"
Hơi Thở Cuối Cùng - Robert Dugoni PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Hơi Thở Cuối Cùng - Robert Dugoni PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
Dành tặng những người đàn ông và những người phụ nữ mặc quân phục, mang phù hiệu, đang ngày đêm làm việc trong hệ thống tư pháp hình sự để giữ an toàn cho chúng tôi. Chúng tôi thường chỉ trích quá nhanh và nói lời cảm ơn các bạn quá chậm.
“
Với những kẻ có nhân cách biến thái thì mọi loại thuốc, mọi phương pháp đều không điều trị được. Chỉ có nhà tù mà thôi. Tiến sĩ Jeni Gregory
Chuyên viên lâm sàng,
Chuyên gia trị liệu,
Chuyên gia tư vấn sức khỏe.
CHƯƠNG 1
Tracy Crosswhite dõi theo chiếc minivan lái vào bãi đỗ, để ý thấy có ghế trẻ em nằm ở băng ghế sau cùng tấm bảng màu vàng ‘Có Trẻ Nhỏ Trong Xe’ treo lủng lẳng trên cửa sổ. Người phụ nữ mặc chiếc áo chống đạn màu đen, quần bò xanh cùng chiếc mũ bóng chày của đội Seattle Mariners bước ra khỏi xe.
“Điều tra viên Crosswhite?”
Tracy bắt tay người phụ nữ và nhận ra bàn tay cô ta thật nhỏ nhắn và mềm mại. “Cứ gọi chị là Tracy. Em là cảnh sát viên Pryor?” “Katie thôi. Em thực sự đánh giá cao điều này. Em xin lỗi vì khiến chị mất thêm thời gian sau giờ làm việc.”
“Không sao. Việc giảng dạy giúp chị mài giũa kĩ năng. Em có kính và chụp tai chưa?”
“Em định đi mượn thôi.”
Tracy không nghĩ Pryor là kiểu người sẽ trang bị những thứ đó cho mình. “Vậy thì đi kiếm cho em thôi nào.”
Cô dẫn Pryor vào tòa nhà thấp kiên cố, văn phòng của Hiệp hội Thể thao Cảnh sát Seattle. Giống như phần lớn các trường bắn, nó nằm ở một vị trí biệt lập, cuối con đường nhỏ trong khu công nghiệp cách trung tâm thành phố Seattle khoảng hai mươi phút lái xe về phía nam.
Người đàn ông đứng sau quầy chào Tracy bằng tên, và Tracy giới thiệu: “Virgil, đây là cảnh sát viên Pryor. Cô ấy sẽ cần kính và chụp tai. Chúng tôi cũng cần một tấm bia tập bắn, vài hộp đạn và một cuộn giấy
dán.”
“Đào tạo cho kỳ thi sát hạch à? Còn vài tuần nữa thôi nhỉ?” Virgil mỉm cười với Pryor. “Cô có một người thầy giỏi đấy!” Anh ta lôi mấy hộp đạn cùng kính bảo hộ khỏi giá để đồ và những cái móc phía sau quầy. “Chúng tôi đang cố gắng thuyết phục Tracy về đây hẳn để đào tạo người mới. Ý cô thế nào, Tracy?”
“Vẫn như cũ thôi, Virgil. Khi nào người ta ngừng giết hại lẫn nhau thì tôi sẽ về.”
“Phải rồi, khi mặt trời mọc ở đằng tây.” Virgil nhìn quanh quầy. “Tôi phải đi lấy giấy dán ở đằng sau.”
Khi Virgil rời đi, Pryor hỏi: “Sao chúng ta lại cần đến giấy dán?” “Để che các lỗ hổng trên bia bắn của em.”
“Em chưa bao giờ thấy chuyện đó.”
“Em cũng chưa bao giờ bắn nhiều như em sắp bắn đâu.” Virgil quay trở lại và đưa Tracy một cuộn giấy dán màu xanh. Cô cảm ơn anh ta và đưa Pryor ra ngoài. “Theo chị nào.” Cô nói và ngồi vào buồng lái chiếc xe bán tải Ford F—150 đời 1973 của mình. Cô đã bán chiếc Subaru sau khi trở về từ Cedar Grove. Cô có đủ tiền để mua một chiếc xe mới, nhưng xe tải đời cũ hợp với cô hơn. Mất vài phút để làm nóng động cơ, đặc biệt là vào những buổi sáng trời lạnh, thân xe cũng có vài vết lõm và xước, nhưng tổng thể thì nó trông không tệ như số tuổi của mình. Bên cạnh đó, chiếc xe này làm Tracy nhớ đến chiếc xe tải mà bố cô từng lái đến các cuộc thi bắn súng khi cô cùng em gái Sarah vẫn còn là những đứa trẻ.
Đi được gần hai trăm mét xuôi theo con đường đầy ổ gà, Tracy đỗ xe gần lối vào khu huấn luyện của cảnh sát Seattle. Cô nhận ra tiếng pốp pốp quen thuộc của những cú xả súng và tiếng sủa của những con chó to. Cô không biết tên ngốc nào ra quyết định đặt chuồng nuôi chó
nghiệp vụ K-9 liền kề khu tập bắn, nhưng cô cảm thấy thương hại lũ chó và bất cứ ai phải nghe tiếng chúng sủa nhiều hơn một phút. Khu tập bắn nằm phía trong cánh cổng bao quanh bởi dãy hàng rào mắt cáo cao gần hai mét rưỡi cùng một đường dây thép gai giăng ngang trên đỉnh. Tracy hà hơi vào hai lòng bàn tay cho ấm trong khi chờ Pryor. Đây là kiểu thời tiết điển hình của một buổi tối tháng Ba, lạnh và có mưa phùn. Hoàn hảo cho mục đích đào tạo.
“Chúng ta nên bắt đầu thế nào đây?” Pryor hỏi.
“Em bắn. Chị xem.” Tracy nói.
Mười lăm tấm ván gỗ ép chi chít lỗ đạn, hay còn gọi là "đích ngắm", treo trên một khung treo kim loại đặt dọc theo sườn đồi dốc. Tracy chọn đích ngắm xa nhất phía bên trái, gần khu chuồng chó nhưng cách xa hai người đàn ông đang tập bắn ở khu vực cánh phải của dãy. Cô nói to át tiếng chó sủa và tiếng đạn nổ dội lại từ chỗ các tay súng: “Chúng ta sẽ bắt đầu bằng việc ngắm bắn đã nhé, cách mục tiêu ba mét, bắn bốn phát trong ba giây. Hai viên trúng thân, hai viên vào đầu.”
“Đã rõ!” Pryor nói.
Họ kẹp mục tiêu vào một tấm gỗ ép. Đó là bức biếm họa của một "kẻ xấu" với cánh tay lông lá khuỳnh ra cùng gương mặt đầy vẻ hăm dọa. Sau đó, họ lùi lại ba mét để đứng vào vạch mốc đánh dấu trên đất. Tracy nói: “Chuẩn bị!”
Pryor lên đạn khẩu Glock của mình, hướng nòng súng xuống đất và đứng vào tư thế chân rộng bằng vai, chân trái hơi chếch so với chân phải. Tracy đá chân trái của Pryor dịch thêm hai phân để cô ấy có trọng tâm tốt hơn.
“Bắn!” Tracy nói.
Pryor nâng vũ khí lên và bắn ba phát. Như Tracy dự kiến, Pryor lúng túng trong từng phát súng, khiến nòng súng bị lệch khỏi mục tiêu dù
chỉ một chút. Cô thường xuyên chứng kiến chuyện này ở những người mới, đặc biệt là các tân binh nữ.
“Sẵn sàng!” Tracy nói.
Pryor trượt chụp tai khỏi tai trái của mình. “Chẳng phải chị…?” “Chuẩn bị!” Cô lặp lại.
Pryor chỉnh lại chụp tai và lấy lại tư thế.
“Bắn!”
Pryor bắn lần nữa.
“Sẵn sàng!” Tracy nói. “Bắn!” Và Pryor bắn lần thứ ba.
Cô yêu cầu Pryor lặp lại quá trình trên cho đến khi băng đạn hết sạch. Khi Pryor hạ khẩu súng xuống, cô ấy thở hổn hển vì sự dâng trào của adrenaline.
“Tay và vai em đã thấy mỏi chưa?” Tracy hỏi.
“Một chút.”
“Và em cũng bắn tốt hơn rồi đây.”
“Đúng vậy.” Pryor nói, nhìn mục tiêu qua cặp kính màu vàng. “Chị có thể huấn luyện em bắn tốt hơn.” Tracy nói. “Chị không thể dạy em bắn. Em phải vượt qua được sự khốc liệt khi quyết định xả súng. Việc tiên đoán tiếng ồn và sức giật là nguyên nhân khiến em nao núng, và chính nó khiến em bắn trượt. Cách duy nhất để vượt qua là phải tập luyện thật nhiều. Em có hay đến trường bắn không?”
“Em cố gắng đến đây mỗi khi có thể.” Pryor nói. “Nhưng khó lắm. Em có hai cô con gái nhỏ ở nhà.”
“Chồng em làm nghề gì?”
“Anh ấy làm việc cho một công ty xây dựng.”
“Anh ấy muốn em tiếp tục làm việc không?”
“Tất nhiên. Chúng em cần tiền mà.”
“Vậy thì anh ấy phải trông con để em có thời gian luyện tập.” Tracy cho Pryor xem ngón tay cái bên phải cua mình. “Em biết vì sao lại có cục chai này không?”
“Do tập bắn.”
“Do nạp đạn đấy. Chị đến đây hai lần mỗi tuần, bất kể mưa hay nắng, ngày hay đêm. Cách duy nhất để bắn tốt là nỗ lực tập luyện. Em không đủ khả năng thì không thể hoàn thành công việc. Họ sẽ đưa em vào chương trình huấn luyện đặc biệt cho học viên chậm tiến. Em đã bị kì thị sẵn rồi, vì em là phụ nữ, Katie ạ. Em không cần cho họ thêm bất cứ lý do nào khác để nghĩ là em bất tài.”
Pryor cần nghe điều này. Chồng cô ấy thật sự cần nghe điều này. “Giờ thì em có sẵn sàng làm chuyện này không?”
Pryor rút điện thoại di động từ túi quần sau. “Để em gọi về nhà đã.” Khi Pryor đi gọi điện, Tracy bắt đầu nạp đạn lại và một trong những người đàn ông đang bắn ở đầu dãy bên kia bước lại gần. “Các quý cô tới đây để trút cơn giận của phụ nữ sao?” Johnny Nolasco là đại úy của ban Tội phạm Bạo lực, cấp trên của Tracy. Cũng là một kẻ khó ưa. “Chỉ đang tập bắn chút thôi, thưa Đại úy!”
“Kỳ thi sát hạch đang đến.” Nolasco nói. Dù tiết trời lạnh lẽo, ông ta chỉ mặc một chiếc áo bó cộc tay, hình xăm dây thép gai trên bắp tay phải lộ rõ. “Chúng ta có nên làm nó thú vị hơn không?”
Kết quả tốt nghiệp của Tracy ở Học viện Cảnh sát đã phá vỡ thành tích đầu vào của Nolasco ở trường. Trong suốt hai mươi năm, chưa từng có ai đạt điểm số cao hơn và cái tôi của Nolasco chưa bao giờ bình phục. “Tôi ổn cả.” Cô nói, vẫn tiếp tục nạp đạn.
“Không ổn cho lắm.” Nolasco nói, nhìn Pryor từ đầu đến chân trước khi bỏ đi.
Pryor kết thúc cuộc điện thoại và quay trở lại chỗ Tracy. “Ai vậy?”
“Lý do em cần vượt qua kỳ thi sát hạch.”
Bóng tối bao trùm cùng màn sương muối đã làm suy yếu ánh sáng vàng nhạt từ cột đèn cao áp và hạn chế tầm nhìn. Tracy khuyên Pryor đừng quan tâm đến điều kiện bất lợi và tập trung vào kỹ năng ngắm bắn, chẳng hạn như cách dùng ống ngắm. “Nếu em có thể bắn trong ánh sáng và thời tiết thế này, em sẽ tự tin hơn trong suốt bài thi.”
“Điểm số cao nhất của chị là bao nhiêu?” Pryor hỏi.
“Một trăm năm mươi.”
“Đấy là điểm tuyệt đối. Chị học bắn ở đâu vậy?”
“Chị đã tham gia rất nhiều cuộc thi bắn súng suốt thời niên thiếu. Đó là truyền thống gia đình. Bọn chị ganh đua về tốc độ và tính chính xác. Cũng giống như bất kỳ điều gì em làm thôi; nếu em muốn làm tốt, em phải thật nỗ lực. Điểm mấu chốt là lặp đi lặp lại và phát triển nó thành thói quen tốt.”
Pryor co tay lại, rồi hà hơi vào nắm tay.
“Tay em đang bị đau.”
“Một chút.”
“Hãy kiếm một quả bóng nhồi cát và bóp nó khi em đi tuần hoặc khi ngồi nhà xem ti-vi.”
“Này, Tracy!”
Tracy quay lại. Mặc dù Virgil bị sương mù che khuất, cô vẫn nhận ra anh ta đang đứng cạnh chiếc Plymouth màu mận của mình với cửa xe để mở. Anh ta đứng trước ánh đèn ô tô và đang khua tay trên đầu. Ánh đèn pha xuyên qua lớp sương mù dày đặc cùng đám khói trắng sau ống
xả khí. “Văn phòng khóa cửa rồi. Cô nhớ khóa cổng khi nào về nhé!” “Không vấn đề gì, Virgil.”
Virgil vẫy tay lần nữa trước khi quay vào xe và lái đi. Động cơ kêu ầm ĩ như một chiếc thuyền.
Tracy để cho Pryor bắn đến khi hết sạch đạn. Khi họ kết thúc, Pryor nở nụ cười mãn nguyện. Cô cần luyện tập nhiều hơn, nhưng khả năng bắn đã được cải thiện.
“Em sẽ giúp chị nhặt vỏ đồng.” Cô nói, mặc dù vỏ đạn tập bắn được làm bằng nhôm.
“Cứ để chị.” Tracy nói, thấy hơi có lỗi vì giữ Pryor muộn thế này trong tiết trời khắc nghiệt. “Em về nhà đi! Đừng gắng sức quá trong tối đầu tiên.”
“Còn chị thì sao?” Pryor hỏi.
“Chỉ có một con mèo đang đợi chị. Đi đi! Hãy về với gia đình em.” Họ thu lại bia tập bắn của Pryor và Tracy dẫn cô ấy ra cổng. Pryor đưa Tracy kính và chụp tai để trả lại cho Virgil. “Thật sự em không biết nói cảm ơn sao cho đủ.”
“Có, em có thể đấy. Chỉ cần vượt qua kì thi sát hạch là được. Sau đó truyền đạt lại những gì chị đã dạy em.”
Khi tiếng động cơ chiếc minivan của Pryor nhỏ dần, Tracy lấy chiếc xô hai mươi lít bên dưới tháp điều khiển ra và bắt đầu hướng về phía khung kim loại, thu nhặt vỏ đạn. Chúng kêu rào rào trong xô như tiếng đồng xu va vào nhau. Những con chó trong chuồng vốn đã im lặng kể từ lúc Pryor ngừng bắn bắt đầu sủa lại. Tracy dừng tay, không nghĩ là chúng nghe thấy tiếng va chạm của vỏ đạn. Dường như có tiếng động cơ xe hơi, cô nhìn ra đường nhưng không thấy ánh đèn pha rọi lại trong sương mù. Một tiếng cạch khẽ thu hút sự chú ý của cô. Ngay sau đó, đèn cao áp vụt tắt, bóng tối bao trùm. Cô kiểm tra điện thoại: đúng chín giờ.
Virgil đã hẹn giờ cố định để đèn tự động tắt.
Cô nghe thấy tiếng lạch cạch của hàng rào mắt cáo và nghĩ mình trông thấy ai đó đang đúng gần cánh cổng để mở nhưng không thể chắc chắn qua màn sương mù. Cô đặt cái xô xuống, để tay vào báng khẩu Glock và hét lên át tiếng chó sủa: “Tôi là sĩ quan cảnh sát Seattle và tôi có vũ khí. Nếu có ai đang ở đó, hãy lên tiếng!”
Không một ai đáp lời.
Cô vẫn giữ tay trên khẩu Glock, nhấc cái xô lên, mang tới chỗ tháp điều khiển, đặt nó sát tường và lấy kính cùng chụp tai của Pryor thả vào khe cửa văn phòng trên đường rời đi. Cô bước về phía lối ra, quét mắt khắp con đường để phát hiện bất kỳ dấu hiệu chuyến động nào.
Khi đi ngang qua cổng, có thứ gì đó gai gai quét qua đầu cô. Cô nhảy bật lại, khua khua tay trong không khí, nâng khẩu Glock lên. Khi không thấy ai đến gần, cô lôi điện thoại ra và bật đèn. Ánh sáng đột ngột khiến nó còn khó nhìn hơn, giống như quầng sáng đèn pha rọi qua lớp sương mù trong đêm. Cô bước lại gần lối ra và giơ đèn lên.
Một cái thòng lọng treo cô lủng lẳng trên một sợi dây thừng được móc vào dây thép gai trên đỉnh hàng rào.
Cô nhanh chóng đánh giá tình hình. Cô đang ở một mình và, ngay lúc này, đang rơi vào thế bất lợi. Cô tắt đèn.
Chiếc thòng lọng rõ ràng không có ở đó khi Pryor rời đi và đèn cao áp vẫn bật. Tracy không hề nghe hay trông thấy gì. Cô đã đúng khi nghĩ mình nghe thấy tiếng xe hơi và trông thấy ai đó đứng ở cổng. Quả là táo tợn khi để lại một cái thòng lọng ngay trường bắn của cảnh sát. Liệu người đó có biết cô vẫn ở đây hay cho rằng đây là khu đất hoang? Sương mù sẽ khiến cho bất cứ ai khó mà trông thấy được cô. Cô gạt bỏ giả thuyết đó. Thật quá trùng hợp khi ai đó để lại cái thòng lọng đúng vào tối Tracy tập bắn. Thế nghĩa là có người đã theo dõi cô. Đây là hành
động cố ý. Câu hỏi là liệu nó có phải chuyện cá nhân không? Dạo gần đây, Sở cảnh sát đang trở thành đích ngắm của giới truyền thông bởi những nhóm phụ nữ phẫn nộ với cuộc điều tra một vũ công khiêu dâm ở Bắc Seattle là Nicole Hansen bị siết cổ trong phòng nhà nghỉ. Cuộc điều tra này vốn là của Tracy cho đến khi cô đột ngột trở về Cedar Grove để tìm cách mở một phiên tòa tái thẩm cho kẻ bị kết án giết em gái cô nhiều năm trước, dẫn đến việc hắn được phóng thích. Trong khi cô đi vắng, Nolasco đã chuyển vụ Hansen cho Đơn vị Phụ trách Hồ sơ Tồn đọng, gây ra sự phản đối từ cha mẹ Hansen và những nhóm bảo vệ nhân quyền phụ nữ.
