi chính là ngôi nhà chúng tôi đang ở. Theo như báo đăng thì họ đang trong một chuyến du hành vòng quanh thế giới. Họ sẽ trở lại Điền trang Boniface vào tháng Năm. Từ giờ đến đó
thì đây sẽ là điền trang của chuột.
À, còn có một người quản gia kiêm làm vườn ghé đây ba lần một tuần, thi thoảng ông ta cũng kiểm tra ngôi nhà một cách chiếu lệ. Cụ thể là ông ta mở cửa chính, nhìn quanh một vòng xem mọi thứ trông có ổn không, rồi khóa cửa ra về. Nhưng ông ta không sống ở đây mà ở căn nhà nhỏ cuối đường. Và chúng tôi đã lường trước sẽ có ông ta. Nhìn vẻ sạch sẽ của ngôi nhà, cỏ được xén, lá được cào, vườn được rẫy cỏ và tưới nước, chúng tôi đã đoán chắc hẳn có ai vẫn chăm sóc ngôi nhà. Thế nên chúng tôi cắt gác, nhìn thấy ông ta đang đến, và theo dõi suốt thời gian ông ta ở đây. Và chúng tôi cẩn thận để mỗi khi ông ta nhìn vào trong nhà, mọi thứ trông đều ổn.
Như thế cũng đòi hỏi khá nhiều công sức. Chúng tôi phải tha hết lon đồ hộp rỗng và các món rác khác ra ngoài vào buổi đêm, giấu vào một chỗ trong rừng khá xa nhà. Chúng tôi làm gì cũng dọn dẹp rất cẩn thận. Chúng tôi học cách dùng vòi nước và giẻ lau bụi cất trong ngăn chổi trong bếp. Nếu người quản gia có nhìn kỹ thì ông ta sẽ thấy bếp còn bóng hơn các nhà vắng chủ thông thường là khác. Nhưng ông ta chẳng nhìn. Ông ta cũng chẳng bao giờ nhận ra góc kính nhỏ bị vỡ ở cửa sổ sau nhà.
Và suốt mùa đông, cho đến tận khuya, chúng tôi đọc sách và học viết.
Đại sảnh
Có tiếng gõ cửa văn phòng Nicodemus. Cửa mở, Justin cùng thầy Ages bước vào. “Về sớm thế?”
“Sớm à?” Justin nói. “Quá trưa rồi. Đến giờ ăn rồi.”
“Quá trưa rồi ư!” chị Frisby đứng dậy, nhớ ra các con vẫn đang chờ ở nhà. Dưới nhà chuột cống trong ánh sáng nhân tạo, rất khó nhận biết thời gian trôi qua, mà chị thì say sưa lắng nghe chuyện Nicodemus kể đến nỗi quên cả nhìn đồng hồ.
Justin đang khoác cặp giống của Nicodemus, rút từ trong ra một gói giấy nhỏ. “Đây là thuốc cho Rồng,” anh ta đặt lên bàn nói. Anh ta hỏi chị Frisby: “Anh ấy đã kể cho chị về ông Đồ chơi rong chưa?”
Nicodemus nói: “Chưa. Tôi vừa sắp sang chuyện đó.”
“Nhưng tôi không ở lại nghe bây giờ được,” chị Frisby nói. “Các con tôi chắc đang chờ cơm.”
Kế hoạch được vạch ra. Chị Frisby thì sẽ về nhà trông nom các con. Nicodemus, Justin, Arthur và các chuột tham gia sẽ thảo luận chi tiết chuyển nhà như thế nào, công việc sẽ thực hiện lúc mười một giờ đêm ấy - “sau khi nhà Fitzgibbon đã ngủ cả và chúng ta đã đảm bảo là Rồng cũng thế,” Nicodemus nói. Chị Frisby đến khoảng giữa chiều sẽ quay lại bụi hồng.
Thầy Ages nói: “Còn tôi thì sẽ nằm nghỉ. Sau khi đi cả một chuyến bằng cái nẹp này tôi mệt lắm rồi.”
“Thầy muốn chọn phòng nào tùy ý,” Nicodemus nói. “Jenner cùng nhóm đã đi rồi nên bây giờ chúng tôi còn bảy phòng trống.”
“Cảm ơn anh,” thầy Ages nói. “Chị Frisby này, khi nào chị quay lại đây tôi sẽ hướng dẫn chị thật đích xác cách bỏ thuốc vào đồ ăn của Rồng.”
