"Đuốc Lá Dừa - Hoài Anh full mobi pdf epub azw3 [Thiếu Nhi] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đuốc Lá Dừa - Hoài Anh full mobi pdf epub azw3 [Thiếu Nhi] Ebooks Nhóm Zalo ĐUỐC LÁ DỪA Tác giả: Hoài Anh Thể loại: Tiểu thuyết Nhà xuất bản: Trẻ I T rời tờ mờ sáng. Trong màn sương trắng đục hiện rõ dần một đoàn tàu chiến Lang-Sa1*tiến dần vào sông Bến Nghé. Những thiết giáp hạm lớn với nhiều lớp buồm chằng chịt dây neo, cột buồm đầu tàu treo cờ ba sắc, thân tàu sơn nhiều màu đề những chữ Phlê-giê-tông, A-lác-mơ, Pri- mô ghê và A-va-lăng-xơ, tiếp đến những tàu hơi chân vịt La Đra-gon-nơ, En Ca-nô, Prê-giăng… Hơi sương lờ mờ quyện với làn khói đen đặc nhả từ đầu ống khói thấp lè tè làm nhòa một góc trời. Tới trước bến Thành, cả đoàn tàu dừng lại. Bỗng trên chiến hạm Phlê giê-tông nhốn nháo, một đám đông sĩ quan mũ lưỡi trai thêu kim tuyến, áo trắng khuy vàng đứng xúm xít quanh tên chỉ huy đội mũ ba sừng, nhung phục xanh lá mạ, đeo ngù vai, đi ghệt, bên sườn đeo một thanh kiếm ngắn. Đó là tên đô đốc Ri-gô đờ Giơ-nui-i. Ri-gô đưa ống nhòm lên. Qua lớp kính, thành Gia Định hiện ra, chỉ cách bờ sông khoảng tám trăm thước, bốn mặt đều đặt trọng pháo. Thành xây đá ong, vuông vức, nhưng khuất sau một dốc đất lớn nên từ ngoài sông nhìn vào chỉ thấy cửa thành và cột cờ nhô ra cao vượt rặng cây và những dãy nhà cửa, vườn tược chạy dọc bờ sông. Ri-gô hạ ống nhòm quay lại thì thầm với một người đội mũ ba cạnh, áo dài đen, đó là viên thừa sai Lơ-phép-vrơ thông thạo địa dư, chữ Nho và tiếng Việt làm hướng đạo cho hắn. Bỗng hiệu cờ Đô đốc được kéo lên đỉnh cột buồm tàu Plê-giê-tông. Một hồi kèn vang lên the thé. Chiếc A-lác-mơ dẫn đầu hai chiến hạm Pri-mô ghê và A-va-lăng-xơ, vượt qua chiếc Phlê-giê-tông. Những lính thủy đội mũ vải có dải, áo cổ bẻ trắng sọc xanh biển lùi cả xuống, rồi những pháo thủ áo dạ lính dài chấm gối, vai đeo cuộn chăn, quần nẹp đỏ, giày xăng đá hùng hổ chạy lên. Tàu chiến dàn hai hàng, hàng trăm khẩu đại bác đều chĩa nòng vào thành. Nghe tin cấp báo, quan hộ đốc Gia Định Võ Duy Ninh lật đật trèo lên vọng lầu nhìn xuống đã thấy từ các tàu giặc, đại bác tập trung bắn vào thành, mỗi lúc một dữ dội. Võ Duy Ninh vội truyền lệnh cho quân sĩ bắn trả. Được tin mấy bữa trước Lang-Sa đem một số quân hùng hậu đánh phá Vũng Tàu và cửa Cần Giờ, Võ Duy Ninh một mặt báo về Huế việc đó, một mặt thông tư đi các tỉnh lấy thêm quân tăng cường cho Gia Định. Nhưng quân các tỉnh chưa về kịp thì giặc đã nổ súng. Vì thiếu chuẩn bị, nên quân ta đối phó rất lúng túng. Đại bác ta bắn phần nhiều rớt ra ngoài đích, chỉ trúng cột buồm, không bắn chìm được tàu địch. Trái lại địch đóng vai chủ động, tha hồ ngắm kỹ các mục tiêu, đạn của chúng phá hủy được rất nhiều cơ sở quan trọng của ta trong thành. Hỏa lực của giặc mỗi lúc mạnh thêm thì bên ta mỗi lúc yếu dần. Chẳng bao lâu, súng trong thành im bặt, riêng pháo đài phía Nam còn tiếp tục. Tuy vậy trọn một ngày đầu giao chiến, giặc vẫn chưa hiểu lực lượng ta ra sao nên chưa dám hãm thành. Nhưng hôm sau, nhờ sự do thám của tên Giô-rê ghi-be-ry và sự chỉ dẫn của tên Lơ-phép-vrơ, Ri-gô nắm vững được tình thế Gia Định. Rạng ngày hôm sau, Ri-gô để một số quân giữ tàu còn bao nhiêu cho đổ bộ hết. Cánh bên trái gồm hai đạo thủy quân lục chiến và những đại đội của tàu Phlê-giê-tông, Pri-mô-ghê và En-ca- nô đánh vào mặt Nam là nơi bên ta bố trí nhiều đại bác vì gần bến tàu nhất. Tên đại úy Ga-li-ma và toán công binh đi theo cánh quân này để nổ mìn các cửa thành, mở lối tiến quân. Một đội lính Y Pha Nho do tên trung tá Pa-lăng-ca chỉ huy cũng được cử làm lực lượng dự bị cho cánh quân này. Cánh bên phải do tên đại tá Lăng-da-rốt-tơ chỉ huy gồm đơn vị còn lại lính Y Pha Nho và nửa tiểu đoàn lính thủy phải xuống bộ tiến vào chân thành cửa Bắc, phía rạch Thị Nghè. Một tiểu đoàn còn lại để dự bị ở bờ sông do tên trung tá Rây-bô chỉ huy. Cùng một lúc, súng đồng từ trên tàu và ô-buy của các toán đổ bộ bắn rất rát. Thành Gia Định mù mịt dưới làn mưa đạn, nhiều chỗ bị sụp đổ. Một tiểu đội cảm tử do tên thiếu tá Đờ Pa-li-rơ chỉ huy liền kéo đến pháo đài và bắn vào đó dữ dội. Giặc nhân những chỗ thành bị phá, cố đặt thang leo lên. Chúng vượt được mặt thành, hò reo ầm ĩ: Hoàng đế vạn tuế2*. Võ Duy Ninh đứng trên mặt thành đích thân chỉ huy cuộc kháng cự, hò hét ba quân một cách tuyệt vọng. Quân ta phản công mạnh vào cánh phải của địch tiến dọc theo rạch Thị Nghè. Nhờ có lực lượng tiếp viện đông, giặc đã đẩy quân ta về phía bên kia rạch. Thủy quân lục chiến Lang-Sa mở được cửa thành, theo lệnh của tên thiếu tá Bờ-rét-xanh, đoàn này liên lạc với đội quân tiên phong tiến vào hồi mười giờ sáng. Thấy tình hình nguy ngập, Võ Duy Ninh ra lệnh rút quân, bỏ lại trong thành hai trăm súng đại bác bằng đồng, bằng gang, hai mươi ngàn súng tay, giáo, gươm, tám mươi lăm tấn thuốc súng và một số lúa gạo đủ nuôi hàng vạn quân trong cả năm, chín chiến thuyền đã và đương đóng ở ụ đóng tàu trên rạch Thị nghè. Tính tất cả theo thời giá là hai mươi triệu quan. Bước vào xưởng thủy quân trong thành là nơi đặt tổng hành dinh, Ri-gô thầm nghĩ: chủ trương đem quân đánh úp Gia Định trong lúc người Việt không phòng bị là rất đúng. Lần trước Ri-gô đem tàu chiến đánh cửa Đà Nẵng đã từng bị Nguyễn Tri Phương đem quân bao vây đánh tỉa, tiêu diệt được khá nhiều lính Lang-Sa, đến nỗi suốt năm tháng giao tranh, Ri-gô không dám kéo quân lên đánh kinh đô Huế và đành lủi thủi rút tàn quân về. Trong bản tường trình gởi về chính quốc, Ri-gô đã bắt buộc phải nói lên một phần sự thật: “Chính phủ bị lừa về bản chất của cuộc đi lấy nước Nam Kỳ, người ta trình bày rằng cuộc viễn chinh này chỉ là một việc dễ dàng thôi, nhỏ bé thôi! Thật ra nó không dễ, cũng không nhỏ… Người ta mật báo rằng quân đội Việt Nam không có gì, sự thật thì quân chính quy rất đông, còn dân quân thì gồm tất cả những người dân nào không đau ốm và không tàn tật”. Nhìn lá cờ ba sắc bay phấp phới trên nóc cột cờ, Ri-gô xoa tay đắc ý. Phải chăng ngôi sao chiếu mệnh của y đã bắt đầu sáng tỏ từ trên bầu trời thành Gia Định này? Nghe tiếng súng Tây nổ dữ dội phía thành, bà Tú Chiểu hớt hải từ chợ Cầu Kho chạy về, nói với ông Tú: - Ông ơi, chợ đang đông thì có tin Tây nó đánh thành, thế là ở chợ, người ta dẫm lên nhau mà chạy, quang gánh thúng mủng đổ tung toé cả. Bây giờ già trẻ lớn bé đang bồng bế, dắt dìu nhau chạy loạn, còn nhà ta thì ông tính thế nào? Ông Tú Chiểu ngẫm nghĩ một hồi: - Nhà hãy cho sắp nhỏ chạy về quê ngoại bên Cần Giuộc để tạm tránh tên bay đạn lạc đi đã… - Thế còn ông? Đôi mắt đục lờ của ông Tú như nhìn về xa xăm: - Còn tôi thì phải ở lại cùng trai tráng chặn giặc. Lúc đất nước nguy vong mà trốn tránh nghĩa vụ, bỏ đi nơi khác yên thân, sao cho phải! Bà Tú nằn nì: - Giá như người ta mắt sáng thì không nói làm gì, đằng này ông… Lời ông Tú vang lên rắn rỏi như át cả tiếng súng vẫn nổ rền từng chặp: - Tôi mắt kém thật nhưng sức vẫn còn mạnh, có ở lại cũng không sao. Hỏng mắt nhưng còn miệng, vẫn có thể dóng dả bà con đứng lên chống giặc. Nhà cứ yên tâm mà đi không phải lo chi hết. Đã có bọn học trò lớn tuổi chăm nom săn sóc tôi là đủ rồi. nhà và sắp nhỏ mới cần tạm lánh chớ! Bà Tú kiên quyết: - Nếu ông không đi thì tôi cũng nhất quyết ở lại đây, có chết thì cũng chết chớ không đi đâu hết! Ông Tú ôn tồn: - Nhà nên nhớ là nhà đang mang bầu, ở lại rủi tiếng súng đạn làm kinh động đến thai nhi! Ý tôi đã quyết rồi! Nhà phải nghe tôi một chút chớ! Bà Tú ngồi xệp xuống ván, không chịu đi. Ông Tú khuyên. - Nhà còn có tránh nhiệm lớn trong việc nuôi dạy các con nên người, không phải vì một lúc vụng suy mà tính chuyện liều lĩnh được. Cứ thu xếp cho các con đi trước, tôi ở lại ít bữa coi tình thế ra sao rồi sẽ sang bên ấy với nhà và các con. Bà Tú gạt nước mắt: - Nếu vậy tôi đi trước, sang tới bển tôi sẽ cậy anh Hai tới rước ông cùng sang luôn. Bà Tú đưa các con đi rồi, ông Tú sai học trò dẫn đi thăm những người tai mắt trong vùng hỏi thăm tin tức. Ông được biết khi chiến thuyền nhỏ của giặc vào con rạch từ Xóm Chiếu đi Xóm Củi, chúng nhổ cọc, phá cản rồi đem quân vào chiếm đóng chùa Cây Mai, tại Gia Định, chúng lập đồn ở gần sông. Chiếm xong Trường Thi,, chúng lập một phòng tuyến ngoại vi từ chùa Khải Tường gần Trường Thi vào tới chùa Cây Mai, đền Hiển Trung ở Chợ Đũi và chùa Chợ Rẫy. Giặc vừa chiếm chùa Chợ Rẫy thì một ngàn quân ta do Đinh Bình Tâm cầm đầu xung phong đánh địch suốt đêm mồng ba rạng mùng bốn tháng bảy. Những người chí sĩ như Trần Thiện Chính trước là tri huyện bị triều đình cách chức và Lê Huy trước là quan võ bị thải hồi, tụ họp dân cũng được ngót sáu ngàn người, vận động bà con góp tiền, góp gạo cương quyết dánh giặc. Nhờ đạo nghĩa quân này yểm hộ mà Đề đốc Trần Trí đã an toàn rút quân về ụ Tây Thái. Dân chúng đã tự động đứng lên chống giặc, trong khi đó thì các quan lớn như Bố chánh Vũ Thục, Lãnh binh Tôn Thất Năng bỏ thành chạy dài. Hộ đốc Võ Duy Ninh chạy vào huyện Phước Lộc thắt cổ ở thôn Phước Lý, An sát Lê Từ cũng tự vẫn ở đó… Chứng kiến một chuỗi tự sát của những bầy tôi bất lực của triều đình bất lực, Tú Chiểu ngậm ngùi: - Thiệt là mỉa mai! Bầy tôi chỉ biết lấy cái chết để chuộc tội với vua, mà không thấy trách nhiệm với dân với nước. Trong khi đó những người dân thường không được hưởng lộc vua, thì lại biết đem thân ra giữ nước! Nghe nói trong triều lúc này chỉ có quan kinh lược Nguyễn Tri Phương là người khá, không hiểu ngài có phương cách gì cứu nguy cho đất nước không? * Tiếng pháo giao thừa nổ lẹt đẹt như chiếu lệ rồi đứt quãng, thỉnh thoảng lại dội lên vài tiếng lạch tạch lạc lõng. Năm nay vì quân Lang-Sa đang đóng trong thành Gia Định, nên mùa xuân chừng như cũng ngại ngùng không muốn bước sang. Ánh bạch lạp lấp lánh trên những đồ lộ bộ3* rọi leo lét trên mặt án, trải rộng tờ sắc chỉ màu vàng lợt nổi hàng chữ son phê của vua Tự Đức: “Khanh cứ cố thủ, chờ giặc mệt mỏi tất phải giảng hòa. Đừng nên khinh động e sinh nhiều chuyện”. Những dòng chữ bỗng như nhạt nhòa rồi chập chờn nhảy múa trước đôi mắt già của quan Tổng thống quân vụ Nguyễn Tri Phương. Cố thủ! Thì lúc nào ông chẳng lo thủ, nhưng thủ là để chờ cơ hội chiến, chứ không phải là hòa. Được cử vào Gia Định, việc đầu tiên của ông là củng cố lại đồn lũy cũ của Tham tán quân vụ Tôn Thất Hiệp dựng lên sau khi thành mất. Ngoài đồn Tiền, đồn Tả, đồn Hữu do Tôn Thất Hiệp lập ở phần đất làng Phú Thọ, ông Nguyễn còn xây dựng cả một hệ thống Đại đồn, đắp lũy đất dày cỡ bảy thước rưỡi ta, cao cỡ bảy thước ta, ngang hơn hai trăm trượng, dài bảy trăm năm mươi trượng từ Chí Hòa xuống Bình Thới, từ Chí Hòa xuống khỏi Phú Nhuận, án ngữ phía tây thành Gia Định. Đồn tiền duyên cách các đồn mới Lang-Sa từ hai trăm năm mươi đến bốn trăm năm mươi trượng, để tránh nỗi nguy hiểm của đại bác từ tàu giặc bắn vào. Doanh trại lớn, nơi ông Nguyễn trú đóng, gọi là đồn Trung, lại có xây thêm đồn Tả Hậu, Hữu Hậu. Trong đồn chia làm năm khu, khu này ngăn cách với khu kia bằng đường đất, vách đá có cửa, phòng địch vào tới nơi này thì nơi kia vẫn giao chiến được. Mặt Đông Bắc tức mặt tiền cách đồn giặc tám dặm, thì chắc hơn là mặt hậu, phía Tây Nam. Từ Đại đồn xuống, hướng về vị trí đồn Cây Mai của địch, ông cho đào đắp một dải chiến hào, chiến lũy và xây đồn trại làm chỗ dựa. Lại một dải chiến hào, chiến lũy khác đi từ Đại đồn hướng về phía sông Thị Nghè, nơi tàu chiến giặc đậu. Cách Đại đồn gần tám trăm trượng về phía đằng sau thì có đồn Thuận Kiều là nơi chứa quân lương, quân dụng trên con đường đi Hốc Môn, Tây Ninh. Bên cạnh những pháo đài kiên cố ấy còn có những đường hầm dài hơn hai mươi dặm, pháo đài nào, hầm lũy ấy, đủ binh lính canh phòng, đủ chỗ ẩn nấp cho họ. Thành lũy của Nguyễn Tri Phương dựng mau như nấm mọc, hễ chỗ nào có một lối đi là có ngay một chiến lũy ngăn cản. Chỗ nào quân ông đến thì thành lũy liền sẵn sàng để quân ông núp bắn. Muốn cắt đứt đường giao thông của Lang-Sa, ông không quên những điểm then chốt trên các đường đi Cao Miên, về Huế, sang Định Tường và dọc theo sông Đồng Nai, Mới chiều nay, Nguyễn Tri Phương cùng viên tùy tướng Trần Nhượng cưỡi ngựa đi thị sát chung quanh khu vực trung tâm của Đại đồn trên phần đất làng Chí Hòa. Dọc theo lũy, rải rác nhiều chòi trông xa cất cheo leo trên ngọn cây cổ thụ giống như những tổ chim đại bàng. Vách thành làm bằng đất sét và đá ong, cao chín thước ta, dày năm thước ta, có lỗ châu mai nằm khít nhau để nã súng đại bác, ném đá hoặc phóng các chất dẫn hỏa. Đại bác nhiều cỡ lớn nhỏ, súng bắn đá, súng trường lớn được đặt ở đây. Ngoài vách thành có rào tre nhọn, chướng ngại vật treo ngang dọc, từng bụi gai bao trùm tất cả bề dài các bức tường, những cây tre được gài khéo léo để khi cần có thể bật thẳng vào quân địch. Nào hố chữ phẩm cắm chông tre, nào ụ đất, nào hào đầy nước, những cạm bẫy đó rải hàng mấy trăm thước từ chân thành trở ra. Nhìn cảnh tượng hùng vĩ trước mắt, Nguyễn Tri Phương hứng khởi nói với Trần Nhượng: - Ngươi nhìn coi, hình thế Đại đồn có phải giống như cái thân của một lực sĩ mà hai dải chiến hào như hai cánh tay dang ra ôm lấy Sài Gòn hay không? Với cái thế này, thừa sức hất giặc đổ xuống sông Bến Nghé. Lúc này, ông đang tính toán một nước cờ quyết định. Vì biết quân Lang-Sa phải chia một số binh lực sang hợp sức với quân Hồng mao4* đánh nhau với nhà Thanh, ông Nguyễn đã dâng sớ xin vua cho đánh dốc một trận, quét sạch quân Lang-Sa trong các đồn Cây Mai, chùa Kiến Khương, đền Hiển Trung. Nhưng Tự Đức chần chừ không chịu quyết, cuối cùng ban lệnh cho ông không được đánh, phải cố thủ để chờ dịp điều đình. Nguyễn Tri Phương thở dài. Lang-Sa đang phân tán quân sang Tàu, cơ hội nghìn năm có một, không thừa dịp nắm lấy, thật uổng. Ông buồn rầu, khi thấy trong số những kẻ chủ hòa lại có cả người bạn thân nhất của ông: Phan Thanh Giản. Không ai chối cãi được rằng Phan là một người ngay thẳng và trong sạch. Ông Nguyễn còn mến Phan ở chỗ trung hậu, chí tình với bạn, nhất là thơ rất hay. Nhiều bài thơ của Phan, ông Nguyễn thuộc lòng, thỉnh thoảng lại ngâm nga và nhiều lúc phải buột miệng khen vì lời thơ tự nhiên thanh thoát mà đầy tình cảm chân thành. Người làm sao thì thơ làm vậy. Phan lên bảy tuổi thì mất mẹ. Cha Phan – Phan Văn Ngạn, tức ông thầy ở Gảnh Mù U – cưới vợ khác. Phan đối xử với bà mẹ mẹ ghẻ rất hiếu thuận, khiến mẹ ghẻ cũng phải động lòng thương. Khi Phan tới học với ông thầy chùa ở làng Phú Ngãi, một tháng bà mẹ ghẻ phát cho Phan ba chục tô gạo và ba chục con mắm, thì Phan cũng giữ để ăn cho đủ mà học. Vì có tính cương cường, ngay thẳng, không tham lam của dân, lại chẳng hay bợ đỡ quan trên nên cha Phan khi làm thủ hạp tại nhà tơ tỉnh Vĩnh Long, bị quan trên kiếm chuyện nói là để dân thiếu thuế mà không thâu, bị bắt giam tới ba năm, rồi bị cách chức và bị phạt tù một năm. Khi cha Phan bị tù ở Vĩnh Long, thì Phan được hai mươi tuổi, nhà nghèo lắm, song một mình Phan ngoài lo nuôi cha- mỗi ngày vào nhà giam làm thế công việc cho cha – xong lại coi sóc việc gia đình. Lúc cha Phan đau yếu thì ngày đêm Phan lại ở trong khám hầu hạ cơm thuốc, quên sự đói lạnh. Lòng hiếu của Phan đã khiến quan Hiệp trấn Lương phải cảm thương, can thiệp cho cha Phan được sớm mãn hạn tù, lại cho Phan vào trường tỉnh học và cho sách vở, dạy Phan học thêm. Khoa Ất Dậu, Minh Mạng thứ sáu, Phan đậu cử nhân ở trường thi Gia Định, rồi cưới vợ họ Lê ở làng Long Hồ, Vĩnh Long để ở nhà hầu hạ cha, cho mình yên lòng ra Huế thi Hội. Không phải chỉ khi chưa đậu nhà mới nghèo khó, mà sau khi đậu tiến sĩ, làm quan đến tột phẩm, nhà Phan vẫn thanh bạch như lúc hàn vi. Một người tài năng, đạo đức như vậy, kể trên đời cũng hiếm. Vậy mà đứng trước những giờ khắc gay go nhất của lịch sử, Phan lại có những nhận định mơ hồ, lầm lẫn. Trong bản điều trần dâng vua, Phan viết: “Súng đạn và chiến hạm của Tây rất tinh xảo. Họ lại thạo về môn thủy chiến. Vì vậy, ta không mong thắng được họ lúc này. Ta phải dốc toàn lực vào công cuộc phòng thủ bờ cõi. Bao giờ ta đầy đủ về mọi mặt, chừng ấy ta hãy bàn nên chiến hay nên hòa. Nếu ta không đủ lực lượng phòng bị thì đừng mong khai chiến hay nghị hòa với