" Được Học - Tara Westover full mobi pdf epub azw3 [Tự Truyện] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Được Học - Tara Westover full mobi pdf epub azw3 [Tự Truyện] Ebooks Nhóm Zalo Dành tặng Tyler Quá khứ đẹp bởi vì con người ta không bao giờ hiểu rõ một cảm xúc ở thời điểm đó. Mãi đến sau này cảm xúc đó mới phát triển, vậy nên chúng ta không có được những cảm xúc trọn vẹn về hiện tại, mà chỉ về quá khứ. — Virginia Woolf Cuối cùng thì tôi cũng tin rằng giáo dục chắc hẳn được hình thành nhờ những kinh nghiệm được tái thiết liên tục; rằng quá trình và mục đích của giáo dục là một và như nhau mà thôi. — John Dewey Lời chú giải của tác giả Câu chuyện này không xoay quanh phái Mặc Môn. Và nó cũng không nói về một đức tin tôn giáo nào khác. Trong câu chuyện có khá nhiều kiểu người, người là tín đồ, người không; rồi thì người tử tế, người không. Tác giả không tán thành bất cứ sự đối chiếu nào, dù là tích cực hay tiêu cực, giữa những kiểu người đó. Những tên gọi dưới đây (theo thứ tự bảng chữ cái) là hư cấu: Aaron, Audrey, Benjamin, Emily, Erin, Faye, Gene, Judy, Peter, Robert, Robin, Sadie, Shannon, Shawn, Susan, Vanessa. Một số chú thích được đưa vào cuốn sách này là để những ký ức khác với ký ức của tôi có tiếng nói. Những ghi chú liên quan đến hai câu chuyện – chuyện Luke bị bỏng và chuyện Shawn ngã từ tấm nâng – là quan trọng và cần dẫn giải thêm. Trong cả hai sự việc nói trên, những chi tiết không nhất quán giữa hai lời kể là khá nhiều và đa dạng. Nói về chuyện Luck bị bỏng. Mọi người có mặt ngày hôm ấy hoặc có nhìn thấy một người nào đó, hoặc không. Bố tôi nhìn thấy Luke, và Luke nhìn thấy bố. Luke nhìn thấy tôi, nhưng tôi không nhìn thấy bố và bố không nhìn thấy tôi. Tôi nhìn thấy Richard và Richard nhìn thấy tôi, nhưng Richard không nhìn thấy bố, và cả bố lẫn Luke đều không nhìn thấy Richard. Điều gì đã tạo lên mâu thuẫn như trò kéo quân vậy? Sau khi tất cả đã quay vòng tròn, khi tiếng nhạc cuối cùng cũng ngừng lại, người duy nhất mà mọi người đều nhất trí rằng đã có mặt ở đó ngày hôm ấy, là Luke. Chuyện Shawn ngã từ trên tấm nâng xuống thậm chí còn gây bối rối hơn. Tôi không có mặt ở đó, tôi chỉ kể lại những gì được kể cho nghe, nhưng tôi tin rằng đó là sự thật bởi nhiều năm trước tôi đã nghe nhiều người kể như vậy, và bởi vì Tyler cũng nghe kể y như thế. Mười lăm năm sau, anh vẫn nhớ chuyện đó giống hệt tôi đã nhớ. Vậy nên tôi đưa nó vào trang viết. Nhưng một phiên bản khác của chuyện này xuất hiện. Chẳng đợi chờ gì hết, phiên bản ấy khẳng định, máy bay trực thăng được gọi tới ngay tức khắc. Nếu nói rằng những chi tiết này không quan trọng thì đó là tôi nói dối; rằng dù bạn tin lời kể nào thì “bức tranh toàn cảnh” vẫn không thay đổi. Những chi tiết ấy quan trọng đấy. Bố tôi bảo Luke xuống núi một mình, hay bố đã không làm thế; bố đã để Shawn ngồi dưới nắng với chấn thương nghiêm trọng ở đầu, hay bố không làm thế. Một người bố khác, một con người khác, được sinh ra từ những chi tiết đó. Về chuyện Shawn ngã, tôi không biết tin vào lời kể nào. Đáng chú ý hơn, tôi không biết nên tin vào phiên bản nào của chuyện Luke bị bỏng, mà tôi có mặt ở đó hẳn hoi. Tôi có thể trở lại thời điểm đó. Luke ở trên cỏ. Tôi nhìn xung quanh. Chẳng có ai khác ở đó, không thấy bóng bố tôi đâu, thậm chí không hề có ý niệm bố tôi đang xốc tới ở bên rìa ký ức của tôi. Bố không ở đó. Nhưng trong ký ức của Luke, bố ở đó, nhẹ nhàng đặt anh vào bồn tắm, cho anh dùng thuốc vi lượng đồng căn để chống sốc. Điều tôi rút ra từ chuyện này là việc điều chỉnh lại, không phải ký ức của tôi mà cách hiểu của tôi. Tất cả chúng ta đều phức tạp hơn những vai mà chúng ta được phân cho trong những câu chuyện mà người khác kể. Đây là điều đặc biệt đúng trong các gia đình. Khi một trong những người anh của tôi lần đầu tiên đọc lời kể của tôi về cú ngã của Shawn, anh ấy đã viết cho tôi: "Anh không thể tưởng tượng nổi là bố gọi 911. Thà Shawn chết." Nhưng có thể không. Có lẽ, sau khi biết con trai mình bị vỡ sọ, bố tôi không còn là người mà vốn dĩ chúng tôi nghĩ là ông, và cũng không phải cái người mà nhiều năm sau này chúng tôi coi là ông. Tôi luôn biết rằng bố tôi yêu con cái, yêu mãnh liệt; tôi luôn tin rằng mối thù ghét các bác sĩ ở ông còn mạnh mẽ hơn. Nhưng có thể không. Có lẽ, vào thời điểm đó, thời điểm khủng hoảng thực sự, tình yêu của ông đã chiến thắng cả nỗi sợ hãi lẫn mối thù ghét trong ông. Có lẽ bi kịch thực sự là, bố tôi có thể sống trong tâm trí chúng tôi, trong tâm trí các anh tôi và tôi, theo cách này, bởi phản ứng của ông vào những thời điểm khác – hàng nghìn sự việc nhỏ nhặt hơn và các khủng hoảng ít nghiêm trọng hơn – đã khiến chúng tôi thấy ông trong vai đó. Tin rằng nếu chúng tôi ngã, bố sẽ không can thiệp. Thà chúng tôi chết. Tất cả chúng ta đều phức tạp hơn những vai mà ta được phân cho trong các câu chuyện. Không điều gì tiết lộ sự thật đối với tôi hơn việc viết tự truyện này – cố gắng giữ những người tôi yêu mến trên trang sách, để nắm bắt toàn bộ ý nghĩa về họ trong vài từ, việc mà tất nhiên là bất khả thi. Đây là điều tốt nhất tôi có thể làm: kể câu chuyện khác song song với chuyện tôi nhớ được. Về một ngày hè, một đám cháy, mùi thịt cháy, và một người cha giúp con trai mình xuống núi. Lời tựa Tôi đang đứng trên nóc toa tàu hỏa bị vứt bỏ cạnh khu chuồng trại. Gió thổi ào ào làm tóc tôi bay lòa xòa khắp mặt và đẩy cái lạnh xuống cổ áo sơ mi không cài cúc của tôi. Càng tới gần núi, những cơn gió càng mạnh, như thể chính đỉnh núi đang thở ra gió vậy. Ở phía dưới, thung lũng thanh bình và yên ả. Trong khi đó trang trại của chúng tôi đang múa: những cây tùng khế đung đưa, đám ngải đắng và những cây kế rung rinh, uốn cong trước mỗi luồng gió thổi ào qua và trước mỗi lỗ hổng không khí. Phía sau tôi, sườn đồi cao dần, cao dần rồi nối vào chân núi. Nếu tôi ngước lên, tôi có thể nhìn thấy hình dáng của nàng công chúa da đỏ hiện ra đen sẫm. Quả đồi được phủ một thảm lúa mỳ mọc hoang. Nếu như đám tùng và ngải đắng là những nghệ sĩ độc diễn thì cánh đồng lúa mỳ là một vũ đoàn ba-lê, mỗi thân lúa đều hòa theo những thân lúa khác trong chuyển động vỡ òa, cả triệu vũ công ba-lê uốn mình, hết lượt này sang lượt khác, khi gió đập mạnh những cái đầu màu vàng sẫm của chúng xuống. Cảnh đó chỉ diễn ra trong thoáng chốc, gần như khi ai đó bắt đầu nhìn thấy gió. Quay đầu về phía nhà chúng tôi trên sườn đồi, tôi nhìn thấy những chuyển động khác, những cái bóng cao cứng nhắc di chuyển qua những luồng gió. Các anh trai tôi đã thức dậy, đang ra ngoài xem thời tiết như thế nào. Tôi hình dung mẹ tôi đang ở bên lò nướng, canh mẻ bánh kếp. Tôi hình dung ra bố tôi cúi lom khom gần cửa sau, buộc dây đôi giày mũi thép của ông và xỏ đôi tay đầy vết chai vào đôi găng tay của thợ hàn. Trên đường cao tốc ở phía dưới, chiếc xe buýt của trường học chạy qua mà không hề dừng lại. Tôi mới bảy tuổi, nhưng tôi đã hiểu một điều, hơn bất cứ điều gì khác, điều này khiến gia đình tôi trở nên khác biệt: Chúng tôi không đến trường. Bố lo rằng Chính phủ sẽ buộc anh chị em tôi phải đến trường, nhưng không thể, bởi vì Chính phủ không biết về sự tồn tại của chúng tôi. Bốn trong