" Mắt Quạ Tinh Tường - Shane Peacock PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Mắt Quạ Tinh Tường - Shane Peacock PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Mục lục Phần Mở Đầu Chương 1: Cậu Bé Khác Thường Chương 2: Một Quá Khứ U Ám Chương 3: Điềm Báo Trên Không Chương 4: Kẻ Sát Nhân Chương 5: Miền Vĩ Cầm Chương 6: Manh Mối Đầu Tiên Chương 7: Chuyện Của Mohammad Chương 8: Cô Bé Khác Thường Chương 9: Vượt Ngục Chương 10: Thay Đổi Nhân Dạng Chương 11: Ăn Trộm Nhà Mình Chương 12: Mọi Thứ Lấp Lánh Chương 13: Nhìn Thấy Quỷ Chương 14: Cô Lillie Và Ngài Lear Chương 15: Nước Cờ Nguy Hiểm Chương 16: Cỗ Xe Ma Quỷ Chương 17: Một Ngày Mới Chương 18: Vào Trong Hoang Dã Chương 19: Những Con Mắt Của Mayfair Chương 20: Hành Vi Phạm Pháp Chương 21: Cái Chết Chương 22: Sherlock Holmes Lời Cảm Ơn MẮT QUẠ TINH TƯỜNG Shane Peacock dtv-ebook.com Typer: Feen Phần Mở Đầu Tác giả: SHANE PEACOCK Người dịch: HOÀNG ANH Người đăng truyện: @iamfeen hoặc gọi mình là Feen cũng được. VUI LÒNG KHÔNG CHỈNH SỬA TRUYỆN VÀ ĐỔI TÊN NGƯỜI ĐĂNG. --- "Suốt trong quá trình quen biết lâu dài và thân thích với Sherlock Holmes, tôi chưa bao giờ nghe anh kể về gia đình và quãng đời thơ ấu của anh... Tôi đã tưởng anh mồ côi và không còn ai thân thích..." - Bác sĩ Waston, trích trong Người thông ngôn Hi Lạp. --- Án mạng xảy ra trong đêm tối tại khu Whitechapel nằm sâu về phía đông, nơi khuất xa những ngọn đèn khí đốt trên các tuyến phố chính. Đây là chốn cư ngụ của dân Do Thái và lớp người cùng đinh. Nơi những kẻ vô danh tiểu tốt của một đô thị vĩ đại nhất địa cầu sống như bầy cầm thú. Vụ án xảy ra chỉ trong tích tắc, như một nhát đâm của sự tàn nhẫn, bất công và bạo tàn. Nhiều giờ sau, tại khu Southwark phía nam dòng sông Thames, trong căn hộ xập xệ nằm trên cửa hiệu tồi tàn, một cậu bé miễn cưỡng thức dậy đón ngày mới. Sự công bằng không hiện diện ở nơi này. Nhưng hôm nay sẽ là ngày có tính quyết định đối với cậu bé, với vụ sát nhân và rất nhiều vụ án sau này. Không một ai chứng kiến một vụ án mạng tại Whitechapel. Nhưng trong màn đêm mịt mùng, những đôi mắt đen đã nhìn thấu tỏ. Và sáng hôm nay... một bậc thầy đã thức dậy. MẮT QUẠ TINH TƯỜNG Shane Peacock dtv-ebook.com Typer: Feen Chương 1: Cậu Bé Khác Thường Mặt trời xuất hiện, rọi những tia nắng xuyên qua màn sương mù vàng vọt đang dần tan, chiếu lên đám người tuyền một màu nâu, lùm xùm nào mũ nón, nào quần áo cùng giày ủng đang rùng rùng di chuyển qua những chiếc cầu và dọc theo các con phố lát đá. Tiếng móng ngựa khua lọc cọc trên mặt đường hoà cùng tiếng rầm rập của các bánh xe sắt, tiếng chuyện trò râm ran và lời rao của những người bán hàng rong. Mùi ngựa trộn lẫn với mùi rác rưởi, than đá và khí đốt lan toả trong không khí. Phần đông mọi người đều tất tả đi đến một nơi nào đó trong buổi cuối xuân năm 1867 ấy. Giữa đoàn người đang từ bên mạn nam vượt qua dòng sông bẩn thỉu trên cây cầu đá, có một cậu bé cao gầy, da dẻ tái nhợt tựa như sắc giấy trên rìa các trang Thời báo Luân Đôn. Cậu mười ba tuổi, và lẽ ra đang ngồi học ở trường. Từ xa, trông cậu thật bảnh bao trong chiếc áo choàng màu đen dài, cà vạt, áo chẽn và đôi ủng đánh bóng. Nhìn gần, cậu có vẻ xơ xác và buồn bã, nhưng từ đôi mắt màu khói của cậu toát ra nét tinh anh. Tên cậu là Sherlock Holmes. Trong vô vàn tội ác ở Luân Đôn này, tội ác đêm qua tại Whitechapel có lẽ là vụ man rợ nhất. Nó sẽ làm thay đổi cuộc đời cậu. Một lát nữa đây nó sẽ đập vào mắt cậu. Và mấy ngày tiếp theo nó sẽ hút lấy cậu. Sherlock đến với những con phố nhộn nhịp và ồn ã này để tạm lánh các vấn đề của mình và tìm nguồn hứng khởi. Cậu quan sát những con người tiếng tăm giàu có để tìm hiểu xem điều gì khiến họ thành công và được trọng vọng như vậy. Vốn rất thính nhạy trước những sự kiện gay cấn và bức xúc, cậu luôn tìm chúng trên những tuyến phố chính ồn ã náo nhiệt này. Ngày nào cậu cũng ra đây theo cùng một lối. Đầu tiên cậu rời căn hộ trên gác của một hiệu nón cũ kĩ tại khu Southwark bẩn thỉu và đi về phía nam theo hướng trường học. Nhưng ngay khi khuất tầm mắt, cậu liền rẽ sang hướng tây rồi lỉnh lên phía bắc, cùng với đám đông băng qua sông trên cầu Blackfriars để đến với khu trung tâm tráng lệ của thành phố. Các cư dân của Luân Đôn lướt qua cậu như những đợt sóng. Mỗi người đều có câu chuyện riêng của mình khiến cậu say mê. Sherlock Holmes là một cỗ máy quan sát. Sinh ra cậu đã như vậy. Chỉ trong chớp mắt cậu đã có thể khắc hoạ chân dung của một người nào đó. Cậu có thể nói ngay lí lịch của người này hoặc nghề nghiệp của người khác. Nhờ năng lực đó nên cậu khá nổi tiếng tại khu phố nhỏ của mình. Nếu có đồ vật gì bị thất lạc - một chiếc ủng, một cái tạp dề hay một khoanh bánh mì nóng giòn - cậu có thể nhìn các khuôn mặt, xem xét những chiếc quần, và khám phá các manh mối để chỉ ra thủ phạm, dù lớn hay nhỏ. Người đàn ông đang bước về phía cậu từng ở trong quân ngũ, có thể nhận ra điều đó nhờ bộ ria của ông ta. Ông ta đã từng dùng ngón trỏ tay phải chai sần ấy để bóp cò súng trường. Ông đi lính bên Ấn Độ - cậu từng thấy trong sách một biểu tượng của Ấn giáo giống như hình trang trí nằm trên chiếc măng séc bên trái kia. Cậu đi tiếp. Một phụ nữ đầu đội mũ vải sùm sụp đi lướt qua, tấm khăn quấn trên vai cô ta chạm nhẹ vào cậu. - Đi đứng cái kiểu gì đâu! - Cô ta lườm cậu, làu bàu. "Người này thực ra cũng dễ đoán thôi, Sherlock Holmes thầm nghĩ. Chị ta mới vừa bị thất tình. Nhìn cặp mắt thâm quầng, giọng nói cau có và thanh sôcôla giấu trong tay chị ta thì biết. Chắc chị ta quãng ba mươi tuổi. Trông có vẻ đang béo ra. Chị ta sống tại vùng ngoại ô Sussex, nơi duy nhất có loại đất sét nâu dính trên mũi đôi ủng đen kia." Sherlock Holmes luôn cảm thấy muốn biết hết mọi thứ. Cậu cần nhiều hơn những thứ ít ỏi mà cuộc sống đã mang lại cho mình. Một thầy giáo trong trường từng khen cậu giỏi giang. Cậu không coi chuyện đó là ghê gớm. "Giỏi về cái gì chứ?" Cậu tự nhủ. "Về việc sống nhầm chỗ và nhầm thời điểm à?" Tại phố Fleet, cậu thò tay vào trong một cái thùng rác bằng gang, lôi ra một nắm báo. Thời báo... nhét trở lại. Tin điện hàng ngày... nhét trở lại. Cảnh sát nhật báo... à, đây rồi. Rốt cuộc cũng có một tờ hoạ báo! Mọi cảm xúc mà Luân Đôn có thể tạo ra đều được thổi sức sống vào nhờ những bức vẽ trắng đen kích thước lớn. Cậu đọc toàn những loại báo tường thuật các chuyện gây xôn xao dư luận. Và tờ báo này, cùng với một câu chuyện hấp dẫn, đầy máu me bạo lực và bất công, sẽ chỉ ra định mệnh của cậu. Cậu giấu nó vào trong áo khoác. Tại quảng trường Trafalgar, Sherlock Holmes ngước mắt lên tìm kiếm lũ quạ. Thường thì chúng đậu thành hàng trên nóc khách sạn Morley. Nằm gần toà Northumberland House lộng lẫy, bên mạn đông nam của quảng trường, khách sạn Morley được lũ quạ chọn để tách xa khỏi những con bồ câu béo ú và đám đông gần đài phun nước. Cảnh tượng khiến cậu mỉm cười: Một trong những khách sạn sang trọng bậc nhất Luân Đôn, cùng với hàng quạ đậu trên nóc. Đó là loài chim Sherlock Holmes ưa thích. Cậu len lỏi giữa dòng người lưu thông trên đường, băng qua quảng trường tới các bậc thềm đá trước cửa nhà Triển lãm Nghệ thuật Quốc gia. Những con quạ cũng di chuyển. Đôi khi cậu nghĩ lũ chim đi theo mình. Một đôi quạ sà xuống và đậu bên cạnh cậu bé. - Chào hai cậu. Để xem tin tức hôm nay có gì nào. Cậu giở báo ra. Cái tít trên trang nhất đập thẳng vào mắt cậu. ÁN MẠNG! Bên dưới dòng tiêu đề là bức tranh minh hoạ ghê rợn tái hiện cảnh một người phụ nữ trẻ nằm trên một con phố của Luân Đôn, thân mình ngập trong vũng máu. Hai con quạ kêu toáng lên và bay đi mất. Sherlock đọc tiếp. Án mạng xảy ra ở giữa đêm khuya, tại phía đông của khu phố cổ. Không ai chứng kiến hay nghe thấy gì, dù chỉ là một tiếng hét. Hung khí la một con dao dài và sắc. Sherlock lật sang trang sau. Cậu đọc ngấu nghiến: một phụ nữ chưa rõ địa vị xã hội, không có cái tên nào được nhắc đến, không có kẻ thù nào được biết tới. Cậu nhận thấy cô ta trông giống mẹ mình. Cậu bé nghe thấy tiếng người qua đường xầm xì: - Con bé tội nghiệp. - Chắc hẳn là dân lề đường xó chợ, một đứa ngoại lai. - Lại cái thằng nhóc dễ sợ ngồi đó. Chỉ ước gì nó biến đi. - Mấy con chim lúc nãy là quạ à? Điềm gở đấy. - Bọn lưu manh. Một lũ du thủ du thực. Kìa, chúng đến đấy. Để tôi gọi cảnh sát. Cậu bé liếc mắt nhìn lên. Đó là nhóm bụi đời quảng trường Trafalgar. Cậu gần như có thể đánh hơi thấy bọn chúng. - Sherlock Holmes công tử, nếu tao không nhầm! Một thằng bé tóc đen mặt du côn lên tiếng. Cùng với nó là một nhóm trẻ bẩn thỉu, những bản sao thu nhỏ của thằng đầu đảng. Thằng bé mặc một chiếc áo choàng dài màu đen cũ mèm. Một cái mũ chóp cao sẫm màu vắt vẻo trên đầu nó. Còn trong tay nó là một chiếc gậy chống thô sơ. - Tao nghĩ mày đang chiếm chỗ của bọn tao đấy. Bọn trẻ chưa bao giờ ngồi ở đây. Hôm nay cũng sẽ như thế. - Giáo chủ thân mến của tôi... - Holmes đáp, vẫy tay chào nhóm Bụi đời -...cùng những người bạn. - Ít ra tao cũng có vài đứa bạn. - Ờ. - Biến mau! Nếu không chúng tao lại đập cho bây giờ. - Đồ con nai Do Thái! (Với những chữ n in nghiêng thì bạn hãy đọc thành l, còn chữ l in nghiêng thì ngược lại nhé. FEEN WATTPAD) Một thằng bé khó chịu tên Grimsby quát to. Holmes luôn ngán ngại thằng này. Hàm răng vàng ệch nhọn hoắt như răng chồn của nó trông cứ như sắp cắn người ta đến nơi. Sherlock đứng dậy, vuốt phẳng lại bộ quần áo cũ mèm. Cậu ghét thằng Giáo chủ, nhưng đồng thời cũng ngưỡng mộ nó. - Thấy cái này chưa? - Cậu hỏi, tay giơ tờ Cảnh sát nhật báo. - Đâm nủng bụng kìa, ghê chưa! Nàm khéo thật! - Grimsby thốt lên. Bọn trẻ cười rúc rích. - Vui gì mà cười! - Giáo chủ nạt cả bọn - Chuyện này không hay ho gì đâu. - Chuyện là thế nào? - Holmes hỏi, cậu thừa biết là thằng bé du đãng và băng nhóm của nó tường tận mọi tin đồn lan truyền trong các ngóc ngách của Luân Đôn. - Chỉ có dân đường phố biết... và biết với nhau thôi. - Giáo chủ nói - Tao không ưa cái... - Biết mà! - Sherlock thở dài. - Tôi biết... mấy người không ưa gì cái bản mặt của tôi. Có một chút tương đồng giữa hai cậu bé, mặc dù thằng thủ lĩnh nhóm Bụi đời lớn hơn một chút và nói giọng hơi pha âm sắc Ái Nhĩ Lan. Sự giống nhau ấy còn hơn bề ngoài u ám của hai đứa. Nó nằm trong cung cách bộc lộ bản thân và sự chỉn chu trong những bộ trang phục cũ sờn. Cả hai đều ý thức được điều đó, nhưng Giáo chủ không ưa gì chuyện này. - Mày sẽ không bao giờ là bụi đời được, Sherlock Holmes ạ. - Có chứ, tôi đang bụi đời lắm đây này. Một tay cảnh sát đang đi đến, cực kì bảnh choẹ với cái mũ cối trên đầu và chiếc áo khoác màu xanh dương có hàng khuy sáng bóng đều tăm tắp. Trong tay anh ta có một chiếc dùi cui. Viên cảnh sát canh chừng những cỗ xe đang chạy trên đường, tìm cơ hội tiến lại gần bọn trẻ. - Chuồn thôi! Giáo chủ rít lên, và bọn trẻ nhanh chóng biến đi. *-FEEN-* Đã năm giờ chiều, Sherlock vẫn còn muốn ở ngoài quảng trường, chưa chịu về nhà. Sao lại phải quay về với căn nhà buồn bã, chán chường, về với bố mẹ cậu chứ? Thà cứ ở ngoài này còn hơn. Ở đây cậu được ở gần với sự gay cấn và thành công. Tại đây cậu đã chứng kiến rất nhiều điều đáng kinh ngạc và đầy mê hoặc. Một lần cậu đã nhìn thấy chính Lewis Carroll đang cầm quyển Alice ở xứ sở thần tiên trong tay; một lần khác, nhà chính trị vĩ đại nhất nước, Disraeli, lặng lẽ rảo bước qua quảng trường; rồi người phụ nữ khổng lồ Anna Swan, với cái đầu vượt lên trên đám đông, ngôi sao đu dây Blondin, và ngài Dickens độc nhất vô nhị với chòm râu dê lốm đốm bạc và cặp mắt rực lửa. Cậu đã tận mắt thấy quảng trường chật cứng những người đối lập kêu gọi chính phủ sửa đổi đường lối, rồi có lúc lại đông nghẹt các công dân hô vang những thành tích của Đế chế. Cậu đã thấy những người cạo ống khối với bộ mặt đen nhẻm, những gã ăn mày gớm ghiếc, và cả những tên móc túi nữa. Tại sao phải về nhà kia chứ? Nhưng cậu vẫn phải về nhà. Khi tháp đồng hồ Big Ben tại toà nhà Quốc hội điểm năm giờ chiều, Sherlock Holmes phải chạy nhanh để về đến nhà trước bố mẹ, như thế họ sẽ tưởng cậu đã ở trường. Từ nhiều tháng nay cậu đã lừa dối hai người. Trong thâm tâm, cậu biết bố mẹ đang nghi ngờ mình ghê lắm. Chuyện này không thể tiếp diễn mãi được. Nếu cậu