" Đường Phố Người Con Út - Lev Kassil & Max Polyanovsky full mobi pdf epub azw3 audio [Tiểu Thuyết] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đường Phố Người Con Út - Lev Kassil & Max Polyanovsky full mobi pdf epub azw3 audio [Tiểu Thuyết] Ebooks Nhóm Zalo ĐƯỜNG PHỐ NGƯỜI CON ÚT Nguyên tác: Улица младшего сына (1949) –★– Tác giả: Lev Kassil & Max Polyanovsky Dịch giả: Phạm Ngọc Long & Vũ Việt NXB Tiến bộ - 1978 Nguồn sách & scan: 4DHN Chuyển text: teacher.anh Caruri ebook♥tve-4u.org 06/03 - 06/05/2020 Chiếc khăn quàng đỏ thiếu niên mang ba dấu hiệu của mối quan hệ gắn bó giữa ba thế hệ: những người đảng viên cộng sản, các đoàn viên thanh niên và đội viên thiếu niên tiền phong. (Trích “Sổ tay người phụ trách thiếu niên”) DÃY PHỐ Ở KERCH Trên thế giới rất hiếm những em nhỏ được lấy tên đặt cho cả một dãy phố. Bởi vậy hai chúng tôi dừng ngay lại ở một ngã tư khi ngẫu nhiên đọc thấy dòng chữ viết trên tấm biển nhỏ gắn trên bờ tường của ngôi nhà góc phố… Chúng tôi đến Kerch hôm qua. Thành phố vùng Krym với những đường phố trông ra hai mặt biển Hắc Hải và Azov này có một lịch sử lâu đời và kỳ lạ. Rất nhiều những truyền thuyết cổ xưa như còn phảng phất trùm lên ngọn núi Mithridat vút cao ở Kerch. Và cái thành phố miền Nam ấm cúng nối liền hai biển này còn giành được một vinh quang khác nữa vào những năm tháng sục sôi của các kế hoạch năm năm đầu tiên và hai cuộc chiến tranh: nội chiến và Vệ quốc vĩ đại. Trong thời gian các kế hoạch năm năm trước chiến tranh, Kerch đã từ một thị trấn đánh cá nhỏ biến thành một trung tâm công nghiệp lớn, một thành phố quặng mỏ, kim loại và đóng tàu. Nhiều nhà máy lớn mọc lên quanh Kerch cung cấp cho đất nước hàng triệu tấn gang, thép, thép cán. Quặng mỏ ở Kamysh-Burun được chuyên chở đến những nhà máy luyện kim lớn xây dựng ở Priazovye. Vừa ngắm thành phố, chúng tôi vừa bước ra phố chính. Đường phố thẳng tắp, rợp bóng cây mang tên Lenin. Những ngôi nhà không cao nhưng rất xinh xắn, xây bằng đá trắng, ẩn mình dưới bóng hàng keo. Nhiều nhà đã bị bom, đạn phát-xít hủy hoại hồi chiến tranh. Làn gió ấm áp, phảng phất hơi thở của biển từ ngoài vịnh thổi vào. Bỗng từ xa vọng lại tiếng chim hót rất to. Chúng tôi nhìn thấy mấy chiếc lồng treo trên tường đá trắng ở phía trên đầu. Trong ba chiếc, mấy cô bạch yến nhanh nhẹn nhảy nhót, còn trong chiếc kia, một chú chim tước lớn thò cái mỏ to sù qua khe nan ra ngoài. Bên dưới mấy chiếc lồng có một người đang ngồi trên ghế hút thuốc. Chắc hẳn ông này là chủ của lũ chim kia; ông ta mang chúng ra sưởi nắng vào buổi sáng chủ nhật. Ông mặc áo bộ đội đã phai màu vì nắng nhưng sạch sẽ, cổ áo để hở, ngực đeo cuống huy chương Chiến tranh Vệ quốc bọc cẩn thận dưới lớp vải nhựa trong suốt. Dưới lần áo ngoài là chiếc áo kẻ sọc xanh sạch sẽ đã phai màu. Ông làm một cử chỉ gì đấy và thế là lũ chim đang yên lặng bỗng cất tiếng hót líu lô, vang động cả dãy phố mà trên tường một ngôi nhà của nó có treo tấm biển nhỏ: PHỐ VOLODIA DUBININ Mặt trời Krym và gió của hai biển đã làm mờ gần hết dòng chữ trên tấm biển sắt tây. Chúng tôi không dám chắc là đã đọc đúng tên phố. – Xin lỗi, phố này tên là gì đấy bác? Người mặc áo bộ đội ngẩng khuôn mặt rám nắng lên, lại ra hiệu gì đấy cho lũ chim và thế là tiếng líu lo trong lồng ngừng bặt. – Đây trước kia là phố Krestian, nhưng bây giờ và mãi mãi về sau là phố Volodia Dubinin, – ông trả lời bằng một giọng khàn khàn nhưng rành rọt. – Thế Volodia Dubinin là ai và làm sao mà ông ta được vinh dự lớn thế ạ? – Em ấy rất xứng đáng với vinh dự đó, – ông nói một cách nghiêm nghị, – Rất xứng đáng. Tôi là người ở đây và tôi có thể nói cho các đồng chí rõ về Volodia Dubinin, đứa con của Kerch chúng tôi… Lũ chim bạch yến cất tiếng hót líu lo, hạt hướng dương rơi lả tả từ trên lồng xuống, các em nhỏ Kerch đứng xúm quanh, yên lặng nghe câu chuyện về người bạn đồng hương vinh quang hẳn rằng các em đã rất quen thuộc. Sau đó, theo lời mách bảo của các em, chúng tôi đến Viện bảo tàng thành phố. Trong một căn phòng lớn, giữa các bức chân dung những người đã làm vẻ vang cho Kerch, chúng tôi đọc thấy dòng chữ “Volodia Dubinin” quen thuộc trên tấm nhung đỏ thắm. Khuôn mặt em nhỏ đang từ bức chân dung nhìn chúng tôi. Đó là một cậu bé trán cao, môi trề ra một cách bướng bỉnh và tươi tắn; đôi mắt to sáng nhiệt thành nhìn thế giới đầy khao khát hiểu biết, toát ra một vẻ dũng cảm thẳng thắn, mạnh dạn; trước đôi mắt đó, tất cả mọi thứ trên đời dường như đều bị phanh phui ra ngay lập tức. Buổi tối, cũng bên bức chân dung đó nhưng được treo trên tường một căn phòng sạch sẽ, bà Evdokia, mẹ Volodia Dubinin, khe khẽ kể cho chúng tôi nghe về con trai bà. Valia Dubinina, chị của Volodia, thỉnh thoảng lại chêm vào đôi lời để bổ sung cho câu chuyện của bà mẹ, khi bà quên mất một điều nào đó. Hôm sau, tại trường số 13, được gọi là “Trường Volodia Dubinin”, chúng tôi chuyện trò với các thầy giáo và bạn học của Volodia. Tất cả những chuyện chúng tôi biết được về Volodia thu hút chúng tôi, khiến chúng tôi xúc động sâu sắc đến nỗi phải lưu lại Kerch một thời gian dài. Qua từng lời kể, từng ngày, từng bước, chúng tôi dần dần nhìn thấy lịch sử những ngày mới trôi qua một lịch sử trung thực và đẹp đẽ gấp hàng trăm lần những điều mà các viên đá vô tri vô giác khai quật lên có thể kể cho chúng ta. Chúng tôi rời thành phố sau khi đã quen biết thêm nhiều con người tuyệt diệu, và sau khi đã thu lượm được tài liệu hết sức phong phú về một em thiếu niên được lấy tên đặt cho một đường phố ở Kerch. Sau này, chúng tôi đã trao đổi thư từ với nhiều người hiện sống ở các thành phố khác, nhưng còn nhớ rõ Volodia. Những ai biết Volodia đều sẵn lòng trả lời thư của chúng tôi. Họ gửi cho chúng tôi nào nhật ký, nào ghi chép của họ về những ngày Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, về những việc làm và chiến công của Volodia. Chúng tôi còn nhiều lần đến Kerch, đi khắp những nơi gắn liền với tên tuổi Volodia và cuộc đời ngắn ngủi nhưng dũng cảm của em. Chúng tôi còn hỏi kỹ tất cả những người thân thuộc và bạn bè của em, những bạn cùng tuổi và bạn chiến đấu lớn tuổi về những sự việc đã mang lại vinh quang cho em thiếu niên Kerch này. Hết trang này đến trang khác, cuốn sách này đã được viết ra như vậy. Cuốn sách hầu như không hư cấu. Tất cả những điều kể ở đây đều là sự thật, một sự thật tuyệt vời, chính xác và trong sáng đến nỗi không cần phải tô điểm thêm. Gần như mọi trang trong cuốn sách này đều có thể được xác nhận bằng các tài liệu và các bức ảnh. Những người Xô-viết trung thực có quen biết em thiếu niên được vinh dự lấy tên đặt cho đường phố ở Kerch ấy đã và đang tiếp tục gửi các tài liệu cùng tranh ảnh cho chúng tôi. PHẦN MỘT Hãy mau khôn lớn, con nhé! Chương I DÒNG CHỮ TRONG MỎ ĐÁ Volodia Dubinin nhớ mãi cái ngày mẹ dẫn em và chị Valia đi Cựu Karantin. Mùa xuân nào ba mẹ con cũng từ Kerch đến đó thăm bác Gritsenko. Bà Evdokia có một mảnh vườn nhỏ ở đấy. Từ lâu, Volodia đã chơi thân với Vania, con bác Gritsenko và là anh họ xa của em. Các em coi nhau như những người bạn cũ. – Tớ với Vania vốn là chỗ bạn bè kỳ cựu, – Volodia thường thích nói thế. Nghe thấy vậy thế nào Vania cũng bẻ lại: – Có người kỳ cựu nhưng cũng có người chưa kỳ cựu lắm đâu. Cậu mà đòi được gọi là kỳ cựu à? – Thế cậu thì kỳ cựu chắc? – Tớ là chuyện khác. Cậu đừng có so với tớ, – Vania đáp lại. Em hơn Volodia một tuổi, lên chín rồi còn gì. Volodia rất thích đi Cựu Karantin. Em thường về nghỉ hè ở đây với mẹ và chị Valia. Suốt ngày bọn trẻ chạy chơi trên những quả đồi mọc đầy cỏ gai, loại cỏ có hoa lớn màu hồng hồng phủ đầy lông, giống như những chiếc bàn chải cạo râu to xù. Các em chạy đến Kamysh Burun xem ngư dân câu cá và chính các em cũng câu được những chú cá mòi, cá ngạnh. Sau đó các em trở về căn nhà nhỏ màu trắng làm bằng đá vôi sò hến của bác Gritsenko. Các em đòi đem nấu ngay mớ cá câu được cho cả nhà ăn chung. Nếu câu được nhiều, mọi người vừa ăn vừa khen các em câu giỏi, còn bác Gritsenko trước kia cũng đã từng đánh cá thì bảo: – Này, các chú, các chú đi câu nuôi gia đình được rồi đấy. Nhưng đừng có ba hoa nữa, nhằn cho kỹ vào, kẻo lại hóc xương! – và bác lấy thìa gõ nhẹ vào mũi tụi trẻ. Phải, Cựu Karantin quả là nơi thú vị nhất trần đời. Ở đây có thể ra biển tắm vì chỗ ven bờ rất nông, có thể thả thuyền, có thể giúp các bác đánh cá phơi lưới hoặc lấy nhựa quét thuyền. Lại còn bao nhiêu chỗ chơi khác như chơi trò trốn bắt ở những quả đồi sau làng. Ở đó có chiếc chòi hình tháp vút lên trên thân khu mỏ trông như chiếc khuôn làm bánh phó-mát dịp lễ Phục sinh; có những tảng đá vôi xếp thành tường vuông vắn như những viên đường trắng lóa mắt dưới ánh nắng; và xa hơn nữa, giữa các ngọn đồi rậm rạp là những lối vào đôi khi rất khó nhìn thấy của các giếng thăm dò và đường hầm trong khu mỏ đá. Mẹ và nhất là bác Gritsenko cấm ngặt không cho chơi trò trốn bắt ở những đường hầm đã gần sụt lở này. Bọn trẻ ở đây quy ước với nhau là không được đến đó và nếu trốn vào đấy thì bị coi như “không hợp lệ”. Nhưng dù sao thì cũng thật là thú vị khi ta được chui vào đấy trốn trong lúc người đi tìm vừa vấp ngã vừa lần mò bên trên mặt đất, rồi bỗng thoắt một cái ta nhảy từ dưới đất lên ngay sau lưng người đó và phóng nhanh về một tảng đá lớn để “mô-tê”. Hôm nay lại có dịp được chơi tất cả những trò ấy! Vì là ngày chủ nhật nên mẹ khoác chiếc khăn đăng-ten đen, mặc cho chị Valia chiếc áo mới có đường thêu rộng. Còn Volodia thì nhân dịp đi Cựu Karantin, mặc chiếc áo lính thủy. Thực ra chiếc áo chẳng có vẻ thủy quân lắm. Chẳng hiểu tại sao lại cứ phải đính thêm chiếc “nơ” vào phía dưới cổ áo. Chẳng đúng cách tí nào cả. Áo các chú thủy quân có thế đâu! Và phải thú thực rằng, đã có lần Volodia dứt phựt cái nơ chỉ dành riêng cho bọn con gái đó đi, khi em cùng mẹ đến thăm một người quen. Nhưng chị Valia đã cố ý tìm lại bằng được để chứng tỏ rằng mình lớn hơn, và chị đã tìm ra cái của nợ ấy ở sau hòm quần áo. Thế là cái vẻ thủy quân của Volodia lại chẳng ra gì. Vania không có nhà. Em đang ở sân sau nhà và đang chơi một mình cái trò mà bất cứ chú bé nào nằm mơ cũng không nghĩ đến được. Sáng nay em đã đổi cuộn chỉ có mắc vào cái chong chóng bằng sắt tây của em lấy cái cặp sốt vỡ của một cậu bạn hàng xóm có bố làm ở hiệu thuốc. Và bây giờ em đang đứng trong bóng râm sau nhà, tay giữ chiếc hộp đựng thuốc lá bằng bìa cứng ở ngay trước mặt. Một giọt thủy ngân nặng, sáng lóng lánh, chạy đi chạy lại dưới đáy hộp, lúc dài ra, lúc co vào, hệt như một sinh vật. Đột nhiên nó tan ra thành hai ba viên nhỏ tròn tròn, rồi bỗng kết lại làm một. Tất cả những cái đó khiến Vania vô cùng thích thú. Từ phía sau, Volodia rón rén tiến gần, đứng sững lại ngắm nghía cảnh tượng kỳ diệu đó qua vai Vania. Mải mê với trò chơi, Vania không nhận thấy có người ở đằng sau. Nhưng bỗng em thấy có hai bàn tay nóng bỏng, ram ráp, siết chặt lấy thái dương em, không cho em quay đầu lại. Em cố vùng ra nhưng tay còn bận giữ chiếc hộp đựng giọt thủy ngân. – Bỏ ra! – em càu nhàu. Người đằng sau không bỏ. – Bỏ ra, có nghe không!… Ai đấy? Người đằng sau im lặng và vẫn lấy hai tay giữ chặt đầu em. Em giậm chân, quay sang phải, sang trái nhưng người giữ đằng sau lẩn tránh rất khéo nên lúc nào cũng ở sau lưng em. Đành phải làm lành và hành động theo quy tắc, nghĩa là bắt đầu đoán vậy. – Tớ biết rồi! Tolya phải không? – Hừm!… – Vitya chứ gì? – Hừ!… – Seryozha ở Kamysh-Burun? Đằng sau lại “hừm!” tỏ ý không phải. Cố vùng vẫy, Vania đã nhìn được xuống chân và thấy sau chân em là chân của một người nào đó đôi giày còn mới nhưng phủ đầy bụi trắng. Người đó nhất định là thấp bé vì phải kiễng chân mới với tới được đầu Vania. Còn giày phủ bụi đá vôi trắng chứng tỏ chủ nhân của nó từ xa tới và đi từ phía mỏ lại, đó là nơi đỗ ô-tô-buýt ở Kerch đến. – Volodia Dubinin phải không? – em hỏi vẻ lưỡng lự. Người đằng sau bỏ ngay tay ra. Vania quay lại và thấy cậu em họ. Đôi bạn đã lâu không gặp nhau, mãi từ mùa đông. Hai bên thoáng nhìn nhau, lấy mắt ướm thử xem mỗi bên đã lớn được ngần nào. Vania thích thú nhận thấy Volodia chưa đuổi kịp được em, mặc dù cậu ta cố sức rướn thẳng người lên. – Tớ đoán ngay ra cậu, – Vania nói. – Chẳng qua là lúc đầu muốn thử xem sao thôi. Volodia vẫn kiễng chân, vui vẻ hếch chiếc mũi vốn đã hếch lên và cười vang. – Đoán được ngay! Thế mà phải gọi hết tên này đến tên khác: nào Tolya, nào Seryozha. Tớ biết tỏng cậu rồi. Cậu nhìn thấy chân nên đoán được tớ chứ gì, nếu không thì đừng hòng. – Tớ mà lại “đừng hòng”! Cậu xem, tớ có cái này đây này, – Vania nói và chìa cho bạn xem chiếc hộp. – Thấy chưa? Mắt Volodia rực sáng lên, nhưng em tự chủ được ngay. – Cho tớ xem nào! Cái gì đấy? Giọt thủy ngân chạy đi chạy lại trong hộp. Nó không để lại dấu vết gì, lặng lẽ và tinh quái như ánh nắng nhấp nháy. Volodia đề nghị: – Để tớ cho nó lăn một tí! – Không được, – Vania huých tay Volodia. – Hãy lớn bằng tớ hẵng. Mà đừng có rướn người lên! Cậu có biết cái gì đây không? Thủy ngân đấy. Một loại nước nhưng lại là kim loại đấy. Thế cậu có biết thủy ngân là gì không? Một chất rất độc. Chỉ cần nuốt một giọt thế này là nó lao ngay vào ruột, trôi tuột vào tim – và hết đời – nó sẽ chạy lung tung trong đó… – Cho tớ lăn nó một tí thôi. – Cậu không biết cách. Cậu đánh rơi mất. – Không, tớ không đánh rơi đâu. Cuối cùng, Vania đồng ý đưa cho Volodia. Tay run run vì hồi hộp, Volodia cầm lấy chiếc hộp và cho giọt thủy ngân lăn dưới đáy. Bỗng em nghiêng quá mạnh tay, giọt thủy ngân lóng lánh trượt về một góc và rơi xuống đất. Lập tức nó vỡ thành những hạt sáng nhỏ li ti giống như hàng chục chiếc ghim cài cắm ngập đến sát mũ. – Tớ đã bảo mà! – Vania nói. Em rất bực mình, suýt phát khóc lên. – Tớ đã bảo là thế nào cậu cũng đánh rơi mà. Miệng còn hơi sữa mà cứ đòi chơi thủy ngân. Volodia lặng người. Em ngồi xổm xuống, định dồn những hạt thủy ngân rơi tung tóe lại. Nhưng không ăn thua. Em thanh minh: – Tại cậu cứ làm tớ cuống lên. Nhưng thôi cậu đừng cáu. Tớ có sợi dây vàng dài thế này này, cậu muốn không, tớ sẽ cho cậu. Tớ có thể cho cậu cả con bướm ướp khô đẹp lắm. Hay là cậu lấy chiếc lông ngỗng vậy? – Tớ lấy lông ngỗng của cậu làm quái gì? Tớ cần thủy ngân cơ. – Thế cậu cần thủy ngân làm gì? – “Làm gì”! Để làm thí nghiệm… về vật lý. Chúng tớ sắp học vật lý rồi. Đã học qua hai năm rồi còn gì. Nếu không tính đến điều ấy. Chà, lại một đòn mới nữa! Volodia quên biến rằng mùa xuân này Vania đã lên lớp hai. Còn Volodia phải năm học tới mới lên lớp một, bây giờ em còn đi mẫu giáo. – Chơi với tụi trẻ con chưa đi học thật đến khổ! – Vania tiếp tục nói và khinh bỉ nhổ toẹt xuống đất. Volodia phát cáu: – Thì có ai đòi cậu phải chơi đâu! Tớ không thích ai nói kiểu ấy!