số bảy đứa con của bố mẹ tôi không có giấy khai sinh. Chúng tôi không có sổ khám chữa bệnh bởi vì chúng tôi được sinh tại nhà và chưa bao giờ đi khám bác sĩ hoặc y tá⦾. Chúng tôi không có hồ sơ ở trường học bởi vì chúng tôi chưa bao giờ đặt chân đến lớp học. Khi tôi chín tuổi, tôi sẽ thuộc diện làm giấy khai sinh muộn, nhưng bây giờ, theo bang Idaho và Chính phủ Liên bang, tôi không tồn tại. Dĩ nhiên tôi có tồn tại. Tôi lớn lên chuẩn bị cho Ngày Tận Thế, chờ mặt trời tối sầm lại, chờ mặt trăng nhỏ giọt như nhỏ máu. Mùa hè nào cũng như mùa hè nào, tôi dồn những quả đào vào các bình chứa, còn mùa đông tôi quay vòng đồ dự trữ. Khi thế giới của con người sụp đổ, gia đình tôi sẽ vẫn tiếp tục tồn tại, chẳng bị ảnh hưởng gì. Tôi được giáo dục theo nhịp của núi, những nhịp điệu chẳng mấy khi thay đổi mà chỉ mang tính tuần hoàn. Sáng nào cũng như sáng nào, vầng mặt trời ấy xuất hiện, quét qua thung lũng, và trôi xuống phía sau đỉnh núi. Tuyết rơi vào mùa đông, luôn tan vào mùa xuân. Cuộc sống của chúng tôi là một vòng tuần hoàn – của ngày, của mùa – những vòng tuần hoàn của sự thay đổi không ngừng mà khi hoàn tất lại có nghĩa rằng chẳng có gì thay đổi hết. Tôi tin gia đình mình là một phần của khuôn mẫu vĩnh cửu này, rằng theo một nghĩa nào đó, chúng tôi bất diệt. Nhưng sự bất diệt chỉ thuộc về ngọn núi kia mà thôi. Có một câu chuyện mà bố tôi thường kể về đỉnh núi ấy. Nàng là điều gì đó thật cổ xưa, uy nghi, là thánh đường của một dãy núi. Dãy núi đó có những ngọn núi khác, cao hơn, uy nghi hơn, nhưng đỉnh Buck được tạo hình đẹp nhất. Chân núi trải ra cả dặm, hình hài sẫm đen của nó phình ra từ mặt đất và vươn lên thành một chóp nhọn hoàn mỹ. Từ xa bạn có thể nhìn thấy vẻ đẹp ấn tượng của thân hình một người đàn bà trên rặng núi: đôi chân nàng hình thành từ những hẻm núi khổng lồ, tóc nàng là những nhành thông xòa trên đỉnh núi phía Bắc. Dáng đứng của nàng oai nghiêm, một chân duỗi về phía trước trong một động tác đầy uy lực, giống đang sải bước hơn là bước đi bình thường. Bố tôi gọi đó là Nàng Công Chúa Da Đỏ. Hằng năm nàng xuất hiện khi tuyết bắt đầu tan, mặt hướng về phía Nam, nhìn lũ trâu trở về thung lũng. Bố nói những người da đỏ sống du mục chờ sự xuất hiện của nàng như chờ một dấu hiệu báo xuân cho biết tuyết trên núi đang tan, mùa đông đã trôi qua, và đã đến lúc trở về nhà. Tất cả những câu chuyện của bố đều là về ngọn núi, thung lũng, về khu đất lởm chởm của chúng tôi ở Idaho. Bố chưa bao giờ dạy tôi phải làm gì nếu tôi xuống núi, nếu tôi vượt đại dương, đi xuyên lục địa và nhận ra mình đang ở trên một vùng đất xa lạ, nơi tôi chẳng thể tìm nàng công chúa da đỏ phía chân trời. Bố chưa bao giờ dạy tôi làm thế nào để biết đã đến lúc phải về nhà. Phần 1 Chương 1 Chọn Điều Lành Ký ức dai dẳng nhất của tôi thực ra chẳng phải là ký ức. Nó là chuyện mà tôi tưởng tượng ra, sau đó ghi nhớ như thể nó đã xảy ra thật. Ký ức đó được hình thành khi tôi năm tuổi, ngay trước khi tôi bước sang tuổi lên sáu, từ một câu chuyện mà bố đã kể tỉ mỉ đến nỗi tôi và các anh chị tôi mỗi người đều tạo ra trong đầu một phiên bản như một bộ phim của riêng mình, với súng đạn và tiếng la hét. Phiên bản của tôi có những con dế. Đó là âm thanh tôi nghe thấy khi gia đình tôi túm tụm vào nhau ở trong bếp, tắt hết đèn, ẩn trốn người của Liên bang đang bao vây nhà của chúng tôi. Một người phụ nữ mò vào bếp lấy nước uống và cái bóng đen của người đó được ánh trăng soi rõ. Một tiếng súng vọng tới nghe đét một cái như tiếng quất roi và cô ta gục xuống. Trong ký ức của tôi luôn luôn là mẹ gục xuống và mẹ bế một đứa bé trên tay. Mẹ bế đứa bé nào kia chứ, thật vô lý – tôi là con út trong bảy đứa con của mẹ – nhưng như tôi đã nói, chuyện này không có thật. Một năm sau khi bố kể cho chúng tôi nghe chuyện đó, một buổi tối chúng tôi ngồi quây quần nghe bố đọc sách của nhà tiên tri Isaiah, một lời tiên tri về Chúa Cứu Thế. Bố ngồi trên ghế sofa màu mù tạt, cuốn Kinh Thánh to tướng để mở trong lòng. Mẹ ngồi bên cạnh bố. Anh chị em chúng tôi ngồi ngả ngốn trên tấm thảm nâu sờn cũ. “Người sẽ ăn bơ và mật ong,” bố đọc bằng giọng đều đều, chậm rề, mệt mỏi sau một ngày dài vận chuyển phế liệu. “Và người có thể biết khước từ cái xấu, chọn điều lành”. Tiếp theo là một khoảng tạm ngừng nặng nề. Chúng tôi ngồi im lặng. Bố không phải là một người đàn ông cao lớn nhưng có thể chỉ huy cả phòng. Bố có cái vẻ uy nghiêm của một nhà tiên tri. Đôi tay bố to bản với lớp da dày – đôi bàn tay của một người đàn ông đã lao động cật lực cả đời – và đôi tay ấy cầm chắc cuốn Kinh Thánh. Bố đọc rõ to đoạn đó lần thứ hai, rồi lần thứ ba, lần thứ tư. Cứ mỗi lần đọc lại, giọng bố lại cao hơn. Đôi mắt của bố, mới mấy phút trước sụp xuống vì mệt mỏi giờ đây đã mở to, đầy tỉnh táo. Bố nói, có một giáo lý thiêng liêng ở đây. Bố sẽ cầu vấn Chúa. Sáng hôm sau bố dọn sạch sữa, sữa chua và pho mát trong tủ lạnh nhà chúng tôi đi, và tối hôm đó khi bố về nhà, chiếc xe tải nhỏ của bố chở tới năm mươi can mật ong. “Sách Isaiah không nói thứ nào xấu, bơ hay mật ong,” bố vừa nói vừa cười xếch đến mang tai trong khi các anh tôi kéo lê những can mật ong vào hầm chứa thực phẩm. “Nhưng nếu các con hỏi thì Chúa sẽ nói cho các con biết!” Khi bố đọc đoạn đó cho bà nội tôi nghe, bà cười vào mặt bố. “Mẹ có vài xu trong ví đấy,” bà nói. “Anh nên lấy chúng đi. Chúng sẽ là toàn bộ sự minh mẫn mà anh có. Bà tôi có khuôn mặt mỏng, trơ xương và một kho bất tận những đồ giả nữ trang của người da đỏ, tất cả đều bằng bạc và mai rùa, được đeo thành chùm, thành búi trên cái cổ gầy nhằng và những ngón tay mảnh khảnh của bà. Bởi vì bà sống ở dưới chân đồi, gần đường cao tốc, chúng tôi gọi bà là bà-ở-chân-đồi. Đây là cách gọi để phân biệt bà với bà ngoại của chúng tôi, người mà chúng tôi gọi là bà-trong-thị-trấn bởi vì bà sống cách chỗ chúng tôi mười lăm dặm về phía nam, trong cái thị trấn duy nhất của hạt, nơi có mỗi một trạm đèn giao thông và một cửa hàng tạp hóa. Bố tôi và bà nội gắn bó như hai con mèo bị buộc đuôi vào nhau. Họ có thể nói chuyện với nhau cả tuần mà không đồng quan điểm về bất cứ điều gì, nhưng họ vẫn được ràng buộc bởi cả hai đều sùng kính ngọn núi. Gia đình của bố đã sống dưới đỉnh núi Buck nửa thế kỷ. Những người con gái của bà tôi đã lấy chồng và chuyển đi nơi khác, nhưng bố tôi ở lại, dựng một ngôi nhà màu vàng đơn sơ, ngôi nhà mà bố chưa bao giờ hoàn thiện xong, ngay trên sườn đồi, trong khi nhà mẹ đẻ của bố ở chân đồi, và ném cả một đống đồng nát – một trong vài đống – ngay cạnh bãi cỏ được xén tỉa cẩn thận của bà. Họ bất đồng với nhau hằng ngày về bãi đồng nát lộn xộn ấy nhưng bất đồng với nhau thường xuyên hơn về lũ trẻ chúng tôi. Bà nghĩ chúng tôi nên đi học, như bà nói, và không “lang thang trên núi như những kẻ ăn lông ở lỗ”. Bố nói, trường công là một thủ đoạn của Chính phủ nhằm khiến bọn trẻ xa rời Chúa. “Nếu con cho các con mình đi học ở cái trường dưới đường cái kia thì có khác nào con giao chúng cho quỷ dữ,” bố nói. Chúa bảo bố chia sẻ khải thị đó với những người sống và canh tác dưới cái bóng của đỉnh núi Buck. Vào các ngày Chủ nhật, gần như tất cả mọi người đều tập trung tại nhà thờ, một