không đi học thì cậu sẽ phải đi lao động. Gia đình cần sự đóng góp của cậu. Cậu sẽ phải chấp nhận số phận của mình giữa những tầng lớp lao động nghèo khó của Luân Đôn. Mây đen đang kéo đến. Sherlock nhận ra tim mình đang đập dồn. Nó đã đập như thế kể từ lúc cậu mở tờ Cảnh sát nhật báo. Có thứ gì đó đang thiêu đốt tâm can cậu. Cậu nhìn xuống tờ báo, vo tròn nó, siết chặt hai chữ án mạng trong nắm tay của mình. FEEN MẮT QUẠ TINH TƯỜNG Shane Peacock dtv-ebook.com Typer: Feen Chương 2: Một Quá Khứ U Ám Posted by @iamfeen on wattpad. Big Ben điểm 5 giờ chiều. Sherlock bắt đầu chạy, quay lại lộ trình quen thuộc băng qua cây cầu đá. Tờ cảnh sát nhật báo vẫn nằm trong tay của cậu. Cậu đã canh giờ kĩ càng. Hai trăm bước chạy nước rút qua cầu giữa đám đông người đi đường chỉ mất chưa đầy hai phút. Rẽ sang hướng đông, đi một ngàn bước chân dọc theo sông Thames, ngang qua nhà ngục Clink cổ xưa gớm guốc: tám phút. Borough là một khu phố rộng rãi và cũng đáng được tôn trọng như Southwark, nhưng nhà cậu ở cách đó những bảy con phố chật hẹp về phía nam, gần một vùng phụ cận kinh khủng được biết đến với tên Xưởng đúc tiền. Những đoạn cầu hoả xa bằng đá đen sì thoắt ẩn thoắt hiện bên trên các con phố. Tiếng rít chói tai của đầu máy hơi nước thỉnh thoảng lại đột ngột vang lên làm thót tim khách bộ hành. Sherlock luồn lách qua mê cung các ngõ ngách dọc theo cánh tây của Borough, đẩy nhanh tốc độ để đám trẻ ranh, bọn ăn mày cùng lũ trộm cắp trong khu ổ chuột không thể bắt và trấn lột cậu. Trời bắt đầu lắc rắc mưa. Một ngày ở Luân Đôn không thể trọn vẹn nếu thiếu một chút mưa. Cậu luôn ngửi thấy mùi của khu phố mình trước khi nhìn thấy nó: cá và rau xanh được bán tại khu vực ranh giới gần phố nhà cậu, mùi chua bay ra từ những xưởng thuộc da gần đó, những con thỏ, đầu heo, hay thịt cừu treo lủng lẳng ở cửa hàng thịt. Cậu nghe thấy những tiếng chửi rủa quen thuộc. Khi về đến gần nhà, nỗi sợ bị nhận ra của Sherlock tăng dần. Nếu có ai đó trông thấy, làm cậu chậm lại thì cậu sẽ không thể về kịp giờ. Cậu đã mất quá nhiều thì giờ cho việc đọc bài báo về vụ án mạng, nhưng không thể cưỡng lại chuyện đó được. Những người sống quanh khu này biết thừa cậu lẽ ra phải ở trường và sẽ mách lẻo với bố mẹ cậu ngay nếu phát giác. Sherlock cúi gằm mặt xuống trong khi chạy vội vàng, ước mình có thể rụt đầu vào trong cổ áo giống như một con rùa. - Sherlock! - Một ai đó kêu to. Nghe như ai đó trạc tuổi cậu, có lẽ là một đứa bạn học. Sherlock cắm cúi chạy tiếp. Nhưng sau đó một quãng cậu chạy chậm lại khi nhìn thấy nhóm con trai quen mặt đang chơi đánh ki trên khoảng đất trống, nơi một toà nhà vừa mới bị đánh sập để chuẩn bị xây dựng đường xe lửa. Bọn trẻ dùng một cái sọ người như quả bóng, đánh nó về phía những khúc xương mà chúng dựng lên như những cái ki. Tất cả chỗ xương xẩu ấy đã trồi lên mặt đất tại khu nghĩa địa của người nghèo, và... Bỗng nhiên Sherlock Holmes va đầu phải một thứ gì đó và ngã sóng soài ra đường. Cậu nhìn lên. Đó là Ratfinch. Anh là người bán cá ở gần đấy. Hôm nay anh đang chở theo hai thùng đầy lươn trên xe kéo. Khi chiên lên thì chúng rất ngon, nhưng bây giờ thì lũ lươn nhầy nhụa đang uốn éo chung quanh cậu bé trong lúc cậu nằm ngửa, sững sờ. Áo khoác của cậu ướt sũng. - Cậu Holmes?... Cái gì th...? Đáng nẽ cậu phả...? Ranfinch có một vết sẹo to tướng ở trên má trái, nom giống như hình một cái lưỡi câu. Vết sẹo cắt một rãnh sâu trên khuôn mặt của anh. Sherlock lồm cồm bò dậy, cố túm lấy mấy con lươn trơn tuột bỏ lại vào cái thùng vừa được một người đi qua đường dựng lên. Cậu cuống lên. Giờ thì cậu đã muộn lắm rồi. Cậu lí nhí nói lời xin lỗi rồi lỉnh đi, tay phủi phủi chiếc áo khoác, cầu mong cho cái thứ vải cũ mèm đó khô thật nhanh. - Holmes! - Một đứa trong nhóm trẻ đang chơi ki gọi to rồi chạy bổ về phía cậu. Sherlock cúi đầu chạy thẳng. Nhà của họ nằm ngay sau tuyến phố chính, trên một dãy cửa hiệu dọc theo con đường dẫn đến Xưởng đúc tiền đáng sợ. Đa số ở đây mọi thứ đều được làm bằng gạch hoặc đá, nhưng những ngôi nhà xây vào cuối thể kỉ 17 này toàn làm bằng gỗ: tầng trệt là cửa hiệu với những khung cửa sổ lắp chấn song nhô ra, còn các căn hộ nằm ở tầng trên, với nội thất chật chội và xuống cấp. Cậu đua nước rút về phía nhà mình trong tuyệt vọng, lách vào con hẻm nhỏ và chạy dọc theo mặt sau của các cửa hiệu. Nó chỉ rộng hơn vai cậu một chút. Sherlock nhanh chóng băng qua phía sau cửa hàng thịt, hiệu bánh, rồi chính ngôi nhà của mình, nơi mùi của tiệm bán nón cũ đang bay ra. Cậu trèo qua bức tường gạch bị đổ ở phía sau nhà. Cách đó vài bước chân là một cái cầu thang xiêu vẹo dẫn lên cánh cửa độc nhất vào căn hộ. Cậu cuống quýt trèo lên. Tại đầu cầu thang, ngay ở chiếu nghỉ bé xíu chỉ vừa đủ rộng cho một người đứng, Sherlock có thể nhìn xuống con hẻm bên dưới về hướng cậu vừa chạy qua. Điều cậu trông thấy làm cho mạte cậu biến sắc: bố mẹ cậu, tay trong tay, đang tiến vào con hẻm. Họ thường đợi nhau ở Borough rồi về nhà cùng một lượt. Cậu chỉ nhanh hơn hai người có vài giây! Cánh cửa căn hộ không bao giờ khoá. Chẳng ai buồn đánh cắp bất cứ thứ gì mà họ sở hữu. Những ngón tay trắng bệch của cậu lóng ngóng lần đến cái then cửa trong khi bố mẹ cậu đang tiến đến gần ngôi nhà. Sherlock tì ngón cái xuống lớp kim loại, cố nhấc cái then lên khỏi chốt. Nhưng do quá lo sợ nên cậu buông tay quá nhanh và thanh kim loại lại rơi xuống chốt. Cậu đè người lên cánh cửa gỗ, cố đẩy nhưng nó không mở. Nghe thấy tiếng trò chuyện mỗi lúc một gần hơn của bố mẹ, cậu lại vật lộn với cái then cửa lần nữa. Tay cậu run bắn. Cậu cố định thần, chầm chậm mở then và nhẹ nhàng đẩy cửa ra, lách vào. Trong nhà có một phòng nhỏ và một căn buồng nhỏ hơn bên phải. Ván sàn kêu cọt kẹt trong khi cậu lao bổ qua căn phòng chính, quăng mình lên chiếc giường nhồi rôm kê sát tường, vớ lấy một trong những quyển sách của bố từ kệ trên đầu. Cậu vẫn đang thở hồng hộc. Then cửa được nhấc lên một cách nhẹ nhàng. Cánh cửa nghiến kèn kẹt mở ra rồi khép lại. - Sherlock? Có ở nhà không con? - Dạ có, thưa mẹ. - Chào con trai. - Con chào bố. Ông Wilberforce Holmes, với dáng người cao gầy và mái tóc đen, tiến lại gần xem xét cậu. Khả năng quan sát của ông ít nhất cũng ngang ngửa với con trai mình, vì đó là năng khiếu mà cậu thừa hưởng từ bố. Nhưng chẳng cần phải là thám tử cũng có thể ngửi thấy điều không ổn trên người cậu bé. - Bố ngửi thấy mùi gì thế này? - Ông nghi ngờ hỏi - Cá à? - Anh Ratfinch ở ngay gần đây mà. - Sherlock thản nhiên đáp và nhỏm dậy, giơ lưng về phía bố mình - Con vừa mới đi ngang qua chỗ anh ấy. Cậu bé nhăn mặt với chính mình khi nhận ra điều mình vừa nói không đứng vững nổi. Mùi từ cửa hàng cá trộn lẫn với các thứ mùi khác bên ngoài sẽ không thể luồn lách qua những bức tường kia. Bố cậu tiếp tục quan sát cậu: - Con đang hụt hơi đấy à? - Đâu có. Cậu có thể xoay lưng về phía bố được bao lâu đây? Mặt trước áo khoác của cậu vẫn còn dính đầy nhớt lươn, nhưng chỉ ở đằng trước thôi. Liệu bố mẹ cậu có tin rằng đó là do nước mưa không nhỉ? Mưa có thường làm ướt một mặt áo người ta hay không? - Hôm nay học hành thế nào? - Bố cậu hỏi tiếp. - Nhiều thứ bổ ích lắm ạ. Bố mẹ cậu không mỉm cười, chỉ im lặng nhìn nhau, tay trong tay. - Thế... hôm nay con học được những gì? - Mẹ cậu hỏi, cố tỏ ra vui vẻ hơn. - Toàn những điều đã học thôi ạ. Ông Holmes bắt đầu hết kiên nhẫn: - Bố có nên đi hỏi thầy hiệu trưởng không? - Không... bố đừng... Con... con đã vội chạy qua sông để về trước bố mẹ. - Cậu thú nhận - Con đã va vào anh Ratfinch. Sự thất vọng hiện rõ trên gương mặt ông bà Holmes. - Ít ra con cũng phải cố gắng chứ. Mẹ cậu thở dài nói trong lúc gỡ chiếc nón màu tía hơi nổi quá so với địa vị hiện tại. Nó là vật kỉ niệm mà bà đã đội từ hồi trước. Khuôn mặt bà vẫn còn nét hấp dẫn, dù cho các nếp nhăn đã hằn sâu hơn và đôi tay đã thô ráp hơn. Hình ảnh người phụ nữ bị giết, cũng đẹp như mẹ cậu hồi xưa, bỗng hiện lên trong đầu Sherlock. Cậu gạt nó sang một bên và cố gắng chỉ tập trung vào hình ảnh mẹ mình ngày trước. Cậu liếc mắt nhìn bức tranh nhỏ để trên chiếc bàn đầu giường thô mộc vẽ mẹ cậu lúc còn trẻ, một con chim sơn ca. Cậu thường hình dung ra mẹ mình vào thời vàng son của bà. @iamfeen Tên bà hồi xưa là Rose Sherrinford, và bà từng là viên ngọc quý của cha mẹ, cô con gái độc nhất của họ, xứng đáng được hưởng những điều tốt đẹp nhất. Gia tộc Sherrinford vốn là địa chủ, có mang một chút dòng máu Pháp. Ngoài sự giáo dục tinh tế và vẻ đẹp của mình, Rose còn có một món hồi môn hàng chục ngàn bảng Anh, giải thưởng cao giá cho bất cứ anh chàng quý tộc Anh quốc nào xứng đáng. Nhưng cô có một tâm hồn tự do và rất khiếp hãi cuộc sống được sắp đặt. Cô thích ca hát và mơ ước được gia nhập Đoàn nhạc kịch hoàng gia ở Covent Garden, mặc dù cô biết đó là một vai trò không thích hợp cho một thiếu nữ có địa vị cao. Tất cả những gì cha mẹ cô cho phép cô làm là tập luyện. Các thầy cô giáo dạy thanh nhạc tốt nhất nước Anh đã huấn luyện cho cô, và chẳng mấy chốc cô đã hát như một thiên thần, nhưng chỉ vào những buổi hội họp tại nhà. Cô nhớ mọi vai diễn nặng kí, thần tượng các giọng nữ trung nổi tiếng, và chưa bao giờ bỏ lỡ một buổi biểu diễn nào ở Nhà hát Lớn. Cô phản đối cung cách mà cha mẹ giam hãm cô. Nhưng họ tin rằng những cảm xúc nhất thời đó sẽ chóng qua - một người đàn ông có địa vị sẽ xoá đi tất cả những thiên hướng khác thường nơi cô. Thế rồi anh chàng Do Thái xuất hiện. Wilber Holmes là một thiên tài. Hoá học là thế mạnh của anh, các bí ẩn của mọi môn khoa học được giải mã chỉ với một cú hích nhẹ trong đầu anh. Ngành điểu học làm anh thích thú nhất. Anh say mê trước khả năng bay lượn của các chú chim. Nhưng là con trai của một người Do Thái nghèo, một người Ashkenazi từ Đông Âu di cư sang, anh ít có cơ hội được bay nhảy. Cha của Wilber đã đổi sang họ Holmes để khiến cho gia đình mình khỏi phải cảm thấy lạc lõng, đồng thời khẳng định sự trung thành của họ đối với nước Anh. Ông cũng đặt tên con trai mình là Wilberforce với lời nhắn nhủ: "Cái tên này không tầm thường, con hãy tự hào về cách mà nó ghi dấu ấn lên con." Đó là tên của một chính trị gia người Anh luôn tin tưởng ở sự bình đẳng chủng tộc. Hàng ngày ông đưa con trai đi học trường Do Thái miễn phí, khuyến khích cậu giành những phần thưởng danh dự. Nhưng như thế vẫn chưa đủ. Dù có năng lực, con đường học vấn lên cao của Wilber - cơ hội để có được một chỗ đứng trong xã hội - vẫn bế tắc. Suốt thời thanh niên của mình, vào những năm 1840, những người cùng chủng tộc và giai cấp với anh không được chấp nhận vào các trường danh tiếng như Oxford hay Cambridge. Dẫu vậy, Wilber vẫn tìm kiếm cơ hội. Anh tìm ra trường đại học Luân Đôn, một trường chưa có bề dày lịch sử của thành phố, và vào những năm cuối đại học, anh trở thành giáo viên tập sự. Giáo sư Holmes, anh thường viết như thế lên những mẩu giấy và mỉm cười. Rồi mọi chuyện thay đổi. Một người mến phục tài năng của Wilber đưa anh đi xem hát. Khi anh ngước mắt từ hàng ghế của mình lên ban công gần nhất và trông thấy cô, ở cái lô riêng trắng muốt phía trên anh, với mái tóc vàng óng ả cùng đôi mắt xanh lấp lánh, tiếng violin réo rắt trong vở Chim ác là kẻ cắp của Rosini là khúc nhạc nền hoàn hảo cho sắc đẹp của cô. Cô đang lẩm nhẩm từng lời hát, tưởng như mình đang ở trên sân khấu. Anh không thể không đắm đuối nhìn cô. Không biết làm thế nào mà cô cảm nhận được cái nhìn ấy. Chẳng mấy chốc cô đã nhìn đáp lại người đàn ông mặc đồ đen với mái tóc đen nhánh và đôi mắt thông minh kia. Sự lịch lãm và tử tế toả sáng nơi anh. Tâm hồn tự do của cô đã bay đến chỗ anh. *** - Lúc cố gắng thì con học rất giỏi. Thầy hiệu trưởng đã muốn lấy con ra làm gương cho các bạn. Cậu bé bừng tỉnh khỏi cơn mơ màng, mẹ cậu vẫn đang nói. - Con sẽ phải lao động chân tay nếu con không chịu đi học. - Bố cậu buồn bã thêm vào - Bố mẹ đã tốn quá nhiều tiền của để cho con đến trường, con biết mà. Đa phần bọn con trai không còn được đi học từ lúc bé hơn con nhiều. - Con sẽ... - Cậu ấp úng. - Con sẽ đến trường. Ngày mai. Bà Rose treo mũ lên chiếc móc nằm bên dưới ô cửa sổ đen đúa vì bồ hóng trông ra con hẻm. Bà quay lại, tay chống