Tracy ấn số trên điện thoại di động của mình. Khi có tín hiệu trả lời, cô cung cấp tên, số hiệu và vị trí, sau đó yêu cầu hỗ trợ cùng một đội khám nghiệm hiện trường.
Ngắt kết nối, cô tiếp tục đánh giá tình hình. Cô không thích ở bên ngoài lộ liễu thế này. Xe tải của cô đậu ngay bên trái cổng. Nếu đến được đó, cô có thể lái trở lại lối vào trường bắn chờ hỗ trợ.
Tracy tiến về phía trước, nâng khẩu Glock lên. Cô tránh cái thòng lọng và bước qua cổng, xoay lưng về phía hàng rào. Lớp sỏi lạo xạo bên dưới giày khi cô bước từ chỗ mui xe sang bên ghế lái. Cô lấy chìa khóa, liếc nhìn xuống để tra chìa vào ổ và vặn. Khóa cửa bật mở. Cô không vội vàng mà chờ một giây trước khi mở cửa xe. Ngay khi chuẩn bị vào trong, cô phát hiện có thứ gì đó nhô ra từ thùng xe phía sau và nhận ra nó là góc của cửa sổ thùng xe.
Cô đi men tới chỗ thanh hãm xung ở đuôi xe, dừng lại, sau đó xoay người liếc nhìn bên trong thùng xe. Trống trơn. Cô quay lại quan sát khắp khu vực phía sau, nhưng chỉ thấp thoáng trông thấy những đường dây điện thoại trong màn sương mù.
Cô hạ cửa sổ thùng xe xuống và xoay tay nắm cửa, nghe nó kêu cạch một tiếng. Khi cô trở lại buồng lái, những con chó trong chuồng lại bắt
đầu sủa.
CHƯƠNG 2
Tracy lái xe trở lại con đường lớn phía trước con đường hẹp dẫn tới Hiệp hội Thể thao Cảnh sát Seattle. Cô không phải chờ lâu. Chẳng mấy chốc một đơn vị tuần tra đã đến. Cô chỉ thị cho viên cảnh sát mặc đồng phục căng dây cảnh giới phong tỏa lối vào. Ngay sau đó, cô mừng là mình đã làm vậy. Những chiếc xe thùng của giới báo chí và cánh phóng viên ập đến, theo sau là viên trung sĩ quản lý đội của cô, Billy Williams.
“Tôi tưởng cô báo tin bằng điện thoại di động.” Williams nói, đưa mắt nhìn giới truyền thông.
“Tôi gọi bằng di động mà.” Tracy đáp.
Việc sử dụng điện thoại di động lẽ ra đã chặn được giới truyền thông, nhưng Sở Cảnh sát Seattle từ lâu đã hay đưa chuyện. Cấp trên thích lấy lòng đám phóng viên bằng cách cung cấp thông tin cho họ, và các điều tra viên trong Ban Tội phạm Bạo lực nghi ngờ rằng trong số họ có kẻ làm rò rỉ tin tức. Bản thân Tracy cũng thu thập được những tin tức cần thiết sau chuyện xảy ra ở Cedar Grove.
Williams chỉnh lại chiếc mũ bê rê len màu đen đã thành vật cố hữu của ông kể từ khi ông chấp nhận điều không thể tránh khỏi và cạo đầu. Ông nói chiếc mũ giúp giữ ấm vào mùa thu đông và bảo vệ da đầu khỏi ánh nắng mặt trời trong suốt mùa hè. Tracy ngờ là Billy chỉ ra vẻ như vậy mà thôi. Ông cũng nuôi bộ ria mép và chòm râu nhỏ bên dưới khiến ông trông giống hệt diễn viên Samuel L. Jackson.
Kinsington Rowe, cộng sự của Tracy, đến sau đó mười phút. Kins
xuống khỏi chiếc BMW đời cũ, mặc chiếc áo khoác da vào. “Xin lỗi.” Anh nói. “Chúng tôi đang ăn tối ở nhà bố mẹ Shannah. Chúng ta có gì nào?” “Tôi sẽ chỉ cho anh.” Tracy nói. Kins trèo lên buồng lái của chiếc xe tải cùng cô. Billy theo sau trong chiếc xe Jeep của ông. “Cô ổn chứ?” Kins hỏi.
“Tôi sao?”
“Cô có vẻ hơi bối rối.”
“Tôi ổn cả.” Muốn thay đổi chủ đề trò chuyện, cô nói. “Bố mẹ Shannah sao rồi?”
Kins nhăn mặt. “Chúng tôi đang cố gắng ăn tối cùng nhau vào các ngày Chủ nhật để xem có cải thiện được gì không. Tôi đã bị cuốn vào cuộc thảo luận về vấn đề kiểm soát súng ống với bố cô ấy.” “Rồi sao?”
“Như cô đoán thôi.”
Tracy cua xe một vòng rộng và đỗ ngay tại lối vào trường bắn. Cô bật cần gạt nước để lau lớp sương mù trên kính chắn gió. Đèn pha xe tải chiếu thẳng vào chiếc thòng lọng treo cổ.
“Cô nghĩ sao về nó?” Kins hỏi.
“Cũng chưa có gì chắc chắn. Ai đó đã treo nó lên ngay sau khi đèn tắt.”
“Hắn muốn cô nhìn thấy nó.”
“Có vẻ thế.”
“Chính xác là vậy.”
Họ rời khỏi buồng lái và đến gần chỗ Williams đang đứng. “Có vẻ là cùng loại dây thừng.” Kins nói. “Cùng màu. Không thấy nút thắt.” Nicole Hansen không chỉ bị siết cổ. Cô ta còn bị trói ngược tứ chi với một cơ chế tinh vi nhằm tra tấn nạn nhân. Nếu Hansen duỗi thẳng chân,
nó sẽ kéo dây và siết chặt thòng lọng. Cuối cùng, cô ta sẽ kiệt sức khi phải cố giữ yên tư thế và rồi tự siết cổ mình. Tracy cùng Kins đều nhận định đó là một vụ giết người, mặc dù họ không loại trừ ngay khả năng Hansen chết vì gặp sự cố trong khi thực hiện một tư thế tình dục. Khó mà tưởng tượng được một người phụ nữ lại đồng ý bị tra tấn như vậy, nhưng Tracy đã từng chứng kiến những việc còn tồi tệ hơn khi cô bị phân về Đơn vị Chống tấn công tình dục. Khi báo cáo cho thấy trong máu của Hansen có Rohypnol, một loại thuốc cưỡng dâm, họ đã điều tra theo hướng đó.
“Vậy thì giả thiết thứ nhất, đây chính là kẻ đã giết Nicole Hansen.” Kins nói. “Giả thiết thứ hai, có ai đó giận dữ bởi vụ Hansen đã bị chuyển thành án tồn và muốn được làm rõ.”
“Cũng có thể là một kẻ bắt chước.” Billy nói.
“Là giả thiết thứ ba.” Kins đáp.
Trong suốt cuộc điều tra về vụ Hansen, Maria Vanpelt, phóng viên đài truyền hình địa phương, đã tiết lộ ý kiến của một chuyên gia rằng sợi dây thừng dùng để thắt cô Hansen là sợi polypropylene xoắn phải*. Sở cảnh sát Seattle đã lớn tiếng phản đối giám đốc đài truyền hình. Ông ta đã xin lỗi rất nhiều và hứa rằng chuyện đó sẽ không bao giờ xảy ra nữa. Không một ai ở Sở cảnh sát Seattle giữ nổi bình tĩnh.
“Dù lý do là gì.” Billy nói. “Hắn đã để nó ở chỗ cô không thể không nhìn thấy. Thế có nghĩa là hắn đã theo dõi cô. Tôi sẽ cử người để mắt trông chừng giúp cô.”
“Tôi không cần bảo mẫu đâu, Billy.”
“Chỉ đến khi chúng ta biết được gã này đang toan tính gì thôi.” “Tôi sẽ bắn hắn trước khi hắn có thể lại gần tôi trong bán kính ba mét.” Tracy nói.
“Vấn đề là…” Kins lên tiếng. “Cô không có chút manh mối nào về
danh tính của gã này.”
CHƯƠNG 3
Một chiếc xe tuần tra từ Phân khu Tây Nam đỗ bên lề đường trước nhà Tracy ở quận Admiral thuộc Tây Seattle khi cô lái vào đường xe chạy. Cô vẫy tay chào viên cảnh sát và lái vào nhà để xe một cách cực kỳ gọn gàng và ngay ngắn. Đồ nội thất cùng đống hộp các tông đựng hầu hết đồ đạc của cô từ căn hộ trên Đồi Capitol vẫn đang xếp chồng lên nhau chiếm nửa không gian còn lại của nhà để xe đôi*. Cô đã thuê ngôi nhà được trang bị đồ đạc đầy đủ này từ một đặc vụ FBI. Anh ta và vợ đã chuyển đến Hawaii nhưng không muốn bán nhà cho đến khi họ chắc chắn là mình thích sống ở nơi thiên đường ấy.
Tracy bước qua cánh cửa dẫn vào hành lang nhỏ dẫn tới bếp, lấy một chai Chardonnay đã mở từ tủ lạnh và rót cho mình một ly. Roger, con mèo khoang của cô, lon ton chạy vào phòng, nhảy lên mặt kệ bếp, bước lại gần và kêu meo meo. Chẳng phải vì nó yêu thương gì cô. Nó đang muốn được cho ăn. Cô có máy tự nhả thức ăn khô cho nó, nhưng cô đã làm hư nó bằng cách cho nó ăn thức ăn đóng hộp vào buổi tối. Đến lúc cô từ trường bắn về tới nhà thì cũng đã quá giờ ăn tối thông thường. “Đúng là đồ đực rựa.” Cô nói, gãi đầu và vuốt ve lưng Roger. “Giờ thì mày đang mong đợi thứ này mỗi tối rồi đấy.”
Cô lôi một hộp thức ăn khỏi tủ lạnh và đổ vào bát, chiêm nghiệm lại buổi tối của mình, cho đến khi chuông cửa kêu. Cô băng qua phòng khách, Roger bám theo sát gót, và ấn nút kích hoạt hệ thống liên lạc ở cánh cổng với hàng rào sắt rèn kiên cố cao gần ba mét bao quanh sân trước.
“Là anh đây.” Dan lên tiếng.
Tracy ấn nút thứ hai để mở khóa cổng và bế Roger lên. Nó đã thành bậc thầy trong nghệ thuật đào tẩu, và vào cái thời điểm muộn thế này nó cũng có khả năng trở thành bữa ăn cho chó sói. Cô mở cửa trước và vẫy tay kiểu "ổn cả mà " với viên cảnh sát khi Dan giữ cửa cổng cho Rex và Sherlock vào. Cả hai con chó đều là giống lai giữa chó Rhodesian và Mastiff, nặng tổng cộng một trăm ba mươi cân. Chúng xô đẩy nhau, tách ra chỗ đài phun nước đặt giữa sân và cùng chạy lại chỗ Tracy. Chẳng muốn dây dưa với chúng, Roger co người nhảy xuống và chạy vào trong nhà, rất có thể sẽ nhảy lên chỗ cao hơn. Tracy tóm mõm hai con chó và gãi lông chúng. “Chúng mày thế nào rồi hử? Các cậu bé của chị khỏe chứ?”
Dan đặt chiếc túi du lịch nhỏ trên lối vào lát đá cẩm thạch. “Sao lại có cảnh sát ngồi trong xe tuần tra đỗ ngoài cửa nhà em vậy?” “Em đã bảo anh rồi, anh không phải bấm chuông đâu.” Cô nói. “Anh có thể dùng mã số mà.” Khóa trên cổng và cửa trước đều được kích hoạt bằng mã có bốn chữ số. Mặc dù Tracy và Dan đã hẹn hò nghiêm túc được ba tháng nhưng Dan chưa bao giờ tự tiện vào nhà cô, cũng không đưa cô chìa khóa nhà anh ở Cedar Grove.
Cô đóng cửa lại. Mấy con chó lao vọt đi tìm Roger, kẻ đang đứng trên nóc kệ sách, cong người rít lên.
“Có chuyện gì vậy?” Dan hỏi.
Cô cầm ly của mình lên trên đường vào bếp. “Anh muốn uống một ly không?”
“Chắc chắn rồi, nhưng tốt hơn là anh nên đưa chúng ra ngoài trước đã.” Cedar Grove – thị trấn nhỏ nơi Dan và Tracy lớn lên và là nơi Dan vừa chuyển về ở hẳn sau một thời gian sống ở Bờ Đông – cách đây một tiếng rưỡi chạy xe về phía bắc.
Cô nghe tiếng anh bước trên cầu thang xuống tầng dưới, tiếng chân lũ chó chạy rầm rập phía sau. Ngôi nhà được xây dựng trên các cột trụ. Tầng trên, ngang mặt đường, bao gồm phòng bếp, phòng ăn kiêm phòng khách có không gian mở và một phòng ngủ chính kèm phòng tắm. Mặt bằng rộng gấp đôi căn hộ của Tracy trên Đồi Capitol. Cô chưa bao giờ dùng đến tầng dưới: một phòng sinh hoạt gia đình với quầy bar đầy đủ tiện nghi, đi văng da hình chữ L, ti-vi, hai phòng ngủ và một phòng tắm nữa. Cô khóa cứng cánh cửa phía cuối hành lang. Thời điểm duy nhất nó được mở là khi Dan đưa Rex và Sherlock đi giải quyết trên khoảng sân nhỏ phía sau.
Tracy bước ra hiên bên ngoài phòng ăn. Sương mù xám lơ lửng ảm đạm trên vịnh Elliott, che khuất phần lớn đường chân trời của Seattle. Vào những tối quang đãng, cô có thể bao quát toàn bộ khung cảnh ngoạn mục của vịnh, khi ánh đèn của các tòa nhà trong trung tâm thành phố Seattle in bóng lấp lánh trên mặt nước tối đen, những chiếc ca nô chở khách trông như những con bọ nước di chuyển từ bến 50 đến Tây Seattle, và các bến phà sáng rực suốt con đường từ bến Colman đến đảo Bainbridge và Bremerton. Quang cảnh tuyệt đẹp ấy cùng an ninh tốt đã thuyết phục Tracy thuê căn nhà này.
Bên dưới cô, Rex và Sherlock đang xô đẩy qua cửa sau, kích hoạt hệ thống cảm biến phát hiện chuyển động trên ngọn đèn cao áp mà Dan đã lắp đặt trong lần trước anh ghé qua. Bóng chúng đổ dài khi chúng hít ngửi dọc theo mép bãi cỏ nhỏ tiếp giáp với sườn đồi trải dài khoảng sáu mươi mét dẫn xuống Harbor Way, con đường chạy dọc theo vịnh Elliott.
Sau khi chúng đã giải quyết xong, Dan gọi chúng lại và chúng chạy theo anh vào trong. Dan thở hồng hộc khi tới đứng cạnh Tracy trên hiên. “Đèn hoạt động tốt đấy.” Anh nói, nhận lấy ly rượu. “Em thấy rồi.”
“Được rồi, vậy thì đừng đánh trống lảng nữa và nói anh nghe đã xảy
ra chuyện gì. Tại sao lại có xe cảnh sát đỗ ngoài kia?”
Tracy kể cho anh về cái thòng lọng.
Dan đặt ly rượu xuống bàn. “Và em nghĩ đó có thể là kẻ đã giết cô nàng vũ công kia sao?”
“Em không biết nữa. Cũng có thể là một kẻ bắt chước. Có lẽ ai đó thấy giận dữ vì vụ điều tra đã bị chuyển thành án tồn.”
“Khả năng đó là một kẻ bắt chước có cao không?”
“Cũng khá cao vì Maria Vanpelt đã đưa tin Hansen bị siết cổ bằng thòng lọng và tiết lộ kiểu dây thừng được sử dụng.”
“À, anh đồng ý với ông trung sĩ của em. Dù kẻ treo cái thòng lọng đó là ai thì hắn cũng đã theo dõi em. Và thường thì chẳng mấy ai theo dõi cảnh sát. Tên này không phải một kẻ bám đuôi vớ vẩn đâu.”
“Em biết chứ.” Cô nói. “Đó là lý do tại sao em gọi anh tới.” Dan tỏ ra sững sờ trong giây lát, có lẽ bởi Tracy là người chẳng mấy khi thừa nhận cảm giác yếu đuối, nhưng việc nhận ra có ai đó đang theo dõi mình khiến cô nghĩ tới hai tình huống tương tự ở Cedar Grove. Lần đầu tiên là ở phòng khám thú y khi Rex bị bắn. Cô đã nghĩ có ai đó đang theo dõi mình từ trong một chiếc xe hơi. Thật không may, vì tuyết rơi quá dày nên cô không thể xác định được loại xe hay trông thấy ai ngồi bên trong, do đó cô đã bỏ qua nó. Nhưng cô đã không bỏ qua khi trông thấy chiếc xe với kính chắn gió sạch bong đậu bên ngoài phòng nhà nghỉ giữa đêm khuya mặc dù bên ngoài tuyết đang rơi nặng hạt. Tuy nhiên khi cô quay trở lại phòng để lấy súng thì chiếc xe đã biến mất. “Được rồi!” Cuối cùng, Dan lên tiếng. “Thật ra, anh mừng vì em đã gọi anh.”
Cô bước đến và áp mặt vào ngực anh. Chiếc áo len cashmere của anh thật mềm mại và ấm áp. Anh ôm cô và hôn lên đỉnh đầu cô. Bên ngoài, cô nghe thấy tiếng rền khẽ của còi báo hiệu sương mù, và lại
nghĩ về chiếc thòng lọng.