… Cậu đừng có gọi tớ thế này thế nọ, không được đâu!… – Cậu định làm gì tớ? – Tớ sẽ đi ngay không bao giờ đến đây nữa, thế thôi. – Thì ai mời cậu đến! Mẹ cậu dẫn cậu đến đấy chứ. – Tớ không thích thì mẹ tớ cũng chẳng dẫn tớ đến. Tớ sẽ đi ngay lập tức. – Đi bằng gì? Cưỡi gậy chắc? Hay là có tiền mua vé ô-tô? – Tớ sẽ đi bộ, – Volodia nói. Em vuốt lại áo, ngồi xuống đất trụt giày ra, nhét tất vào giày rồi xách lên, bước ra khỏi sân. Nét mặt em kiên quyết, đôi môi phụng ra, miệng chúm chím, mím chặt. Em bước đi không thèm ngoảnh đầu lại, chân không giày không tất, đá vung bụi lên. Và Vania hiểu rằng, bạn em sẽ đi bộ suốt bảy cây số đến thành phố thật. Em biết rõ tính người bạn ít tuổi hơn em. Volodia đã nói thì dứt khoát sẽ làm. Phải giữ ngay Volodia lại, nếu không cả hai sẽ đều bị phạt mất. Nhưng Vania không muốn hạ mình. Em gọi to: – Này, Volodia! Làm gì mà ra về thế! Cậu làm tướng quá đấy! Vania leo lên hàng rào, cúi khom người ra ngoài: – Đứng lại, Volodia! Quay lại đây tớ bảo. Volodia đã ra đến ngoài đường. Bóng dáng nhỏ nhắn, mặc chiếc áo lính thủy phủ đầy bụi của em bước thoăn thoắt trên đường làng. Em không thèm ngoái cổ lại. Vania chạy theo ra phố. – Đứng lại, Volodia! Gượm hẵng! Tớ có một câu đố rất khó, đố cậu đoán được đấy. Cậu có nghĩ suốt đời cũng chẳng ra đâu. Volodia hơi bước chậm lại và quay đầu nhìn Vania đã đuổi kịp sau lưng. – Thế này này, – Vania vừa nói vừa thở hổn hển, rốt cuộc em đã đuổi kịp Volodia. – Đố cậu biết cái này là cái gì nhé: “Vừa bằng cái vung, vùng xuống ao, đào không thấy, lấy không được.”* Nguyên văn là một câu đố chữ của Nga. Nhưng để người đọc dễ hiểu chúng tôi chuyển sang câu đố Việt Nam (ND). Volodia đứng lại. Thế là cái gì nhỉ? Bằng cái vung, vùng xuống ao… Chỗ này là chỗ hóc búa đấy. Vania an ủi bạn: – Không ai đoán được đâu. Cả lớp chúng tớ cũng chẳng ai nghĩ ra. – Rồi em nói thêm để làm lành hẳn với bạn. – Lúc đầu tớ cũng chịu. Volodia lẩm nhẩm nhắc lại: – “Bằng cái vung, vùng xuống ao…” Vania thấy rằng nếu không đoán được thì bạn em chẳng đi đâu cả. Em đề nghị: – Về nhà, tớ sẽ giải cho cậu. Volodia đứng lưỡng lự một tí rồi từ từ bước về nhà Vania. Đến cổng, em dừng lại: – Cậu nói đi, nếu không, tớ không vào đâu. – Đi qua cổng tớ sẽ nói. Đôi bạn vào đến sân. Lúc đó Vania mới nói, vẻ quan trọng: – Cậu nghe đây. Đấy là bóng mặt trăng dưới ao. Đúng không nào? Đúng, thật cũng bõ công quay lại! Và phải mau mau đi học mới được để chính mình cũng biết những chuyện cao xa ấy. Thế là bây giờ mọi việc đều ổn thỏa. Đôi bạn kể lại cho nhau những chuyện lý thú đã xảy ra với chúng trong suốt mùa đông xa cách nhau. Volodia hỏi: – Đêm giao thừa cậu thức có khuya không? Đến mấy giờ cậu mới đi ngủ? Lúc đầu tớ định thức cơ, nhưng sau bỗng nhiên ngủ quên đi mất và thế là không muốn dậy nữa. Mãi tới khi có ca nhạc ở đài tớ mới tỉnh hẳn. Thế mà chị Valia cứ chế là tớ mắt nhắm, mắt mở. Thực ra lúc ấy tớ chẳng buồn ngủ tí nào nữa. Sau đó, đôi bạn rủ nhau đi tắm. – Cậu có nhớ chuyện hồi bé tớ suýt chết đuối không? Câu chuyện chẳng hay ho gì mà Vania đã biết quá rõ lại được đem ra kể. Mùa hè năm ngoái Volodia còn chưa biết bơi nên lúc đi tắm với các bạn, em đành chỉ vùng vẫy ven bờ. Quả thực là chẳng mấy chốc em đã biết cách tay bò chân quẫy. Trông chẳng khác gì đang bơi thật. Nhưng có lần tụi trẻ con ở vùng Glinka, ngoại ô thành phố, cũng đến đấy tắm. Chúng tự coi mình là những tay liều mạng nhất và chúng nhận ngay ra Volodia bơi giả vờ. – Này, cái máy vét bùn! Đừng cố làm ngầu nước lên! Sao cậu cứ bò lồm cồm dưới đáy thế? Volodia đáp lại: – Không thấy thì chớ có hét liều. – Và em nói thêm để tăng sức thuyết phục: – Chân tớ bị vẹo, chứ không tớ sẽ biểu diễn cách bơi cho các cậu xem. Bọn trẻ lớn tuổi cười phá lên. Một đứa châm chọc: – Được, chú ếch con! Biểu diễn cách thở ra bong bóng xem nào! Dạy chúng tớ được không? – Nó chỉ vùng vẫy trong đám bụi bẩn như chim sẻ thôi, – một đứa khác đế thêm vào. Volodia đã định về, em vừa nhảy lò cò vừa xỏ chân vào ống quần nhưng nghe thấy thế, liền cởi phăng quần áo ra vứt sang bên. – Các cậu tưởng tớ nói “phiệu” à? Tớ sẽ nhảy ngay từ chỗ kia xuống cho mà xem! – Thì nhảy đi! – bọn trẻ ở Glinka lại chọc tức. Volodia bò lên cái đập bằng đá và ngoảnh lại. Ác thay, gần đấy không có đứa bạn nào của em ở Kerch cả, nghĩa là chẳng trông mong được vào ai. Nhưng nhất định phải bảo vệ danh dự các tay bơi Kerch chứ! Em nhìn xuống dưới. Em biết chỗ gần đập phải sâu đến hai đầu người… Nhưng làm thế nào được, lùi bước thì đã muộn. “Chắc là mình sẽ ngoi lên được”, – em nghĩ vậy và nhớ lại chuyện thường được nghe kể là nếu một người bị vứt xuống chỗ nước sâu mà không hốt hoảng thì nhất định sẽ ngoi lên được. Em nheo mắt, hít một hơi thật dài vào ngực (má cũng phồng lên để dự trữ không khí) rồi lao xuống. Bụng đập vào nước đánh “ùm” một cái, em kêu “ối” một tiếng và thế là bao nhiêu hơi chứa trong ngực và hai bên má buột hết ra ngoài. Cảm thấy mình đang chìm xuống, em tuyệt vọng quẫy chân quẫy tay lung tung. Mắt em mở trừng trừng vì hoảng sợ, làn nước xanh xanh, vàng vàng như nước dưa, nặng nề và mờ đục, ép chặt lấy ngực, bắt em phải há miệng ra. Em cảm thấy toàn thân lạnh buốt và đau như xé. Em sặc nước và chìm xuống. Trước khi Volodia nhảy xuống nước, lũ trẻ ở Glinka nhìn em với vẻ thờ ơ giễu cợt. Giờ đây thấy chú bé không ngoi được lên mặt nước, chúng lo sợ kêu cứu ầm ĩ và nhảy xuống lặn hụp để kéo Volodia lên. Ở gần chỗ xảy ra tai nạn có một bác đánh cá mới đi xuồng từ ngoài khơi về. Nhìn thấy Volodia nhảy và nghe tiếng kêu của bọn trẻ, bác để nguyên cả quần áo, cứ thế lao xuống chỗ một phút trước đây còn thấy sủi tăm. Bác ngoi lên, nhổ nước ra, bịt chặt hai ngón tay cái vào hai lỗ tai, còn hai bàn tay thì bịt chặt lấy mũi và mồm rồi lại lặn xuống. Một phút sau, Volodia đã nằm trên những tảng đá của đập chắn sóng, người cứu em vừa xoa bóp vừa lật cái thân thể bất động của em nằm sấp xuống và lấy đầu gối kê cao lên cho hai tay duỗi ra. Chẳng mấy chốc em bắt đầu nôn oẹ, ngực đã thở phập phồng. Em từ từ mở mắt, ngơ ngác nhìn thế giới xung quanh mà em vừa được cứu sống trở lại. Bác đánh cá vừa vắt kiệt quần áo trên người vừa bảo lũ trẻ: – Bây giờ cứ để chú bé nằm đấy cho khô người đã. Các cháu đừng nói gì với mẹ nó kẻo nó lại bị phạt… Nó sẽ tỉnh ngay thôi. Nhưng lần sau chớ có lao xuống chỗ sâu như vậy nữa. Bác lên bờ đi tới chỗ chiếc thuyền đã được bọn trẻ kéo vào. Một cậu bé mang đến cho Volodia chiếc quần của em. Volodia vừa lê bước về nhà vừa hắt hơi và run rẩy, người ướt lướt thướt trông thảm hại như chú gà con mới nở. Nhưng em vẫn đủ sức đứng lại, tìm ra thủ phạm đã khiêu khích em trong tụi trẻ xúm quanh, rồi cố giữ cho hai hàm răng không va lập cập vào nhau, em vừa hắt hơi vừa nói qua kẽ răng: – Nh… nh… nhưng tớ vẫn cứ nh… nh… nhảy được… Có lẽ em sẽ còn nói nữa, nhưng em cảm thấy có ai đã nâng bổng em lên. Một tay người đó véo tai em đau điếng, còn tay kia áp chặt đầu em vào một cái gì mềm mại, quen thuộc, vô cùng thân thiết, và những giọt nước mắt mằn mặn, nóng hổi, rơi lã chã xuống mặt em… Đấy là mẹ em đã chạy từ nhà đến. Có người đã kịp về gọi bà: “Bà Evdokia, thằng Volodia nhà bà bị chết đuối rồi!” Và Volodia được mẹ lấy khăn bông quấn chặt lại ẵm về nhà. Nhưng không ai cười về việc đó, không một ai hết, kể cả tụi trẻ con ở Glinka… Về tới nhà, Volodia được xát dầu thông cho nóng người rồi được đắp ba cái chăn cùng một lúc. Khi người đã ấm, em nói với mẹ: – Mẹ ơi, mẹ cho con xin ba rúp. – Lại còn dám xin mẹ ba rúp nữa cơ à? Con làm mẹ rụng rời cả chân tay còn chưa đủ hay sao? Từ nay, con không được rời xa mẹ nghe chưa! Không lúc nào được yên với con cả… Rồi mẹ sẽ viết thư kể hết cho bố biết. Thế mà lại còn dám đòi mẹ ba rúp. Con xin tiền để làm gì? Volodia ló đầu ra khỏi chăn và nói một cách nghiêm trang: – Vì là con đã không bị chết đuối. Chán mẹ thật! Người khác thì phải cho con đến mười rúp kia. – À, bây giờ mày lại xoay cả mẹ… – Mẹ cho con đi, mẹ… Con sẽ mua kẹo biếu bác đã cứu con. Con sẽ mời bác ấy lại nhà ta uống nước. Chẳng lẽ lại để bác ấy cứu con không thôi à? Con biết chỗ bác ấy ngồi ở chợ, chỗ bác ấy vẫn bán cá ấy mà. Ngay tối hôm đó, bác đánh cá đã cứu Volodia ngượng nghịu ngồi ở chỗ danh dự trong gia đình Volodia và uống nước chè, nhưng đâu phải chỉ có nước chè, mẹ em thết khách một bữa ra trò. Ăn xong, bác tỏ lời cảm ơn và lúc chia tay, bác bảo: – Xin cảm ơn gia đình ta… Xin lỗi vì tôi đã quấy quả… Đáng lẽ không nên bày vẽ thế này mới phải. Lúc nhảy xuống nước cứu cháu, tôi có nghĩ đến chuyện ân huệ gì đâu… Còn cháu nhà ta lớn lên sẽ khá đấy. Nó sẽ bơi xa phải biết, một tương lai rộng lớn đang chờ cháu… Nhưng đấy là chuyện trước kia. Chứ bây giờ Volodia đã bơi rất cừ rồi. Ngay cả những đứa lớn hơn em nhiều cũng đừng hòng đuổi kịp. Volodia và Vania chọn một chỗ sâu, cởi quần áo rồi nhảy xuống làn nước còn lạnh như nước mưa xuân. Chúng rùng mình, nhưng rồi, vừa thở phì phò vừa hét váng lên cho ấm người, chúng ra sức lòe nhau bằng những trò mà tất cả tụi trẻ con Hắc Hải đều biết rõ. Chẳng mấy chốc, Vania lạnh quá, nên phải lên bờ, người tím lại và gai nổi lên, còn Volodia vẫn vùng vẫy, nghịch ngợm dưới biển, lúc thì em bơi kiểu “tàu thủy” nghĩa là giơ một chân một tay lên như cột buồm, lúc thì “trồng cây” nghĩa là đầu chúc xuống dưới và đưa hai chân giạng ra lên khỏi mặt nước, lúc thì em biểu diễn “đứng” trên mặt nước nghĩa là đứng ở chỗ sâu nhưng chỉ để mực nước tới thắt lưng khiến người ta tưởng chỗ đó nông lắm. Khi đã cạn mọi trò học được của bọn trẻ bên đập Kerch, Volodia mới nhảy tót lên bờ rồi vừa mặc vội quần áo vừa nhảy lò cò cho nóng người, trong khi răng va vào nhau cầm cập. Tiếp đó, đôi bạn rủ nhau chơi trò trốn bắt ở chỗ vẫn thường chơi, nghĩa là ở phía sau mỏ đá. Vania giao hẹn trước: – Volodia này, cấm không trốn trong các đường hầm và giếng mỏ đấy! Thỏa thuận rồi đấy nhé. Volodia biết rất rõ quy tắc đó, nhưng lần nào em cũng bị quyến rũ bởi ý muốn đi trốn trong các hốc đá tối tăm, bí ẩn luôn toát ra làn hơi ngột ngạt ẩm thấp kia. Ngay từ năm ngoái em đã nhiều lần thuyết phục Vania cùng em xuống một đường hầm bỏ hoang cỏ gai phủ gần kín. Nhưng Vania đã bị bố cấm ngặt không cho vào những đường hầm tối tăm đó, thậm chí đến gần đấy cũng không được. Bọn trẻ con ở Cựu Karantin đồn đại nhiều chuyện gở về những đường hầm bỏ hoang có lối thông ra giữa những ngọn đồi, và ở cách xa chiếc chòi chính của mỏ đá. Chúng bảo ở đó cứ đêm đến lại có ma trơi chuyên dọa những người đi đêm một mình và người nào liều mạng đi về phía ánh lửa sẽ không bao giờ trở lại nữa. Trong thời kỳ nội chiến, ở khu vực này thường diễn ra những trận đánh đẫm máu. Bây giờ đôi chỗ vẫn còn thấy những ngôi mộ vô danh giữa những tảng đá. Bọn trẻ con thường đi vòng tránh khu vực này, còn Vania thì quả quyết rằng có một lần em đã thấy những ánh lửa tím nhợt chạy lung tung quanh lối vào một đường hầm rồi biến mất xuống dưới đất. Ban ngày, cái khu vực cấm đó rất hấp dẫn lôi cuốn bọn trẻ đến chơi. Vốn tính tò mò nên từ lâu, Volodia đã dự định tìm cách lẻn vào đáy sâu tối tăm của mỏ đá dù chỉ một thoáng thôi. Ở Cựu Karantin người ta cũng đồn đại rằng, khu hầm này có chứa những kho tàng bị bỏ quên từ ngày xửa ngày xưa. Ở Kerch, ở Mithridat, các nhà bác học chuyên khai quật đã tìm thấy những đồ cổ rất có giá trị. Điều đó kích thích mạnh mẽ trí tưởng tượng của bọn trẻ. Ai biết được… biết đâu cả ở đây nữa trong những giếng mỏ bỏ hoang của khu mỏ đá cũ kỹ này cũng có chôn giấu những kho tàng bí mật thì sao? Người đầu tiên phải nhắm mắt là Volodia. Em kiên nhẫn đếm đến hai mươi bốn rồi kêu to: “Hai mươi nhăm – tìm!” – Đang nằm sấp, em vùng dậy, nhận thấy ngay chiếc quần màu xanh của Vania sau một tảng đá lớn. Vania cố ẩn kỹ cái đầu nên quên bẵng những phần khác dễ nhận thấy hơn. Volodia đã tìm thấy Vania, thế là lại đến lượt Vania lấy tay bịt chặt mắt và nằm sấp theo đúng quy định. Sau đó Volodia vừa cố ý dận mạnh chân vừa chạy sang một bên. Rồi em mưu mẹo tìm cách đánh lạc hướng. Lúc đầu em nhón chân đi khẽ, sau đó em cởi đôi giày cứ kêu ken két một cách đáng giận ra và chỉ đi tất không, thận trọng chạy về phía khác. Em trốn sau một chiếc gò thấp, nằm ép xuống đất. Từ đó trông thấy rõ khắp vịnh. Những đường phố nhỏ xíu, thẳng tắp của Cựu Karantin với những ngôi nhà xinh xinh, trăng trắng, kéo dài tới tận biển. Bên kia eo biển rộng, về phía trái, hiện lên mờ mờ khu đồi Taman mở đầu dãy núi Kavkaz. Khu đồi này rất khó thấy mà chỉ áng phỏng được thôi. Bên