họ”. Ngay buổi chầu hôm đó, ông Nguyễn đã công kích kịch liệt chủ trương của bạn nói là phải chờ đợi chuẩn bị lực lượng, nhưng kỳ thực là để che giấu ý định cầu hòa, lùi bước trước lũ giặc. Bị mất mặt trước vua và các đình thần, Phan sinh ra bất hòa với Nguyễn Tri Phương, dù sao trong thâm tâm ông Nguyễn vẫn lấy làm tiếc về chuyện đó. Tiếng trống cầm canh ở vọng lâu khiến Nguyễn Tri Phương giật mình ngước nhìn lên. Chiếc độc bình lớn giữa nhà vẫn trống trơn. Mọi năm trước, mỗi lần đón xuân, ông lại sai chặt một cành bạch mai ở trong chùa Cây Mai đem về cắm bình. Ông không thích hoàng mai vì hoàng mai sắc đẹp nhưng không có hương thơm như bạch mai. Ở Gia Định, bạch mai chỉ chùa Cây Mai và chùa Gò mới có, mà hai nơi ấy đều nằm trong vùng giặc đóng, thì lấy đâu ra bạch mai thưởng xuân này. Thật đau lòng khi thấy không những dân lành bị hãm trong lưới giặc mà cả bạch mai cũng bị giam cầm, xuân này lại phải nở hoa trong tầm súng giặc. Nhớ lại lần cùng Phan Thanh Giản tới thăm chùa Cây Mai, thấy bảy cây bạch mai đẹp quá, ông Nguyễn đã truyền dựng một tòa lương đình có gác cao, để ngồi trên đó thưởng mai. Tòa lương đình, mái ngói ống xanh, hai đầu cong như đuôi én, dưới có lan can chạm vẽ, cửa sổ chấn song con tiện, có thể nhìn ra ngoài. Trên bức hoành trước mặt, có đề hai chữ Mai đình, nét chữ xương kính, do chính tay Phan Thanh Giản đề. Khi khánh thành lương đài, cũng vào dịp đầu xuân Đinh Tỵ5* Nguyễn Tri Phương mời Phan Thanh Giản tới thưởng mai. Chưa vội bước lên đài, ông Nguyễn tới bên gò đất cao ngắm kỹ từng gốc mai. Mấy cội bạch mai cành lá sum suê, đâm những bông trắng muốt, cạnh đó là những nụ hoa vừa hé, đầy vẻ e ấp. Ông cười, nói với bạn: - Tôi suốt một đời long đong lật đật, không có lúc nào thanh nhàn mà thưởng hoa, nên sáu chục tuổi đầu mới có thì giờ ngắm kỹ một gốc mai. Cứ nhìn qua, ngoài màu sắc ra, khó mà phân biệt được bạch mai khác hoàng mai chỗ nào. Phan Thanh Giản lắc đầu: - Khác nhau nhiều chớ. Hoàng mai có từ mười cánh hoa, bạch mai chỉ có bốn cánh và hai tai hoa. Bạch mai hoa không lớn bằng hoàng mai, chỉ nhỏ bằng hột nút áo, nụ hoa tròn như hạt tiêu. Hoàng mai đâm bông phần nhiều ở ngọn và cuối cành, còn bạch mai thì đâm bông ngay thân cây, ở nách cây hoặc ở những u. Lá hoàng mai mỏng, lá bạch mai dày, trơn láng và xanh hơn… Nguyễn Tri Phương gật gù: - Bác hiểu về mai, hẳn là yêu mai lắm, hèn chi bác lấy hiệu là Mai Khê cũng phải. Phan Thanh Giản cười: - Ấy nhiều người cứ quen với chữ: cúc, trúc, lan, mai nên ngỡ hiệu Mai Khê của tôi lấy chữ mai trong mai hoa. Nhưng Mai Khê đây lại có nghĩa là Gảnh Mù U. cây mù u vì thân sần sùi giống cây mai nên người ta kêu là nam mai. Quê tôi ở Gảnh Mù U nên mới lấy hiệu Mai Khê, có vậy thôi. Nguyễn Tri Phương chợt nhớ: - Hèn nào hồi tôi ở Kinh tới thăm Tùng Thiện Vương, Vương có đọc cho tôi nghe câu thơ của viên hành tẩu Cao Bá Quát: “Ngoảnh lại Hải Vân không với tới, ròng ròng nhỏ lệ nhớ nam mai” và khen người làm thơ là từng trải, biết cả tên cây mù u trong Nam. Còn tôi thú thực không phân biệt được các giống mai khác nhau thế nào… Phan Thanh Giản khẽ vuốt chòm râu bạc, từ tốn: - Bác nửa đời ở Kinh lại ra Bắc, mà ngoài Bắc chỉ có giống Bắc mai, hoa cũng trắng nhưng nhỏ lại nở thành trái mơ, không giống bạch mai ở trong này, nên ít khi được ngắm bạch mai cũng phải. Ngay ở trong Nam cũng chỉ mấy nơi có bạch mai, như Bình San Hà Tiên, núi Điện Bà Tây Ninh, đình Phú Tự Bến Tre, còn ở Gia Định thì chỉ riêng chùa Gò và chùa Cây Mai. Cũng may quê tôi ở Bến Tre, nên từ nhỏ đã được ngắm bạch mai ở đình Phú Tự. Còn mai ở chùa Cây Mai tôi đã nhiều dịp thưởng thức cùng các danh sĩ trong Bạch mai thi xã… - Bạch mai thi xã… Họp mặt các thi nhân uống rượu thưởng mai rồi vịnh thơ cũng là cái thú tao nhã. Chỉ tiếc tôi không lúc nào nhàn rỗi để tiêu khiển, di dưỡng tính tình…Trong Thi xã có những ai vậy bác? - Trong số quan thì có ông Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa, ông Án sát Huỳnh Mẫn Đạt, ông Hàn lâm Nguyễn Thông… còn những người trẻ tuổi thì có cử nhân Phan Văn Trị, Ấm sinh Tôn Thọ Tường… Nguyễn Tri Phương hơi cau mày: - Tôn Thọ Tường nào? Có phải con trai ông Tuần phủ Thuận Khánh Tôn Thọ Đức không? - Chính đó. Hồi nhỏ Tường mới xuất thân, đã bị triều đình bắt tội vì làm bài mướn cho học trò đi thi. Tường bị giải vô kinh, khi đó tôi đang ngồi Bộ Lại, Tường cậy người chuyển tới dinh một bài thơ trần tình, trong có câu: “Vì nhà túng rối nên quyền biến. Phép nước răn he há dám khinh. Gió bụi đất từng quen với mặt, Nắng mưa trời có thấu cho mình”. Thấy Tường thơ hay, tôi thương tình xin Ngài Ngự tha cho y. - Quyền biến… Làm chuyện phi pháp mà cũng là quyền biến à? Thơ hay nhưng khí cục tầm thường… Trong Thi xã còn có ai nữa? - Có lần tôi thấy một ông thầy ở Bình Dương, tên Nguyễn Đình Chiểu thì phải, sở dĩ tôi chú ý bởi ông đui mà làm thơ rất hay, tuy so với người khác thì ổng ở bậc thấp bởi đậu có tú tài. Có điều ông chỉ chuyên làm thơ nôm mà tôi thì ưa nôm nên có cảm tình ngay khi mới gặp. Mấy câu lục bát vịnh mai của Tú Chiểu có cái khí rất mạnh, tôi còn nhớ tới bây giờ: Hữu tình thay ngọn gió đông. Cành mai nở nhụy, lá tòng reo vang. Nguyễn Tri Phương gật gù: - Nghe được cả tiếng lá tòng reo vang, đúng là người sức nhìn kém thì sức nghe càng mạnh. Đành rằng nếu thầy Chiểu không bị đui thì không phải chỉ đậu có tú tài mà bảng nhỡn thám hoa cũng nên. Nhưng khoa bảng mà làm gì nếu con người không có kiến thức sâu rộng cũng như từng trải sự đời. Gia thế thầy Tú Chiểu thế nào, bác? - Thân sinh thầy Chiểu là ông Nguyễn Đình Huy, gốc ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên… - Ủa, vậy ra cũng đồng hương với tôi… - Vâng, ông Huy được bổ làm thơ lại ở văn hàn ty, theo Lê Tả quân6* vô Sài Gòn, lấy bà thứ ở làng Tân Thới sinh thầy Chiểu. Tới khi Ngụy Khôi nổi lên đánh chiếm Gia Định, thầy Chiểu theo cha về Thừa Thiên và được gửi trọ học với người bạn của cha làm chức Thái phó suốt tám năm. Năm hăm hai tuổi, thầy Chiểu trở về quê mẹ và thi đậu tú tài tại trường Gia Định. Năm sau, thầy lên Kinh chờ khoa thi hội, gần tới kỳ thi thì được tin mẹ chết từ tháng chạp năm trước. Thầy vội rời kinh trở về Gia Định. Lúc ấy mới cuối tháng giêng mà tới tháng tư mới có chuyến ghe bầu về Nam nên thầy đành phải đi bộ. Đường trường vất vả lại nhân nỗi đau thương, thầy tự nhiên nhuốm bịnh. Bịnh mỗi ngày một trầm trọng nên thầy phải ở đậu tại Quảng Nam để kiếm thầy chạy thuốc. Bị buộc chân ở đó, không trở về thủ hiếu được mà tiền lương cạn dần, thầy đâm ra buồn bực, càng động đến mối thương tâm, nên đêm ngày than khóc vì cớ đó sinh ra đau mắt nặng rồi đui. May sao khi đó gặp được ông thầy Trung vốn dòng ngự y, thương tình nuôi nấng và dạy cho nghề thuốc. Học xong, thầy Chiểu được người nhà đưa về Gia Định cư tang rồi sống trong cảnh trơ vơ thiếu thốn. Mãn tang, thầy mở trường dạy học để khuây khỏa tháng ngày, cũng để kiếm kế nuôi thân… - Cảnh ngộ thầy Chiểu éo le thiệt! Mà sao bác biết rành về thầy Chiểu như vậy? - Tôi bình sinh trót mắc cái tật mê thơ, nên bất kỳ ai dầu quan hay dân mà thơ hay là tôi đều làm quen hết! Thơ thầy Chiểu có cái lạ là đã khí phách mà viết cái chi cũng ngụ ý đui mù ở trong. Ngoài những câu đôn hậu như: “Sự đời thà khuất đôi tròng thịt. Lòng đạo xin tròn một tấm gương” có cả những câu ngược ngạo: “Xe ngựa lao xao giữa cõi trần. Biết ai thiên tử biết ai thần”. Nguyễn Tri Phương hơi nhăn mặt vì lời lẽ phạm thượng của Tú Chiểu nhưng rồi lại cúi đầu ngẫm nghĩ. Ông nhớ lại bữa ông duyệt binh qua Đồng Tập Trận, còn nhìn thấy đất chỗ Mả ngụy sau mấy chục năm vẫn còn sình lên sụp xuống. Đó là nơi vua Minh Mạng sai chặt đầu ném thây chôn chung một huyệt cả thảy một ngàn một trăm ba mươi bảy người già trẻ lớn bé, đàn ông, đàn bà lộn lạo, khép vào tội theo giặc Khôi làm phản chống lại triều đình. Một người như thầy Chiểu đã từng chứng kiến việc Lê Văn Khôi nổi dậy giết Tổng đốc Nguyễn Văn Quế, bắt Bố chánh Bạch Xuân Nguyên đốt làm đuốc sống tế tả quân Duyệt, chiếm giữ thành Phiên An trong ba năm…hẳn có ý nghĩ khác ông về vua quan nhà Nguyễn, điều đó không lấy gì làm lạ. Nhưng dầu sao đi nữa những lời lẽ xẵng bạo ấy vẫn khó thể lọt tai một vị đại thần vốn rất mực trung quân. Bỗng một luồng gió ấm phảng phất. Một làn hương nhẹ thoảng qua, mơ hồ như có như không. Phan Thanh Giản hít một hơi dài như muốn thu lấy hương mai vào trong lòng, rồi đưa mắt nhìn xa như theo dõi áng hương tan loãng vào trong không gian: - Bác có cảm thấy hết mùi hương của bạch mai không? Mùi hương mai mơ hồ phảng phất nên người ta gọi là ám hương. Cũng vì trời càng lạnh thì càng thơm, nên còn gọi là lãnh hương. Tôi rất thích hai câu thơ của Lâm Bô đời Tống vịnh mai: Sơ ảnh hoành tà thủy thanh thiển, Ám hương phù động nguyệt hoàng hôn7* Thật không ai sướng hơn Lâm Bô, ông ấy về ẩn dật ở núi Cô Sơn tại Tây Hồ, thường tự cười mình cưới mai làm vợ, nuôi hạc làm con. Tôi chỉ ước sao sớm được hưu quan, lui về ẩn dật “Nghêu ngao vui thú yên hà, Mai là bạn cũ, hạc là người quen” như câu thơ của quan Cần chánh Nguyễn Du, đề vào cái đĩa sứ “mai hạc” cho lò gốm Hàng Châu, năm ngài đi sứ… Nguyễn Tri Phương cười: - Cái ông Lâm Bô nhà bác yêu mai dễ đã bằng cụ Lục Du chưa. Cụ ấy còn muốn hóa thân ra làm ngàn vạn để mỗi cây mai có một Phóng Ông kia mà… Hai người cùng cười. Phan Thanh Giản cất tiếng ngâm nga hai câu thơ Lục Du: “Hà phương khả hóa thân thiên vạn. Nhất thụ mai hoa nhất Phóng Ông”. Giữa lúc đó nhà chùa cũng dâng lên hai ly trà nấu bằng gỗ mai. Nguyễn Tri Phương nhấp một ngụm. Hương sắc của hoa, vị thanh đạm của trà, quyện với tiếng ngâm thơ trong trẻo của người bạn, khiến ông thấy tâm trí lâng lâng. Ông tưởng như sống ngược lại với thời xưa, khi ấy trời đất mênh mông hơn bây giờ, những kẻ sĩ đi ngàn dặm chỉ cốt ghé thăm bạn trong một túp lều tranh, uống với nhau một tuần trà, hưởng cái thú “đối diện đàm tâm”8* để rồi sớm mai lại phất áo ra đi không hẹn ngày trở lại. Ly trà hồng mai đã thấm đượm một mùi vị triết lý, lại thêm tiếng kinh mõ đều đều từ Phật điện vẳng lên, càng gợi một không khí thoát tục. Tất cả như nhắc nhủ người ta không gì quý bằng chữ nhàn, tội gì lăn lộn trong đám hồng trần cho mệt. Ở đời đã mấy khi có dịp họp bạn thưởng hoa, không biết tận hưởng cái thú thanh cao này thật uổng. Dường như không chịu nổi cái không khí thanh tĩnh vô vi ấy, Nguyễn Tri Phương vụt cất tiếng nói to lên như là nói với chính mình: - Nhưng cụ Lục Du yêu mai đâu phải chỉ vì mùi hương mơ hồ phảng phất, mà yêu mai chính là khí tiết cương cường của nó. Tôi rất thích bài thơ mai của Lục Du: Tuyết ngược phong hào dũ lẫm nhiên, Hoa trung khí tiết tối cao kiên. Quá thì tự hợp phiêu linh khứ, Sỉ hướng Đông quân cánh khất liên. Túy chiết tàn mai nhất lưỡng chi, Bất phương đào lý tự phùng thì. Hướng lai băng tuyết ngưng nghiêm địa, Liệu cán xuân hồi cánh thị thùy,9* Giữa mùa đông khi trăm hoa đều tàn lụi thì chỉ có mai dám ngạo cùng gió tuyết, ra sức kéo mùa xuân sang, đến khi xuân sang, mặc cho đào lý gặp thời, mai thà rơi rụng chứ không chịu đến van nài chúa Xuân rủ lòng thuơng. Mai tượng trưng cho khí phách của người anh hùng, đúng như câu thơ của cụ Ức Trai Nguyễn Trãi đã vịnh: “ Càng thuở già càng cốt cách. Một phen giá một tinh thần”. Cái chí của tôi là muốn noi gương Ức Trai, mưu sự yên vui cho trăm họ, dân chưa yên thì không lòng nào lui về ẩn dật cho được. Phan Thanh Giản cười: - Hôm nay, chúng ta không uống rượu thanh mai, hà tất phải bắt chước Lưu Bị, Tào Tháo luận anh hùng. Nhưng bác nghĩ coi, nhiều khi cương cường quá chỉ tổ bị người đời ghét ghen, hãm hại. Như bác có công mộ dân khai khẩn đồn điền, cho phép các phạm nhân được ra thú tội, để đưa họ về con đường làm ăn lương thiện, vậy mà viên An sát Định Tường Vương Sĩ Kiệt còn mật tấu về kinh, nói tha tù nhân, mở mang hoang địa là sanh trộm cướp, giúp chúng có cơ hội trốn lánh, chờ dịp làm loạn sau nầy. Bác suýt mất đầu vì vụ đó, chưa tỉnh ngộ hay sao mà còn hăm hở ganh đua trong trường vật lộn như vậy? Nguyễn Tri Phương lắc đầu: - Không phải tôi chỉ nghĩ vì Nam Kỳ còn nhiều đất hoang, mà dân còn nghèo nên phải tính kế khai khẩn đồn điền, còn một ý khác là muốn dùng chánh sách ngụ binh ư nông, đưa cả binh lính tại ngũ về cùng dân làm ruộng, để khi tĩnh là dân, khi động là binh. Khai khẩn đồn điền cũng nhằm có lương thực nuôi quân sau nầy. Bác hẳn chẳng lạ gì, mùa thu vừa rồi, chiến hạm Tây đã cập bến Đà Nẵng và cửa Thuận An, ném lên bãi cát một bó thư, đòi cho chúng được tự do thông thương và truyền đạo. Đó chẳng qua là cái cớ để xâm chiếm nước ta mà thôi. Tôi chắc là cuộc giao tranh sắp sửa châm ngòi rồi. Sớm muộn thế nào những chiến hạm của chúng cũng còn kéo tới cửa biển nước ta lần nữa… Nguyễn Tri Phương như nóng ruột, đứng thẳng lên. Nhìn những chiếc ghe ngo đua thoăn thoắt từ đường nước quanh chùa ra kinh Vòng Thành rồi đổ ra Chợ Lớn, Nguyễn Tri Phương cảm khái: - Rồi đây đến cả những chiếc ghe kia cũng phải được huy động ra chặn tàu sắt vỏ đồng của giặc. Tầm mắt chiến lược cửa một vị tướng đã giúp Nguyễn Tri Phương nhìn thấy trước, từ đường nước này có thể thông ra rạch Bến Nghé và sông Thị Nghè bằng kinh Ruột Ngựa và rạch Lò Gốm. Chiến hạm Tây có thể từ cửa sông vào đến sát chùa Cây Mai nơi ông đang ngồi thưởng mai hôm nay. Từ trên đài cao, ông đưa mắt nhìn bốn chung quanh. Trên con đường rẽ vào cổng chùa, đàn ông áo the thâm, khăn nhiễu, dép da trâu, đàn bà áo tứ thân xẻ vạt, thắt lưng xanh, dép cong, tấp nập đi lễ chùa. Dưới dòng kinh, trên chiếc ghe, đoàn thủy trạo mình trần, vận khố, đồng loạt bỏ dầm xuống bơi xốc lên, cho ghe lướt bay trên mặt nước, trong những tiếng hô “ Hè”, “ bon”, tiếng phèng la cầm nhịp. Các mái dầm cùng lúc bổ xuống, móc nước lên trắng xóa, chói lòa dưới ánh mặt trời. Trên bờ, dân chúng đầu bới tóc, vấn khăn mỏ rìu, mình mặc áo vải ngắn tả nhiệm10*, cổ bâu cao, vận quần xô, thắt lưng xanh lớn bản, dùng để cuốn giữ trầu cau, thuốc rê, giấy bản bọc theo, chân trần, đứng chen chúc reo hò cổ vũ mỗi khi trông thấy ghe vượt mặt nhau. Nét mặt họ đầy vẻ hồn nhiên vô tư, chưa biết rằng một tai họa lớn lao sắp giáng xuống đầu họ, giặc Phú sớm muộn cũng kéo tới. Ở cương vị một đại tướng, Nguyễn Tri Phương phải nhìn thấy trước điều ấy, cũng như phải chịu trách nhiệm về sự yên nguy của trăm họ. Cũng như đứng trên đài cao có thể nhìn xa trông rộng, từ làn khói nhẹ bốc lên ở lò gốm bên rạch, lớp bụi đường cuốn theo bánh xe trâu, hình những người đánh đu ở chợ Tân Kiểng in trên nền trời xanh, ngọn cờ vàng lợt thêu rồng xanh trên nóc cột cờ thành Gia Định uốn éo trong gió xuân, cho tới đường nước trắng xóa như bạc dưới ánh mặt trời, từ đấy ăn thông ra biển, nơi chứa chất những bí mật, những tai họa khủng khiếp sắp nổ bùng ra. Nguyễn Tri Phương đã nhìn thấy trước từ phía ấy những đám mây vần vũ, những đám khói tàu chiến sắp bôi đen ngòm nền trời trắng đục. Gió thổi qua gốc mai khiến những chấm trắng rập rờn nghiêng ngả. Quyện với ánh nắng, hương mai càng nồng nàn hơn, ngây ngất hơn, nhưng Nguyễn Tri Phương tưởng chừng như phảng phất cả mùi thuốc súng khét lẹt. Buổi thưởng mai đầu xuân trở thành nặng nề vì không khí căng thẳng của quốc sự. Phan Thanh Giản cúi đầu lặng lẽ. Nguyễn Tri Phương tế nhị, an ủi bạn: - Bác cứ yên lòng, dù đầu chúng ta có bạc trắng như hoa mai, nhưng trong đời chắc còn nhiều lần được cùng nhau thưởng mai, bác hà tất phải quá ưu tư phiền muộn. Thế nhưng, chỉ một năm sau buổi thưởng mai, Nguyễn Tri Phương đã được triệu ra ngăn cản chiến hạm Tây khi chúng kéo vào đánh cửa Đà Nẵng. Hết Đà Nẵng lại đến Gia Định, cứ lao đao lo việc chống giặc mấy năm nay. Chùa Cây Mai, nơi hai người đến thưởng mai đã trở thành đất giặc từ khi giặc mới đặt chân lên đất Gia Định. Người bạn cùng thưởng mai đã trở thành kẻ đối lập về chính kiến. Phải chăng cái chí của hai người đã bộc lộ ra từ trong buổi thưởng mai năm trước. Bảo vệ tình bạn khỏi sứt mẻ sau những xung đột vì quốc sự có lẽ cũng khó khăn như bảo vệ những cây mai khỏi bị hủy hoại trong tầm súng đạn. Không biết bao giờ lại có dịp cùng bạn thưởng mai. Xuân này đã đành không có bạch