CHƯƠNG 4
Hắn có quá nhiều thời gian rảnh rỗi.
Hắn chuyển chỗ chiếc ghế – loại rẻ tiền thường thấy trong các phòng tiệc – để hắn có thể dễ dàng trông thấy chiếc ti-vi gắn trên trần nhà ở góc phòng. Nó to khủng khiếp, với đầu VCR kết hợp chạy đĩa DVD. Hắn sắp sửa bật cuốn băng video thì bị mê hoặc khi phát thanh viên úp mở về một tin tức sốt dẻo ngay trước phần quảng cáo, một thủ thuật thực sự khiến hắn khó chịu. Chắc chắn đó là tin tức nóng hổi về một điều tra viên án mạng ở Seattle, nhưng trước tiên, hắn phải chịu đựng màn quảng cáo đần độn về thuốc Cialis đã – một người đàn ông và một người phụ nữ lớn tuổi lặn xuống đáy hồ rồi nổi lên trong vòng tay âu yếm.
“Mày xem thứ nhảm nhí này hả?” Hắn hỏi người phụ nữ. “Chúng nó là diễn viên. Mày biết chúng là diễn viên đúng không? Họ trả chúng tiền để thông báo với thế giới rằng chúng có thể hứng lên hoặc bị trĩ.” Hắn lắc đầu. “Vì tiền, có gì mà chúng không làm chứ?”
Người phụ nữ lầm bầm một câu trả lời khó nghe. Thế cũng tốt, vì lòng nhân từ, phần quảng cáo đã kết thúc và bản tin bắt đầu. “Suỵt!” Hắn nói.
Phát thanh viên nam đang ngồi sau chiếc bàn trong trường quay, bức ảnh chụp chiếc thòng lọng hiện lên ngay bên trên vai phải của ông ta. ‘Tin tức nóng hổi tối nay, một điều tra viên án mạng ở Seattle đã có một phát hiện đáng lo ngại ở trường bắn của Sở Cảnh sát.’ Ông ta nói. ‘Phóng viên điều tra Maria Vanpelt của KRIX đang truyền hình trực tiếp
từ Hiệp hội Thể thao Cảnh sát Seattle ở Tukwila.’
Cô phóng viên tóc vàng đang đứng trước ánh đèn sáng chói của máy quay, những giọt nước đọng lấp lánh trên chiếc áo khoác màu tím pha đen không thấm nước. ‘Tối nay, các điều tra viên hiện trường đã gấp rút đến trường bắn từ sớm.’ Cô ta nói.
“Họ cố làm cho mọi thứ trở nên ấn tượng, phải vậy không?” Gã đàn ông lên tiếng.
Người phụ nữ không đáp lời.
‘Nguyên do là một điều tra viên án mạng tập bắn ở khu thao trường của cảnh sát đã phát hiện ra một chiếc thòng lọng.’
Gã đàn ông ngồi thẳng dậy.
‘Có lẽ các bạn vẫn còn nhớ bản tin độc quyền của tôi về việc một vũ công thoát y tên Nicole Hansen bị siết cổ bằng một chiếc thòng lọng trong phòng nhà nghỉ ở đại lộ Aurora.’ Vanpelt nói. ‘Vâng, tối nay chúng tôi được biết điều tra viên án mạng phụ trách cuộc điều tra đó cũng chính là người đã phát hiện ra chiếc thòng lọng ở trường bắn.’
Màn hình hiện lên hình ảnh các sĩ quan cảnh sát mặc đồng phục và thường phục cùng nhiều xe tuần tra và một chiếc xe thùng của đội khám nghiệm hiện trường. ‘Gia đình Nicole Hansen đã chỉ trích quyết định của Sở cảnh sát Seattle khi họ chuyển hồ sơ vụ án sang Đơn vị Phụ trách Hồ sơ Tồn đọng chỉ sau bốn tuần lễ. Quyết định đó cũng vấp phải sự phản đối mạnh mẽ của một số tổ chức bảo vệ quyền lợi phụ nữ. Sở Cảnh sát từ chối bình luận về việc liệu có mối liên hệ nào giữa vụ Hansen và chiếc thòng lọng được tìm thấy tối nay hay không, nhưng chắc chắn là nó muốn truyền tải một thông điệp nào đó.’
Phát thanh viên lật giở đống giấy tờ trên bàn. ‘Xin cảm ơn Maria. Tất nhiên, KRIX chúng tôi sẽ tiếp tục theo dõi chặt chẽ thông tin này.’ “Tao thì không.” Gã đàn ông cầm điều khiển lên, hướng về phía ti-vi
và ấn nút Play. Đầu VCR nhấp nháy và kêu vo vo. Màn hình vụt tối đen, sau đó phủ đầy sóng nhiễu. Một lát sau, tiếng nhạc bắt đầu và thỏ Bugs cùng vịt Daffy nhảy ra từ sau một bức màn nhưng đỏ trong trang phục biểu diễn với mũ rơm và gậy ba toong. Gã đàn ông hát theo chúng, cảm thấy sự ấm áp thoải mái bắt đầu lan tỏa trong cơ thể mình.
Hắn có quá nhiều thời gian rảnh rỗi.
Hắn kiểm tra đồng hồ. Cũng không nhiều thời gian đến thế. Hắn quẹt một que diêm, ngọn lửa màu xanh pha vàng sáng lên trong căn phòng tối tăm. Hắn châm một điếu thuốc, rít vào cho đến khi đầu điếu thuốc hông lên. Cũng giống như cựu Tổng thống Bill Clinton, hắn không rít sâu. Hắn phả làn khói vào tấm bảng cảnh báo bằng nhựa đề chữ ‘Không Hút Thuốc’ dán trên giấy dán tường màu vàng bên ngoài cửa nhà tắm.
“Đến giờ biểu diễn rồi.” Hắn nghiêng người về phía trước và ấn đầu điếu thuốc lá vào bàn chân người phụ nữ.
CHƯƠNG 5
Tracy thức giấc sau vài giờ ngủ say. Mới hơn bốn giờ sáng. Không muốn đánh thức Dan, cô lặng lẽ trượt khỏi giường. Rex và Sherlock bật dậy từ ổ của chúng và nhìn cô. Cô lấy điện thoại di động và khẩu Glock trên tủ đầu giường, chộp lấy áo choàng phía sau cánh cửa rồi rời khỏi phòng. Rex lại nằm xuống, rên lên vẻ mệt mỏi, còn Sherlock thì duỗi chân và cong lưng, sau đó đi theo Tracy ra khỏi phòng như đang buộc phải thể hiện tinh thần nghĩa hiệp.
Tracy đóng cửa phòng ngủ và xoa đầu nó. “Mày là chú chó ngoan, mày biết chứ?”
Trong bếp, cô pha trà và thưởng cho Sherlock một khúc xương nhân tạo. Bởi Dan ở lại qua đêm nên cô đã giữ một túi trong phòng đựng thực phẩm. Sherlock theo Tracy vào phòng ăn và nằm xuống dưới chân cô khi cô ngồi xuống bàn. Tracy tiếp tục vuốt ve đầu nó và nhấm nháp trà, cho tâm trí và cơ thể mình có thời gian thức giấc. Tiếng còi báo hiệu sương mù lại rền vang khiến Sherlock vểnh tai lên trước khi tiếp tục gặm khúc xương của mình. Bên ngoài những cánh cửa kính trượt, sương mù vẫn che khuất tầm nhìn. Ngoại trừ tiếng gặm của Sherlock và tiếng cọt kẹt của căn nhà, không gian thật yên tĩnh.
Tracy mở máy tính xách tay và ấn nút trên bàn phím. Màn hình phát ra ánh sáng màu xanh nhạt. Với vài cú gõ, cô đã mở được trang web của văn phòng Bộ trưởng Tư pháp tiểu bang Washington, gõ tên và mật khẩu của mình, đăng nhập vào HITS – Hệ thống Theo dõi Điều tra Án mạng. HITS là cơ sở dữ liệu chứa thông tin của hơn hai mươi hai nghìn
vụ giết người và tấn công tình dục khắp Wasington, Idaho và Oregon. Các điều tra viên có thể sử dụng các từ khóa như "dây thừng" và "thòng lọng" để tìm kiếm các vụ án tương tự vụ của họ. Các vụ án giảm xuống còn hai nghìn hai trăm bốn mươi vụ, sau đó thu hẹp còn bốn mươi ba vụ khi cô giới hạn tìm kiếm những nạn nhân không bị tấn công tình dục.
Cô và Kins đã rất ngạc nhiên khi báo cáo của bác sĩ pháp y cho thấy không có tinh dịch trong cơ thể Nicole Hansen và không có dấu hiệu của chất tiêu diệt tinh trùng hay chất bôi trơn với giả thiết hắn sử dụng bao cao su. Hansen không bị tấn công tình dục, ít nhất là bởi kẻ đã giết cô ta. Tracy bắt đầu sàng lọc bốn mươi ba trường hợp từ lúc tối, nhưng quá trình này rất chậm chạp và mất thời gian. Mẫu tờ khai của HITS yêu cầu các điều tra viên phải trả lời hơn hai trăm câu hỏi về nhiều chủ đề bao gồm nguyên nhân tử vong, đặc điểm nhận dạng của nạn nhân như hình xăm hoặc bớt và các đặc điểm đáng chú ý khác ở từng người. Thủ tục giấy tờ thường là nguyên nhân gây suy sụp của tất cả các điều tra viên, và Tracy chẳng mấy ngạc nhiên khi thấy một vài bảng câu hỏi chưa đầy đủ.
“Mày nghĩ sao hả Sherlock?”
Con chó to ngẩng đầu lên khỏi khúc xương, nhìn cô.
“Mày có bất kỳ manh mối nào không?”
Cặp lông mày của nó nhướng lên như thể đang thắc mắc. “Không có gì đâu. Gặm khúc xương của mày đi!”
Trong một giờ kiểm tra, cô đã loại bỏ thêm ba trường hợp, uống một tách trà mới và ăn hai miếng bánh mì nướng. Sherlock nằm bệt xuống cạnh cô, ngáy khe khẽ. Tracy thấy ghen tị với nó. Qua khung cửa sổ gắn kính dày, những tòa nhà nằm ở trung tâm thành phố Seattle nhô lên từ màn sương mù in bóng lên nền trời màu nâu đỏ khiến Tracy theo bản
năng ngâm nga câu tục ngữ trong ký ức từ thuở ấu thơ: “Ráng đỏ buổi sáng, người đi biển nên cẩn thận; ráng đỏ buổi tối, người đi biển mừng vui.” Cô hy vọng nó không đúng trong trường hợp này.
Cô nhìn đồng hồ trên máy tính và quyết định dành thời gian xem xét thêm một trường hợp khác trên HITS trước khi đánh thức Dan dậy. Cô cũng muốn đưa cho viên cảnh sát ngồi trong xe tuần tra một tách cà phê. Cô đã từng phải giám sát liên tục. Việc đó chẳng vui vẻ gì, đặc biệt là khi bạn phải đi vệ sinh. Nam giới có thể mang theo một cái chai. Với cô thì không đơn giản như vậy.
Cô bắt đầu di chuột qua bản báo cáo tiếp theo. Beth Stinson sống một mình khi bị sát hại tại nhà ở Bắc Seattle. Tracy kéo xuống phần mô tả tình huống Stinson qua đời và cô lập tức chú ý khi đọc thấy chữ "dây thừng" và "thòng lọng". Stinson được tìm thấy trong tình trạng khỏa thân trên sàn phòng ngủ với một cái thòng lọng quấn quanh cổ, hai cổ tay bị trói quặt ra sau lưng và bị cột lại với cổ chân. Mạch Tracy đập nhanh hơn. Điều tra viên ghi chú rằng giường ngủ vẫn gọn gàng, có thể đây là một chi tiết khiến ông ta cảm thấy kỳ lạ vì Stinson chết vào lúc sáng sớm. Tracy và Kins cũng có phản ứng tương tự với chiếc giường gọn gàng trong phòng nhà nghỉ của Nicole Hansen.
“Không có dấu hiệu đột nhập vào nhà.” Cô đọc to, lướt mắt nhanh hơn. “Không có dấu hiệu kẻ giết người lục lọi hay làm xáo trộn căn nhà.” Ví tiền của Stinson được tìm thấy trên kệ bếp, trong ví có ba trăm năm mươi đô-la. Đồ trang sức trong phòng ngủ của cô ta cũng không bị lấy cắp. “Không phải một vụ cướp tài sản.”
Tracy nhanh chóng kéo xuống phần câu hỏi về lối sống của Stinson. Stinson hai mươi mốt tuổi, là kế toán cho một cửa hàng lớn ở Bắc Seattle. Trong báo cáo không có gì cho thấy cô ta thích tiệc tùng, đưa đàn ông về nhà hay là người thích khổ dâm.
Cô kéo xuống câu hỏi số 102: "Liệu vụ án có liên quan đến tình dục?"
Ô trả lời "Có" được đánh dấu. Cô cuộn xuống câu hỏi số 105:
Có tìm thấy tinh dịch
trong cơ thể nạn nhân không?
☒ Không
☐ Có
“Gì vậy?” Cô nói lớn. Cô đọc lại hai câu hỏi. Các câu trả lời có vẻ không khớp. Có thể kẻ giết người đã mang bao cao su, nhưng Tracy không thể biết được trừ khi điều đó được ghi trong báo cáo của bác sĩ pháp y. Ngày tháng trong vụ giết người là từ chín năm trước, cô không có quyền truy cập trực tuyến thông tin đó.
Cô cuộn xuống phần người gây án. Wayne Gerhardt, hai mươi tám tuổi, là kỹ thuật viên của Roto-Rooter*. Gerhardt đã gọi đến điện thoại cố định nhà Stinson vào chiều hôm trước. Ngoại trừ một lần bị bắt vì lái xe khi sử dụng chất kích thích, anh ta không có tiền án tiền sự. Các điều tra viên đã phát hiện dấu giày bẩn trên thảm phòng ngủ của Stinson trùng khớp với đế đôi giày được tìm thấy ở tủ quần áo trong căn hộ của Gerhadt. Dấu vân tay của Gerhardt cũng được tìm thấy trong bồn rửa mặt của nhà tắm và phòng ngủ cũng như trên kệ bếp. Tracy cuộn xuống câu hỏi số 135: "Liệu có tìm thấy máu, tinh dịch hay các bằng chứng pháp y khác của Gerhardt, chẳng hạn như tóc, trên cơ thể Stinson không?" Ô trả lời "Không" được đánh dấu.
Tracy ngồi ngả ra sau, nghĩ rằng như thế thật kì quặc. Tại sao một kẻ sát nhân không thèm tránh để lại dấu vân tay lại không để lại bất kỳ bằng chứng pháp y nào khác? Không hợp lí chút nào!
Cô quyết định rằng vụ án này có các chi tiết tương đồng với vụ của Nicole Hansen, thế là đủ để cô lưu lại tập tin và nói chuyện với điều tra viên đã phụ trách vụ án. Cô kéo trở lại phần đầu của biểu mẫu.
4. Họ của điều tra viên: Nolasco
5. Tên: Johnny
“Chết tiệt!” Cô nói. Còn lâu Johnny Nolasco mới muốn cô, trong số biết bao người, đào bới lại hồ sơ cũ của mình.
Điện thoại di động của cô rung lên trên bàn ăn. Sherlock bật dậy như bị sốc. Dãy số trên màn hình hiển thị làm cô bối rối. Cô và Kins không thuộc đội phản ứng nhanh.
Vậy tại sao trung sĩ lại gọi cuộc gọi khẩn cấp cho cô?
CHƯƠNG 6
Tracy đã đi tuần trên tuyến đường Aurora trong năm đầu tiên sau khi tốt nghiệp Học viện Cảnh sát và được điều về Phân khu Bắc. Trong bảy năm qua, cô thậm chí còn trở nên quen thuộc với nó hơn khi cô tham gia điều tra vài vụ giết người trên tuyến đường này, kể cả vụ Nicole Hansen.
Từng là con đường huyết mạch để ra vào Seattle, đại lộ Aurora, hay còn được gọi là xa lộ bang 99, giờ đã trở thành con đường lớn có nhiều làn xe với những đường dây điện chằng chịt giữa các cột điện thoại và đèn giao thông, giữa các biển quảng cáo dịch vụ mát xa, cửa tiệm giặt là, cửa hàng thuốc lá và các cơ sở dành riêng cho người lớn. Một dãy nhà nghỉ nằm dọc theo tuyến đường, vài căn được xây vội vàng để kịp chứa lượng khách đến tham dự Hội chợ thế giới Seattle năm 1962. Sau hơn năm mươi năm, các công trình kiến trúc chưa bị phá hủy để thay thế bằng những ngôi nhà hiện đại giờ đã để lộ dấu hiệu tuổi tác, nhưng chúng vẫn tiếp tục trụ vững, phục vụ những người thường xuyên lui tới trên tuyến đường này với chút tiền ít ỏi trong tay để tìm mua ma túy hay thuê gái mại dâm.
Tracy lái xe chậm lại khi đến gần nhà nghỉ Aurora, giơ phù hiệu cho viên cảnh sát tuần tra đang điều tiết giao thông và lái xe xuôi theo một con đường dốc để vào bãi đỗ. Nhà nghỉ Aurora là điển hình của kiểu nhà nghỉ cũ trên tuyến đường này. Tòa nhà hình chữ U, có hai tầng, với các phòng nghỉ có thể vào được một cách thuận tiện từ bên ngoài. Kins đang đứng ở bãi đậu xe, hai tay nhét trong túi áo, cằm bị khuất lấp sau
lớp cổ áo đang dựng lên. Billy Williams, đóng vai trò giám sát viên, đứng cạnh anh. Cả hai đều nheo mắt khi ánh đèn pha xe tải chiếu vào mình. Tracy kéo khóa chiếc áo khoác phao lên và bước ra bầu không khí lạnh giá của buổi sáng. “Bổn cũ soạn lại.” Kins nói.