phải, những tòa nhà của nhà máy liên hợp quặng sắt nhô cao lên ngay cạnh Kamysh-Burun. Xa hơn nữa là biển khơi Hắc Hải mênh mông. Một chiếc tàu chở dầu lớn đang chạy về phía vịnh. Những ánh lửa hàn sáng lóe chiếu xa hàng cây số và thấp thoáng đó đây trên bờ biển như có người nào đó đang lăn đi lăn lại những giọt thủy ngân tinh quái. Và Volodia lại tự hứa là sẽ kiếm bằng được cho Vania giọt thủy ngân mới mà sáng nay em đã vụng về đánh mất… Chợt em nghe tiếng bước chân của Vania và tiếng cỏ gai sột soạt, em vội trườn từ đồi xuống để bạn không nhìn thấy. Em bò giật lùi. Từ đám cỏ phía dưới, lũ châu chấu nhảy ùa ra khắp các phía, cỏ gai bám vào người. Em vừa trườn vừa không rời mắt khỏi đỉnh đồi và bỗng nhiên gót chân em tì phải một vật gì răn rắn. Em ngoảnh đầu nhìn lại thì thấy mình đã bò vào một khe nhỏ giữa hai tảng đá vôi lở xuống. Trong khe tỏa ra làn hơi man mát nhưng hơi nồng. Em nhìn ra phía sau tảng đá và nhận thấy sau tảng đá vôi sụt lở, lộ ra một đường hầm đi sâu vào trong lòng đất. Đấy là một trong những giếng thăm dò đã bỏ hoang từ lâu. Lối vào giếng đã bị sạt một nửa, những tảng đất sụt xuống che lấp gần hết cửa giếng, nhưng vẫn còn một lối đi hẹp. Volodia thò đầu vào ngắm nhìn đường hầm chìm ngập trong bóng tối. Đường hầm dốc thẳng xuống lòng đất. Em nhớ đến quy ước trò chơi, nhưng bước chân Vania đã vang lên rất gần mà cửa giếng lại cứ như muốn hút lấy. Em quyết định chỉ ẩn vào chỗ tối đó một phút thôi để khi Vania đã đi qua thì lại leo lên ngay. Em bò vào cửa giếng, nằm im trong đó. Nhưng đột nhiên, khi em hơi lùi lại một chút thì tảng đất phía dưới chân trái sụt lở, làm em hẫng chân. Em có cảm giác từa tựa cái lần bị chìm ở gần đập chắn sóng. Em giãy giụa, mất chỗ dựa, vừa va vào những tảng đá lở, vừa lăn xuống dưới. Vania lần mò mãi giữa những tảng đá để tìm Volodia. Cuối cùng em đành chịu và gọi to: – Volodia! Ở đâu thì ra đi. Tớ sẽ nhắm mắt một lần nữa và cậu lại đi trốn. Không thấy có tiếng trả lời. Vania lại gọi, lại lục lọi tất cả các bụi cỏ gai, lại ngó vào tất cả các khe ngách, và em bắt đầu lo sợ thực sự, Volodia đã biến mất, dường như bạn em đã chui tụt xuống đất rồi. Mà biết đâu bạn em đã chui tụt xuống đất thật? Ý nghĩ đó làm Vania hốt hoảng quá đỗi, em bò hết hõm đá này đến hõm đá khác, vừa ngó vào vừa gọi: – Volodia!… Cậu ở đâu đấy? Ê… Volodia!… Có ở đây thì ra đi!… Tớ chẳng chơi nữa đâu, cậu không giữ đúng luật lệ!… Nhưng Volodia vẫn không đáp lại. Vania vừa tiếp tục chăm chú tìm kiếm vừa chờ đợi Volodia chơi một trò bất ngờ, biết đâu cậu ấy chẳng đột nhiên vọt lên ngay trước mũi như con cun cút làm em giật mình. Nhưng kìa, em đã nhận thấy những bụi cỏ gai bị giẫm nát, những nụ hoa bị đè bẹp, rách tướp ra. Em bước lại gần và phát hiện vết lở còn rất mới ngay cạnh lối vào một chiếc giếng cỏ mọc rậm rạp nhất, chiếc giếng này vẫn bị tụi trẻ con Cựu Karantin coi là gở. Thu hết can đảm, Vania bò đến gần ngó vào khe lở và gọi to: – Ê!… Ê!… Volodia!… Bỗng nhiên, từ khoảng tối phía dưới vọng lên một giọng nói bị khựng lại: – Ê-ê-ê… – Cậu ở dưới ấy à? – Ừ! – Tiếng nói lại từ phía dưới lại vọng lên. – Nhưng tớ chịu không sao bò lên được. – Thế cậu ở đâu? – Chính tớ cũng chẳng biết nữa, – giọng Volodia đáp lại. Vania tìm cách bò xuống chỗ bạn: em nhìn xuống dưới, nhưng không phân biệt được gì hết ngoài bóng tối phủ kín cả đáy giếng nằm nghiêng đã bị sụt lở. – Cậu tụt xuống đây làm gì? – Tớ có tụt xuống đâu… Tự nhiên đất lở và thế là tớ bị trượt xuống đấy chứ… – Thế thì cậu cứ tạm ngồi yên đấy, không lại bị tụt xuống nữa mất. Để tớ đi gọi người đến ngay. Vania biết bạn em thể nào cũng bị phạt ra trò. Volodia đã vi phạm điều ngăn cấm hết sức nghiêm khắc, là không được trốn trong giếng mỏ, nhưng dù sao cũng phải kéo cậu ta lên chứ biết làm thế nào! Đúng là ma quỷ đã xui khiến cậu ấy! Năm ngoái con bò của người láng giềng nhà Vania cũng đã bị ngã xuống đấy rồi. Chạy về đến nhà, Vania không dám báo tin ngay cho người lớn biết về tai nạn đã xảy ra. Tốt hơn là nên thông qua Valia, người chị to béo và chín chắn của bạn. – Valia này, ra ngoài sân đi, mình có chuyện này muốn nói với cậu… Vốn tính tò mò, Valia nghe theo ngay. – Valia này, – Vania vừa nói vừa nhìn quanh, – nhưng cậu phải bình tĩnh mới được… Chẳng có gì ghê gớm đâu… Chẳng là Volodia nhà cậu bị rơi xuống giếng mỏ. Nhưng không phải lỗi cậu ấy. Tự nhiên cậu ấy bị ngã xuống thôi… – Trời, thế nó còn sống chứ? – Sao lại không, còn sống quá đi chứ, chỉ phải cái là không leo lên được. Năm ngoái, con bò nhà chú Vasily cũng bị ngã xuống đấy và cũng không leo lên được. Mà đấy là con bò đã lớn đấy!… Nhưng Valia đã gạt tay Vania sang bên và lao vào nhà: – Mẹ ơi, bác ơi!… Volodia bị ngã xuống giếng… – Ngã xuống giếng nào? – bà mẹ run rẩy hỏi. – Con nói cái gì thế? Vania đứng sau lưng Valia nói chêm vào: – Không phải giếng nước ở nhà đâu mà là giếng ngoài mỏ kia. Mà cũng không phải nó ngã, đất sụt lôi theo cả Volodia xuống. Cháu đã định kéo nó lên nhưng giếng sâu quá. Năm ngoái con bò nhà chú Vasily cũng bị rơi xuống đấy, thế mà… – Xéo đi với con bò của mày cho khuất mắt! – bác Gritsenko quát. – Tao đã bảo hàng trăm lần rồi là không được đến đấy cơ mà! Chúng mày có nghe thấy không? – Có ạ, – Vania xác nhận. – Thế mà sao không chịu nghe lời… Chân tay nó vẫn lành lặn chứ? – Vâng, – Vania lầu bầu. Có thể đi đến cái giếng Volodia ngã bằng đường hầm chính vẫn đang khai thác đá vôi. Nhưng hôm đó là ngày chủ nhật, cần trục không chạy, mà làm kinh động cả ban giám đốc mỏ vì một thằng nhãi nghịch ngợm thì bác Gritsenko thấy ngượng. Do đó, bác quyết định kéo Volodia lên bằng phương pháp thủ công hơn. Bác lấy chiếc đèn mỏ, bơm hơi vào, mang thêm một cuộn dây thừng dài rồi cùng Vania, Valia và bà Evdokia ra đi. Tới nơi bác Gritsenko gọi to xuống dưới: – Volodia đâu? – Ai đấy?… Bác Gritsenko đấy ạ? – giọng phía dưới vang lên. – Hỏi gì thì cứ trả lời đi hẵng, đừng có lục vấn tao! Mày ngồi ở đấy có nhìn thấy ánh sáng không? – Cháu chỉ thấy lờ mờ thôi. – Vậy cứ ngồi yên, bác sẽ xuống chỗ cháu ngay. Kiên nhẫn một chút. Bác Gritsenko lấy một đầu dây buộc vào một tảng đá lớn, còn đầu kia với bó dây thì gài vào thắt lưng, rồi bác bám lấy sợi dây đã bị căng ra, bắt đầu vừa leo xuống vừa soi đèn. Một vài phút trôi qua, rồi từ phía dưới có tiếng vọng lên: – Này, ở trên kéo dây đi! Bà Evdokia, Valia ục ịch và Vania nắm chắc lấy dây ra sức kéo. Chẳng mấy chốc trên bờ giếng đã hiện ra khuôn mặt tái mét của Volodia. Em bò lồm cồm mắt nheo lại vì chói, mũi lấm bê bết, cằm bị xước một vệt to, còn chiếc áo lính thủy thì… Nhưng thôi, nói đến những chuyện vặt ấy làm gì khi người ta đã kéo được nó từ dưới đất lên! Chỉ riêng có Valia là dám nhận xét: – Ôi, Volodia! Chiếc áo lính thủy… còn mới tinh, thế mà… Mẹ, mẹ nhìn kìa! Nhưng mẹ không nhìn chiếc áo mà nhìn khuôn mặt tái mét, đầy vết xước, ngượng ngùng nhưng rạng rỡ của con trai. Volodia nghiến răng kèn kẹt nhưng vì tức giận thì ít mà vì mồm đầy những đá vôi vụn thì nhiều. Còn cái lưỡi mà em vẫn kịp thè ra trêu Valia cũng phủ đầy bụi trắng. Làm xong việc đó, Volodia giũ giũ cho bụi đá vôi khỏi đâm vào cổ, cố ý cho Valia biết em đã làm đứt chiếc “nơ” lúc ở dưới đất và đó là việc (tất nhiên) em không cố tình làm. Chẳng mấy chốc, cả bác Gritsenko cũng đã leo lên mặt đất. Bác tắt đèn, cuốn cuộn dây lại, và tất cả đi về nhà. Valia dọa: – Đợi đấy, về nhà sẽ biết! Nhưng Volodia hình như không nghe thấy chị dọa. Rõ ràng một điều gì đó đã làm em sửng sốt và bây giờ đang khiến em bận tâm. Khi những người lớn và Valia đã vượt lên trước, em đi hơi chậm lại, nắm lấy tay Vania nói khẽ: – Dưới đất có viết tên họ chúng mình, Vania ạ. Vania nhìn em ngờ vực. – Cậu lại bịa rồi. – Thật đấy. Ở dưới ấy sáng lờ mờ và tớ thấy trên tường có khắc chữ. Chữ to thế này này… – Chữ gì? – Tên tớ và cậu: Dubinin và Gritsenko. Còn vài chữ nữa nhưng tớ không nhận ra. Vania kinh ngạc dừng lại. Em ngờ vực nhìn Volodia nhưng thấy ngay là bạn nói thật. Điều phát hiện lạ lùng này làm cả hai sửng sốt. Đôi bạn đứng lại một lúc lâu giữa đường và lặng lẽ nhìn nhau. Chương II KIẾM GIỌT THỦY NGÂN Suốt tuần lễ tiếp đó, Volodia bận tâm mãi về dòng chữ mà em phát hiện ra trong lòng đất. Lúc đó em đang ngồi buồn rũ trong bóng tối. Bỗng nhiên em nhận thấy xa xa có ánh sáng le lói, thế là em liền mò tới. Đi một mình trong đường hầm tối tăm, xa lạ, tất nhiên chẳng thích thú gì, nhưng em vẫn lần được đến chỗ có ánh sáng lờ mờ. Ở chỗ đó đường hầm rẽ ngoặt và sau chỗ rẽ lại có một chiếc giếng đã sụt lở gần hết thông thẳng lên trên mặt đất. Mắt Volodia đã quen với cảnh tranh tối tranh sáng; hơn nữa ánh sáng xuyên từ trên mặt đất xuống giúp em thấy được lờ mờ những vật xung quanh. Em bỗng nhìn thấy trên vách hầm lỗ chỗ có khắc chữ. Volodia mới chỉ phân biệt được mặt chữ và tập đánh vần. Đâu đâu em cũng nhìn thấy những chữ là chữ. Em đọc biển quảng cáo phim, tên các cửa hàng hợp tác, tên các con tàu bỏ neo ở vịnh Kerch. Tất nhiên là em muốn đọc được cả dòng thư trên vách hầm mà bên cạnh có khắc một cái gì giống như ngôi sao năm cánh. Nhưng em không đánh vần được cả dòng vì em chưa thạo lắm. Thế mà trên bức vách lại có những chữ em hoàn toàn chưa biết. Nhưng những chữ em đọc được làm em vô cùng sửng sốt: “V. Dubinin. I. Gritsenko”. Em không tin, đọc lại lần nữa… Không, em không nhầm, đúng là trên tường có khắc như vậy… Khi Volodia đã lên được khỏi giếng và bí mật kể cho Vania nghe chuyện đó, đôi bạn quyết định dứt khoát sẽ mở cuộc thám hiểm đường hầm vào ngày chủ nhật sau, khi Volodia lại đến Cựu Karantin. Thế là suốt tuần Volodia cứ bận tâm thắc mắc mãi về điều bí hiểm chưa giải thích được đó. Lạ nhỉ, tại sao trong đường hầm bí ẩn và ngoắt ngoéo kia lại khắc tên của hai đứa. Chúng đã bao giờ xuống đó đâu. Hay là ở đó tối quá nên em nhầm? Nếu thế thì Vania sẽ giễu em phải biết! Em tự kiểm tra lại. Em lấy que vạch lên mặt đất ướt sau trận mưa, lấy dao khắc lên ghế, lấy bút chì viết vào cuốn vở tập vẽ ở lớp mẫu giáo, đâu đâu em cũng thử viết lại hai chữ: “V. Dubinin. I. Gritsenko”. Không, đúng là dưới đó có khắc hai chữ này! Volodia lại còn phải lo một việc nữa. Em đã hứa kiếm cho Vania giọt thủy ngân để đền vào giọt mà em đã sẩy tay đánh rơi lần trước. Biết kiếm ở đâu được bây giờ? Mẹ có một cái cặp sốt nhưng mẹ để ở đâu không biết. Mà em vốn đã hứa là làm. Danh dự thiếu nhi buộc em phải kiếm bằng được giọt thủy ngân vào chủ nhật sau. Nếu không, em làm sao đến gặp Vania được. Bạn em nhất định sẽ không tin nữa và sẽ không đi thám hiểm với em nữa. Suốt mấy ngày, chú bé khốn khổ ấy nát óc tìm cách giải quyết việc này. Ban đêm em mơ thấy một cái hồ thủy ngân sáng như gương: mực thủy ngân lóng lánh cao ngang bờ nên có thể lấy thùng mà múc. Nhưng thực tế làm gì có chuyện ấy. Em điểm lại trong trí tất cả những chiếc cặp sốt mà em đã được biết trên đời… Volodia vô tình tìm được lối thoát. Ở sân sau nhà có một bụi lá han mọc rất rậm rạp. Khi chơi trò trốn bắt với Valia, Volodia thường luồn vào dưới bụi cây xanh nguy hiểm này. Lúc đi tìm, Valia gọi to: – Volodia, chị biết em trốn ở đâu rồi! Nhưng chị không dám bò vào đâu, cẩn thận không lại bị chạm vào lá han đấy. Lúc đó, để chứng tỏ là mình dũng cảm và kiên cường, Volodia bò ra khỏi chỗ nấp và tuyên bố: – Chị nhát như cáy ấy! Cái gì cũng sợ. Còn em, nếu chị muốn, em sẽ tay không cầm vào lá han cho mà xem. Chị nói đi, chị có muốn không? – Nhưng để làm gì mới được chứ? – Để chứng tỏ là em đã được tôi luyện. Chị nhìn đây!… Và quả thực Volodia đã nắm chặt trong tay một vài chiếc lá han hình răng cưa, phủ đầy lông. Bàn tay em, những ngón tay nắm chặt lại của em, rát như phải bỏng và ngứa không chịu nổi. Nhưng em chỉ bỏ tay ra khi đã đếm đến mười. – Ngốc ơi là ngốc! – Valia kêu lên. – Chỉ chứng tỏ là ngốc thôi chứ chẳng được tích sự gì. Trông tay kìa, như bị sốt phát ban ấy!… Volodia xòe bàn tay ra. Các ngón tay đầy những mụn nước và những quầng đỏ nho nhỏ. Và thế là trong óc Volodia chợt nảy ra một ý nghĩ tuyệt diệu, em quyết định thực hiện ngay ngày mai. Hôm sau, Volodia bắt tay thực hiện kế hoạch đã sắp đặt. Quả thực, việc đó đòi hỏi phải có nghị lực, nhưng lại hứa hẹn giải quyết được vô cùng đơn giản vấn đề thủy ngân. Có thể thực hiện kế hoạch đó ngay tại nhà, nhưng em tưởng tượng thấy nét mặt sợ hãi, đôi mắt đầy lo âu xót xa và vẻ hốt hoảng của mẹ thì lại thương mẹ vô cùng. Em quyết định chuyển địa điểm hành động sang lớp mẫu giáo. Đi mẫu giáo em đã ngán lắm rồi. Về tất cả mọi mặt, em đều đã vượt các bạn cùng tuổi ở nhóm lớn. Em mong mau mau được đi học ở trường, mau mau khỏi bị người ta gọi, như em vẫn cảm thấy, một cách nhục nhã – là “trẻ con chưa đi học”. Em đã đi được một mình đến lớp mẫu giáo, không bao giờ để cho mẹ hay chị đưa đi. Sáng hôm đó, trước khi đi, em rẽ vào góc sân có bụi lá han. Em nhìn quanh, nhắm nghiền mắt lại, dồn hết nghị lực nhảy vào giữa bụi lá han xanh tốt, như khi chưa biết bơi em đã nhảy từ đập chắn sóng xuống biển. Em cảm thấy như có hàng nghìn mũi kim đâm, nhưng em chưa coi là đủ, em lại lăn đi lăn lại trong bụi lá han. Em có cảm giác như bị rơi vào một tổ ong. Khắp người nhức nhối, ngứa ngáy. Trán, má, mũi, tai… chỗ nào cũng như lửa đốt. Sau đó, Volodia phóng một mạch đến lớp mẫu giáo. Khi em tới nơi, những chỗ bị lá han cọ đã phồng đỏ lên, và cô mẫu giáo Sonia chỉ còn cách giơ tay lên hốt hoảng, thấy xuất hiện một chú bé khắp người đỏ tấy, mũi sưng vù, tai đỏ mọng. Cô Sonia cuống cuồng hỏi: – Cháu nào đấy?… Volodia à? Cháu làm sao thế? Volodia trả lời một cách khó nhọc: – Cháu sốt… sốt phát ban hay sao ấy, cô ạ. – Thế sao mẹ cháu lại cho cháu ra khỏi nhà? – Cháu, cháu vừa… vừa bị xong… Cô Sonia hoảng sợ: – Thế cháu có đau họng không? – A-a-a!