mai, xuân sau biết có còn bạch mai nguyên vẹn ở chốn xưa chăng? Bỗng bên ngoài có một người bước vào. Và một giọng trong trẻo cất lên: - Năm mới xin kính chúc trưởng huynh xuân sắc mãn đường11* Nguyễn Tri Phương nhìn lên. Thì ra ông mải suy nghĩ, trời đã sáng lúc nào không biết. Ông niềm nở đáp lời người em ruột: - Cảm ơn chú Ba. Năm mới, anh cũng chúc chú giết được nhiều giặc và làm được nhiều thơ hay. Thế nào, đầu năm đã khai bút chưa? Nguyễn Duy - vì người đó chính là Tán lý quân vụ Nguyễn Duy, em ruột ông- khoan thai đáp: - Thưa huynh trưởng, sớm nay em định khai bút, chợt nhớ đến bài thơ của ông bạn Hy Tăng ở trong kinh gởi vào, trong có câu: “Cử mục Mai sơn thiên lý viễn, Kim triêu xuân sắc cánh hà như”12* bất giác xúc động quá, không đề nổi thơ, nên đến mừng tuổi trưởng huynh trước đã…- Nhìn chiếc độc bình không, Nguyễn Duy tiếp lời, giọng cảm khái- Thì ra cũng vì Mai sơn nằm trong tay giặc mà trưởng huynh năm nay không có bạch mai thưởng xuân… Nguyễn Tri Phương nhạy cảm, muốn xua đuổi cái buồn của Nguyễn Duy trong buổi tân xuân, ông cố kiếm một chuyện vui: - À chú Ba này, chú có biết tại sao ở Nam kỳ người ta lại ưa dùng mai để thưởng xuân không? Nguyễn Duy ngẫm nghĩ: - Hình như người ta theo phong tục Hàn Dũ tầm mai từ đời Đường thì phải… Nguyễn Tri Phương cười to: - Các ông nghè, ông cống như chú hễ nói là lại dẫn điển tích. Anh cho là nó không phải có nguồn gốc xa xưa như thế đâu. Tại người trong này nói đớt rồi lầm lộn “Mai” và “May”, “cây mai” và “cây lộc cầu may”. Anh đã từng nghe thấy một ông cử ưa nói: “May quá chừng!” “Mai phước cho tôi quá”. Kỳ thật ý ông muốn nói: “may quá chừng” và “May phước cho tôi quá”. Chính vì sự nói đớt đó mà người ta tin rằng nếu cắm cành mai thì sẽ rước vận may tới nhà. Hồi anh đi kinh lý ở Bến Tre, gặp dịp đầu xuân, một hương chức đã đem dâng một bó bông mù u còn búp, lá trụi lủi, bông trắng xóa, bảo đây là bông nam mai, cũng đem tới vận may như bạch mai! Hai người cùng cười, tiếng cười giòn tang như pháo Tết. Trong phút chốc, Nguyễn Duy như thấy mình sống lại cái thời thơ ấu, mặc áo dài hàng lam, quần đào xẻ đũng, đi hài đỏ, cổ đeo khánh bạc, làm nũng anh, bắt anh dẫn đi mừng tuổi họ hàng, để được những tấm phong bao giấy hồng điều…Chợt nhìn mái tóc bạc của người anh, Nguyễn Duy chợt nhớ đến thực tế, tuổi thơ đầy hoa bướm ấy đã một đi không trở lại. Ông hỏi anh: - Thưa trưởng huynh, cháu nó vào Kinh, chẳng hay việc tứ hôn của Ngài Ngự ra sao, xin trưởng huynh cho em biết… Nguyễn Tri Phương hơi nghiêm sắc mặt: - Ngài Ngự có lòng thương gả công chúa Đồng Xuân cho thằng Lâm nhà này. Nhưng vì Thái hậu Từ Dũ quá yêu con gái chưa muốn xa rời, lại thêm tuổi già lắm bệnh, muốn có công chúa hầu dưới gối. Vì vậy mà Tết này, cháu Lâm vẫn chưa thể vô Nam, vì ngài Ngự muốn đợi cho đến lúc yên bình mới cho công chúa 1àm lễ quy ninh… - Chắc cũng là ý Thái hậu sợ trong này đang giặc giã nên không muốn cho công chúa vô, Ngài Ngự vốn chí hiếu, Thái hậu dạy sao ngài chẳng tuân lời. Ngay cả việc nước mà Ngài Ngự còn chiều theo ý Thái hậu nữa là. Em từng được nghe quan Thượng Phan kể chuyện, chính Thái hậu đã nói với những người chủ chiến trong triều rằng: “Các ngươi muốn đánh, đánh rồi thì các ngươi định để mẹ con ta vào đâu?”. Thái hậu sợ nhất là đánh giặc Tây nó giận nó sẽ hủy hoại lăng mộ dòng họ Phạm nhà Ngài ở Gò Công và lăng mộ dòng họ Hồ của đức Thái hoàng Thái hậu ở Thủ Đức, nên mới khuyên Ngài Ngự cầm chân trưởng huynh không cho đánh đấy thôi. Muốn lấy lòng trưởng huynh và đánh lạc hướng chuyện chủ hòa, Thái hậu mới bày ra chuyện tứ hôn để che mắt thiên hạ… Nguyễn Tri Phương nhìn quanh, rồi vội suỵt: - Chú đừng nói như vậy, anh em ta ăn lộc triều đình đã lâu chớ nghĩ điều mạn thượng. Anh chỉ ái ngại cho chú, là quan văn trói gà không chặt, mà đến khi động dụng cũng đành phải “xếp bút nghiên theo việc đao cung”… - Thì chẳng qua vì mọi người cứ lấy nê là thời thái bình nên mới quen thói trọng văn khinh võ. Anh có nhớ câu thơ truyền là của một ông vua đứng ra phân xử giữa hai bên văn võ tranh giành nhau không nhỉ. Vua nhận là: “bên văn sang, bên võ cũng sang”, nhưng lại kết luận đầy thiên lệch: “Gặp lúc thái bình văn trước võ, võ đâu được sánh khách văn chương”… Hai anh em lại cùng cười, đầy vẻ tương đắc. Nguyễn Tri Phương chậm rãi: - Không chỉ mình chú “thừa văn quá võ” mà chính anh xuất thân ở văn hàn ty cũng phải đi đánh giặc như thường, riết rồi thành nghề võ luôn. À, chú biết không, cụ Thượng Trứ năm tám mươi hai tuổi, về hưu đã hơn mười năm rồi, mà khi giặc Tây đánh phá Đà Nẵng, các quan trong triều vẫn dâng sớ đề cử cụ ra đánh. Cụ khảng khái dâng sớ xin đi đánh giặc, sớ rằng: “Thân già này còn thở ngày nào thì xin hiến thân cho nước ngày đó”. Không may, sau đó cụ từ trần chứ không thì cụ cũng đã có mặt bên anh em ta ở cửa Đà Nẵng ba năm trước rồi. Nguyễn Duy gạt nước mắt: - Những người trai trẻ để đâu mà phải phiền đến người già như cụ Thượng Trứ đi đánh giặc? Chỉ cần đọc mấy câu cụ để lại: “Cũng có lúc mây tuôn sóng vỗ Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong Chí những toan xẻ núi lấp sông, Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ”. Cũng có bao nhiêu người sôi nổi tráng tâm hùng khí mà đi theo bước cụ rồi… Nguyễn Tri Phương trầm ngâm hồi lâu, rồi nói: - Anh thì anh nghĩ thế này, những người như cụ Thượng Trứ và cả anh nữa dù có chí khí, nhưng cũng là người thuộcvề một thế hệ già nua rồi. Muốn chống giặc thành công, phải trông cậy vào lớp người trai trẻ. Sách có chữ “hậu sinh khả úy”. À, chú đã biết viên phó lãnh binh Trương Định chưa? Nguyễn Duy khẽ lắc đầu: - Em mới vô Nam, chưa biết người ấy, xin trưởng huynh vui lòng kể chuyện cho em nghe. Nguyễn Tri Phương uống một ngụm trà nhấp giọng rồi ung dung kể chuyện. Vốn là con quan Vệ úy vệ Gia Định, nhưng Trương Định không theo nghiệp cha thi cử võ để làm quan, lại có chí khẩn đất đai, mộ dân làm đồn diền. Năm Giáp Dần13*, Nguyễn Tri Phương vào nam điều chỉnh chính sách, đồn điền thì Trương Định tự xuất tiền chiêu mộ dân nghèo ở Nam, Ngãi, Bình, Phú vào khẩn hoang lập ấp. Lúc bấy giờ có 21 liên đội ở Nam Kỳ, viên chỉ huy liên đội gọi là Quản cơ, dưới quyền có viên ấp trưởng. Quản cơ kiêm luôn Cai tổng, trong tổng có đồn điền chừng bốn trăm lính. Cứ mười lính có một súng, còn toàn cầm giáo, mỗi liên đội có một đại bác nhỏ. Có võ giỏi có cơ nghiệp, được tín nhiệm vì đã giúp cho một số nông dân có cơm ăn áo mặc, nên Trương Định được bổ chức Quản cơ kiêm Cai tổng ở huyện Tân Hòa. Quản Định đã hết lòng lo cho dân có nhà cửa, ruộng cày. Con cái họ được học hành do Định có sáng kiến mời các thầy đồ ở miền Trung vào dạy. Ngày 15 tháng giêng năm Kỷ Tị14*, giặc Tây chiếm thành Gia Định. Trương Định đứng lên mộ nghĩa binh đánh giặc. So với những văn thân cầm đầu các toán nghĩa binh khác như tuần phủ Đỗ Quang, tri phủ Nguyễn Thành Ý, tri huyện Đỗ Trình Thoại, Âu Dương Lân, Trần Thiện Chánh, Lưu Tấn Thiện, thủ khoa Nguyễn Hữu Huân… thì địa vị xã hội của Định ở vào các bậc chót. Tuy vậy, cũng có cái thuận lợi là Định đứng sẵn vào địa vị Quản cơ của một tổ chức dân quân khá lớn. Hơn nữa, giữa các quản cơ với nhau, nghĩa binh của Định đông hơn cả, đến một ngàn người, vừa có quy củ lại vừa thiện chiến. Riêng Định lại tiên phong gan dạ, lập đưọc nhiều chiến công trong những ngày đầu đánh giặc, sau đó được các Quản cơ trong Gia Định chọn làm người đứng đầu. Dần dần số nghĩa binh thuộc quyền chỉ huy của Trương Định lên tới sáu ngàn người. Danh vọng và uy tín của Định đưa ông lên địa vị cao vượt hơn cả những án sát, tri phủ, tri huyện và các văn thân chống giặc. Khi Nguyễn Tri Phương vô Nam nhận chức Tổng thống quân vụ, cho mời thủ lãnh các nghĩa binh đến hội, sau đó mới phân nơi đóng quân. Riêng Định đem cơ binh đến đóng trước ở cửa Thuận Kiều rồi mới tới ra mắt Nguyễn Tri Phương. Quan Tổng thống quân vụ nổi giận, cho là Định có ý coi thường mình. Định thản nhiên trả lời: - Tôi xem cách bố trí binh lực của tướng công còn để hở một mặt Thuận Kiều. Đó là đường đi Hốc Môn, Tây Ninh, phía có nhiều rừng rậm, có thể làm căn cứ chống giặc lâu dài. Vạn nhất Đại đồn có vỡ thì quân ta cũng còn đường rút. Nếu ta không chiếm ngay thì giặc Tây cũng chiếm mất. Nên tôi trộm phép tướng công đóng đồn trước rồi mới tới hội. Chắc tướng công cũng không câu nệ tiểu tiết mà thứ lỗi cho. Nguyễn Tri Phương nghe xong, lật đật mời Định ngồi lên ghế, rồi nói: - Trước đây, khi thấy ông vừa mở đồn điền đã nghĩ ngay đến việc đón thầy về dạy học, ta đã thầm khen nhưng chưa nói ra. Đến lần này ông đến đóng chẹn nơi hiểm yếu rồi mới tới hội, quả thật là có tầm mắt nhìn xa trông rộng. Cảm ơn ông đã sớm liệu trước dùm ta mặt sơ hở đó… Vừa nghe kể đến đây, không kìm được, Nguyễn Duy đã vụt reo to: - Có phải ông Phó lãnh binh này cũng cao cờ lắm phải không anh? Kiểu này là kiểu vào pháo đầu thắng luôn bình phong mã của bên địch… Hà hà… Nguyễn Duy ngoài thơ phú, trận mạc ra chỉ có một cái thú duy nhất là chơi cờ. Nhưng chơi cờ cũng chỉ để luyện trí óc, gíp ích cho việc thơ phú, trận mạc mà thôi. Nguyễn Duy thường ví làm một câu thơ tìm được chữ hay cũng chẳng khác gì đi được một quân cờ vào đúng chỗ. Còn những chiến thuật đánh cờ đem áp dụng vào việc binh thì tuyệt diệu vô cùng. Nguyễn Duy từng đọc mười ba thiên binh pháp của Tôn Võ Tử, lọc ra đuợc mười nguyên lý chiến thắng dùng vào việc đánh cờ. Thứ nhất là nguyên lý tiên tri, trước khi đấu cờ ta phải biết rõ nội tình thực lực của đối phương rồi mới quyết định kế sách hành động như Tôn Võ Tử đã nói: “Biết mình biết người, trăm trận không bại; chỉ biết mình mà không biết người, một thắng một bại; không biết mình cũng không biết người, mỗi chiến mỗi bại”. Hai là nguyên lý kế hoạch, khi đánh cờ ta phải nghiên cứu và định trước xem nên công hay thủ như lời Tôn Võ Tử: “Kế hoạch càng chu đáo, mật nhiệm bao nhiêu thì cờ thắng bấy nhiêu”. Ba là nguyên lý tự nhiên, ta phải tập trung lực lượng và nhằm vào chỗ hở ít phòng thủ của đối phương tấn công thì phần thắng chắc về ta như lời Tôn Võ Tử: “Hình thể của nước là tránh chỗ cao mà đổ xuống thấp, cũng như hình thể của cuộc hành binh là tránh chỗ thực mà đánh chỗ hư”. Bốn là nguyên lý cầu kỷ, phải tạo cho mình một ưu thế hơn đối phương, tránh không để thất bại về mình, như lời Tôn Võ Tử: “Kẻ thiện chiến biết đứng trước trên vị trí không thể bị bại mà không mất phần thắng”. Rồi nguyên lý toàn tồn, nguyên lý chủ động, nguyên lý lợi động… cũng đều rút từ binh pháp ra cả. Trước khi xuất trận, Nguyễn Duy thường bày bàn cờ ra nghiên cứu các nước đi để lát nữa áp dụng vào trận đánh. Như theo nguyên lý cấp tốc “Việc binh cần phải nhanh như gió, động như sấm sét, xâm chiếm như lửa cháy”, hai xa phải ra thật sớm, tung hoành sát quân, lấn nước, dọn đường cho pháo mã tấn công chớp nhoáng. Như thế mỗi quân cờ hạ xuống bàn là phải có một thế hăm dọa đối phương, hoặc sát quân hoặc chiếm lợi địa và làm tê liệt sức chiến đấu của đối phương. Nghiên cứu địa hình trên bàn cờ, Nguyễn Duy phát hiện ra đường nào chướng ngại vật, đường nào tiến quân ngắn nhất để tiến tới mục tiêu. Nhiều trận đánh thắng giặc, Nguyễn Duy đã thắng trước từ trên bàn cờ rồi. Biết tính em Nguyễn Tri Phương tủm tỉm cười: - Cái chú này! Ai đời nhân danh một ông Tán Lý mà vẫn cái thói con nít, hễ nghe nói đến ai cao cờ là cứ y như ếch vồ hoa ấy. - Tán tàn gì cũng không bằng cái món cờ. Để hôm nào em phải mời ông Phó lãnh binh đến giao đấu một trận mới được. - Chú chơi cờ mới sạch nước cản thôi, đã cao gì cho lắm mà bạ ai cũng đòi đấu. Cái nước mã ngọa tào15*hôm nọ của tôi chú đã phá được chưa nào! - Còn ngón đòn song tiên16* của em, anh cũng có chọi được đâu! - Sau này tôi đi cái nước lão mã hồi hương17*, chú chả chịu thua là gì! - Em nóng tánh không thể chơi cái kiểu cù cưa đó được. Cùng lắm em dám chơi cái nước liều “Triệu Tử Long nhứt thân đô thị đởm”18* là anh phải chịu hàng liền thôi hà. Tiếng cười lại nổi lên giòn giã, bất chấp cái không khí đầy đe dọa của một thành trấn, giặc đã chiếm đóng quá nửa. Hình như sau câu chuyện về chiến lược, chiến thuật, hào khí đã dâng tràn ngập căn phòng tranh tối tranh sáng này. Bỗng khuôn cửa được mở rộng để lộ một khung trời trắng ngà màu giấy bản. Viên tùy tướng Trần Nhượng bước vào cùng với một làn gió lạnh ập vào phòng. - Bẩm tướng công, giữa giao thừa đêm qua, tên lính Trần Bá Lộc bỏ phiên canh, trốn mất tiêu. Theo tiểu tướng biết thì tên này đã chạy vào đồn Cây Mai đầu hàng giặc. Nguyễn Tri Phương chăm chú: - Sao ngươi biết? Trần Nhượng rụt rè: - Không dám giấu tướng công, Trần Bá Lộc với tiểu tướng vốn có tình anh họ. Nhưng vì mới đăng lính nên chỉ là lính trơn, chưa có chức tước gì. Thấy tiểu tướng vừa là phận em vừa ít tuổi hơn mà lại đóng quản vệ binh, chỉ huy cả cơ binh của Lộc, bên Lộc tỏ ý bất phục. Nhiều khi Lộc bực bội thốt ra lời: Phải đứng trên đầu trên cổ tiểu tướng chớ không chịu kém. Ít lâu nay, thấy Lộc thường đi lại với tên Sầm Tống Hếnh, chủ hiệu buôn gạo ở Chợ Lớn, tiểu tướng có khuyên can nhưng Lộc không chịu nghe. Tiểu tướng vì nể tình họ hàng nên không làm ngặt. Lộc thừa lúc sơ hở đã chạy sang trại gịặc, tiểu tướng xin chịu tội thất sát. Nguyễn Tri Phương im lặng hồi lâu. Trần Bá Lộc là vệ binh ở đại bản doanh, thế tất phải biết những đường hầm từ Đại Đồn ăn thông với phía dưới đồn trại của giặc. Nguyễn Duy bỗng lẩm bẩm: - Nhất tốt độ hà, bán xa chỉ lực!19* Chú Thich 1* Cuối thế kỷ 19, ta phiên âm chữ France (nước Pháp) là Phú Lãng Sa tục gọi là Lang- Sa. 2* Hoàng đế, tức Nã Phá Luân đệ tam (Napoléon III) nước Pháp. 3* Lộ bộ: dàn binh khí nghi trượng trong dinh vị vương. 4* Tóc đỏ, tiếng dân ta -cuối thế kỷ 19- gọi người Anh. 5* Năm 1857. 6* Tức Lê Văn Duyệt, Tổng trấn Gia Định thành. 7* Bóng lưa thưa xiên ngang bên dòng nước trong và nông. Hương thơm thoang thoảng nhẹ dưới trăng lúc hoàng hôn. Hai câu thơ trong bài Sơn viên tiểu mai thi của Lâm Bô, tự Quân Phục, một thi sĩ đời Tống. 8* Nhìn mặt nhau nói chuyện bằng tiếng thầm trong lòng. 9* Tuyết dữ gió gào lại càng lẫm liệt. Trong các loài hoa, mai thanh cao kiên cường nhất. Hết mùa kệ cho rơi rụng. Thẹn đến với chúa Xuân xin rủ lòng thương. Say bẻ mai tàn một vài cành. Mặc cho đào mận cứ gặp thì. Trước đây trong lúc băng tuyết đóng cứng mặt đất. Cây hoa nào cố sức kéo Xuân sang. Hai bài thơ Lạc mai (mai rụng) của Lục Du tự Phóng Ông, nhà thơ yêu nước đời Nam Tống từng phản đối triều đình đầu hàng trước quân Kim xâm lược. 10* Áo gài nút phía bên trái. 11* Sắc xuân đầy nhà. 12* Non Mai nghìn dặm xa vời, Sớm nay biết có xuân tươi thế nào. Thơ Trần Bích San, tự Hy Tăng. 13* Năm 1854. 14* Năm 1859. 15* Mã ngọa tào: mã nằm tàu. 16* Ngón đòn song tiên: hai bên đánh xe lật như hai ngọn roi cùng quật. 17* Lão mã hồi hương: con mã từ bên này sang đất địch sau mươi nước chiếu mới về nhà thành quân giữ nhà, nếu về được thì bên kia thua. 18* Một bên 16 quân đỏ, một bên còn 4,5 quân có một con mã ngòi, nhảy đi nhảy lại, bên kia cứ phải đấm quân, cho nó ăn đến hết quân. 19* Một tốt qua sông, bằng sức nửa xe. II T rên con đường rộng phẳng, ba viên võ quan Việt đang thong thả bước. Họ đi tuần tra việc canh phòng bảo vệ cho dân ăn tết yên ổn, e Tây có thể từ đồn Cây Mai bất thần thọc ra. Dầu đi bình thường chân họ theo nếp quen vẫn bước thẳng, đầy vẻ hùng dũng. Đi đầu là một con người vóc cao mà mảnh mai, gương mặt đầy, nước da trắng có vẻ một phong lưu công tử, nhưng lại lộ ra khí phách ngang tàng. Riêng vầng trán rộng và đôi mắt sáng nói lên tánh quyết đoán và đa mưu. Đó là viên Phó lãnh binh Trương Định, chỉ huy binh lính giữ đồn Trung. Người thứ hai, cao lớn, khỏe mạnh, nước da bánh ít, gương mặt vuông, đôi mắt nhìn thẳng thắn, chân tay to bè bè và sần sùi. Đó là viên Quản cơ Nguyễn Văn Lịch1*, xuất thân dân chài, sau nhập ngũ, làm tùy tướng của Trương Định. Quản Lịch rất giỏi võ, lúc Lang-Sa mới sang, tại làng Bình Trinh huyện Thủ Thừa tỉnh Tân An có nhiều kẻ bất lương nổi lên làm trộm cướp. Nhưng khi ông tới, bọn chúng đều tan hết, dân làng liền cử ông làm chức Hương quản. Khi Trương Định lập đồn điền, ông cũng mộ dân phu tới góp sức khai khẩn và khi Định dấy nghĩa quân, ông cũng theo luôn. Ông có oai nên quân sĩ đều mến phục. Người thứ ba thấp nhỏ, mắt lé, cằm nhọn nhưng trán dô chứng tỏ là một tay gan góc, táo tợn. Đó là viên Đội Huỳnh Tấn, người làng Phước Hậu, Chợ Lớn, cũng theo Trương Định làm lính đồn điền từ ban đầu nên được Định tin cậy. Ba người cứ lầm lũi đi, không ai nói với ai một lời. Con đường vắng ngắt, đầu năm mới mà không người qua lại. Hai bên những căn nhà bằng gỗ, lợp ngói bị giặc đốt nham nhở. Trước đây, những nhà này vào bậc phong lưu với bộ cột gỗ danh mộc: gõ, cẩm lai, cây núi, nóc lợp ngói, vách có phong tô hẳn hoi, khiến người ta qua lại cũng phải dừng chân hít hà: “Hứ! Nhà gì cột bóng ngó thấy mặt, vách rờ mát tay!”