Trên đường hối hả chạy về, chị Frisby suy nghĩ có nên kể cho các con những gì trong mọi chuyện đã xảy ra - và mọi chuyện sắp xảy ra. Chị quyết định là ít nhất ở thời điểm này chưa nên cho chúng biết bố mình có liên quan đến đàn chuột cống. Thêm nữa chị cũng sẽ không nói mình đã tình nguyện bỏ thuốc ngủ vào bát Rồng. Như thế chỉ tổ làm chúng lo lắng. Có lẽ chị sẽ kể chúng nghe khi nào việc đã xong và đã an toàn - khi nào, ngoài nhiều điều khác, sẽ chẳng còn dịp để Martin xung phong làm thay chị.
Chị sẽ chỉ kể rằng theo lời cú khuyên, chị đã đến gõ cửa nhà chuột cống xin giúp đỡ. Chị thấy chúng rất niềm nở và thông minh, và một nhóm chuột cống đêm nay sẽ tới chuyển ngôi nhà sang một nơi an toàn tránh được lưỡi cày. Như thế là đủ. Chị có thể kể toàn bộ câu chuyện về sau - khi nào chính chị cũng đã biết trọn vẹn.
Nhưng như thế vẫn chưa đủ. Lũ trẻ mới đầu thì nghi ngờ, sau đó thì tò mò gạn hỏi, đặc biệt là Timothy (trông đã đỡ hơn và đã thấy khỏe mạnh hơn, nhưng vẫn còn nằm trong giường, chủ yếu là vì bị Teresa và Martin bắt).
“Nhưng sao lũ chuột cống phải làm thế?” Timothy hỏi. “Chúng ta đâu có quen gì chúng đâu. Chẳng ai quen chúng cả. Chúng chỉ quanh quẩn với nhau.”
“Có thể là vì cụ cú phái mẹ đến,” chị Frisby tìm câu trả lời nào có thể vừa ý chú. “Có vẻ họ rất kính trọng cụ cú.”
“Còn chuyện đó nữa,” Timothy nói, “con cũng chẳng hiểu tại sao ông cú lại muốn giúp cả. Ông ta cũng đâu bạn bè gì với mình.”
“Có thể họ nghĩ đến lúc nào đó chúng ta sẽ giúp lại họ được chuyện gì.”
“Ôi mẹ ơi!” Cynthia nói. “ Chúng ta mà lại giúp được họ chuyện gì?”
“Các con quên à. Mẹ đã giúp Jeremy một lần còn gì. Chính vì thế mới dẫn đến mọi chuyện này.” “Vì thế và vì con ốm nữa,” Timothy nói. “Giá mà con dậy được. Con chán nằm bẹp lắm rồi.”
“Chưa được đâu,” chị Frisby nói, rất mừng được chuyển chủ đề. “Con phải giữ sức vào vì tối nay con sẽ phải dậy một lúc đấy, khi nào họ đến chuyển nhà. Chúng ta cần đảm bảo con được quấn kỹ và hy vọng tối nay trời ấm.”
“Trời sẽ ấm thôi,” Martin nói. “Bây giờ ngoài kia đã khá nóng rồi.”
Cả nhà ăn bữa trưa.
Chiều hôm đó chị Frisby bảo các con mình phải đi bàn bạc lại với chuột cống về chuyện chuyển nhà. Nghĩ đến hiểm họa sắp phải đương đầu chỉ trong vài giờ tới, chị muốn hôn tạm biệt tất cả các con. Nhưng vì biết ít nhất có Timothy đã nghi ngờ rồi, chị không dám làm thế, chỉ bảo chúng đừng lo lắng nếu chị có về nhà ăn tối hơi muộn.
Trên đường quay lại bụi hồng chị thấy khá nhẹ nhõm, gần như vui tươi nữa. Rắc rối của chị sắp được giải quyết rồi, và giải pháp cuối cùng đã gần lắm. Nếu mọi việc suôn sẻ thì Timothy sẽ được cứu thoát.
Nếu mọi việc suôn sẻ. Rồi nhiệm vụ sắp phải làm trở lại trong trí chị như một hồi chuông báo động lanh lảnh. Điều chị lo hãi nhất không phải là bỏ thuốc vào bát Rồng, mà là sợ đến phút cuối chẳng may chị mất bình tĩnh và làm hỏng việc. Như thế kế hoạch sẽ sụp đổ cả.