Williams gật đầu với cô tỏ ý "bắt đầu thôi" và đeo cặp kính mắt đang treo lủng lẳng trên một sợi dây vòng qua cổ. Tay ông run lên vì lạnh khi ông đọc một cuốn sổ ghi chép gáy xoắn. “Nạn nhân là Angela Schreiber, vũ công ở Pink Palace.” Tracy nhìn Kins, anh đang cau mày. Williams chỉ vào một cánh cửa kính bên dưới mái cổng của lối dành cho xe ra vào. “Người quản lý sống ở khu phía sau văn phòng làm việc. Anh ta nói rằng Schreiber đã đến đây một mình lúc hơn một giờ sáng nay, trả bằng tiền mặt.”
“Có ai đi cùng cô ta không?” Tracy hỏi.
“Anh ta nói không trông thấy bất cứ ai đi cùng cô ta. Anh ta không để ý, không quan tâm cho đến khi đã quá giờ mà cô ta vẫn chưa trả lại chìa khóa phòng.”
“Anh ta có quen mặt cô ta không?” Tracy hỏi.
“Anh ta bảo cô ta mới đến vài tháng trước. Luôn một mình. Luôn trả tiền mặt. Luôn trả lại chìa khóa. Rất đúng giờ và lịch sự. Cho đến tối nay. Khi cô ta không trả lại chìa khóa, anh ta đã đến phòng và gõ cửa. Khi không thấy ai trả lời, anh ta đã tự bước vào. Không vào sâu mà quay trở lại văn phòng ngay và gọi 911. Cảnh sát tuần tra đã phong tỏa căn phòng. Khám nghiệm hiện trường và Giám định pháp y đang trên đường đến. Khả năng có cả ai đó từ Đội trọng án.”
Bất cứ khi nào xảy ra một vụ bạo lực ở quận King, một trong những công tố viên có kinh nghiệm nhất của quận sẽ được cử đến hiện trường như một phần của Đội trọng án. Công tố viên được phân công sẽ sát sao với vụ án từ đầu đến cuối và sẵn sàng trả lời các điều tra viên những
câu hỏi về mặt pháp lý hoặc những vấn đề liên quan, với tiêu chí làm cho cuộc điều tra trở nên hiệu quả hơn. Một vài điều tra viên lớn tuổi không bằng lòng về việc phải ở dưới quyền các công tố viên tại hiện trường vụ án, nhưng Tracy thì chưa bao giờ thấy phiền hà gì.
“Anh đã thấy hiện trường chưa?” Tracy hỏi Kins.
Kins gật đầu. “Trong trường hợp này thì trăm nghe không bằng một thấy.”
Tracy bước đến cánh cửa cuối cùng bên dưới một mái hiên hẹp. Williams đã phong tỏa vòng trong bằng băng đỏ, và một viên cảnh sát tuần tra đứng bên ngoài cửa, cầm bản đăng ký. Bất cứ ai vượt qua vạch đều phải ký tên vào bản đăng ký đó và có một bản tường trình viết tay. Các sếp lớn thích xuất hiện ở hiện trường những vụ án nghiêm trọng, nhưng lại ghét phải viết tường trình.
“Có phải anh là sĩ quan phụ trách không?” Tracy hỏi, ký vào bản đăng ký.
“Phải.”
“Đội cứu hỏa đến chưa?”
“Rời đi khoảng mười phút trước rồi.”
“Anh ghi lại số hiệu đội chưa?”
Viên sĩ quan lấy ra cuốn sổ ghi chú nhỏ. “Đội 24.”
Tracy sẽ liên hệ và lấy báo cáo của đội đó. Thật lố bịch, nhưng đội cứu hỏa luôn chịu trách nhiệm với những vụ giết người, viện lý do đề phòng trường hợp nạn nhân vẫn còn sống, và nếu họ đã chết thì tuyên bố nạn nhân đã chết. Chuyện đó xảy ra như cơm bữa, và trong nhiều trường hợp dễ nhận thấy, những nhân viên cứu hỏa luôn xông vào hiện trường vụ án, làm đảo lộn các bằng chứng pháp y bởi để lại quá nhiều dấu giày phải kiểm tra rồi loại bỏ, giẫm lên vỏ đạn và thỉnh thoảng còn thay đổi tư thế tử thi.
Tracy nhìn ra rìa bãi đỗ xe, nơi cảnh sát tuần tra đang phong tỏa vòng ngoài bằng dây chuyên dụng. “Chăng dây qua cả lối xe chạy nữa nhé.” Cô nói.
“Chủ nhà sẽ phàn nàn cho xem.”
Cô không có tâm trạng quan tâm đến chuyện đó. “Cứ bắt giữ nếu ông ta chống đối anh.”
Viên cảnh sát rời đi.
“Quả là một buổi tối tệ hại nhỉ?” Kins nhìn cô và hỏi.
“Cả tháng tệ hại thì có.” Cô nói. “Tôi cảm giác nó sẽ còn tồi tệ hơn nhiều.”
Cô bước vào phòng. Angela Schreiber nằm nghiêng dưới chân giường, thi thể trần truồng bị cột lại và uốn cong, đầu ngửa ra sau, cổ căng ra, mắt mở. Một sợi dây thừng bị kéo căng qua một nút thắt và chạy dọc cột sống, buộc cổ tay và cô chân cô ta lại. Chân cô ta bị bẻ quặt ra sau, gót chân gần như chạm vào mông.
“Trói ngược tứ chi…” Kins nói, đứng ở ngưỡng cửa. “Giống một con vật ở một cuộc đóng dấu* tàn bạo.”
“Họ không giết động vật trong các cuộc đóng dấu đâu Kins.” Tracy nói.
Kins cào tay qua tóc và thở dài. “Ừ, phải, có vẻ như chúng ta có một gã cao bồi rồi.”
Đồng tử của Angela Schreiber đã chuyển sang màu xám và giác mạc của cô ta cũng mờ đi. Những đốm xuất huyết màu đỏ nhỏ xíu từ các mạch máu bị vỡ do áp lực quá mức lấm chấm trên mặt cô ta, dấu hiệu của
việc bị siết cổ, mặc dù cái thòng lọng đã kết thúc khá nhiều tranh cãi. Cũng như Nicole Hansen, Tracy ước tính Schreiber khoảng hai mươi tuổi. Cô ta là một cô gái trẻ hấp dẫn với mái tóc vàng cột đuôi ngựa và thân hình nhỏ nhắn.
“Cô ta nằm nghiêng à?” Tracy hỏi viên cảnh sát tuần tra giờ đã quay lại. “Hay bên cứu hỏa đã di chuyển cô ta?”
“Cô ta vẫn vậy.” Viên cảnh sát nói.
Tracy khuỵu gối để nhìn rõ hơn bàn chân Schreiber. “Chúng là gì vậy? Có phải vết bỏng do bị thuốc lá châm vào không?” Kins bước đến gần hơn, chụp ảnh bằng điện thoại của mình. Đội khám nghiệm hiện trường sẽ chụp không sót chi tiết nào trong phòng, nhưng anh thích có ảnh của riêng mình hơn. Thỉnh thoảng máy ảnh sẽ chụp được những thứ mà mắt thường không trông thấy được. “Theo tôi nhớ, Hansen không có những vết đó.”
“Đúng là không có!” Tracy nói. Cô nhìn lại cái thòng lọng và sợi dây thừng chạy dọc sống lưng Schreiber, sau đó quan sát căn phòng vốn là loại phòng điển hình của các nhà nghỉ trên tuyến đường này: một cái giường đôi với ga trải giường bằng vải bông mỏng, nội thất rẻ tiền và giấy dán tường ố vàng bởi khói thuốc lá ám vào. Cô không thấy bất kỳ mẩu thuốc lá hay dấu hiệu chống cự nào.
“Có vẻ chúng ta sẽ phải lục lại vụ Hansen.” Kins nói.
Quyết định của Nolasco chuyển vụ Hansen sang Đơn vị Phụ trách Hồ sơ Tồn đọng chỉ sau cuộc điều tra một tháng là rất hiếm, nhưng đó chính là kiểu đâm sau lưng của ông ta mà Tracy đã lường trước. Thế nghĩa là trong hồ sơ của Tracy có một vụ giết người chưa được giải quyết và điều này chỉ ra rằng cấp trên không hề tin tưởng cô sẽ giải quyết được vụ việc. Tuy nhiên, động thái đó đã vấp phải sự phản ứng gay gắt từ gia đình nạn nhân và các nhóm bảo vệ quyền lợi phụ nữ. Việc
một vũ công khiêu dâm bị siết cổ trong phòng nhà nghỉ đã trở thành tâm điểm để các nhà hoạt động xã hội thúc đẩy một chương trình nghị sự khẳng định Sở cảnh sát Seattle vô cảm với phụ nữ. Thời điểm không thể tệ hơn. Sở cảnh sát Seattle đã phải quay cuồng với cuộc điều tra từ Bộ Tư pháp với kết luận rằng các nhân viên cảnh sát Seattle đã lạm dụng vũ lực, và một quyết định sau đó của tòa án liên bang cho rằng sở đang cố trì hoãn thực hiện cải cách. Cấp trên rõ ràng không có tâm trạng để ý tới đám phụ nữ la hét với các phương tiện truyền thông.
Tracy xem xét tấm thảm màu xanh đã sờn mòn và để ý tìm xem có tóc, máu, tinh dịch và có Chúa mới biết còn gì khác mà đội khám nghiệm hiện trường sẽ hút lên không. Cô không ghen tị với họ. “Bên pháp y sẽ có khối việc để làm.” Cô nói.
“Có thể đây là điều họ ngụ ý trong phim Năm mươi sắc thái.” Cô nhướng mày nhìn Kins và nhìn lại cô vũ công. Tracy muốn cắt dây, nhưng Stuart Funk, bác sĩ pháp y của quận King mới có thẩm quyền đối với thi thể. Cô và Kins không thể chạm vào nó. Funk sẽ vận chuyển Schreiber về trụ sở chính của bên giám định pháp y, vẫn khỏa thân, bị trói và bị uốn cong.
Một sự sỉ nhục cuối cùng.
CHƯƠNG 7
Kiểm tra trên máy tính thông qua văn phòng Bộ trưởng Bộ Ngoại giao đã cho ra tên một công ty trách nhiệm hữu hạn, Pink Place, điều hành chuỗi ba câu lạc bộ thoát y cùng tên ở Seattle. Đứng đầu là một người tên Darrell Nash, địa chỉ của anh ta nằm ở một căn hộ kiểu Victoria đắt tiền trong khu thượng lưu Queen Anne.
“Ai bảo sự bẩn thỉu không đáng giá nào.” Kins nói, leo lên bậc thêm đá đồ sộ.
Họ đã đi khảo sát một câu lạc bộ Pink Palace chỉ nằm cách Aurora một vài cây số tính từ nhà nghỉ Aurora. Tracy muốn nắm chắc được cường độ hoạt động của nó. Cũng như hầu hết mọi thứ trong cuộc sống, không phải tất cả các câu lạc bộ trong cùng hệ thống đều được lập ra như nhau, hoặc phục vụ cùng một đối tượng khách hàng. Pink Palace trông có vẻ là một trong những câu lạc bộ cao cấp hơn, giống như một rạp chiếu phim hiện đại với những biển hiệu gắn đèn neon sáng chói. Màn hình ti-vi cỡ đại luân phiên lóe lên ảnh những phụ nữ ăn mặc thiếu vải đang quằn quại cùng đoạn quảng cáo những trò đặc biệt hấp dẫn và thông báo giảm giá. Bảng thông báo thời gian hoạt động cho biết câu lạc bộ đóng cửa lúc hai giờ và sẽ không mở cửa trước mười một giờ.
Tracy gõ mạnh lên cửa trước nhà Nash, lờ đi những con chó đang sủa inh ỏi. Người đàn ông cởi trần ra mở cửa với một cái cau mày khó chịu và thậm chí một cái đầu rối bù còn khó chịu hơn. Anh ta mặc chiếc quần ngủ có túi. Một chiếc khuyên bạc đeo nơi núm vú trái trên vòm
ngực ấn tượng ngay phía trên cơ bụng phẳng lì. Một con hổ màu tím pha vàng tô điểm cho cơ ngực bên phải. Anh ta trông như cậu nhóc mới lớn cáu kỉnh vì bị đánh thức sau một đêm tiệc tùng.
“Có biết bây giờ là mấy giờ không?” Anh ta hỏi.
Đã sẵn mệt mỏi và không có tâm trạng cho những thứ tào lao, Tracy giơ phù hiệu và thẻ ra. “Có, chúng tôi biết chứ. Và tôi đoán là đối với chúng tôi thời điểm này còn sớm hơn đối với anh nhiều.” Cô để ý thấy một phụ nữ đang đứng ở lối vào. Hai bé gái trong bộ đồ ngủ đang níu lấy chân cô ta. Tracy dịu giọng. “Chúng tôi xin lỗi vì đã làm phiền mọi người.” Cô nói. “Anh có phải Darrell Nash không?”
“Phải.” Nash nhăn mặt mỗi khi lũ chó sủa, như thể anh ta đang sắp ói đến nơi. Anh ta hét qua vai. “Cô vui lòng làm chúng im mõm đi được không? Và mang áo cho tôi.” Anh ta lại nhìn Tracy. “Có chuyện gì?” “Về một trong số các nhân viên của anh.” Kins nói.
“Là ai?”
“Một trong số các vũ công.”
“Tôi không bao nuôi vũ công.” Anh ta nói. “Họ làm việc độc lập, và tôi có hơn chín mươi người. Nếu một trong số họ có làm gì bất hợp pháp thì tôi không thể chịu trách nhiệm được. Tôi đã thảo luận với luật sư về chuyện đó rồi.”
Tracy cảm thấy Kins liếc nhìn mình. Cô giữ nguyên sự tập trung vào Nash. “Chúng tôi vào được không?”
“Chúng ta có cần làm chuyện này bây giờ không?” Nash hỏi. Anh ta nhìn xuống cổ tay mình, dù đang không đeo đồng hồ.
“Có, rất cần.” Tracy nói.
Nash dẫn Kins và Tracy ra phía sau nhà, vào nơi mà anh ta gọi là "văn phòng" của mình, mặc dù Tracy không trông thấy một mẩu giấy tờ nào ở bất cứ đâu trong phòng. Họ đứng trên tấm thảm màu tím pha vàng
với một con hổ trông giống hệt hình xăm của Nash. Ánh sáng tinh tế trong chiếc tủ kính rọi sáng những quả bóng bầu dục có chữ ký, những chiếc cúp và vài bức ảnh Nash mặc đông phục trường Đại học Bang Louisiana.
“Hàng phòng thủ à?” Kins hỏi, xem vài bức ảnh Nash mặc áo thi đấu. “Hậu vệ.” Nash nói. “Tôi không nhanh, nhưng đâm mạnh như xe tải vậy. Tôi đã gây thương tích cho một tuyển thủ cuối cấp không chuyên, không thì tôi đã có thể đi theo con đường bóng bầu dục chuyên nghiệp rồi.”
Kins gật đầu. Anh gần như không bao giờ nhắc đến sự nghiệp ngắn ngủi của mình tại Giải Bóng bầu dục Quốc gia. Anh đã phải kết thúc nó sau một năm với chấn thương trên hông.
Nash bước tới cửa và hét về phía sảnh: “Ngực tao đang đóng băng rồi đây này!”
Vợ Nash – và sự phục tùng bắt buộc từ "công việc" đó, Tracy nghĩ – đưa cho Nash cái mà Tracy cho là một cái "áo chui đầu bó", tay áo bị cắt ngang bắp tay. Nash cầm một quả bóng bầu dục trên chiếc bàn rộng lên và ngồi xuống một cái ghế da lưng cao.
Tracy và Kins đứng cạnh bàn làm việc của anh ta. “Anh là chủ sở hữu của Pink Palace?” Tracy hỏi.
“Một công ty trách nhiệm hữu hạn sở hữu cả ba cơ sở. Cô đang nói về cái nào?”
“Cái ngay gần Aurora.”
“Đó là câu lạc bộ đứng đầu.”
“Câu lạc bộ đứng đầu?”
“Cái đầu tiên.”
“Anh là chủ tịch công ty?”
“Đúng vậy.”
“Anh có thuê một vũ công tên Angela Schreiber không?” “Làm việc độc lập.” Nash nói.
“Anh có biết cô ấy không?”
“Tôi không qua lại với các vũ công.”
“Tôi không hỏi anh có qua lại với họ không. Tôi hỏi anh có biết cô ấy không.”
Nash đặt quả bóng vào lòng. “Không quen với cái tên đó.” Tracy đặt thẻ vũ công của Angela Schreiber đang được niêm phong trong một túi nhựa lên trên bàn làm việc. Luật lệ của Seattle yêu cầu các vũ công khiêu dâm phải được cấp phép. Nash nghiêng người về phía trước để nhìn nó. “Đó là Angel*.”
“Angel?”
“Tên hành nghề của cô ta. Các vũ công đều có tên khi hành nghề. Thôi nào, các điều tra viên, tôi đang điều hành câu lạc bộ hợp pháp cho các quý ông. Chúng tôi không chấp nhận bất kỳ thứ gì bất hợp pháp trong câu lạc bộ hay bãi đỗ xe. Tôi không thể kiểm soát các cô gái đó làm gì sau khi họ rời đi, vậy nên nếu cô ta có thổi kèn cho một gã nào đó trong bãi đỗ xe thì cũng không phải việc của tôi.”
“Anh đã thấy Angela Schreiber thổi kèn cho ai đó trong bãi đỗ xe rồi à?”
“Không, tôi chỉ… Thôi nào, tôi thậm chí còn không nhớ là đã trông thấy cô ta đêm qua.”
“Nhưng anh đã ở câu lạc bộ phải không?”
“Phải, tôi đã ở đó. Câu lạc bộ của tôi mà.”
“Và anh không nhớ đã trông thấy Angela Schreiber cả đêm?” Nash lắc đầu. “Tôi chủ yếu ở buồng riêng hoặc trong văn phòng phía sau. Như tôi đã nói đấy, tôi không chú ý nhiều đến các vũ công.”
“Các vũ công độc lập.” Tracy nói.
“Gì cơ?”
“Anh có thấy bất kỳ ai để ý đến Angela Schreiber vào tối qua không?” Nash nhún vai. “Không. Nhưng thế cũng không có gì bất thường. Ý tôi là, đấy là cách họ kiếm tiền. Họ khiến gã nào đó thấy hứng thú, hỏi liệu hắn có muốn một điệu nhảy hoặc buổi biểu diễn riêng tư không. Việc của họ là thu hút sự chú ý của đàn ông.”