. Vậy mà giờ đây chỉ thấy cột kèo đồ lỏng chỏng trên một đóng tro than bừa bãi. Khỏi cầu Ông Lãnh bắc bằng cây danh mộc, ba người qua Cầu Muối. Chỗ này trước đây tấp nập những “ghe cửa”chở muối cập bến, kề sát những kho hàng lá dùng chứa muối. Bây giờ chỉ còn trơ trọi mấy dãy nhà xơ xác, mặc cho mưa sa nắng táp. Chỗ rạp hát bội xưa kia trống phách om xòm, giờ cũng im lìm nép bên ngôi đình rêu mốc. Khỏi Cầu Muối đến Cầu Kho, mấy dãy nhà kho Cầm thảo của nhà vua xây để tích trữ lúa gạo của vùng lục tỉnh tải lên nộp cống, giờ đây cũng vách lỏ tường long. Trên một cổng gạch, có đắp ba chữ Hán “Tân Triêm Phường”. Đây là chỗ ở của ông Tú tài Nguyễn Đình Chiểu. Mấy tháng trước, Trương Định đã nhận lời ủy thác của ông Đỗ Trình Thoại, Tri phủ Tân Hòa, bạn đồng khoa của ông Tú, tới đưa ông Tú tạm lánh về Cần Giuộc vì ông nhất định không chịu rời khỏi vùng khói lửa. Bữa đó, Trương Định phải khẩn khoản nói, nếu ông Tú không chịu đi thì mình có lỗi với ông Huyện Thoại. Cuối cùng vì quá nể lời nên ông mới chịu để cho binh lính của Trương Định hộ tống ông về Cần Giuộc. Đi qua chỗ ở của ông Tú, Trương Định nhớ lại bài thơ “Chạy giặc” ông đọc cho nghe hôm mới gặp: Bến Nghé của tiền tan bọt nước, Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng Nỡ để dân đen mắc nạn này? Hai câu cuối như mũi dùi nhọn nung đỏ xoáy sâu vào lòng Trương Định. Quản Lịch bỗng đi gấp mấy bước cho kịp Trương Định, níu cánh tay Định: - Bác Lãnh nè, tôi nghe nói chợ Tân Kiểng trước đây có nhà sư đánh cọp, có đúng vậy không? Trương Định gật đầu: - Phải. Nghe các cụ kể lại đầu năm Canh Dần2*đời chúa Định Vương, khi mọi người đang ngủ yên, có con cọp dữ vào nhà dân ở phía Nam chợ quấy phá. Dân chúng sợ hãi báo với Đồn dinh cho lính vây bắt. Phải dở nhà cửa làm nhiều lớp rào bao vây, nhưng con cọp rất hung tợn không ai dám động tới. Sang ngày thứ ba, có một vị thầy chùa tên là Hồng Ân cùng đồ đệ là Trí Năng đi quyên giáo qua, xin vào bắt giùm. Hồng Ân giao đấu với cọp một chặp lâu, cọp bị đánh đau, chạy núp trong lùm tre. Hồng Ân rượt theo, cọp bị khốn quay lại đấu với Ân. Ân bước lúi té xuống mương bị cọp vồ xé, nhờ có Trí Năng tiếp tay đánh trúng đầu cọp chết liền, nhưng Hồng Ân cũng từ trần vì vết thương quá nặng. Người quanh chợ cho là Ân có nghĩa khí đem chôn cất ngay tại đó. Chỗ có cái tháp kia kìa là mộ Hồng Ân đấy. Quản Lịch nhìn theo tay Định chỉ, thấy một ngôi tháp vôi trắng mốc rêu vươn lên trời. Ông nói với Định: - Cọp dữ không bằng giặc Lang–Sa bây giờ. Bác Lãnh giết được thằng tướng giặc Bác – bê cũng coi là trừ được một con cọp cứu nguy cho dân lành đó. Đội Tấn muốn lấy lòng người trên, cũng vồn vã: - Câu chuyện giết thằng Bác–bê ra sao, quan Phó lãnh binh kể cho bọn tôi nghe nhờ chút. Trương Định khiêm tốn gạt đi nhưng Tấn cứ nài mãi nên ông đành kể lại đầu đuôi. Số là ở Gia Định có một phụ nữ thuộc dòng quyền quý tên là Thị Ba, bị cha mẹ ép duyên với viên lãnh binh Nguyễn Văn Sất. Khi giặc chiếm đóng Gia Định, Thị Ba phải lánh vòng khói lửa về ở làng Bình Lý. Ở đó, giữa cảnh đồng ruộng bao la, Thị Ba gặp một người bạn quen từ nhỏ hiện là Quản cơ, tên là Nguyễn Văn Tri. Giữa Tri và Ba nối lại mối tình đậm đà. Trong khi đó viên phụ tá của Quản Tri là Đội Dinh cũng rung động trước sắc đẹp của Thị Ba, nhưng bị Thị Ba khinh rẻ. Đội Dinh lấy làm hổ thẹn và tức tối, hắn bèn lập mưu gài bẫy Quản Tri và Thị Ba, khiến cả hai đều bị Lãnh binh Sất bắt trói và thả trôi sông. Lúc này, tên quan ba Lang-Sa Bác-bê đang đóng tại chùa Khải Tường. Một bữa đang đi săn. Bác-bê thấy ở giữa sông Sài Gòn có chiếc thuyền trôi bềnh bồng, trên thuyền có hình người. Vì tò mò, Bác-bê kéo chiếc thuyền vô bờ thấy một người đàn ông và một người đàn bà bị cột lại với nhau. người đàn ông đã chết, còn người đàn bà thì hấp hối. Bác-bê bèn lấy dao cắt dây trói rồi cho khiêng người đàn bà về đồn. Người đàn bà khá xinh khiến Bác-bê ưa thích ngay từ lúc đầu, nhưng về đồn bị đau luôn trong hai tháng, may nhờ có thầy thuốc và Bác-bê chăm sóc, nên lần lần phục sức. Sau ba tháng tĩnh dưỡng tại đồn, người đàn bà xin phép viên quan đi thăm bà con, còn thề thốt sẽ trở lại. Một đêm kia, có một người Việt tới kiếm Bác-bê và cho hay người bạn lòng của y là Thị Ba đau nặng sắp chết tại một ngôi chùa cách đồn của y hai tầm súng. Lập tức y lên ngựa ra đi. Khi đến một khúc quẹo cách chùa Khải Tường ba mươi thước thì quân mai phục của ta xông ra dùng giáo đâm y lộn nhào từ trên mình ngựa xuống chết. Nghe xong, Quản Lịch hỏi gặng thêm: - Sau bác Lãnh lại rõ chuyện Thị Ba mà dùng kế mai phục giết Bác-bê hay quá vậy? - Có gì đâu. Ta bắt gặp Lãnh binh Sất đón đường trước chùa Khải Tường bắt Thị Ba, ta liền trói cả hai giam vào một nơi chờ nộp lên quan Tổng trị tội vì chuyện ghen tuông mà để hại việc nước. Rồi tương kế tựu kế, cho người tới báo với Bác-bê là Thị Ba đau nặng… Đội Tấn reo lên; - Quả là mưu Gia Cát! Một Bác- bê chớ mười Bác-bê cũng phải nộp mạng trước quan Phó Lãnh binh. Miệng nói vậy nhưng bụng Tấn lại nghĩ khác. Từ lâu Tấn đã ngấm ngầm bất mãn vì Định đặt Lịch ở trên mình. Lại thêm từ ngày Lang- Sa chiếm thành tới nay quân triều thiếu lương thực tiếp tế, ăn uống kham khổ, lúc nào cũng gần kề nguy hiểm trước một bọn giặc súng ống tinh xảo hơn, Tấn đã ngã lòng cho rằng bên quân triều khó mà chống cự nổi. Mới đây tên cai mã tà Trần Bá Lộc ở bên đồn Lang-Sa đã cho người bí mật liên lạc với Tấn, rủ Tấn sang đầu Lang-Sa sẽ được trọng dụng. Nhưng Tấn thầm nghĩ bỏ chạy theo Lang-Sa lúc này chưa phải lúc. Ở đời nên giữ cái mẹo khôn: “Ăn cơm đi trước, lội nước đi sau” chờ tới lúc tình thế ngã ngũ hẳn sẽ hay. Vả lại muốn theo Lang-Sa thì thiếu chi cơ hội, mình cứ nằm trong hàng ngũ quân triều, kiếm cách leo cao bám sâu, có khi lại giúp được người Lang-Sa đắc lực hơn cũng chưa biết chừng. Bỗng Tấn giật thót người vì một tiếng thét của Quản Lịch: - Phải chém! Chém! Tưởng Lịch đọc được những ý nghĩ thầm kín của mình, Tấn đã toát mồ hôi, nhưng định thần lại thì nghe thấy Lịch nói: - Những tên Lãnh Sất, Quản Tri, Đội Dinh mang danh là quân nghĩa mà vì chuyện riêng tư tàn hại lẫn nhau thiệt là đáng giận! Đúng là con sâu bỏ rầu nồi canh! Trương Địnhthong thả: - Chú Quản nên nhớ rằng những người đó dầu sao cũng là quan quân trong cơ ngũ của triều đình, khi bình thời cái thói gian dâm bức hiếp dân lành đã quen mất nết đi rồi. Bây giờ bất đắc dĩ phải dùng họ đánh giặc ngoại xâm, những thói hư tật xấu của quan quyền trước đây đâu dễ gì đã gột bỏ được một lúc. Chỉ trừ phi bọn ta mộ một đội quân riêng gồm toàn những người ứng nghĩa, lúc đó mới nói chuyện được, còn cứ để lẫn lộn như hiện nay, có khi bọn gian tế của giặc trà trộn trong hàng ngũ ta cũng nên… Tấn lại giật thót mình một lần nữa. May cho y lúc này Định mãi nhìn về phía khác nên không thấy mặt y đang tái dần. Từ đằng xa thấy Trần Nhượng hộc tốc chạy lại thở hổn hển: - Trời ơi! ông Phó lãnh binh, ông để tôi đi kiếm ông thiếu điều hụt hơi. Quan tổng có lệnh vời ông tới bản doanh có việc gấp. Trương Định gật đầu với Nhượng rồi quay lại Lịch và Tấn: - Các ngươi hãy về canh phòng đồn trại, ta phải vào hầu quan Tổng, coi người truyền dạy ra sao. * - Năm mới tiểu tướng xin kính chúc tướng công trường thọ, phước lộc song toàn, mã đáo thành công, kỳ khai đắc thắng3* Nhìn viên tướng uy nghi trong chiếc áo dài màu lam, thắt lưng điều bỏ giọt, quấn khăn nhiễu tam giang, quần trắng nhét trong đôi ủng đen mũi cong, Nguyễn Tri Phương niềm nở tiếp lời: - Không dám. Năm mới ta cũng chúc ông Phó lãnh binh giết được nhiều giặc, lập được nhiều công. Có tin gì mới không? Lần nào gặp Trương Định, Nguyễn Tri Phương cũng bắt đầu bằng câu hỏi này. Đó là vì ông tin tưởng Định là người có trí, sáng suốt và rất thiết thực. Không những thế, Định còn rất dũng cảm, lần nào cũng đi tiên phong đánh giặc. Trong trận đánh đồn Kiểng Phước, nghĩa binh của Định đã giết được hàng trăm tên giặc, đồng thời ngăn chặn chúng phải ở nguyên trong phòng tuyến của chúng không ra đóng được ở mé Chí Hòa. Chiến công ấy cùng với việc giết chết tên Bác-bê vừa rồi, được Nguyễn Tri Phương hết sức khen ngợi, ông đã nhìn thấy trước ở Định tầm cỡ của một vị tướng thao lược, trí dũng kiêm toàn. Sau khi nghe câu hỏi của quan Thống đốc quân vụ, Trương Định nhỏ giọng nói: - Tôi mới được tin mật báo, cuộc giao tranh ở bên Tàu sắp chấm dứt nên quân Lang –Sa có thể về tiếp viện cho bọn quân ở Gia Định. Tình hình này ta phải xuất quân đánh đồn Cây Mai trước, cố tiêu hao bằng được một số lớn binh lực, cho chúng núng thế. Nếu để chậm, viện binh của giặc tới kịp, e rằng càng khó xoay sở. Chẳng hay ý tướng công ra sao? Nguyễn Tri Phương trầm ngâm một hồi: - Ta đã xin chúa thượng cho đánh từ khi giặc Phú mới rút bớt quân sang đánh nhau với Thanh triều, nhưng Ngài Ngự không quyết. Lần lữa đến nay, viện binh của chúng lại sắp kéo tới, chúng được tin tất cố sống cố chết chống giữ, việc quét sạch đồn giặc không phải dễ dàng. Không những thế, nếu đánh dốc toàn lực, e rằng Thánh thượng lại trách là cứng quá, làm lỡ mất cơ hội giảng hòa. Biết tính làm sao bây giờ? Trương Định khoan thai nói: - Tôi thường nghe nói: “Tướng ở ngoài có khi không phải tuân theo mệnh vua”. Hiện nay lòng dân đều hăm hở quyết đánh, cứ trù trừ chừng nào, chỉ càng thêm nhụt nhuệ khí chừng ấy… Lòng dân… Thì mấy năm nay, Nguyễn Tri Phương đã được hiểu thêm nhiều. Mới ngày nào, khi nhìn những người dân thường hồn nhiên, vô tư, khi đứng coi đua ghe ngo, trên đường nước chùa Cây Mai, ông đã lo lắng: nếu giặc đến thì quân lính của ông làm thế nào mà bảo vệ được họ. Nhưng vượt trên cả sự lo lắng của ông, khi chiến thuyền nhỏ của giặc vào con rạch từ xóm Chiếu đi xóm Củi, nhổ cọc phá cảng, đem quân vào chiếm đóng chùa Cây Mai, chùa Khải Tường, đền Hiển Trung và chùa Chợ Rẫy thì chính những người dân thường kia đã xông ra chặn giặc từ bước đầu. Thành Gia Định thất thủ, quân triều đình bỏ chạy thì những đội hương dũng đã tự động đứng lên đánh giặc. Ngay từ khi thành chưa thất thủ, thì Trần Thiện Chánh, một cựu tri huyện đã bị triều đình cách chức, và Lê Huy, một quân nhân đã bị thải hồi, cấp tốc chiêu mộ được năm nghìn dân dũng, vận động dân chúng góp tiền góp lương, nổi lên ngăn địch, giúp cho Hộ đốc Trần Trí yên toan chạy về ụ Tây Thái, sau khi giặc bắn phá đồn lũy ở Gành Rái mà viện binh của Nguyễn Tri Phương chưa vào kịp. Giữa lúc ở Huế, quan Khâm thiên giám còn xem lịch chọn ngày làm lễ “Khởi mã” để vua Tự Đức đẩy xe tượng trưng cho đại tướng xuất quân, thì những đội nghĩa binh với dao phay, gậy tầm vông đã giết được bao nhiêu tên giặc cướp nước. Không nói đâu xa, mới cách đây sáu tháng, hai ngàn dân dũng do Đinh Bình Tâm chỉ huy, đêm mồng ba rạng mồng bốn tháng bảy, đánh vào Chợ Rẫy, chùa này là yếu điểm trên phòng tuyến của địch từ chùa Cây Mai về Trường Thi, cũng là nơi mà, nếu bị vỡ, địch phải rút hết các căn cứ của nó ở Chợ Lớn. Thắng giặc rồi Đinh Bình Tâm đem một bộ phận lớn nghĩa dũng đến xin sáp nhập vào quân đội của ông. Chính những người này đã đánh tàu Primôghê của địch đậu trên sông Đồng Nai tháng trước. Biết như vậy nhưng ông cứ hỏi lại cho thêm chắc chắn: - Tình hình sĩ phu và bách tính hiện nay thế nào? - Ngoài các thủ lĩnh nghĩa binh như Hồ Huân Nghiệp, Phan Văn Đạt, Lê Cao Dõng, những văn thân như Huỳnh Mẫn Đạt, Bùi Hữu Nghĩa, Phan Văn Trị, Nguyễn Đình Chiểu đều đứng về phía kháng chiến. Còn Tôn Thọ Tường thì nghe đâu thường thậm thụt đi lại trong đồn Phú. Chuyện Tôn Thọ Tường thì Nguyễn Tri Phương cũng đã biết. Vì Tường thường đi lại với giặc, bị mọi người khinh bỉ, nên y phải tìm cách che đậy, bào chữa cho hành động của mình. Nhân ra vào đồn Cây Mai, y nẩy ra ý làm thơ vịnh cây mai ở đó, để biện bạch cho tấm lòng “trong sạch” của mình, không ngờ gặp cảnh ngộ “cheo leo”: Đau đớn cho mai cách dưới đèo, Mười phần trong sạch phận cheo leo. Sương in tuyết đóng nhành thưa thớt Xuân đến thu về sãi quạnh hiu. Lặng lẽ chuông quen con bóng xế, Tò le kèn lạ mặt trời chiều, Những tay rượu thánh thi thần cũ, Trông cảnh bao nhiêu tiếc bấy nhiêu. Nguyễn Tri Phương thầm nghĩ, nếu mai biết nói hẳn phải nguyền rủa cái tên trơ trẽn, mượn mai để che đậy cái tâm địa phản phúc của y. Lời lẽ mới thơn thớt giả dối làm sao! Những kẻ tự nhận là yêu hoa ấy thực ra là những kẻ phản bội lại sự trong trắng của hoa, đâu bằng những người dân thường kia yêu hoa một cách chất phác, bằng việc đem máu giữ từng tấc đất, dành chỗ cho hoa đua nở dưới không khí trong lành của một đất nước tự chủ, thanh bình. Câu đồng dao mà ông thường được nghe: “Trời xanh bông cứng lá dai. Gió day mặc gió, chiều ai không chiều” phải chăng vừa nói được cây mai, vừa nói được tấm lòng của những người dân Nam kỳ quyết tâm chống giặc. Nhìn về phía xa, cửa thành Sài Gòn với tòa Vọng lâu đồ sộ bị giặc bắn sập nằm trước, không còn kiêu hãnh nổi bật lên nền trời nữa. Phía trước mặt là Đồng Tập Trận và Mô súng, nằm im lìm như bãi tha ma. Những năm trước, cũng vào ngày này, Nguyễn Tri Phương đã cho phát ba tiếng súng, tiền hô hậu ủng, quân gia rầm rộ kéo ra ngả Phan Yên môn, từ đó xuống ngả Chợ Vải để trở lại đường Cửa Hữu và trực chỉ lên Đồng Tập Trận, ở đó, ông duyệt hết các cơ binh đóng trong lục tỉnh. Năm nay, vì giặc đóng ngay cạnh nách nên lễ “xuất binh” đành bãi bỏ. Lòng Nguyễn Tri Phương bỗng sôi lên một niềm phẫn nộ. Ông hỏi giật giọng: - Ông phó lãnh binh có kế sách nào không, nói ngay cho ta rõ. Trương Định ngẫm nghĩ, rồi nói: - Hôm nay đang là mồng một Tết, giặc Lang-Sa tất cho là quân ta mải ăn Tết, chắc không có lòng nào đến đánh đồn trại của chúng. Chi bằng ta làm kế nghi binh, cứ cho quân sĩ vui chơi ăn uống, ngày bày trò đánh vật, tối bày cuộc hát bội, trống phách tưng bừng. Thừa lúc ấy, ta cho một toán quân cảm tử tiến sát đồn Cây Mai, ủng hộ cho các toán quân khác đào hầm và dựng đồn lũy sát gần phòng tuyến của chúng. Vòng vây đồn Cây Mai được khép chặt, vừa bóp nghẹt quân giặc, vừa cắt liên lạc với bên ngoài, không những tiêu hao được sức giặc mà còn tránh được phần nào đại bác của chúng bắn ra. Từ đấy, ta tăng cường thêm các đội du kích và thám sát ở các đồn lũy gần sát trại giặc, cứ đêm đến thì tiến đánh các điểm yếu của địch, đánh phá tàu thuyền, đốt các nhà ở gần đồn. Làm như vậy có thể làm cho sức giặc hao mòn, lương thực thiếu hụt, tinh thần rúng động, bức chúng phải đầu hàng trước khi viện binh kéo tới. Nguyễn Tri Phương ngạc nhiên trước chiến thuật cơ động của Trương Định. Phải chăng cách bài binh bố trận của ông đã lỗi thời rồi. Bỗng nhiên, ông thấy mình già đi một cách ghê gớm. Lưng còng xuống hình như không mang nổi gánh nặng. Nhưng nhìn viên tướng trẻ, có nét mặt khôi ngô, cương nghị, có đôi mắt đầy tự tin, ông phần nào yên tâm. Như vậy, dầu ông có chết, cũng đã có người nối tiếp sứ mạng của mình. Lúc lật đật nắm lấy cánh tay người trẻ tuổi, ông thấy tay mình run run vì xúc động. Hai dòng máu trẻ già như hòa chung, chảy rần rật trong cơ thể. Ông có niềm vui của gốc mai già vừa nảy được một cành non. Chị hai Thưởng đang khoanh tay nướng bánh phồng trên chiếc hỏa lò than đượm lửa. Tay chị thoăn thoắt như múa trên hỏa lò. Cái nghề nướng bánh mà không lật qua lật lại thì cái bánh bị lửa táp cháy đi mất. Chẳng thế mà có câu “tráo trở như nướng bánh phồng” Thằng Huệ đang đốt pháo ở trước cửa, chạy vào bếp níu áo mẹ: - Bánh phồng chín chưa má? - Sắp chín rồi, con cứ ra ngoải chơi đi, lát