Chị nhìn về phía căn nhà trại Fitzgibbon, và ở đó, nằm sưởi nắng trên hiên sau chính là con Rồng. Nó đang nhìn một cặp sẻ đùa giỡn trên thảm cỏ khoảng giữa hiên và khu chuồng gà, cái chót đuôi giần giật khó nhận thấy trong lúc nó cân nhắc xem khoảng cách có vừa cú nhảy không. Trông nó rất to và đáng sợ.
Ít nhất thì nó cũng không nhìn ra phía chị, và chị Frisby vội vã đi về phía bụi, thẳng hướng lối vào bí mật, rồi lẩn vào trong. Khi đến cổng vòm, chị thấy Brutus vẫn đang đứng gác như lần trước, nhưng lần này cậu ta lễ độ chào chị.
“Tôi đang chờ bà,” cậu ta nói.
“Tôi vào được không?”
“Bà đợi cho vài phút, tôi gọi Justin.” Cậu ta đi vào cổng vòm bấm một nút nhỏ trên tường. Lúc trước chị Frisby chưa nhìn thấy.
“Chuông cửa à,” chị nói.
“Chuông này gọi xuống máy nói ở tầng dưới. Nếu tôi bấm ba lần thì chị sẽ thấy có động.” “Có động à?”
“Đấy là tín hiệu báo nguy. Sẽ có một tá chuột chạy ra cửa này sẵn sàng chiến đấu. Số còn lại cùng đàn bà trẻ em sẽ chạy ra đằng cửa sau.”
“Tôi chưa biết là có cửa sau đấy.”
“Cửa sau dẫn ra ngoài rừng trong một bụi gai mâm xôi. Đường hầm phía ấy dài hơn phía này.”
Khi Justin ra đón, cả hai lại trở xuống hành lang như hồi sáng, nhưng lần này khi đến phòng có thang máy và thang bộ thì Justin dừng lại.
“Nicodemus nghĩ có lẽ chị sẽ muốn xem đại sảnh của chúng tôi - ngó qua một cái thôi. Anh ấy nói chị có hỏi về Kế hoạch.”
“Tôi có hỏi,” chị Frisby nói, “nhưng ông ấy không kể gì cả.”
“Bây giờ thì không chỉ còn là một kế hoạch nữa, nhưng chúng tôi đã quen gọi thế rồi. Nhìn đại sảnh chị
sẽ hiểu ngay chúng tôi đang làm gì.”
Thế là thay vì đi xuống như lúc trước, Justin dẫn đường qua bên kia phòng, nơi đường hầm đi tiếp như chị Frisby đã nhận thấy khi trước. Họ cứ đi phải thêm vài phút nữa.
“Ở đâu đó ngay khúc này,” Justin nhận xét, “chúng ta đã vào đến rừng. Chị sẽ thấy đường hầm hơi khúc khuỷu một tí. Chúng tôi phải cho chạy vòng tránh các rễ cái, nhiều cái to như cọc rào.”
Họ đi tiếp đến khi gặp ngã ba. “Nhánh bên phải dẫn ra bụi mâm xôi,” Justin nói. “Nhánh bên trái đi về đại sảnh.” Họ rẽ sang trái.
“Bây giờ mời chị chuẩn bị đón nhận bất ngờ nào.”
Đằng trước có tiếng động vọng tới: âm thanh rất nhiều chuột đang nói chuyện, tiếng hối hả, tiếng thùm thụp, tiếng động cơ đang chạy. Cả hai bước vào một phòng náo nhiệt bận rộn không khác gì một nhà máy.
Đây là căn phòng lớn nhất chị Frisby từng thấy, to bằng nửa một căn nhà thông thường, trần và sàn đều bằng đá xám cứng. Phòng sáng trưng dưới những bóng đèn điện cỡ bình thường, mắc vào dây, không hề có chụp, và bên dưới chuột đang làm việc khắp nơi. Chuột điều khiển những động cơ điện điều khiển vòng đai điều khiển những máy cưa, máy tiện, máy khoan, máy mài hình tròn tí xíu cùng các loại máy chị Frisby không biết tên, chuột quai búa, hàn, cắt gọt. Nhưng nhiều nhất vẫn là chuột khuân vác đồ.