“Còn ai khác chú ý đến các vũ công và các khách hàng không?” “Quản lý câu lạc bộ.”
“Tên anh ta là gì?”
“Cô cần cái đó làm gì? Angel đã làm gì?”
“Cô ấy chết rồi.” Kins nói.
Nash nhìn Tracy, sau đó nhìn Kins. “Tôi có cần cho gọi luật sư đến đây không?”
“Sao chúng ta không bắt đầu với tên người quản lý câu lạc bộ của anh nhỉ?” Kins nói.
“Nabil.”
“Đấy là tên hay họ?” Kins lấy ra một cuốn sổ nhỏ gáy xoắn và ghi lại cái tên ấy.
“Là tên. Họ Kotar.” Nash đọc cách viết cả hai. “Tôi nghĩ anh ta là người Ai Cập hay gì đó. Cô ta chết thế nào?”
“Ai đó đã giết cô ấy.” Tracy nói.
“Anh có địa chỉ hoặc số điện thoại của Nabil không?” Kins hỏi. “Tới sẽ phải hỏi Giám đốc Nhân sự đã.” Nash nói. Anh ta nhìn Tracy. “Bị giết thế nào?”
“Chúng tôi sẽ cần tên của tất cả nhân viên và các vũ công độc lập làm việc đêm qua.” Kins đưa danh thiếp ra.
Nash do dự, cầm lấy nó và đặt lên bàn. “Thế cô ta chết thế nào?” “Chuyện đó vẫn đang được điều tra.” Tracy lên tiếng.
“Khi nào thì anh có thể cho chúng tôi thông tin đó?” Kins nói. “Nhưng cô ta bị sát hại đúng không? Ý tôi là, đó là lý do hai người tới đây.”
“Camera an ninh trong câu lạc bộ thì sao?” Kins hỏi.
“Có. Một cái đặt trong văn phòng phía trước, hai cái đặt bên ngoài tòa nhà và bãi đỗ xe.”
“Còn sàn nhảy?” Tracy hỏi.
Nash lắc đầu.
“Anh không đặt máy quay trong sàn nhảy à?”
“Không. Chúng tôi muốn khách hàng cảm thấy thoải mái.” “Để quan hệ với các vũ công độc lập sao?” Tracy hỏi.
“Tôi đã bảo cô chuyện đó không được phép.”
“Nhưng đó là chuyện có xảy ra, đấy là lý do tại sao anh hỏi liệu Angel có thổi kèn với gã nào đó trong bãi đỗ xe không.”
“Tôi nhắc đến một bãi đỗ xe. Tôi không nói là bãi đỗ xe của chúng tôi. Thôi nào, tôi không thể ở câu lạc bộ hai tư trên bảy được. Tất cả những gì tôi có thể nói là đó là chuyện xảy ra ngoài ý muốn. Nếu thấy bất cứ ai có dính líu đến loại hoạt động đó, chúng tôi sẽ tống cổ họ ra ngoài và chấm dứt hợp tác với vũ công ấy.”
“Vũ công độc lập.” Tracy nói.
“Thôi nào điều tra viên, cô sẽ thấy có một vài kẻ biến thái chết tiệt, nhưng bọn họ sẽ nhanh chóng hiểu ra rằng chúng tôi không điều hành câu lạc bộ kiểu đó.”
Tracy tận hưởng việc chọc cho Nash cuống lên. “Thế anh đang điều hành kiểu gì?”
“Tôi đã nói với cô rồi đấy thôi. Là câu lạc bộ dành cho các quý ông. Chúng là những câu lạc bộ lớn ở phía nam. Mọi người có thể thư giãn, uống rượu và thưởng thức vài cô gái đẹp nhảy múa.”
“Anh có khách quen không?”
“Tất nhiên. Chúng tôi có vài vận động viên thường xuyên ghé qua, phần lớn là các tuyển thủ bóng chày đang tham gia một giải đấu. Nhưng việc làm ăn của chúng tôi là hợp pháp trong thành phố. Cô sẽ ngạc nhiên với những người đến đó.”
“Tôi nghi ngờ đấy.” Tracy nói. “Chúng tôi sẽ cần tên của các khách quen.”
“Tôi không giữ danh sách khách hàng.”
“Anh có danh sách thư điện tử, thư báo hay bất cứ thứ gì tương tự vậy không?” Cô hỏi.
“Không, truyền miệng là cách quảng cáo tốt nhất của chúng tôi.” “Thế còn trang web thì sao?”
“Chắc chắn rồi.”
“Trang web đó để làm gì?”
“Để quảng cáo. Và những người đàn ông có thể lên mạng đăng ký một điệu nhảy với vũ công yêu thích của họ.”
“Chúng tôi cần danh sách đó.” Kins nói.
“Tôi phải nói chuyện với luật sư riêng đã. Hai người không cần lệnh khám xét sao?”
Tracy đưa Nash danh thiếp. “Tôi có thể kiếm được lệnh khám xét ngay khi chúng ta nói chuyện xong, hoặc anh có thể đồng ý hợp tác trong một vụ điều tra giết người. Anh đóng cửa câu lạc bộ lúc mấy giờ tối qua?”
Trông như thể cơn nhức đầu của Nash đã quay lại. Anh ta xem xét kĩ
danh thiếp của Tracy một lúc, sau đó nói: “Hai giờ. Theo sắc lệnh của thành phố.”
“Các vũ công có rời đi ngay không?”
“Chẳng có lý do gì để họ ở lại cả.”
“Anh có trông thấy Angela Schreiber rời đi không?”
“Không.”
“Còn anh thì sao?” Kins hỏi. “Mấy giờ anh rời câu lạc bộ?” “Tôi còn phải tính toán sổ sách và chuẩn bị các khoản tiền gửi. Tôi cho là mình đã rời khỏi đó khoảng hai rưỡi hoặc hai giờ bốn mươi lăm phút.”
“Rồi anh đi đâu?” Tracy hỏi.
“Cô hỏi thế làm gì?”
Tracy không trả lời. Kins cũng không. Sự im lặng có thể gây căng thẳng.
“Tôi về nhà và đi ngủ.”
“Có ai xác minh được chuyện đó không?”
“Vợ tôi.”
Tracy nhìn Kins, ra hiệu cho anh tiếp tục mà không có cô, sau đó bước đến chỗ tủ kính.
“Các camera có bị xóa đi không?” Kins hỏi.
Nash vẫn đang dõi theo Tracy. “Tôi nghĩ là mỗi hai tư giờ.” Anh ta nói. “Chúng tôi sẽ cần băng ghi hình đêm qua. Gọi điện đi và đảm bảo là chúng không bị xóa mất. Anh đã nói có cả camera ở bãi đỗ xe. Các vũ công có đỗ xe không?”
“Có chứ, ở câu lạc bộ họ làm việc.”
Tracy đang xem xét bức ảnh lồng khung. Trong tủ không chỉ là về bóng bầu dục. Nash đang ngồi trên một con ngựa, trông có vẻ là ngựa
hoang. Anh ta đội một chiếc mũ cao bồi bị kéo ngược khỏi trán, mặc áo sơ-mi bò và quần bò màu xanh cùng đôi giày cao bồi, miệng ngậm một cọng cỏ khô. Bàn tay đặt trên núm yên ngựa, ở đó đang treo một cuộn dây.
Tracy quay lại. “Anh biết cưỡi ngựa không?”
Nash đang bắt đầu mân mê quả bóng lần nữa, nghe thấy và trả lời: “Có. Cha tôi sở hữu một trang trại nuôi gia súc ở ngoại ô Laredo. Các anh em tôi và tôi làm việc ở đó trong suốt thời thơ ấu. Chúng tôi đã bán nó sau khi cha qua đời.”
Chuyện này giải thích nguồn vốn Nash có để mua một ngôi nhà đắt tiền với một điện thờ cho riêng mình, và một chuỗi các câu lạc bộ. “Anh và các anh em trai có bao giờ thi quăng dây không?”
“Vài lần.”
“Anh có giỏi không?”
“Tôi có thể giữ dây của mình.”
“Dây sợi ba?”
“Thế là sao?”
“Anh thích dây sợi ba hay dây sợi năm?”
Nash lại tiếp tục vần quả bóng. “Sợi nào cũng được. Tôi không chú ý nhiều đến chuyện đó.”
“Cuối ngày hôm nay chúng tôi sẽ cử một người đến câu lạc bộ…” Kins nói. “Để lấy băng ghi hình và tên những người đã làm việc tối qua.” “Tôi sẽ phải xin ý kiến luật sư đã.” Nash nói. “Chuyện đó ảnh hưởng đến việc kinh doanh của tôi.”
Nếu Tracy mang theo một khẩu súng bắn điện, cô có thể sẽ dùng nó. Cô và Kins bắt đầu đi ra cửa. Kins quay lại và giơ tay lên. Nash ném cho anh một đường xoáy gọn. “Có lẽ anh nên chơi ở hàng tiền vệ.” Kins nói, ném trở lại.
“Không.” Nash nói. “Tiền vệ dễ bị hạ lắm. Tôi thích hạ người khác thôi.”
CHƯƠNG 8
Tracy ngồi lui lại khỏi máy tính khi Kins đưa cô một cốc cà phê mới pha. “Là cuộc nói chuyện đấy à?” Kins hỏi.
Tracy nhìn màn hình. “"Đầu đất" là từ đơn hay từ ghép?” “Trong trường hợp của anh ta thì tôi không nghĩ chính tả là vấn đề đâu. Cô có để ý anh ta ném bóng tay bên nào không?”
“Sao lại không?”
Darrell Nash đã tung bóng cho Kins bằng tay trái. Một chuyên gia trong vụ Hansen đã nói sợi dây thừng là sợi polypropylene chập ba xoắn phải, và nút được thắt bởi ai đó thuận tay trái. Polypropylene không đàn hồi bằng dây thừng thông thường và nút thắt cũng dễ tuột hơn để siết chặt được một cái thòng lọng. Thật không may, nó cũng là loại phổ biến và có thể mua ở bất kỳ tiệm kim khí, đồ quân dụng hay cửa hàng bán lẻ lớn nào.
“Dây thừng trên yên ngựa là dây sợi năm.” Tracy nói.
“Thế nghĩa là gì?”
“Nghĩa là dây đó chỉ được sử dụng bởi những người chăn bò có kinh nghiệm. Nash có thể thông minh hơn vẻ bề ngoài và có thể ngậm miệng lại khi tôi hỏi anh ta về chuyện đó, nhưng tôi không nghĩ anh ta biết sự khác biệt. Tôi không nghĩ anh ta là một cao bồi.”
“Có lẽ là không,” Kins nói. “Nhưng anh ta vẫn đứng đầu danh sách những thằng đầu đất.”
CHƯƠNG 9
Tracy và Kins dành hầu hết thời gian còn lại trong ngày để xem xét toàn cảnh vụ Hansen và Schreiber nhằm xác định xem liệu hai người phụ nữ có bất kỳ điểm chung nào hay thứ gì đó ngoài những thứ đập vào mắt không. Khi bên khám nghiệm hiện trường gửi thư điện tử báo cáo ban đầu vê dấu vân tay trong phòng nhà nghỉ của Schreiber, nó tệ y như những gì Tracy và Kins dự đoán. Họ đã xử lí hơn ba chục dấu vân tay và phải gọi các chuyên gia từ Đơn vị Kiểm tra Vân tay chìm của Sở cảnh sát Seattle giúp so sánh riêng từng dấu với các mẫu có khả năng trùng khớp trong hệ thống tự động nhận dạng vân tay AFIS của quận King. Hệ thống này lưu giữ hàng trăm nghìn dấu vân tay từ những người từng bị truy tố và phạm tội, những người xin giấy phép sử dụng súng, các công nhân liên bang, quân nhân và một số chuyên gia làm việc với trẻ em.
Vic Fazzio và Delmo Castigliano – những người tự xưng là "Bộ đôi người Ý năng động" thuộc đội A gồm năm điều tra viên của Ban Tội phạm Bạo lực – bước vào ô làm việc của mình. Là "bước tiếp theo" trong đội điều tra các vụ án mạng, họ chịu trách nhiệm tìm hiểu quanh hiện trường vụ án: thu thập lời khai của nhân chứng từ chủ nhà nghỉ, các khách trọ và các cửa tiệm buôn bán dọc tuyến đường.
“Không có gì cả, Giáo sư. Không ai trông thấy ai cả.” Faz nặng khoảng một trăm mười ba cân và ưa thích những chiếc sơ-mi bowling* rộng thùng thình và điều đó khiến cách nhấn giọng vùng New Jersey của ông ta thêm nổi bật. Del còn béo hơn, với khuôn mặt mà anh ta thích nói là "chỉ có mẹ mới yêu thương nổi".
Tracy đưa Faz một nửa danh sách lấy từ Đơn vị Kiểm tra Vân tay chìm. “Xin lỗi vì đã phiền đến các anh.”
“Vợ tôi đã nấu thịt viên đấy.” Faz lên tiếng, nghe thất vọng não hê. “Vậy thì anh có một cái bánh kẹp thịt viên để mà trông đợi vào ngày mai nhé!” Del nói, cầm lấy một nửa danh sách của họ.
Tracy và Kins gạch đi hai cái tên trước khi rời khỏi Trung tâm Tư pháp – đó la hai con nghiện đã chết được hơn một tháng. Họ nhanh chóng loại thêm hai người đàn ông không phủ nhận việc đã ở trong phòng nhà nghỉ đó, chỉ là không phải đêm hôm trước hay kể cả tuần trước và mỗi người đều giải trình được mình đã ở đâu.
“Có vẻ nhân viên không lau dọn bụi bẩn bao giờ.” Kins nói. Ngồi trên ghế phụ chiếc xe Ford đang lái khỏi bãi đỗ, Tracy cầm ảnh giấy phép lái xe của nghi can tiếp theo trong danh sách. “Walter Gipson!” Cô nói. Trong ảnh, Gipson là một người đàn ông có đôi mắt díu, tóc hói cao theo hình móng ngựa, có thể đó là lý do anh ta cắt ngắn nốt những gì còn lại.
“Cạo đầu, giải pháp cho đàn ông bị hói.” Kins nói, liếc nhìn bức ảnh từ chỗ ghế lái. “Làm thế thì nghĩa lý gì?”
“Tôi đoán là cố chống lại điều không thể tránh khỏi.” Tracy đáp. “Giống kiểu phàn nàn là cô mắc bệnh đường ruột nên đang phải kiêng hoàn toàn bánh Twinkie.”
“Đàn ông da trắng, hai mươi sáu tuổi, giáo viên dạy trẻ khuyết tật.” Tracy nói.
“Và rõ ràng…” Kins nói, bắt chước cách nhấn âm kiêu Anh. “Là người
hâm mộ cuồng nhiệt gái mại dâm và các nhà nghỉ tốt. Anh ta có tiền án tiền sự không?”
“Không. Anh ta có nộp đơn xin giấy phép sử dụng súng ngắn.” Tracy nói.
Kins liếc ngang qua xe. “Luôn thật tuyệt khi biết.”
Kins lái vào chỗ dành riêng cho khách trong khu căn hộ phức hợp Willowbrook ở Redmond khi Tracy ngắt kết nối cuộc gọi với trưởng ban điều phối. Cô cung cấp vị trí và thông báo ý định nói chuyện với một nghi can. Khi bước xuống khỏi xe, cô nhận thấy bầu không khí nặng nề, mang theo mùi của đất báo hiệu một cơn mưa đang kéo đến.
“Nhà nào đây?” Kins hỏi, mắt nhìn nửa tá tòa nhà hai tầng bằng gỗ, đặc trưng của các khu phức hợp nằm ở vùng ngoại ô đang trên đà phát triển ở miền đông những năm 1980.
“Tòa nhà E!” Tracy nói, chỉ tay. “Cái kia!”
Họ bước đi giữa các bãi đỗ ô tô có mái che và leo lên cầu thang rồi xuôi theo hành lang tầng hai. Tracy nghe thấy tiếng ti-vi bên trong các căn hộ. Họ dừng lại bên ngoài căn hộ số bốn. Kins lịch sự gõ cửa. Cánh cửa phát ra tiếng lộc cộc và rung lên bần bật. “Công trình thật chất lượng!” Anh mỉa mai nói.
Một phụ nữ bên trong hét lên bằng tiếng Tây Ban Nha. Kins nhún vai. “Tôi trượt môn tiếng Tây Ban Nha hồi còn đi học.”
“Gõ lại đi!” Tracy nói.
Kins gõ, và họ nhận được phản ứng hệt như lúc nãy. “Là cô ta đang hét vào mặt chúng ta hay đang bảo ai đó trong căn hộ ra mở cửa?” Anh hỏi.
“Chịu. Tòi biết tiếng Pháp thôi.”
“Dùng thường xuyên không?”
“Oui. Nhiều như anh dùng tiếng Tây Ban Nha vậy.”
Kins đang định gõ lần thứ ba thì cánh cửa mở ra. Một người phụ nữ gốc Tây Ban Nha to béo cắp bên hông một bé gái quấn trong chiếc khăn tắm màu vàng xuất hiện trước mặt họ.
“Xin lỗi!” Tracy lên tiếng. “Có vẻ như cô đang bận.”
Khi người phụ nữ đáp lại bằng cái nhìn trống rỗng, Tracy giơ phù hiệu lên. “Cô có nói tiếng Anh không?”
Đôi mắt người phụ nữ mở to. “Có.”
Tracy giới thiệu bản thân và Kins, sau đó nói: “Chúng tôi đang tìm Walter Gipson. Anh ta có nhà không?”
“Anh ấy không ở đây.” Giọng cô ta nặng trịch.
Tracy cảm giác có giọt mưa rơi xuống cổ. “Cô là vợ anh ta?” Người phụ nữ thổi một sợi tóc đen khỏi mặt. “Phải.”
“Anh ta đâu rồi?”
“Anh ấy đang đi làm.”
Kins kiểm tra đồng hồ. Tracy không cần xem đồng hồ cũng biết lúc này đã quá giờ giảng dạy của giáo viên tại trường trung học. “Chồng cô làm ở đâu?” Cô hỏi.
“Ở trường học.”
“Anh ta có hay dạy học muộn thế này không?”