nữa tía về cả nhà cùng ăn một thể mới vui chớ! Thằng Huệ mới bảy tuổi mà rất ngoan ngoãn, dầu nó thèm ăn bánh phồng đến chết được, vậy mà nhắc đến chuyện đợi tía nó về cùng ăn, là nó thôi liền, không đòi nữa. Cái tên Huệ của nó cũng là do kỷ niệm mối tình của tía má nó mà có. Số là Trương Định có lần về Tân Hòa, Tân An chơi. Cậu ấm con quan Vệ úy Gia Định không những đã phải ngạc nhiên về cảnh đất đai ở vùng này rộng mênh mông mà còn bỏ hoang, còn ngạc nhiên hơn khi gặp một cô gái quê mùa rất xinh đẹp, nết na, ở tỉnh thành cũng không dễ mấy ai bì kịp. Sau khi trò chuyện một hồi, cảm vì sắc đẹp, vì sự thùy mị của cô, Trương Định về nói với cha xin cha cho mối lái đến hỏi cô về làm vợ. Cụ Vệ úy gạt đi, cho là không được môn đăng hộ đối. Thế là Trương Định bỏ dinh, về Tân Hòa cùng cô gái dựng một ngôi nhà gỗ, vợ chồng chung sống với nhau. Từ đấy, Trương Định bắt đầu cùng vợ khai khẩn đất hoang ở vùng này. Bàn tay búp măng xinh xắn của cô Hai Thưởng- tên cô gái- đã in những vết chai sạn khi cầm xuổng, cầm leng. Nhưng cô không bao giờ kêu ca nửa lời. Chỉ nửa năm sau, vợ chồng đã vỡ hoang được năm công đất, cứ kể ra hai vợ chồng trẻ từng ấy ruộng đất là đủ làm ăn sinh sống rồi. nhưng Trương Định chưa vừa lòng, ông muốn dân khắp vùng đều được no đủ như gia đình ông. Ông liền đi vận động dân chúng chung quanh đến cùng ông mở rộng đồn điền. Khi đồn điền đã mở rộng thênh thang, thẳng cánh cò bay thì lại gặp một khó khăn là thiếu giống. Ông liền về quê ở Quảng Ngãi lấy giống lúa mang vào. Ở Quảng Ngãi có bốn vụ cấy và gieo, tháng ba với ba loại giống: ba trăng, lúa trắng, lúa chiêm ngự, tháng tám, lúa tàu núc, tháng mười giống bông rinh và tháng chạp giống trì trì, trong đó bông rinh và trì trì là lúa gieo. Lúc Trương Định mang giống lúa vào, một số bà con cho là trong này vốn có tập quán trồng lúa nước, e rằng giống lúa mang từ miền Trung vào không phù hợp với thổ ngơi ở đây, nên không ai chịu. Trương Định liền tự gieo ở ruộng riêng của mình. Chị Hai Thưởng lúc đó đang có bầu cũng vẫn ráng giúp chồng chăm bón cho lúa. Quả nhiên, giống lúa Quảng Ngãi bén duyên đất Tân An, mùa sau cho một vụ thu hoạch tăng gấp bội. Vừa lúc đó, chị Hai Thưởng cũng mãn nguyệt khai hoa, sinh một trai, Trương Định vui mừng vì mùa màng bội thu, liền đặt tên cho con trai là Huệ, nghĩa là bông lúa để kỷ niệm. Bỗng thằng Huệ reo to từ ngoài ngõ: - A! tía đã về! Tía về rồi đây nè, má ơi! Thiệt là cực cho thằng nhỏ, đã hơn một năm nay, Trương Định mắc việc chống giặc ở Gia Định không có thì giờ về Tân An thăm vợ con. Tết này, Trương Định cũng báo tin cho vợ biết là không về đuợc. Thế là chị Hai Thưởng dẫn thằng Huệ lên tận trại quân để ăn Tết với chồng. Bắt đầu đặt chân tới Gia Định từ chiều ba mươi Tết, vậy mà hai mẹ con cũng chỉ được hàn huyên với Định từ chập tối đến giao thừa, còn từ giao thừa đến tận chiều mồng một, Trương Định cứ đi miết, tới giờ mới thấy ló mặt trở về. Thằng Huệ đã sắp sẵn bao nhiêu chuyện để nói với tía nó, nào chuyện con vịt béo mà má nó mang lên ăn Tết là do chính nó cho ăn nên mới béo được như vậy, nào chuyện con dế lửa của nó đã đá thắng con dế mọi của thằng Biên; nào chuyện con mèo hư quá đã ăn thịt mấy con chim gáy mà tía nó gởi chú Quản Lịch cũng quê ở Tân An, về thăm nhà ghé đưa cho nó. Nào chuyện ngoại nó rầy tía nó cứ đi hoài không săn sóc gì tới má con nó, và nói rằng ông sẽ lên kiện tận ông quan to nhất về tội tía nó không léo hánh về nhà, nó thấy cần phải báo trước cho tía nó biết mà trốn kỹ đi kẻo ngoại nó bắt về mất. Nó cũng biết là có chuyện lớn bằng trời tía nó mới phải bỏ má nó mà đi, nên nó không giận tía mà lại trách ngoại nó sao lại rầy tía nó như vậy. Nó tự cho nó và tía nó về cùng một phe, chống lại ngoại nó. Chỉ còn má nó không biết thế nào, liệu có đứng về phe nó với tía nó không? Bao nhiêu chuyện quan trọng cần nói mà chưa nói được, tức ghê đi. Bây giờ tía nó về, hỏi nó không mừng sao đặng. Nó kéo tay tía nó vào tận trong bếp để trao trả vào tận tay má nó, đó cũng là một chiến công của nó trong ngày hôm nay. Nhưng nó bỗng xịu mặt khi thấy tía nó nói: - Tôi chỉ quẹo qua nhà chút xíu báo cho má con hay cứ ăn cơm trước đi, khỏi chờ tôi. Chị hai Thưởng ngẩn người, chiếc đũa lật bánh rớt xuống mặt than, chị cũng không biết. Mãi khi thấy mùi khét, chị giật mình nhìn lại thì lửa đã bén vào chiếc đũa cháy thành ngọn lửa khiến lửa táp vào mặt bánh cháy đen một góc. Chị đâm ra cáu gắt với con: - Chỉ tại cái thằng nhỏ kia ham ăn quá, bắt phải nướng bánh phồng trước cho nó, nếu không, em nấu xong món vịt tần cho anh ăn trước khi đi rồi. Thằng nhỏ bị rầy, mặt càng chảy dài ra, nước mắt vòng quanh, Định vội bồng con nựng nó: - Đừng rầy con nữa, cứ cho nó ăn bánh đi. Tía đi tới khuya tía về, con ở nhà ráng ngoan ngoãn đừng làm phiền má nghen. Chị Hai Thưởng vào tận trong nhà ôm một cái thúng ra. Chị lật vỉ đậy thúng, lộ ra một con vịt béo núc ních. Chị đã chuẩn bị con vịt từ mấy tháng ròng, hằng ngày cho nó ăn lúa bắp đầy đủ cho nó béo căng, để chờ đến Tết sẽ luộc cho chồng con ăn. Con vịt xứ ruộng ăn ròng bông lúa, ăn lúa mới chín đòng đòng, ăn tôm tép và ăn cá ròng ròng nên béo mập, khi luộc lên cứ là mỡ tươm ra cả ngoài da, cắn một miếng thịt vịt luộcTân An thì lên Sài Gòn vẫn thèm và nhớ đến suốt đời. Ngoài con vịt, chị hai còn chuẩn bị mấy nồi thịt kho và các món dưa góp, nào dưa giá, dưa cải, dưa bông điên điển, dưa cọng môn. Lên tới Sài Gòn chị hai đi lùng mua khô nai Bình Dương cho chồng nhậu. Bên cạnh mấy chồng bánh tét nhưn dừa, giữa ruột chém một cục mỡ béo lền, chị còn trổ tài nữ công nướng thêm mớ bánh phồng, thứ bánh này ăn dính đóc giọng, khô họng và líu lưỡi. Vậy mà bao nhiêu công phu sửa soạn của chị, từ mấy tháng nay đến giờ bỗng hóa thành công dã tràng. Vừa về tới nhà ngồi chưa nóng chỗ, anh lại đòi đi rồi. nhìn nét mặt anh đầy vẻ nghiêm trọng, chị đã hiểu chuyến đi này vô cùng nguy hiểm. Nhưng sống với chồng bảy, tám năm nay, chị đã hiểu tính nết chồng. Chị chỉ còn biết nói một câu: - Vâng, anh đi nhưng anh nhớ về sơm sớm chút kẻo món vịt luộc nguội hết, ăn mất ngon anh à… Chân chị bước đi loạng choạng vấp vào cái thúng, con vịt bị động bỗng kêu mấy tiếng cạc cạc rồi im bặt. Từ ngoài cửa đưa vào mùi khói pháo thơm thơm. Nhận lịnh xong, Trương Định về đồn Trung chọn một số người cảm tử theo mình mở đường trước tới đồn Cây Mai của giặc. Gần tới đồn địch, Trương Định ngạc nhiên trước cảnh biến đổi của khu này. Khúc sông bị lấp, nay giặc đã cho đào lại, từ cầu Nhiêu Lộc tới đồn Cây Mai, nối liền hai thôn Bình Tiên và Bình Tây, thông thẳng với sông Ruột Ngựa. Mặt lộ thì chỗ đường sá khuất khúc, chúng bắt dân phu nắn lại cho thẳng và rộng để cho xe ngựa dễ đi. Về việc sửa đường khơi sông, đoạn nào gặp phải dân cư, mồ mả, chùa chiền, chúng đều phá sạch. Một pho tượng Phật với nụ cười vô tư bị chặt cụt tay vứt bên đường. Dưới kinh Tàu Hủ, chiếc khinh pháo hạm Giắc-ca-rô án ngữ, bên cạnh xúm xít mấy chiếc tàu nhiều dây neo và tàu máy bọc sắt nhỏ. Về phía ngã tư sông Rạch Cát cũng có một chiếc tàu máy lớn đậu để bảo vệ đồn Cây Mai. Dọc hai bờ kinh Tàu Hủ là các cửa tiệm Hoa kiều buôn bán lúa gạo, với dãy chành dựng san sát. Từ điểm xóm Lá đến cầu Kinh có những ngôi nhà lụp xụp trong có gái điếm và giáo dân ở lẫn lộn. Bỗng Trương Định nhìn lẹ thấy từ xa có hai bóng người, ông vội truyền cho mấy dũng sĩ nấp vào vệ đường theo dõi. Bóng người tới gần, té ra là một tên lính Ma-ní4*và một tên Mã- tà5*. Tên mã- tà cầm trong tay một cành mai lớn, trĩu hoa. Định bấm mấy người nhất tề xông ra ôm hai tên lính vật chúng té nhào. Định quát hỏi: - Tụi bây đi đâu? Tên mã- tà run sợ lắp bắp: - Dạ…Dạ…tụi tôi… Trương Định thét: - Nói đi! Tên mã-tà ấp úng: - Dạ, tụi tôi được lệnh quan Tây mang cành mai vô Chợ Lớn chúc Tết ông chủ Sầm Tống Hếnh… - Chúc tết để làm gì? - Dạ …dạ…để cậy ông đứng ra mua giùm lúa gạo của “các chú” cho quan Tây ạ. - Bay biết điều phải khai cho rõ địa thế đồn Cây Mai, nếu không thì mất đầu nghen! Tên mã-tà sợ hãi vội khai hết đường lối vô đồn, chỗ nào đặt vọng gác, chỗ nào có súng ống gì, Định nhất nhất ghi nhớ. Nhìn cành mai rớt xuống đất, cánh hoa trắng muốt bị lấm bụi, Định thấy xót xa. Hoa trên đất mình mà mình không được thưởng thức, lại bị giặc biến thành một món hàng đổi chác lấy lương thực cho chúng ăn để đánh lại dân mình… * Đêm ấy, Nguyễn Tri Phương dẫn ba ngàn dũng sĩ tới đánh đồn Cây Mai. Trước đó, bọn giặc trong đồn vẫn nghe tiếng trống hát bội từ phía đồn quân Việt vẳng lại cho là quân Việt đang mải ăn Tết nên chúng không phòng bị gì, lao vào cuộc rượu chè, đỏ đen sát phạt nhau. Quân ta tới đồn mà bọn chúng vẫn không hay. Tới nơi, Nguyễn Tri Phương hạ lệnh nổ súng. Những khẩu thần công, khóa sơn, đoản mã, khai pháo tới tấp bắn vào đồn giặc. Giặc luống cuống trở tay không kịp, nhiều tên gục ngã trước từng loạt súng của ta. Lợi dụng lúc đó, toán quân đào hầm đã tranh thủ thời gian đào gấp, ép sát phòng tuyến của giặc. Đào hầm tới đâu dựng tạm đồn tới đó. Lúc này hào lũy của ta đã nhích gần tiền đồn của giặc khoảng trăm trượng. Quân ta sắp phá được cửa đồn, thì trái phá của tàu giặc trên kinh Tàu Hủ và sông Rạch Cát bắn ra như mưa. Một số người bị thương té nhào nhưng Nguyễn Tri Phương vẫn cứ tiến quân. Tiếng súng từ trên tàu liên tiếp nổ vang, miệng các khẩu đại bác phụ thêm, tiếp tục khạc lửa làm sáng cả một góc trời đêm. Nguyễn Tri Phương vẫn bình tĩnh xông xáo giữa trận địa. Cái chết của ông trong lúc này chỉ còn đếm từng ly, từng phút. Nhưng nếu ông lùi một bước ắt quân sĩ nao núng liền. Dầu nguy hiểm, ông cũng phải giữ vững khí thế ba quân. Bỗng một trái pháo nổ tung làm mấy chiến sĩ đang hăm hở xông tới gục xuống chết liền. Lại một trái nữa rơi trước mặt ông Nguyễn. Trần Nhượng vội nhoài người ra che đỡ cho chủ tướng nên trúng đạn vào lưng và bắp chân, máu chảy lênh láng không đứng lên được. Quân sĩ vội xô lại, vực Nhượng dậy, lấy thuốc dấu buộc vết thương. Trước tình thế ấy, Nguyễn Tri Phương đành hạ lệnh án binh để kiếm cách đối phó với hỏa lực của giặc. Nhưng sau đó đạn không bắn về phía quân sĩ của Nguyễn Tri Phương mà sau đồn Cây Mai lại thấy nhiều tiếng nổ dữ dội, ánh lửa đạn chói lòa giữa đêm tăm tối. Thừa lúc ấy, Nguyễn Tri Phương vội thúc quân ào ào xông vào cửa đồn, các dũng sĩ vung gươm chém lũ giặc canh gác như chém chuối. Từ phía sau đồn bỗng Trương Định xuất hiện, lưng buộc chặt một cành bạch mai. Thì ra, sau khi bắt được hai tên lính địch, tra hỏi biết ở phía sau đồn chỉ để một vọng gác nhỏ với mươi tay súng vì ở đó có một mô đất xây đá bao quanh, đủ che cho vọng gác, Định liền cử hai dũng sĩ canh giữ hai tên giặc, còn mình cùng sáu dũng sĩ khác kiếm đường lọt vào phía sau đồn. Chờ lúc đêm tối, quân Định đi sát tới sau đồn, nhìn vào phía trong thấy trên mô đất có đá bao quanh, một gốc mai cằn cỗi, lá xanh già nhưng nở hoa lấm tấm. Xót thương cây mai ủ rũ như một tù nhân bị giam trong ngục, Định đạp cửa hậu xông vào, cùng anh em nhất tề ôm chặt lấy mấy tên lính vật xuống bóp cổ chết không kịp ngáp. Rồi mỗi người chặt một cành bạch mai cột vào lưng. Thấy tiếng trái phá nổ dữ dội ở mặt tiền, Định biết là quân của chủ tướng đang lâm nguy. Để chia lửa, Định giương súng hỏa mai bắn lên trời một phát. Thấy tiếng súng phía sau đồn, quân giặc hốt hoảng đổ cả về phía ấy, cùng lúc súng giặc trên tàu cũng nhằm phía ấy mà trút đạn. Kế nghi binh đã thành, Định cùng sáu anh em rút về phía trước đồn, mặc cho lũ giặc cứ nhằm bắn vu vơ phí đạn. Tới trước chủ tướng, Trương Định nghiêm trang: - Bẩm tướng công, chúng tôi xin dâng tướng công bảy cành bạch mai để làm phần thưởng cho những người lập công lớn nhất. Nguyễn Tri Phương sững sờ nhìn mấy người. Bảy dũng sĩ với bảy cành mai trên lưng trông như bảy cây mai của “Thất mai khu” chụm lại…Một hòn núi cao của phong trào chống giặc đã mọc lên. Chú Thich 1* Sau đổi tên là Nguyễn Trung Trực. 2* Năm 1770. 3* Ngựa đến công thành, cờ mở thắng lợi. 4* Ma ní bởi chữ Ma-ni, thủ đô Phi Luật Tân. Đây chỉ bọn lính người Phi Luật Tân (khi đó là thuộc địa của Y Pha Nho tức Tây Ban Nha). Lúc đầu Pháp liên minh với Tây Ban Nha sang đánh ta, nên Tây Ban Nha đưa lính Phi Luật Tân sang đánh thuê. 5* Mã-tà bởi chữ Matamata tiếng Mã Lai có nghĩa là cảnh sát. Cuối thế kỷ 19 dân ta dùng chữ mã-tà để gọi bọn lính ngụy. V III ừa nhìn Sầm Tống Hếnh bồng con gà nhạn ra trường, viên cai mã-tà Trần Bá Lộc đã giật mình. Con gà sắc trắng phau, cẳng vẩy trắng xen kẽ đỏ, mỏ trắng, con mắt bạc, nom thiệt quý tướng. Chừng liếc thấy cặp cựa lại càng hết hồn vì rõ là cặp siêu đao nhà nghề của tay thiện chiến. Nhưng vốn tánh thâm trầm, Lộc cứ thả con Ô của mình ra. Con gà này lông tuyền đen nên còn có tên là Ô truy. Con gà nhạn thấy gà địch, ngóc đầu lên cao, mắt liếc kêu: “Cà tót! Cà tót!” Quả là “ kỳ phùng địch thủ, tướng ngộ lương tài”1*không bên nào phải chạy mặt bên nào. Tên gia nhân đo lại chiều dài đoạn lấy giấy dán bịt lên cây nhang chân đỏ để làm cữ rồi đốt lên. Một tên khác dò lại chậu nước để “làm nước” một lần chót. Sầm Tống Hếnh đằng hắng lấy giọng rồi hô to: - Thả gà! Hai gà so vẩy, đứng thủ thế, hai chân chùn xuống lấy bộ, hai đầu sát mặt đất, hai cặp mắt thôi miên nhau, như hai tướng dữ ngoài mặt trận. Suốt hiệp nhứt, hai con giữ thế lẫn nhau, thỉnh thoảng xáp lại đá một cái không trúng vào đâu. Qua hiệp nhì, gà nhạn vừa rút vào đĩa, chưa kịp phóng chân đã bị gà Ô đá té lăn ra ngoài, chót cựa gà Ô móc rách một đường trầy bên bắp vế gà nhạn, không sâu lắm. Con gà bị thương hơi nhót một chân, nhưng nó nổi xung lên xáp lá cà dữ dội. Sầm khoái trá cứ chạy đi chạy lại theo sát con gà vừa nói những câu gọn lỏn: - Vai nó đi con, ừ vai nó nữa đi con! Gà nhạn nắm cắn vai gà địch mà đá. Gà Ô bị trúng cựa ở cổ, máu chảy một vệt, Ô vừa soi vẩy địch, vừa bị máu trào lên họng nghẹt thở nên “khẹt khẹt” hai tiếng nhỏ, mỗi lần rẩy một chút máu tươi điểm sân đất lốm đốm. Sầm lại reo lên: - Thầy cai thấy chưa! Gà tôi xạ2*cái nào toàn là “cựa tử” không à! Cai Lộc vừa thương con gà nòi vừa giận Sầm tím mặt nhưng vẫn cố trấn tĩnh. Miệng y thầm vái van Bà Cậu: - Ưng ai! Phù hộ! May rủi cho tôi xin một cựa ngay chỗ nhược không dám xin nhiều. Gà Ô chưa xạ lại được cái nào thì cây nhang cháy đến chỗ giấy bịt báo hiệu hết hiệp nhì. Tên gia nhân vội “làm nước” cho con gà nhạn. Ôm con gà bê bết máu lên, hắn kề môi ép miệng sát vào da gà, chỗ bị cựa mà hút máu. Kế đó,hắn phùng má ngậm hết vừa đầu vừa mỏ con gà rồi thổi hơi của mình vào phổi nó. Chưa hết, hắn còn hút cả hơi gà ra nữa! Trông thật ghê tởm. Nhưng hắn muốn có tiền thì có nề hà gì dơ bẩn. “Làm nước” xong, gà nhạn lại sung sức, tấn công ngay bằng những đòn sỏ, đòn mé3*thật mạnh. Sầm nhìn con gà có “vẩy yểm lông” một cách khoái trá. Lão nghiêng đầu nói nhỏ với tên gia nhân rằng gà nhà sẽ thắng. Bên kia, Cai Lộc cũng nhìn gà nhạn không chớp mắt và ngạc nhiên trước vẻ nhút nhát của con Ô truy cứ né tránh đòn không chịu phản công. Gà nhạn đá liền sáu lần thì gà Ô quay lưng hình như muốn chạy khiến Lộc hốt hoảnggần nhảy vào đấu trường! Sầm đắc ý nói to: - Thôi chịu độ phứt đi cho rồi. chín hấu mại hơi4*làm chi thầy! Gà Ô vừa xoay mình thì gà nhạn chồm theo cắn trên lưng đá với một cái nhưng không trúng vì gà Ô bước thêm bước nữa, đồng thời nó xoay trở lại đá vụt lên. Gà nhạn vừa mới đặt hai chân trên đất chưa kịp lấy thăng bằng nên không né tránh nổi. Cả hai đầu cựa nhọn của gà Ô đâm lút vào cổ. Gà nhạn ngã xuống giãy đành đạch. Chợt Tôn Thọ Tường bước vào, trông thấy reo to: - Trời ơi! Ngón Hồi mã thương5*của La Thành! Nói xong, Tường nhếnh mép cười nham hiểm: - Nè, “khôn ngoan đá đáp người ngoài, gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau” phải vậy không thầy Cai! Lộc dư hiểu “mẹ”ở đây là Tường ám chỉ “nước mẹ”Phú Lang–Sa của hắn, nên cũng trả miếng lại: - Cậu Ba Tường! Miệng cậu còn sắc hơn cả cựa con Ô truy của tui nữa đó. Sầm đang ôm xác gà nhạn chảy nước mắt, không hiểu hết thâm ý câu ngạn ngữ Việt Nam, chỉ nghếch lên nhìn Tường ngơ ngác. Cai Lộc vội giới thiệu: - Thưa cậu Ba, ông này là chủ hiệu lúa gạo lớn nhứt Chợ Lớn đó. Ông tính mở