nhà thờ được sơn màu hồ đào, nằm tách khỏi đường cao tốc, với cái tháp chuông nhỏ, giản dị thường thấy ở các nhà thờ Mặc Môn. Bố buộc các ông bố khác phải nghe mình nói, khi họ rời những băng ghế của nhà thờ. Bố bắt đầu với người em họ của mình, chú Jim, người đã từ tốn lắng nghe trong khi bố ve vẩy cuốn Kinh Thánh và giải thích về tội lỗi của sữa. Chú Jim cười xếch đến mang tai, rồi vỗ vai bố tôi, nói rằng không vị Chúa công bằng nào lại tước đi của một con người cái thú thưởng thức kem dâu tây nhà làm vào một trưa hè nóng nực. Vợ của chú Jim giật tay áo chú. Khi chú đi qua chỗ chúng tôi, tôi thoáng ngửi thấy mùi phân bón. Rồi tôi sực nhớ: trang trại bò sữa lớn cách núi Buck một dặm là của chú Jim. Sau khi bố bắt đầu bài thuyết giảng bài trừ sữa, bà nhét sữa đầy ặc tủ lạnh của bà. Ông bà chỉ uống sữa tách béo, nhưng chẳng bao lâu sau khi tất cả những thứ ấy được chất ở đó – ông bà dùng cả sữa chứa hai phần trăm chất béo, sữa nguyên kem, thậm chí sô-cô-la. Dường như bà tin đây là một phương pháp ăn uống quan trọng để duy trì. Bữa sáng trở thành một cuộc thử thách lòng trung thành. Mỗi sáng gia đình tôi ngồi quanh cái bàn rộng bằng gỗ sồi đỏ được gia công lại và ăn ngũ cốc bảy loại hạt cùng mật ong và mật đường, hoặc bánh kếp làm từ bảy loại ngũ cốc, cũng với mật ong và mật đường. Bởi vì có tận chín người chúng tôi nên những chiếc bánh kếp chẳng bao giờ được nướng kỹ. Tôi không phiền vì ăn món ngũ cốc nếu tôi có thể trộn nó vào sữa, để kem quyện bột ngũ cốc lại và tạo thành những viên ngũ cốc, nhưng từ khi có khải thị kia chúng tôi ăn ngũ cốc với nước lọc. Ăn như thế chẳng khác gì ăn một tô bùn. Chẳng bao lâu sau, tôi bắt đầu nghĩ đến tất cả những loại sữa đang thiu ra trong tủ lạnh của bà nội. Sau đó tôi hình thành thói quen bỏ bữa sáng hằng ngày và đi thẳng tới chuồng nuôi gia súc. Tôi đổ nước gạo cho lợn ăn, đổ đầy thức ăn vào máng cho bò và ngựa, sau đó tôi nhảy qua hàng rào của bãi quây gia súc, đi vòng ra phía sau và lẻn vào cửa ngách nhà bà tôi. Vào một buổi sáng như thế, khi tôi đang ngồi tại bàn quầy nhìn bà tôi đổ bánh bột ngô ra bát tô, bà hỏi, “Cháu có thích đến trường lắm không?” “Cháu không thích đâu ạ,” tôi nói. “Làm sao cháu biết được chứ,” bà quát. “Cháu đã bao giờ thử đâu mà biết.” Bà rót sữa vào tô bánh bột ngô và đưa nó cho tôi, sau đó bà ngồi trên chiếc ghế đẩu, đối diện với tôi ở phía bên kia bàn quầy, và nhìn tôi xúc những thìa đầy thức ăn vào miệng. “Ngày mai ông bà sẽ lên đường đi Arizona,” bà nói với tôi, nhưng tôi đã biết điều đó rồi. Ông bà luôn đi Arizona khi thời tiết bắt đầu thay đổi. Ông nói ông quá già để chịu đựng mùa đông Idaho; cái lạnh khiến ông buốt thấu xương. “Mai cháu hãy dậy thật sớm,” bà nói, “khoảng năm giờ, ông bà sẽ đưa cháu đi cùng. Bọn ta sẽ cho cháu đến trường.” Tôi cựa quậy trên ghế. Tôi cố mường tượng ra trường học nhưng không thể. Thay vào đó tôi hình dung ra lớp học giáo lý ngày Chủ nhật mà tuần nào tôi cũng tham gia và tôi ghét. Một thằng con trai tên là Aaron đã nói với tất cả những đứa con gái trong lớp giáo lý rằng tôi không biết đọc bởi vì tôi không đến trường, và bây giờ không đứa nào thèm nói chuyện với tôi. “Bố nói cháu có thể đi ư?” Tôi nói. “Không,” bà nói. “Nhưng khi bố cháu hiểu ra rằng cháu đã biến mất, thì chúng ta đã đi từ lâu rồi.” Bà đặt cái bát của tôi vào bồn rửa và nhìn ra ngoài cửa sổ. Bà là người có tính cách mạnh mẽ – không chịu ngồi yên, hiếu chiến, tự tin. Nhìn bà là để lùi một bước. Bà nhuộm tóc đen và điều này tôn thêm những nét vốn đã dữ dội của bà, nhất là hai hàng lông mày mà sáng nào bà cũng vẽ thành hai đường vòng cung đậm, đen như mực. Bà kẻ lông mày quá rộng và điều này khiến khuôn mặt bà bị kéo giãn ra. Chúng cũng được vẽ quá cao khiến những đường nét khác trên khuôn mặt bà mang một vẻ buồn tẻ, gần như mỉa mai. “Cháu nên đến trường,” bà nói. “Bố sẽ không bắt bà phải đưa cháu về chứ ạ?” Tôi hỏi. “Bố cháu không thể khiến bà làm bất cứ điều chết tiệt nào hết.” Bà đứng dậy, đứng với tư thế vững chãi. “Nếu bố cháu muốn có cháu, thì bố phải đến đón cháu.” Bà ngập ngừng, và trong chốc lát trông bà có vẻ xấu hổ. “Hôm qua ta đã nói chuyện với bố cháu rồi. Trong một thời gian dài bố cháu sẽ không thể đến đưa cháu về được. Bố cháu đang bận với cái lán mà bố cháu xây dựng trong thị trấn. Bố cháu không thể dừng việc đó lại và lái xe tới Arizona, không thể trong khi thời tiết ổn định và bố cháu cùng mấy đứa con trai có thể làm việc suốt những ngày dài.” Kế hoạch của bà đã được tính toán cẩn thận. Bố tôi luôn làm việc từ lúc mặt trời mọc tới lúc mặt trời lặn trong những tuần trước khi xuất hiện đợt tuyết rơi đầu tiên, cố dự trữ đủ tiền từ việc gom phế liệu và xây dựng chuồng trại để chúng tôi có thể tồn tại qua mùa đông, khi mà việc làm trở nên khan hiếm. Dù bà tôi bỏ trốn cùng với đứa con út của bố, thì bố cũng sẽ chẳng thể ngừng làm việc được, cho tới khi cái xe nâng của bố bị bọc trong băng tuyết. “Cháu cần phải cho các con vật ăn trước khi chúng ta đi,” tôi nói. “Chắc chắn bố sẽ biết cháu đi nếu lũ bò phá hàng rào đi tìm nước uống.” Đêm đó tôi không ngủ. Tôi ngồi trên sàn bếp nhìn thời gian trôi, qua chiếc đồng hồ treo tường. Một giờ sáng. Hai giờ. Ba giờ. Bốn giờ tôi đứng dậy, đặt đôi giày ống của mình ở cạnh cửa sau. Phân đóng bánh lại quanh giày, và tôi chắc chắn bà sẽ không cho tôi tha đôi giày ấy lên xe hơi của bà. Tôi hình dung ra đôi giày bị bỏ lại trên hiên nhà bà, trong khi tôi chân trần bỏ trốn đến Arizona. Tôi mường tượng những gì sẽ xảy ra khi gia đình phát hiện ra tôi đã biến mất. Anh Richard và tôi thường ở cả ngày trên núi, vậy nên có thể không ai phát hiện ra chuyện đó cho tới khi mặt trời lặn, khi Richard về nhà ăn tối mà tôi thì không. Tôi hình dung ra các anh tôi chạy túa ra khỏi cửa để tìm tôi. Các anh ấy sẽ thử tìm ở bãi phế liệu trước tiên, nhấc các tấm thép lên phòng khi các tấm thép nằm ngốn ngang đã xê dịch và khiến tôi mắc kẹt trong đống phế liệu. Sau đó họ sẽ chạy ra ngoài, tìm khắp trang trại, trèo lên cây và leo lên tầng áp mái của khu chuồng trại. Cuối cùng, họ sẽ quay lên núi. Lúc ấy trời đã sẩm tối – khoảng thời gian ngắn ngủi trước khi đêm xuống, khi quang cảnh chỉ hiện ra lờ mờ, và bạn cảm nhận thế giới xung quanh mình rõ hơn là nhìn thấy. Tôi mường tượng ra các anh mình tỏa ra trên núi, tìm kiếm trong những khu rừng tối đen. Không ai nói; ý nghĩ của tất cả các anh ấy đều giống nhau. Ở trên núi mọi chuyện có thể diễn biến xấu một cách đáng sợ. Những vách đá hiện ra bất thình lình. Những con ngựa hung dữ của ông tôi chạy lung tung trên những đám cây cần nước độc rậm rạp, và có nhiều rắn chuông. Trước đây chúng tôi đã từng tìm kiếm một con bê biến mất khỏi khu nuôi gia súc. Trong thung lũng, bạn sẽ tìm thấy một con vật bị thương; trên núi, bạn sẽ tìm thấy một con vật đã chết. Tôi hình dung ra mẹ tôi đứng ở cửa sau, ánh mắt quét qua đỉnh núi đen sẫm, khi bố tôi về nhà nói với mẹ rằng bố và các anh không tìm thấy tôi. Chị Audrey của tôi sẽ gợi ý rằng ai đó nên sang hỏi bà nội tôi, và mẹ tôi sẽ nói rằng bà đã lên đường đi Arizona từ sáng. Những lời đó sẽ bị bỏ lửng một lát, sau đó tất cả mọi người đều biết tôi