“Tối nay thì có, ở trường cao đẳng cộng đồng.” Cô ta nhìn lên trời. “Làm ơn, con gái bé bỏng của tôi đang bị lạnh.”
“Theo cô thì mấy giờ anh ta về?” Tracy hỏi.
Người phụ nữ liếc nhìn qua họ tới bãi đỗ xe. Một người đàn ông đội mũ lưỡi trai khoác chiếc ba lô to bên vai đang đứng nhìn họ, sau đó đột
nhiên xoay người, hướng về phía nhà để ô tô.
Kins di chuyển về phía lan can. “Walter Gipson?” Anh hét. Người đàn ông chạy vụt đi.
Kins chạy ra chỗ cầu thang mà họ đã đi lên. Tracy nhanh chóng lao tới cầu thang ở đầu kia của hành lang, mất dấu Gipson phía sau nhà để ô tô. Cô chạy xuống cầu thang và băng qua bãi đỗ xe. Khi cô đến được nhà để ô tô thì dừng lại và lấy khẩu Glock ra. Kins chậm chân hơn bởi cái hông đau. Họ bước qua góc nhà. Tracy cúi nhìn bên dưới gầm những chiếc xe.
Kins di chuyển ra phía sau nhà để ô tô và kéo những cánh cửa của một dãy trông giống nhà kho, mặc dù phần lớn trong số chúng bị khóa kín.
“Này!” Anh thì thầm và cầm lên một cái ba lô màu đen.
Tracy nghe tiếng lách cách giống tiếng hàng rào mắt cáo và nhanh chóng băng qua bãi đỗ xe. Một hàng rào ngăn cách khu căn hộ phức hợp với thứ trông như bãi đất hoang mọc đầy cây lớn và cây bụi rậm rạp.
“Chúng ta cần lũ chó.” Kins nói. “Tôi sẽ gọi điện đàm và theo dõi chỗ hàng rào để đề phòng hắn ta quay lại.”
Tracy tìm thấy một chỗ để đặt chân trên hàng rào và trèo sang bên kia. Cô đá đám cây mâm xôi đen đang quấn quanh ống quần bò và bước xuyên qua đám lá cây đến một con đường mòn do dấu móng ngựa để lại. Con đường mòn dẫn tới một khu rừng cây: cây linh sam, cây tuyết tùng và cây phong. Những ngọn cây đung đưa trong gió.
“Walter Gipson?” Cô hét, lau nước mưa đọng trên mặt. “Anh đang khiến mọi chuyện trở nên khó khăn hơn vốn có đấy. Chúng tôi chỉ muốn nói chuyện thôi.”
Cô tìm kiếm sự chuyển động và màu sắc bất thường trong bụi rậm,
nhưng ánh sáng đang tắt dần và mưa càng lúc càng nặng hạt khiến tầm nhìn bị hạn chế. Cây bụi và cây lớn mọc thưa dần khi còn cách rìa đồng cỏ chừng trăm mét. Gần đó, những con ngựa đang nghênh đầu lên, dỏng tai lắng nghe, nhìn cô. Cô sắp sửa quay lại để chờ lũ chó thì nghe thấy tiếng cành cây gãy phía sau mình. Cô xoay người và nâng khẩu Glock lên. Lũ ngựa phi qua bụi rậm, đổi hướng vào phút cuối, móng gõ lộp cộp trên mặt đất ngay khi chúng chạy vụt qua cô.
Tim Tracy đập rộn. Cô phải dành chút thời gian để hít thở và đoán là cành cây gãy đã khiến lũ ngựa hoảng sợ chứ không phải có gì khác. Cô nhìn bụi cây mà lũ ngựa đã chạy qua và đứng vào tư thế sẵn sàng nhưng hướng nòng súng xuống đất. “Walter Gipson?”
Không có tiếng trả lời.
“Anh Gipson này, anh cần nghĩ đến vợ và con gái mình nữa chứ. Tôi được trang bị vũ khí, và trong khoảng năm phút nữa nơi này sẽ đầy chó nghiệp vụ và các sĩ quan cảnh sát. Chúng tôi không muốn có tai nạn ở đây, anh Gipson. Chúng tôi chỉ muốn nói chuyện thôi. Walter?”
“Được rồi! Được rồi!” Gipson đột ngột bật dậy từ chỗ đang núp. “Đứng im.” Tracy hét lên, nhắm mục tiêu. “Không được cử động! Không được cử động!”
Gipson tiếp tục tiến lại gần.
“Đứng im!” Cô hét to hơn. “Tôi đã nói không được cử động!” Gipson đứng im. “Được rồi! Được rồi!”
“Giữ tay anh ở chỗ tôi có thể trông thấy.”
Tay Gipson run lên. Cánh tay anh ta bắt đầu hạ xuống. “Giơ tay lên!” Cô nói.
“Được mà. Được mà.”
“Súng của anh đâu?”
“Nó… nó ở trong nhà.”
“Anh còn vũ khí nào khác không?”
“Không.”
“Cứ giữ tay anh ở nơi tôi có thể thấy.” Tracy lấy còng tay ra, bước ra sau Gipson và nhanh chóng còng anh ta lại.
“Tôi không làm chuyện đó.” Gipson nói. “Thề có Chúa, tôi không giết cô ta.”
CHƯƠNG 10
Họ đưa Walter Gipson vào một trong những phòng hỏi cung cứng* trên tầng bảy ở Trung tâm Tư pháp. Căn phòng nhỏ như cái hộp, không có cửa sổ, được rọi sáng bởi ánh đèn huỳnh quang trắng. Họ "om" Gipson suốt hai mươi đến ba mươi phút. Với cánh cửa đóng kín, căn phòng nhanh chóng trở nên ngột ngạt, khiến người ta lập tức sợ hãi khi nghĩ đến cảnh phải dành nhiều năm trong một căn phòng như thế.
Rick Cerrabone, công tố viên có thâm niên và một thành viên của Đội trọng án, tham gia cùng Tracy và Kins. Tất cả đều đang dõi theo Gipson từ phía sau tấm kính một chiều. Anh thầy giáo ngồi khom người trên chiếc bàn ghép sứt sẹo. Anh ta trông già hơn khi thiếu mất chiếc mũ lưỡi trai.
“Sao anh ta biết cô ta?” Cerrabone hỏi. Faz từng nhận xét rằng Cerrabone trông giống hệt quản lý cũ của đội Yankees là Joe Torre: bị hói, ánh nhìn cả thẹn, quầng thâm bên dưới đôi mắt mệt mỏi và bộ râu lún phún cuối ngày.
“Cô ta là một sinh viên trong lớp kĩ năng viết của anh ta ở trường cao đẳng cộng đồng.” Tracy lên tiếng. “Anh ta thừa nhận có đưa cô ta vào nhà nghỉ ở Aurora đêm qua, nhưng anh ta thề với Chúa là không giết cô ta.”
“Họ lúc nào mà chẳng thề với Chúa, đúng không?” Kins nói. Anh ngồi trên chiếc ghế gần đèn nhấp nháy của một trong những thiết bị ghi âm. “Sao anh ta bỏ chạy?” Cerrabone hỏi.
“Anh ta nói là bị sợ hãi và hoảng loạn.” Tracy đáp. “Anh ta đã xem bản tin.”
“Có bất kỳ thông tin ADN nào không?” Cerrabone hỏi.
“Không có gì trong hồ sơ.”
“Vậy là không có tiền án, tiền sự.” Cerrabone nói. Tại tiểu bang Washington, tất cả những ai bị buộc tội về một tội ác nào đó đều được yêu cầu phải cung cấp mẫu ADN.
“Thậm chí còn không có vé phạt đỗ xe.” Kins nói. “Anh ta dạy trẻ khuyết tật.”
Cerrabone đưa tay vuốt đám râu trên cằm. “Có bất kỳ dấu vết ADN nào trên dây thừng không?”
“Melton nói ông ta đang ưu tiên kiểm tra rồi.” Tracy đáp, nhắc đến Michael Melton thuộc Phòng Nghiên cứu tội phạm Sở Cảnh sát bang Washington.
“Thế Nicole Hansen thì sao? Anh ta có mối quan hệ gì với cô ta không?”
“Anh ta bảo chưa bao giờ nghe về cô ta.” Tracy nói. “Tôi đã cho Faz và Del mang ảnh của anh ta qua Dancing Bear để xem liệu có bất kỳ ai nhận diện được anh ta trong loạt ảnh nghi phạm không.”
“Mất bao lâu chúng ta mới lấy được giấy khám nhà và văn phòng của anh ta?” Kins hỏi.
“Và cả nhà kho nữa.” Tracy thêm vào.
Cerrabone kiểm tra điện thoại di động của mình. “Chắc sẽ có ngay khi hai người xong việc. Nhớ đảm bảo rằng anh ta từ bỏ quyền tự bào chữa trong băng ghi âm nhé!”
Kins đứng dậy. Tracy lên tiếng: “Tôi sẽ thẩm vấn một mình.” “Cô chắc không?” Họ hầu như luôn thẩm vấn nghi can cùng một điều tra viên khác cho an toàn.
“Anh ta bắt đầu nói ngay giây phút tôi tra còng vào tay anh ta và không ngậm miệng cho đến khi chúng ta chở anh ta đến đây. Để xem liệu anh ta có tiếp tục trò chuyện với tôi không.”
Tracy tháo còng tay cho Gipson, ngồi đối diện anh ta bên kia bàn, xác nhận anh ta hiểu rõ quyền Miranda* của mình và đồng ý từ bỏ chúng. “Chúng ta hãy cùng điểm qua một vài sự việc lần nữa nhé, Walter! Làm thế nào mà anh biết Angela Schreiber?”
“Cô ta đang theo học khoa Tiếng Anh ở trường Cao đẳng Cộng đồng Seattle. Tôi dạy ở đó vài tối mỗi tuần.”
“Được rồi. Vậy chuyện gì đã xảy ra?”
“Cô ta nộp bài luận về việc trở thành một vũ công. Nó là một bài luận rất tốt, chi tiết. Sau giờ học, tôi đã hỏi cô ta về nó, và cô ta bảo tôi nó là thật và mời tôi đến gặp cô ta.”
“Và anh đã đến xem cô ta nhảy?”
“Không phải ngay lần đầu tiên. Thật ra cũng mất một thời gian. Cô ta cứ hỏi mãi khi nào tôi sẽ đến, vậy nên cô biết đấy, tôi quyết định đến xem một lần cho biết. Tôi chỉ tới đó có vài lần thôi.”
“Thế bao lâu sau thì hai người quan hệ với nhau?”
Gipson thở dài. “Tôi không nhớ. Một buổi tối sau giờ học, cô ta đi nhờ xe đến câu lạc bộ. Cô ta nói xe cô ta bị hỏng và cô ta không có tiền sửa.”
“Hai người có quan hệ trong ô tô của anh không?”
“Không.”
“Cô ta có quan hệ bằng miệng với anh không?”
Gipson gục người xuống bàn vẻ xấu hổ. “Có.”
“Và anh đã trả tiền cô ta cho việc đó.”
Anh ta nhắm mắt. “Không phải như thế.”
“Nói cho tôi nó như thế nào.”
Anh ta nhìn lên, mắt ngấn nước. “Cô ta nói đang gặp khó khăn trong việc kiếm tiền trang trải cuộc sống. Cô ta đến Seattle tìm việc nhưng không suôn sẻ và không thể tìm được việc khác, và sống ở đây đắt đỏ hơn cô ta nghĩ, rồi xe cô ta bị hỏng. Cô ta bảo phải bắt đầu làm gái nhảy để trả các hóa đơn.”
Nó nghe như một câu chuyện thê lương để bòn rút tiền của Gibson. “Thế nên, sao nhỉ, anh chỉ đang giúp đỡ cô ta thôi sao?” “Tôi biết giờ nó nghe ra làm sao.”
“Anh đưa cho cô ta bao nhiêu tiền?”
“Năm mươi. Thỉnh thoảng là một trăm đô-la.”
“Nó không liên quan gì đến tình dục sao?”
Gipson cau mày. “Tôi đoán là có.”
“Và tối qua anh đã đến nhà nghỉ?” Tracy hỏi.
“Phải.”
“Còn vợ anh thì sao?”
“Cô ấy đến nhà chị gái ăn tối, sau đó gọi điện về bảo là cô ấy sẽ qua đêm ở Tacoma.”
“Vậy nên anh không phải vội về nhà?”
“Đúng vậy.”
“Ai là người chọn nhà nghỉ?”
“Cô ta.”
“Anh có hỏi cô ta tại sao cô ta không để anh đến căn hộ của cô ta không?”
“Cô ta nói cô ta có bạn chung phòng phải đi làm sớm nên cô ta không muốn đánh thức bạn dậy.”
Theo như Ron Mayweather, "bánh xe thứ năm" trong đội A thì Schreiber sống một mình trong một căn hộ nhỏ thuê trên Đồi Capitol. “Ai trả tiền phòng?”
“Tôi trả. Nhưng cô ta nhận phòng.”
“Anh không muốn bị trông thấy?”
Gipson thở dài. “Vâng.”
“Mấy giờ anh tới đó?”
“Sau ca làm việc của cô ta. Tôi nghĩ là khoảng một giờ hay một giờ ba mươi.”
“Và hai người đã quan hệ?”
“Phải.”
“Anh đã trả cô ta bao nhiêu?”
“Tôi đưa cô ta hai trăm đô.” Họ đã tìm thấy ba trăm bốn mươi ba đô la trong ví của Schreiber. Ví của Nicole Hansen có chín mươi tư đô. “Anh có dùng bao cao su không?”
“Có.”
“Sau đó thì sao?”
“Tôi rời đi.”
“Kiểu tàu nhanh à?”
Gipson nhắm mắt và lắc đầu. “Tôi phải lên lớp vào buổi sáng.” “Và anh lo vợ có thể gọi về nhà?”
“Chắc vậy.”
Tracy quan sát anh ta. “Liệu anh có bao giờ suy nghĩ kĩ lại không, Walter, chẳng hạn như có thể Angela không nói với anh sự thật?”
Gipson ngồi lùi lại và thở dài. “Cô ta biết rõ nhà nghỉ đó. Cô ta biết văn phòng ở đâu, giá phòng bao nhiêu.”
“Anh nghĩ là có thể cô ta đã lừa anh?”
“Tôi chỉ biết là chuyện này phải dừng lại. Tôi biết thế là sai trái.” “Anh có tức giận khi phát hiện ra cô ta đang lừa mình không?” “Chắc cũng có một chút. Nhưng, cô biết đấy, cô ta không ép buộc tôi.”
“Anh rời đi lúc mấy giờ?”
“Tôi không nhớ.”
“Có ai thấy anh rời đi không?”
“Tôi không biết, tôi nghĩ là không.”
“Vậy là anh cứ thế bỏ lại cô ta trong phòng nhà nghỉ?”
“Tôi đề nghị lái xe đưa cô ta về nhà, nhưng cô ta nói sẽ bắt taxi.” “Anh đã bao giờ đến một câu lạc bộ thoát y tên Dancing Bear chưa?” “Trước khi chuyện này xảy ra, trong đời tôi chưa bao giờ đến câu lạc
bộ thoát y, có lẽ ngoại trừ một lần trong bữa tiệc độc thân.” “Anh có bất kỳ sở thích nào không, Walter?”
“Sở thích?”
“Phải. Anh biết đấy: đánh gôn, uống bia.”
“Tôi câu cá bằng mồi giả.”
Tracy liếc nhìn tấm kính một chiều. “Anh có tự mình buộc dây câu không?”
“Từ khi tôi còn nhỏ, cha tôi đã dạy tôi.”
“Anh thuận tay trái hay tay phải?”
“Tay phải.”
“Có bao giờ làm trò gì đó điên cuồng với Angela không?”
“Gì cơ?”
“Anh biết đấy, đóng kịch, sử dụng đồ chơi. Cô ta có bao giờ yêu cầu bị trói lại không?”
“Không. Tôi không phải kiểu đó.”
“Kiểu gì cơ?”
“Bạo dâm. Khổ dâm. Kiểu vậy.”
“Anh đưa cô ta bao nhiêu để trả tiền phòng hôm đó?”
“Bốn mươi đô-la.”
“Phòng bao nhiêu tiền một giờ?”
“Tôi không biết.”
“Cô ta có trả lại tiền thừa cho anh không?”
“Không.” Anh ta nói.
“Hằng tuần anh lấy đâu ra tiền để chỉ trả cho một vũ nữ thoát y?” Gipson nhún vai. “Tôi làm việc ở trường cao đẳng cộng đồng; chúng tôi cần tiền cho em bé.”
“Con gái anh mấy tuổi rồi?”
“Hai tuổi.”
Cô chợt nảy ra một suy nghĩ. “Anh kết hôn bao lâu rồi, Walter?” “Một năm rưỡi.” Gipson ngồi lùi lại lần nữa. Sau một lúc, anh ta nhún vai theo kiểu "tôi sẽ phải làm gì đây". “Con bé là con gái tôi.” Tracy gật đầu. “Angela Schreiber cũng là con gái của ai đó.”
Hai sĩ quan cải huấn hộ tống Walter Gipson trở lại nhà tù quận King. Giờ thì họ đang buộc anh ta tội mua dâm và là nghi can giết người. Tracy và
Kins quay lại ô làm việc của mình. Các bức vách ngăn phân chia Ban Tội phạm Bạo lực thành bốn ô, mỗi ô có bốn bàn làm việc ở các góc và một bàn ở giữa. Dọc theo các vách ngăn là văn phòng làm việc của các trung sĩ và trung úy. Mỗi đội cũng được phân thêm một điều tra viên thứ năm, được gọi là "bánh xe số năm", để phòng hờ. Một chiếc ti-vi màn hình phẳng treo trên ô làm việc của đội B. Tối nay nó đang phát sóng một trận bóng rổ nhà nghề NBA.
Điện thoại của Kins reo trước khi anh đến bàn làm việc. Anh nhấc máy, lắng nghe một lúc rồi nói “Chúng tôi sẽ đến ngay,” và dập máy. “Nolasco gọi.”
Là kiểu trò chơi quyền lực của Nolasco, bắt mọi người phải vào phòng làm việc của ông ta đây mà! Họ quành ở góc rẽ và đi xuôi hành lang. Văn phòng của đại úy trông ra hướng tây, nhìn thẳng ra vịnh Elliott, hoặc sẽ như vậy nếu Nolasco có khi nào kéo rèm lên.