Có một dòng vận chuyển nhịp nhàng hai chiều giữa nơi này và đầu kia căn phòng, mỗi chuột đều đeo bộ dây cương gắn một cặp bao tải to chắc, vắt hai bên mình như con ngựa thồ nhỏ. Các chuột đi vào mang hai bao rỗng. Họ biến mất trong phần căn phòng khuất sau một bức tường gỗ cao. Khi trở ra, hai bao đã đầy nặng trĩu.
Trước mặt chị, một đội mười chuột đeo bao căng phồng đi qua chị ra đường hầm, họ chào Justin và gật đầu với chị nhưng không dừng bước. Chị nhận ra ngay trong cửa có cái quạt điện ầm ừ chạy, xoay vào trong, tiếp không khí sạch vào phòng từ đâu đó trong rừng.
Chị Frisby đứng bên Justin há miệng nhìn. Chị muốn chóng mặt trước cảnh tượng ấy, trước sự nhộn nhịp, tiếng ồn, kích cỡ của căn phòng, dài phải đến hai mươi bộ và rộng cũng gần thế.
“Làm thế nào các anh đào nổi căn phòng lớn thế?” chị hỏi.
“Chúng tôi có đào đâu,” Justin nói. “Chúng tôi tìm thấy đấy. Đây là một cái hang tự nhiên. Chị có thấy trần và sàn đều là đá đặc không? Đấy là lý do, hay là lý do chính chúng tôi sống ở nơi này. Đã có nhiều kẻ ở đây trước chúng tôi. Có lẽ nhiều thế kỷ trước khi nhà nông trại được cất lên, ở đây có gấu. Rồi có sói, cáo, chuột mác mốt. Chúng tôi phải ra tay dọn dẹp khá nhiều, cam đoan với chị là thế.”
“Khi chúng tôi mới tìm được, có một hố rộng chỉ dài vài bộ dẫn thẳng vào đây, nhưng ở trong ngập đầy cành lá khó nhìn ra được. Chúng tôi bít hẳn hố ấy rồi đào một lối vào khác, dài và hẹp hơn - là cửa sau bây giờ. Rồi chúng tôi đào khu gia cư dưới bụi hồng cùng lối cửa chị đi vào đó. Nhưng hang này vẫn là xưởng chính của chúng tôi. Ta vào đi.”
Khi hai người đi vào có vài chuột ngẩng lên, một số còn vẫy tay mỉm cười, nhưng tất cả đều nhanh chóng quay lại công việc đang làm dở như là đang rất vội vã.
“Tất cả đều đang theo tiến độ,” Justin giải thích sát bên tai để chị nghe thấy qua tiếng ồn, “nên họ không dừng tay được.”
Có một nhóm trông bận rộn hơn cả đang vây quanh một đồ vật trông kỳ quặc bằng gỗ và kim loại dài chừng một bộ. Vật này cong và nhọn ở một đầu, chị Frisby nghĩ trông hơi giống sườn một cái thuyền nhỏ. Có phải đàn chuột đang đóng thuyền không? Rồi chị nhìn ra họ đang gắn một vòng kim loại chắc lên trên cùng.
Justin dẫn chị đến gần.
“Đây là phát minh quan trọng nhất của chúng tôi,” anh ta nói, “chìa khóa cho toàn bộ Kế hoạch. Chúng
tôi vừa làm thử một mẫu hồi mùa thu. Cho chạy thử, nó chạy tốt. Thế nên bây giờ chúng tôi làm thêm ba cái nữa.”
“Nhưng nó là cái gì?”
“Đây là một cái cày. Nicodemus tự mình thiết kế đấy, sau khi đọc hết tất cả sách về công cụ làm nông rơi vào tay anh ấy. Cái này vừa nhẹ vừa sắc, thiết kế đặc biệt cho chuột kéo. Cần tám người chúng tôi mới kéo được - nếu đất cứng thì cần nhiều hơn. Nhưng có nó thì làm việc cật lực một ngày chúng tôi có thể cày được một mảng đất chừng mười nhân mười lăm bộ.”
“Nhưng vì sao? Các anh cần để làm gì?”
“Lại đây, tôi sẽ chỉ cho chị thấy.”
Anh ta dẫn chị đến cuối hang bên dãy tường cao. Anh mở một cánh cửa ra dấu cho chị theo. Chị đang đứng giữa một vựa lớn bằng gỗ; ngay bên chân chị và thoai thoải cao dần đến tận vách hang là một núi ngũ cốc nhỏ.