hẳn một cái chợ cho người Lang-Sa có chỗ mua bán lúa gạo thực phẩm, khỏi đi mua bòn vét khắp nơi. Tui rước cậu tới nhậu là để cậu hiến kế giùm ổng chớ có phải để cậu đá móc hậu ổng đâu, cậu Ba… Tường thấy mối lợi, vội đổi giọng: - Nói giỡn chơi chút xíu vậy thôi chớ đá gà là một cái thú tao nhã lắm chớ bộ. Rất đỗi như đức Tả quân Thượng công mà còn ham cái món này huống chi tụi mình. Có bữa ngài mắc coi đá gà, vô triều trễ, đức vua liền rầy: “Đá gà mà cần thiết hơn việc quân quốc hả”. Tả quân vẫn thản nhiên tâu: “Muôn tâu, nếu hạ thần đã giúp được bệ hạ việc quân quốc là bởi học con gà. Cứ theo sách thì gà đầu có mào như đội mão là Văn, chân có cựa nhọn là Võ, thấy kẻ địch trước mắt dám nhào vô là Dõng, thấy cái ăn thì kêu đồng loại tới cùng ăn gọi là Nhơn, ban đêm cứ tới giờ tới canh thì gáy là Tín. Đức vua mỉm cười ủy lạo mấy câu và hẹn Tả quân bữa sau đem hết gà vô cung đá dâng ngự lãm… Cả bọn cùng cười ran, ngay cả Sầm không hiểu câu chuyện cũng nhe hàm răng vẩu cười hê hê… Cai Lộc nói: - Năm đức đó hổng biết có học trọn được không, bữa nay chỉ xin học cái đức Nhơn của con gà thôi à. Ông chủ đây có mần mấy món nhậu rước cậu Ba tới nhậu chơi, tiện dịp viết giùm ổng đôi liễn… - Tưởng cái chi chứ cái món chữ nghĩa thì khỏi lo. Tường này có dư cũng tỷ như ông chủ dư lúa dư bạc vậy. Tường chỉ cần xài mấy cọc chữ lẻ thôi còn cọc chữ chẵn Tường vẫn giắt lưng dùng trọn đời chưa hết, ông chủ à! Sầm nắm cả hai tay Tường lắc mạnh: - Ngộ pắt tay theo nối các quý quan như dầy, dăn minh chớ cậu Ba… Bàn tay tháp bút của Tường bị mười ngón tay chuối mắn bóp mạnh khiến Tường nhăn nhó nhưng vẫn gượng xã giao: - Mình cứ giữ cái món quốc hồn quốc túy mà hơn ông chủ à… Sầm dẫn hai người vô nhà. Một thồi rượu thịnh soạn đã được bày. Thấy hai chai rượu Mai Quế Lộ, Ngũ Gia Bì, Lộc reo: - Như vậy mới là mỹ tửu chớ. Hạp khẩu vị tui lắm mà! Sầm cười; - Cái nị mà hổng thích rượu Tàu thì đã có ắp-xanh, cỏ nhác6* hổng thiếu thứ gì hết trơn à. Tường hỏi: - Có rượu nếp Hốc Môn hay Gò Đen không ông chủ? Lộc quay lại Sầm: - Cậu Ba đây chỉ ham cái món quốc hồn quốc túy! Tường cười: - Thì phải xài cái món đó mới ra cái giống chữ nho chớ uống cô- nhắc nó lại lòi ra cái giống chữ Tây thì hư bột hư đường hết, phải vậy không ông chủ? Sầm cũng cười: - Hầy dà, thì cái món mở chợ, ngộ cũng phải lói với tồng chủ tồng pang là để tranh quyền nợi cho Huê kiều thì họ mới chịu, chớ biểu dâng chợ cho Tây thì chỉ có Tây ló mới nghe, hà hà… Nào ta cụng ly, rước cậu Ba, thầy Cai… Nhấp một ngụm Mai Quế Lộc, Sầm chợt thấm thía nỗi đau mất con gà nhạn vừa rồi. lão quay hỏi Cai Lộc: - Ngộ lói thiệt dới thầy Cai, gà của ngộ mua tận pên Tàu, đá thắng cả gà của vua Cao Miên, ló có cái dẩy yểm lông ở kẹt móng chưn, lổi tiếng “nhứt kê địch vạn”7*. Dậy sao lại chịu thua gà thầy Cai, thầy mách dùm ngộ dài pí quyết đi, thầy! - Có gì mà lạ, gà tui là gà nòi Cao Lãnh, chánh hiệu con nai à. Trước hết nó có cái bớt đen ở lưỡi lại có lông voi mọc ở cánh, sau cùng là vẩy yểm lông mang tên “Nhơn đầu hổ” mọc ở chân, hội đủ ba điểm đặc sắc đó mới xứng danh thần kê, đủ gây sóng gió khắp các kê trường. Khi mua về, tui làm một cái chuồng riêng, cho ăn uống bằng lúa, bắp và nước lóng phèn cẩn thận. Lại phải cắt lông, hớt mồng và tích8*, xổ đúng cữ mười ngày một lần mà ít nhất phải bốn quầng mới cho ra trường. Nào vô nghệ, cho ăn lúa gút, đổ nước đêm, sáng quần sương ăn cỏ9*… Mới nói sơ sơ như vậy thôi, đến chuốt cựa, cho nước lại càng phải đầy thủ đoạn, tùy trường hợp gà đi trên, đi dưới, đá vỉa10*, đá vai hay xỏ mé… để áp dụng cho đúng chiến thuật, cho tới mánh lới bắt hay thả gà khi đến nước nhang. Tại trường, việc cáp độ hay cầm chạn11* lại còn phải so đo cẩn thận tỉ mỉ về cao thấp, lông cựa, nặng nhẹ… Tuy vậy gà cũng bán độ, phản độ như ngựa về ngược vậy, cho nên dầu Xích Mi Lão tổ cũng ra mồ hôi ướt áo, trút túi. Được cái con Ô truy này mỗi lần xổ, tui bịt cựa gà bằng miếng vỏ của trái dừa khô lại đem gà ra đồng vắng chỉ có tui và người nuôi xem thôi, để luyện cho nó những nước hay mà những chú gà khác không biết. Quả nhiên con Ô truy đá mỗi lần có một đòn khác nhau, mà đòn nào cũng ác liệt ra trò. Không có con nào chịu nổi nó ba hiệp. Nó tuy cụt đuôi, nét mặt lầm lì nhưng dáng đi chắc nịch, cựa dài và nhọn, nên nhiều con vừa gặp nó đã chạy mặt, nhứt là khi nó đập cánh vươn lên gáy… Tường tấm tắc: - Con gà này có thể sánh với con gà gỗ trông lù đù mà lợi hại nói trong sách của thầy Trang. Nghe câu chuyện về thuật nuôi gà đá, Tường này đã được một bài học về cách xử thế, xin đa tạ, đa tạ… Lộc xua tay: - Không sao không sao, giấu ai chứ tụi mình sắp cùng khuông phò một chúa, giấu làm chi! Để bữa nào tui sẽ thân đi lựa gà và luyện giùm ông chủ một con thiệt là vô địch! - Lếu có gà như của thầy Cai thì ngộ dám cầm thế nhà đất để theo nắm à… Tường cười: - Tiền bạc để dùng vô đại sự chớ theo cái trò gà đá uổng lắm ông chủ à.- Vừa tợp một ngụm rượu nếp Gò Đen, Tường bèn nổi “hào khí” theo cái lối riêng của y.- Nè, lúc này đang có hứng bất tử đây muốn xin chữ xin nghĩa gì thì lẹ lẹ lên, kẻo “tửu nhập ngôn sơn sơn”12* chữ ra không kịp đó! Sầm hối gia nhân mang tới hai tấm lụa trắng và nghiên bút. Tường nghĩ một hồi rồi dầm ngọn bút đại tự xuống nghiên đá viết hai hàng chữ nho… Lộc lẩm nhẩm đọc… - Anh hùng hà xứ bất… Quân tử kiến cơ nhi… Câu này dường như còn thiêu thiếu chữ gì nữa phải không cậu Ba? - Đủ rồi mà… - Tường xoa tay tủm tỉm. - Anh hùng hà xứ bất gì thì tôi chưa rõ nhưng Quân tử kiến cơ nhi tác13* thì mới trọn vế chớ. Tường phá lên cười: - Thầy Cai thiệt thà quá, cái ngón xảo lộng thì chỉ vậy là dư hiểu rồi. Anh hùng hà xứ bất gợi lên câu Giang sơn hà xứ bất anh hùng, còn Quân tử kiến cơ nhi là đủ cho người ta đoán được chữ tác. Vậy mới thiệt là tài tình chớ viết đủ chữ thì còn ra cái mẹ gì! Chừng ngà ngà say, Tường lộ hẳn chân tướng: - Tôi viết hai câu đó là có ý muốn nói giang sơn nào chẳng có anh hùng. Chỉ cần có thời cơ là a-lê, hấp! Cống-hỉ, mét xì thằng Tường này đều thuộc nằm lòng, ha ha… Lộc biểu đồng tình: - Phải đó, ta bàn vô công việc cho lẹ lẹ chút, kẻo Nguyễn Tri Phương thì lỡ mất cơ hội ngàn vàng. Bữa nay sẽ có một qúy quan tới bàn với ông chủ việc mua trữ lúa gạo cho Lang- Sa… À ông chủ đã sửa soạn các món ăn Tây chưa? - Hầy, món Tây, món Tàu, món A-lam, ngộ có hết à… Tường vờ giựt mình đứng phắt dậy: - Có người Lang-Sa à? Sao thầy Cai không cho tôi hay trước? - Người Lang-Sa thì cũng là người, cần chi cậu Ba hoảng hốt như gặp ma vậy? - Mình người Nam vô cớ gặp người Tây, thầy Tú Chiểu, thầy Cử Trị hay được chuyện này họ chửi cho mất mặt! – Nói rồi, Tường nhấp nhổm tính đường chuồn… Biết Tường chỉ vờ chứ thiệt tình đã muốn ngả sang bên Lang-Sa từ lâu rồi, Lộc nắm lấy cánh tay Tường giữ lại: - Tiệc rượu đang vui bỏ đi sao tiện cậu Ba. Sách có chữ “Tứ hải giai huynh đệ”14* có người Tây vô luôn càng vui chứ sao? Nếu tôi nói trước với cậu thì làm sao có chuyện Đông Tây hạnnh ngộ như vầy… - Thì ra cuộc gặp gỡ này có xếp đặt trước, tôi thiệt thấp cơ thua trí thầy Cai. Thôi đã ngồi lỡ phải ngồi luôn, vậy là tôi lại mang tiếng là “tư thông địch quốc” đó… Có tiếng gõ cửa. Một sĩ quan Lang-Sa bước vô, chân cứng đơ khiến người tưởng y không có đầu gối. Khuôn mặt dài nhỏ với đôi mắt màu vàng đầy vẻ tinh quái. Y đội mũ sĩ quan thủy quân cầu vai đeo lon một sao một vạch. Đó là thiếu úy Phơ- răng-xi Gạc- nhe, sĩ quan tùy tùng của đô đốc Sác-ne. Y nói tiếng Việt khá sõi vì đã từng theo đoàn thám hiểm sông Cửu Long từ lâu. Vừa thấy Gạc-nhe, Sầm Tống Hếnh buột miệng chào: - Cống hỉ quý quan! Bông dua me-sừ! Gác-nhe hơi cau mặt trước cái cổ đầy mỡ và cáu ghét của Sầm, nhưng vẫn ráng giữ phép lịch sự; - Chào ông chủ, chúc ông chủ mạnh giỏi…Y quay sang Tường. – Còn ông, tôi chưa được hân hạnh… Lộc vội giới thiệu: - Bẩm quý quan, đây là ông Tôn Thọ Tường, một học giả bổn xứ mà tôi từng được vinh dự giới thiệu với ông! Gạc-nhe giơ tay bắt tay Tường: - A! ông Tôn Thọ Tường! Thiệt là hân hạnh được làm quen với một học giả nổi tiếng xứ này… Ông thứ lỗi cho nha, lẽ ra con nhà văn chúng ta phải gặp nhau ở một nơi khác, với bộ y phục khác để đàm đạo với nhau về văn chương triết lý Á Đông mới phải. Nhưng tôi thì mắc thi hành công vụ, xin ông cảm phiền sẽ có dịp khác tới thăm ông riêng tại tư thất. Xin tự giới thiệu, tôi Phơ-răng-xi Gạc-nhe, sĩ quan và là nhà văn Lang-Sa. Tôn Thọ Tường rút tay ra khỏi tay Gác-nhe chắp lại xá: - Kính chào quý quan, được nghênh tiếp ngài tại đây quả là duyên trời run rủi. Gạc-nhe cười: - Người nhà cả, ta khỏi cần khách sáo với nhau. Theo sự giới thiệu của ông Trần Bá Lộc, nếu được ông Sầm nhận lời giúp người Lang-Sa về mặt kinh tế, ông Tường nhận lời giúp về mặt chính trị, thì việc bình định xứ này sẽ dễ như trở bàn tay. Trước mắt là nhờ ông Sầm đây mua giùm cho một số lúa gạo… Sầm Tống Hếnh híp mắt, vẻ xảo quyệt: - Bẩm quý quan, ngộ xin hết lòng giúp dùm quý quan nhưng cái lày ngộ còn phải pàn với tồng chủng tồng pang, nên xin quý quan cho giá trước à… Gạc-nhe dư hiểu tâm lý dân “các chú” nên nói liền: - Thôi, mười quan tiền Tây một tạ, chúng tôi không để các ông thiệt… - Xin quý quan cho mười lăm, hè hè … - Ừ thì mười lăm! Tôi chịu thua các ông rồi đó! - Dạ để ngộ pàn với pà con rồi sẽ trả lời quý quan sau à! Sầm nhẩm tính, sáng mai mình sẽ ra giá với các chủ hiệu khác. Có mối rồi mình cứ ra giá mười hai nếu ai ra giá mười bảy thì mình sẽ bán hết số lúa gạo của mình cho người đó, không cần bán cho Lang-Sa nữa. Còn nếu mọi người chịu giá mười hai thì mình sẽ mua vét tất cả để bán cho Lang Sa, như vậy có lời mỗi tạ ba quan. Đằng nào mình cũng nắm đằng chuôi! Gạc-nhe gật đầu: - Được ngày mốt tôi sẽ trở lại gặp ông chủ. À, ông Lý Hồng Chương vừa ký với chúng tôi một điều ước ở Thiên Tân, từ nay người Tàu và người Lang-Sa là anh em với nhau, ở đây các ông cũng phải coi chúng tôi như là anh em mới phải chớ! Trần Bá Lộc reo lên: - Hay! Hay! Hồi nãy tôi đã nói vậy mà giờ trúng phóc! Tứ hải giai huynh đệ mà! Một tràng cười vang đánh dấu phút khai trương ngôi hàng chung lưng buôn bán của một bọn mạt cưa mướp đắng. Từ nhỏ Gạc-nhe đã nuôi mộng trở thành một nhà văn. Sau khi cuốn Salammbo với phong vị exotic15*được xuất bản, cả Pa-ri ngưỡng mộ danh tiếng nhà văn Guýt-xta-vơ Flô-be vi đã viết về Phương Đông huyền bí đầy quyến rũ. Thấy Phương Đông là một đề tài ăn khách với nhà văn, nên Gác-nhe xin sang Nam kỳ, làm nhân viên trong đoàn thám hiểm của Đu-đa đơ La grê đi khảo sát sự lưu thông hai sông Cửu Long, Nhĩ Hà. Sau khi Đu-đa chết, lại tìm đến đầu quân dưới trướng tên cáo già Đuy-pơ-rê. Đuy-pơ-rê sai y mở con đường thông Bắc kỳ với Vân Nam. Một hôm bài đăng trên báo “Monde Illustré” đã làm cho Gác-nhe phải chú ý. Tác giả bài báo, một danh tướng trong cơ binh Lang –Sa viết: Thấy phương pháp dụng binh của Nguyễn Tri Phương, người ta phải tin rằng vị nguyên soái anh hùng của nước Nam đã biết phương lược xây dựng lối pháo đài tạm thời như Tô-lê-ben ở Xê-bát-xtô-pôn, Đăng-phe Rô-sơ-rô ở Ben-pho, quân Phổ đánh Pa-ri, Ốt -măng Pa-sa trong trận Plơ-na16* Vừa đọc bài đó, Gạc-nhe nhún vai tỏ vẻ không tin. Chính lòng tò mò muốn biết những pháo đài đó ra sao đã thúc đẩy Gác-nhe xin chuyển sang nhà binh. Sau chiến dịch bột hải ở Trung Quốc, bị quáng lòa trước vinh quang của tên phó đô đốc năm sao Sác-ne xuất thân trường thủy quân Tu lông hiện đang thống quản tất cả lực lượng binh bị của Lang-Sa ở Viễn Đông, y liền xin chuyển qua thủy quân, vì cho là ngành này có tương lai hơn cả. Thấy Gác-nhe là người có học, Sác-ne dùng y làm sĩ quan tùy tùng, và cho y đóng lon thiếu úy. Khi được chứng kiến cảnh Đại đồn, chính Gác-nhe cũng phải khâm phục. Y đã viết ngay trên chiếc kỳ hạm Anh-pê-ra-tri-xơ một bài báo, sau được đăng ở Pa-ri. Trong bài báo, y viết: “Những chiến lũy mà người Việt Nam dựng lên rất kiên cố, đều bằng đất sét, cốt tre; họ làm một đêm gần được 400 mét bề dài và ban đêm, một khi quân Lang-Sa triệt hạ chiến lũy đó thì tảng sáng, ta lại ngạc nhiên thấy nhiều chiến lũy mọc lên, cách tiền quân của ta chỉ 500 mét. Quân Việt Nam rất can đảm, và về dũng cảm, cũng như lòng khinh thường trước cái chết, chỉ xem một việc dùng chiến khí sau này của họ thì sẽ rõ lời nói của tôi không phải là không xác đáng. Trong khi giáp chiến, họ dùng giáo; thứ khí giới này chỉ đâm được quân địch cách bốn mét, đó là một lối tự vệ rất can đảm, đến quân Tàu cũng chưa bao giờ nghĩ đến”. Gạc-nhe tin rằng bài báo sẽ mở ra con đường văn chương cho y sau này. Nhưng đồng thời y cũng cảm thấy Phương Đông ở đây không huyền bí đầy quyến rũ như Flô-be tưởng tượng mà là một thực tế tàn khốc đầy đe dọa. Sau khi được phổ biến lệnh đánh Đại đồn, y rất hồi hộp. Phen này y quyết lập được chiến công, chí ít cũng viết được một bài báo tả cảnh tấn công Đại đồn, một bài báo mà y tin rằng sẽ mang lại vinh quang cho y. Tay gươm tay bút, y quyết giành lấy vòng nguyệt quế đội lên đầu để cho càng thêm xứng hợp với cái dáng điệu cố làm ra bơ phờ của một nhà văn và khuôn mặt lạnh lùng bắt chước pho tượng cẩm thạch của một danh tướng La Mã thời xưa. Ít lâu sau, ở trang nhất của các báo xuất hiện ở Pa-ri đều in bằng tít lớn dòng chữ: K’I HOA17*, MỘT PÔN-TA-VA MỚI. Nguyên văn như sau: “4 giờ sáng ngày 24-2, liên quân Phú-Y khởi hành tại đồn Cây Mai, đạo bên hữu (bộ thuộc thủy binh) do thiếu tá An-li-dês- đơ Ma-ti-nhi-cua chỉ huy, đạo bên tả do trung tá Đê-vô và đại úy Ga-li-na dốc sức hiệp với đạo binh của Sác-ne và Vác-xoa-nhơ tiến về phía Đồng Tập Trận. Quân Phú Lang-Sa đưa vào trận đánh có trên 3000 người”. Trời mờ sáng, pháo binh bắn đại bác 12 mi-li-mét dọn đường, quân lính tiến rất chậm. Ban đầu, quân Phú Lang-Sa chạm trán một đoàn quân Việt ẩn trong đám rừng chồi ở Hòa Hưng. Hai bên xả súng bắn nhau. Sau quân Phú Lang-Sa dùng đại bác mới đánh lui được toán người kia. Qua khỏi đám rừng này quân Phú Lang-Sa gặp đám rừng khác. Quân Việt đã núp sẵn trong đó, xả súng công kích đoàn lính đi đầu, đồng thời súng đồng trong đồn KỳHòa bắn ra ầm ầm. Quân Phú Lang-Sa phải dùng toàn lực mới giải tán được toán quân này và tiến dần đến gần đồn Trung. Khi đến sát đồn, mặc dầu đạn bắn ra rào rào, một tốp quân Phú Lang-Sa cầm đầu là thiếu úy Giô-re hùng hổ tiến tới hãm đồn. Quân Phú Lang-Sa bắc thang leo lên mặt thành, quân Việt nấp sau các ụ đất và các mồ mả bắn ra và ở trên thành ném đá xuống. trong trận này 300 người Phú Lang-Sa tử trận mất hai viên sĩ quan là Te-xta và Giô-ha-nô, bị thương 30 trong số đó có thiếu úy Lơ-xe-blơ và viên quản Tê-ly, tổn phí hết 204 trái phá và 36 thùng đạn. Qua ngày sau 25-2, quân Phú-Y hạ được đồn Trung và công hãm đồn hậu rồi tiến tới đồn chính Kì Hòa do Nguyễn Tri Phương án ngữ. Bấy giờ là lúc phó đô đốc Sác-ne tự chỉ huy liên quân hãm thành. Pháo binh của trung tá Cru-da đóng ở giữa cánh hữu do đại tá thủy quân La-pơ-lanh chỉ huy. Cánh tả là do đội bộ binh và công binh. Đội kỵ mã chuyên giữ việc do thám và thông tin. Ở cánh hữu, một chi đội pháo thủ nã đại bác vào đồn quân Việt. Pháo binh của quân Việt bắn trả lại và dần dần núng thế, người Phú Lang-Sa tiến đến cách quân Việt 250 thước mà bắn lên mặt hào, yểm hộ cho tiền quân hãm thành. Ba người đi đầu trúng đạn, một người tử trận, hai người bị thương. Ở cánh trung ương, quân của Ma-ti-nhi-cua đông nhất và súng ống nhiều nhất, tấn công rất dữ dội, trong khi cánh tả liên đội thứ ba lữ đoàn thứ tư và quân tình nguyện bản xứ liều chết xông vào. Quân Việt chạy lui về cố thủ trong đồn. Quân Phú Lang-Sa đuổi theo và đặt thang trèo lên cửa thành. Quân Việt lấy gươm giáo phá hủy thang, quăng đồ dẫn hỏa xuống và nã súng hỏa mai giết hại quân Phú Lang-Sa. Tình thế lúc này trở nên nghiêm trọng. Đô đốc Sác-ne đem thêm quân cứu viện cho hai cánh quân tả hữu. Đội quân phía hữu được nhiều liên đội thủy binh và quân Y-Pha-Nho giúp, đội phía tả làm theo hai liên đội bộ binh. Đến quá trưa, cửa đồn bị phá thủng, quân Phú Lang-Sa lên được mặt đồn. Quân Việt vừa bắn vừa lui ra cổng hậu. Trận ấy Phú Lang-Sa chết 100 người, bị thương 125 trong đó có các sĩ quan tử trận là trung tá Tet-xta, hai đại úy Đờ Phô-côn và Rô-đen-léc Duy-pu-dích, trung úy Bec-giê, hai thiếu úy Nô-en và Phrốt-xtanh, hai sĩ quan bị thương nặng là lục quân thiếu tướng Vát xoa-nhơ và đại tá Pa-lăng-ca.Thắng lợi của chúng ta hoàn toàn nhưng chúng ta đã trả giá thắng lợi ấy rất đắt. Đây là một trận Pôn-ta-va mới của phương Đông. Phương Đông quyến rũ chúng ta bằng vẻ đẹp huyền bí man rợ của đêm trung cổ, phương Đông càng quyến rũ chúng ta hơn bằng những kho vàng chôn giấu trong lòng đất đầy bí ẩn. Hãy tiến lên, những người con của đất nước Phú Lang-Sa, xứ sở đầu tiên của tự do, bình đẳng, bác ái! Vinh quang đang chờ đợi những con người phiêu lưu và mạo hiểm, những Cơ-rít-xtốp Cô-lông phát hiện lại cựu Thế Giới”. Cuối cùng là cái tên ký sau này sẽ đi vào lịch sử - nhưng không vinh quang - Phrăng-xi Gạc-nhe. Ghi chú 1* Cờ gặp đối thủ, tướng gặp đối phương tài giỏi. 2* Đá hai bên phóng tới, mỏ không cắn gà kia. 3* Đá sỏ, đá mé là nắm cắn mé (mép môi) hay sỏ(mồng)mà đá. 4* Danh từ dùng trong trò chơi bài cảo hâu(cửu chảo)của người Triều Châu. Các tay con khi chia bài rồi thấy bài không liền thì hô lên “Mại”(không), nếu có hai ngưoời nữa cũng hô như vậy thì xóa bài chia lớp khác. Ttrong khi ấy người cầm bài tốt không chịu sẽ xin đánh và nếu thua sẽ chung tiền gấp hai. Có người tuy bài tốt mà vẫn vờ “mại hơi” để dụ đối phương. 