Nolasco ngồi sau bàn làm việc, quay lưng về phía những tấm bằng khen đóng khung treo trên tường. Trên một chiếc tủ búp phê thấp là hàng chồng giấy tờ và ảnh hai đứa con của ông ta, cậu con trai mặc đồng phục môn khúc côn cầu và cô con gái cầm một quả bóng đá. Nolasco không bày bức ảnh nào của các bà vợ cũ, những người mà ông ta thường phàn nàn rằng đã khiến ông ta mù quáng.
Ông ta trông chẳng vui vẻ gì, nhưng Nolasco hiếm khi vui vẻ trừ khi ông ta đang bắt bẻ ai đó. “Có phải Mayweather đã nói với hai người là tôi muốn gặp hai người càng sớm càng tốt không?”
“Chúng tôi có một nghi can trong vụ sát hại các vũ công.” Kins nói. “Và?”
“Anh ta nói mình không giết cô ta.”
“Nói tôi nghe xem hai người có gì rồi.”
Tracy và Kins vẫn đứng tại chỗ. “Angela Schreiber là một vũ nữ thoát
y ở Pink Palace.” Tracy bắt đầu.
Nolasco dựa lưng vào ghế. “Tôi đã đọc một vài lời khai của các nhân chứng. Tôi muốn biết liệu thủ phạm của hai vụ có phải là một không.” “Có vẻ là vậy.” Tracy lên tiếng.
“Đừng có trả lời tôi bằng mấy từ "có vẻ, có lẽ". Thị trưởng và Hội đồng thành phố đang trong tình cảnh ngàn cân treo sợi tóc rồi.” Điều này giải thích tại sao Nolasco vẫn đang ở văn phòng vào lúc muộn thế này. Mặc dù cách thức chết của hai vũ công có sự tương đồng nhưng cấp trên và tòa thị chính sẽ không dễ dàng thừa nhận là có một "kẻ giết người hàng loạt". Mỗi bên đều có kinh nghiệm về sự điên cuồng của giới truyền thông khi năm chữ đó khuấy động một đám người vốn lão luyện với việc đưa tin về những kẻ giết người khét tiếng, chưa kể đến tác động về mặt kinh tế mà một tổ chuyên án có thể gây ra đối với khoản ngân sách eo hẹp của cảnh sát. Những kẻ giết người hàng loạt có thể lẩn trốn trong nhiều năm, đôi khi lên đến hàng chục năm, trong khi các tổ chuyên án phải tiêu hao biết bao thời gian, ngân sách và sự thăng tiến thường niên của mình.
“Cùng một cách thức siết cổ các nạn nhân.” Kins nói. “Trong cả hai trường hợp, giường đều đã được dọn, quần áo nạn nhân được gấp gọn gàng.”
Tracy quan sát Nolasco để xem liệu có bất kỳ thông tin nào gợi nhớ hồi ức về Beth Stinson không, nhưng Nolasco không hề nao núng. “Còn những sợi dây thì sao?”
“Về sơ bộ? Nhìn thì có vẻ cùng một kiểu dây, cùng cách thắt nút. Melton đã mang nó đến phòng nghiên cứu.”
“Cô cử ai phụ trách ở đây rồi?”
“Faz và Del. Họ đang quét dấu vân tay. Ron thì đang kiểm tra các biển số xe ở nhà nghỉ và các cuộc gọi cùng tin nhắn cuối trên điện thoại di
động của Schreiber.”
“Có quá nhiều điểm tương đồng để phủ nhận thủ phạm của hai vụ là một người.” Kins kết luận.
Nolasco giơ một ngón tay lên. “Đó là lý do chúng ta đang nói chuyện trong văn phòng của tôi, Sparrow.” Ông ta sử dụng biệt danh của Kins. “Chưa thể khẳng định được chuyện đó.”
“Không đùa đấy chứ?” Tracy lên tiếng.
“Thị trưởng và Giám đốc không muốn trả lời những câu hỏi đó ngay lúc này. Còn nghi can của hai người thì thế nào rồi?”
“Walter Gipson!” Tracy nói. “Anh ta thừa nhận tối qua có ở cùng nạn nhân trong nhà nghỉ, nhưng phủ nhận đã giết cô ta.”
“Nghe thật nhảm nhí!”
“Cũng có thể!” Tracy nói.
“Các bằng chứng thế nào?”
“Dấu vân tay của anh ta có ở khắp nơi trong phòng nhà nghỉ. Chúng tôi đang chờ xét nghiệm ADN. Mẫu ADN duy nhất trên dây thừng đã siết cổ Hansen là của cô ta.”
“Sao chuyện đó có thể xảy ra được?”
“Không biết.” Tracy nói.
Điện thoại di động của Kins rung lên. Anh đọc tin nhắn. “Cerrabone gửi giấy phép khám nhà tới. Có lẽ chúng ta sẽ tìm thấy một cuộn dây thừng và tất cả sẽ được về nhà.”
Tracy lại không nghĩ vậy.
CHƯƠNG 11
Margarita Gipson ra mở cửa với vẻ mệt mỏi và sợ hãi. Bên trong căn hộ khiêm tốn nhưng sạch sẽ, một người phụ nữ trông rất giống cô ta, có thể là người chị đến từ Tacoma, đang ôm bé gái. Cô bé tựa đầu vào ngực người phụ nữ, ngón tay cái nhét trong miệng.
Con bé là con gái tôi, Walter Gipson đã nói vậy, và điều đó không hiểu sao khiến cô có cảm giác anh ta có tình người. Tuy nhiên, Gary Ridgway, tên sát nhân sông Xanh, kẻ đã giết ít nhất bốn mươi chín phụ nữ ở Seattle, đã nói với các điều tra viên bắt giữ mình rằng hắn đã dụ dỗ các nạn nhân vào trong xe khi đứa con trai nhỏ của hắn đang ngồi ở ghế sau.
Crosswhite thực thi lệnh khám xét căn hộ và nhà kho của Walter Gipson. Đội khám nghiệm hiện trường phối hợp làm việc với họ, đầu tiên là thu giữ khẩu súng của Gipson từ két an toàn trong tủ quần áo phòng ngủ. Mã gồm bốn chữ số để mở két là ngày sinh nhật của Margarita. “Thế thì tôi mới không quên.” Cô ta nói.
Trong khi đội khám nghiệm hiện trường tiếp tục làm việc, Margarita ngồi trên chiếc ghế đơn trong phòng khách, mân mê chuỗi tràng hạt và lau nước mắt bằng khăn giấy. Mắt cô ta đỏ ngầu và sưng húp. Tracy ngồi trên ghế xô pha đối diện cô ta. Kins và chị gái cô ta vẫn đang đứng. Tracy giải thích rằng Walter đang bị giam ở nhà tù quận King và sẽ không về nhà vào tối hôm đó.
“Nhưng anh ấy đã nói đó không phải chuyện gì to tát.” Margarita nói. “Anh ấy nói rằng anh ấy sẽ không bị bắt, rằng đó không phải điều cảnh
sát dành…” Cô ta nhìn lên chị gái mình, nhưng người phụ nữ chỉ nhún vai và lắc đầu.
“Nguồn lực của họ?” Tracy hỏi.
“Sự chú ý… Anh ấy nói đó không phải là điều cảnh sát chú ý tới.” Những lời cuối cùng gây ra cơn thổn thức trong ngực cô ta, và cô ta phải nén tiếng nức nở sau bàn tay.
Tracy và Kins nhìn nhau. Tracy tự hỏi liệu họ có cần tới người phiên dịch không. “Chồng cô có ý gì khi nói cảnh sát sẽ không chú ý tới? Anh ta đang nói về chuyện gì?”
“Các khoản thuế.”
“Các khoản thuế sao?”
“Anh ấy nói cảnh sát ấy mà, họ không quan tâm đâu.”
“Chồng cô không trả tiền thuế sao?” Tracy thấy khó mà tin được việc tiền thuế của Gipson không bị phòng hành chính của trường tự động khấu trừ, rồi cô nghĩ tới công việc bán thời gian của anh ta ở trường cao đẳng cộng đồng. “Ý cô là tiền dạy học của anh ta sao?”
“Không, về việc câu cá cơ.” Margarita nói.
Kins gật đầu với Tracy. “Anh ta đã bán những con cá câu được.” Margarita ngước nhìn anh. “Chúng tôi cần tiền cho em bé.” “Và anh ta không trả tiền thuế cho những gì mình bán.” Tracy nói, đã hiểu ra.
“Anh ấy nói cảnh sát không quan tâm đâu.”
“Chồng cô câu cá ở đâu?” Tracy hỏi.
Họ bước vòng qua một chiếc Toyota Prius đậu trong nhà để xe. Margarita xoay mặt số trên ổ khóa mã. “Anh ấy câu cá vào buổi đêm.” Cô ta nói. Cô ta kéo nhưng lẫy khóa không mở.
Sau khi Margarita kiểm tra lại bốn số và kéo lần nữa, vẫn không
thành công, Tracy nói: “Để tôi thử. Dãy số là gì?”
“Ngày sinh của tôi.” Margarita nói. “Thế thì tôi mới không quên. 0-4- 1-7.”
Cùng mã số để mở két đựng súng. Tracy thử nhưng không được. “Tôi có kìm cộng lực trong xe tải.” Một thành viên của đội khám nghiệm hiện trường lên tiếng.
“Đi lấy đi!”
Vài phút sau, anh ta đã bẻ được khóa. Tracy tháo nó ra, mở chốt và kéo cửa mở.
“Có đèn đấy.” Margarita nói. “Có một sợi dây.”
Tracy bước vào trong bóng tối, cảm thấy một sợi dây quệt qua mu bàn tay mình, bèn kéo nó. Một bóng đèn tròn phát ra ánh sáng chói lóa bên trên chiếc bàn làm việc thô sơ đặt trong không gian chật chội. Một tấm bảng đính đầy mồi giả với nhiều hình dạng phức tạp gắn trên bức tường phía sau, nhưng mồi giả không phải thứ khiến Tracy ngay lập tức chú ý. Khi Margarita Gipson ló đầu vào trong, cô ta nhanh chóng đưa tay nén tiếng nức nở và rồi lại bắt đầu khóc.
Walter Gipson được đưa trở lại phòng hỏi cung, lần này mặc bộ quần áo tù nhân màu đỏ của quận King, đi tất trắng và dép lê. Tracy và Kins không để anh ta chờ lâu. Họ cùng nhau bước vào phòng. Tracy không tháo còng tay cho Gipson.
“Chúng tôi đã vào nhà kho, Walter.” Cô nói.
Yết hầu của Gipson nhúc nhích.
Kins đẩy một bức ảnh được bọc trong túi nhựa qua bàn.
Ngày sinh nhật của Margarita không mở được khóa bởi vì chồng cô ta đã thay đổi cả mã số lẫn ổ khóa. Xen giữa hàng trăm miếng mồi giả mà Walter Gipson đính trên bảng là nửa tá ảnh khỏa thân của Angela Schreiber. Trong vài tấm ảnh, Tracy nhận ra tấm thảm trải màu xám đã sờn mòn và ố bẩn của nhà nghỉ Aurora. Walter Gipson có chút say mê Angela Schreiber hơn những gì anh ta hướng Tracy tin vào. Và những kẻ nói dối thường có điều gì đó phải che giấu.
Gipson cúi đầu và bắt đầu thút thít. “Tôi nghĩ là tôi muốn nói chuyện với luật sư ngay bây giờ.”
CHƯƠNG 12
Tracy mở một hộp thức ăn cho mèo và để nó trên kệ bếp. Cô mệt đến nỗi chẳng còn đủ sức để lấy đĩa từ trong tủ đựng bát đĩa. Roger có vẻ chẳng bận tâm. Còn với bản thân, cô đổ một hộp cá ngừ lên chỗ sa lát còn thừa mà cô vẫn chưa có thời gian để ăn hết lúc trưa nên phải gói mang theo. Khi băng ngang phòng ăn, cô để ý đến chiếc máy tính xách tay vẫn đặt trên bàn và lại nghĩ về vụ Beth Stinson. Vụ án của Johnny Nolasco.
Nolasco đã là cộng sự với một kẻ phân biệt chủng tộc cuồng tín tên Floyd Hattie hơn một thập niên. Khi Nolasco lên chức trung sĩ, Tracy được chỉ định làm cộng sự mới của Hattie. Hattie nhìn lướt qua cô và nói "Tôi không làm việc với Tracy Ẻo Lả" và chẳng bao lâu thì nghỉ hưu. Faz đã bảo Tracy nhìn vào vận may của mình. Hattie và Nolasco có hồ sơ phá án hoàn hảo, thứ mà họ rất thích vỗ vào mặt các điều tra viên khác, nhưng còn nổi tiếng hơn vì việc sử dụng những chiến thuật gây tranh cãi: những nguồn tin đường phố không rõ nguồn gốc đột nhiên xuất hiện dưới dạng các nhân chứng, những mưu mẹo cũ rích để "khuyến khích" lời thú tội, và thậm chí có một, hai trường hợp nghi phạm bị ngã và tự khiến mình bị thương.
Tracy đặt sa lát xuống bên cạnh máy tính xách tay và ấn phím cách. Màn hình sáng lên, vẫn hiển thị trang web của Bộ trưởng Tư pháp. Cô đăng nhập lại vào Hệ thống Theo dõi Điều tra Án mạng và mở tệp tin của Beth Stinson lên. Cô nghi ngờ là Nolasco đã điền vào mẫu đơn. Cô không nghĩ Hattie, với một chân đã rút khỏi ngành, sẽ bận tâm tới việc
đó. Cô vẫn thấy băn khoăn bởi sự mâu thuẫn: Đối với câu hỏi liệu Stinson có bị tấn công tình dục không, câu trả lời là có, tuy nhiên lại thiếu các bằng chứng pháp y để chứng minh kết luận đó. Cô cũng thấy bứt rứt bởi sự tương đồng giữa các chi tiết trong phòng ngủ của Stinson và các phòng nhà nghỉ nơi tìm thấy thi thể của Hansen và Schreiber. Cô không muốn nói với Nolasco về chuyện này, và cô chắc chắn sẽ không tìm đến Hattie. Cô nghi ngờ việc ông ta có cải thiện gì nhiều khi đã nghỉ hưu.
Cô ghi nhớ phải gọi tới Cục Lưu trữ của bang và lấy tập hồ sơ của Stinson trong kho, tuy nhiên cô sẽ phải làm thật lặng lẽ. Nolasco là kẻ thù dai, nếu ông ta nghe được một lời nào về việc cô đang xem xét một trong các tập tài liệu cũ của ông ta, ông ta sẽ nhảy dựng lên, đặc biệt là nếu cô tìm ra bất cứ sai phạm nào mà Faz từng ám chỉ. Cô suy nghĩ có nên nói cho Kins biết không. Anh đã kết hôn và có ba con, anh không thể bị đình chỉ công tác, nếu sự việc đi đến mức đó. Cô quyết định sẽ tự mình đi lấy tập hồ sơ, và nếu nó không có gì tương đồng với vụ Hansen và Schreiber, cô sẽ trả nó lại. Nếu có gì thì việc đến đâu hay tới đó.
Cô tắt máy và mang sa lát vào phòng ngủ. Khi cô bước vào phòng, đèn cao áp ở sân sau được kích hoạt và hắt sáng qua tấm rèm chăng ngang cánh cửa kính trượt. Cô kéo rèm ra và nhìn xuống sân. Mưa vẫn đang rơi, nhưng chỉ còn gió nhẹ và không có dấu hiệu của bất kỳ sinh vật bốn chân lông lá nào có thể kích hoạt thiết bị cảm ứng chuyển động.
Cô đã bảo Billy là cô không cần xe tuần tra đứng canh ở bên ngoài, nhưng đó chỉ là nói mạnh miệng thôi. Bất kỳ dấu hiệu nào của sự mềm yếu cũng rất dễ dàng bị đổ cho giới tính của cô. Đó là một tiêu chuẩn kép, nhưng cũng là thực tế. Thật ra, cô thấy mừng khi có một sĩ quan cảnh sát đậu xe bên lề đường.
Cô thay sang chiếc áo phông dài và leo lên giường, vừa ăn sa lát vừa
lướt qua các kênh trên ti-vi. Mặc dù đã mệt rã rời nhưng cô vẫn tiếp tục điểm lại cuộc thẩm vấn với Walter Gipson, hai hiện trường vụ án và khoảng một ngàn câu hỏi. Cô cần suy nghĩ chậm lại, nếu không sẽ chẳng bao giờ ngủ được. Cô bật đầu DVR và chuyển sang phần mới nhất của bộ phim Tu viện Downton. Rèm cửa lại sáng lên.
Cô tắt ti-vi để không còn ánh sáng trong phòng, trượt khỏi giường và vén rèm lên. Thảm cỏ vẫn trống trơn, cây cối đứng im. Vậy thì tại sao cô lại có cảm giác giống lúc ở trường bắn là cô đang bị theo dõi? Ánh đèn cao áp vụt tắt. Khi chúng không sáng lên nữa, cô tự nhủ có thể chỉ là do mưa, vì Dan đã cài đặt thiết bị cảm ứng chuyển động quá nhạy. Cô leo lên giường, cầm theo khẩu Glock, đặt nó lên chiếc gối bên cạnh.
Tracy Crosswhite đã có vài sự thay đổi kể từ chuyến viếng thăm đầu tiên của hắn. Đèn cao áp và thiết bị cảm ứng chuyển động, cũng như chiếc xe cảnh sát đỗ trước nhà, rất có thể là kết quả của món quà hắn đã để lại cho cô ở trường bắn, điều mà hắn bắt đầu nghĩ là một sai lầm.
Ánh đèn bất ngờ xuất hiện khi hắn đến gần nhà cô, và hắn phải nhanh chóng rút lui vào bụi rậm. Ở đó, hắn cúi người khi nước nhỏ giọt từ chiếc mũ rằn ri.