… Ô-ô-ôi… Volodia sẵn sàng há thật rộng mồm, ngửa đầu và thè lưỡi ra. – Thôi, đủ rồi! Đến phòng cách ly ngay! – cô Sonia ra lệnh. Volodia thấy mình ở trong một căn buồng nhỏ sặc mùi bệnh viện. Tường quét vôi trắng. Trên tường có treo những bức vẽ. Nếu Volodia đọc được thì em sẽ thấy những dòng chữ như là “Ruồi là loài gây bệnh”, “Hãy phòng bệnh cúm” trên các bức tranh đó. Hình vẽ rất đẹp những chú bé béo tròn, hồng hào bên cạnh những chú bé gầy yếu, xanh xao, rõ ràng là những chú đã bị ruồi gây bệnh. Kể ra ở đây cũng có những cái đáng nhìn nhưng Volodia không có thì giờ ngắm nghía lâu những bức tranh đẹp đẽ ấy. Phải khẩn trương lên, không thì căn bệnh bột phát của em sẽ chấm dứt mất. Em ngoan ngoãn nằm xuống chiếc giường nhỏ, thấp, bọc vải trắng. Mặc dù hôm đó trời ấm nhưng vải rất mát và em thích thú áp chặt đôi bàn tay rát như phải bỏng vào vải. Vải mát, mịn làm em đỡ ngứa ngáy. – Khổ quá! – cô Sonia than vãn. – Chẳng lẽ lại sốt phát ban thật à!… Không, lên sởi thì đúng hơn… Nếu là sốt mẩn thì may quá. – Hình như cháu bị sốt nữa, cô ạ, – Volodia quyết định chuyển bước sang việc chính. – Đúng đấy! Volodia ạ, cháu thông minh thật. Người cháu nóng bỏng lên đây này. Để cô cặp nhiệt cho. Nhất định là cháu bị sốt rồi. Và thế là cuối cùng, Volodia đã cảm thấy cái hơi mát buồn buồn của chiếc cặp sốt ở dưới nách mà em hằng chờ đợi. – Cháu áp chặt vào, tay đặt vào đây này… Thế, nằm yên, cô chạy đến bà Ksenia Petrovna rồi sẽ quay lại ngay, – cô Sonia dặn và bước vội ra ngoài hành lang. Volodia vạch ngay cổ áo, ngoái cổ nhìn vào nách và khẽ nhấc cùi tay lên. Đầu chiếc cặp sốt nhô ra ngoài, lấp lánh đầy thủy ngân. Em thận trọng rút chiếc cặp sốt ra khỏi áo. Bây giờ phải làm chiếc cặp sốt không dùng được nữa để có thể xin cô Sonia cho hẳn. Volodia cầm lấy đầu chứa thủy ngân và gõ gõ xuống sàn nhà. Chiếc cặp sốt không vỡ. Phải để nó xuống đất và lấy chân chiếc ghế đẩu ở cạnh giường ấn mạnh lên. Chỉ lúc đó chiếc cặp sốt mới kêu “tách” một tiếng nhẹ. Sau khi đã yên trí rằng thủy ngân không bị chảy ra, Volodia gọi váng lên: – Cô Sonia! Cô Sonia ạ!… Cháu đánh vỡ mất chiếc cặp sốt rồi! Cô Sonia vội chạy đến cùng bà phụ trách Ksenia Petrovna. Hai người cứ xuýt xoa mãi. – Sao cháu lại nghịch thế? Cháu trông, cháu làm vỡ cặp sốt mất rồi. Volodia khôn khéo chống chế: – Cháu trở mình, người cháu run lên bần bật và thế là nó tuột ra và rơi ngay xuống đất. Cặp sốt không dùng được nữa hả cô? – Còn dùng gì nữa!… Đáng lẽ cháu phải cẩn thận hơn mới phải… – Vậy cô cho cháu nhé? – Volodia hỏi và em lặng người chờ đợi. – Chờ đã! Cháu lấy làm gì? Lại đứt tay đấy. Phải vứt đi thôi!… – Cô ơi, sao cô lại vứt đi? Cháu rất cần đến nó… – Và sợ nếu tỏ ra quá quan tâm đến chiếc cặp sốt vỡ thì sẽ hỏng hết mọi việc, em vội nói thêm: – Tất nhiên là lúc cháu đã khỏi bệnh cháu mới chơi. Em nóng ruột đút chiếc cặp sốt thứ hai vào nách và nằm yên không nhúc nhích suốt mười phút theo quy định. Cô Sonia áp chặt tay em vào sườn. Nhưng nhiệt độ của em hết sức bình thường. Em lại phải cho xem họng. Nhưng họng cũng không có gì lạ. Hai người vẫn quyết định mời mẹ em đến. Mẹ em hoảng hốt chạy tới; em cố không nhìn vào cặp mắt lo âu của mẹ. Đúng lúc đó da em không đỏ và không sưng lên nữa. Chiếc cặp sốt vỡ còn nguyên thủy ngân đã nằm gọn trong túi em từ lúc nào. Tóm lại bây giờ mà giả vờ ốm nữa thì thật là vô lý. Em an ủi mẹ: – Mẹ ơi, con đã gần khỏi hẳn rồi… Con có sốt gì đâu. Mẹ xem, người con chẳng làm sao nữa… Cô Sonia bảo: – Lạ thật… Lúc nãy thì khắp người cứ nóng như lửa ấy. Thế mà vừa cặp nhiệt là đã mát ngay. Cảm thấy cô Sonia đang nửa tin nửa ngờ câu chuyện, và nhỡ một cái, cô ấy đòi lại chiếc cặp sốt thì nguy, Volodia chống chế: – Đấy là tự nhiên nó mát đấy chứ! Mọi người cười ồ. Bà Ksenia Petrovna nhận xét: – Một trường hợp sốt mẩn điển hình. Chắc là ăn phải cái gì độc. Phải lấy dầu thông mà tẩy… Một điều bất ngờ với Volodia! Nhưng biết làm thế nào được, phải không các bạn? Kiếm được thủy ngân đâu có phải chuyện dễ. Phải chịu đựng một chút mới đạt được mục đích chứ. Em nhăn mặt lại nuốt một thìa đầy chất nước nhờn nhờn đáng ghét và để chứng tỏ cho mọi người thật sự tin là mình hết sức muốn khỏi bệnh, em liếm cả chiếc thìa nữa. Sau khi tẩy dầu thông, em được ăn bánh mì đen rắc muối cho đỡ buồn nôn. Tất cả những trò bận rộn đó bắt đầu làm em phát chán, nhưng khi thò tay vào túi chiếc áo nhung mặc ngoài và chạm phải chiếc cặp sốt trơn mát vẫn còn nguyên thủy ngân quý giá thì em lại cảm thấy vô cùng thích thú, có thể sẵn sàng chịu đựng mọi đau khổ nếu cần… Mẹ em hỏi: – Con đi được một mình không? Em nhổm ngay dậy. Em đi được một mình quá đi chứ. Em có làm sao nữa đâu. Mẹ cầm tay em dắt về nhà. Nhưng Volodia vẫn còn phải chịu đựng thêm nữa. Đến nhà, mẹ bắt em cởi quần áo, đặt em lên giường, rồi lấy đệm lông chim và hai chiếc chăn phủ lên, cho em uống nước nóng và áp hai chai nước nóng vào chân. Bà bảo: – Nằm yên cho đổ mồ hôi ra. Em nằm yên, mồ hôi vã ra như tắm. Em sẵn sàng chịu đựng hết thảy, nhưng khi nhìn mặt mẹ đang cúi sát xuống và thấy cặp mắt đầy thương yêu lo lắng, và vẻ băn khoăn trìu mến của mẹ, em bỗng cảm thấy không sao yên tâm được. Em thấy xấu hổ, một nỗi xấu hổ còn nhức nhối hơn cả bị gai đâm. Em thương mẹ vô cùng. Em đã làm mẹ lo sợ vô ích và bà sẵn sàng làm tất cả mọi việc để giảm nhẹ nỗi đau của con. Em rúc đầu vào chăn và nói: – Mẹ ơi… mẹ đừng lo… Con có việc gì đâu. Con nói với mẹ điều này, nhưng mẹ không được nói với ai, mẹ nhé? Con… cố tình cho lá han đâm vào người đấy. – Con nói cái gì thế? Thôi nằm yên và cố ngủ đi! – Nhưng con không thích ngủ! Em tung chăn và thõng chân xuống giường, vẫn nằm ngửa trên giường, em rướn người cho chân chạm đất, rồi vừa giậm mạnh gót chân vừa chạy đến góc phòng, em đứng quay mặt vào tường. Mẹ em thất kinh: – Gượm đã!… Lá han nào? Sao thế? Con nghĩ ra cái trò gì thế? Lại nghịch ngợm cái gì phải không? Từ góc nhà vọng ra tiếng Volodia xen lẫn tiếng sụt sịt và nức nở: – Mẹ đừng giận nhé. Con cứ tưởng là các cô ấy không mời mẹ đến cơ… con cứ tưởng là chỉ cặp sốt một cái là xong… – Vậy tại sao con lại làm thế? Mẹ thật đến khổ với con. Con lại nghĩ ra cái trò gì thế nữa không biết? Bây giờ đành phải thú thật thôi. Bà Evdokia kiên nhẫn nghe con nói. Bà biết rằng không bao giờ Volodia nói dối nếu cuối cùng em biết mình có lỗi. – Sao con lại làm một việc không tốt như thế? Làm mọi người sợ hãi, làm mẹ rụng rời cả chân tay… Giá con hỏi xin mẹ, mẹ đã cho con cái cặp sốt khốn khổ ấy, nếu mẹ biết con cần nó đến thế. – Nhưng con rất thương mẹ. Mẹ chỉ có một chiếc thôi, mà ở lớp mẫu giáo thì rất nhiều. – Trời! Sao lại có thằng bé chi li đến thế nhỉ! – từ ngoài cửa vọng vào một giọng nói trầm trầm. Volodia liếc nhìn lại và nhận ra bà Alevtina. Bà ta người to béo ở phòng bên cạnh và làm nghề thợ may. Bọn trẻ con vẫn gọi bà là bà “Alevtina nhồi bông”. – Tôi định tạt sang thăm bên nhà. Thấy nói là cháu Volodia bị sốt phát ban. Không ngờ nó lại láu cá đến thế. Thế đấy, bọn trẻ bây giờ sớm khôn ngoan thật, mới tí tuổi đầu đã láu quá! Bà Evdokia này, lớn lên nó sẽ trông nom nhà cửa, sẽ giữ của cải cho bà giỏi ra phết đấy! Volodia, cháu khá lắm! Cháu sẽ keo kiệt phải biết. Bà Evdokia ngắt lời bà ta: – Xin lỗi, mẹ con tôi đang nói chuyện riêng với nhau. Lát nữa sẽ xin mời bà sang. – Thế thì xin lỗi, tôi không biết là bà đang dạy dỗ cháu, – bà ta phì một tiếng rồi quay ngoắt người bước ra hành lang. Volodia lại càng so vai lại, mặt gí sát vào tường. – Volodia, quay lại nhìn mẹ, – mẹ em nói khẽ, rành rọt và nghiêm nghị. – Con cứ đứng nguyên ở góc nhà ấy và nhìn mẹ đây. Volodia ngoan ngoãn quay lại và cúi đầu, mắt thỉnh thoảng lại nhìn lên. – Sao mẹ lại có đứa con giỏi giang thế! Chắc bố sẽ mừng lắm nếu mẹ viết thư nói rằng: con nó tiếc của nên đã đánh lừa người ta; nó chỉ biết trọng của cải trong nhà chứ không biết trọng lương tâm, danh dự. Mà con đánh lừa ai mới được chứ? Hả? Nào, con nói cho mẹ biết, con đã đánh lừa ai nào? Con có biết lớp mẫu giáo là của ai không?… Của chúng ta, của tất cả trẻ con bến cảng chúng ta! Cặp sốt là của ai?… Của chúng ta, của chung, của tất cả trẻ con, nghĩa là của con nữa, thế mà con dại quá, không hiểu. Nếu bố mà biết thì bố xấu hổ đến chết mất… Chẳng lẽ đấy là cặp sốt của người khác à? Con cứ suy nghĩ xem!… Tất cả đều là của chung, của tất cả trẻ con, của tất cả mọi người. Trong thời nội chiến, bố chiến đấu không tiếc thân mình để làm gì? Chẳng lẽ chỉ để riêng cho mình thôi hay sao? Bố chiến đấu vì riêng mình mà cũng vì tất cả, để cho tất cả mọi người đều có được tất cả mọi thứ. – Nhưng bố chiến đấu không phải vì chiếc cặp sốt, – Volodia làu bàu, em tì cằm vào vai trái nhô cao lên. – Con nói không đúng. Bố cũng chiến đấu để tất cả những trẻ con nào ốm đều có cặp sốt mà dùng. Con cứ hỏi bố xem, khi bố mẹ còn nhỏ, bố mẹ chẳng bao giờ được nhìn thấy chiếc cặp sốt như thế. Nếu chẳng may bị ốm, người có nóng như rang chăng nữa, thì thường người ta cũng chỉ bợp vào trán, búng vào mũi rồi bảo: “Không sao, trán nóng nhưng mũi lạnh, sẽ khỏe thôi!” Thôi, ra đây với mẹ, đứng thế đủ rồi. Tự mình lại chuốc lấy khổ. Ngày mai con sẽ đi mẫu giáo và tự tay con sẽ trả bà Ksenia Petrovna chiếc cặp sốt. Volodia hoảng sợ: – Nhưng nó đã vỡ rồi! – Con ngốc quá, mẹ có bảo đưa chiếc cặp sốt ấy đâu mà là đưa chiếc còn lành của nhà cơ mà. Volodia bước ra khỏi góc nhà. Em xin mẹ: – Mẹ ơi, xin mẹ đừng giận. Con sẽ không bao giờ như thế nữa… Mẹ nghe con nói chứ? – Con hãy suy nghĩ những lời mẹ dặn và nhớ kỹ lấy. – Đúng là bố chiến đấu vì chiếc cặp sốt nữa chứ mẹ? – Bố chiến đấu vì ruộng đất, vì bát cơm của chúng ta, vì lớp mẫu giáo… và cả vì chiếc cặp sốt nữa. Suốt ngày cho mãi đến tối, Volodia cứ sửng sốt mãi vì điều phát hiện đó. Trước đây, em không bao giờ gộp làm một những vật trông chẳng giống nhau chút nào ấy lại với nhau, chẳng hạn như chiếc ảnh vàng vàng đã phai màu chụp bố em mặc bộ quần áo lính thủy Hạm đội đỏ, đội chiếc mũ có dòng chữ “Nezamozhnik” với chiếc cặp sốt sáng lấp lánh ở lớp mẫu giáo. Hóa ra những vật đó cũng có liên quan với nhau, mối liên quan mà hôm nay em mới khám phá ra và em vừa đi vừa thì thầm nhắc lại lời mẹ: “Bố chiến đấu vì cả chiếc cặp sốt nữa…” Sau đó em rút trong túi ra chiếc cặp sốt vỡ, hỏi xin mẹ (hai mẹ con đã làm lành hẳn với nhau) một chiếc hộp tròn, đập vỡ một ít bầu đựng thủy ngân của chiếc cặp sốt và thận trọng lắc lắc cho giọt thủy ngân nặng rơi xuống đáy hộp. Em lấy mảnh kính tìm được ở sân làm nắp và ngắm nghía mãi giọt nước sinh động, vui vẻ chạy dưới lớp thủy tinh, rồi em mang hộp đến khoe với mẹ: – Mẹ xem này, con sẽ làm một chiếc địa bàn bằng thủy ngân cho mà xem. Buổi tối, em thấy mệt mỏi vì suốt ngày hôm đó xảy ra nhiều chuyện quá. Nhưng khi đã thiu thiu ngủ, em lại ngồi nhỏm dậy hỏi mẹ: – Mẹ ơi, lúc sáng bà Alevtina gọi con là gì ấy mẹ nhỉ?… Hào kiệt thì phải… Valia đang ngồi ở bàn làm bài, lăn ra cười. Mẹ cũng phì cười. Một tay mẹ che miệng, một tay chỉ Volodia: – Volodia! Đến chết cười vì con mất!… Bà ấy bảo là con keo kiệt. – Thế “ke kiệt” là thế nào hả mẹ? – Không phải “ke kiệt” mà là keo kiệt. Nghĩa là kẻ cái gì cũng tha về, ki cóp của cải, góp nhặt tiền bạc chỉ biết sống vì mình. – Thế thì cũng giống như tên tư bản phải không mẹ? – Ừ cũng giống như thế. Valia xen vào câu chuyện, ra vẻ uyên bác: – Không phải, mẹ ạ. Tư bản phải rất giàu kia… phải có nhà máy, có công xưởng, chuyên môn bóc lột… Còn keo kiệt là kiểu như kẻ làm ăn riêng lẻ ấy. Volodia yên lặng một lát, định ngủ. Em trở mình quay mặt vào tường, trùm chăn kín, nhưng rồi lại ló đầu ra. Em nói giọng đã ngái ngủ, cái chính là để tự an ủi: – Chị ấy nói dối. Con mà lại là kẻ làm ăn riêng lẻ à? Con đã đi mẫu giáo cơ mà… Suốt những ngày còn lại trong tuần đó, Volodia ngoan ngoãn đến nỗi mẹ và cô Sonia phải ngạc nhiên (em đã đem trả cô Sonia chiếc cặp sốt mới nhưng tất nhiên là lặng thinh về chuyện mắc bệnh). Hai ngày đầu, em chỉ say sưa làm đủ mọi kiểu thí nghiệm với giọt thủy ngân. Em cắt một miếng bìa tròn bằng đáy hộp, đục lỗ xung quanh rồi dùng bút bi ghi số bên cạnh từng lỗ. Em đặt miếng bìa có đục lỗ vào hộp. Bây giờ giọt thủy ngân bị giữ lại trong các lỗ và em đổi tên chiếc địa bàn thành chiếc đồng hồ. Mải mê với việc đó, em cũng có lúc quên cả dòng chữ bí ẩn dưới đất. Nhưng càng gần đến ngày chủ nhật, em càng suy nghĩ về điều phát hiện lạ lùng dưới mỏ. Tuần lễ đó sao mà dài thế. Theo tính toán của Volodia thì chủ nhật phải đến từ lâu rồi, thế mà trên lịch mới thứ năm. Em nghĩ mãi xem có nên xé thêm một tờ lịch nữa để thời gian đi chóng hơn hay không. Em than vãn: – Mẹ ơi, lịch nhà ta chậm quá. Nhưng cái ngày em xiết bao mong đợi ấy đến. Hôm trước đó Volodia rất lo lắng: nếu vì trời xấu mà mẹ hoãn lại chuyến đi Cựu Karantin thì nguy to. Bên ngoài trời mưa mãi. Màn mưa xam xám che phủ khắp eo biển. Từ trên núi Mithridat, những dòng nước đục ngầu ùng ục chảy xuống. Nước chảy róc rách bên vệ đường. Hàng cây keo trên đường phố với những cành cây co lại, rũ xuống, trông giống như những chú gà sũng nước. Thế là hỏng hết, không thể đi Cựu Karantin được rồi. Nhưng sáng chủ nhật, lúc thức dậy, Volodia nhìn ra ngoài thấy bầu trời xanh biếc và những cây keo đầy lá nhọn đã vươn thẳng. Ngoài khơi, biển màu xanh nhạt, chỉ ven bờ là còn lớp nước vàng đục do trận bão vừa qua làm ngầu lên. Mẹ em đã mặc chiếc áo dài ngày chủ nhật. Bà đùa trêu Volodia: – Thế nào, con không muốn đi à? Ngủ nữa đi chứ! Và chị Valia cũng không bỏ lỡ cơ hội đế