5* La Thành là một tướng giỏi đời Đường có mẹo vờ quay ngựa chạy rồi lừa dịp phóng lại mũi thương vào người mải rượt theo. 6* Tiếng bồi chỉ rượu áp-xanh (Absinthe), cô nhắc (Cognac). 7* Một con gà địch nổi vạn con gà khác. 8* Hớt tích là cắt hai miếng da lòng thòng hai bên tai cũng như hai tai gà để tránh gà địch khỏi nắm, cắn nơi đó. Hớt mồng là xén bớt cái mồng lớn bản xòe ra cho gọn. 9* Vô nghệ là om bóp gà bằng nghệ mài sẵn cho da gà đỏ au trông săn cứng. Quần sương là thả cho gà hứng sương sớm mát mẻ. 10* Đi trên là chỉ nhắm vào bộ trên con gà địch mà đá. Đi dưới là chỉ chui luồn phía dưới gà địch, dội ngược cho té rồi xạ mạnh hoặc nhắm bộ dưới mà đấm đá. Đá vỉa là chuyên luồn vào nách gà địch, luồn đầu lên nắm cổ nắm vai, nắm lông trên lưng đá thốc lên. 11* Cáp gà là xem xét cân nhắc từ lông, thịt, cựa, xương, lựa cho hai gà vừa chạn mới cho đá với nhau. 12* Hai chữ sơn là chữ xuất. Tửu nhập ngôn xuất là rượu vào lời ra. 13* Quân tử nhân thời cơ mà hành động. 14* Bốn bể đều là anh em. 15* Hương xa. 16* Những chiến lũy nổi tiếng trên thế giới. 17* Pháp phiên âm chữ Chí Hòa là K’i HOA, do đó các nhà viết sử trước đây lầm là Kỳ Hòa IV K hỏi cầu đá xanh ngang qua dãy hào hình cánh cung, chiếc võng trần màu hồng điều đi lọt vào cửa tiền ngôi thành đá ong đỏ tỉnh Biên Hòa, giữa hai khẩu đại bác giàn hai bên. Viên chánh quản cơ đi đầu nạt đường rồi đến hai quân sĩ nón chóp, áo dấu cầm hai tấm biển gỗ sơn khắc chữ “Tĩnh túc” và “Hồi tỵ”1*. Dẫn kế là lá cờ đuôi nheo, tiếp đến đoàn quân và các đồ nghi trượng. Qua khỏi khuôn cửa, hai lính vệ khiêng đòn võng vội trở vai cho đỡ mỏi. Chiếc mành mành cánh sáo được vén lên, người ta thấy quan Tổng thống quân vụ ngồi xếp bằng tròn trên võng, nét mặt đầy ưu tư. Trên con đường thênh thang, đoàn nghi vệ đi qua vọng cung, hai bên có lầu chuông trống rồi đến tòa công dinh rộng lớn. Một hồi trống báo, quan Tuần phủ Nguyễn Đức Hoan lật đật ra đón quan Tổng vào dinh giữa. Sau một tuần trà nước, quan Tuần phủ hỏi: - Kính bẩm tướng công, tình thế nguy cấp lắm có phải không ạ? Nguyễn Tri Phương chậm rãi: - Giặc Phú Lang-Sa hạ được Đại đồn, ta cùng quan Tham tán Tôn Thất Cáp và Phạm Thế Hiển phải rút về thôn Tân Lạc phủ Tân Bình. Chúng lại rượt theo, quân ta đành rút về đây. – Ông lau nước mắt. – Chỉ thương cho Phạm tham tri, bị thương nặng không biết mệnh hệ ra sao… - Dạ… còn quan Tán lý… - Nguyễn Đức Hoan ngập ngừng. - Em ta bị trúng một trái đại bác giặc, thi thể không còn mảnh nào nguyên vẹn… Ông nghẹn ngào nhớ lại cảnh tượng trong lúc giao chiến… đại bác ầm ầm thụi vào tường thành chỉ trong nháy mắt có thể san phẳng tất cả hào lũy… Quân ta từ trên quăng đá xuống nhưng vì hoảng hốt nên không trúng một tên Lang-Sa nào. Quân giặc vẫn lừng lững tiến lên, và khẩu đại bác như con quái vật há cái miệng đen sì của nó ngoạm từng mảng thành. Giữa lúc đó, Tán lý Nguyễn Duy xông ra. Vừa ra tới nơi thì bị ngay một trái đạn bắn sạt đầu. Nhưng Nguyễn Duy vẫn dũng cảm xông tới. Một tên Lang-Sa vác một chiếc thang chạy tới định đặt để trèo lên cửa thành thì bị Nguyễn Duy chém một nhát. Tên giặc ngã lăn trên mặt đất. Lại một tên, rồi tên nữa. Nguyễn Duy đang đà hăng cứ vung gươm chém lia lịa hết tên này đến tên khác. Máu giặc bắn vào nhuộm đỏ chiếc áo ông đang mặc. Thấy nhiều đồng bọn gục ngã, đoàn quân Lang-Sa hốt hoảng lùi lại… Đạn đại bác lại nổ ầm ầm yểm hộ cho đoàn tiền quân giặc. Nguyễn Duy đang xông xáo như giữa chốn không người thì một trái đạn đại bác nổ trúng người ông. Thân thể ông tan ra như xác pháo không còn mảnh nào nguyên vẹn. Quân sĩ xông ra cứu ông chỉ còn lượm được một mảnh áo là dấu hiệu duy nhất để nhận ra ông. Quan Tổng thống quân vụ đang đứng đốc chiến ở cửa Tả hậu, thì nhận được tin dữ. Vừa cầm lấy mảnh áo đẫm máu… nóng hổi trên tay ông như một quả tim thì người võ tướng thân cận quan Tham tán quân vụ Phạm Thế Hiển đã ngã gục dưới chân ông… Hiểu nỗi đau đớn của quan Tổng, Nguyễn Đức Hoan an ủi: - Ty chức xin có lời phân ưu cùng tướng công. Xin tướng công chớ quá lo buồn mà tổn hao ngọc thể. Hiện giờ người là trụ cột của xã tắc, tính mạng của ba quân, nếu có bề nào thì tai hại cho đất nước không nhỏ… - Em ta có chết nhưng là cái chết vì nước như vậy ta cũng vui lòng rồi… Ngừng một lát, ông Nguyễn tiếp: - Vả chăng, quân ta cũng còn nhiều thương binh, tử sĩ lẽ nào ta lại chỉ riêng nghĩ đến người em ruột. Quan lớn cho binh lính đi chôn cất tử sĩ và săn sóc thương binh… Bỗng thấy quan Tổng hơi nhăn mặt, viên tuần phủ giật mình: - Hình như cụ lớn cũng bị thương, xin rước người vào hậu đường tĩnh dưỡng đã… Nguyễn Tri Phương lắc đầu: - Giặc đã lấy được toàn thành Gia Định, chắc sẽ kéo tới Biên Hòa, ta phải lo đi sửa sang hào lũy, doanh trại, để sẵn sàng đối phó. Lúc này không phải là lúc nghỉ ngơi… Rồi ngay hôm đó, Nguyễn Tri Phương thân hành đi đôn đốc việc bảo vệ tỉnh thành. Ông còn cho đắp- lại các hào lũy Tân Hoa, Trúc Giang, Trảo Trảo, Sông Ký, rào thêm tre gai ở lũy Đông Giang, Phước Tứ và năm đồn Đồng Môn. Ở bảo Phước Thắng túc Vũng Tàu và cửa Cần Giờ, ông cũng cho đóng hêm đồn quân canh giữ mặt biển. Đang say sưa trong công việc thì triều đình Huế sai Khâm sai Nguyễn Bá Nghi điều bốn ngàn binh sĩ vào Biên Hòa. Tới nơi việc đầu tiên của Nghi làm là lập hội đồng nghị tội những người thua trận. Hội đồng tâu xin giải chức Nguyễn Tri Phương, Tôn Thất Cáp và xử trảm giam hậu2* các thuộc quan khác. Mấy hôm sau có sắc chỉ của nhà vua tới nơi, nói vì xét công, cho hưởng trường hợp giảm khinh giáng Phương xuống chức Tham tri, Cáp Viên ngoại, còn Hiển đã qua đời, được miễn tội. Các thuộc quan cũng được ân giảm theo. Nguyễn Tri Phương đang sửa soạn về Phan Rí chạy chữa vết thương thì được tin Nguyễn Bá Nghi đã gửi thư nghị hòa với đô đốc Lang-Sa Sác-ne. Cuộc hội đàm được mở trên tàu Pri-mô-ghê. Nắm được thóp của Nghi, Tôn Thọ Tường khuyên Sác-ne nên làm căng. Phái viên của Sác - ne dự hội nghị hòa liền đòi mười hai khoản trong đó có hai việc chuyển nhượng thành Gia Định, hai tỉnh Định Tường, Thủ Dầu Một và bồi thường bốn triệu nguyên bạc là nặng nhứt. Không thể chịu được cảnh ấy, ông Nguyễn mặc dầu đang bệnh nặng vẫn nhờ người dìu tới chỗ Nghi khuyên Nghi đừng làm chuyện bán nước. Nghi không nghe, lấy lý nếu không nghị hòa mà Tây đánh, đòi thêm đất, bấy giờ công chẳng được, thủ không xong mà hòa cũng không được vẹn. Giữa lúc ấy, Trương Định,Nguyễn Văn Lịch vừa hộ tống các quan tỉnh Gia Định rút về Biên Hòa. Tới nơi, hai người vội đến tận giường bệnh thăm hỏi vị chủ tướng và một hai xin ông đứng ra cầm đầu các sĩ phu nghĩa dũng đứng lên chống giặc. Nghe xong, ông Nguyễn cảm khái: - Lòng dân như vậy, ta dầu có chết cũng nhắm được mắt. Trương Định vội thưa: - Sao tướng công lại nói gở như vậy? Hiện nay tướng công là sinh mệnh của cả trăm họ, tiêu biểu cho công cuộc chống giặc. Tiểu tướng biết có một nơi hiểm yếu là Đám Lá- Tối Trời ở Gò Công, xin rước tướng công về đó tĩnh dưỡng để rồi tính kế lâu dài. Người chớ về Phan Rí để rồi chui vào bẫy của bọn Nguyễn Bá Nghi… Ông Nguyễn chưa kịp trả lời thì Trần Nhượng vào báo: - Kính bẩm tướng công, có hai cậu Phan Liêm, Phan Tôn, xin vào vấn an… Quản Lịch cau mày: - Phan Liêm, Phan Tôn con ông Phan Thanh Giản. Ông này cũng một duộc chủ hòa như Nguyễn Bá Nghi. Hay là vô đây để dò xét tướng công chăng? Trương Định lắc đầu: - Không, tôi nghe nói hai cậu Phan Liêm, Phan Tôn tính tình trung hậu, lại rất ghét giặc Tây, chưa chắc đã có chuyện đó đâu. Xin tướng công cứ cho hai cậu vô để hỏi coi ra sao đã… Nghe lời Trương Định, ông Nguyễn cho mời hai anh em họ Phan vào. Đó là hai chàng trẻ tuổi mặt mũi khôi ngô, nước da trắng trẻo, mình mặt áo gấm lam nổi hoa chữ thọ, đầu chít khăn nhiễu tím, chân dận hài đỏ, tỏ ra người sinh trưởng trong chốn cao sang. Tuy vậy nét mặt đầy vẻ hòa nhã của kẻ có học thức. Tới nơi, Phan Tôn vái chào rồi nói: - Bẩm, bá phụ thọ thương, chúng cháu tới thăm trễ, thiệt là đắc tội. Phan Liêm cũng nói: - Chắc bá phụ không được hài lòng về việc làm của phụ thân cháu…Xin bá phụ hiểu cho, chúng cháu cũng rất khổ tâm về chuyện đó, nay tới đây để giãi tỏ lòng thành… Ông Nguyễn ôn tồn: - Từ lâu ta đã hay hai cháu không phải người cạn nghĩ. Cách biệt mấy năm, hai cháu đã trưởng thành cả rồi, bác rất vui mừng… Trương Định cũng vồn vã hỏi han hai anh em họ Phan, riêng Lịch vẫn đứng yên một góc, nét mặt đầy vẻ ngờ vực. Bỗng Phan Tôn sực nhớ thưa với ông Nguyễn: - Bẩm bá phụ, có gia sư là Nguyễn Đình Chiểu muốn vô vấn an, nhưng vì chưa được diện kiến bá phụ lần nào nên e rằng đường đột… - Nguyễn Đình Chiểu nào? Có phải thầy tú tài Chiểu nổi tiếng thơ hay đó không? - Bẩm, chính phải. Khi ông mở trường ở Tân Thuận, chúng cháu có tới tập văn một độ. Nay ông về Bình Vị Biên Hòa thăm nơi dạy học cũ, gặp chúng cháu nên chúng cháu dẫn ông tới đây… - Ta nghe danh thầy Tú Chiểu từ lâu, vẫn có lòng khao khát. Cháu ra mời thầy vô và xin lỗi giùm ta vì thọ thương nên không ra đón được, nghe! Anh em họ Phan ra mời Tú Chiểu vào. Trương Định nghe nói mừng ra mặt vì Định cũng mong gặp lại người bạn mới quen. Lát sau, ông Nguyễn nhìn thấy một người cao lớn, nước da trắng trẻo, tuy mù nhưng dáng điệu hết sức trang nhã, với chiếc áo trắng dài vải thô sạch sẽ không một nếp nhăn. Chiếc búi tóc giắt lược sừng nhô cao lên vành khăn nhiễu tím. Thoạt trông, ông Nguyễn đã sinh lòng kính nể, gượng đau đứng dậy đón. Tú Chiểu biết ý vội thưa: - Xin tướng công chớ bận lòng vì kẻ hàn sĩ này. Người cứ an tọa để tiểu sinh đứng hầu là đủ rồi… Nguyễn Tri Phương không nghe, một hai ép ông Tú phải ngồi lên giường cạnh ông. Tú Chiểu khoan thai vén áo ngồi ghé một bên, rồi kính cẩn: - Bẩm, tiểu sinh có biết chút ít về y lý, nghe nói tướng công thọ thương nên mạn phép đến vấn an, coi có thể góp phần điều trị được chút nào chăng? Ông Nguyễn cảm kích: - Thầy có lòng, ta rất cảm ơn. Từ lâu ta đã nghe danh thầy, thuốc đã giỏi mà thơ cũng hay, nên thường ao ước có phen gặp gỡ, ai ngờ không hẹn mà nên. Nhưng vết thương của ta có đáng kể gì so với vết thương của đất nước. Trước khi điều trị cho ta, thầy hãy cho ta biết ý thầy về thời cuộc đã… Tú Chiểu điềm tĩnh: - Bẩm, tiểu sinh trộm nghĩ đất nước như con bệnh trầm kha3* muốn chữa lành chốc lát không phải là chuyện dễ. Trước hết phải dùng thang công phạt để khu trừ cho hết âm độc, sau mới dùng sâm nhung để bồi bổ nguyên khí. Như người các mạch bị uất kết, phải khai thông các mạch bằng phép châm cứu, thì ở đây phải cổ vũ lòng dân căm hờn lũ giặc, vì nước hiến thân. Sau tới việc khu tà giải độc từng ăn sâu vào tạng phủ, phải dùng vị thuốc có tính nhiệt tính cấp, thì ở đây phải nhóm họp nghĩa sĩ, chọn nơi đóng quân, sắp sẵn khí giới đánh giặc. Nếu cây cỏ cũng đều trở thành vị thuốc được, thì một ngọn tầm vông cũng có thể làm binh khí giết giặc, một bó rơm con cúi cũng có thể làm hỏa mai đốt tàu, một lưỡi dao phay, một thanh kiếm sắt đều là quân nhu, một chiếc chiêng đồng, một thớt mõ gỗ đều là hiệu lệnh. Sách có chữ “gươm gỗ giáo sào” cũng là lẽ ấy. Nếu như trăm họ đều là quân binh, khắp đất đều là chiến lũy thì giặc không thể thoát khỏi lớp thiên la địa võng4* như loài trùng bệnh khi có các loại thuốc khắc chế đưa vào, sẽ hết cách hoành hành. Ông Nguyễn vui mừng: - Lời thầy nói về căn bệnh đất nước mà lại làm thuyên giảm tâm bệnh của ta. Xin thầy nhận xét giùm về sở trường sở đoản của ta trong việc cầm quân vừa qua, để còn bồi bổ cho lần sau… Tú Chiểu nghiêm trang: - Bẩm, sở trường của tướng công là dựa vào thành lũy… - Còn sở đoản? - Sở đoản của tướng công cũng là dựa vào thành lũy… - Sao? Sở trường sở đoản cũng là thành lũy, vậy là nghĩa thế nào? Tú Chiểu bình tĩnh: - Bẩm, thành lũy có cái hay là cố thủ được ít lâu để có thời giờ tập trung binh lực khởi thế công, nhưng cũng có cái dở là chỉ chống cự được với những đoàn quân dùng gươm giáo hay súng thần công kiểu xưa, chớ khi đem chọi với một đội quân có súng ống tối tân đủ sức san phẳng hào lũy thì lại phơi ra nhiều chỗ yếu, chẳng khác nào giơ lưng ra cho người ta thụi. Ông Nguyễn nhíu đôi lông mày bạc như cước, nét mặt căng thẳng tỏ vẻ hết sức quan tâm: - Theo ý thầy thì nên làm thế nào? Nghe giọng nói ông Nguyễn, Tú Chiểu biết ông hiện đang hết sức đau khổ vì Tú Chiểu đã chọc đúng vào vết thương trong lòng ông. Muốn ông Nguyễn tâm thần đỡ bị chấn động, Tú Chiểu không vội nói ngay cốt cho cơn nóng nảy của ông qua đi đã. Giây lát đợi ông bình tĩnh trở lại, Tú Chiểu mới nói, giọng điềm đạm như một thầy thuốc chẩn bệnh: - Muốn đưa được thuốc vào phải biết cách dẫn kinh, chớ nếu uống đủ các vị hàn nhiệt vào một lúc sẽ công phạt lẫn nhau rồi mắc chứng trệ, hay ứ huyết, rối loạn kinh mạch. Cũng như ở đây phải biết chia quân đi đóng các nơi hiểm yếu, nằm trên các đường trục giao thông để có thể cứu ứng lẫn nhau. Cứ ý ngu của tiểu sinh thì Trương Lãnh binh nên lui về giữ đất Gò Công, Nguyễn Quản cơ nên về giữ đất Rạch Giá, còn Cần Giuộc thì tôi sẽ nói với Đốc binh Là mang quân về đóng chốt. Ngoài ra như các nơi Đồng Tháp, Mỹ Tho cũng nên chia người đóng giữ. Còn tướng công là linh hồn của cuộc chiến đấu, nên tĩnh trấn một nơi để dóng dả mọi người, cũng như là vị thuốc chủ để bổ hư ích khí5* vậy. Nghe xong lời Tú Chiểu, Định và Lịch đều gật gù khen phải. Phan Tôn gặng hỏi: - Sao từ nãy tới giờ tôn sư không nhắc tới bọn tiểu đồ, hay tôn sư cho rằng… Tú Chiểu vội gạt đi: - Đâu phải vậy, chỉ hiềm vì quan Phan đứng đầu phe chủ hòa, nếu hai cậu đứng ra xướng nghĩa, e có người nghi ngờ cho là giống như vị thuốc “dẫn khấu nhập đình”6* thì nguy! Như vậy, hai cậu hãy tạm lui về Bến Tre, chỉnh bị lực lượng, khi nào thời cơ thuận lợi hãy nổi dậy cũng chưa muộn. Đó cũng là vị thuốc bổ âm phối hiệp với vị thuốc tráng dương của các vị này. Nếu như thang thuốc phải có “quân thần tá xứ”7*, thì mọi người trên dưới phải một lòng mới có công hiệu. Nguyễn Tri Phương ngẫm nghĩ rồi nói: - Thầy nói vậy quả là đạt lý, nhưng chết nỗi triều đình lại truyền cho ta phải về Phan Rí dưỡng bệnh. Vậy ta nên ở lại hay về Phan Rí theo lệnh triều đình? Tú Chiểu đắn đo. Lúc này khuyên ông Nguyễn bất tuân lệnh triều đình là chưa phải lúc. Dầu sao hai chữ trung quân đã ăn sâu vào trong tâm óc ông Nguyễn rồi. Mình đòi hỏi ở ông điều vượt quá sức ông là không thể được. Nghĩ vậy, ông thận trọng; - Tướng công là mệnh quan của triều đình, nếu không về, bọn quan lại chủ hòa sẽ vin vào đó buộc tội tướng công chống lại nhà vua rồi kiếm cách giết haị, khi đó trăm họ mất kẻ cầm đầu, ắt ngơ ngác như gà con lạc mẹ. Tướng công hẳn không lạ gì cái tội “mạc tu hữu”8* mà Tần Cối khép cho Nhạc Phi thời xưa. Nguyễn Tri Phương lắc đầu: - Mình ta dầu chết cũng có nghĩa lý gì. Trong thiên hạ, thiếu chi người đức hơn ta. – Ông chỉ mấy người trẻ tuổi. – Như các tướng quân đây chẳng hạn. Tú Chiểu