Thường thì mưa không khiến hắn thấy phiền, nhưng tối nay những giọt nước mưa đã xoay xở tìm ra các đường may và những lỗ hổng trên bộ đồ bảo hộ. Hắn có thể cảm thấy chiếc áo phông đang dính vào lưng và sự ẩm ướt thấm vào đôi tất của hắn. Sự ẩm ướt của vùng Tây Bắc Thái Bình Dương khiến xương cốt hắn đau nhức. Hắn cứ tưởng vì vụ án của Angela Schreiber nên Tracy sẽ về nhà muộn. Lịch làm việc của cô không cố định, tùy thuộc vào công việc. Khi có một vụ giết người, cô
không theo lịch trình cụ thể nào. Vài đêm cô thậm chí còn không về nhà.
Vậy nên việc ghé thăm cô trong đêm khi cô đang điều tra một vụ giết người sẽ là một sự may rủi, nhưng đêm nay, thôi thúc muốn thấy cô quá mãnh liệt khiến hắn không thể chịu nổi và việc ngắm bức ảnh hắn đã chụp trộm cô không đủ khiến hắn thỏa mãn. Nhu cầu được ở gần cô, cảm nhận sự hiện diện của cô, cảm nhận sự kết nối mà hắn cảm thấy lần đầu tiên khi trông thấy cô trên bản tin tại hiện trường vụ án của Nicole Hansen đã áp đảo mọi suy nghĩ trong đầu hắn. Mặc dù chỉ qua truyền hình, khoảnh khắc đầu tiên ấy không giống bất kỳ điều gì hắn từng trải nghiệm. Tình yêu từ cái nhìn đầu tiên. Sao lại không yêu được kia chứ? Tracy cao dong dỏng, tóc vàng và thật xinh đẹp. Hắn bắt đầu theo dõi cô khi cô rời căn hộ trên Đồi Capitol. Một lần, hắn thậm chí còn ngồi không xa cô trong một quán cà phê, nhưng hắn không thể ra bắt chuyện với cô. Tuy vậy, khi hắn biết về cô rõ hơn, hắn đã nhận ra sự hấp dẫn không chỉ đơn thuần về mặt cơ thể. Đó là sự hấp dẫn về tâm hồn. Hắn tự hỏi liệu rằng, không, hắn biết, cô là bạn tâm giao của hắn, là người mà định mệnh dành cho hắn trong suốt quãng đời còn lại.
Khi cô rời đi Cedar Grove, hắn cảm thấy trong mình có một khoảng trống, giống như hắn đã mất đi nửa linh hồn. Hắn cảm thấy mình không thể hoàn thiện nếu thiếu vắng cô. Hắn phải ở gần cô. Không phải mọi lúc, hắn không thể làm vậy vì còn công việc và gia đình, nhưng hắn đã thu xếp để rời đi trong vài ngày. Một hôm, hắn thậm chí còn ngồi trong tòa án để nghe xử vụ Edmund House. Hắn lén chụp ảnh cô. Bức ảnh yêu thích của hắn là một trong những tấm hắn chụp được khi cô đứng trên hiên nhà bên ngoài phòng khám thú y ở Pine Flat. Hắn đã xoay xở để có được một tấm chụp cận mặt cô. Đó là một bức ảnh tuyệt vời, ngoạn mục. Cái lạnh làm má cô ửng hồng, khiến cô trông rất giống một thiếu nữ. Những bông tuyết bao quanh cô như một quầng sáng, và đôi mắt cô
mang màu xanh rực rỡ, trông như đang nhìn thẳng vào hắn. Uy lực trong ánh mắt cô mạnh mẽ đến nỗi hắn phải hạ máy ảnh xuống để nhìn thẳng vào cô. Cô có kiểu uy quyền đó. Rồi hắn nhận ra cô đang nhìn chằm chằm không phải vào hắn mà vào chiếc xe của hắn. Hắn đã gạt tuyết trên kính chắn gió để chụp ảnh, khiến chiếc xe trở nên nổi bật so với những chiếc khác.
May mắn thay, cô đã trở vào bên trong phòng khám, cho hắn cơ hội rời đi.
Hắn nhìn ra phía sau ngôi nhà khi đèn bếp sáng lên. Cô đã về. Canh bạc của hắn đã thắng. Hắn nhanh chóng nâng ống nhòm lên, tập trung hướng vào cửa sổ ngoài cùng bên trái và trông thấy cửa tủ lạnh mở. Hắn thoáng nhìn thấy cô khi cô đóng cửa tủ lại và một lần nữa khi cô đi ngang qua cửa sổ. Sau đó, cửa sổ tối đen. Hắn hướng ống nhòm vào khung cửa kính trượt phía ngoài cùng bên phải, nơi phòng ngủ của cô. Khi đèn không lập tức sáng lên, hắn chuyển sang trái, tới khung cửa kính trượt dẫn ra ban công. Tracy luôn mở rèm cửa, rõ ràng là để thưởng thức quang cảnh, nhưng bên trong quá tối khiến hắn trông thấy được gì và rất ít khả năng cô sẽ bước ra sân vào cái giờ muộn thế này và lại còn mưa nữa.
Hắn chỉ có thể nhìn thấy ánh sáng xanh mờ. Là máy tính xách tay của cô. Cô thường làm việc trên bàn ăn, đôi khi đến hàng giờ đồng hồ. Trong những đêm đó, hắn thấy thật hài lòng với việc ngồi đó và thưởng thức sự hiện diện của cô. Nhưng đêm nay hắn khao khát nhiều hơn. Hắn khao khát cô.
Khi năm phút trôi qua và các khớp xương của hắn bắt đầu đau nhức, hắn tự nhủ hắn có thể đợi thêm năm phút nữa. Năm phút biến thành hai mươi phút. Ánh sáng xanh đã tắt. Mạch của hắn đập nhanh hơn. Hắn chuyển ống nhòm sang phòng ngủ. Đèn bật sáng. Rèm cửa đã buông xuống.
Hắn chửi thề, thất vọng sâu sắc vì sẽ không được ngắm cô, dù chỉ là một ánh nhìn thoáng qua.
Đèn tắt. Ánh sáng màu xanh xám lập lòe qua tấm rèm cửa. Cô đang xem ti-vi trên giường. Hắn miễn cưỡng thu dọn đồ đạc. Khi hắn chuẩn bị ra về, một ý nghĩ ập đến với hắn. Đó là một sự mạo hiểm, giống như việc để lại cái thòng lọng. Hắn vẫn còn chưa biết liệu đó có phải là ý hay không. Tất cả phụ thuộc vào kết quả.
Hắn bước ra khỏi bụi rậm trước khi có cơ hội đổi ý. Đôi ủng của hắn kêu lép bép và tạo thành những vũng nước nhỏ trên bãi cỏ ướt sũng. Khi đèn không sáng lên, hắn giơ tay vẫy trên đầu. Không thấy gì. Hắn tiến thêm một bước nữa và lặp lại động tác ấy.
Đèn cao áp chiếu sáng khoảng sân.
Hắn nhanh chúng trở lại bụi rậm và nâng ống nhòm lên, cảm nhận sự mong đợi trào dâng.
Và rồi cô xuất hiện, đứng bên cánh cửa kính, giống như một ảo ảnh nhưng lại vô cùng chân thật. Cô mặc một chiếc áo phông màu trắng dài ngang bắp chân. Trước đây hắn chưa bao giờ trông thấy chân cô, chưa bao giờ thấy cô mặc váy, bởi cô luôn mặc quần bò xanh hoặc quần âu. Đôi chân cô đúng như hắn tưởng tượng, thuôn dài và săn chắc. Hắn rướn người về phía trước, như thể bị lôi kéo bởi sức hút từ tính, và phải đấu tranh với thôi thúc bước về phía cô. Hắn không thể làm vậy. Chưa đến lúc. Cô vẫn chưa biết hắn. Cô sẽ nghĩ hắn bị điên. Cô phải gặp hắn trong một sự sắp đặt khác, một sự sắp đặt để hắn có thể cho cô thấy là hắn yêu cô nhiều biết chừng nào. Từ giờ cho đến lúc đó, hắn cần phải kiên nhẫn. Từ giờ cho đến lúc đó, hắn sẽ phải tạm chấp nhận rằng những hình ảnh như thế này là đủ.
CHƯƠNG 13
Sáng sớm hôm sau, Tracy và Kins ngồi cùng Rick Cerrabone trong phòng họp tại tòa án quận King, uống cà phê đen và xem qua các bằng chứng pháp y lấy từ căn phòng trong nhà nghỉ Aurora. Tracy cảm thấy uể oải vì thiếu ngủ. Trong đêm, đèn cao áp đã sáng thêm hai lần nữa. Cô đã lờ nó đi. Giờ thì cơn nhức đầu âm ỉ đang rung lên nơi thái dương và đỉnh đầu cô, thuốc ibuprofen cô đã uống để giảm đau đang khiến cái dạ dày trống rỗng của cô nhộn nhạo. Từ vẻ ngoài hốc hác của Kins, cô có cảm giác anh cũng chẳng khá khẩm hơn cô là mấy.
“Có thể hắn đã bất cẩn.” Kins nói. Anh ngồi cúi người trên chiếc cốc giấy. Họ đang thảo luận làm thế nào mà dấu vân tay của Walter Gipson có đầy trong nhà nghỉ nhưng không có mẫu ADN nào của anh ta. “Hắn ta không thể đeo găng ngay từ lúc mới đến, đúng không? Vậy nên hắn ta có thể đeo chúng vào trong phòng tắm rồi lau chùi các dấu vết sau khi giết cô ta, nhưng lần này hắn ta đã bất cẩn.”
“Tôi chưa thấy gã cẩn thận nào để lại dấu vân tay.” Tracy lên tiếng. “Hắn đã đốt gan bàn chân cô ta. Nếu hắn làm vậy để đẩy nhanh quá trình, có thể hắn đang vội và trở nên bất cẩn.”
“Hoặc có thể hắn chỉ muốn thấy cô ta đau đớn hơn.” Tracy nói. Cerrabone đã cởi áo vét, choàng cẩn thận lên chiếc ghế bên cạnh. Không có lấy một vết nhăn nào trên chiếc áo sơ-mi trắng nhiều hồ của ông ta, và chiếc cà vạt đỏ như đang thị uy. Ông ta đã bắt đầu một buổi tố tụng ngay sáng hôm đó. “Chúng ta biết được gì chắc chắn rồi?” Ông
ta hỏi.
Họ có chưa đầy bốn mươi tám tiếng trước khi luật sư thảo luận xong với Walter Gipson. Cerrabone sẽ phải thuyết phục thẩm phán rằng đã có đầy đủ bằng chứng buộc tội Gipson đã giết Angela Schreiber.
“Các vũ công ở Pink Palace xác nhận anh ta có xuất hiện.” Kins nói. Anh đang đọc một trong những lời khai của nhân chứng mà Faz và Del đã thu được. “Hình như Schreiber có đưa anh ta vào phòng thay đồ một lần.”
“Anh ta không phủ nhận chuyện đó.” Tracy nói.
“Và băng ghi hình trong bãi đỗ xe của Pink Palace cho thấy Schreiber rời đi với anh ta ngay sau ca làm việc vào lúc hơn một giờ sáng.” Kins lên tiếng.
“Anh ta cũng thừa nhận.” Tracy nói.
Kins lướt qua các trang báo cáo của họ. “Nhật ký cuộc gọi trong điện thoại di động cho thấy số máy thường xuyên gọi đến cho Schreiber trong suốt hai tháng vừa qua…”
“Anh ta không chối.”
“Tổng đài cho biết số điện thoại của anh ta đã gọi đến số điện thoại của Schreiber vào tối hôm đó.”
“Nhưng cũng xác nhận có một cuộc gọi từ trạm sóng phía đông hồ Washington ngay khoảng thời gian Gipson nói anh ta đã về nhà.” Kins hạ bản báo cáo xuống. “Tôi rất ghét mỗi khi cô làm thế.” Tracy nhún vai. “Thà tranh cãi với tôi còn hơn với một luật sư bào chữa mà.”
“Còn về câu lạc bộ Dancing Bear thì sao?” Carrabone hỏi. “Faz và Del đã mang ảnh của anh ta tới đó. Không một ai từng thấy anh ta.” Tracy nói.
“Còn gì nữa không?” Cerrabone hỏi.
“Anh ta có thể thắt nút một cách dễ dàng.” Kins nói.
“Anh ta nói mình thuận tay phải.” Tracy tiếp lời.
“Có thể. Chúng ta chưa biết chắc chuyện đó. Chúng ta biết anh ta say mê cô ta hơn những gì anh ta thừa nhận.” Kins đẩy bản sao các bức ảnh họ tìm thấy trong nhà kho ngang qua bàn, nói tiếp trong khi Cerrabone xem xét chúng. “Chúng được chụp trong phòng nhà nghỉ, và ít nhất có một bức trong số đó chụp Schreiber đang quỳ bằng cả tay và đầu gối.”
“Nhưng không có sợi dây thừng nào quấn quanh cổ.” Cerrabone nói. “Đúng vậy, không có dây thừng quấn quanh cổ.” Kins đồng ý. “Còn gì khác không?”
“Cô ta thuê phòng hơn một giờ.” Tracy nói.
“Anh ta nói vợ mình đã đi chơi. Anh ta không phải vội về nhà.” Kins mỉm cười với cô theo kiểu "cả hai có thể cùng đóng vai người bào chữa của ác quỷ".
“Sao chuyện đó lại quan trọng?” Cerrabone nói.
“Tracy nghĩ cô ta thuê phòng hơn một giờ là bởi vì cô ta sẽ gặp ai đó sau Gipson.” Kins nói.
“Gái mại dâm thường làm vậy mà, Kins.” Tracy nói. “Cũng có phải chuyện gì to tát đâu.”
“Xin lỗi, nhưng tôi không sử dụng cái dịch vụ đó.” Kins nói. “Thực sự thì, tỷ lệ xảy ra khả năng đó là bao nhiêu? Gipson đưa cô ta đến nhà nghỉ và quan hệ với cô ta, sau đó một gã khác cũng tới và giết cô ta sao? Điều đó khiến Gipson trở thành thằng khốn xui xẻo nhất hành tinh.”
“Chủ nhà nghỉ đã nói gì?” Cerrabone hỏi.
“Ông ta bảo hắn ở đó ít nhất là hai tiếng.” Kins nói. “Nhưng ông ta không lưu lại hồ sơ thanh toán của khách trả tiền mặt.”
Cerrabone nhìn Tracy. “Cô không nghĩ anh ta đã làm vậy sao?” Đầu cô đang ong ong. Cô muốn ăn và ngủ. Cô ngủ không được ngon đã một thời gian rồi. “Tôi không biết.”
“Còn gì khác không?”
“Tôi không biết. Ý tôi là… anh ta khiến bạn gái mang thai và cưới cô ta. Tôi có thể nhận ra khi nói chuyện với anh ta rằng đó không phải là sự lựa chọn đầu tiên, nhưng anh ta đã làm điều đúng đắn.”
Kins nhăn mặt. “Ridgway đã kết hôn hai lần, nhưng hắn ta vẫn là một thằng bệnh hoạn. Hắn sử dụng con mình để tiếp cận phụ nữ. Những kẻ đó có những lý do mà chúng ta sẽ không bao giờ hiểu nổi.”
“Tôi chỉ đang nói đó là yếu tố đáng cân nhắc, cùng với những thứ khác. Tôi không nói nó khiến anh ta trở thành một hướng đạo sinh.” Tracy đáp.
Cerrabone gõ nhịp trên bàn bằng ngón tay giữa. “Chúng ta có thể qua được buổi thẩm định chứng cứ, nhưng chúng ta sẽ không luận tội được nghi phạm hoặc vụ khởi tố bị bác bỏ do thiếu yếu tố pháp lý. Nếu tôi nộp đơn khiếu nại, chúng ta sẽ chơi bài ngửa và các phương tiện truyền thống sẽ biết về những điểm tương đồng với vụ Nicole Hansen.”
“Và rồi đâu lại hoàn đấy.” Kins nói.
Cerrabone nhìn đồng hồ, đứng dậy và mặc áo khoác. “Nếu có bất cứ thông tin nào mới thì báo đến văn phòng tôi nhé!” Nghe giọng ông ta không mấy lạc quan. Ông ta quay đầu lại khi ra đến cửa. “Chúng ta không có bằng chứng nào kết nối anh ta với vụ Hansen sao?”
“Chưa thấy gì.” Tracy nói.
Do thiếu chứng cứ nên Tracy không ngạc nhiên khi Cerrabone gọi tới vào cuối buổi chiều khi cô và Kins đang rời khỏi một cửa hàng bán đồ câu cá. Họ đã đưa một vài mẫu mồi câu của Gipson cho chủ cửa hàng và hỏi liệu ông ta có biết người buộc mồi thuận tay trái hay tay phải không.
“Thứ phức tạp như thế…” người đàn ông nói. “Anh ta phải dùng cả hai tay thì mới buộc được.”
Tuyệt vời, Tracy nghĩ.
Cerrabone nói ra điều mà Tracy đã luận ra. “Chẳng có gì tiến triển.” Cô tôn trọng ông ta. Không giống vài công tố viên luôn lựa chọn những vụ án thuận lợi để cố gắng bảo toàn tỉ lệ thắng – thua của họ, Cerrabone không ngại tìm hiểu một vụ mà ông ta có thể thua. Nhưng đây là một quyết định hợp lí. Họ không có đủ bằng chứng, và điều cuối cùng họ muốn làm là tiến vào một phiên thẩm định bằng chứng và cho cánh truyền thông thêm lý do để chỉ trích họ khi thẩm phán kết thúc bằng việc thả tự do cho Gipson và có thêm một vụ sát hại phụ nữ trẻ khác nữa chưa được giải quyết.
Sau khi gác máy, Tracy bước qua góc rẽ đến văn phòng của Nolasco để đưa ra lời đề nghị. Cô ngờ là mình đã biết câu trả lời, nhưng cô muốn ghi chú trong hồ sơ rằng cô đã có cố gắng.
“Chúng tôi muốn cử người theo dõi Gipson.” Cô nói.
“Làm việc của cô đi và tôi không phải ký quyết định chi thêm một khoản phí không cần thiết nữa.” Nolasco nói.
Đầu buổi tối hôm đó, Walter Gipson, kẻ hâm mộ cuồng nhiệt gái mại dâm, các nhà nghỉ tốt và có kỹ năng tạo ra những mồi câu giả phức tạp,
đã tự do bước ra khỏi nhà tù quận King.
"""