vào một câu: – Nó lúc nào cũng giục mọi người cuống lên, thế mà chính mình lại lề mề nhất. Ồ, chẳng thèm cãi nhau với chị ấy vào một ngày như thế này làm gì! Bầu trời mùa xuân xanh biếc trùm lấy mặt biển, thành phố và cả ngọn núi Mithridat. Giọt thủy ngân vất vả lắm mới kiếm được chạy đi chạy lại dưới lớp kính trong chiếc hộp bọc cẩn thận bằng giấy báo. Xa xa những chiếc ô-tô-buýt chạy đường Cựu Karantin bóp còi inh ỏi. Thời tiết chắc sẽ đẹp. Đường hầm ngầm đang chờ đợi các nhà thám hiểm. Vậy cần gì phải bận tâm đến những câu chọc tức của một cô bé, dù đó là chị mình chăng nữa? Và Volodia lặng thinh. Em chỉ đưa vội chiếc bàn chải đánh răng vào miệng và giận dữ chải đi chải lại hàm răng nghiến chặt. Em làm mạnh đến nỗi bọt trắng bắn tóe cả vào chiếc áo dài của Valia treo gần đấy. Thậm chí em còn ngoan ngoãn đồng ý mặc cái áo lính thủy đã khâu chiếc nơ mới, chiếc nơ thật đáng ghét, vô dụng và tai ác. Ăn sáng xong, em tự nguyện chạy đi rửa bát đĩa, tuy ngay cả trong tuần vừa rồi nữa em cũng dứt khoát không chịu rửa. Vả lại cũng chẳng ai nài ép em làm việc đó. Từ lâu ở nhà đã biết rằng Volodia sẵn sàng làm mọi việc: lau nhà, khuân củi, khuân than, mua hàng, nhóm lò, chữa vặt, thu dọn, nhưng dứt khoát em không chịu rửa bát. Em cho đó không phải việc của đàn ông và mọi lời thuyết phục đều vô hiệu. Cuối cùng mọi việc đã xong, bát đũa đã rửa và đã xếp vào chạn, căn buồng đã gọn ghẽ. Cả nhà lên đường đi Cựu Karantin. Chiếc ô-tô màu xanh phóng như bay, thỉnh thoảng lại nhảy chồm trên những ổ gà ở mặt đường. Trong xe mọi thứ đều nghiêng ngả, kêu ken két, lảo đảo, lắc lư. Nhưng những hành khách quen thuộc ngồi vững trên xe lại cảm thấy rất khoan khoái. Họ ôm chặt lấy những đứa trẻ bị xe rung mạnh hất ra khỏi đùi, họ nhoai người bắt những chiếc va li bị trùi trên sàn xe, họ cười đùa với nhau; thêm nữa khi xe bị xóc thì giọng nói của họ vang lên, lúc ngộ nghĩnh, lúc rin rít, lúc the thé cứ như vừa nói vừa nhảy múa. Thường thì Volodia không sợ mà còn thích thú cái cảnh lắc lư như vậy. Nhưng hôm nay, cũng như mọi khi, mặc dù em vẫn kịp chiếm được chỗ ngồi ở đằng trước, ngay cạnh bác lái, nhưng em vẫn cảm thấy thấp thỏm, hai tay cứ khư khư áp chặt vào người chiếc hộp có giọt thủy ngân. Không nên để giọt nước quý giá, mất bao công sức mới kiếm được đó tuột ra khỏi hộp. Vì tay bận, không thể bám vào ghế ngồi được nên em bị lắc một trận ra trò. Lúc thì em bị nẩy lên như quả bóng trên chiếc đệm da có lò xo, lúc bị hất hết bên này sang bên kia, nhưng tay vẫn kẹp chặt lấy chiếc hộp. Một bác làm nghề đánh cá ngồi bên cạnh khuyên em: – Cháu nên lấy tay bám vào ghế ngồi cho chắc mới đỡ bị xóc. Đầu đập vào thành xe thì khốn đấy. – T-a-ay ch-á-u ph-a-ả-i giữ h-ô-ộ-p, không b-b-ám đ-ư-ư-ợ-c. Bỗng ô-tô lắc mạnh một cái, răng cắn vào lưỡi đau điếng. Từ lúc đó em im lặng suốt dọc đường. Nhưng tất cả những nỗi khốn khổ của Volodia, tất cả những điều em phải chịu đựng ở lớp mẫu giáo, ở nhà, ở dọc đường, em đều quên bẵng hết khi đưa chiếc hộp tròn đậy nắp kính cho Vania. Vania ngạc nhiên: – Cái gì đấy? Volodia trịnh trọng giải thích: – Cái mà tớ đã hứa với cậu hôm chủ nhật trước. Rồi em xé tung giấy bọc ngoài ra. – Đồng hồ thủy ngân! Cậu thấy chưa, tớ đã nói là như đanh đóng cột. Tớ đâu phải loại người hứa mà không làm. Cậu cầm lấy này! Vania thận trọng cầm lấy chiếc hộp. Em hơi cúi xuống nhìn vào trong. Giọt thủy ngân thoáng cái đã thay đổi hình dạng, nó có vẻ như nhăn mặt và nhấp nháy, rồi lại lăn theo đáy hộp và trôi tuột vào một chiếc lỗ có đánh số. – Số tám, – Vania đọc. Volodia thận trọng nghiêng chiếc hộp về phía khác. Giọt thủy ngân lại chạy và chui vào một lỗ khác. – Mười hai! – em đếm to. – Nghĩa là tớ thắng. – Thôi, để sau sẽ chơi. Bây giờ ta đi tới chỗ đã định đi. – Tới chỗ ấy phải không?… – Volodia chuyển ngay sang giọng thì thầm, hỏi lại, ra điều thông hiểu và đầy ý nghĩa. – Cậu chuẩn bị xong rồi chứ? – Tất nhiên. Tớ chờ cậu sốt cả ruột! – Thì tớ có sai hẹn đâu! Xong xuôi rồi chứ? – Nếu cậu vẫn dám đi thì xong rồi. – Tớ mà lại không dám à? Chính cậu đừng có rụt lại thì có. – Đừng nói vớ vẩn! – Tớ không nói vớ vẩn. Tớ đã nói là làm. Lần trước tớ bảo: tớ sẽ kiếm cho cậu thủy ngân ở cặp sốt. Thì đây! – Tớ cũng vậy: đã thỏa thuận là không lôi thôi gì nữa. Sau khi đã nói với nhau bằng cái giọng đó chừng năm phút, sau khi đã khoe giỏi chán rồi và sau khi đã cảm thấy mình thật xứng đáng làm những sự nghiệp vĩ đại, cuối cùng, đôi bạn đã đi đến kết luận chung: – Thôi, đủ rồi! – Volodia cắt ngang. – Rồi sẽ biết! – Vania xác nhận. Em thận trọng nhìn quanh, lấy ngón tay vẫy Volodia lại gần, hất đầu về phía nhà kho, và thế là cả hai biến hút vào đấy. Từ trên thềm Valia chạy xuống sân gọi: – Volodia! Vania! Ra biển chơi đi! Bác Gritsenko hứa mượn hộ thuyền rồi… Các cậu ở đâu đấy? Không thấy tiếng đáp lại, Valia nhún vai giận dỗi, bỏ vào nhà. Đích thân bác Gritsenko cũng ra sân gọi các chú bé. Bác đi quanh sân, nhìn cả vào nhà kho. Không thấy lũ trẻ đâu cả. Cả trong kho cũng không có. Nhưng nếu bác Gritsenko để ý nhìn kỹ một chút thì bác sẽ thấy là hai chiếc đèn kiểu “con dơi” cùng một cuộn dây thừng to thường treo trên tường nhà kho đã biến mất. Trong lúc đó Volodia và Vania đang lần theo đường hầm đi xuyên xuống. Con đường này bắt đầu từ chiếc giếng sụt xuống tận đáy sâu của mỏ đá. Đôi bạn lấy dây thừng buộc quanh người rồi bật đèn lên. Vania lớn hơn nên đi trước. Bên ngoài, ánh nắng chói chang khiến hai em cảm thấy như bóng tối mỗi bước một dày đặc thêm, mặt đất như bịt lấy mắt và đầy vẻ đe dọa. Hai em càng vào xa xuống sâu thì bóng tối càng như ép mạnh vào chúng từ các phía. Ánh sáng lờ mờ chỗ cửa vào đã ở tận đâu và bây giờ chung quanh đôi bạn chỉ là đêm đen ẩm ướt thoáng mùi hôi. Ánh đèn yếu ớt như bị đẩy lùi lại không xuyên nổi bức tường tăm tối, bóng những con vật gì có cánh chập choạng bay hai bên tường, không khí mỗi lúc lại lạnh lẽo và ẩm ướt hơn. Đôi khi hai em cảm thấy những chiếc cẳng lạnh lẽo của bóng tối bò lồm cồm trên má. Khi đó cả hai vội giơ đèn lên phía trước, và những chiếc vòi đen của đêm đen vụt buông hai em ra, trườn vào góc đường hầm, tan đi sau những tảng đá mấp mô bị ánh đèn lờ mờ rọi vào. Một lần, khi giơ đèn lên, Volodia nhìn thấy ở ngay trước mặt có hai tảng gì như đất dính chặt vào tường, giống như hai chiếc ô nhỏ gãy cán to bằng nắm tay. Đấy là những con dơi. Ánh đèn của Volodia làm chúng hoảng sợ, bay loạn xạ quanh hai đứa trẻ. Đôi bạn cảm thấy trên má luồng không khí man mát do cánh dơi tạt vào. Hai em vung đèn lên chiếu lung tung, hình như khắp mọi chỗ đều đầy bóng đen và cánh dơi. – Chạy đi! – Vania kêu lớn, lao về phía trước. Em căng sợi dây thừng và kéo theo cả Volodia. Cả hai chạy tới chỗ rẽ, lọt vào hành lang đường hầm rồi dừng lại thở. Lũ dơi đã rớt lại phía sau. – Này, – Vania quay lại phía người bạn đường. – Chúng mình đi đúng đường đấy chứ? Cậu có nhớ chỗ này không? Chính Volodia cũng bắt đầu nghi ngờ không biết đi có đúng đường hay không. Lần trước em không kịp nhìn kỹ mà em cũng chẳng để ý đến làm gì. Hôm nay, trước khi đi xuống, em cảm thấy mọi việc đều hết sức rõ ràng và đơn giản. Nhưng bây giờ ở dưới đất và chung quanh tối mịt mùng, em thấy hoang mang. Đầu óc em rối tung lên. Em không tìm ra được một dấu vết nào của lần xuống trước… Nhỡ quên một cái, hai đứa mất công toi bò xuống thì sao? Trên kia bây giờ thật sảng khoái, ánh nắng tràn ngập khắp nơi. Bầu trời hôm nay trong sáng, biển phẳng lặng. Và nào ô-tô chạy, nào chim bay, nào tàu lướt sóng! Và biết bao nhiêu người tốt ở khắp mọi nơi! Vậy mà hai đứa lại bị lạc lối ở đây, xa tất cả mọi người… Đôi bạn cảm thấy bị cô độc, bị lãng quên, bị tách khỏi thế giới bên ngoài. Xung quanh yên lặng đến nỗi các em không dám nói to nữa. Hai đứa thầm thì với nhau. Vania khẽ nói: – Sao cậu bảo nhận ra đường ngay, thế mà cứ lò dò lung tung mãi. Chắc là cả cái dòng chữ ấy cũng chỉ do cậu tưởng tượng ra thôi. Chứ làm gì có chuyện ấy được! Volodia vội đáp lại: – Sao lại không? Tớ học những chữ ấy rồi. Chính mắt tớ nhìn thấy chữ “V” rồi chấm một cái đến chữ “Dubinin”. Sau đó là chữ “I” rồi chấm một cái đến chữ “Gritsenko”. Rất rõ mà. – Thế thì cậu tìm đi! – Yên nào, Vania… Tớ nhớ là phải rẽ sang bên trái, rồi đi thẳng; ở đó sẽ thấy sáng lờ mờ. Vì đấy là cái giếng, có đường thông lên trên. Sở dĩ tớ đọc được dòng chữ là nhờ có ánh sáng từ trên rọi xuống. Cậu hiểu chứ? Bây giờ để tớ đi trước, cậu đi sau. Em lấy vai hích Vania sang bên và đi vượt lên; Vania lần theo. Volodia rẽ vào đường hầm bên trái đi một chút rồi dừng lại, giấu đèn ra sau lưng. Em thì thầm: – Nhìn kìa! Phía trước lờ mờ làn ánh sáng xanh xanh hòa vào bóng tối dưới đất. – Cậu thấy chưa? Tớ đã nói nghĩa là tớ biết chỗ mà. Vania nắm lấy vai bạn nói thầm tận tai Volodia: – Hình như đấy là… Hình như ở đây có… Cậu biết chuyện đồn đại về chiếc giếng ấy chứ? Cậu biết chứ? – À, chuyện đó ấy à? Chẳng có gì đâu… Ta cứ đến xem sao. Lần trước tớ chẳng thấy gì hết. Thôi, đi đi, Vania!… Và Volodia mạnh dạn cất bước, căng sợi dây thừng và kéo luôn cả Vania theo. Đường hầm cứ mỗi bước lại sáng sủa hơn. Bỗng đôi bạn thấy mình ở trong một cái hang ngầm nhỏ. Ánh sáng ban ngày rọi xuống qua lỗ hổng trên đầu. – Xem này! – Volodia nói và đưa đèn sát vào tường. Cả Vania cùng nâng đèn lên. Đôi bạn khom người xuống dòng chữ khắc sâu vào lớp đá vôi trăng trắng nhưng đã bị thời gian xóa mờ đi nhiều. – Cậu trông nhầm mất rồi. Đây mà là chữ “V” à? Volodia lặng thinh. Bây giờ, dưới ánh đèn em mới thấy rõ đấy không phải chữ “V” như em tưởng lần trước mà là chữ “N” khắc nguệch ngoạc đã bị vỡ một nét. Nhưng dù sao thì Vania cũng đã có thể tin chắc được là về căn bản Volodia không lầm. Chính Vania cũng đứng yên, sửng sốt. Em mấp máy môi đọc đến lần thứ mười dòng chữ khắc trên tường: N. DUBININ, I. GRITSENKO Bỗng em nói khẽ: – Volodia này, cả hai đứa mình đều ngốc hết. Sao lại có tên chúng ta ở đây được. Hồi ấy làm gì đã có chúng mình. Đây là tên bố cậu và bố tớ đấy chứ. Hồi nội chiến, bố cậu và bố tớ đã ẩn náu bọn bạch vệ ở đây để hoạt động du kích. Cậu nhìn xem: I. Gritsenko tức là Ivan Gritsenko, tên bố tớ, còn N. Dubinin tức là Nikifor Dubinin, tên bố cậu. Cậu hiểu chưa? Giọng nghẹn đi vì xúc động, Volodia hỏi lại: – Bố chúng mình đã chiến đấu ở đây à? – Ở đây quá đi chứ! Bố tớ đã có lần kể cho tớ… Nhưng cậu biết đấy, bố tớ không thích kể lại. Mà chẳng ai đi xuống đây cả. Quanh đây có chôn bọn bạch vệ đã bị quân ta giết hồi đó… Thành ra mới có đủ mọi chuyện đồn đại… Volodia đề nghị: – Chúng ta sẽ đi kể lại những cái chúng ta nhìn thấy cho mọi người nghe đi! – Không nên, – suy nghĩ một lát, Vania phản đối. – Chúng ta bị cấm xuống đây kia mà. – Không, dù sao cũng vẫn cứ nên kể. – Liệu có bị đánh không? – À, cậu lại sợ rồi… Cậu hay bị đánh lắm à? – Không… Năm nay chưa bị lần nào, – Vania nhớ lại. – Tớ cũng thế. Thường chỉ khi nào mẹ cáu lắm, tớ mới bị một chút. – Không, đừng nói với ai là hơn! – Vania nói, vẻ mơ mộng. – Không phải chuyện bị mắng hay không mà là tớ với cậu sẽ có điều bí mật riêng, chỉ hai đứa biết với nhau thôi. Chúng ta sẽ không nói với ai hết. Tớ với cậu sẽ thỉnh thoảng đến đây, sẽ chơi vui ở đây. – Đúng đấy, – Volodia tán thành. Em im lặng một lát rồi nói thêm: – Không, khi nào gặp bố tớ, tớ vẫn cứ hỏi hết. Đã nhiều lần tớ hỏi bố tớ, nhưng lần nào bố tớ cũng: “Việc gì phải vội, lớn lên bố sẽ kể hết cho mà nghe.” Bố tớ đang ở trên tàu, nhưng sắp về Murmansk rồi. Mẹ tớ với tớ sẽ đến đó. Tớ sẽ nài bố tớ kể hết. – Nhưng trước khi được gặp bố cậu, cậu không được hở với ai một chút gì đấy! – Tất nhiên. – Cẩn thận đấy! – Cứ yên tâm! – Thề nhớ? – Thề! Ánh đèn vàng nhợt hòa với những làn sáng xanh rọi từ trên mặt đất xuống làm đường hầm tràn ngập cảnh tranh tối tranh sáng kỳ ảo. Không có một âm thanh nào trên mặt đất vọng xuống. Chỉ nghe thấy dòng nước tinh quái rỉ qua kẽ đá kêu róc rách. Và đôi bạn dịch lại gần, đứng một lúc lâu, nghiêng đầu chăm chú mãi dòng chữ khắc trên đá – kỷ niệm thời thanh xuân dũng cảm, bí ẩn và tuyệt đẹp của cha em. Chương III LÁ CỜ CỦA NGƯỜI CHA Đầu chiếc cột buồm hiện ra đột ngột sau những khối đá màu xám và những đỉnh núi trơ trụi. Nhìn từ xa có thể tưởng đó là chiếc sào bị một sức mạnh kỳ lạ làm chuyển động đang nhẹ nhàng lướt theo những khối đá và những đỉnh núi. Những khối người đứng trên bờ bắt đầu lay động. Họ vừa chăm chú nhìn, vừa lấy tay chỉ trỏ, vừa xô lại chiếc kè đá có lát gỗ, chuyện trò ầm ĩ. Volodia hiểu rằng sau những khối đá kia là cột buồm của con tàu. Lá cờ dài và hẹp bị gió bấc lạnh lẽo thổi mạnh đang bay phần phật trên đỉnh cột. Đứng dưới lá cờ đó là bố em. Một lát nữa con tàu sẽ phải hiện ra từ sau chỗ ngoặt. Giờ phút gặp gỡ xiết bao mong đợi đang đến gần. Cách đây bốn ngày, bà Evdokia và Volodia đã đến Murmansk. Kể từ cái hôm chủ nhật Volodia và Vania nhìn thấy ở đường hầm Cựu Karantin dấu vết khắc trên đá của thời kỳ bố các em hoạt động du kích, đến nay đã đúng một tháng. Ở Murmansk mùa xuân chỉ mới bắt đầu. Mùa xuân vẫn còn ở rất xa, trên những bờ biển ấm áp quen thuộc kia. Ở đó cây cối xanh rì, nắng chói chang sưởi ấm cảnh vật, chẳng khác nào mùa hè. Khi hai mẹ con ra đi, mùa hè dường như không chạy kịp theo tàu hỏa. Trên tàu mỗi ngày một lạnh hơn. Ở Moskva, chuyển tàu và đi xe điện tới một ga khác, mưa lạnh đổ xuống như trút. Mẹ bắt phải cài hết khuy áo khoác và lấy khăn ấm trùm kín đầu Volodia. Xe điện chật ních người. Volodia cố hết sức chen về phía cửa sổ nhưng cũng chẳng thấy được gì cả. Chẳng những thế, mẹ còn trùm khăn đến tận mắt Volodia, làm em chẳng nhìn thấy Moskva. Ở Petrozavodsk, nơi