đã đi đâu. Tôi hình dung ra khuôn mặt của bố, đôi mắt đen nheo lại, cái miệng mím chặt vẻ khó chịu khi bố quay sang mẹ. “Em nghĩ nó chọn bỏ đi ư?” Giọng bố vọng lại nghe chậm và buồn. Sau đó nó bị những âm thanh khác từ một ký ức khác được gợi lên – tiếng đế, rồi đến tiếng súng, sau đó là sự im lặng. Sau này tôi biết rằng đó là một vụ việc mà ai cũng biết – như vụ thảm sát Wounded Knee⦾ hoặc vụ Waco⦾ – nhưng khi bố tôi kể cho chúng tôi nghe chuyện đó lần đầu tôi cảm thấy như thể ngoài chúng tôi ra không ai trên thế giới biết về nó. Sự việc bắt đầu vào gần cuối mùa đóng hộp rau quả, mùa mà tất cả những đứa trẻ khác có lẽ gọi là “mùa hè”. Gia đình tôi luôn dành những tháng ấm áp đóng các loại trái cây dự trữ vào bình, thứ mà bố tôi nói rằng chúng tôi cần cho Ngày Tận Thế. Một tối, bố từ bãi phế liệu trở về với tâm trạng bứt rứt. Bố đi đi lại lại trong phòng bếp suốt bữa ăn tối, hầu như không ăn miếng nào. Chúng tôi phải thu xếp xong mọi việc. Chỉ còn rất ít thời gian thôi. Cả ngày hôm sau chúng tôi luộc và gọt vỏ đào. Đến lúc mặt trời lặn chúng tôi đã dồn trái cây vào đầy hàng tá bình chứa Mason, những chiếc bình được xếp theo hàng thẳng tắp, vẫn còn ấm vì trái cây được luộc từ nồi áp suất. Bố kiểm tra việc của chúng tôi, đếm các bình trái cây và lẩm bẩm một mình, sau đó quay sang mẹ và nói, “Đủ rồi.” Tối hôm đó bố tổ chức một cuộc họp gia đình, và chúng tôi tập trung quanh bàn ăn, bởi vì nó rộng và dài, đủ chỗ ngồi cho tất cả chúng tôi. Bố nói chúng tôi có quyền được biết mình sắp chiến đấu chống lại điều gì. Bố đứng ở đầu bàn; bọn tôi ngồi vắt vẻo trên ghế, nhìn đăm đăm những tấm gỗ sồi đỏ dày cộp. “Có một gia đình ở cách đây không xa,” bố nói. “Họ là những chiến binh tự đo. Họ sẽ không để Chính phủ tẩy não các con họ tại các trường công, vậy nên người của Liên bang theo dõi họ.” Bố thở những hơi dài và chậm. “Người của Liên bang đã bao vây lều của họ, giam lỏng họ ở đó trong nhiều tuần, và khi một đứa con của họ đói, một thằng bé, lẻn ra ngoài để kiếm cái ăn, người của Liên bang đã bắn chết nó.” Tôi nhìn khắp lượt các anh mình. Trước đó tôi chưa từng thấy nỗi sợ hãi trên khuôn mặt của Luke. “Họ vẫn ở trong lều,” bố nói. “Họ tắt đèn và bò trên sàn, tránh xa các cửa ra vào và cửa sổ. Bố không biết họ có bao nhiêu thức ăn. Có lẽ họ sẽ chết đói trước khi người của Liên bang bỏ cuộc.” Không một ai thốt lên lời. Cuối cùng Luke, mười hai tuổi, hỏi liệu chúng tôi có thể giúp gì được không. “Không,” bố nói. “Không ai có thể. Họ bị kẹt trong chính ngôi nhà của họ. Nhưng họ có súng, con có thể đoán chắc tại sao người của Liên bang lại không xông vào tấn công. Bố ngừng nói để ngồi xuống, ngồi gò người trên chiếc ghế bằng động tác chậm chạp và cứng nhắc. Trong mắt tôi trông bố già khọm và mệt mỏi. “Chúng ta không thể giúp họ, nhưng chúng ta có thể giúp chính mình. Khi người của Liên bang tới núi Buck, chúng ta sẽ chuẩn bị sẵn sàng.” Đêm đó bố lôi một đống ba lô quân đội cũ từ dưới tầng hầm lên. Bố nói đó là những chiếc ba lô để “thoát hiểm”. Cả đêm đó chúng tôi nhét đồ dùng thiết yếu vào những chiếc ba lô đó – các loại thảo dược, máy lọc nước, bật lửa. Bố đã mua sẵn mấy thùng lương khô của quân đội – và chúng tôi nhét lương khô nhiều hết mức có thể vào những chiếc ba lô, mường tượng ra lúc chúng tôi đã chạy trốn khỏi nhà và ẩn nấp trong đám cây mận dại gần con lạch, chúng tôi sẽ ăn lương khô. Mấy anh trai tôi xếp gọn những khẩu súng vào ba lô của mình nhưng tôi chỉ có một con dao nhỏ, và khi chúng tôi sắp xếp xong, cái ba lô của tôi to bằng người tôi. Tôi nhờ Luke nhấc nó lên một ngăn tủ đựng quần áo của mình, nhưng bố bảo tôi để nó ở chỗ thấp để tôi có thể lấy thật nhanh, vậy nên tôi ngủ với cái ba lô đó ở trên giường của mình. Tôi tập đeo ba lô trên lưng và đeo ba lô chạy – tôi không muốn bị bỏ lại phía sau. Tôi tưởng tượng ra cuộc trốn chạy của gia đình mình, một cuộc trốn chạy vào ban đêm đến lãnh địa an toàn của nàng công chúa da đỏ. Tôi hiểu rằng ngọn núi là đồng minh của chúng tôi. Đối với những người quen biết, ngọn núi đó có thể rất tốt, nhưng đối với những kẻ xâm nhập, núi là sự phản bội thẳng thừng, và điều này mang lại lợi thế cho chúng tôi. Nhưng mà, nếu chúng tôi ẩn nấp trên núi khi người của Liên bang tới, thì tại sao chúng tôi lại đóng tất cả những quả đào này vào bình. Chúng tôi không thể tha cả nghìn cái bình Mason nặng trịch này lên núi. Hoặc nếu chúng tôi cần những trái đào ấy đến vậy thì chúng tôi có thể đào boong-ke ở trong nhà như gia đình Weaver và chiến đấu đến cùng chăng? Chiến đấu đến cùng dường như là điều có thể xảy ra, nhất là khi, vài ngày sau bố tôi về nhà với hơn một tá súng trường quân đội, hầu hết là loại SKS, với những cái lưỡi lê màu bạc mỏng quẹt được gấp gọn dưới nòng súng. Những khẩu súng ấy được để trong những cái hộp thiếc hẹp và được xếp trong một lớp Cosmoline, một chất màu nâu như mỡ lợn cần phải được lột ra. Sau khi chúng đã được lau sạch, anh Tyler chọn một khẩu và đặt nó lên một tấm nhựa màu đen rồi gói lại, dùng hàng thước băng dính màu trắng bạc bó lại. Vác cái gói ấy trên vai, anh mang nó xuống đồi và thả nó xuống cạnh cái toa tàu hỏa màu đỏ. Sau đó anh bắt đầu đào. Khi cái hố đã rộng và sâu, anh thả khẩu súng xuống đó, và tôi nhìn anh lấp đất lên, cơ bắp của anh căng lên vì ráng sức, cằm anh bạnh ra. Chẳng bao lâu sau, bố mua một cái máy để chế tạo những viên đạn từ những vỏ đạn đã qua sử dụng. Bố nói bây giờ chúng tôi có thể trụ lâu hơn trong thế giằng co. Tôi nghĩ đến cái ba lô để "thoát hiểm" của mình và khẩu súng trường được giấu gần toa tàu hỏa, và bắt đầu lo lắng về cái máy chế tạo đạn. Nó kềnh càng và được đóng chốt vào một cái máy trạm sắt ở trong tầng hầm. Nếu bị tấn công bất ngờ thì tôi tính chúng tôi sẽ chẳng có thời gian để xuống lấy nó mang đi. Tôi tự hỏi liệu chúng tôi có nên chôn nó cùng với khẩu súng trường không. Chúng tôi tiếp tục dồn những quả đào vào bình. Tôi không nhớ đã bao nhiêu ngày trôi qua hoặc chúng tôi đã bổ sung bao nhiêu bình trái cây vào kho dự trữ trước khi bố kể cho chúng tôi nghe thêm về chuyện đó. "Randy Weaver đã bị bắn," bố nói, giọng yếu ớt, lập bập. "Ông ta rời lều để đi mang xác con trai về, và người của Liên bang đã bắn ông ta." Trước đó tôi chưa từng thấy bố khóc, nhưng bây giờ những giọt nước mắt rơi thành một dòng chảy xuống từ mũi bố. Bố không lau nước mắt, cứ để mặc chúng rơi xuống áo sơ mi. "Vợ ông ta nghe thấy tiếng súng và chạy tới cửa sổ, ôm đứa con nhỏ trong tay. Thế rồi tiếng súng thứ hai vang lên." Mẹ tội đang ngồi khoanh tay, một bàn tay để trước ngực, tay kia bịt chặt miệng. Tôi nhìn đăm đăm xuống mặt vải sơn lót sàn loang lổ trong khi bố kể với chúng tôi đứa bé được nhấc khỏi tay mẹ nó, mặt dính máu của người mẹ. Trước đó, vốn đã mong chờ chuyện phiêu lưu ấy, tôi phần nào muốn người của Liên bang tới. Giờ đây tôi cảm thấy thực sự sợ hãi. Tôi hình dung ra các anh mình ẩn núp trong bóng tối, những bàn tay đẫm mồ hôi trượt trên báng súng. Tôi hình dung ra mẹ, mệt lả và khát khô, lùi xa khỏi cửa sổ. Tôi hình dung ra mình nằm sấp trên sàn nhà, bất động và im lặng lắng nghe tiếng kêu ghê tai của lũ dế ngoài cánh đồng. Sau đó