“Yến mạch,” Justin nói.
Anh dẫn chị đi tiếp, mở một cửa khác thấy một núi hạt khác. “Lúa mì,” anh nói. Và cứ thế:
“Đại mạch.”
“Ngô.”
“Đậu nành.”
“Chúng tôi bắt đầu tích lũy các kho này từ lâu lắm rồi,” anh nói. “Tất cả đều lấy từ nhà kho của ông Fitzgibbon. Bây giờ chúng tôi đã dự trữ đủ cho một trăm linh tám chuột sống trong hai năm, ngoài ra còn gieo thêm được hai vụ nữa đề phòng vụ đầu thất thu. Còn trong này” - anh chỉ vựa cuối cùng trong dãy - “chúng tôi có các hộp đầy hạt giống. Hạt cà chua, củ cải đường, cà rốt, dưa và nhiều thứ nữa.”
Suốt trong lúc họ đứng đó thì dòng chuột vẫn đều đặn đi qua. Họ vào trong vựa, cởi bao tải đeo lưng, đổ đầy hạt vào bao, khoác lại vào người, đi ra qua đường hầm ra phía cửa sau. Chị Frisby nghĩ trông họ giống như đàn kiến khổng lồ cần mẫn liên tục trong tổ kiến.
Justin chắc cũng cảm nhận tương tự, vì anh ta nói:
“Nếu kiến làm được, Nicodemus nói thế, nếu ong làm được thì ta cũng làm được.”
“Làm gì cơ?”
“Ô, sống mà không ăn cắp chứ làm gì. Đấy là tất cả ý nghĩa của chuyện này. Đấy là Kế hoạch.”
Ông Đồ chơi rong
“Chúng tôi rời Điền trang Boniface ngày đầu tháng Năm,” Nicodemus nói. “Chúng tôi đã hiểu biết hơn rất nhiều so với khi vào đó. Chúng tôi đã sống ở đó tám tháng ròng.”
“Rồi thì,” Justin nói, “chúng tôi tìm thấy ông Đồ chơi rong.”
Họ đã trở lại văn phòng Nicodemus. Thầy Ages đã nghỉ ngơi xong, cùng ngồi với họ. “Chưa đến,” thầy Ages nói.
“Chưa đâu,” Nicodemus nói. “Chuyện đó là mãi cuối hè. Khi mới ra ngoài, chúng tôi bắt tay vào tìm kiếm một nơi có thể sống vĩnh viễn, hay ít nhất là có thể ở lại đến bao giờ mình muốn. Chúng tôi hình dung khá rõ mình cần một nơi như thế nào. Chúng tôi đã có vô khối thời gian bàn bạc chuyện này trong những đêm đông dài ở thư viện khi giải lao ngưng đọc sách.”
Chúng tôi đã đọc bao nhiêu! Chúng tôi chẳng biết mấy về thế giới, bà hiểu đấy, nên rất tò mò. Chúng tôi đã học về thiên văn học, về điện, sinh vật học và toán học, âm nhạc và nghệ thuật. Tôi còn đọc cả vài cuốn thơ và trở nên rất thích thơ ca.
Nhưng tôi thích nhất chính là lịch sử. Tôi đọc về người Ai Cập cổ đại, người Hy Lạp và La Mã, và Đêm trường Trung cổ, khi những nền văn minh cổ tan rã và chữ nghĩa chỉ còn lại trong giới tu hành. Những người này sống lánh mình trong các tu viện. Họ sống cực kỳ giản dị, họ nghiên cứu và viết lách, họ tự trồng lấy ăn, tự xây lấy nhà và đóng đồ đạc. Họ còn tự làm được cả công cụ và làm giấy. Đọc chuyện họ tôi bắt đầu tàm tạm hình dung chúng tôi có thể sống như thế nào.
Phần lớn sách đều viết về con người, chúng tôi cố tìm sách về chuột nhưng không có nhiều lắm.
Chúng tôi cũng tìm ra vài thứ. Có hai bộ bách khoa thư có vài mục về chuột. Đọc xong chúng tôi hiểu rằng mình có lẽ là loài vật bị ghét nhất trên mặt đất, có khi chỉ kém rắn và vi trùng.