nạnh, hai bàn tay co thành nắm đấm trên những nếp li đã sờn của chiếc váy vải bông. Nó nằm xuôi theo người bà vì không còn khung váy bên dưới để tạo độ phùng. Mái tóc vàng của bà đã bắt đầu ngả màu xám. Bà đưa hai bàn tay ra ôm lấy khuôn mặt của Sherlock, nhìn sâu và mắt cậu, rồi hôn cậu. - Để mẹ làm ít thức ăn cho cả nhà. Bà luôn đi chợ vào cuối ngày, khi có thể mua đồ ăn với giá rẻ. Bà lôi từ trong chiếc làn ra vài củ cà rốt và hành tay, một nửa ổ bánh mì cùng với củ khoa tây đã thâm, đặt tất cả lên chiếc bàn gỗ nhỏ ở giữa phòng, nơi bà chuẩn bị bữa ăn. Tất cả sẽ được cho vào nồi hầm. Ông Wilber treo áo khoác lên một cái móc khác, rồi nới lỏng cà vạt. Trông ông có vẻ mệt mỏi. Ông luôn cố gắng nhìn sự việc một cách lạc quan, nhưng những khi cố mỉm cười thì đôi mắt đen của ông thường xuyên phản chủ. Rút cái kính từ trong túi ra, ông ngồi xuống giường con trai và với tay lấy một cuốn sách. Có chừng một tá sách xếp thành hàng trên kệ, gần tầm tay nhất luôn là hai cuốn Các loài chim Anh quốc và Chuyến bay của những con chim. Chắc ông đã đọc chúng hằng trăm lần rồi, nhưng ông vẫn cứ đọc mãi. Phần lớn đàn ông dành thời gian buổi tối để bù khú trong các tửu quán quanh đây. Wilber Holmes lại không thích lui tới những nơi đó. Ông chỉ bay lên trời cùng những chú chim. Sherlock yên lặng ngồi cạnh ông, trong lòng cắn rứt vì tội không đến trường, nhưng vẫn đắn đo về việc quay trở lại đó. Mọi suy nghĩ của cậu vẫn còn đang lang thang ở tận đâu, quyến luyến với buổi gặp gỡ định mệnh của bố mẹ cậu tại nhà hát, buổi gặp gỡ vừa tạo ra cuộc đời cậu, lại vừa phá hủy nó. ... Đêm hôm ấy, sau khi những giai điệu cuối cùng vang lên, chàng Do Thái chậm rãi rời khỏi nhà hát, trong khi cô tiểu thư chạy vội khỏi lô ghế của mình, nóng lòng muốn kể cho cha mẹ nghe về vở diễn mới nhất của Rossini. Một người đi loanh quanh bên ngoài cửa trước, ngoái nhìn để hình dung lại sự xa hoa mà anh vừa chứng kiến. Người kia chạy vội ra, tìm kiếm cỗ xe của mình. Cú va chạm nhẹ nhàng xảy ra. Anh lấy tay đỡ cô. Sự việc làm cha mẹ anh sợ cuống lên, còn cha mẹ cô thì nổi giận đùng đùng. Không thể thế được, họ bảo cô thế. Cô không biết địa vị của mình. Không có người nhà Sherrinford nào được kết hôn với thằng Do Thái kia. Đôi trai gái đã bị răn đe đủ đường. Sau khi bỏ trốn sang Tô Cách Lan, hai người quay về tay trắng. Cha mẹ cô đã khước từ quyền thừa kế của con gái. Cơ hội giảng dạy tại trường đại học của anh cũng biến mất một cách đầy bí ẩn như quá trình anh giải mã những vấn đề khoa học. Thế là họ dọn đến sống Southwark, phía nam sông Thames, trong căn hộ ở bên trên một cửa tiệm bán nón. Cô trở thành vợ một người Do Thái nhập cư thất nghiệp và nhận việc dạy hát cho con cái các gia đình thượng lưu, khi túng thiếu thì nhận may thêm ở nhà. Wilber đáng lẽ đã có thể dạy các môn khoa học cơ bản ở một trường tiểu học trong thành phố, nhưng Đại học Luân Đôn sẽ không bao giờ chứng nhận cho anh để tạo danh tiếng cần thiết. Người cha vợ anh muốn như vậy. Vậy nên trong vài năm đầu anh làm gia sư cho con em các thợ thuyền tại nhà, sau đó đi xa hơn xuống phía nam để nhận một việc làm được trả thấp hơn so với việc dạy học, nhưng anh rất thích, tại Cung Pha lê, nơi anh đã thấy những con chim được huấn luyện biểu diễn thành từng đàn trước đám đông khán giả. Người ta cần một người có hiểu biết để chăm sóc hàng ngàn con chim bồ câu trắng, đàn chim hòa bình. Hai vợ chồng đến với nhau chẳng có gì ngoài tình yêu. Họ có ba người con: Mycroft, chào đời tám tháng sau khi đám cưới, bảy năm sau đó là Sherlock, rồi Violet - cô bé đã qua đời trước khi tròn bốn tuổi. Hiện tại thì người con trai lớn đã đi làm công chức với một công việc bèo bọt, họa hoằn lắm mới ghé nhà. Người con thứ, đứa trẻ khác thường, bị bỏ lại một mình. Cậu đi học ở một ngôi trường thấp kém dành cho trẻ em nghèo lúc bố mẹ không thể làm khác được, sau đó thì vào trường công khi họ đã khá hơn đôi chút. Sherlock rất yêu quý bố mẹ mình, mặc dù họ cho cậu một cuộc sống khổ cực. Đáng lẽ cậu đã có thể là một ai đó. Cậu căm ghét những gì mà con người ta làm với nhau. Vì sao bất công và tội ác cứ tồn tại dai dẳng như lớp sương mù vàng vọt bao phủ trên thành phố kinh khủng và vĩ đại này? Vì sao kẻ nào đó lại đi sát hại một cô gái trẻ đẹp trong ngõ hẻm giữa đêm hôm khuya khoắt? FEEN MẮT QUẠ TINH TƯỜNG Shane Peacock dtv-ebook.com Typer: Feen Chương 3: Điềm Báo Trên Không Ông Wilber Holmes gấp mạnh quyển Chuyến bay của những con chim lại và cố gắng nhét nó vào kệ sách, nhưng rồi đành cầm nó trong lòng. Ông thử làm cho mọi việc đỡ căng thẳng hơn. - Con kể cho bố nghe ngày hôm nay của con đi. Thật ra con đã làm gì? Bố không mắng đâu. - Con đã đến quảng trường Trafalgar. - Lại nữa à? - Dạ. - Có gì đặc biệt không? - Ông Wilber trông thấy bài báo giật gân mà cậu con trai đang nắm chặt trong tay. Đó không phải là loại báo mà ông quan tâm. - Đêm hôm qua có một vụ án mạng kinh khủng đã xảy ra. Ông Wilber che miệng ngáp. - Lại nữa à? - Vụ này thì khác. - Còn gì nữa? - Có, những con quạ ở quảng trường. - Thật à? - Đôi mắt ông Wilber sáng lên và tập trung nhìn thẳng vào mắt cậu con. Ông vặn vẹo người trên chiếc giường chật chội - Con biết không, trong số các loài chim, có lẽ quạ là loài thông minh nhất đấy, trừ loại quạ lớn. Chúng có tỉ lệ não so với cơ thể lớn nhất trong số các loài chim. Bà Holmes đưa mắt nhìn hai người trong khi cắt rau củ với một con dao hàng thịt quá khổ trên chiếc bàn gỗ. - Quạ khiến em rùng mình. Chúng ăn xác chết và phát ra những tiếng kêu kinh khủng. Trong vở Macbeth, lũ quạ bay mòng mòng quanh những cái đầu phù thủy. - Chúng bị lên án là loài ăn xác chết. Nhưng em ạ, loài quạ đen ăn xác thối còn khôn hơn cả cáo. Một vài đồng nghiệp của anh từng nói quạ có khả năng nhận diện con người, phân biệt người này với người khác cơ. Bây giờ thì chuyện đó đã khá rõ ràng rồi. Sherlock đứng dậy, đi qua chỗ cái bàn. Một cái chậu thiếc to nằm trên bàn, đựng nước đầy đến phân nửa, cạnh chỗ mẹ cậu đang làm thức ăn. Cậu bưng nó xuống và đặt gần ngọn lửa, nơi mẹ cậu sẽ cần dùng đến. Khi bà nhìn đi chỗ khác, cậu nhanh tay xoáy một mẩu cà rốt rồi mở cửa bước ra ngoài chiếu nghỉ ọp ẹp. Mưa đã ngừng rơi. Trời tối dần. Những ngọn đèn đường từ thượng Borough yếu ớt soi sáng màn sương mỏng. Những ngôi nhà chen chúc nhau trên dãy phố, mỗi cái đều có một khoảnh sân nhỏ tí với tường rào bao quanh. Một cái cây hấp hối, cái cây duy nhất của khu phố, gần như chiếm hết chỗ trong sân nhà của tiệm bán nón. Hai con chim đen đang đậu trên đó. Lũ quạ. Chúng đã bay theo cậu. Bộ lông vũ đen tuyền của chúng trông bóng nhẫy và tả tơi. - Corvus corone(1). Bố cậu nói. Ông đang đứng ngay trên ngưỡng cửa phía sau Sherlock. - Những con chim đẹp thật đấy. Loài chim khôn ranh. Chúng làm bạn với nhau trọn đời. Một hòn đá bay vèo qua sân về phía lũ quạ. Chúng lập tức cất cánh bay mất. Thêm một hòn đá nữa vẽ một đường vòng cung trong không khí về phía lũ chim. - Mấy cái đứa này! - Sherlock hét lên, liều mạng nghiêng người ra khỏi hàng lan can mỏng mảnh để tìm thủ phạm. Dưới con hẻm, cậu trông thấy hai thằng oắt con đang liếc lại mình. - Biến đi! - Bọn quỷ đen cùng lũ Do Thái chỉ làm bẩn thêm chỗ này! - Một đứa gào toáng lên trong lúc cả hai chạy biến đi. - Vào nhà đi con! - Bà Rose nhẹ nhàng nói, sau khi bước ra ngoài nhìn mấy con chim. - Bữa tối sắp xong rồi. Sherlock nhìn theo hai con quạ bay xa dần. Bầu trời Luân Đôn mỗi lúc một tối. Lũ chim biến vào bóng đêm. Cậu nhận ra một điều gì đó. Vào trong nhà, Sherlock lục lại tờ Cảnh sát nhật báo, cậu giở nó ra và quan sát bức vẽ. Vẫn là người phụ nữ xấu số nằm trên nền đá. Nhưng gì thế này? Ở trên đầu bức tranh, không xa tử thi, người họa sĩ đã vẽ một thứ gì đó màu đen bằng nhiều nét bút. Sherlock cúi đầu xuống nhìn hình vẽ nhỏ xíu trong bóng tối. Đó là một con quạ. FEEN -------------------------------- (1) Tên khoa học của loài quạ đen MẮT QUẠ TINH TƯỜNG Shane Peacock dtv-ebook.com Typer: Feen Chương 4: Kẻ Sát Nhân Sáng hôm sau, Sherlock định bụng sẽ đến trường, nhưng đám đông ồn ào cứ lôi cuốn cậu vào thành phố như một cơn cuồng phong. Chỉ một ngày nữa thôi, cùng lắm là hai, rồi cậu sẽ đi học lại một cách đàng hoàng. Cậu đi theo lộ trình quen thuộc đến quảng trường Trafalgar, thỉnh thoảng lại ngoái nhìn phía sau, sợ bị theo dõi. Nhiều lần cậu giật thót người khi thấy một ông thầy giáo, một người bán hàng rong, thậm chí cả một ông bán nón già với đôi mắt vằn đỏ và khuôn mặt cau có nữa. Nhưng ở bên kia dòng sông là cả một kho báu đang chờ đợi cậu. Mắt nhìn dáo dác(1) như mọi khi, cậu thấy một ấn bản buổi sáng của tờ Cảnh sát nhật báo bị két bên dưới cái ghế nằm ở rìa chiếc xe ngựa kéo hai tầng đang lọc cọc len qua dòng xe cộ tiến về phía cậu. Tờ báo bị bỏ lại ở đó và không ai trên xe buồn để ý đến. Nhiều người điều khiển xe đang gò cương, còn những bà ngồi trong xe thì đang nhìn thẳng về phía khu giáp ranh ồn ào. Làm thế nào mà người ta lại bỏ rơi một tờ thông tin đáng giá đến thế kia chứ? Cậu bước xuống lòng đường, tiến về phía dòng ngựa xe đông đúc, rồi đặt một bàn chân lên mặt sàn phía sau người điều khiển và nhảy lên tóm lấy tờ báo. Không có bộ mặt râu ria đội mũ chóp đen nào buồn quay lại. Nhét tờ báo vào trong áo khoác, cậu biến vào trong dòng xe cộ và băng qua đường về phía bắc, trước khi xem xét thứ mình vừa đoạt được. Cậu rất thích đoạn phố Fletch này vì nó có tòa soạn của các tờ báo lớn. Cậu đã hai lần nhìn thấy ông Gladstone rầu rĩ, đối thủ của Disraeli và từng là Bộ trưởng tài chính. Ông ta có hai bên tóc mai lùng phùng, cây gậy chống trong tay, và một chiếc mũ hoàn hảo trên cái đầu đầy tri thức. Tuần trước cậu đã nhìn thấy ngài Farini vĩ đại, người đã đi trên dây qua thác Niagara. Diễn viên đu bay được ông bảo trợ, cậu bé viên đạn El Niño, đi bên cạnh ông. Nhưng hôm nay cậu chẳng thấy ai quan trọng, vì trang đầu của tờ báo đã làm cậu không rời mắt khỏi nó: "KẺ SÁT NHÂN ĐÃ BỊ BẮT!". Bên dưới tiêu đề lát bức hình xấu xí vẽ người thanh niên có tên là Mohammad Adalji, với một chiếc mũi khoằm to tướng và làn da sẫm màu. "Dường như một tên Ả rập đã làm chuyện bẩn thỉu đó" là câu đầu tiên của bài báo. Sherlock đọc lướt: "... sống ở cách hiện trường chưa đầy năm khối phố... được tìm thấy với một con dao đồ tể... máu... sẽ bị tạm giam hôm nay vào lúc 9 giờ sáng... tòa án Old Bailey." Sherlock nghe thấy tiếng boong xa xôi từ tháp đồng hồ Big Ben vọng đến ngay khi cậu vừa vo tờ báo lại. Chín giờ đúng. Tòa án Old Bailey chỉ cách đây có vài phút. Cậu chạy vội đi. Khi cậu đến nơi, đám đông vẫn còn đang tụ tập tràn ra mặt đường chờ đợi tên giết người. Sherlock chen lên hàng đầu trong khi nghe những tiếng nguyền rủa gã Ả rập và tội ác kinh khủng của hắn. Một vài người còn cầm cả rau thối và gạch vỡ trong tay. Gần một tá cảnh sát Luân Đôn căng thẳng đứng ở gần đó, tay lăm lăm những chiếc dùi cui màu đen cứng như đá. Ở mạn bắc của tòa án Old Bailey lù lù nhà ngục Newgate, nơi "gã Do Thái" Fagin đã bị giam giữ. Gã là một nhân vật trong cuốn tiểu thuyết ưa thích của Sherlock, cuốn Oliver Twist của Dickens. Đoạn đầu đài luôn được đặt ngay phía trước cửa chính của tòa nhà âm u không cửa sổ đó. Vào những phiên treo cổ, các đường phố ở đây đen kịt người - đám đông dự khán trải dà hút tầm mắt. Để giành được những chỗ tốt nhất, người ta phải trả giá đắt. Ngài Dickens thường xuyên xuất hiện đâu đó trong đám đông. Chẳng bao lâu sau, hai con ngựa kéo theo một chiếc xe lớn xuất hiện trên đường: chiếc Black Maria đáng sợ, vốn được dùng vào việc chuyên chở những tên tội phạm gian ác nhất. - Ló đấy! - Bắt ló đi! - THẰNG SÁT NHÂN! Khi Adalji tay chân bị xích bước xuống phía sau thùng xe, loạng choạng vì bị các cai tù Old Bailey đẩy thô bạo, thì một loạt những vật thể bẩn thỉu bay về phía anh ta. Một người còn đánh vào mặt tên tội phạm, khiến anh ta phải cúi đầu xuống. Người khác đá vào háng làm anh ta nhăn nhó gập người lại. Những viên cai tù lôi anh ta về phía cánh cổng, kéo dang hai cánh tay như muốn phơi anh ta ra trước đám đông. Sherlock nhìn thấy khuôn mặt của người bị buộc tội. Cậu choáng váng, tự hỏi liệu Mohammad Adalji đã tròn mười tám tuổi