giọng từng trải: - Nếp quen chuộng người có danh vọng cầm đầu của dân ta có từ ngàn năm nay, đâu phải một sớm một chiều mà thay đổi được. Nói gì thì nói chứ các tướng quân đây tuy thừa nghĩa khí nhưng danh vọng còn thấp, chưa thể đứng làm tiêu biểu cho công cuộc chống giặc. Chi bằng tướng công cứ về Phan Rí, mượn danh nghĩa triều đình mà cổ vũ trăm họ một lòng chống giặc, để mọi người cùng hướng về ngọn cờ đại nghĩa. Nhiệm vụ của tướng công lúc này là phải sống, để đứng làm cột đá ngăn chặn dòng nước xoáy, cứu vớt muôn dân. - Lời ông nói thấm vào ruột gan ta chẳng khác nào thang thuốc bổ, về y lý thì như vậy nhưng trước mắt ông có phương thuốc nào hay giúp ta không? Tú Chiểu mở khăn gói lấy ra một cuốn sách giấy bản bìa phất cậy dâng lên: - Kính bẩm tướng công, tiểu sinh cảm thương thời thế, thao thức suy nghĩ gần một năm ròng mới soạn thảo nên một bổn Lục Vân Tiên để góp phần làm chiếc thuyền chở đạo, và dùng ngọn bút đâm mấy thằng gian. Xin dâng tướng công đọc và chỉ dạy cho. Ông lật qua mấy trang: - “Trước đèn xem chuyện Tây Minh”… Chẳng hay ông diễn ca truyện Tây Minh hay viết theo ý bài Tây Minh của Trương Tải? Tú Chiểu mỉm cười, nụ cười hóm hỉnh mà đôn hậu: - Bẩm, đây là bổn thơ do tiểu sinh nghĩ soạn ra, không dựa vào cuốn truyện xưa nào, cũng không muợn ý của bài Tây Minh của Trương Tải. Sở dĩ kêu là Tây Minh là ngụ ý chuyện có liên quan đến giặc Tây bắt đầu thời vua Minh Mạng. Bởi ám chỉ giặc Tây nên mới gán cho nó cái tên rợ Ô Qua ở ngoài cửa biển… Nguyễn Tri Phương đọc thử mấy dòng rồi gật gù: - Cứ đọc câu “Nhớ câu kiến ngã bất vi. Làm người thế ấy cũng phi anh hùng” cũng đủ làm cho người ta sôi bầu nghĩa khí rồi. Ý đã cao mà thơ lại hay… - Ông lại đọc tiếp: Dời chân ra chốn hoa đình, Xem trăng rồi lại chạnh tình cố nhơn. Than rằng: Lưu thủy cao sơn, Ngày nào nghe đặng tiếng đàn tri âm… Ông xúc động đặt sách xuống: - Đọc câu này ta lại nhớ đời ta chỉ có một người bạn tri âm là ông Phan Thanh Giản, đời ta cũng chỉ có một lần làm thơ bài thơ tiễn ông Phan về Nam: “Cá lại Long Giang hai ngả nước. Nhạn về Du Hợp một phương trời”. Bây giờ ta với ông Phan không chỉ là hai cá rẽ dòng nước mà vĩnh viễn thành đôi nhạn lạc bầy… Mọi người chung quanh đều bùi ngùi. Anh em họ Phan đưa vạt áo lên chấm nước mắt. Nhưng Tú Chiểu cương nghị: - Bẩm tướng công. Cá lại Long Giang nếu vượt qua ba lớp sóng sẽ hóa rồng, nếu không thì chỉ là loại cá thường mà thôi. Làm thân cá sao chẳng mong có lần vượt được Vũ môn.9* Như một phấn phát, ông Nguyễn lại say sưa đọc. Ông cảm thấy không phải là thơ trong truyện nữa mà là những lời tâm sự của chính ông… Quan sơn ngàn dặm đăng trình, Lãnh cờ bình tặc phá thành Ô Qua. Ông càng đọc càng hào hùng. Giọng vị tướng già sang sảng như đọc một bài hịch cứu nước. Ghi chú 1* “Giữ yên lặng” và “tránh ra” 2* Xử chém nhưng còn tạm giam lại 3* Bệnh đau lâu khó chữa. 4* Lưới trời, lưới đất. 5* Bồi bổ chổ yếu, có lơị cho khí huyết. 6* Dẫn giặc vô nhà 7* Thuốc có các vị chính phụ như vua tôi họp nhau. [8] Nhạc Phi đang chống giặc Kim thì bị tên gian thần Tần Cối giả chiếu vua đòi về triều rồi giết hại. Có người hỏi: “Nhạc Phi có tội gì mà bị giết?” – Cối trả lời: “Cần gì phải có tội” (Mạc tu hữu) ý nói không có tội cũng buộc thành tội. [9] Theo truyền thuyềt, cứ đến thánh tám có cuộc thi giữa các loài sống dưới nước, con nào nhảy vượt được qua cửa Vũ (Vũ môn) thì sẽ hóa rồng. V C on sông Cần Giuộc chảy ngang qua chợ Trường Bình, từ làng Phong Đước cho tới bãi sông Xoài Rạp. Dọc sông có nhiều lò ấp trứng vịt của bà con, trong đó có lò của Huân là phát đạt nhứt. Huân là em trai út của Tú Chiểu, cha mẹ mất sớm, Huân được ông Tú nuôi cho ăn học. Con người hiếu thảo đã khóc mẹ đến nỗi đui mắt ấy cũng là một người anh ăn ở chí tình với các em. Lương dạy học của ông Tú ít ỏi, Huân phải kiếm cách làm thêm để đỡ đần cho anh. Sống ở vùng Cầu Kho, vùng đất sình lầy lau sậy, sau lưng là dòng sông Bến Nghé hai hướng đông tây chắn ngang bởi hai con rạch từ sông mở vào là rạch Cầu Kho và rạch Bần, bên cạnh những con người quen sinh hoạt trên sông rạch: lưới cá, làm than, chở củi, chở hàng hóa đi trao đổi, đóng ghe, làm mộc… nên Huân đã học được nhiều nghề chân tay. Huân thường đi làm mướn cho những người chở than quen cái thói dọc ngang sông nước của dân hạ bạc. Có khi theo ghe đến mấy tháng ròng khi về không quên lượm củi trôi giữa dòng mang về bán giúp đỡ gia đình. Cũng vì vậy Huân không theo đuổi việc học được đều đặn. Cuối cùng, Huân xin phép nghỉ học để theo hẳn nghề thương hồ, đỡ cho anh một gánh nặng. Tú Chiểu lúc đầu không ưng, nhưng thấy em nói tha thiết quá đành phải chấp thuận. Vả chăng, ông Tú cũng biết em mình sống gần người nghèo nên học được nhiều nết tốt. Hầu hết, họ đều là những người thật thà, thẳng thắn, chuộng khí tiết, trọng nghĩa khinh tài. Họ lại can đảm, hào hiệp, sẵn sàng phò nguy cứu khốn theo đúng câu phương ngôn: Lộ kiến bất bằng, bạt đao tương trợ1*. Nhưng không phải cá hung hăng của kẻ vũ phu mà do rất mực thương người cô thế. Tuy có nóng nảy nhưng lại biết phục thiện. Nếu như gia đình họ Võ trong thơ Lục Vân Tiên, ông lấy mẫu từ một gia đình có thiệt ở kế bên rạch Bần, đã từng hứa hôn với ông khi ông bị đui mù, thì những nhân vật như ông Ngư, ông Tiều, Hớn Minh, Tiểu đồng…, ông lấy mẫu từ chính những con người nghèo nàn lam lũ ở đây mà ông đã nhiều năm tiếp xúc, tìm hiểu. Nhiều câu thơ Lục Vân Tiên được viết ra trong tiếng quăng chài, kéo lưới trên sông rạch, tiếng nước rỏ róc rách, tiếng gió thổi hây hẩy và mùi tôm cá tanh nồng… Những lúc đứng hóng mát trên cầu Rạch Bần, ông lại mường tượng hình ảnh người con gái họ Võ đã phụ bạc ông vì tham chốn giàu sang, và không thể không so sánh hai cảnh đời khác nhau chỉ cách nhau bằng một nhịp cầu mong manh bắc qua con rạch. Vì biết chăn vịt từ nhỏ nên khi theo anh dời về Cần Giuộc, Huân cũng gây một bầy vịt. Chỉ cần mua vịt con và tốn thức ăn cho nó một tháng đầu. Khi vịt con đã cứng cáp, biết chạy nhảy bơi lội tự nó mò cua bắt ốc tìm lấy mà ăn thì chỉ còn tốn công chăn. Đầu tháng mười Huân mua vịt con, bước qua tháng mười một nó đã lớn bằng bắp chân, bắt đầu mọc lông cánh cũng là lúc bắt đầu gặt. Anh cho nó chu du một chuyến dọc sông ăn cua, ốc, cá, tép, rồi lên các cánh đồng gặt xong nhặt thóc rơi thóc rớt. Đến tối con nào cũng no đẫy đi lặc lè, anh lấy mấy tấm phên quẩy theo quây nó ngủ tại bờ ruộng. Đàn vịt đi ăn như thế hai tháng là vừa đúng lứa, kịp lúc các chủ vựa tới đón mua, ngã giá xong anh trở về là áp Tết. Chán nuôi vịt đẻ, Huân lại xoay qua nuôi vịt thịt. Nuôi vịt đẻ tốn vốn nhiều vì cần cho nó ăn thêm thóc mới sai trứng. Cũng vất vả hơn, người nuôi cũng phải thắp đèn canh chừng suốt đêm, nếu để chuột chồn đến khuấy làm vịt giựt mình nhảy rộ lên kêu oang oác là nín đẻ luôn. Đêm nào bầy vịt ăn no ngủ say nó sẽ đẻ trứng nằm sắp lớp trắng đất. Trứng vịt của Huân lòng đỏ đỏ rực như mặt trời mới mọc, béo ngậy vì được tẩm bổ nhiều cua, ốc, tép. Huân mở ngay một lò ấp trứng vịt để lấy vịt con bán cho người chăn. Một đêm thanh vắng, Huân đang ngồi canh lò thì bỗng nghe từ dưới sông có tiếng hò cất lên trong trẻo: - Hò ơ… Đêm canh lụn thì não nề ai oán. Còn cảnh u sầu thì mây áng trăng lu, Ai người quân tử đó ru, Để em khép cửa phòng thu em đợi chờ… Nghe tiếng hò chứa chan tình cảm, Huân thấy lòng rạo rực liền ra bờ sông lấy nón ngoắc cô gái rồi cất giọng hò theo: - Hò ơ… Nước chảy liu riu, lục bình trôi líu ríu, anh thấy nàng nhỏ xíu anh thương, này nàng ơi hỏi thăm thục nữ gia đường ở đâu… Thấy có người cất tiếng hỏi, cô gái bèn đỏng đảnh: - Hò ơ…Chiếc thuyền tôi thả luôn theo dòng nước, anh hỏi chuyện gia đường cách bước mà làm chi… Tuy nói vậy nhưng cô gái cũng ghé thuyền vô bờ. Thấy Huân đứng trước cửa lò ấp, cô liền đánh tiếng hỏi mua trứng vịt lộn. Huân sốt sắng mang ra chục trứng khoe với cô: - Chẳng dám nói ngoa, hột vịt lộn của tôi ngon nhất miệt này. Cô nếm qua chút đỉnh rồi sẽ thấy… Cô gái trả tiền nhưng anh nhất định không lấy. Thấy anh cứ nhìn mình chăm chú, cô gái nguẩy đi: - Làm chi mà cứ ngó lom lom người ta mắc cỡ muốn chết… Tiếng “muốn chết” cô uốn cong lưỡi nghe như “muốn chớt”, mới dễ thương làm sao, Huân thăm dò: - Tôi dám hỏi chẳng hay cô Hai đã có gia đình chưa? - Anh hỏi làm chi mới được chớ? - Nếu cô chưa có nơi chốn nào thì hay là…cô về đây làm lò chung với tôi… Cô gái cười rũ rượi: - Nói chi mà kỳ hôn, hổng thấy người ta đang mắc công việc đây à… - Công việc của cô Hai là việc gì mới được chứ… - Giỡn hoài… _ Tôi đâu có giỡn. Cô Hai không nghe người ta nói: Phải duyên gặp vịt cũng lùa, gặp sông cũng lội gặp chùa cũng tu à. Đôi má bầu bầu của cô gái bỗng đỏ rần: - Anh khéo nói lắm!...Thôi bây giờ xin phép anh tôi phải đi kẻo có người trông. - Ai trông cô Hai vậy cô Hai? - Ai trông thì mắc mớ chi tới anh mà hỏi… Nói rồi cô gái nguây nguẩy bỏ đi. Nhưng rồi lần khác ghé qua cô lại vô lò của anh mua ít trứng vịt lộn. Cô khen: - Hột vịt lộn của anh đập ra, húp nước ngọt không kém gì mì hoành thánh của “các chú” ở Chợ Lớn. Ăn một lần là nhớ hoài… - Cô chỉ nhớ hột vịt thôi chớ hổng nhớ ai à? Cặp môi cô gái uốn cong lên đầy tình tứ: - Nhớ ai? Có ai mà nhớ? - Nhớ…nhớ…chớ còn nhớ ai…. Vừa nói Huân vừa chỉ tay vào ngực mình. Cô gái đỏ bừng mặt: - Anh đừng nói bá láp bá xàm, người ta cười cho mắc cỡ chết. - Ai cười mặc ai, miễn cô Hai không cười tôi là được rồi. Đôi mắt to đen của cô gái ngước nhìn Huân, cảm động. - Em đâu dám cười anh… A mà anh ở đây một mình thui thủi, chắc buồn lắm phải không? - Tôi đâu có phải một mình, tôi có gia đình hẳn hoi. Anh tôi là ông Tú Chiểu dạy học ở trỏng. Huân chỉ về phía trong làng. Cô gái sửng sốt: - Ủa, anh là em ông Tú Chiểu à? Ông Tú Chiểu đặt thơ Lục Vân Tiên phải hôn? - Cô cũng nghe tên anh tôi kia à? - Danh tiếng ông Tú Chiểu khắp miền này ai còn lạ. Nhưng em hỏi thiệt anh câu này, anh đã đọc kỹ thơ Lục Vân Tiên chưa? - Tôi nằm lòng từ hồi nào rồi chớ. - Vậy anh thích nhất câu nào trong đó? Huân nhìn cô gái tủm tỉm cười: - Tôi thích nhất câu: Tới đây duyên đã bén duyên, Trăng thanh gió mát cắm thuyền chờ ai? Cô gái bỗng nghiêm trang: - Em thì em thích câu: Trọn giồi một tấm lòng son, Chí lăm trả nợ nước non cho rồi. Rồi giọng cô chuyển sang tha thiết: - Anh đã hỏi thì em xin tỏ thiệt, ở đời em chỉ ao ước gặp được một người có chí khí như trong thơ Lục Vân Tiên mà thôi. Huân chợt tỉnh, rõ là cô gái có ý nhắc nhở mình về bổn phận làm trai. Như vầy là mình đã trót “thấp cơ thua trí đàn bà”. Để chuộc lại, anh cũng đáp bằng một giọng thành khẩn: - Tôi chắc rằng, người mà cô ước nguyện cũng không còn ở xa cô lắm đâu… Sau ngày đó, hai người thường xuyên chuyện trò thân mật với nhau, lâu dần tình cảm càng thêm gắn bó. Cô gái cho Huân hay tên cô là Xuyến, con một gia đình làm nghề dệt chiếu ở Long An. Cha mẹ cô bị giặc giết trong một trận chúng hành binh qua làng. Từ đó, cô xin gia nhập nghĩa binh của Thống quân Bùi Quang Diệu để kiếm phương trả thù nhà nợ nước. Cô chở thuyền trên sông nước thế này là bởi có nhiệm vụ đưa tin tức cho nghĩa quân. Được lời Xuyến khích lệ, Huân cũng hăng hái xin sung vào đội nghĩa quân của Đốc binh Là. Lúc hay được ý định của em, ông Tú rất tán thành và vô cùng khen ngợi cô gái chở thuyền “thục nữ chí cao” đó. Huân thưa với anh: - Em gặp cô này thật là kỳ ngộ chẳng khác gặp tiên. Hay là nhân vật trong sách của anh đã hóa thành cô kỳ nữ đó! Tú Chiểu chỉ mỉm cười không đáp. Nhưng từ khóe mắt ông, Huân thấy lấm tấm đôi hạt nước mắt… Ghi chú 1* Giữa đường gặp nỗi bất bằng, rút dao giúp đỡ. VI T rên bãi đất rộng cạnh chợ Trường Bình, bà con quây vòng trong vòng ngoài quanh một ông già mù hát dạo và đứa cháu gái nhỏ. Ông già mù vừa đàn độc huyền vừa nói thơ Vân Tiên. Tiếng thơ khi trầm bổng, khi ngân nga, hòa với tiếng đàn réo rắt. Trong tiếng đàn một dây chứa đựng muôn ngàn thứ tiếng: tiếng sóng reo trên sông Cần Giuộc, tiếng lá dừa nước xào xạc, tiếng hò man mác trên con thuyền nước chảy ngược dòng, tiếng giọt mưa đêm rơi tí tách trên chiếc thau đồng, tiếng chim chuyền ríu rít hót mừng mặt trời buổi sớm… Hữu tình chi bấy Ngưu Lang, Tấm lòng Chức Nữ vì chàng mà nghiêng. Thôi thôi em hỡi Kim Liên, Đẩy xe cho chị qua miền Hà Khê… Tiếng xuýt xoa của các bà già. Tiếng cười rúc rích của các cô gái. Tiếng tấm tắc của các chàng trai. Tiếng những đồng kẽm Thiệu Trị, Tự Đức liệng rào rào vô lòng chậu thau cô gái nhỏ ôm trong tay. Trong khi đó, cô gái vẫn đưa mắt liếc nhìn về dãy đồn Lang-Sa bên kia chợ, ở tả ngạn rạch Cầu Tràm, nép cạnh một nhà dạy đạo. Về phía đó, vẳng lại tiếng tàu sắt nổ máy dưới sông, tiếng Tây la thét và tiếng lính mã-tà hô ắc ê bước chân đều nhịp. Ông già mù lại chuyển sang đoạn ông quán. Giọng ông cất cao hẳn lên, chiếc cần cũng lướt nhanh trên dây đàn gợi hình ảnh đàn chim nhảy lách tách trên cành trúc la đà: Quán rằng: Ghét việc tầm phào, Ghét cay ghét đắng, ghét vào tới tâm. Ghét đời Kiệt Trụ mê dâm, Để dân đến nổi sa hầm sẩy hang. Ghét đời U Lệ đa đoan, Để dân luống chịu lầm than muôn phần… Có tiếng xôn xao trong đám người nghe. Tiếng tiền kẽm lại reo loảng xoảng trong chậu. Bỗng từ phía đồn, có một toán lính mã tà đi tới chợ. Một tên reo: - A, có người “nói thơ Vân Tiên”, tụi bây ơi! Cả bọn xúm lại gần ông già hát dạo. Một tên lính nói: - Ông già mần cái đoạn Bùi Kiệm máu dê cho tụi này nó nghe, nó khoái cái đoạn đó bất tử. Một tên khác nói: - Thôi khỏi, ông có rành mần tuồng thì mần lớp Nguyệt Nga cống Hồ cho tụi tôi nghe mới đã. Muốn chiều lòng tụi lính, ông già chuyển sang mần tuồng, lần này ông sắm vai Nguyệt Nga còn cô gái nhỏ vai Kim Liên. Nguyệt Nga cất tiếng than: “Kim Liên em nầy, cô nghĩ lại cô tủi cho phần cô lắm em. Đã vô duyên không trọn nghĩa với ngưòi thương, còn bạc phận phải lìa xa cha mẹ, nữa kìa. Dòng nước chảy đưa thuyền phới nhẹ, giọt sầu tuôn tấc dạ bâng khuâng, bóng trăng rằm vằng vặc một vừng, hồn cố quốc triều triều nửa túi”. Kim Liên tiếp: “ Thưa cô, người có cơn thành bại, nước có lúc lớn ròng. Xin tiểu thư nén dạ an lòng, phú tạo hóa định phần may rủi”. Nguyệt Nga nói: “Em ôi, mù mịt tương lai đầy cát bụi, phất phơ quá vãng luống bồi hồi. Cô cũng muốn làm lơ, nhắm mắt đưa chân lắm chớ. Ngặt vì: mầm ước mong một phút bỗng dứt chồi, gái trinh bạch hai lòng đâu đành chịu, cho được em. Kim Liên em ôi, nước bạc thà trao thân liễu yếu, đền vàng quyết chẳng để danh nhơ. Chữ ân tình cô khó nỗi làm ngơ, về Phiên quốc cô cậy em thay thế”. Kim Liên nói: “Tiểu thư đừng có nghĩ như vậy, không nên đâu” Nguyệt Nga làm điệu bộ mở bức tượng Vân Tiên ra nhìn: “Ai ôi, nếu đó tưởng tình xin chứng chiếu, cho đây hiệp mặt với nhau cùng. Liều mất ngay cho vẹn vẻ thủy chung, để xú tiết thêm thẹn thùa cây cỏ…” Bọn mã tà khoái quá, cầm những xâu tiền điếu liệng rào rào vô chậu. Ông già hát dạo cất tiếng: - Cảm ơn mấy chú thương kẻ đui mù, ơn này nguyện ghi tạc. - Ơn huệ gì? Tụi tôi muốn nghe ca cho đã, rủi có chết cũng hổng còn tiếc đời. Vì ba cái đồng xèng mang về nuôi vợ nuôi con, mà phải dấn thân vô vòng tên đạn, còn không biết, mất không hay đó ông già! - Cữ này cứ đưa quân hoài hoài về miệt Biên Hòa, cái đồn bỏ trống lổng, nghĩ mà thấy ớn xương sống. - Nghe nói ở Biên Hòa sắp đánh nhau lớn lắm, nên các ổng điều quân gắt. Hổng biết bao giờ tới phiên tụi mình đi làm bia đỡ đạn cho mấy ổng. Cả bọn nhao nhao nói, rồi một tên bàn: - Thôi đi kiếm vài be rượu nhậu lai rai chút cho nó quên cái sầu đời đi mày! Bọn lính rủ nhau vô quán nhậu. Bà con từ khi thấy lính tới e xảy chuyện phiền phức cũng tản đi dần. Lúc này chỉ còn hai ông cháu người hát dạo. Ông hỏi nhỏ: - Cháu nhìn rõ như vậy chớ? - Cháu nhìn rõ ràng ràng mà. Tụi nó đưa quân đi tới bến ở mé tay trái, xuống tàu có bòng bong che trắng lốp, ông cũng nghe thấy đó thôi! - Thôi ta về, cháu à. Hai ông cháu cuộn chiếu rồi người mang đờn, kẻ ôm chậu quẹo sang phía con đường làng hướng đi Bình Chánh. Khỏi ao sen lớn đào cặp cổ một con đường nhỏ tới một cảnh chùa nằm lọt giữa mảnh vườn xanh um. Ngoài cổng có biển đề ba chữ: “Tôn Thạnh Tự”. Ông già gõ cửa, một chú tiểu chạy ra trông thấy, vội vào báo cho hòa thượng hay. """