Điều này đối với chúng tôi thật lạ lùng và bất công. Nhất là khi được biết có vài họ hàng gần gũi của chúng tôi - sóc chẳng hạn, hay thỏ nữa - lại rất được ưa thích. Nhưng con người cho là chúng tôi phát tán bệnh tật, và tôi nghĩ rất có thể là đúng, mặc dù chúng tôi không chủ tâm, và chắc chắn cũng không nhiều đến như con người tự mình phát tán.
Tuy thế có vẻ như lý do chính khiến chúng tôi bị ghét là vì chúng tôi luôn sống nhờ ăn cắp. Từ thời thượng cổ, chuột đã sống bên rìa các thành phố và nông trại của loài người, lẻn lên tàu thủy của con người, gặm thủng sàn nhà họ, ăn trộm thức ăn của họ. Nhiều lúc chúng tôi còn bị đổ tội cắn trẻ con loài người. Tôi không tin và các bạn tôi cũng thế - trừ phi đấy là một thứ chuột hạ đẳng sinh sống trong những khu ổ chuột thành phố tồi tệ. Mà tất nhiên chuyện đó cũng có thể xảy ra với cả loài người chứ sao.
Như vậy là chúng tôi chẳng có tích sự gì trên thế giới này ư? Một cuốn từ điển có dành duy nhất một câu khen ngợi: “Loài chuột thường rất được trọng dụng làm sinh vật thí nghiệm trong nghiên cứu y học nhờ sức chịu đựng dẻo dai, trí thông minh, tính linh hoạt và đặc điểm sinh học tương tự như người.” Về chuyện đó thì chúng tôi cũng hiểu khá rõ rồi.
Nhưng có một cuốn sách của một nhà khoa học nổi tiếng dành cả một chương về loài chuột. Ông ta nói, hàng triệu năm trước dường như chuột đã phát triển hơn mọi loại sinh vật khác, dường như đã xây dựng một nền văn minh riêng. Chúng rất có tổ chức và hình thành những xóm làng khá phức tạp trên đồng. Hậu duệ của chúng ngày nay là loài chuột vẫn được gọi là “chó đồng cỏ”.
Nhưng không hiểu vì sao mọi chuyện trở xấu đi. Nhà khoa học kia nghĩ rằng có thể đấy là vì loài chuột sống quá dễ dàng, trong khi các loài khác (đặc biệt là loài khỉ) sống trong rừng rậm, càng ngày càng cứng rắn và khôn ngoan hơn thì chó đồng cỏ lại trở nên lười biếng, yếu đuối và chẳng tiến bộ thêm gì cả. Cuối cùng loài khỉ ra khỏi rừng, đi bằng chân sau, chiếm hết đồng cỏ và gần như mọi thứ khác. Đến lúc đó loài chuột bị xua đuổi, chỉ còn là giống bòn rút và trộm cắp bên lề thế giới do loài người cai quản.
Nhưng chúng tôi vẫn thấy thú vị là ít nhất đã có thời loài chuột phát triển hơn tất cả. Chuyện ấy khiến chúng tôi suy nghĩ. Nếu loài chuột vẫn mãi phát triển hơn, nếu họ đã tiếp tục xây dựng một nền văn minh thực sự - tiếp đó sẽ như thế nào? Liệu có phải cả chuột cũng sẽ rụng đuôi và học cách đứng thẳng không? Liệu chuột có chế ra công cụ? Rất có thể chứ, dù chúng tôi nghĩ là không sớm và cũng không nhiều thế. Chuột có bộ công cụ tự nhiên mà khỉ không có: hàm răng sắc nhọn không ngừng dài ra. Thử nghĩ xem hải ly đã làm những gì chỉ với công cụ duy nhất là bộ răng gặm nhấm.
Chắc chắn là chuột sẽ nghĩ ra cách đọc và viết, cứ xem chúng tôi hồ hởi học thế nào thì rõ. Nhưng còn máy móc thì sao? Xe cộ và máy bay nữa? Máy bay thì có thể không. Suy cho cùng thì loài khỉ vốn sống trên cây, ắt hẳn mong muốn biết bay và ghen tị với lũ chim quanh mình. Chuột có lẽ không có bản năng ấy.
Cũng vậy, nền văn minh chuột chắc sẽ chẳng bao giờ xây nhà chọc trời, vì chuột vốn ưa sống dưới lòng đất. Nhưng hãy nghĩ về những tầng tầng bậc bậc phố ngầm vô tận họ sẽ xây.