hay chưa. Làn da anh ta sáng hơn trong hình vẽ, mũi cũng nhỏ hơn. Trông anh ta có vẻ kinh hoàng tột độ. Đôi mắt Adalji hoảng loạn dè chừng đám đông, phản chiếu sự căm thù mà anh ta đang phải hứng chịu. Anh ta nhìn thấy Sherlock và trong mắt thoáng hiện lên ánh thân thiện. Theo bản năng, anh ta quay người thử bước tới. Một người đàn ông to lớn trong đám đông thò chân ra ngáng đường. Anh chàng Ả rập loạng choạng, cố giữ thăng bằng, nhưng một người khác đã xô anh ta ngã xuống, gần như đè lên Sherlock. Anh ta ngã sấp mặt xuống một trong hai chiếc ủng cũ được đánh bóng kĩ của cậu bé. Khi anh ta đứng dậy, ánh mắt họ giao nhau. Nước mắt lăn trên má người thanh niên Ả rập. - Tôi không làm chuyện đó. Cảnh sát lôi Adalji đi. Một người trong số họ nhận thấy tên tội phạm đã thì thầm gì đó với cậu bé và liếc nhìn cậu với ánh mắt nghi ngờ. Anh ta nói chuyện với một người đồng đội, rồi ngước mắt nhìn lên trời. Những con quạ đang bay lòng vòng. Người Ả rập cũng đã nhìn thấy chúng. Sự kinh hoàng xuất hiện trên gương mặt anh ta. - Cút đi, mấy con quạ quái quỷ! - Người đàn ông to lớn hét lên, vung tay ném một quả táo thối về phía con quạ lớn nhất. Trên đường quay trở lại quảng trường Trafalgar, Sherlock không thể xua những lời nói của anh chàng người Ả rập ra khỏi đầu. Cậu đã lường trước cảnh tượng chấn động, nhưng nó thực sự làm cậu thấy đau lòng. Tất nhiên, cậu không thể nói điều đó với bất kì một ai. Nếu có người nào đấy thắc mắc, cậu sẽ chỉ nói đáng đời tên sát nhân. Nhưng cậu cứ nghĩ mãi. Liệu anh chàng đang khiếp vía kia có thực sự làm chuyện đó? Mải suy nghĩ, từ lúc nào cậu đã bước sang phố Strand qua lối cổng thành Temple Bar cổ kính, ngày xưa từng là nơi bêu đầu những tên phản bội. - Tôi có biết cậu không nhỉ? Một gương mặt dạn dày sương gió bỗng từ đâu hiện lên chỉ cách mặt cậu có vài centimét, phả một luồng hơi nồng mùi cá vào mũi cậu. - Tôi có biết cậu không nhỉ?! Tim Sherlock như muốn ngừng đập. Rồi cậu nhận ra đó là một người điên thọt chân mà cậu thường trông thấy ở gần Charling Cross. Bộ quần áo kinh tởm của gã được chắp nối bởi những sợi dây và mấy cái kẹp mà gã bới móc được trên bờ sông. Gã xin xỏ người qua đường bằng cách phóng đại thêm tình trạng thần kinh của mình. Theo lời đồn thì gã là một cựu chiến binh của cuộc chiến tranh Krym. Các cảnh sát hiếm khi hạ cố đưa gã đi chỗ khác. Nước dãi nhỏ xuống từ cái lợi không răng của gã, trong khi đôi mắt điên dại nhìn chòng chọc vào mắt Sherlock. Cậu né gã để đi tiếp. Tại khách sạn Morley, cậu nhìn quanh quất trong dòng xe cộ đông đúc đang lăn bánh trên mặt đường lát đá, rồi lao qua Trafalgar, khéo léo tránh các xe hàng và khoang xe ngựa hai bánh, những con ngựa có người cưỡi, và những người bán hàng cùng với xe đẩy. Lũ quạ đã quay lại. Ba con đang đậu trên khách sạn, tiếp tục công việc quan sát của chúng, còn hai con khác ngự trên con sư tử vàng chói lọi phía bên trên các cánh cổng của tòa Norththumberland House. Cậu tựa người vào bức tường đá chạm trổ chạy vòng bên ngoài khu vực chính của quảng trường, quay lưng về phía lũ quạ, suy nghĩ về tay người Ả rập. Lâu lâu cậu lại rút từ trong túi áo khoác ra một chiếc lược đã han gỉ và chải cho mái tóc đen thẳng của mình vào nếp một cách hoàn hảo. Cậu thích ngắm lũ chim gần như ngang bằng với ngắm người: chim giáo chủ, sẻ đồng, chim cổ đỏ, ác là, bất cứ con gì. Nhưng hơn hết, cậu thích nhìn chúng bay. "Đó là việc mà con người luôn ao ước có thể làm được như chúng." Bố cậu thường bảo thế. "Tất cả chúng ta đều muốn bay, vì như vậy ta sẽ được giải phóng khỏi những mối ràng buộc với mặt đất." Thỉnh thoảng, Sherlock nhìn thấy những chiếc khinh khí cầu bay qua các tòa nhà cao tầng và tháp chuông nhà thờ của thành phố như thể chúng đang trôi nổi từ một giấc mơ lạ lùng nào đó trong tương lai. Chúng không thực sự bay được, nhưng cũng gần như thế. Ôi, giá mà được ở trên đó! Cậu bồn chồn đứng thẳng người lại và băng qua quảng trường về phía Nhà Triển lãm Nghệ thuật, bước lên các bậc thang to lớn. Cậu cảm thấy buộc phải đến đây, chỗ mà cậu có thể nhìn thấy rất nhiều người giàu có. Cậu sẽ không bao giờ giàu được. Tất cả những gì cậu có thể làm là quan sát và mơ mộng. FEEN: Truyện này được đăng trên wattpad và blog riêng của mình. Nếu bạn muốn theo dõi các chap nhanh nhất, hãy vào danhgia24.blogspot.com Sherlock biết gần một phần ba trẻ con Luân Đôn không đến trường, và rất ít được tiếp tục học sau khi qua tuổi mười hai. Hầu hết buộc phải lao động hoặc tệ hơn. Cậu vẫn còn học trong ngôi trường chật chội mang tên Trường Xã hội quốc gia và quốc tế nằm ở đường Snowfields, gần ga xe lửa Luân Đôn. Ba phòng học ẩm ướt nằm trên ba tầng nhà: một cho trẻ nhỏ, một cho trẻ em gái lớn và một phòng to cho bọn con trai. Gian phòng cuối nằm ở tầng trên cùng, với trần cao như mời gọi bạn nhìn lên và trôi lững lờ vào một thế giới khác tốt đẹp hơn. Đó cũng là nơi các thầy, trợ giảng và mọi học sinh tụ họp. Cậu đã vào trường được bảy năm. Bố mẹ cậu cứ nhất định là cậu phải đọc tốt hơn các bạn khác, tính toán giỏi hơn... nói tóm lại là tư duy tốt hơn. Nhưng có một cái trần thấp hơn trần phòng học đang chụp xuống tương lai của cậu. Cậu nhớ lại những ngày đầu, trong ngôi trường xập xệ rách nát ở Lambeth, cậu ngồi tại một trong nhiều dãy bàn gỗ chật chội bên cạnh các học sinh nghèo khốn khổ. Cậu đã may mắn được chuyển từ đó đến ngôi trường mới này. Không như lũ trẻ đáng thương, chí ít cậu cũng cùng có một tương lai và chút hi vọng. Vào các dịp hè, cậu phụ giúp ông già làm nón ở cửa hiệu tầng dưới, góp thêm chút sức lực nhỏ bé vào thu nhập của gia đình. Phải nói là cậu đã làm rất tốt. Một ngày nào đó cậu có thể trở thành một người phụ việc, một viên kế toán, hay một giáo vên, không hơn. "Nhưng con cứ nhìn Disraeli mà xem," bố cậu hay nói với cậu "rồi một ngày ông ấy sẽ trở thành thủ tướng, con hãy nhớ lấy lời bố. Những người Do Thái khác cũng sẽ tìm được chỗ cho mình. Bây giờ người ta đã cho chúng ta ngồi vào Quốc hội. Năm nay là năm 1867 rồi! Hồi bố còn bé, tình hình tồi tệ hơn nhiều." Nhưng Benjamin Disraeli không phải là mẫu người Do Thái như Sherlock, hoặc giống bất kì người nào mà cậu biết. Những người thành công như gia tộc Rothschild và gần đây là ngài thị trưởng Luân Đôn chưa bao giờ sống trong khu ổ chuột Southwark hay Whitechapel; họ không phải là con lai; cha mẹ họ không phải chịu một sự trượt dốc. Trên thực tế, Disraeli xuất thân từ một gia đình trung lưu và được rửa tội trong nhà thờ Anh quốc. Cuộc đời ông đầy ắp các cơ hội. Và mới vừa rồi cậu đã nhìn thấy con người vĩ địa đó với một cái mũi dài quái gở và bị vẽ biếm họa thành Fagin trong tờ tạp chí Punch mà cậu tìm thấy trên phố. Lũ con trai thường gọi Sherlock Holmes là Judas, hay Giẻ rách, cái tên dành cho những người Do Thái bán hàng rong trên phố. Cậu là một đứa bé cô độc, ít nói, dường như cậu chỉ đọc và ngẫm nghĩ. Cậu mặc những bộ áo kì quặc với áo chẽn (loại áo không ai mua ngoài chợ) cũ rích, nhưng sạch sẽ hết mức có thể. Đó là cách duy nhất để cậu trở thành một người khác, mặc dù nó chỉ càng khiến cậu tách biệt hơn mà thôi. Cậu đã có vài lần đánh nhau tại Snowfields. Sherlock không chịu thua hoặc để cho những đứa khác bỏ đi mà không bị trừng trị vì những lời lẽ độc địa mà chúng đã nói. Nhưng một số vẫn tiếp tục nhạo báng cậu. Chúng tức tối khi cậu đứng nhất lớp, ganh tị với đầu óc nhanh nhạy của cậu. Có một vụ đánh nhau làm cậu bực mình hơn mọi lần. Nó xảy ra cách đây gần một năm. Một thằng đầu gấu trong trường đã chế nhạo cậu nặng nề tới mức cậu đã thách nó đánh nhau với mình ngoài phố. Một đám đông đã bu lại xem. Đối thủ của Sherlock là một thằng Anh thuần chủng to xác nặng bảy mươi kí. Ngay từ cú đầu tiên Sherlock đã bị hạ gục và thằng kia đè lên, ghì chặt hai tay cậu xuống vệ đường cho đến khi chúng gần như gãy lìa. Thằng bé nhổ lên người cậu rồi tát vào mặt cậu trong khi những đứa khác đứng nhìn và cười. - Bất nực rồi hả, thằng Do Thái? Bất nực hoàn toàn nhá! - Thằng bé kia hét lên. - Mày cứ việc hả hê với điểm số của mày và mặc những bộ đồ thế này thế nọ, nhưng mày sẽ chẳng được cái trò trống gì. Mày muôn đời sẽ chết gí ở dưới đáy, mày đáng bị như thế! Cuối cùng thằng bé to xác cũng thả tay cậu ra và leo xuống khỏi người cậu. Sherlock không đứng dậy. Mặc đám đông đứng nhìn, cậu cứ nằm thẳng cẳng trên đường phố, cho đến khi mọi người tản đi hết. Trước trận đánh đó có lẽ lâu lâu cậu mới nghỉ học một buổi một tuần, nhưng từ lúc ấy trở đi, kết quả học tập của cậu tụt dốc thê thảm. Cậu cố gắng đến trường vì biết mình mắc nợ bố mẹ về việc đó. Nhưng cậu không thể. Giáo dục có thể đưa người ta đến đâu đó. Nhưng nó đã đưa bố cậu đến đâu? Truyện được đăng tải trên wattpad và blog của mình, không khuyến khích các hành động repost truyện sang những nơi khác. Truyện được cập nhật nhanh nhất tại: danhgia24.blogspot.com . . . Một con sẻ cánh vàng bay ngang qua bầu trời xám xịt. Không khí đã lạnh xuống, và có vẻ như trời lại sắp mưa. Sherlock nghĩ đến vụ án mạng. Tờ Cảnh sát nhật báo mới vẫn còn đang nằm trong túi Sherlock. Cậu chưa kịp đọc kĩ nó, chỉ mới liếc nhanh qua tiêu đề và vài dòng về Mohammad Adalji. Cậu rút tờ họa báo ra và lật sang trang thứ hai. Trên đó có bức vẽ kinh khủng của tờ báo ngày hôm qua. Máu. Người phụ nữ. Con quạ. Câu chuyện kéo dài qua trang tiếp theo, với thêm một hình nạn nhân được vẽ cho bạn đọc xem. Đôi mắt đẹp của cô ta trông như đôi mắt của mẹ cậu trong bức tranh nhỏ ở đầu giường. Danh tính người phụ nữ vẫn chưa được tiết lộ. Cậu đọc tiếp. Đây là một vụ án rõ như ban ngày. Không nghi ngờ gì nữa, anh chàng người Ả rập đã làm vụ này. Cảnh sát đoán chắc về điều đó. Một ông thanh tra kì cựu có tên là Lestrade chịu trách nhiệm điều tra vụ này. Chúng tôi tìm thấy hắn cách hiện trường gây án không xa, tay dính máu, một con dao đồ tể giấu dưới áo khoác. Cô gái không phải là một người giàu có, nhưng cũng khá chưng diện. Thủ phạm chắc hẳn đã nghĩ nạn nhân có nhiều tiền. Có nhiều dấu hiệu cho thấy hắn đã cuỗm bóp tiền của cô gái, mặc dù chúng tôi chưa tìm ra nó. Có lẽ hắn đã chôn nó ở đâu đó. Các dấu vết đã được tìm thấy tại hiện trường. Chúng tôi sẽ thẩm vấn thủ phạm, tra hỏi hắn một cách khéo léo. Cái bóp sẽ đuộc tìm ra. Và hắn sẽ phải bị treo cổ vì điều này. Xa hơn bên dưới trang báo, Sherlock đọc được rằng phiên tòa luận tội người Ả rập sẽ diễn ra trong ba tuần lễ nữa. Án phạt sẽ được thi hành ngay sau đó. Đồng hồ đếm ngược cho cuộc đời của Mohammad Adalji đã bắt đầu chạy. Chuông đồng hồ Big Ben điểm năm giờ chiều, nghe như một tiếng cồng dội tới từ một đất nước khác đối với Sherlock. Cậu đứng dậy và máy móc đi về phía dòng sông. Chưa đi được bao xa thì cậu lại nhận thấy lũ quạ lảng vảng bên cạnh. Hai trong số chúng bay trên đầu cậu, nhưng rồi đổi hướng bay đi. Sherlock quyết định đi theo. Đáng lẽ cậu nên về nhà, nhưng có gì đó đã thôi thúc cậu đi theo lũ quạ. Lũ chim bay về phía khu phố cổ của Luân Đôn, khu vực nội thành thực sự, nằm trong vòng tường thành Luân Đôn cổ xưa, nơi những con phố ma quái lượng vòng quanh như bầy rắn trườn vào trong hang. Ngày nay ở đó toàn là các nhà băng, nhưng trước đây nó từng là nơi những người La Mã sinh sống, nơi người Viking và các lãnh chúa Saxon cai trị. Ở đó các phù thủy kể những câu chuyện ghê rợn, và những con người thời trung cổ bất hạnh bị quất roi tra tấn công khai trước mặt mọi người. Lũ quạ bay, rồi nghỉ, nghỉ rồi lại bay. Đi theo lũ chim khiến cậu có một cảm giác kì lạ... như thể cậu đang đi cùng với những con chim của quỷ. Chúng đi đâu đây? Ban đêm chúng nghỉ ở đâu? Thường thì chúng đi tìm các cây cao. Chẳng bao lâu sau, tháp Luân Đôn với nhà ngục nổi tiếng của nó đã hiện lên bên phải cậu, về phía sông Thames. Sau khi nó biến khỏi tầm mắt, lũ quạ bắt đầu bay sà xuống. Lúc này cậu đã đi về phía đông được một đoạn xa, đến một khu vực toàn dân lao động. Ở đây các cửa hiệu bán quần áo, các nhà làm nến, những người bán rong và xe đẩy có mặt ở khắp nơi. Đây là một khu dân nhập cư thậm chí còn nghèo hơn khu nhà cậu. Con đường rộng không đến nỗi tệ. Nhưng vào sâu trong những con phố nhỏ, cậu nhìn thấy những con người cùng quẫn đang đi lang