em xin phép mẹ chạy ra ga với một bác thủy thủ để mua nước sôi, có những vũng nước xám xịt, lạnh ngắt, phản chiếu những cây thông ủ rũ như bị cóng và ngái ngủ. Còn ở đây, ở Murmansk, bên phía sườn núi không được ánh nắng chiếu tới hãy còn phủ đầy tuyết; bầu trời nhợt nhạt như mùa đông và trước lúc hoàng hôn, ánh nắng lấp lánh trắng bạc kỳ ảo chuyển dần sang màu phơn phớt hồng. Những cây thông hiện lên đen sẫm trên nền trời. Ban ngày đất nhão nhoét, bùn bám chặt lấy chân làm tuột cả đôi ủng mới mà bà Evdokia mua cho Volodia. Còn buổi sáng đất kêu phòm phọp dưới mọi bước đi, lớp băng trong suốt trên các vũng nước động đến là tan vụn. Dưới lớp băng là một khoảng trống rỗng, dường như ban đêm những đợt giá rét đã hút mất nước. Nhưng hóa ra đây vẫn chưa phải là Bắc cực, vẫn chưa phải là nơi đoàn thám hiểm Chelyuskin đã từng sống trên băng. Hằng ngày mẹ đi đến cảng hỏi thăm xem bao giờ tàu “Leonid Krasin” cập bến. Bố công tác trên con tàu đó. Cùng với gia đình các thủy thủ khác trên tàu, hai mẹ con tạm sống trong ký túc xá của cảng. Con tàu vừa kết thúc một cuộc hành trình ra nước ngoài. Trên con tàu đó bố đang trở về từ những miền, những nước xa xôi; xa xôi đến nỗi cả Vania cũng chưa học tới trong giờ địa lý, còn chị Valia tuy có học đến nhưng cũng chỉ biết bập bõm… Mọi người chờ đợi hết ngày này sang ngày khác. Cuối cùng văn phòng cảng báo tin là trưa mai tàu “Leonid Krasin” sẽ cập bến. Ngay từ sáng, trên con trạch ở cảng, nơi những con tàu đi xa, về đỗ lại để dỡ hàng, đã đông nghịt các gia đình thủy thủ, người địa phương và người từ xa đến cùng chồng, con, anh em chung sống những ngày nghỉ trên bờ của đoàn thủy thủ. Gió thổi làm Volodia lạnh cóng, mặc dù em đã mặc ấm và nấp sau lưng mẹ để tránh những cơn gió bấc. Gần một năm nay em chưa gặp bố. Trước kia, khi lâu lâu không gặp bố, em chỉ thấy nhớ thôi, nhưng bây giờ em đã có chuyện để nói rồi. Em quyết đòi bố kể cho nghe bằng được về cuộc nội chiến và về các chiến sĩ du kích ở đường hầm Cựu Karantin. Ngoài ra em còn thu thập được rất nhiều câu hỏi mà chỉ có bố mới giải đáp được. Vẫn chưa thấy con tàu đâu. Volodia nằng nặc đòi mẹ đến văn phòng một lần nữa để hỏi xem tại sao tới bây giờ mà tàu “Krasin” vẫn chưa đến. Em kiễng chân, vươn cổ ra để được là người đầu tiên thấy cột buồm xuất hiện sau rặng núi. Ở cảng, mọi việc vẫn tiến hành như thường lệ: một chiếc đầu máy nhỏ nhưng ống khói to dáng nghênh ngang và lúc nào cũng hét ầm ĩ, đang thúc đằng sau các con tàu và thận trọng đẩy chúng ra khỏi cảng. Ngay sát bờ, những chiếc tàu nhỏ kéo rơ-moóc vừa kêu váng lên vừa nhả khói ra khỏi ống. Ai cũng bận việc riêng của mình. Hình như chẳng ai thèm để ý đến việc Volodia đang nóng lòng chờ đợi. Chỉ có những chiếc cần trục cao đang vươn dài cái cổ bằng thép ra là như định cùng em rõi nhìn sang phía bên kia những đỉnh núi, nơi lá cờ của con tàu sẽ xuất hiện. Và kìa, lá cờ đã xuất hiện thật! Dưới lá cờ đó là bố em. Rồi từ sau chỗ ngoặt, thân tàu cao và đen chầm chậm ló ra. Volodia bắt đầu nhìn thấy cả con tàu: từ mũi tàu đang rẽ đôi làn nước làm sủi bọt trắng cho đến đuôi tàu cong lên tuyệt đẹp, kéo theo những làn sóng đang vội vã rẽ ra và ba dòng nước quyện vào nhau như ba dải trong bím tóc. Mặt trời miền Bắc thâm thấp chiếu sáng phần trên sơn trắng của con tàu, chiếu sáng ống khói đen có viền đỏ bao quanh, chiếu sáng lá cờ đỏ ở đuôi tàu và phù hiệu tàu buôn đỏ thắm trên cột buồm. Ở mũi tàu lấp lánh dòng chữ vàng óng: “Leonid Krasin”. Những con chim hải âu trắng muốt dang rộng đôi cánh khẽ động đậy lúc là sát xuống như chạm vào mặt nước, lúc bay vụt lên phía trên tàu cắt chéo khoảng không lộng gió của biển. Chúng có vẻ như từ trên cao ngắm nghía con tàu rồi lượn vòng xuống dưới mũi, kéo con tàu đi theo. Bỗng một hồi còi tàu vang lên, trầm khỏe, làm vang động cả không gian, dội vào các nhà kho, lướt qua những tòa nhà khu cảng, bay vút lên trên thành phố rồi bị những ngọn núi chặn dội lại, tắt dần ở xa. Đấy là hồi còi vang rền báo hiệu cập bến của chiếc “Leonid Krasin”. Trên bờ, mọi người vẫy khăn, vẫy mũ. Các thủy thủ trên boong tàu cũng vẫy khăn, vẫy mũ đáp lại. Con tàu bây giờ đã đến rất gần, trông cao như bức tường của một tòa nhà lớn. Bức tường này đang dịch gần lại. Giữa nó và kè đá, nước réo ầm ầm, những dây cáp dùng để kéo tàu vào bờ vun vút bay qua. Mắt rực lên vẻ khao khát, Volodia ngắm nhìn boong, những ô cửa sổ, chiếc cầu nhỏ và phần trên của con tàu. Cuối cùng em nhìn thấy và nhận ngay ra bố em, ông Nikifor. Ông đang đứng trên cầu tàu, khom người qua lan can nói to điều gì đấy với các thủy thủ đang kéo dây cáp. Ông mặc chiếc áo khoác da màu đen có cổ lông, đầu đội mũ trùm kín tai trên gắn phù hiệu tàu buôn. – Mẹ ơi, bố kia kìa!… Đấy, bố đứng ở trên cùng, cao hơn tất cả, mẹ ạ! – Volodia sung sướng gọi to: – Bố ơi!… Bà mẹ ngăn con lại. – Khẽ chứ con! Trông thấy ở đâu nào? Sao lại kêu ầm lên thế? Chung quanh còn bao nhiêu là người… Volodia xấu hổ nhìn quanh. Đúng, có phải chỉ có mình ở đây đâu. Chung quanh đông nghịt người, nhưng tất cả chẳng ngượng nghịu gì hết, cứ hét tướng lên và thật khó mà phân biệt nổi ai hét cái gì trong đám ồn ào ấy. – Chào Semyon!… – Kolia thân yêu, em nhìn phía này!… – Chào Masha nhé!… – Ê, cậu Vasha!… – Chịu nổi khí hậu ở đây chứ? Sau đó bức tường sắt đen với những ô cửa tròn đã đứng sững ngay trước mặt những người đi đón. Ròng rọc kêu ken két và một chiếc thang lớn từ từ hạ xuống dọc theo boong tàu. Những chuỗi dây chão luồn qua những trụ sắt vươn dài ra thành tay vịn cho chiếc thang. Đồng chí giám đốc cảng cùng các thủy thủ của cảng và các chiến sĩ đội mũ xanh (Volodia biết rằng đấy là các chiến sĩ biên phòng) đi theo cầu thang lên boong tàu. Volodia đứng trên kè đá ngay dưới thành tàu. Em ngửng đầu nhìn lên. Phía trên, mọi người đứng nghiêm chào rồi bắt tay nhau. Trên cầu tàu em không thấy bố nữa. Nhưng rồi ông lại xuất hiện ở chỗ thấp hơn một chút trên boong tàu. Ông cúi người qua thành tàu gọi to: – Evdokia, chào em!… Volodia, con đấy à? Mẹ em im lặng, đầu ngẩng lên, hai tay giữ chặt lấy cổ áo khoác, đôi mắt nhớ thương chăm chăm nhìn ông. Volodia kêu to: – Bố ạ, con nhìn thấy bố đầu tiên và nhận ra ngay lúc bố đang đứng trên cầu tàu chỉ huy ấy. Con lên chỗ bố có được không?… Chị Valia không đến bố ạ. Chị ấy còn phải học, lớp chị ấy chưa được nghỉ hè bố ạ! Xung quanh mọi người cũng chuyện trò với các thủy thủ đứng trên tàu. Họ nói to quá nên em không nghe thấy tiếng bố trả lời. Bố em vẫy tay rồi biến mất. Volodia nghĩ: “Chắc bác thuyền trưởng gọi bố.” Bởi vì trên tàu “Krasin” chẳng ai quan trọng được bằng bố em. Ai cũng biết, bố em là thuyền phó phụ trách công tác chính trị cơ mà. Một lúc lâu sau, bố em mới lại xuất hiện trên boong tàu. Những bậc thang đan bằng sắt bọc đồng kêu cót két dưới đế giày bước nhanh của bố em, chẳng khác gì tiếng phím đàn vang lên dưới bàn tay nhạc sĩ. Em chưa kịp nhìn bố ở gần thì đã thấy bóng mình trong khoang kính tròn của cửa sổ mạn tàu – đôi tay lực lưỡng của bố đã tung em cao đến mức ấy. Em ngạt thở và lấy hết sức ôm chặt chiếc cổ rắn chắc của bố. Không đời nào em rời bố nữa và em không chịu để bố lại tung em lên. Vẫn ôm chặt lấy em, bố cúi xuống hôn mẹ. Để che giấu nỗi thẹn thò bỗng nhiên làm em bối rối vì đã lâu nay em xa bố, em nghịch ngợm rúc đầu vào giữa má bố và đầu mẹ, rồi lần lượt hôn cả bố lẫn mẹ… Lát sau, cả nhà đã ở trên tàu, ngồi trên chiếc giường cao được thu dọn gọn ghẽ, trong phòng riêng của ông Nikifor. Chiếc giường rộng rãi, đầu giường có gờ gỗ thấp. Volodia đã nhiều lần lên các tàu biển, nhưng chưa bao giờ em lại được thấy chiếc tàu nào lớn đến thế. Em thích thú ngắm nghía căn phòng đẹp đẽ, trong đó tất cả đều sáng loáng, tất cả đều nhẵn bóng, sạch sẽ với những tiện nghi đặc biệt, giản dị, được coi sóc chu đáo và tính toán kỹ lưỡng, mà chỉ những căn phòng trên một con tàu lớn và hiện đại mới có được. Đâu đó, ở phía dưới chiếc thảm nhỏ trải trước giường, có tiếng con trượt kêu lạch xạch và ánh sáng chiếc đèn điện treo trên trần cũng rung rinh hòa nhịp với tiếng lạch xạch đó. Một chiếc giá nhỏ đóng chặt vào tường. Một chiếc bình to cổ “ngồi” thu lu trong một ngăn riêng, trong ngăn nhỏ bên cạnh ló ra một cái cốc. Trên bàn, một chiếc gạt tàn thuốc lá bằng đồng trông nặng nề nằm đối diện với một chồng sách dày, đóng bìa cứng. Chiếc ghế xoay ở trước bàn trông có vẻ rất nặng và chắc chắn. Tất cả mọi vật đều bền chắc, thấp, được đóng cẩn thận và sẵn sàng tận tâm phục vụ các thủy thủ. Chúng nhắc nhở ta rằng, một sức mạnh đáng kể đang vỗ oàm oạp ở ngay bên cạnh, chỉ cách ta có một lớp thành tàu mỏng… Bức ảnh gia đình rất quen thuộc đối với Volodia treo trong phòng làm em cảm thấy thật bất ngờ và thấy nó chẳng có liên quan gì với không khí trên tàu. Ảnh chụp mẹ, chị Valia và cả em nữa, em đang nép sát vào bố. Và em muốn lại diễn ra ngay bây giờ cảnh chụp trong ảnh. Ông Nikifor lấy tay nắm chắc gáy con, ngửa đầu ra sau, hỏi: – Thế nào, chú bé Kerch, có gì lạ không? Trông lớn đấy, ra dáng một chàng trai rồi còn gì. Vốn vẫn bực mình và tự ái vì lớn quá chậm, chậm hơn lũ bạn cùng tuổi, Volodia vội báo tin ngay: – Con đã cao quá khuỷu tay mẹ rồi bố ạ. Mẹ, mẹ đứng dậy đi để bố biết con đã lớn đến đâu, đi mẹ! Mẹ em than vãn: – Bây giờ nó khó bảo lắm, anh ạ. Ở lớp mẫu giáo nó làm gì, anh có biết không? Tưởng mẹ sắp kể chuyện chiếc cặp sốt, em chặn ngay lại: – Mẹ!… Con không… – Yên nào, không được ngắt lời mẹ!… Anh biết không, năm ngoái, lúc hai mẹ con đang đứng, thấy cô giáo dẫn tụi trẻ đi qua trước mặt để ra bãi, nó liền vụt theo, chui qua hàng rào và đứng luôn vào hàng. Cô mẫu giáo hỏi: “Cháu tên là gì? Con ai? Nhà cháu ở đâu?” Nó chẳng sợ hãi gì hết, trả lời luôn: “Cháu là Volodia Dubinin.” – Không, con bảo là: cháu là con đồng chí Nikifor Dubinin đấy chứ. – Phải đấy… Rồi nó nói: “Bố cháu là thủy thủ đường dài. Cháu muốn học lớp mẫu giáo của cô.” Tất nhiên là cô giáo dặn nó bảo mẹ viết đơn. Thế là nó lập tức chạy về nhà và nói: “Mẹ ơi, cô giáo lớp mẫu giáo bảo mẹ viết đơn xin cho con vào học.” Anh xem, nó tự thu xếp thế đấy! Nó đi mẫu giáo được một năm rồi. Chỉ phải cái nghịch thôi, em chịu không bảo được đâu. Volodia khoe: – Con đã biết đọc, biết viết chữ in rồi bố ạ. – Thế cơ à? – bố em ngạc nhiên. – Nếu vậy thì con giỏi lắm. – Bố đưa con cái gì con đọc cho mà xem… Em đưa mắt nhìn quanh. Em nhảy xuống đất vớ lấy cuốn sách nhỏ bìa màu sáng ở trên bàn rồi phốc một cái, lại đã ngồi trên giường. Em đưa sách lại gần mắt: – A… A… – em đọc rồi im bặt. – Sao thế, nhà thông thái?… – bố em kéo dài giọng chế em. – Cái chữ gì mà nằm ngược thế này… À đây là chữ “Я”? – Em dí ngón tay vào chữ la-tinh “R” in trên mặt bìa bẩn vết dầu. – A, con biết rồi, đây là chữ “Я” đặt ngược! – Con nói chẳng dứt khoát gì cả. Chữ như thế bố chưa nghe nói bao giờ, – người bố cười và chỉ tay vào bìa sách: – Thế đây là chữ gì? – Đây ấy ạ?… Volodia bối rối nhìn trừng trừng vào cái chữ lạ lùng, ngoằn ngoèo như con rắn, trông giống hệt cái lưỡi câu. – Chữ này ấy ạ?… Con chưa học. – Thế mà cũng đòi đọc! Và phải nhớ là phải xin phép trước khi lấy sách ở trên bàn. Còn đây không phải là chữ ta. Đây là một cuốn sách tiếng Anh, cuốn sách tra cứu về biển. Bố mua ở London đấy. Con phải nhớ xin phép trước khi lấy sách nhé! Ông cầm lấy cuốn sách tiếng Anh trong tay con, để lên bàn, rồi rút trong chồng sách ra một cuốn dày, bìa đỏ, đưa cho con, bảo: – Con đọc xem nào. – V… I… Lê… ni… n… À, con biết rồi! “V. I. Lenin”… Tuy… tuyển… tuyển tập. – Khá lắm! – bố em nhấc em lên, khen. – Evdokia này, chóng thật đấy nhỉ? Con nó đã biết đọc rồi, thời gian đi mau thật! Câu chuyện vừa chuyển sang chuyện chữ nghĩa là Volodia lập tức nhớ ngay đến dòng chữ trong mỏ đá. Nhưng em thấy chưa nên hỏi bố ngay. Nên gác việc đó lại dịp khác, thuận tiện hơn. Khi đó phải hỏi cả về việc chiếc cặp sốt nữa mới được: có đúng là trong nội chiến, bố chiến đấu cả vì chiếc cặp sốt như mẹ nói không? Việc đó thì phải gặp riêng bố, nói chuyện riêng hai bố con mới tiện. Nhưng bố em hình như cũng cảm thấy con trai muốn nói chuyện riêng với mình. Ông mở tủ, lấy chiếc mũ thủy thủ trên giá, đặt mũ hành quân vào tủ, vuốt lại áo rồi cúi xuống soi gương: – Evdokia này, em trông hai bố con có giống nhau không? Giống đấy chứ nhỉ? – Sao lại không? Nhất là mắt. Cứ như lột ấy. – Làm gì mà cứ nhìn trừng trừng thế, chú bé mắt to này! – bố em nói đùa và bợp nhẹ vào trán Volodia. – Có muốn cùng bố đi xem tàu không?… Evdokia cho con đi với anh nhé? – Nếu con nó thích thì hai bố con cứ đi đi. Em ở lại đây thu dọn cho anh một lát. Ông Nikifor kêu lên: – Thế thì còn gì bằng nữa! Rồi ta sẽ đi tắm, con thích không? Chắc là chưa bao giờ con được tắm hơi trên tàu, phải không? Thủy thủ mà tắm hơi thì phải biết, cứ gọi là sạch bóng. Ta đi đi con! Bố đưa Volodia đi khắp các nơi trên tàu, chỉ cho con xem tất cả các gian phòng, dẫn con lên boong và giới thiệu con với bác thuyền phó chính. Bác thuyền trưởng thì đã lên bờ vào thành phố. Volodia thất vọng ra mặt khi biết là bác thuyền trưởng, ngoài bố em ra, còn có một thuyền phó nữa mà lại là thuyền phó chính. Sau đó bố em giữ cho em vừa bám vào những nắm tay lớn bằng thép vừa trượt theo những bậc thang bằng sắt của chiếc cầu thang đặt dốc đứng để đi xuống khoang dưới. Ở đây có đặt máy móc là thứ Volodia thích nhất. Lúc này, cả khối máy đồ sộ đang yên lặng. Các chú công nhân áo dính đầy dầu mỡ, đi lại trên các cầu sắt trơn tuột, vặn đinh ốc, lau chùi. Tất cả mọi thứ ở đây đều bằng sắt và đều trơn bóng. Những ngọn đèn sáng rực đặt trong lưới sắt trông như đeo rọ mõm. Mặc dù máy móc hiện đang yên lặng và bất động, Volodia vẫn cảm thấy lúc nào chúng cũng sẵn sàng bừng tỉnh dậy và để lộ ra toàn bộ sức mạnh tiềm tàng khủng khiếp mà ta phải đề phòng; chẳng thế mà nó lại bị giam trong những tấm lưới sắt và khung sắt như thế kia. Bố em dắt em lại gần bác thợ máy to lớn đang lúi húi bên cạnh một chiếc máy và bảo: – Volodia, con chào bác Viliuy đi. Bác là người quản lý chính tất cả các hung thần này đấy. Bác Viliuy đứng thẳng dậy vươn người lên và Volodia thấy bác cao hơn bố em đến một đầu rưỡi. Bác lau thật kỹ đôi tay dính dầu mỡ vào vải rồi đưa tay cho Volodia. Bàn tay bác to mập hằn rõ những vệt đen của dầu mỡ. Bác nói, giọng trầm trầm: – Con đồng chí đấy à? Vừa gặp nhau phải không? Chắc đồng chí dẫn cháu đi xem máy móc? Cháu nó thích máy móc lắm hả? Tên cháu là gì nhỉ?