Chúng tôi đã suy nghĩ và trò chuyện khá nhiều về đề tài ấy, và nhận ra nền văn minh chuột, nếu có bao giờ mọc lên, sẽ chẳng nhất định phải giống với nền văn minh con người. Thực tế là sau tám tháng sống trong Điền trang Boniface, chúng tôi chẳng ai nuối tiếc khi dọn ra ngoài. Ở đó chúng tôi có mái nhà, có đồ ăn miễn phí và được giáo dục, nhưng chưa bao giờ thấy thực sự thoải mái cả. Mọi thứ bên trong đều thiết kế cho giống vật có hình dạng, cách đi đứng và suy nghĩ khác chúng tôi. Hơn nữa ngôi nhà ở trên mặt đất chưa bao giờ khiến chúng tôi thấy tự nhiên cả.
Vì thế khi ra khỏi đó, chúng tôi quyết định nhà mới của mình sẽ phải ở dưới lòng đất, tốt hơn nữa là trong hang nếu chúng tôi tìm được. Nhưng ở đâu? Chúng tôi suy nghĩ rất kỹ, nghiên cứu bao nhiêu bản đồ và át lát - có vô số trong phòng làm việc. Cuối cùng chúng tôi kết luận thế này: Muốn có hang, chúng tôi sẽ phải tìm nơi nào có núi - ở đồng bằng sẽ chẳng thấy mấy hang. Còn muốn có thức ăn thì phải ở gần thị trấn hay tốt hơn nữa là trang trại.
Thế là chúng tôi cần tìm một trang trại, lớn nữa càng tốt, có nhà kho lớn và hầm ủ đầy ngũ cốc, ở gần núi. Chúng tôi nghiên cứu bản đồ kỹ hơn nữa, và tôi nghĩ chính Jenner là người đã đề nghị vùng này là nơi đáng thăm dò. Trên bản đồ một phần lớn vùng này là các đường đồng mức biểu thị núi, trên đó là các chữ “Rừng quốc gia Núi Gai”. Bên dưới viết chữ nhỏ hơn: “Khu bảo tồn thiên nhiên được bảo hộ”. Ở bên rìa nơi núi chuyển thành đồi thấp, bản đồ vẽ vùng nông thôn mấp mô khá nhiều đường sá nhưng không thấy thị trấn nào, mà chúng tôi nghĩ như thế nghĩa là đất nông nghiệp.
Chúng tôi đã đoán đúng, như bà dĩ nhiên có thể nhận thấy. Mất hai tháng du hành không ngừng nghỉ mới tới được Rừng quốc gia Núi Gai, nhưng chúng tôi đã tìm ra, chúng ta đang ở ngay dưới bìa rừng đây. Và hang thì rất nhiều, phần lớn chẳng bao giờ có người đến - vì con người không được phép lái xe vào khu bảo tồn thiên nhiên. Trong rừng chẳng có đường, chỉ có vài lối mòn cho nhân viên kiểm lâm chạy xe jeep, máy bay cũng không được phép bay qua.
Chúng tôi tìm hiểu rất nhiều hang, cái to, cái bé, cái khô, nhưng phần lớn đều ẩm. Nhưng trước khi chọn cái hang và nông trại này, chúng tôi tìm thấy ông Đồ chơi rong.
Nguồn gốc chuyện này cũng khá buồn. Sáng hôm đó chúng tôi tìm thấy một ông già nằm trong rừng, gần một đường mòn không xa đây lắm, ông ta chết rồi. Chúng tôi không biết ông chết bệnh gì, nhưng đoán có lẽ là trụy tim. Ông mặc bộ vét màu đen, kiểu xưa nhưng rất phẳng phiu chứ không tã. Tóc ông bạc trắng, mặt có vẻ hiền từ.
“Không biết ông ấy là ai và đang đi đâu nhỉ,” Justin bảo.
“Dù là ai đi nữa,” Jenner nói, “thì ông ấy cũng không nên ở nơi này.”
“Chúng ta nên chôn ông ấy đi,” tôi nói.
Thế là chúng tôi làm vậy, nhưng không đào mộ mà đem lá, đá, cành cây và đất lấp thành gò lớn trên người ông. Chính trong lúc thu nhặt để đắp gò mà Justin có phát hiện thứ hai. Cậu đang ở sâu trong bụi, chúng tôi không nhìn thấy.
"""