thang, nhiều người đi chân trần, những người khác thì nằm vạ vật cạnh những ngôi nhà ám đầy bồ hóng. Cậu cũng nhìn thấy những người Do Thái, khá đông đảo, một số bán quần áo, với những bộ râu dài và cả chồng mũ trên đầu. Những ngôn ngữ cậu không hiểu được vang lên khắp nơi. Không có đèn đường hơi đốt tại những lối đi sâu trong này. Chẳng bao lâu sau mặt trời sẽ tắt dần và màn sương mù Luân Đôn nổi tiếng sẽ bắt đầu ập xuống, rời khỏi những con đường chính. Cậu đi qua một con phố có tên Gouldston. Lẽ ra cậu không nên ở đây. Những người đàn ông có bộ dạng đáng sợ vượt qua cậu, nhìn chòng chọc vào cậu. - Thằng khờ! - Cậu nghe thấy một người có làn da sẫm đội mũ lính thủy thì thầm với một người khác. Sherlock tập trung nhìn vào lũ quạ. Nhưng đột nhiên chúng biến mất. Chúng đã đáp xuống đâu đó bên trái cậu, ở phía trước, cách một quãng. Cậu bắt đầu cảm thấy lạc lối. Những nhánh hẻm hai bên nom tối thui như những cái hang sói. Cậu dừng bước trước một con phố chật hẹp... Old Yard... đây là chỗ mà cậu đoán những con chim đã bay vào. Hai bên lối vào là các cửa tiệm. Những tầng lầu phía trên được xây đối xứng bên trên các con phố nhỏ. Sherlock hít một hơi thật sâu và đi vào, tim cậu đập dồn dập. Con phố trông như một đường hầm. Những tòa nhà hai tầng chồm qua đường đi, che khuất mặt trời đang lặn. Những đứa bé dơ dáy ăn mặc rách rưới từ đâu bỗng xuất hiện, xin xỏ với đôi mắt van nài và hai bàn tay chìa ra hết cỡ. Những đứa khác sắp ngay ngắn trên vỉa hè tăm tối bẩn thỉu những đôi giày gớm ghiếc, hi vọng sẽ bán được chúng. Bọn trẻ bốc mùi như vừa tắm trong hố nước thải. Nhiều đứa ho dữ dội, da tái mét. Đây là một trong những khu vực mà bốn năm gia đình chen chúc sống trong những căn hộ một buồng. Đã đến lúc đi về. Muộn quá rồi. Nhưng cậu lại nhìn thấy lũ quạ ở sâu trong một con hẻm không người. Chúng đang làm gì vậy? Cậu chỉ lờ mờ nhìn thấy lũ chim. Chúng đang đậu ngay trên mặt đất, khật khưỡng đi lại trên lớp đá ở sâu bên trong con hẻm, chỗ tranh tối tranh sáng. Cậu nhìn tên đường trên căn nhà gạch ở góc phố. Nó có vẻ quen quen. Cậu không rõ tại sao nữa. Sherlock ngập ngừng. Cậu đang ở trong một khu vực mà bố mẹ cậu không bao giờ cho phép con mình bén mảng đến chứ đừng nói là đi vào. Cậu đã muộn giờ về quá rồi. Chắc hai người sẽ tuốt xác cậu khi cậu về đến nhà mất. Cậu nghe thấy tiếng những con quạ rì rầm. Cậu quay người đi vào sâu trong hẻm. Những cánh cửa gỗ ở hai bên hẻm đều đã bị bít kín bằng ván. Trông chúng như lối vào của những chuồng ngựa đã bỏ không từ lâu. Im lặng đáng sợ bao trùm. Sherlock cẩn thận dò từng bước một, như thể một ai đó có thể lao ra từ sau những cánh cửa và thộp cổ cậu vậy. Cậu nghe thấy tiếng quạ kêu trong màn sương mù vàng vọt. Tại sao lũ quạ lại ở dưới đất? Cậu tiến lên. Lũ chim không nhúc nhích. Bây giờ cậu gần như có thể giẫm lên chúng. Lũ quạ đang mổ một thứ gì đó trên những phiến đá lát đường. Sherlock cúi xuống. Mặt đá có màu xám ngoét, nhưng ở nơi lũ quạ đậu, trông nó khang khác, như thể nó đã bị nhuộm trong... máu. Rồi Sherlock hiểu ra vì sao cậu biết tên gọi của con hẻm này. Cậu đã đọc nó nhiều lần trên báo trong những ngày vừa qua. Vệt màu đỏ chính là máu người. Cậu đang đứng ngay ở chỗ mà người phụ nữ đã bị sát hại! ---------------------- (1) Theo bản gốc là dáo giác, nhưng mình nghĩ từ dáo dác nghe hợp lí hơn nên đã sửa đổi nó. FEEN MẮT QUẠ TINH TƯỜNG Shane Peacock dtv-ebook.com Typer: Feen Chương 5: Miền Vĩ Cầm Sherlock chạy hết tốc lực từ khu East End về, cậu chạy như thể cố thoát khỏi mọi thù hằn trên thế giới, khỏi những cung cách tàn bạo mà con người đối xử với nhau, khỏi bất cứ kẻ nào đã sát hại người phụ nữ kia. Tối đó nằm trên giường cậu không tài nào ngủ được. Cậu cứ nghĩ mãi về cảnh tượng đã trông thấy trong con hẻm: lối đi tăm tối, những con quạ đang mổ như thể có kẻo nào đã đứng ở đó, trong màn sương mù, quan sát nhất cử nhất động của cậu. Bây giờ thì cậu lại thấy xấu hổ. Tại sao cậu lại sợ đến thế? Liệu cậu có đủ can đảm chiến đấu với ma quỷ nếu cậu có thể giúp đỡ người ta? Liệu cậu có thể làm điều gì đó hay không? Cậu chỉ là một thằng bé. Nhưng nếu như anh chàng người Ả rập không làm chuyện đó thì sao? Nếu như người ta sắp treo cổ một người vô tội thì sao? Nếu như một kẻ nào đó sắp thoát thân với một thành tích còn bất hảo hơn những cuộc ẩu đả trong sân trường... một vụ án mạng chẳng hạn? Sẽ chẳng có ai làm gì cả. Sáng hôm đó Sherlock thức dậy với hai mắt thâm quầng. Lẽ ra mẹ cậu đã trông thấy, nhưng bà đi sớm vì có ba buổi dạy hát: một ở Belgravia, hai ở Mayfair. Bố cậu cũng phải đi sớm. Mỗi sáng ông đi bộ năm dặm đến Cung Pha lê, tối lại đi bộ trở về. Cậu ngồi bên chiếc bàn nhỏ, thẫn thờ nhìn trong khi ông ăn sáng với một tô cháo và một tách trà nóng. Ông đang đeo kính, chiếc áo khoác đen cũ sờn đã được bà Rose giặt sạch sẽ hết mức, bộ râu đen của ông được cắt tỉa gọn gàng. Khi về nhà muộn đêm hôm qua, Sherlock đã thú thật với bố mẹ là mình đã đi lại vào khu trung tâm Luân Đôn (mặc dù không nói là cậu đã đi đâu sau đó). Cậu đã xin được nghỉ học thêm một ngày nữa, và hứa sau đó sẽ đến trường hàng ngày. - Con chào bố. - Cậu bé nói. Cậu nhìn vào trong chiếc gương nhỏ của họ để chắc chắn mái tóc của mình vào đúng nếp. Ông Wilber đáp lại, không buồn ngẩng đầu lên: - Ừ, Sherlock. Ngủ ngon không con? - Có ạ. Con cám ơn bố. - Cậu ngồi xuống. - Bố cảm thấy con có điều gì thắc mắc. Bố cậu là như thế. Ông như có giác quan thứ sau trong mọi việc. - Bố còn nhớ bố con mình đã trò chuyện về lũ quạ ngày hôm qua không ạ? - Còn - Ông Wilber tập trung cái nhìn vào cậu con trai - Bố còn nhớ. - Bố đã nói là chúng rất khôn. - Cậu bé nói, hơi chồm người tới trước. - Đương nhiên rồi. - Rằng chúng là loài ăn xác thối. - Không may là như thế. Chỉ tổ làm cho người ta có định kiến về chúng. - Rằng chúng có khả năng nhận diện con người. Còn gì nữa không ạ? Ông Wilber cất cái tô lên kệ. Đầu óc ông bắt đầu nghĩ tới công việc của ngày hôm nay. - Ý con là thế nào? - Chúng còn có khả năng khác thường nào nữa không ạ? Ông Wilber đã quay ra cửa, nhưng ông dừng bước và mỉm cười nhìn cậu con trai. Dạo sau này ông và Sherlock không có dịp trò chuyện lâu với nhau như trước đây, khi ông từng truyền đạt mọi hiểu biết cho con trai mình, huấn luyện cho cậu cách sử dụng bộ não như một món vũ khí. Thật tuyệt vời khi được nghe cậu con trai đặt câu hỏi trở lại. - Xem nào, một vài đồng nghiệp của bố tin rằng quạ có thể nói chuyện, hay ta có thể nói là... chúng có thể giao tiếp rất tốt. - Còn gì nữa ạ? Sherlock đứng dậy, tiến lại gần ông bố. Sáng nay cậu không muốn ăn gì hết, chỉ muốn đi càng sớm càng tốt. - Để bố xem nào... chúng thuộc một họ nhà chim vốn ưa thích những thứ lấp lánh. - Những thứ lấp lánh á? - Hình như chúng có một đầu óc tổ chức rất chặt chẽ, và nếu như có gì đó nằm không đúng chỗ là chúng lập tức bị thu hút. Những vật lấp lánh có vẻ nổi quá. Lũ quạ lao vào chúng như bị nam châm hút vậy. - Một cái nhăn trán nhẹ làm lông mày ông nhíu lại. - Điều đó cũng chẳng có lợi chút nào cho danh tiếng của loài quạ. Chúng bị coi như kẻ cắp. Một lời khuyên nhỏ cho con khi ở cùng lũ quạ này: đừng để bất cứ thứ gì có giá trị nằm lẻ loi, nếu không chúng sẽ lấy mất của con đấy. - Ông bật cười. Hai người im lặng một lúc. Ông Wilber lại quay bước đi ra cửa. - Con nghe nói quạ là điềm báo của quỷ sứ. - Sherlock lên tiếng. Bố cậu dừng phắt lại. - Con người mới làm những trò quỷ sứ, - ông đáp một cách cứng rắn - chứ không phải lũ chim. *** Sáng hôm đó, sau khi băng qua sông, cậu tiếp tục đi theo hướng bắc, xuyên qua các con phố chật hẹp. Khi đi vòng qua một góc đường, cậu nhận thấy một cái gì đó đang chuyển động trong bóng tối phía đằng trước, nơi một con đường nhỏ bắt đầu tách ra từ con đường cho xe chạy. Sau đó một băng nhóm nhỏ bắt đầu kéo đến như lũ chuột chui lên từ ống cống. Mạch máu cậu đập dồn dập. Bình thường, nếu trông thấy nhóm Bụi đời, cậu sẽ cố gắng tránh xa chúng. Hiếm khi nào chúng để cậu đi mà không dùng đến bạo lực, bất kể những lời nói hay việc làm gì của cậu. Nếu chúng bắt gặp cậu ở xa các con phố chính thì cơ may của cậu càng ít đi. Có vẻ như chúng căm thù cậu. Nhưng không phải vì dòng máu Do Thái của cậu. Không, trong nhóm chúng cũng có những đứa Do Thái. Đó là màu xanh trong các tĩnh mạch của cậu. Chúng cảm thấy cậu không phải là trẻ đường phố, không thực sự là như vậy. Việc Giáo chủ ăn nói lưu loát như thế âu cũng là điều dễ hiểu, vì xét cho cùng thằng bé là bộ não của cả nhóm, với quá khứ bí mật mà nó không muốn nói ra. Quan trọng nhất là nó biết phân phát những gì bọn trẻ cần trong thế giới ngầm. Nhưng cậu bé lai Do Thái thì không. Cậu không cùng phe với chúng, cũng không phải là đối thủ của chúng. Thằng bé thủ lĩnh, khôn lanh như một con bọ, chỉ cần nhìn Holmes là biết ngay chân tướng của cậu. Nhưng lạ một điều là Sherlock cũng cảm thấy ở đâu đó sâu bên trong đầu óc rối rắm của Giáo chủ có một sự tôn trọng dành cho cậu. Cậu cũng tôn trọng nó. Những tư tưởng tội phạm trong đầu Giáo chủ luôn được hình thành một cách xuất sắc. Sherlock bồn chồn đứng tại chỗ. Lần này cậu đang muốn nói chuyện. Bọn trẻ chạy thẳng đến chỗ cậu, Giáo chủ dừng lại, giơ một tay lên. Cả băng đồng loạt đứng lại. Có mười ba đứa cả thảy - thằng bé đầu đảng thích con số ấy. Chúng ăn mặc cũng khá, tuy bẩn thỉu và rách rưới, với trang phục gồm mũ mềm, mũ quả dưa và mũ lưỡi trai, áo bằng vải lanh đã ngả màu xám, cà vạt lụa gớm ghiếc. Tất cả đều là đồ ăn cắp được - việc bắt cóc những đứa trẻ Luân Đôn đi một mình rồi lột sạch là một sở trường của chúng - ngoài ra chúng còn móc túi những người giàu. Những phiên treo cổ là dịp hành nghề thuận lợi nhất. Từ lâu Sherlock đã xác định được thông tin cá nhân của chúng: bảy trong số chúng là dân Ái Nhĩ Lan (bao gồm cả hai thằng phó tướng đầu gấu, Grimsby và Crew), hai thằng người Uy Nhĩ Sĩ, một đứa Tô Cách Lan, và hai đứa là dân Anh gốc Do Thái. Tất cả đều là trẻ mồ côi hoặc là con em các gia đình dân lao động nghèo, lớn lên trong khu ổ chuột hay ở trên đường phố. Tất cả lộ ra trong lời nói và cung cách của chúng. Nhưng thằng cầm đầu, lớn hơn những đứa còn lại hai tuổi, thì khác. Không có đứa trẻ con khu ổ chuột nào ăn nói như nó cả. - Sherlock Holmes công tử, nếu tao không nhầm. - Chào Giáo chủ - Sherlock điềm tĩnh lên tiếng. - Mày muốn nói chuyện hả? - Thằng bé du đãng dường như đọc được ý nghĩ trong đầu cậu. - Về vụ giết người. - Lại vụ đó à? - Ừ.Có tin tức gì không? - Mày đã được cảnh báo sẽ bị ăn đòn nếu hỏi tao chuyện đó lần nữa mà. - Tay người Ả rập không làm chuyện đó. - Sherlock dũng cảm phản đối. - Đoán mò. - Giáo chủ đáp trong lúc đưa tay vuốt lại tấm áo choàng dài màu đen. - Lãnh địa của các cậu đâu có an toàn hơn khi một tên sát nhân lẩn trốn đâu đó. - Hắn đâu có lẩn trốn. - Giáo chủ nói luôn không cần suy nghĩ. - Thế à? Trông Giáo chủ như vừa bị lỡ lời. - Biến đi, Sherlock Holmes! - Thằng bé liếc qua vai về phía bọn du côn đằng sau, gật đầu với Grimsby và Crew đang bước lên. Chúng thích đánh đập các nạn nhân của mình, nên hai đứa đều cầm theo những cây gậy bằng gỗ hồ đào. Grimsby tóc đen thích nói nhiều, còn Crew tóc vàng thì ít nói. Hai đứa nhăn nhở cười với cậu bé mảnh khảnh. - Nếu nó quay gót đi ngay thì không đứa nào được đánh. - Giáo chủ nói. Hai thằng phó tướng nhún vai. Sherlock nhận thấy âm sắc Ái Nhĩ Lan trong giọng điệu của Giáo chủ trở nên rõ hơn khi nó tức lên. Hai thằng bé nhìn nhau. Cả hai đều là những đứa cao, gầy, đầu to, mặc dù thằng thủ lĩnh băng đảng nhỉnh hơn cậu bé trốn học đói ăn gần hai centimét. Trán nó dô, mắt trũng sâu trong khi Holmes có trán phẳng và mắt lồi. Cả hai đứa có cái kiểu luôn nhìn quanh quẩn, quay đầu quan sát một cách đa nghi - Giáo chủ thì như con rắn, trong khi Holmes lại giống diều hâu. Mái tóc của chúng, với màu đen như than, luôn được chải chuốt cẩn thận. Giáo chủ lần đầu tiên trông thấy Sherlock Holmes ngoài đường trước đó nhiều tháng và đặc biệt để ý đến cậu, nó bị hút về phía cậu như thể cậu là một vật thể lấp lánh. Thằng bé du đãng không thể kìm mình trong việc quấy rối cậu, nhưng đến giờ nó vẫn chưa cho phép bọn đàn em xuống tay với cậu. Sherlock