tôi nhìn thấy mẹ đứng lên, đưa tay ra với vòi nước ở bếp. Một tia sáng trắng lóe lên, tiếng súng nổ, và mẹ đổ gục xuống. Tôi lao tới để đỡ em bé. Bố chưa bao giờ kể cho chúng tôi nghe phần kết của câu chuyện ấy, Chúng tôi không có TV hay đài, vậy nên có lẽ chính bố cũng không biết chuyện kết thúc ra sao. Điều cuối cùng tôi nhớ bố đã nói về chuyện đó là: “Lần tới, đó có thể sẽ là chúng ta.” Những lời ấy ám ảnh tôi suốt. Tôi nghe thấy tiếng vọng của chúng trong tiếng dế kêu, trong tiếng mứt đào rơi xuống bình thủy tinh, trong tiếng kim loại loảng xoảng khi một khẩu SKS được lau chùi. Tôi nghe thấy chúng mỗi buổi sáng khi tôi đi qua cái toa tàu hỏa và dừng lại trước đám cây tràng sao và cây kế bò mọc lên ở chỗ Tyler đã chôn khẩu súng. Khá lâu sau khi bố đã quên sự mặc khải trong sách Isaiah, và mẹ đã lại nhét những bình nhựa chứa loại sữa “2% chất béo dùng cho cả gia đình” vào tủ lạnh, tôi vẫn còn nhớ đến nhà Weaver. Đã gần năm giờ sáng. Tôi quay về phòng mình, đầu tôi đầy nghẹt tiếng dế kêu và tiếng súng. Trên chiếc giường ở bên dưới, Audrey đang ngáy theo nhịp chậm rãi, mãn nguyện, gọi mời tôi cũng làm như vậy. Thay vì thế tôi trèo lên giường của mình, ngồi khoanh chân, nhìn ra ngoài cửa sổ. Mốc năm giờ trôi qua. Rồi sáu giờ. Lúc bảy giờ bà tôi xuất hiện và tôi nhìn bà đi đi lại lại trên hiên nhà bà, quay nhìn lên phía nhà tôi trên đồi một lát. Sau đó ông bà bước lên xe, và thẳng tiến ra đường cao tốc. Khi xe của ông bà đi rồi, tôi ra khỏi giường ăn một tô ngũ cốc với nước lọc. Ở bên ngoài tôi được con dê Kamikaze của Luke đón mừng, gặm áo tôi khi tôi bước về phía khu nuôi gia súc. Tôi đi qua chiếc xe go-kart⦾ mà Richard cải tiến từ một chiếc máy xén cỏ cũ. Tôi cho lợn ăn, đổ thức ăn đầy máng và dắt những con ngựa của ông nội ra bãi cỏ mới. Sau khi làm xong mấy việc đó, tôi trèo lên cái toa tàu hỏa và nhìn ra thung lũng. Thật dễ để giả vờ rằng cái toa tàu đang chuyển động, chạy băng băng khỏi nơi này, rằng bất cứ lúc nào thung lũng cũng có thể biến mất phía sau tôi. Tôi đã chơi với cuốn phim tưởng tượng ấy trong đầu mình nhiều giờ nhưng hôm nay những cuộn phim không quay. Tôi quay về phía Tây, quay mặt khỏi những cánh đồng, và hướng về phía đỉnh núi. Nàng công chúa luôn rạng rỡ nhất vào mùa xuân, ngay sau khi những cây tùng hiện ra khỏi tuyết, những chiếc lá kim màu xanh sẫm của chúng gần như đen ánh trên nền nâu hung hung của đất và vỏ cây. Bây giờ là mùa thu. Tôi vẫn có thể nhìn thấy nàng nhưng nàng đang mờ đi: những sắc đỏ và vàng của một mùa hè đang tàn che mờ hình hài đen huyền của nàng. Chẳng bao lâu nữa sẽ có tuyết. Trong thung lũng, đợt tuyết đầu tiên sẽ tan nhưng trên núi tuyết vẫn lay lắt, chôn vùi nàng công chúa cho đến tận mùa xuân, khi nàng sẽ lại xuất hiện, đầy thao thức. Chương 2 Bà Đỡ “Bà có cúc kim tiền không?” bà đỡ hỏi. “Tôi cũng cần cây lobelia và lá cây phỉ nữa.” Bà ta ngồi tại bàn quầy ở phòng bếp, nhìn mẹ tôi lục lọi khắp mấy cái tủ gỗ dương. Một cái cân điện tử được đặt trên mặt bàn giữa họ, và thỉnh thoảng mẹ sử dụng nó để cân lá thảo dược khô. Đó là mùa xuân. Thời tiết đã lạnh vào buổi sáng mặc dù ngoài trời có nắng rực rỡ. “Tuần trước tôi đã làm một mẻ cúc kim tiền mới,” mẹ nói. “Tara, đi lấy nó ra đây.” Tôi nhớ lại mùi hương thoang thoảng của nó, và nhớ mẹ đã gói nó trong cái túi nhựa cùng thảo dược phơi khô. “Cần gì nữa không nhỉ?” Mẹ cười. Tiếng mẹ lảnh lót và căng thẳng. Bà đỡ đã hăm dọa mẹ, và khi bị hăm dọa mẹ tôi ở trong trạng thái phi trọng lượng, lướt đi nhanh thoăn thoắt mỗi lần bà đỡ thực hiện một động tác chắc chắn, chậm rãi. Bà đỡ kiểm tra danh sách của mình. “Đủ rồi.” Bà là một phụ nữ vừa lùn vừa béo, suýt soát năm mươi, có mười một người con và có một cái mụn cóc màu nâu đỏ ở cằm. Bà có mái tóc dài nhất mà tôi từng thấy, một dòng thác màu lông chuột đổ dài xuống tận kheo chân của bà khi bà gỡ búi tóc được quấn chặt của mình ra. Đường nét trên khuôn mặt của bà không được nhẹ nhõm cho lắm, giọng nói của bà trầm trầm đầy uy quyền. Bà không có giấy phép hành nghề, chẳng có chứng nhận, chứng chỉ gì hết. Bà là một bà đỡ hoàn toàn nhờ năng lực hơn cả đủ của bà. Mẹ tôi sẽ trở thành phụ tá của bà. Tôi nhớ đã quan sát họ trong ngày đầu tiên ấy và thầm so sánh họ. Mẹ với nước da hồng hào và mái tóc quăn theo làn sóng bồng bềnh quanh vai. Mí mắt mẹ sáng lung linh. Sáng nào mẹ cũng trang điểm, nhưng nếu không có thời gian làm điều đó, thì mẹ xin lỗi cả ngày, cứ như thể không trang điểm, mẹ đã gây phiền phức cho tất cả mọi người. Bà đỡ trông như thể cả thập kỷ không mảy may quan tâm đến vẻ ngoài, và phong thái của bà khiến bạn cảm thấy thật ngốc vì đã để ý đến bà. Bà đỡ gật đầu tạm biệt, mang theo đẫy một ôm các loại thảo dược của mẹ. Lần tới bà đỡ đến dẫn theo đứa con gái tên là Maria, đứng cạnh bà, bắt chước các động tác của bà, cùng với một đứa bé được bế như dính vào cái thân hình chín tuổi dẻo dai của nó. Tôi nhìn nó với ánh mắt hy vọng. Tôi không gặp nhiều những đứa con gái khác không đến trường giống như mình. Tôi sán lại gần, cố thu hút sự chú ý của nó, nhưng nó hoàn toàn bị hút vào việc lắng nghe mẹ mình, người đang giải thích rằng cây kim ngân hoa và cây ích mẫu nên được bổ sung để trị chứng co thắt tử cung sau sinh như thế nào. Maria gật gù tỏ vẻ tán đồng; ánh mắt nó không hề rời khuôn mặt của bà mẹ. Tôi lê bước đọc hành lang về phòng riêng, một mình, nhưng khi quay ra để đóng cửa, tôi thấy nó đứng đó vẫn bế đứa bé trên hông. Thằng bé béo ịch, và thân mình con bé vẹo đi trông rất rõ ở đoạn thắt lưng để thằng bé có thể trụ trên hông nó. “Mày sẽ đi chứ?” Nó nói. Tôi không hiểu câu hỏi. “Tao lần nào cũng đi,” nó nói. “Mày đã xem một đứa bé được đẻ ra chưa?” “Chưa.” “Tao đã xem nhiều lần rồi. Mày có biết đẻ ngược nghĩa là thế nào không?” “Không.” Tôi nói như một lời xin lỗi. Lần đầu tiên phụ đỡ đẻ, mẹ tôi đi liền hai ngày. Sau đó mẹ lướt vào nhà qua cửa sau, nhợt nhạt đến mức dường như mặt mẹ trong suốt, và lao tới sofa, ở yên đó, run rẩy. “Khiếp quá,” mẹ thều thào. “Ngay cả Judy cũng nói bà ấy sợ.” Mẹ nhắm mắt lại. “Mà bề ngoài trông bà ấy không có vẻ sợ hãi gì cả.” Mẹ nghỉ vài phút, cho đến khi sắc mặt mẹ khá hơn, rồi mẹ kể chuyện đã xảy ra. Ca đẻ đó kéo dài, mệt nhọc, và khi đứa bé cuối cùng cũng ra, người mẹ bị rách và tình trạng rất tệ. Có máu ở khắp mọi nơi. Thuốc vi lượng đồng căn không cầm máu được. Đó là khi mẹ hiểu ra rằng dây rốn quấn quanh cổ đứa bé. Thằng bé tím tái, vậy nên mẹ cứ nghĩ nó đã chết. Khi mẹ kể lại những chi tiết đó, mặt mẹ cắt không còn hột máu cho tới khi mẹ ngồi đó, mặt trắng bệch như một quả trứng, hai tay mẹ ôm quanh người. Audrey pha trà cúc La Mã và chúng tôi dìu mẹ vào giường ngủ. Tối hôm đó khi bố về nhà, mẹ kể chuyện ấy cho bố nghe. “Em không thể làm việc đó,” mẹ nói. “Judy có thể, nhưng em thì không.” Bố ôm vai mẹ. “Đây là nhiệm vụ mà Chúa giao cho,” bố nói. “Đôi khi Chúa yêu cầu chúng ta làm những việc khó.” Mẹ không muốn làm bà đỡ. Mẹ học đỡ đẻ là ý tưởng của bố tôi, một trong những kế hoạch cho sự tự lực cánh sinh mà bố vạch ra. Chẳng gì bố ghét hơn là sống phụ thuộc vào Chính phủ. Bố nói một ngày nào đó chúng tôi sẽ sống mà hoàn toàn không