… Volodia à? Nào, cháu Volodia, lại đây bác cho xem cơ ngơi của bác. Bác Viliuy đưa Volodia đi theo những chiếc cầu sắt hẹp, lên xuống những cầu thang vừa trơn vừa dốc đứng, băng qua những lớp sàn lưới. Vừa đi bác vừa giảng giải về máy móc. – Đây là những động cơ đi-ê-den. Ở đây có động cơ đi-ê-den là vì chiếc tàu này chạy bằng động cơ đốt trong. Nếu là tàu chạy bằng hơi nước thì phải có nồi hơi, nhưng tàu chúng ta thì dùng động cơ đi-ê den. Cháu có hiểu chữ đi-ê-den không? Chắc là không hiểu phải không? Thế sau này lớn lên cháu định làm gì? Chắc là làm thủy thủ chứ? Đấy là một vấn đề nan giải. Đã có lúc Volodia mơ ước trở thành thủy thủ. Sau đó, khi được bác đánh cá cứu cho khỏi chết đuối và sau câu chuyện chiếc cặp sốt, em muốn trở thành thầy thuốc. Và sau khi biết được nguồn gốc dòng chữ bí ẩn trong lòng đất, em lại bắt đầu mơ ước cuộc đời chiến đấu du kích, và chủ nhật nào em cũng cùng Vania chơi trò đánh trận giả. Nhưng hôm nay, được gặp bố trên chiếc tàu to lớn kỳ diệu này, em lại quay về những dự định ban đầu. Em quyết định là lúc đầu có thể trở thành thủy thủ, nhưng rồi sẽ học cách chiến đấu du kích trên đất liền sau. – Nghĩa là cháu định làm thủy thủ chứ gì?… Tốt lắm. Bố cháu là một thủy thủ ưu tú. Cháu hãy nối gót bố cháu… Này cháu xem, trên tàu có cả nồi hơi đây này, có kém gì tàu chạy hơi nước đâu. Họ dừng lại bên một khối lớn bằng sắt đen có hơi nóng tỏa ra. Bên trong nghe có tiếng sùng sục làm rung chuyển cả sàn sắt bên cạnh. – Cháu có biết ở đây dùng hơi nước làm gì không? Rất đơn giản: dùng trong sinh hoạt. Nước nóng được đưa vào nhà bếp. Cháu nhìn thấy những vòi nước màu xanh màu đỏ kia chứ… Cái thì vào buồng tắm hương sen, cái thì vào buồng tắm hơi. Trên tàu có cả buồng tắm hơi nữa đấy nhé. Buồng tắm hơi theo đúng kiểu Nga. Ở nước ngoài không có những buồng tắm như thế đâu. Cháu xem, trên tàu sống đàng hoàng đấy chứ? Bây giờ anh em thủy thủ sắp đi tắm đấy. Phía trên có tiếng bố gọi em đi tắm. Buồng tắm trông giống như tất cả các buồng tắm bình thường khác: cành dương dùng để quất, những vật để kỳ cọ, nước giặt quần áo, hơi nước ngột ngạt. Bố em cởi chiếc áo ngoài và chỉ mặc chiếc áo trong kẻ ngang theo kiểu của thủy thủ Hạm đội Đỏ. Rồi bố em cúi xuống, đưa hai tay lên vai, giơ khuỷu tay ra phía trước cởi nốt chiếc áo lót. Em khâm phục và thích thú nhìn cái lưng lực lưỡng của bố và bắp thịt cuồn cuộn ở cánh tay bố. Bố em vừa xát bộ ngực nở nang, rắn chắc vừa bảo: – Con còn đợi gì nữa? Cởi quần áo ra đặt vào đây. Ra đây bố sẽ kỳ cọ cho con một bữa ra trò. Lâu lắm rồi bố không tắm cho con… A, trông con cũng khá đấy. Mà cái gì thế này? Nện nhau hử?… Thế còn đây?… Xem ra thì con cũng chẳng phải tay vừa… Nhiều phen đọ sức rồi phải không? Và cũng không ít lần bị no đòn thì phải… Khí lạnh ùa vào phòng. Những bóng người đen đen, mắt lấp lánh, răng trắng bóng, lao vụt vào buồng tắm. Họ vừa chạy vừa cởi những chiếc áo sặc mùi dầu mỡ vừa ném lộp bộp các đôi giày vào góc buồng tắm. Volodia ngơ ngác nhìn họ và thận trọng dịch lại gần bố. Bố em bảo: – Các chú thợ máy đến tắm đấy. Hơi nước nóng ấm lập tức được tháo ra, mọi người bắt đầu lấy nước giội cho nhau, những thùng nước lao vun vút từ tay người này đến tay người khác theo một tấm ván trơn. Họ làm ầm ĩ, thở phì phò, ho sặc sụa, nói như hét để át tiếng ồn ào do chính họ gây nên. Nước nóng giội vào làm thân mình họ trắng ra trông thấy và bây giờ Volodia có thể nhận ra những chiếc mỏ neo, những con rắn, những chiếc tàu, những con thủy quái và đại bàng xăm trên da một vài người thợ máy. Bố em đặt em lên một tấm gỗ cao và vừa kêu lên vì khoái trá vừa xát mạnh mảnh bọt bể đẫm xà phòng và sũng nước nóng vào lưng con. Volodia không chịu nổi, thét lên: – Ái, ái!… Đau con… bố! – Chịu đau một chút, bố sẽ kì cho con trắng bóng lên… Nhắm mắt vào, nhắm chặt vào! Bố giội kín đầu đây này… Em sặc sụa trong dòng nước nóng giãy giội ụp từ trên đầu xuống. Em cảm thấy mình đến không chịu nổi mất, đến sặc nước và chết ngạt mất. Nhưng nước đã trôi hết, mồm và lỗ mũi em phập phồng hít làn không khí ấm áp, đôi tay rắn chắc của bố em vắt ráo tóc trên đầu, vuốt nước khỏi mặt em. Em thận trọng mở mắt. Bố em nói, vẻ hài lòng: – Giờ thì sạch lắm rồi. Thôi, ra mặc quần áo đi để bố tắm thêm chút nữa… Parfenov, cho thêm hơi nước vào! Một tiếng réo dữ dội vang lên khắp buồng tắm. Volodia nhảy vụt khỏi đám hơi nước mênh mông tràn cả ra phòng ngoài. Em mặc xong quần áo rất nhanh, mặc dù tất, quần và sơ-mi phải vất vả lắm mới lồng được vào người, giày thì trở nên ram ráp và chật hẹp, còn ngón tay mới thật buồn cười: nhăn nheo, sần sùi, trắng bệch ở đầu cái ngón, trông chẳng khác gì hạt dẻ non. Volodia cảm thấy đầu váng, em ngột ngạt vì nóng, vì hít quá nhiều hơi nước. Khi em bước ra chiếc hành lang hẹp có những tay vịn dài chạy dọc theo bức tường trước mặt, em quên bẵng mất em đi cùng bố từ đâu đến đây và bây giờ em phải đi đâu. Tít cao phía trên đầu có tiếng chân bước và hình như có vật gì dài và nặng đang lê sền sệt. Vọng đến tiếng người bị tiếng va chạm của sắt át đi. Em bỗng cảm thấy mình lại đứng mãi dưới sâu trong mỏ đá ở Cựu Karantin. Chỉ khác là ở đây sáng sủa và dưới chân em không phải đá rắn mà là một cái gì đang rung rung, chao đảo. Em đi đến cuối hành lang, rón rén thử mở những nắm cửa bằng sắt của các phòng, rồi em quay lại, tiến đến một bức tường màu vàng có nhiều cửa sổ với những thanh đồng mảnh bao quanh. Em kiễng chân nhìn vào: dưới chân em, sau lớp kính là một khoảng sâu thẳm kêu ầm ĩ, ở giữa nổi lên những khối thép với những bánh xe, những bộ máy nhỏ bằng đồng trông giống như đồng hồ, những chiếc kim đứng lặng im dưới nắp kính. Em nhận ra những chiếc cầu trượt, những thang dốc đứng, những lối đi, những mạng sắt và những lớp sàn. Khẽ hé mở cánh cửa đóng khung bằng một tấm lưới đồng, em đi vào trong rồi lần theo chiếc thang quen thuộc, áp sát bụng vào những thanh tay vịn tròn cứng, dò chân nọ rồi mới đặt chân kia bước xuống tấm lưới thép ở phía dưới. Kia là chiếc nồi hơi mà bác Viliuy đã bảo em. Em nhận ra ngay những bánh xe xanh đỏ của những vòi nước trên một đường ống lớn. Đường ống này được bọc kín trong một lớp đầy dầu mỡ giống như giấy sơn. Xung quanh không một bóng người. Volodia thích thú xem xét các vòi nước. Thoạt tiên em động vào một chiếc vòi xanh và hơi quay sang bên trái. Chiếc kim nhọn dưới mặt kính của bộ máy giống như đồng hồ bỗng lay động và vút chạy từ bên nọ sang bên kia như muốn ra lệnh: “Đừng, đừng động vào!” Volodia bỏ mặc chiếc kim đấy và động vào một chiếc vòi khác màu đỏ. Em khẽ quay bánh xe sang bên trái và phấp phỏng nhìn bộ máy. Nhưng lần này chiếc kim không có vẻ gì là giận dữ. Thấy chiếc kim không nhúc nhích ra vẻ tán thành, em mạnh bạo lên và quay bánh xe đỏ sang bên trái. Đột nhiên dưới chân em có tiếng ầm ầm, gầm rít, em ngửi thấy mùi gì giống như mùi ở buồng tắm, từ dưới tấm lưới sắt một luồng hơi nước dày đặc bốc lên che kín cả khối máy. Em nghe thấy tiếng người kêu xôn xao hoảng hốt, tiếng chân chạy rậm rịch. Một người lao vào va phải Volodia trong đám hơi nước, vấp ngã qua người em. Em cũng ngã theo. Thấp thoáng bóng những chiếc chân để trần, nước xà phòng còn rỏ giọt, nhảy vọt qua em. Em chỉ nhìn thấy bóng chân vì hơi nước đã che lấp hết cả. Cuối cùng, có một người chắc là hiểu được nguyên do, vội quay chiếc vòi lại và khóa chặt ống dẫn hơi nước. Hơi nước từ từ tan dần và Volodia thấy ngay trước mặt mình là bác Viliuy trần truồng, cao lớn, hình như còn cao hơn cả trước kia. Nhưng bác Viliuy không nhìn thấy Volodia vì bọt xà phòng trắng, đặc sệt trên đầu bác bây giờ mới tràn xuống mắt bác. Bác vừa nhổ vừa lấy hai nắm tay giụi giụi cặp mắt bị bọt xà phòng làm cay rức. Bác la lên: – Trời, cái bọt xà phòng chết tiệt! Cay mắt quá! Ai ở đấy cho tôi gầu nước vào đầu nào!… Cay xè cả hai mắt rồi… Một người mang ca nước đến giội vào mặt bác. Bác vừa thở phì phò vừa hé mở đôi mắt đỏ ngầu, còn mờ mờ. – Đứa nào làm bậy đấy? Đứa nào mở hơi vào buồng tắm đấy? Đến khi đó, Volodia với vẻ mặt hết sức hoảng sợ mới hiện ra từ đám hơi nước dưới chân bác. – Cháu đấy ạ… Cháu không ngờ ạ… Cháu mới hơi chạm khẽ một cái, thế mà đã… Nhưng bàn tay rắn chắc của bố em đã siết chặt lấy vai em và lôi ra khỏi buồng máy. Bố em đã kịp mặc quần đùi nhưng chưa kịp xỏ giày và mặc áo. Ông giận dữ lắc mạnh Volodia: – Ai cho phép con làm bậy thế? Con có biết con đang ở đâu không? Đây là con tàu chứ có phải đồ chơi đâu. Con đã làm mọi người phải hoảng hốt. Bây giờ đứng yên đây để bố mặc quần áo. Bố sẽ không cho con ở trên tàu nữa! Lên bờ ngay lập tức! Đến ngay ký túc xá. Con còn nhỏ quá, chưa nên cho lên tàu… Nghịch quá đi mất!… Ông còn muốn mắng thêm mấy câu nữa nhưng đột nhiên ông lấy một tay áp vào miệng vụt quay lưng lại con và bất lực xua xua tay kia. Xung quanh, trong chiếc hành lang hẹp, người thì che thân bằng chiếc áo vo tròn lại, người thì dùng xô nước, người thì lấy luôn hai bàn tay, ai cũng đẫm xà phòng và cố lắc cho bọt ra khỏi tai, cố mở to đôi mắt cay xè. Họ đứng đó, nghe câu chuyện hai bố con, nhìn vẻ mặt thẹn chín người và sẵn sàng khóc lên của Volodia. Đột nhiên, hết người này đến người khác, tất cả đều cười phá lên làm xà phòng tung tóe khắp mọi phía. Nửa giờ sau, Volodia lặng lẽ lủi thủi đi theo mẹ về ký túc xá. Mẹ bảo: – Giỏi lắm! Thật là đẹp mặt! Người ta coi là đã lớn mới cho lên tàu, lại cho tắm với mọi người ở buồng tắm nữa, thế mà không biết điều… Cũng còn may là chưa xảy ra chuyện gì đấy… Bố thật xấu hổ vì con. Thuyền phó phụ trách công tác chính trị mà có đứa con chẳng hiểu biết gì cả!… Em bước thấp bước cao đi đằng sau, nhưng mẹ cầm lấy tay lôi em đi trên những lớp sàn gỗ và thỉnh thoảng bà lại quay lại nói thêm: – Đi cho tử tế nào! Không biết đi nữa rồi à? Sao lại cứ để người ta phải kéo mới đi thế? Liệu đấy rồi sẽ lại được tắm cho một trận nữa!… Volodia bị phạt phải ở lại một mình trong căn phòng nhỏ của ký túc xá, còn mẹ em trở lại cảng và cùng bố đi vào thành phố. Mẹ em rất thương và sẵn sàng tha thứ cho em nhưng bà biết chồng bà rất nghiêm khắc trong những việc như vậy. Câu chuyện còn nóng hổi thế này thì tốt nhất là không nên nói gì với chồng về con. Volodia ngồi một mình trên chiếc giường sắt phủ tấm chăn dạ dày. Trên giường cũng có in dòng chữ “Cảng. Murmansk” như trên các bức thư nhưng cỡ chữ thì to gấp mười. Mẹ em cấm ngặt em không được đi đâu và để lại thức ăn trên chiếc đĩa phủ tờ báo “Sự thật Bắc cực”. Ngồi một mình, Volodia cảm thấy rất chán. Bên ngoài, trời tối rất nhanh. Thế là hết một ngày ngắn ngủi ở Murmansk. Em ngồi lắng nghe tiếng còi tàu. Cảng rất gần đây thôi. Ở cảng có con tàu “Leonid Krasin”. Trên tàu có bố đã từ thành phố về rồi. Em hiểu rằng còn lâu em mới được nói chuyện riêng với bố, mới có dịp hỏi về khu mỏ đá Cựu Karantin và về chiếc cặp nhiệt. Nhưng bỗng em cảm thấy khao khát được lập tức ở ngay cạnh bố và làm tất cả mọi việc để bố không giận nữa. Em nhảy phắt xuống đất, mặc áo khoác, đội mũ, quàng khăn vào cổ, thận trọng hé mở cánh cửa dẫn ra hành lang ký túc xá. Ngoài hành lang không có ai. Em rút thìa khóa ở phía trong, tra vào ổ khóa từ phía ngoài hành lang, khóa cửa lại, đút thìa khóa vào túi rồi bước ra phố. Chú bảo vệ đứng ở cổng cảng gọi em lại. – Cháu ở trên tàu “Krasin” đấy mà, – em vội trả lời. – Thế thì cứ đi đi! Chú thủy thủ đứng gác ở thang tàu “Krasin” đã nhận thấy từ lâu có một bóng người nhỏ bé cứ đi đi lại lại trong đêm tối trên kè đá gần tàu. Chú gọi vọng xuống: – Này, chú bé! Làm gì mà cứ lang thang ở đấy thế? Chờ ai đấy? Tiếng ở phía dưới vọng lên: – Chú ơi, cho cháu gặp đồng chí Dubinin là thuyền phó phụ trách chính trị. Chú thủy thủ ngạc nhiên: – Gì cơ? Cháu thì có quan hệ gì với công tác chính trị? – Chú chỉ cần báo là có Volodia muốn gặp. – Volodia à? Được, chú sẽ báo. Nhưng cháu là Volodia nào mới được chứ. Trên đời này có biết bao nhiêu Volodia cháu biết không? – Không, cháu không biết. Chú bảo giúp là có Volodia Dubinin. – Nhưng cháu là thế nào với đồng chí thuyền phó phụ trách chính trị? – Cháu là con đồng chí ấy. – À ra thế, khá lắm… Có phải cháu vừa làm lung tung cả tàu lên, đã mở hơi nước và tháo cũi sổ lồng cho lũ hung thần của các chú phải không? – Vâng, cháu… – Volodia trả lời, em thở dài bước xa ra khỏi tàu. Hóa ra ai cũng đã biết câu chuyện hơi nước và chẳng nên ló mặt trên tàu làm gì nữa. – Đứng lại hẵng! Cháu đi đâu thế? Đồng chí Dubinin sắp về đấy, còn đi đâu làm gì?… Volodia đứng lại, cọ má vào vai suy nghĩ. Em lại thở dài và im lặng bước đi. Nhưng đúng lúc đó, một giọng nói trầm trầm, vang vang, hết sức quen thuộc, từ trên tàu vọng xuống: – Volodia đấy à? Volodia giúp việc cho bộ phận hơi nước đấy phải không? Đứng lại đã cháu! Làm gì mà ỉu xìu thế?… Volodia nhận ra giọng bác Viliuy. Bước chân bác dồn dập trên cầu thang. Một bóng người to lớn lại gần em. Bác cất giọng trầm trầm: – Sao tắm xong cháu lại ra gió thế? Đến bị cảm mất. Thế nào, cháu có bị bố cho ăn đòn không? Thôi, không nói đến chuyện ấy nữa. Ta lên tàu đi! – Bố cháu không cho phép… Bố cháu đuổi cháu lên bờ… – Thế cơ à? Thôi được, bao giờ bố cháu về, bác sẽ nói với bố cháu cho. Còn đứng đấy làm gì? Kìa, bác bảo, ta đi đi! Cháu bị cảm mất. Bác cháu ta sẽ nói chuyện với nhau chăng? Lên tàu đi! Và Volodia bỗng bay lên: cánh tay mạnh mẽ của bác Viliuy nhấc bổng em đặt lên vai. Trời đã tối hẳn và em cảm thấy mình bay trong không trung. Em thấy mình cứ bay cao lên mãi, thấy trước mặt có ánh sáng. Bác Viliuy đặt nhanh em xuống đất và dưới chân em lại là sàn tàu rắn chắc rung đều đều. Khi ông Nikifor từ thành phố trở về, đồng chí thủy thủ đứng gác báo cáo là con ông đang đợi ông ở phòng đồng chí thợ máy chính. Ông đi xuống khu phòng ở và từ xa đã nghe thấy tiếng cười ầm ĩ trong phòng bác Viliuy vọng ra. Ông lại gần nhưng không thể vào được mặc dù cửa mở toang. Thủy thủ, thợ máy tụ tập ngoài hành lang. Từ trong phòng, đám khói thuốc lá dày đặc bay ra và vọng lại giọng nói trong trẻo của Volodia. Em đã trở nên mạnh bạo và rõ ràng là đã rất quen thuộc với mọi người trên tàu. Người ta bắt em kể đi kể lại đến hàng chục lần câu chuyện hơi nước vì ngoài hành lang người tới nghe hết lớp này đến lớp khác. – Cháu làm thế nào mà lại để đến nỗi như thế nhỉ. Bác Viliuy giảng giải máy móc cho cháu thế nào? – Bác ấy chỉ cho cháu xem các vòi nước và bảo: “Hơi nước đấy. Trên tàu sống rất đàng hoàng, có cả buồng tắm hơi nữa.” Khi cháu tắm xong thì cháu thấy nóng quá, cháu đi tìm mẹ cháu. Mà buồng máy thì chẳng có ai cả. Cháu thử lần mò xem các vòi. Bỗng phụt một cái, thế là mọi người chẳng mặc quần áo gì hết, cứ trần truồng chạy ra, người toàn xà phòng. Nước và xà phòng cứ rỏ giọt từ người xuống… Tất cả lại phá lên cười. – Volodia này, con nói lung tung cái gì đấy? – giọng ông Nikifor vang lên và mọi người im bặt, giãn ra. – Còn các đồng chí có chuyện gì vui mà lộn xộn thế này! Cả chủ tịch hội đồng thủy thủ, cả bí thư đoàn thanh niên nữa kìa!… Lúc cần thì không sao triệu tập được đông đủ, thế mà bây giờ thì ai cũng có mặt. Mọi người thanh minh: – Con đồng chí ngộ quá đi mất, đồng chí Nikifor ạ. – Giỏi thật, nó đứng ra tổ chức được cả hội hóa trang! – Thôi, thế là đủ rồi, ta đi đi! – bố em nói rồi đưa Volodia về phòng riêng. Dọc đường ông hỏi: “Mẹ đâu? Ở phòng bố à?” Volodia im lặng. – Nói đi chứ, bố hỏi, mẹ đâu? Con không nghe thấy bố hỏi à? Hơi nước bịt kín lỗ tai rồi ư? – Con không biết… – Không biết là thế nào? – Con đến đây một mình, – Volodia lí nhí thú nhận. – Con ngồi một mình mãi rồi con đi tìm bố… Con tưởng là mẹ ở đây. Con muốn đến với bố… con nhớ bố… – H-ừ! – bố em khẽ thở dài. – Rồi thế nào mẹ cũng phạt con cho mà xem. Con để thìa khóa ở đâu? – Đây ạ. Bố em giật lấy chiếc thìa khóa em đưa rồi chạy đi. Em nghe thấy bố nói: – Parfenov này, cậu đưa giúp mình chiếc thìa khóa này đến ký túc xá cảng nhé. Ở đấy chắc vợ mình đang lo cuống lên. Con mình đến đây mà lại cầm theo thìa khóa mới gay chứ. Parfenov hỏi một điều gì đó và bố em trả lời: – Phải, con mình đang ở chỗ mình. Đáng lẽ mình phải đi mới đúng nhưng mình lại sắp đến phiên gác. Hơn nữa để nó một mình ở đây sao được! – Cháu nó hiếu động lắm… – Thành ra bây giờ mình phải sửa cho nó!… Trở về phòng, bố em đóng chặt cửa lại, đi đến bàn và ngồi xuống chiếc ghế xoay. Volodia, nét mặt rầu rĩ đang nghịch những chiếc tua màn cửa cạnh giường trông như những quả bồ công anh dại. – Volodia này, – bố em mở đầu câu chuyện, – bố con ta nói chuyện với nhau một lát. Con để yên chiếc màn cửa đấy! Lại gần đây. Dạo này con không được ngoan, Volodia ạ. Liệu con cứ như thế mãi đến bao giờ? Mẹ rất phiền lòng về con. Mẹ bảo lúc nào con cũng làm mẹ phải lo lắng… Lúc thì suýt chết đuối, lúc thì ngã xuống mỏ đá làm cả nhà phải hốt hoảng. Hôm nay thì vừa đặt chân lên tàu đã làm lung tung hết cả lên. Con tưởng thế là hay đấy à? Rồi lại chuyện này nữa: mẹ bắt con ngồi ở nhà chờ mẹ cho đến tối, thế mà con tự tiện bỏ nhà đến đây. Mà ai bảo con đến đây mới được chứ? – Con không thích lên bờ… – Volodia sụt sịt khóc. – Bố đừng bắt con đi khỏi tàu!… – Con mà còn nghịch ngợm nữa, bố sẽ đuổi lên bờ ngay tức khắc. Nếu con muốn ở lại trên tàu thì phải thật ngoan ngoãn. Trên tàu cũng phải có kỷ luật chứ! Mà con thì lại rất liều lĩnh! Thôi, lại đây với bố. Chẳng lẽ con không thấy xấu hổ à? Volodia trèo lên đầu gối bố và mặc dù em đã cảm thấy hết sức thoải mái, em vẫn lúng búng: “Có ạ”, trong lúc đó thâm tâm em hoảng sợ thấy mình thật giả dối, vì lúc đó em chẳng thấy hối hận gì hết. Bố em bảo: – Con kể chuyện gì cho bố nghe nào. Ở lớp mẫu giáo con học hành ra sao? Chị Valia thế nào? Hai chị em vẫn cãi nhau suốt ngày đấy chứ? Volodia cảm thấy tình hình đã ổn và đã đến lúc thích hợp nhất để nói chuyện riêng với bố trước khi mẹ đến. Em ngồi cho thoải mái hơn trên đầu gối bố, rồi vừa nhìn thẳng vào mắt bố vừa hỏi bố câu hỏi đã từ lâu làm em bận tâm. – Bố ơi, – em nói, – có phải bố đã chiến đấu vì chiếc cặp sốt không? Bố em ngạc nhiên: – Thế là thế nào nhỉ. Sao lại vì chiếc cặp sốt? – Mẹ bảo bố chiến đấu vì chiếc cặp sốt. – Con nói gì lạ thế? – Thật đấy bố ạ!… Khi con đánh vỡ chiếc cặp sốt… đấy là con cố ý đánh vỡ… thì mẹ bảo rằng đấy là chiếc cặp sốt chung, và bố chiến đấu không phải vì chiếc cặp sốt của riêng bố, mà là vì chiếc cặp sốt chung. Rồi sau đó mẹ bắt phải đền. – Gượm đã, ta xem xét tuần tự mới được, – bố em bảo. – Con kể đầu đuôi câu chuyện xem nào. Volodia đành phải kể lại toàn bộ câu chuyện bụi lá han và chiếc cặp sốt. Bố em nhíu mày, nhưng bất giác lộ vẻ quý trọng con, ông nhìn hai bàn tay mũm mĩm, sạch sẽ của con trai và âu yếm nắm những đầu ngón tay ấy: – Thế mà con cũng chịu được cơ à? Chắc là lá han đâm đau lắm phải không? – Đau chứ ạ!… Không, cũng chẳng đau lắm, chỉ hơi hơi thôi ạ. – Volodia này, – bố em nói và nghiêm trang hẳn lại. Nét mặt ông dường như trở nên cứng rắn, và cặp mắt to dưới hàng lông mày đen và rậm tỏa ra vẻ trang trọng. – Nghe bố nói đây: mẹ con thật đáng quý, Volodia ạ! Tất cả những điều mẹ con nói đều rất đúng. Mẹ con đã giảng giải cho con cái điều quan trọng nhất nên bố cũng chẳng có gì nhiều để nói với con. Thực ra, nếu con làm cái chuyện cái cặp sốt chỉ vì bản thân con thì bố cũng chẳng nói chuyện với con làm gì. Đấy là một việc xấu, nhưng dù sao con cũng có một điểm tha thứ được, đấy là con làm vì lời hứa với bạn. Nhưng từ nay về sau, con hãy nhớ rằng hứa phải có suy nghĩ, hứa khi mình biết chắc là có khả năng giữ được lời hứa. Còn con vì lúc đầu huênh hoang, nên về sau phải chịu khổ… Về chuyện chung với riêng, thì mẹ con nói đúng cả. Mẹ con giảng giải cho con rất hay, rất chính xác: bố và các chú chiến đấu vì chiếc cặp sốt chung, chiến đấu để tất cả trẻ con đều có lớp mẫu giáo, và để trong lớp mẫu giáo tất cả trẻ con đều có đồ chơi, và chiến đấu cả vì những chiếc cặp sốt nữa. Con hiểu chứ? – Vâng ạ. – Như vậy đấy. Con hãy khắc sâu vào cái mũi hếch này… – Bố khẽ búng vào mũi em, nhưng rụt ngay tay lại và nói tiếp, giọng rất nghiêm trang: – Cống hiến cái của riêng là một việc tốt đẹp gấp trăm lần lấy cho riêng mình cái đã trở thành của chung và do nhân dân quản lý. Khi cần, bố không tiếc cả thân mình vì sự nghiệp chung. Thế mà con lại vì chiếc cặp sốt… Volodia nhìn vào mặt bố, liếm cặp môi khô đi vì hồi hộp và nói khẽ: – Con biết bố đã chiến đấu không tiếc thân mình ở đâu rồi, bố ạ… – Ở đâu thì có gì là lạ: trong nội chiến chứ còn đâu nữa. – Không, con đã nhìn thấy chính nơi bố chiến đấu cơ… Đầu tiên, con bị ngã xuống đấy… Nhưng thực ra đấy không phải lỗi ở con. Ngay cả con bò nhà chú Vasily cũng đã có lần ngã xuống đấy. Chúng con đang chơi trò trốn bắt thì con bị sẩy chân xuống giếng mỏ. Con đang lần mò thì thấy ánh sáng trên mặt đất xuyên xuống qua một cái lỗ. Nhờ đó con đọc được trên tường dòng chữ ghi tên bố và bác Gritsenko, khi bố và bác Gritsenko còn hoạt động du kích ở đấy. – Vô lý! Không có chuyện ấy được! – bố Volodia nói và ngả người vào lưng ghế, dường như muốn nhìn đứa con từ xa, chẳng khác nhà họa sĩ muốn kiểm tra đường nét chính xác của bức tranh. – Lẽ nào lại còn cho đến bây giờ? Volodia, con không bịa ra đấy chứ? – Sao lại bịa ạ? Bố nghe con kể nhé… Lúc đầu chúng con tưởng là tên chúng con vì nét chữ không rõ lắm… và tối nữa. Sau đó, khi con kiếm được thủy ngân, Vania mới tin con. Chúng con lại đi xuống, có mang theo cả đèn… Chúng con không nói với mẹ, vì mẹ thế nào cũng lại mắng. Hóa ra đấy không phải là tên chúng con mà là tên bố và bác Gritsenko. Đầu tiên là tên bố: “N. Dubinin” rồi móc một cái và đến “I. Gritsenko”. Phía dưới có các chữ số như trên mặt đồng hồ. Mới đầu một giờ, sau đến chín giờ, rồi lại một giờ và chín giờ. Thế là thế nào hở bố? – Số đó có nghĩa là năm một nghìn chín trăm mười chín đấy, con ạ. – Ông Nikifor nói rồi thận trọng nhấc con lên khỏi đầu gối, đứng dậy khỏi ghế bành, đặt con lên chỗ ngồi khiến Volodia bây giờ cao bằng ông, để ông có thể nói chuyện với con như với một người lớn. Ông bố đi đi lại lại trong phòng, người như trẻ ra. Rồi ông dừng lại trước mặt con, đặt cả hai tay lên vai con: – Volodia này, câu chuyện con vừa nói làm bố ấm cả lòng… Khi nào con lớn, bố sẽ kể hết cho mà nghe. – Con đã lớn từ lâu rồi còn gì… Con đã cao quá khuỷu tay mẹ nữa là khác. Còn bây giờ, bố xem này, con đứng đã cao hơn cả bố, con sẽ hiểu được hết. Rồi bố sẽ thấy! – Được, nếu con hiểu được thì bố sẽ kể. Bố sẽ kể chuyện chúng ta đánh bật bọn bạch vệ ra khỏi Krym vào năm mười chín như thế nào. Bác Gritsenko là một chiến sĩ bắn súng máy rất dũng cảm. Còn khi ấy bố là cố nông, rồi gia nhập du kích. Bọn bạch vệ đã chiếm đóng Krym. Bọn bạch vệ ấy mà, con hiểu chứ? – Con biết rồi, bọn tư sản, tư bản chứ gì, – Volodia nhanh nhẹn giải thích rồi vội vã nói thêm: – Bọn keo kiệt… – Đúng, bọn phú nông, bọn địa chủ nữa. Còn những người vô sản, những người bần nông thì ủng hộ Chính quyền xô-viết. – Thế bố cũng là bần nông à? – Còn gì nữa. Bố đi làm thuê cho địa chủ, trong tay bố chẳng có gì hết – chẳng có cái chung, cũng chẳng có cái riêng. Con hiểu chứ? Bố chỉ có sức thanh niên thôi. Cái chung là toàn dân đều chung một suy nghĩ làm sao có được Chính quyền xô-viết. Và đội du kích của bố đi xuống mỏ đá và từ đó có tên là Du kích đỏ. Chắc con đã nghe thấy tên đó rồi chứ? Bọn bạch vệ tìm mọi cách đánh bật du kích ra khỏi mỏ nhưng không ăn thua. Du kích đã độn thổ, đã bám vào đá thì không ai làm gì nổi, chẳng khác gì những cây sồi đã bám rễ sâu vào đất. Tên nào ló vào là ăn đạn ngay. Du kích rất gian khổ, nhưng bọn chúng cũng ăn không ngon ngủ không yên. Ngư lôi hạm Anh đến và bắn vào mỏ đá. Trong một ngày chúng nã ba trăm trái đạn. Nhưng có ăn thua gì… Chỉ làm nát đá thôi. Mà anh em du kích của bố thì kiên cường hơn đá. Quả thật, có một lần, tình hình rất gay go. Chúng tấn công ồ ạt từ khắp các phía. Chính đó là lúc bố và bác Gritsenko bị đẩy lui vào cái giếng ấy đấy. Hai anh em tạm nghỉ, hút thuốc và bác Gritsenko bảo: “Ta khắc tên trên đá làm kỷ niệm đi. Sống chết lúc này cũng chưa biết thế nào.” Thế là bố lấy rìu đẽo chữ vào đá. Chữ nghĩa bố lúc ấy còn kém… Không chỗ nào viết sai chứ con? Khi ấy loại như bố chịu thiệt thòi nhiều… Bố nhớ có một lần… Anh thủy thủ do Nikifor phái đi đã dẫn bà Evdokia lên tàu. Bà dừng lại ngoài cửa lắng nghe. Bà đã tưởng chồng mình đang phạt con. Bà nghe thấy tiếng chồng nói to, nghe thấy từng tiếng gì ầm ầm trong buồng như tiếng nắm tay đấm xuống bàn. Bà không kìm được và gõ cửa. – Cứ vào! – ông Nikifor nói to và quay lại thì thấy vợ đang bước vào. – Em chờ một tí nhé… – Và ông vừa đấm tay xuống bàn vừa tiếp tục: – Thế là du kích tấn công chúng từ cánh trái – tằng - tằng - tằng!… Gượm hẵng, em chờ một phút thôi, anh đang kể cho Volodia nghe về năm mười chín… – Mẹ để yên cho bố kể, mẹ… – Volodia thầm thì, vẻ bồn chồn. Cặp mắt em sáng rực lên. Em đứng trên ghế và khoái trá nghe bố kể. Chương IV NHỮNG BÀI HỌC VỠ LÒNG Volodia nghĩ mãi mà không quyết định được sau này lớn lên sẽ làm gì. Mới đây thôi em mơ ước trở thành bác sĩ. Rồi cũng như nhiều bạn nhỏ cùng lứa tuổi với em thời đó, em quyết định sẽ trở thành nhà thám hiểm Bắc cực và tàu em sẽ bơi trên mặt băng dưới lá cờ đỏ. Chẳng bao lâu sau em lại dự định trở thành chiến sĩ biên phòng, sẽ chiến đấu chống bọn quân phiệt Nhật ở Viễn Đông. Rồi em lại mơ ước được lái máy bay cánh đỏ, lập kỷ lục bay xa liên tục không cần hạ cánh. Thế nhưng sau khi xem phim “Chapaev” sáu lần liền, em lại bắt đầu chuẩn bị đi bộ đội: em tưởng tượng đống củi là ngựa, em phi “ngựa” khắp sân và vừa phi vừa vung chiếc kiếm gỗ chặt “băng đầu” những tên địch tưởng tượng. Khi em đến Murmansk với mẹ và được đi thăm chiếc tàu lớn của bố, thì mơ ước trở thành thủy thủ lại che mờ tất cả các mơ ước khác. Mà không phải chỉ là thủy thủ thôi đâu, nhất định phải làm thợ máy trên một con tàu lớn như tàu “Leonid Krasin”. Mặc dù xảy ra cái chuyện hơi nước thật là bực mình kia, nhưng dẫu sao tự tay em cũng đã động vào được một trong những điều bí mật thuộc cái cơ ngơi ghê gớm của bác Viliuy; và dù cho là vô tình chăng nữa chính em đã kích động được sức mạnh tiềm tàng ẩn giấu trong máy móc. Volodia ở lại miền Bắc suốt mùa hè. Lúc đầu hai mẹ con sống ở Murmansk rồi sau chuyển đến Arkhangelsk và định viết thư gọi Valia đến đấy. Nhưng Valia bị ốm mãi chưa khỏi; hơn nữa bác sĩ lại cấm không cho lên miền Bắc lạnh lẽo. Do đó mọi người quyết định là sang thu, hai mẹ con sẽ trở về Kerch. """