Holmes quay lưng bỏ đi. Cậu đi được một nửa ô phố thì một quả cà chua thối bay vèo như viện dạn đập thẳng vào lưng cậu. Sherlock lập tức quay đầu lại. Nhưng đám trẻ đã biến mất. Cậu đứng sững người trong giây lát. "Tao nguyền rủa chúng mày!" Cuối cùng cậu văng tục, tay luống cuống chùi vệt nước đỏ trên áo khoác. "Làm sao gột sạch chỗ này đây!" - Không đứa lào được đánh nó! - Một giọng nói vẳng đến từ sau góc đường trước khi cùng với tràng cười điên dại tan biến vào bầu không khí Luân Đôn. *** Cậu lại đọc các tờ báo sáng hôm đó. Chẳng có gì mới. Cảnh sát đã quyết rồi. Cậu thấy đau lòng vì bọn họ suy nghĩ quá đơn giản và không có gì sáng tạo. Cậu ngồi ở trung tâm quảng trường Trafalgar, giữa những người khách du lịch và mấy con chim bồ câu. Cậu xoáy một ổ bánh sữa từ lũ chim xám xịt béo ú. Thỉnh thoảng, cậu nhúng cà vạt vào trong một đài phun nước và tức tối cọ vết bẩn màu đỏ trên cổ áo, cho đến khi cậu đã gần như kì cọ khắp cả bộ quần áo. Băng Bụi đời không biết ai đã giết người phụ nữ. Cậu có thể chắc chắn như vậy. Nhưng chúng biết điều gì đó. Ít nhất là thằng Giáo chủ biết. Trên đường phố Luân Đôn này không ai tinh ranh hơn thằng bé suốt ngày tính toán đó. Đám lâu la của nó không những sợ, mà còn công nhận nó giỏi hơn chúng. Sherlock không chỉ tưởng tượng ra chuyện Giáo chủ có xuất thân từ tầng lớp cao hơn, mà cậu biết điều đó. Có một manh mối không thể tranh cãi: chiếc áo choàng đen có đuôi xẻ ấy. Dù nó rách rưới và cũ rích, thằng nhóc thủ lĩnh kia vẫn mặc nó hàng ngày, như thể đó là một món đồ đáng trân trọng chứ không phải là một thứ ăn cắp được. Cái mũ chóp cùng với cây gậy chống của Giáo chủ là những thứ mà thằng bé có thể bỏ xuống đất không cần suy nghĩ, chứ còn chiếc áo choàng thì đã có lần Sherlock trông thấy thằng bé giặt trong một thùng nước mưa khi cứ tưởng là không ai trông thấy, lại còn thường xuyên đưa tay vuốt ve nó trong khi nói chuyện. Trước đây chiếc áo đó thuộc về một người có địa vị nhất định. Có những bí mật được lưu giữ trong các nếp gấp của nó. Rõ ràng Giáo chủ được thừa hưởng một năng lực trí tuệ cao hơn những đứa còn lại. Không gì ở Luân Đôn này có thể qua mắt thằng bé. Nó biết điều gì đó về vụ án mạng tại Whitechapel. Nhưng là gì mới được? Ở đó còn gì để biết nữa? Sherlock nhớ lại cảnh tượng mà cậu đã thấy tối hôm qua. Trí tưởng tượng của cậu tái hiện nó gần như hoàn hảo, và lúc ấy cậu nhận ra một điều. Những con quạ... chúng không đứng ở trên vệt máu! Chúng đang di chuyển xung quanh, như thể tìm kiếm điều gì đó, như thể... - Sherlock. Có ai đó đã nhận ra cậu, mặc dù cậu đang cúi gằm mặt. Đó là một giọng phụ nữ ấm áp mà trong một thoáng cậu chưa thể nhận ra. Thế rồi đột nhiên cậu bừng tỉnh khỏi những suy nghĩ miên man trong đầu và nhảy dựng lên. - Sherlock, mẹ đây mà - Bà Rose cười - Đừng ngạc nhiên thế chứ. Mẹ biết mẹ sẽ tìm thấy con ở ngay chỗ này. Con còn nhớ không, hôm mẹ dạy hát ở Mayfair, cách đây không xa. - Bà chỉ về hướng tây. Bà đang mặc một trong những chiếc váy đẹp nhất may bằng vải muxơlin, thắt dây chỉnh tề, trong tình trạng nguyên lành nhất còn giữ được từ hồi trước. Nó từng có màu trắng ngà. - Mẹ... con... - Hôm nay là ngày cuối cùng con không đến trường, đúng không? Cậu gật đầu. - Mẹ muốn tối nay mẹ con mình đi cùng nhau. - Bà Rose nói. Bà ngồi xuống cạnh cậu, đưa hai tay nắm lấy một bàn tay của cậu. Cậu biết điều đó có nghĩa là gì. Bà muốn đi nghe hát. Họ từng đi xem nhiều lần trước đây. Từ khi nhớ được, cậu đã được mẹ dắt đi cùng rồi. Cậu chắc chắn bà sẽ nắm tay cậu dẫn tới đó, chỗ phía sau lưng Nhà hát Hoàng gia tại Covent Garden, cách Trafalgar không xa. Họ sẽ lẩn vào bóng tối và tiến tới địa điểm của bà, nơi có một cái lò than trông ra ngoài đường. Họ có thể cúi xuống và nghe thấy âm nhạc tựa như đang ngồi trong nhà hát. Trong khi cậu lắng nghe, bà sẽ kể cho cậu câu chuyện của từng vở nhạc kịch thật từ tốn và rõ ràng, với đôi mắt ngân ngấn nước. Chiều tối hôm đó hai người ngồi nói chuyện với nhau trên quảng trường. Cậu có thể ngửi thấy mùi bia trong hơi thở của bà. Đề tài trò chuyện của mẹ cậu không bao giờ là quá khứ, mà luôn là những việc xảy ra trong ngày. Hôm nay, bà bắt đầu với những ngôi nhà to lớn mà bà vừa đến. - Cái đầu tiên nằm ở Belgravia, nhà của một vị công tước. Bà biết cậu sẽ quan tâm, nên mô tả từng li từng tí về ngôi nhà xa hoa đó: cánh cửa trước lộng lẫy, những chiếc chân nến bóng loáng, và cô tiểu thư quý tộc sống ở đó... người chưa bao giờ hạ cố nói câu "Xin chào". - Ngôi nhà khác nằm ở Mayfair. - Bà tiếp tục. Ông chủ có ở nhà. Ông ta có một khuôn mặt đỏ đắn, một chòm râu dê màu hung hung, và một lối nói chuyện khó nghe. Tất cả những gì ông ta nói là với mấy người đầy tớ. Ông ta chưa bao giờ nói chuyện với vợ. Ông ta rất thô lỗ và thiếu giáo dục, đặc biệt là đối với một người có vợ là họ hàng của Nữ hoàng. - Ông ta cứ nhìn mẹ chằm chằm. Hay ít ra mẹ nghĩ thế. Ông ta có một đôi mắt kì dị nhất mẹ từng thấy. Một con trông có vẻ rất khác so với con còn lại: đôi khi có những cặp mắt như thế. Hãy xem xét kĩ, Sherlock ạ, rồi con sẽ thấy. Một con mắt có vẻ sống động... trong khi con mắt kia lại có vẻ chết chóc. Mặt trời đang lặn khi họ đi về phía phố Strand rồi ngược lên hướng bắc để đến Coven Garden. Chợ đã dẹp. Những cánh hoa nằm trơ trên mặt đất sình lầy, những chiếc sọt tan hoang nằm lăn lóc khắp nơi, tiếng rao của những người án hàng trong và người bán bánh nướng đã tắt từ lâu. Họ băng qua khu vực trống trải để đến nhà hát Lớn, một tòa nhà tuyệt đẹp xây bằng đá trắng. Bà Holmes đi theo một lộ trình. Bà vòng qua cửa trước,nơi có những chiếc cột cao trông ra phố Bow, rồi băng qua đường và đứng trên vỉa hè, hơi cách đồn cảnh sát một chút về phía am, nơi đang phát ra những tia sáng màu xanh. Bà luôn nắm tay Sherlock, ngay cả khi bây giờ cậu đã mười ba tuổi, và siết chặt lấy nó một cách vô thức trong khi quan sát. Những cỗ xe ngựa thắng lại, hết chiếc nọ đến chiếc kia. Những nhân vật nổi tiếng, những người giàu bước xuống, mũ nón bóng lộn, kim cương lấp lánh, áo váy tung bay. Sherlock Holmes thầm suy xét trong đầu trong khi quan sát: cậu nhìn và giải mã cuộc sống của từng quý ông, quý bà. Các cảnh sát đứng gần đấy, cũng quan sát, nhưng họ không bao giờ nhìn vào những người thượng lưu kia. Họ chú ý vào những người khác. Nhiều lần Sherlock bắt gặp ánh mắt của bọn họ, và lần nào cũng vậy, cậu nhìn lảng đi chỗ khác. Trước khi cánh cửa lớn khép lại phía sau lưng cặp đôi quyền quý cuối cùng, bà Rose kéo cậu con trai băng qua đường. Họ lén lút đi dọc theo mặt bắc của nhà hát rồi nhanh chóng lỉnh vào bên dưới một chiếc cầu thang nhỏ bằng sắt uốn ở phía sau lưng nhà hát. Nó dẫn tới một lối vào bí mật, được các ca sĩ ngôi sao sử dụng. Cánh cửa nhỏ sẫm màu được ngụy trang bằng dây thường xuân, và cái lò than được giấu bên dưới các bậc thang cung cấp một lối mở vào trong nhà hát. Họ như là đang ngồi ở hàng ghế đầu vậy. Hai người ngồi xổm dưới đất, chiếc váy của bà Rose bị chấm xuống bùn, nhưng bà mặc kệ. Bà quàng một tai qua Sherlock. Âm nhạc bắt đầu nổi lên. Một tiếng kêu nhỏ buột ra từ đôi môi của bà. Đó là vở Chim ác là kẻ cắp. Bây giờ thì cậu đã hiểu vì sao bà muốn đi tối nay. Trước tiên là khúc dạo đầu rền vang như sấm dậy, bắt đầu với dàn trống phát ra âm thanh của buổi hành quyết: buổi hành quyết của một cô gái trẻ. Nhưng mẹ cậu không nói gì. Bà chỉ chờ đợi. Rồi bà thở dài. Những cây vĩ cầm. - Chúng kể cho ta nghe - bà thường nói như thế - về các bi kịch của cuộc sống. Bà gọi đó là miền vĩ cầm. Đó là nơi bà đến khi nghe thấy những âm thanh của chúng. Sherlock hiểu ý bà. Cậu cũng có thể cảm thấy điều đó. Không có nhạc cụ nào giống như chúng. Tiếng vĩ cầm khi buồn da diết khi lại mạnh mẽ cực độ. Chúng nói lên sự thật. Khi chơi chậm, cúng khiến bạn muốn khóc. Lúc dạo nhanh, chúng thúc giục bạn tiến lên phía trước, đẩy bạn vào những xung đột của cuộc sống. - Bah a bah, pa pa pa... Bah a bah, pa pa pa... Bà khe khẽ hát theo giai điệu quay cuồng của dàn dây, những âm thanh của con chím ác là bay vút trên không trung, thẳng tới kho báu của nó. Bà Rose kể lại câu chuyện, giọng nói của bà du dương và dịu dàng trên nền nhạc tuyệt vời. Trong đầu mình, Sherlock có thể trông thấy khán phòng lộng lẫy bên trong: sân khấu ngời sáng, những dãy ban công, những chiếc ghế bọc nhung đỏ sang trọng, những chiếc chân nến bằng bạc tuyệt đẹp. Và cậu có thể hình dung ra câu chuyện. - Một con chim ác là bay lượn vô tư giữa không trung theo một lộ trình vui tươi trong sớm bình minh. Nó nhìn thấy một thứ gì đó lấp lánh xuyên qua cửa sổ của một ngôi nhà sang trọng. Nó lao xuống. Đó là một cái muỗng. Một cái muỗng bạc lấp lánh có giá trị nhiều hơn là bộ óc nhỏ xíu của nó có thể tưởng tượng được. Nó đậu xuống bậu cửa sổ. Nó nhìn quanh quất. Nó quắp lấy cái muỗng và bay đi. Ngày hôm sau, bà chủ nhà buồn bã vô cùng. Kẻ nào đó đã đánh cắp một trong những chiếc muỗn bằng bạc ròng của bà. Chắc chắn chỉ có bọn người hầu! Một cô bé gái xinh xắn, nghèo xác xơ như một con chuột đồng, vô tình vào trong phòng làm việc khi cái muỗng bị lấy cắp. Bà chủ buộc tội cô bé. Cô bị bắt. Đó là một vụ việc rõ như ban ngày. Cô bé bị kết tội chết. Ngày hành quyết đang đến gần... Bà Rose không bao giờ kể phần kết của câu chuyện. Con trai bà biết điều gì sẽ xảy ra, nhưng bà không hé răng một lời, bất kể việc họ nghe vở nhạc kịch đến lần thứ bao nhiêu đi nữa. Họ co người ngồi trong bóng tối cho đến khi nốt nhạc cuối cùng vang lên. Rồi họ lén lút đi ra như những trên trộm, di chuyển trong bóng tối đến phố Bow, tới dòng sông rồi về nhà. Ông Wilber đang đợi hai mẹ con. Ông biết họ đã ở đâu. Ông ôm vợ vào lòng trong khi bà thút thít khóc. Rồi ông đưa bà vào giường. Cậu bé ngồi vào bàn. Sherlock Holmes không khóc, không bao giờ khóc vì bất cứ điều gì. - Chim ác là kẻ cắp. - Bố cậu lên tiếng và lắc đầu trong khi ông ra khỏi buồng và ngồi xuống. Hai người im lặng một hồi. - Chim ác là thuộc họ gì hả bố? - Cậu bé đột nhiên thắc mắc. Ông Wilber mỉm cười: - Chúng thuộc họ Corvidae. Họ nhà quạ. Gồm có quạ thông, chim bổ hạt, quạ lớn, và dĩ nhiên có các chú quạ bạn con nữa. Đúng lúc bố cậu nhắc tới những con quạ, một ý nghĩ bỗng nảy ra trong đầu Sherlock - cậu tự hỏi tại sao trước đây mình không nghĩ tới nó. Cậu ngồi chết lặng, đầu óc nghĩ tận đẩu tận đâu. Ông bố đã quá quen với thái độ này của cậu con trai. Sherlock là một cậu bé lạ lùng. Hầu hết những đứa con trai ở độ tuổi của cậu đều có một nhóm bạn. Sherlock thì không. Đôi khi ngay giữa lúc nói chuyện, cậu bỗng rơi vào trạng thái im lặng kéo dài như thế và nghĩ đến những việc khác. Cậu sẽ ngồi xuống, mi mắt gần như khép lại, để tâm hồn thơ thẩn đi nơi khác. Ông Wilber đứng lên, xoa đầu con, rồi bước sang phòng ngủ bên cạnh. Sherlock vuốt lại tóc rồi đứng dậy. Cậu đi ra cửa sau, mở ra rồi khẽ khàng khép lại trước khi xuống cầu thang. Trên con phố tối mò, cậu bắt đầu chạy. Cậu lao bổ trở lại qua chiếc cầu, về phía có những con phố chật hẹp cuộn quanh trong sương mù như lũ rắn... về phía cái ngõ nhỏ có vệt máu ấy. FEEN MẮT QUẠ TINH TƯỜNG Shane Peacock dtv-ebook.com Typer: Feen Chương 6: Manh Mối Đầu Tiên Những con quạ đã tìm kiếm một thứ gì đó. Sherlock chắc chắn như thế. Một thứ gì đó lấp lánh. Đi đến cầu Luân Đôn thì cậu bắt đầu thấy sợ. Cậu đang làm cái quái gì thế này! Chẳng còn mấy chốc nữa sẽ đến nửa đêm. Cậu chưa bao giờ ra khỏi nhà vào giờ này cả. Cây cầu gần như vắng tanh. Hầu hết tàu thuyền đều đã cập bến, ngoại trừ một chiếc đang trôi trên dòng nước đen ngòm. Phía trên là trập trùng những tòa nhà u tối được chiếu ánh sáng leo lét cúa các ngọn đèn khí đốt, cậu có thế trông thấy mái vòm của nhà thờ St. Paul phía tây và ngọn tháp quỷ quái ở phía đông. Người phụ nữ tội nghiệp kia đã bị sát hại vào khoảng giờ này, tại con hẻm nhỏ nằm sâu trong khu East End ấy. Cậu thấy rùng mình khi nghĩ đến việc có mặt ở đó giữa đêm hôm khuya khoắt... chính đó là nơi cậu đang đi đến. Cậu dựa người vào hàng lan can đá trên cầu, cảm thấy kinh hãi khi mường tượng ra những con người tuyệt vọng phải ngủ ngoài đường trong đêm tối. Những ngọn đèn trên cầu mập mờ phản chiếu trên mặt nước. Ngoài tiếng vọng xa xăm của một vài hồi còi hơi nước là một sự thinh lặng đáng sợ. Cậu chờ đợi một thứ gì đó xuất hiện trong màn sương mù. Chẳng bao lâu sau, có tiếng bước chân. Một người nào đó đang bước ra từ trong bóng tối. Đó là một bà già mặc một bộ tuyền đen cũ sờn đến mức trông như bị chắp vá. Mái tóc bà bết lại thành từng lọn. Gương mặt bà trông giống như mặt nạ. Bên cạnh bà ta là một đứa bé trùm trong tấm vải bẩn thỉu. Không. Không phải là một đứa bé. Đó là một người hoặc một con vật có khuôn mặt chìm trong bóng tối, cao tầm một mét, với những chiếc chùy thô kệch buộc vào chân. Bà ta dùng xích dắt nó đi. Mụ phù thủy nhìn Sherlock và nhăn nhở cười. Rồi cả hai trôi vào trong màn sương. Những bước chân gần như không nghe thấy tiếng mụ già cười. Hay đó là tiếng kêu của con vật bên cạnh mụ nhỉ? Đó là tiếng kêu của một loài động vật: linh cẩu. Tóc tai Sherlock dựng ngược. Cậu rùng mình. Cậu phải tự lựa chọn thôi: đi tiếp, hoặc quay về nhà. Cậu nhớ tới thằng đầu gấu ở trường khi nó ngồi lên người cậu và báo rằng cậu vô vọng rồi. Cậu nghĩ tới khuôn mặt của anh chàng người Ả rập với nỗi sợ trên đó, hình dung ra anh ta bị treo lủng lẳng trên đoạn đầu đài trước một đám đông khổng lồ ở phía ngoài nhà ngục Newgate. Mọi người hò reo. Họ ghét anh ta. Chỉ ba tuần nữa thôi là cảnh tượng đó sẽ thành hiện thực. Sherlock thẳng người lên. Cậu đi tiếp đến Whitechapel. Cậu dè dặt đi vào khu phố cổ: thêm nhiều người chui ra từ màn sương mù giống như các nhân vật trong những vở nhạc kịch tăm tối. Càng đi về phía đông thì số lượng của họ càng tăng lên. Hầu hết đều quái dị như mụ già và con vật đồng hành kinh tởm kia. Đúng là một cuộc diễu hành cúa những sinh vật kì quái, gầy gò như những bộ xương khô, rách rưới tả tơi. Một người ăn mày tóc bạc rên rỉ bám theo cậu một lúc. Cậu cũng chạm mặt các quý ông say khướt đang lảo đảo đi về nhà trong những bộ cánh sang trọng, con mồi cho những thằng móc túi có thể ra tay không cần chớp mắt. Những người phụ nữ quanh quẩn ở các góc đường bên dưới những ngọn đèn kêu xì xì, ăn mặc thiếu trên hụt dưới, môi tô son đỏ chót. Càng tiến về phía đông thì bọn họ càng nghèo hơn, già hơn và bẩn thỉu hơn. Một vài người nhìn Sherlock và cười rú iên. Giáo chủ đang hành sự ở đâu đó, xoay sở để sống sót và chu cấp cho bọn đàn em khó ưa của nó. Sherlock đi mãi vẫn chưa tới được nơi cần đến. Ở trong khu East End có ít ánh sáng hơn. Cậu chạm trán ít người hơn, và nhìn thấy một số đang nằm trên vỉa hè hoặc ngồi dựa vào những tòa nhà đen tối vì không tìm được chỗ nương náu. Có những tiếng động phát ra từ màn sương mù. Dưới mỗi quầng sáng mờ ảo cúa ngọn đèn, cậu đều dừng bước và quay nhìn lại phía sau: chỉ có bóng tối, hình như vậy, và những tiếng nói xa xăm như tiếng vọng. Cuối cùng, cậu tìm thấy phố Old Yard, và nhận ra nó không có đèn đường. Cậu bước vào trong bóng tối. Chẳng mấy chốc phía bên trái của cậu hiện ra con hẻm tối om. Cậu đứng bất động một lúc, rồi rẽ vào. Có tiếng chân ở đằng sau! Sherlock quay lại. Không có ai. Chỉ có im lặng Cậu lại di chuyển, đôi ủng của cậu đạp lên măt đá phát ra những tiếng động to như tiếng súng đại bác. Vết máu chỉ ở đâu đây thôi. Sương mù có vẻ rất dày. Cậu chống tay xuống đất, bò dần về phía trước, dán mắt xuống mặt đất. Nó đây rồi. Các ngón tay của cậu đang ở ngay trên vết máu. Cậu lại vận dụng trí nhớ của mình một lần nữa. Cậu hình dung ra những con quạ ở đó. Cảnh tượng hiện lên trong đầu cậu như một hình vẽ hai chiều, rõ mồn một. Chúng kìa rồi! Một con ở trên vết máu, đúng thế, nhưng con kia lại ở cách đó một chiều dài cỡ xa, gần một bức tường ẩm ướt. Nó không mổ như con ở trên vét máu. Cái đầu đen tuyền của nó chuyển động theo một cách khác. Nó đang làm gì đó với cái mỏ của mình... nó đào bới! Sherlock bò tới trước. Mắt cậu đã quen dần với bóng tối. Cậu có thể nhìn thấy chỗ con quạ đã đào bới ở ngay phía trước mặt. Cậu vươn tay tới đó... một đống gạch vụn, chắc là bị ai đó đổ xuống đây. Có cái gì đó chuyển động ở ngay gần đầu Sherlock. Cậu nín thở. Nó gây ra một tiếng động loạt soạt. Một con chim đen đang ở ngay trước mặt cậu cách một tầm với tay. Nó dang đôi cánh xơ xác ma quái, như thể sắp bay đi. Rồi nó ngừng lại và nhìn cậu. Cậu có thế trông thấy sự tinh anh trong đôi mắt đen của nó. Nó nghiêng đầu nhìn cậu một lần nữa rồi đập cánh bay đi. Nó biến mất. Sherlock quay về phía đống gạch vụn và ngay lúc đó màn sương hơi tản đi trong con hẻm, để ánh trăng rọi xuống. Cậu nhìn thấy một thứ gì đó. Nó lấp lánh giữa những mảnh đá. Một thứ gì đó lấp lánh. Nó gần như bị vùi kín. Cậu nhích một cục gạch vỡ sang bên cạnh. Và cậu rùng mình, suýt nữa ngã sấp mặt vào đống gạch. Đó là một cái xác! Vùi chôn dưới những viên gạch! Một con mắt đang nhìn vào cậu... một con mắt người. Cứng người lại khi nhìn thay cái xác, cậu hít mọt hơi sâu rồi nhanh hết sức có thể, nhấc thêm nhiều cục gạch nữa. Nhưng chắc là cái đầu bị ngoẹo sang một bên, vì cậu có cố đào cách mấy, vẫn chỉ có con mắt là lộ rõ. Rồi cậu nhận ra chính xác mình đã tìm thấy gì. Đó không phải là một cái xác. Đó chỉ là một con mắt. Một con mắt người đơn độc chôn trong đống gạch vụn ở cách vị trí nơi người phụ nữ bị sát hại có vài bước chân. Cậu nhận ra một điều nữa. Đó không phải là con mắt thật. Nó là một con mắt thủy tinh lấp lánh. Sherlock nhìn nó chăm chú. Nó nhìn lại cậu trừng trừng. Có những đốm máu dính trên mống mắt. Lại có tiếng bước chân! Lần này thì cậu chắc chắn. Hoàn toàn chắc chắn! Những bước chân đang tiến thẳng về phía cậu. Sherlock chộp lấy con mắt, đứng dậy và bắt đầu bỏ chạy. - Này nhóc! - Cậu nghe thấy một giọng nói cộc cằn quát lên. Những con quạ đậu trên cao bật kêu quác một tiếng. Sherlock chạy trong bóng đêm. Cậu nghe thấy tiếng vĩ cầm... từ một vở nhạc kịch khác của Rossini mà cậu và mẹ đã nghe nhiều lần. Đó là những âm thanh dồn dập, truy đuổi, trốn chạy của dàn đàn dây trong khúc dạo đầu của vở William Tell. Sherlock ngửa đầu ra sau, đánh tay và để đôi chân dài cuốn cơ thế đi. Âm nhạc đã tiếp thêm năng lượng cho cậu chạy ra khỏi ngõ hẻm, sượt qua một bóng người đàn ông đáng sợ cầm đèn khí đốt đang vươn tay ra định túm lấy cậu. Cậu tránh được ông ta và lập tức chạy vụt đi, ngang qua một cỗ xe ngựa bốn bánh đậu ớ góc đường trong khu Whitechapel, sau đó cậu chạy ra phố, hướng về phía các nhịp cuốn cổ kính bằng đá của cầu Luân Đôn. - Thằng kia! Tiếng la nhỏ dần trong lúc cậu chạy trốn. Lần này cậu không đế ý mấy đến những cư dân ban đêm nữa. Đầu óc cậu chí nghĩ đến ngôi nhà cúa mình. Cậu nắm chặt con mắt trong lúc đua nước rút qua cầu, xuyên qua Southwark vào con hẻm dẫn tới cầu thang phía sau của căn hộ. Khi chạy đến nơi, cậu trèo ba bậc một lên lầu. Ai vậy nhỉ? Ai đã đứng ở trong đường hẻm nơi người phụ nữ bị giết? Cậu đưa bàn tay run rẩy nhẹ nhàng mở cứa. Trong nhà lặng im như tờ. Cậu kìm hơi thở dồn dập, chốt cửa lại, cởi quần áo và trèo lên giường. Cậu nhét con mắt sâu dưới nệm. Mặc dù đang rất kích động, cậu vẫn ngủ thiếp đi chỉ trong vài phút. Sự mệt mỏi đã thắng thế. *** Không lâu sau đó có tiếng đập cửa vang lên. Cậu giật mình choàng tỉnh. Đầu tiên cậu quay đi, úp gối lênn đầu và cố tự thuyết phục rằng mình đang mơ. Chẳng ai lại đi đập cửa nhà họ vào cái giờ khuya khoắt này. Nhưng chỉ sau vài giây ông Wilber đã đứng dậy và đi về phía tiếng động. - Ai đói? - Ông hỏi, giọng run run. Sherlock sẽ không bao giờ quên câu trả lời đó. - Cảnh sát đây! - Một giọng oang oang cất lên. - Mở cửa ra! Lời đáp của bố cậu gần như là một lời khẩn nài. - Ông muốn gì ở chúng tôi đây? - Mở cửa ngay nếu không buộc lòng chúng tôi phá cửa, thưa ông! Ông Wilber để cho bọn họ vào nhà. Một viên thanh tra mặc thường phục và hai cảnh sát lực lưỡng bước vào trong nhà một cách ồn ào. Vẻ mặt họ rất nghiêm trọng. Hai cảnh sát đội mũ cối có dây buộc ở cằm, mặc áo khoác dài màu xanh lam kèm theo thắt lưng to bản ở giữa, chân đi những đôi ủng dày cui màu đen. Một người cầm ngọn đèn khí đốt 'mắt bò' trong tay. - Tôi là thanh tra Lestrade. - Người đàn ông mặc thưởng phục lên tiếng. Đó là một ông tầm gần sáu mươi với bộ ria chổi xể, mặc chiếc quần vải nhung kẻ nâu và áo khoác nâu sẫm. Ông ta có tạng người gầy và dài giống như con chồn, nhưng lại có thái độ hung dữ như một con chó bull. - Ông có một thằng con trai phải không? - Ông ta hỏi. - Sao cơ? À... phải. - Chúng tôi cần nói chuyện với thằng bé. Ông Wilber quay người lại nhìn qua căn phòng về phía chiếc giường nhỏ, đầy hốt hoảng. Ông nhìn thấy cậu con trai của mình ngồi dậy, nhìn chằm chằm tốp cảnh sát. Có một sự cứng rắn lạ lùng trên khuôn mặt của cậu, một ánh nhìn sắc lạnh như thép trong đôi mắt cậu. Ba người đàn ông băng qua căn phòng và đứng vây quanh cậu, như thể cậu có thế tìm cách trốn thoát. - Tên cậu là gì? - Sherlock Holmes. - Cậu có mặt hay không có mặt tại hiện trường vụ án mạng Whitechapel quá nửa đêm hôm nay? Cậu bé ngừng một chút. - Tôi có. Ông Wilber ngạc nhiên quá đỗi. . Sherlock? Không, không thể nào! Nó không thể ở đó được. Nó ở ngay đây mà. Lúc nãy nó và mẹ còn đi tới nhà hát cùng nhau. - Nhà hát á? - Thanh tra Lestrade hỏi, đảo mắt nhìn quanh căn phòng tồi tàn - Vợ ông đi nghe hòa nhạc á? - Cái đám Do Thái này - Một tay cảnh sát chậc lưỡi thì thầm với tay kia. - Thực ra chúng tôi không vào trong nhà hát - Cậu bé trả lời bằng một giọng điềm tĩnh - Chúng tôi chỉ đứng ngoài nghe mà thôi. - Phải. Ông Wilber nói - Đúng thế. Tôi nói không được rõ lắm. - Ờ. - Thanh tra Lestrade đáp. Ông ta lại nhìn cậu bé: - Cậu đã bị nhìn thấy tại hiện trường vụ sát nhân hai lần, trong hai ngày liên tiếp. Cậu giải thích thế nào về chuyện đó? - Tôi không có lời giải thích nào cả. - Sherlock nói. - Hiểu rồi. - Thanh tra Lestrade lớn tiếng. - Cậu còn bị viên cảnh sát này trông thấy - ông chỉ vào một trong hai cảnh sát đi cùng - tại buổi hầu tòa của Mohammad Adalji, thủ phạm trong vụ ám nghiêm trọng này. Không chỉ có thế, mà tên tội phạm còn nói chuyện với cậu, mỗi cậu mà thôi. Hắn có làm như thế không? Đừng có chối nhé. - Tôi không chối. Ông Wilberforce Holmes há hốc mồm nhìn cậu con trai trừng trừng. - Tên người Á rập đã nói gì? - Thanh tra Lestrade vân vê đầu mút cúa bộ ria mép. - Anh ta nói anh ta không làm chuyện đó. Một viên cánh sát bật cười không giấu giếm. - Rõ ràng hắn đã làm vụ này! - Thanh tra Lestrade quát. - Cậu có liên can gì với hắn không? - Không. Ông thanh tra dò xét khuôn mặt cậu bé một lúc trước khi tiếp lời. - Cậu biết gì về vụ này? Cậu có biết điều gì mà chúng tôi nên được biết hay không? Sherlock ngập ngừng. Cậu không muốn che giấu bằng chứng trước cảnh sát nhưng cậu cũng không thể nói với bọn họ về con mắt. Đó có thể là cơ hội duy nhất của người Ả rập, manh mối duy nhất của điều đã thực sư xảy ra. Cậu không thể để mất nó, nhất là vào những người đang nắm giữ sinh mạng của Adalịi trong tay. - Không, thưa thanh tra. Khuôn mặt thanh tra Lestrade đỏ ửng lên. - Này cậu bé, chúng tôi đã tống giam một thủ phạm. Nhưng cái bóp tiền vẫn còn thất lạc. Chúng tôi biết đến nó, vì chúng tôi đã tìm thấy các chi tiết đặc trưng cho món đồ đó tại con hẻm. Chúng tôi biết cậu đang lang thang ngoài đường và giao du với các băng nhóm du đãng. - Con tôi không giao... - Ông Wilber cất lời, nhưng bị Sherlock cắt ngang. - Tôi chẳng biết gì về cái bóp cả. - Vậy thì tốt hơn cậu nên đi cùng chúng tôi. - Thanh tra Lestrade gằn giọng. - ĐI ĐÂU? Người vừa nói câu vừa rồi là bà Rose. Bà đã ra khỏi giường và bước qua căn phòng chính để nhìn thấy hai cảnh sát cùng một thanh tra đang vây quanh con trai mình. - Chúng tôi bắt giữ con trai bà vì tội che giấu bằng chứng. - Hoặc vì khả năng có dính líu tới một vụ giết người. - Người cảnh sát xách đèn đế thêm. Anh ta nhìn bà Holmes với cặp mắt lạnh lùng. Rõ ràng anh ta là một chiến sĩ đấu tranh chống lại cái ác. - Nhưng chuyện đó thật vô lí! - Ông Wilber Holmes lắp bắp, nhào đến chỗ con trai. - Nếu ông ngăn cản chúng tôi, ông cũng sẽ bị bắt. - Tay cảnh sát nói. Viên thanh tra hất đầu về phía cậu bé. Hai cảnh sát viên túm lấy cậu. Bà Rose thét lên, cố kéo con của mình ra, nhưng ông Wilber đã vòng tay ôm lấy bà thật chặt. Bà đấm thùm thụp lên ngực ông, rồi gục vào vai ông nức nở khóc. - Cứ ngoan ngoãn đi, chúng tôi sẽ không làm khó cậu. - Thanh tra Lestrade nhẹ nhàng nói. - Chúng tôi không muốn làm đau ai hết, nhưng phải làm vụ này cho đến cùng. Và Sherlock yên lặng ra đi. Cậu gạt những tiếng khóc của mẹ và ánh mắt của bố ra khỏi đầu, xóa bỏ chúng. Cậu không thể gục ngã. Cảm xúc sẽ chẳng giúp ích gì cho cậu. Cậu cần phải cứng rắn lên. Từ giây phút này, cậu phải tìm ra lời giải cho vụ án mạng. Không chỉ có anh thanh niên Ả rập đang ở trong vòng nguy hiểm. Giờ đây... cậu phải cứu chính mình. MẮT QUẠ TINH TƯỜNG Shane Peacock dtv-ebook.com Typer: Feen Chương 7: Chuyện Của Mohammad Sáng sớm hôm sau, Sherlock Holmes bị đánh thức bởi một giọng cầu nguyện rền rĩ, nhỏ nhẹ và đầy sợ hãi. Cậu ngồi thẳng dậy trên chiếc giường bằng đá, sững người khi nhận ra mình đang ở trong một buồng giam nhỏ của đồn cảnh sát phố Bow. Cậu đã mơ thấy những đôi mắt. Hàng ngàn đôi mắt nhìn trừng trừng vào cậu trên chiếc giường ở nhà, van nài được giúp đỡ. Một con mắt lớn hơn xuất hiện từ bên dưới tấm nệm của cậu. Tất cả những con mắt khác quay sang nhìn nó. Đó là những gì đã đánh thức cậu dậy trước tiên. Sau đó, khi đầu óc đã tỉnh táo hơn, cậu nghe thấy tiếng cầu nguyện. Có một lần cậu đã đọc qua về nó trong một cuốn sách viết về cuộc Thập tự chinh và vẫn còn nhớ khá rõ: cậu có thể chụp ảnh mọi thứ chỉ với con mắt trong đầu mình. Quơ hai chân ngồi dậy, Sherlock lắng nghe. Đó là một lời cầu xin đấng Allah trong giờ phút khốn cùng. Âm thanh lan truyền khá kém trong những căn buồng trông như ở dưới hầm này, nhưng cậu có thế khẳng định tiếng nói đến từ buồng giam ngay bên cạnh. Khi mọi thứ yên lặng trở lại, Sherlock vẫn ngồi yên, lắng nghe nhịp thở của chính mình. Rồi cậu đánh liều hỏi: - Anh Mohammad? Im lặng như tờ. Sherlock nín thở. Không có tiếng trả lời. Cậu thở dài đứng dậy. Cái giường cứng ngắc là món đồ duy nhất trong căn buồng đá ẩm thấp này. Không có lấy một cái cửa số, chỉ có một lỗ vuông nhỏ lắp ba chấn song nằm ngang tầm mắt cậu trên cánh cửa nặng nề bằng sắt. Cả gương cũng không có nốt. Cậu cảm thấy khó chịu: chắc bây giờ mái tóc của cậu đang bù xù như tổ quạ. Bỗng nhiên một giọng nói cất lên, phá tan sự im lặng: - Tôi đây! - Giọng nói khá rõ ràng và điềm tĩnh. Sherlock tiến lại gần cánh cửa, ghé mắt nhìn ra ngoài và trông thấy một vách tường hành lang bằng đá cao vút cùng với hai lỗ cửa sổ nhỏ lắp chấn song trên đó. Cố ngoẹo cổ liếc nhìn sang bên phải, cậu có thể thấy những ngón tay sẫm màu đang bấu lấy các song sắt của cánh cửa buồng giam bên cạnh. - Anh là Mohammad Adalji à? - Phải. Nhưng tôi không làm chuyện đó. Giọng Mohammad nghe khá cương quyet. Có một chút âm sắc phương đông trong đó. - Em là cậu bé mà anh đã nói chuyện ở trước cửa tòa án đây. - Thật à? - Một chút hi vọng vang lên trong giọng nói của Mohammad. - Tên em là Holmes. - Cậu đang bị giam à? Sherlock nhìn về phía hai ô cửa sổ nhỏ trong hành lang, nơi có ánh nắng xuyên qua. Cuối cùng thì trời Luân Đôn cũng đã xanh trở lại... vậy mà cậu phải ở trong này. - Bọn họ nghĩ em biết gì đó... họ nghĩ em có liên quan đến vụ án mạng. Mohmmand lặng thinh một lúc, rồi nhẹ nhàng lên tiếng. - Tôi sẽ nói với họ là cậu không có liên can gì. - Cảm ơn anh, nhưng họ sẽ không tin anh đâu. - Có chứ, vì họ luôn nghĩ tôi chỉ hành động một mình. Tôi là một thằng Ả rập mà. - Còn em là một đứa Do Thái nghèo xác xơ. - Do Thái à? - Có một chút ngập ngừng trong giọng điệu của người thanh niên bị cầm tù. - Nửa dưới Do Thái, nửa trên ăng-lê... nhưng phần này lại không được thừa nhận. - Không hay rồi. - Đúng thế. Cậu nghe thấy tiếng anh chàng Ả rập thở dài. - Tại sao bọn họ nghi ngờ cậu? - Anh ta hỏi. - Vì anh đã nói chuyện với em. Sherlock lại nghe thấy một tiếng thở dài nữa. - Và bởi vì em đã đến hiện trường vụ án... hai lần. - Thật à? - Em đã đi theo lũ quạ. Sherlock gí sát mặt vào các thanh chấn song, cố gắng nhìn người bạn tù rõ hơn. -Quạ? - Chúng đã đậu xuống đúng con hẻm đó. - Cậu trầm ngâm nói, trong đầu lại hiện lên cảnh tượng ấy. - Chúng là... - Mohammad thì thầm - Chúng là những điềm báo. Tôi đã nhìn thấy mấy con quần đảo bên trên tòa án Old Bailey. Sherlock vẫn còn nhớ chuyến đi tới Whitechape vừa rồi. - Em đã quay lại một lần nữa... bởi vì em đã lắp ghép được một số thứ. - Ý cậu là sao? - Một tia hi vọng nhỏ nhoi nhen nhóm trong giọng nói của Mohammad. Sherlock không đáp vội. Nhưng nếu người kia có thể trông thấy cậu bé thì anh ta đã nhận ra sự hài lòng đang hiện lên trên khuôn mặt cậu. - Anh nói lại xem nào. - Sherlock yêu cầu. - Tôi chỉ hỏi có một câu thôi mà. - Không, câu trước đó kia, về lũ quạ ấy. - Thì tôi đã nhìn thấy chúng. - Dường như đó chỉ là một nhận xét vô hại. - Anh nói đã nhìn thấy chúng ở đâu? - Bên trên tòa án Old Bailey. Im lặng một lúc. - Anh Adalji này. Em không nghĩ anh đã gây ra tội ác đó. Em tin anh. - Sherlock bình thản nói. Bên kia bật lên một tràng cười ngắn. - Cậu là một thiếu niên rất kì lạ, cậu Holmes ạ. - Em biết. - Cậu phải giải thích cho tôi đấy. - Chỉ sau khi anh đã làm thế. Họ đứng đó vai kề vai, cách nhau một bức tường, người nọ nhìn vào bàn tay đang nắm lấy chấn song của người kia: một đôi day da trắng và một đôi tay da màu. - Tôi sẽ nói với người nào muốn lắng nghe, cậu Holmes ạ. - Em đang nghe đây. - Sherlock đáp. Đôi tay da nâu bấu chặt lấy các thanh chấn song . - Tôi là một người giết mổ học việc. Từ Ai Cập tôi cùng với ba mẹ sang đây... mong có một cuộc sống tốt hơn. Tôi giỏi việc dùng dao. Sherlock nuốt nước bọt đánh ực. - Nhưng tôi dùng nó chí để cắt và pha thịt. Tất nhiên ông chủ của tôi cũng là người Hồi giáo, và chúng tôi chỉ làm việc với những nhát cứa theo đúng luật Halal linh thiêng. Đêm nào ông ấy cũng bắt tôi làm việc đến khuya. Vào buối tối hôm cô gái bị giết, tôi phải đi giao thịt ngay sau khi mặt trời lặn. Tôi cung cấp thịt cho một quán ăn từ thiện nằm ở gần nơi cô gái bị tấn công. Tôi phải đẩy một chiếc xe bánh gỗ rất nặng, đôi khi rất khó điều khiển nó đổi hướng ở những khúc cua gấp. Trên đường quay về, tôi thử đi theo một lối tắt và bị lạc. Rất dễ lạc đường trong khu Whitechapel khi đêm xuống. Đi được nửa đường thì tôi nhận ra mình đi sai đường. Thế là tôi rẽ vào cái hẻm đó... nơi mà mọi chuyện đã diễn ra. Con hẻm làm tôi phái chật vật đẩy xe tiến lùi nhiều lần. Tôi còn nhớ lúc đó tôi đang rất vội. Tôi vã mồ hôi hột, cố đi thật nhanh. - Một phần công việc của tôi là lau dọn sau khi giết mo lúc ông hàng thịt và mọi người đều đã ra về. Ông ta rất chặt chẽ trong công việc. Tôi thường phải ở lại quá nửa đêm. Đêm hôm đó cũng không phải là ngoại lệ. Sau khi đã rửa sạch mọi thứ, tôi bắt tay vào kì cọ mấy con dao. Tôi luôn làm việc ấy sau cùng. Nhưng.... một con dao, con to nhất... nó không có ở đó. Sherock rùng mình. - Tôi tìm tới tìm lui, nhưng chẳng thấy nó đâu cả. Tôi tự hỏi liệu có sơ suất mang theo nó trong khi đi giao thịt hay không. Vậy là tôi rà soát lại lộ trình trong đầu. Chỉ có một chỗ duy nhất mà tôi đã làm điều gì đó bất thường: tôi đã quay xe khá ngặt ở trong con hẻm đó. Nó nằm cách tiệm thịt không xa. Tôi chạy bổ vào đêm tối. Ở Luân Đôn có một số kẻ lang thang rất lạ lùng, cậu Holmes ạ. Tôi đã chạy nhanh hết sức có thể đến con hẻm. Nó tối thui như trong một đường hầm vậy. Nó làm tôi thấy phát sợ. Tôi mò mẫm đi vào trong đó từng chút một, thò ủng ra thăm dò chung quanh hi vọng tìm ra con dao. Thế rồi... Cổ họng Mohammad nghẹn lại. Ở cửa buồng bên cạnh, những ngón tay thon dài sáng màu bấu chặt vào mấy cái chấn song. - Rồi... tôi khom người xuống và lần mò mặt đất quanh chỗ mà tôi nghĩ tôi đã quay xe lúc nãy, nơi tôi nghĩ con dao có nhiều khả năng bị rơi nhất. Chẳng mấy chốc tay tôi đã chạm vào bùn... nhưng đêm đó trời không có mưa, cậu Holmes ạ. Và thứ chất lỏng mà lúc đầu tôi tưởng là bùn ấy... nó khá sệt. Mohammad lại ngừng lời. - Đầu tiên tôi chạm phải tóc cô ta... sau đó đến khuôn mặt... cái miệng há... tôi biết cô ta đã chết... Tôi biết đó là máu... Tôi đứng lên. Khi làm thế, giày của tôi chạm vào một thứ làm nó kêu keng một tiếng. Tôi túi xuống sờ nó. Tôi biết đó là... con dao của tôi. Mắt Sherlock mở to. - Bây giờ tôi thấy mình thật ngu vì đã nhặt nó lên. Tôi nghĩ, tôi chỉ nghĩ nếu có ai tìm thấy con dao của tôi nằm cạnh xác một phụ nữ... con dao của một người Ả rập. .bọn họ sẽ treo cổ tôi lên không cần nhiều lời. Thế là tôi cầm lấy con dao chạy đi. - Các dấu chân dính máu dẫn từ chỗ đó về đến lò mổ - Sherlock nói một cách thản nhiên. - Phải. Tôi đã sợ quá hóa rồ. Tôi cứ thế khóa chặt cửa nẻo và đi ngủ trong căn phòng nhỏ mà ông chủ dành cho, con dao quấn trong giẻ nhét bên dưới áo khoác, không hề nghĩ rằng mình vừa mới vạch một lộ trình về tận cửa. Các cảnh sát có mặt tại hiện trường sáng hôm sau chỉ cần theo dấu máu đế tìm đến chỗ tôi... và con dao. Sherlock đế cho câu chuyện thấm vào đầu. Cậu đang cố lắp ghép nó vào những gì đã biết được. - Tôi không làm chuyện đó. - Mohammad lập lại, giọng khản đặc. - Em biết. - Nhưng cậu nghĩ tôi sẽ lên giá treo cổ. - Em có nói thế đâu. - Nhưng cậu hẳn phải nghĩ thế. Ai có thể nghĩ khác được cơ chứ? - Sự tuyệt vọng của Mohammad trở nên nặng nề hơn. - Sẽ chẳng có thầy cãi nào bảo vệ tôi. Bọn họ đã cho tôi vào tròng rồi! Họ đã có các bằng chứng và tất cả đều chống lại tôi. Tôi chỉ còn sống được chưa đầy ba tuần lễ nữa. - Có lẽ em có một manh mối. - Cậu bé hạ giọng tiết lộ trong lúc một người cai ngục đi qua. Cậu ngừng lời. - Một thứ có lẽ giải thích được điều gì đã thực sự xảy ra. - Nhân danh thánh Allah, làm ơn nói cho tôi biết với. - Ở nhà em, dưới tấm nệm. Sherlock lại thì thào và nhìn quanh buồng giam như thể lo sợ các bức vách có tai. - ... Em có một con mắt. - Một con mắt à? - Mohmmad hỏi. MẮT QUẠ TINH TƯỜNG Shane Peacock dtv-ebook.com Typer: Feen Chương 8: Cô Bé Khác Thường Sherlock không nói gì thêm nữa. Cậu không nghĩ nói hết là khôn ngoan. Cậu chợt nhận ra có điều gì đó rất đáng ngờ trong việc cậu bị giam trong căn buồng ở ngay bên canh phòng giam của Mohammad Adalji. Khi nhắc đến con mắt, cậu nói thật khẽ, khiến cho anh bạn mới phải cẩn thận hạ thấp giọng và không nói gì thêm nữa. Cảnh sát đang lắng nghe. Sherlock chắc chắn như thế. Cậu hi vọng mình đã không để lộ quá nhiều. Cậu xem xét buồng giam của mình tỉ mỉ hơn nữa: có những cái lỗ nhỏ trên trần, vài vết nứt trên tường, và cậu giam gần cánh cửa dẫn thẳng tới văn phòng. Cậu dành cả ngày nằm trên chiếc giường, cố hiểu tình cảnh của minh. Thật khó mà tập trung được. Cậu đang sợ. Rõ ràng là anh chàng Ả rập kia sắp chết đến nơi. Và cậu đang bất lực trong một vụ điều tra với chứng cứ rõ như ban ngày. Họ sẽ làm gì với cậu? Họ có thể làm gì với một người bị tạm giam vì nghi ngờ che giấu bằng chứng? Họ đã tống giam cậu, chẳng phải thế sao? Và họ sẽ không để cậu đi. Vậy điều gì sẽ xảy ra nếu như mọi chuyện càng tồi tệ hơn? Sẽ ra sao nếu họ nghĩ cậu và Mohammad đã cùng nhau giết người phụ đó? Cậu cảm thấy bụng quặn lại. Trời ơi! Trong khi một ngày dần trôi qua, tinh thần của cậu đang chìm sâu như những ống cống mới làm của Luân Đôn. Tiếng cầu nguyện của người Ả rập vang vọng khắp buồng giam. Mỗi khi nghĩ đến bố mẹ là Sherlock lại nhìn ra cửa, hi vọng sẽ được trông thấy hai người. Cậu muốn họ đến đây, ôm cậu vào lòng và nói với cậu rằng tất cả chỉ là giấc mơ. Nhưng nhà tù đã bắt đầu tối dần mà họ vẫn không xuất hiện. Chuyện này thật vô lí. Tại sao bố mẹ cậu lại không đến? - Cai ngục! - Cuối cùng cậu đứng bật dậy và hét to. Người cai tù có bộ mặt quàu quạu chậm chạp đi về phía cậu. - Vì sao bố mẹ tôi...? - Chắc là họ bận. - Ông ta làu bàu. Vậy là rõ rồi... bố mẹ cậu không được phép vào thăm. Cậu hét toáng lên: - Các người không thể chia rẽ họ với tôi! Các người không thế giữ tôi ở đây! Người cai tù quay đi. Sherlock gieo mình xuống giường, run rẩy. Bình tĩnh lại nào, cậu nghĩ. Cậu cần phải suy ngẫm toàn bộ chuyện này. Liệu bọn họ có thực sự nghĩ rằng cậu và Mohammad đã cùng nhau giết người phụ nữ kia hay không? Cậu cố ổn định nhịp thở ủa mình. Họ kết tội sát nhân cho Mohammad, chứ không phải cậu. Vậy tại sao họ lại cố dồn ép và dò xét cậu? Chẳng phải họ đã có những gì họ cần để treo cổ Adalji rồi sao? """