kết nối với những hạ tầng của Chính phủ, như điện, nước. Ngay khi kiếm đủ tiền, bố sẽ lập kế hoạch xây dựng một đường ống dẫn nước từ trên núi xuống, và sau đó lắp những tấm pin mặt trời trên khắp trang trại. Đó sẽ là cách để chúng tôi có điện và nước trong Ngày Tận Thế, khi tất cả những người khác uống nước từ những vũng nước bẩn và sống trong bóng tối. Mẹ là một thầy thuốc đông y, vậy nên mẹ có thể chăm sóc sức khỏe cho chúng tôi, và nếu mẹ học kỹ thuật đỡ đẻ thì mẹ sẽ có thể đỡ các cháu gọi mình bằng bà khi chúng ra đời. Vài ngày sau ca đỡ đẻ đầu tiên ấy, bà đỡ đến gặp mẹ. Bà dẫn Maria đến và nó lại theo tôi tới phòng riêng. “Thật tệ là mẹ mày mới lần đầu tiên đã gặp phải ca nặng,” nó mỉm cười, nói. “Ca tới đây sẽ dễ hơn.” Vài tuần sau, phỏng đoán này được kiểm chứng. Lúc đó là nửa đêm. Vì chúng tôi không có điện thoại, bà đỡ gọi tới nhà bà-ở-chân-đồi, và bà tôi cuốc bộ lên đồi, mệt lử, cáu bẳn, la toáng lên rằng đã đến lúc mẹ đi “chơi trò bác sĩ”. Bà chỉ ở lại vài phút nhưng đánh thức cả nhà. “Tôi không hiểu nổi tại sao các người không thể đi bệnh viện như mọi người khác,” bà gào lên, đóng sập cửa đánh rầm trong khi bước ra khỏi nhà chúng tôi. Mẹ tôi tìm cái túi dùng cho những chuyến đi ngắn và cái hộp dụng cụ mà mẹ đã nhét đầy những lọ cồn thuốc màu đen vào, rồi chậm chạp bước ra cửa. Tôi lo lắng, ngủ chập chờn, nhưng sáng hôm sau, khi mẹ về, tóc rối bù, mắt thâm quầng, môi hé nụ cười nhẹ nhõm. “Là con gái,” mẹ nói. Rồi mẹ lên giường ngủ cả ngày. Nhiều tháng trôi qua như thế, mẹ rời khỏi nhà và trở về vào bất cứ giờ nào, run rẩy, thở phào vì việc đã xong. Trước khi lá bắt đầu rụng mẹ đã trợ giúp hơn chục ca đỡ đẻ. Đến hết mùa đông, vài chục ca. Vào mùa xuân mẹ nói với bố rằng mẹ đi đỡ đẻ như thế đủ rồi, rằng nếu buộc phải làm việc đó, nếu đó là Ngày Tận Thế, thì mẹ có thể đỡ đẻ được rồi. Bây giờ mẹ có thể dừng. Nghe mẹ nói thế mặt bố xị ra. Bố nhắc nhở mẹ rằng đây là ý Chúa, rằng điều đó sẽ mang lại phước lành cho gia đình chúng tôi, “Em cần phải làm bà đỡ,” bố nói. “Em cần phải tự mình đỡ đẻ.” Mẹ lắc đầu. “Em chịu,” mẹ nói. “Vả lại, ai sẽ thuê em khi mà họ có thể thuê Judy?” Mẹ nguyền rủa bản thân, ném cái găng tay dài của mẹ trước Chúa. Chẳng bao lâu sau, Maria nói với tôi rằng bố nó đã có việc làm mới ở Wyoming. “Mẹ tao nói mẹ mày sẽ thế chân bà ấy,” Maria nói. Một hình ảnh xúc động hình thành trong trí tưởng tượng của tôi, về tôi trong vai của Maria, con gái bà đỡ, tự tin, đầy hiểu biết. Nhưng khi tôi quay sang để nhìn mẹ đang đứng cạnh mình, hình ảnh đó biến mất ngay tắp lự. Đỡ đẻ không phải là việc bất hợp pháp ở bang Idaho, nhưng nó chưa được phê chuẩn. Nếu một ca đỡ đẻ không thành công, bà đỡ có thể phải đối mặt với tội danh hành nghề y không có giấy phép; nếu nhiều sai sót xảy ra, bà đỡ có thể bị buộc tội ngộ sát, thậm chí phải ngồi tù. Chỉ vài phụ nữ chấp nhận loại rủi ro ấy, vậy nên ở đó hiếm có các bà đỡ: khi Judy chuyển tới Wyoming, mẹ tôi trở thành bà đỡ duy nhất trong suốt một trăm dặm. Những người phụ nữ bụng mang dạ chửa bắt đầu tới nhà tôi, nài xin mẹ đỡ đẻ cho họ. Mẹ co rúm người lại khi nghĩ đến việc đó. Một phụ nữ ngồi trên thành ghế sofa màu vàng nhạt bạc phếch của chúng tôi, nhìn trân trân xuống sàn, khi cô giải thích rằng chồng cô đang thất nghiệp và họ không có tiền để đăng ký sinh ở bệnh viện. Mẹ ngồi yên lặng, mắt nhìn tập trung vào một điểm, môi mím chặt, vẻ mặt mẹ rắn đanh trong chốc lát. Sau đó vẻ rắn đanh ấy tan biến và mẹ nói bằng giọng nhỏ nhẹ: “Tôi không phải là bà đỡ, tôi chỉ là người phụ giúp thôi.” Người phụ nữ ấy quay trở lại nhà tôi vài lần, ngồi vắt vẻo trên thành sofa hết lần này đến lần khác, miêu tả những lần sinh nở dễ như trở bàn tay mà cô đã trải qua. Mỗi khi bố tôi nhìn thấy xe hơi của người phụ nữ ấy từ bãi phế liệu, bố lặng lẽ vào nhà bằng cửa sau, giả vờ vào lấy nước; sau đó bố đứng trong bếp khẽ khàng và chậm rãi uống từng ngụm nước, trong khi dỏng tai nghe cuộc chuyện trò từ phòng khách. Mỗi lần người phụ nữ ấy rời khỏi nhà chúng tôi, bố hầu như không thể kiểm chế nổi cơn phấn khích, vậy nên cuối cùng, hoặc vì không chịu nổi nỗi tuyệt vọng của người phụ nữ ấy hoặc niềm sung sướng của bố, hoặc vì cả hai, mẹ nhượng bộ. Ca sinh nở ấy diễn ra suôn sẻ. Sau đó, người phụ nữ ấy có một người bạn cũng mang bầu, và mẹ đỡ đẻ cho cô ta êm xuôi. Thế rồi cô kia có một người bạn. Mẹ lại đỡ đẻ tiếp. Chẳng bao lâu sau mẹ đã đỡ nhiều đứa trẻ ra đời đến mức nhiều ngày trời Audrey và tôi lái xe quanh thung lũng cùng mẹ, theo dõi mẹ thăm khám cho các sản phụ trước khi sinh và kê đơn thảo dược. Mẹ trở thành cô giáo của chúng tôi theo một cách mà mẹ chưa từng, bởi vì trước đó chúng tôi hiếm khi tổ chức học tại nhà. Mẹ giải thích từng bài thuốc và phương pháp giảm đau. Nếu là trường hợp huyết áp cao, người đó sẽ được cho dùng thảo dược làm từ cây táo gai để ổn định collagen và làm giãn mạch. Nếu bà-nào-đó có hiện tượng co thắt sớm thì bà ta cần tắm nước gừng để tăng lượng oxy cho tử cung. Việc đỡ đẻ đã làm con người mẹ thay đổi. Mẹ là một người phụ nữ trưởng thành có bảy đứa con, nhưng đây là lần đầu tiên trong đời, mẹ là người chịu trách nhiệm, mà không có sự ướm hỏi hay báo trước. Thỉnh thoảng, vào những ngày sau một ca sinh nở, tôi phát hiện thấy ở mẹ bộ dạng nặng nề của bà đỡ Judy, trong động tác quay ngoắt lại, hoặc qua đường cong hống hách của một bên lông mày mẹ. Mẹ ngừng trang điểm, sau đó mẹ ngừng xin lỗi vì không trang điểm. Mẹ lấy khoảng năm trăm đô-la cho mỗi ca đỡ đẻ, và đây là một cách khác mà việc đỡ đẻ làm thay đổi mẹ: bỗng nhiên mẹ có tiền. Bố không tin phụ nữ nên làm việc để kiếm tiền, nhưng tôi cho rằng bố nghĩ mẹ được trả tiền cho việc đỡ đẻ là đúng, bởi vì nó làm suy yếu Chính phủ. Vả lại, chúng tôi cần tiền. Bố làm việc vất vả hơn bất cứ người đàn ông nào mà tôi biết, nhưng việc gom phế liệu, xây lán trại chẳng mang lại nhiều tiền, và thật hữu ích khi mẹ có thể dùng những phong bì chứa tiền lẻ mà mẹ cất trong ví để mua tạp phẩm. Đôi khi, nếu chúng tôi bận di chuyển trong thung lũng cả ngày, giao thảo dược và thăm khám cho sản phụ trước khi sinh, mẹ dùng tiền đó đưa tôi và Audrey đi ăn tiệm. Bà-trong-thị-trấn đã cho tôi một cuốn sổ ghi chép được trang trí hình chú gấu Teddy màu nâu trên bìa, và tôi ghi vào đó trải nghiệm lần đầu mẹ đưa chị em tôi tới một nhà hàng mà tôi miêu tả là “thật sự tuyệt vời với thực đơn và mọi thứ.” Theo như ghi chép, bữa ăn của tôi tốn tận 3,3 đô-la. Mẹ cũng dùng tiền kiếm được để cải thiện việc đỡ đẻ của mình. Mẹ mua một bình oxy phòng khi đứa trẻ nào đó ra đời không thể thở được, và mẹ theo một khóa học khâu vết thương để có thể khâu cho những phụ nữ bị rách khi sinh nở. Judy luôn chuyển những phụ nữ cần phải khâu đến bệnh viện, nhưng mẹ quyết tâm học kỹ năng đó. Tôi hình dung mẹ nghĩ, phải tự lực cánh sinh. Với số tiền còn lại, mẹ lắp máy điện thoại⦾. Một hôm một chiếc xe tải nhỏ màu trắng xuất hiện và một nhóm đàn ông mặc đồ bảo hộ lao động bắt đầu trèo lên những cột điện bên đường cao tốc. Bố hầm hầm lao vào nhà bằng cửa sau đòi được biết chuyện quái quỷ gì đang xảy ra. “Em nghĩ anh muốn có một chiếc điện thoại,” mẹ nói, đôi mắt mẹ đầy ngạc nhiên đến mức không thể chê vào đâu được. Mẹ tiếp tục nói liến thoắng. “Anh đã nói có thể sẽ gay go nếu ai đó đau đẻ mà em không ở nhà để nhận điện thoại. Em nghĩ, Bố nó nói đúng, chúng ta cần một cái máy điện thoại! Em ngốc quá! Em đã hiểu sai ý anh chăng?” Bố đứng đó vài giây, miệng há hốc. Bố nói, tất nhiên làm bà đỡ thì cần có điện thoại. Rồi bố quay trở lại bãi phế liệu và không càm ràm về chuyện ấy nữa. Chúng tôi không có điện thoại từ bao lâu rồi tôi không nhớ nữa, nhưng ngay hôm sau cái máy điện thoại đã ở đó, nằm trên cái giá để ống nghe màu vỏ chanh, cái đế bóng loáng của nó trông thật lạc lõng bên cạnh những lọ thảo dược thiên ma và bán chỉ liên xám xịt và tẻ nhạt. Mười lăm tuổi Luke hỏi mẹ liệu anh có thể lấy giấy khai sinh được không. Anh muốn đăng ký học lái xe bởi vì Tony, anh cả của chúng tôi, đang kiếm ra tiền từ việc chở vật liệu mà anh có thể làm vì anh có bằng lái. Shawn và Tyler, hai anh kế Tony đều có giấy khai sinh; chỉ bốn đứa con sinh sau của mẹ – Luke, Audrey, Richard và tôi – không có. Mẹ bắt đầu soạn giấy tờ. Tôi không biết mẹ có nói chuyện ấy với bố trước hay không. Nếu mẹ đã nói thì tôi không thể giải thích nổi điều gì đã làm bố tôi thay đổi – tại sao bỗng nhiên chính sách mười năm không đăng ký với Chính phủ lại kết thúc mà không hề có sự đấu tranh – nhưng tôi nghĩ có lẽ đó là từ cái điện thoại. Cứ như thể bố đã chấp nhận rằng nếu bố thực sự đối đầu với Chính phủ thì bố buộc phải chấp nhận những rủi ro nhất định. Việc mẹ làm bà đỡ sẽ lật đổ hệ thống Y tế công, nhưng để làm bà đỡ mẹ lại cần một chiếc điện thoại. Có lẽ logic tương tự được mở rộng tới Luke: Luke cần có thu nhập để nuôi sống một gia đình, để mua nhu yếu phẩm chuẩn bị cho Ngày Tận Thế, vậy nên anh cần có giấy chứng sinh. Một khả năng khác là, mẹ đã không hỏi bố. Có lẽ mẹ cứ quyết định thôi, và bố chấp nhận quyết định của mẹ. Có lẽ, thậm chí bố – vốn là người đàn ông quyền lực – tạm thời bị sức mạnh của mẹ gạt sang một bên. Khi mẹ bắt đầu làm giấy tờ cho Luke, mẹ quyết định mẹ cũng sẽ lấy giấy khai sinh cho tất cả chúng tôi. Việc đó khó khăn hơn mẹ tưởng. Mẹ lục tung cả nhà lên để tìm các giấy tờ chứng minh chúng tôi là con của mẹ. Mẹ chẳng tìm thấy gì hết. Trong trường hợp của tôi, chẳng ai nhớ một cách chính xác ngày tháng năm sinh. Mẹ nhớ một ngày, bố nhớ một ngày khác, bà-ở-chân-đồi, đã từng vào thị trấn làm một bản khai có tuyên thệ rằng tôi là cháu gái của bà, đưa ra một ngày khác. Mẹ gọi điện tới trụ sở của giáo hội ở thành phố Salt Lake. Một người thư ký ở đó tìm thấy một giấy chứng nhận từ lễ đặt tên thánh của tôi, khi tôi còn là một đứa trẻ sơ sinh, và một giấy khác từ lễ rửa tội của tôi, và cũng giống như mọi đứa trẻ theo giáo phái Mặc Môn, nghi lễ đó diễn ra khi tôi tám tuổi. Mẹ đề nghị họ gửi bản sao của các giấy tờ đó cho chúng tôi. Vài ngày sau họ gửi chúng đến bằng đường bưu điện. “Chao ôi!” Mẹ nói khi mẹ mở phong bì ra. Mỗi giấy tờ đó cho biết một ngày sinh khác, và chẳng ngày nào khớp với ngày bà tôi đã ghi trong bản khai có tuyên thệ. Tuần đó ngày nào mẹ cũng nói chuyện điện thoại hàng giờ. Với cái ống nghe được kẹp trên vai, dây điện thoại vắt ngang phòng bếp, mẹ nấu nướng, lau dọn, và lọc tinh chất cây mao lương hoa vàng và cây kế sữa, trong khi nói đi nói lại qua điện thoại chuyện đó. “Hẳn rồi, đáng lẽ tôi nên khai sinh cho con bé, khi nó ra đời, nhưng tôi đã không làm, vậy nên giờ chúng tôi mới phiền các vị.” Những giọng nói lẩm bẩm ở đầu dây bên kia. “Tôi đã nói với bà rồi – và cấp dưới của bà, và cấp dưới của cấp dưới của bà, và năm mươi người trong tuần này – con bé không đến trường, cũng chẳng có sổ khám chữa bệnh. Nó không có những thứ đó! Bị mất cả rồi. Tôi không thể xin bản sao được. Làm gì có mà xin!” “Ngày sinh của con bé ứ? Cứ cho là ngày hai mươi bảy.” “Không, tôi không chắc đâu.” “Không, tôi không có giấy tờ làm bằng chứng.” “Được, tôi sẽ giữ máy.” Những giọng nói ấy luôn khiến mẹ giữ máy khi mẹ thừa nhận rằng mẹ không biết ngày sinh của tôi, và chuyển máy tới cấp cao hơn của họ, như thể việc không biết tôi sinh vào ngày mấy đã khiến toàn bộ khái niệm có danh tính của tôi trở nên bất hợp pháp. Dường như người ta nói, bạn không thể là người mà không có ngày sinh được. Tôi không hiểu tại sao lại không. Việc không ai biết ngày sinh của tôi dường như chưa bao giờ là chuyện lạ lùng cho tới khi mẹ quyết định làm giấy khai sinh cho tôi. Tôi biết mình chào đời gần cuối tháng Chín, và mỗi năm tôi chọn một ngày không rơi vào Chủ nhật bởi vì chẳng thú vị chút nào khi bạn dùng cả ngày sinh nhật ở nhà thờ. Thỉnh thoảng tôi ước gì mẹ đưa máy điện thoại cho tôi để tôi có thể giải thích. “Cháu cũng có ngày sinh nhật, như các ông bà,” tôi muốn nói với những giọng nói kia. “ Chỉ là ngày đó thay đổi. Các ông bà không muốn thay đổi ngày sinh nhật của mình sao?” Cuối cùng, mẹ thuyết phục được bà-ở-chân-đồi làm một bản khai có tuyên thệ mới tuyên bố rằng tôi sinh vào ngày hai mươi bảy, mặc dù bà vẫn tin đó là ngày hai mươi chín, và bang Idaho cấp một giấy khai sinh cho tôi theo trường hợp khai sinh chậm trễ. Tôi nhớ hôm cái giấy đó đến qua bưu điện. Được trao cho cái giấy chứng nhận hợp pháp đầu tiên về bản thể của mình, tôi có cảm giác bị truất quyền sở hữu rất kỳ cục: trước đó tôi chưa bao giờ chợt nghĩ cái giấy chứng nhận đó là cần thiết. Vậy là tôi đã có giấy khai sinh rất lâu trước khi Luke có giấy khai sinh của anh ấy. Khi mẹ bảo với những giọng nói trên điện thoại rằng mẹ ngờ rằng tôi sinh vào khoảng cuối tháng Chín, họ im lặng. Nhưng khi mẹ bảo họ rằng mẹ không biết chính xác Luke sinh vào tháng Năm hay tháng Sáu thì điều đó khiến những giọng nói ở đầu đầy bên kia om xòm cả lên. Mùa thu ấy, khi tôi chín tuổi, tôi đi đỡ đẻ cùng mẹ. Nhiều tháng, tôi đã mè nheo đòi đi, nhắc mẹ rằng bằng tuổi tôi Maria đã được xem cả tá ca đẻ. “Mẹ không phải là bà mẹ đang nuôi con bú,” mẹ nói. “Mẹ không có lý do để đưa con theo. Vả lại, con sẽ không thích việc đó đâu.” Cuối cùng, mẹ được một người đàn bà có mấy đứa con nhỏ thuê đỡ đẻ. Việc được thu xếp: tôi sẽ trông mấy đứa nhỏ trong khi ca đẻ diễn ra. Cuộc điện thoại đến vào lúc nửa đêm. Chuông điện thoại réo vang khắp hành lang, và tôi nín thở, hy vọng không phải người ta gọi nhầm số. Một phút sau mẹ có mặt bên giường tôi. “Đến lúc rồi,” mẹ nói, và chúng tôi cùng chạy ra xe. Trong suốt mười dặm đường mẹ diễn tập với tôi những gì tôi sẽ nói nếu điều tồi tệ nhất xảy ra và nếu người của Liên bang tới. Trong bất kỳ trường hợp nào tôi cũng sẽ không được nói với họ rằng mẹ là một bà đỡ. Nếu họ hỏi tại sao chúng tôi lại ở đó, tôi sẽ không nói gì. Mẹ gọi đó là “nghệ thuật im lặng.” “Con cứ nói rằng con đang ngủ và con chẳng nhìn thấy gì hết và con không biết bất cứ điều gì, và con chẳng thể nhớ nổi tại sao chúng ta lại ở đó,” mẹ nói. “Chớ có đưa cho họ thêm bất cứ sợi dây thừng nào để họ treo cổ mẹ ngoài những sợi dây họ đã có sẵn.” Mẹ rơi vào im lặng. Tôi chăm chú nhìn mẹ trong khi mẹ lái xe. Khuôn mặt mẹ được đèn trong bảng đồng hồ soi sáng, và nó trông trắng bệch như ma trên cái nền đen như mực của những con đường nông thôn. Nỗi sợ hãi khắc sâu vào những đường nét trên mặt mẹ, trong nét chau mày và đôi môi mím chặt. Chỉ có một mình tôi ở bên, mẹ dẹp bỏ con người mà mẹ phô ra cho người khác thấy. Mẹ trở về là chính mình, mệt mỏi, thở hổn hển. Tôi nghe thấy những tiếng thì thầm khe khẽ và hiểu rằng tiếng thì thầm đó phát ra từ mẹ. Mẹ đang lẩm bẩm cái gọi là “điều gì sẽ xảy ra nếu” với chính bản thân. Điều gì sẽ xảy ra nếu có sự cố? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu trong bệnh sử của họ có điều gì đó phức tạp, mà họ không nói trước với mẹ? Hoặc điều gì sẽ xảy ra nếu đó là một điều bình thường, một khủng hoảng thông thường, và mẹ hoảng sợ, đờ người ra, không cầm máu kịp thời? Vài phút nữa thôi chúng tôi sẽ đến nơi, và mẹ nắm giữ hai mạng sống trong đôi tay bé nhỏ, run rẩy của mình. Tôi chưa bao giờ hiểu được rủi ro mà mẹ đối mặt cho đến phút đó. “Người ta chết trong bệnh viện,” mẹ thì thầm, những ngón tay mẹ bám chặt bánh lái, như hồn ma. “Đôi khi Chúa gọi họ về nhà, và chẳng ai có thể làm gì được. Nhưng nếu điều đó xảy ra với một bà đỡ…” Mẹ quay sang, nói thẳng với tôi. “Chỉ cần một sơ suất thôi, là con sẽ thăm mẹ ở nhà tù.” Chúng tôi đến nơi và mẹ biến thành người khác. Mẹ đưa ra một loạt mệnh lệnh, cho ông bố, cho bà mẹ và cho tôi. Tôi gần như quên làm những gì mẹ bảo, tôi không thể rời mắt khỏi mẹ. Tôi hiểu rằng đêm đó tôi sẽ thấy mẹ lần đầu tiên, thấy sức mạnh bí ẩn của mẹ. Mẹ ra lệnh bằng những tiếng quát tháo và chúng tôi lặng lẽ làm theo lệnh của mẹ. Đứa trẻ chào đời mà không có bất kỳ biến chứng nào. Thật hoang đường và huyễn tưởng khi làm người chứng kiến kín đáo bước ngoặt này trong vòng đời, nhưng mẹ nói đúng, tôi không thích việc đó. Nó kéo dài và mệt mỏi, và toàn mùi mồ hôi háng. Tôi không nằng nặc đòi theo mẹ đến cuộc đỡ đẻ tiếp theo. Mẹ trở về nhà, nhợt nhạt và run rẩy. Giọng mẹ run run khi mẹ kể cho tôi và chị tôi nghe chuyện: nhịp tim của đứa trẻ chậm đi một cách đáng ngại, tới mức chỉ rung rung; mẹ gọi xe cứu thương, sau đó quyết định họ không thể đợi được nữa nên liền đưa sản phụ tới bệnh viện bằng xe của mẹ. Mẹ lái xe với tốc độ cao đến mức trước khi mẹ tới bệnh viện mẹ bị cảnh sát truy đuổi. Trong phòng cấp cứu, mẹ cố cung cấp cho các bác sĩ thông tin họ cần mà không tỏ ra quá rành rẽ, để họ khỏi nghi ngờ mẹ là bà đỡ chui. Một ca mổ đẻ cấp cứu đã diễn ra. Người mẹ và đứa bé phải nằm viện vài ngày, và trước khi mẹ con họ được ra viện mẹ đã hết run. Thực ra, mẹ dường như đã vui vẻ và bắt đầu kể chuyện ấy theo cách khác, nêm vào đó chi tiết mẹ bị viên cảnh sát bắt phải tấp vào lề đường, và ông ta ngạc nhiên khi thấy một người phụ nữ đang rên rỉ, rõ là đang đau đẻ, ở băng ghế sau. “Mẹ dựa ngay vào cái tật hay quên của đàn bà con gái chúng mình,” mẹ kể với Audrey và tôi, giọng mẹ oang oang, gấp gáp. “Đàn ông thích nghĩ rằng mình đang giải cứu một phụ nữ đãng trí gặp khó khăn. Tất cả những gì mẹ phải làm là đứng sang một bên và để ông ta đóng vai anh hùng!” Thời điểm nguy hiểm nhất đối với mẹ đến vài phút sau đó, trong bệnh viện, sau khi người phụ nữ ấy được đẩy đi bằng cáng. Một bác sĩ chặn mẹ lại và hỏi tại sao mẹ lại có mặt đầu tiên tại hiện trường. Mẹ mỉm cười khi nhớ lại khoảnh khắc ấy. “Mẹ hỏi ông ấy những câu hỏi ngớ ngẩn nhất mà mẹ có thể nghĩ ra.” Mẹ giả giọng quyến rũ, véo von chẳng giống giọng mẹ chút nào. “Ôi, là đầu đứa bé ư? Chẳng phải chân ra trước sao?” Vị bác sĩ đó tin rằng không thể có chuyện mẹ là một bà đỡ được. Chẳng có người chế thảo dược nào ở Wyoming giỏi như mẹ, vậy nên vài tháng sau sự cố ở bệnh viện, Judy đến núi Buck để lấy hàng. Hai người phụ nữ tán chuyện trong bếp, Judy ngồi trên chiếc ghế đẩu, mẹ rướn người qua bàn quầy, tựa đầu vào bàn tay. Tôi mang danh sách các loại thảo dược vào buồng kho. Maria, bế cắp nách một đứa bé khác, lẽo đẽo theo sau. Tôi lôi những túi lá khô và những lọ chất lỏng đục ngầu từ trên các giá gác xuống, trong khi thao thao bất tuyệt về kỳ tích của mẹ, kết thúc bằng cuộc chạm trán của mẹ ở bệnh viện. Maria cũng có những câu chuyện của nó về cuộc lẩn tránh người của Liên bang, nhưng khi nó bắt đầu kể một chuyện tôi bèn ngắt lời nó. “Mẹ cậu là một bà đỡ giỏi,” tôi nói, ưỡn ngực ra. “Nhưng khi đương đầu với bác sĩ và cảnh sát, thì không ai đóng vai ngốc giống như mẹ tớ.” Chương 3 Đôi Giày Màu Kem Mẹ tôi, Faye, là con gái của một người bưu tá. Mẹ lớn lên ở thị trấn, trong một ngôi nhà màu vàng với hàng rào bằng cọc nhọn màu trắng được viền bởi những bông hoa diên vĩ màu tím. Bà ngoại tôi là thợ may, có người nói bà là thợ may giỏi nhất thung lũng, vậy nên cô gái trẻ Faye thường mặc những bộ đồ đẹp, tất cả đều được may khéo đến mức không chê vào đâu được, từ những chiếc áo khoác nhẹ bằng vải nhung, những chiếc quần bằng vải nhân tạo đến những bộ âu phục bằng vải len và những chiếc váy đầm bằng vải gabardine⦾. Mẹ đi lễ nhà thờ, đi học ở trường và tham gia các hoạt động cộng đồng. Cuộc sống của mẹ thấm đẫm nề nếp, chuẩn tắc hết mức và sự đứng đắn không thể nghi ngờ. Vẻ đứng đắn ấy được bà ngoại tôi chăm chút cẩn thận. Bà, LaRue, bước vào tuổi thành niên trong những năm 1950, thập kỷ của cơn sốt duy tâm bùng phát sau Thế chiến thứ hai. Cha bà là người nghiện rượu ở cái thời chả mấy ai quan tâm phải gọi thói nghiện ngập ra làm sao, bấy giờ người nghiện rượu không được gọi là “người nghiện rượu” mà là “quá chén” thôi. Bà xuất thân từ một gia đình thuộc loại “có vấn đề” nhưng lại nằm trong một cộng đồng Mặc Môn sùng đạo mà, cũng giống như nhiều cộng đồng khác, đã trừng phạt những đứa con vì tội lỗi của cha mẹ chúng. Người ta cho rằng chẳng người đàn ông đàng hoàng nào ở thị trấn thèm lấy bà. Khi bà gặp và kết hôn với ông ngoại tôi – một người đàn ông trẻ đôn hậu là lính thủy vừa mới xuất ngũ – bà tận tâm tận lực cho việc kiến tạo một gia đình hoàn hảo, hoặc ít nhất na ná như thế. Bà tin rằng điều này sẽ bảo vệ các con gái bà khỏi nỗi khinh miệt của xã hội vốn đã làm bà tổn thương. Một kết quả của nỗ lực này chính là cái hàng rào cọc nhọn màu trắng và tủ quần áo toàn đồ tự may. Một kết quả khác là, cô con gái cả của bà cưới một chàng trai trẻ rất khắt khe, có mái tóc đen nhánh, và ham thích sự độc đáo. Nói chính xác, mẹ tôi cũng phản ứng một cách bướng bỉnh trước tiêu chuẩn đứng đắn được chất đống lên mẹ. Bà tôi muốn dành cho con gái mình món quà mà bản thân bà chưa bao giờ có, món quà mang tên “xuất thân từ một gia đình tử tế”. Nhưng mẹ tôi, Faye, không muốn có món quà đó. Mẹ không phải là nhà cách mạng xã hội – thậm chí ở đỉnh cao của nổi loạn mẹ vẫn duy trì đức tin của người theo giáo phái Mặc Môn, với mối tận tâm dành cho hôn nhân và thiên chức làm mẹ, nhưng những biến động đột ngột của xã hội ở thập kỷ 70 dường như đã có ít nhất một ảnh hưởng đối với mẹ: mẹ không muốn có cái hàng rào cọc nhọn màu trắng và những bộ váy đầm bằng vải gabardine. Mẹ đã kể cho tôi nghe hàng chục câu chuyện thời thơ ấu của mẹ, chuyện bà tôi bực dọc về địa vị xã hội của cô con gái cả, về chiếc váy đầm bằng vải piqué⦾ của mẹ có được cắt theo kiểu đứng đắn hay không, hoặc chiếc quần nhung của mẹ có tông xanh dương chuẩn hay không. Những câu chuyện này gần như luôn kết thúc bằng việc bố tôi lao vào và quần nhung được đổi thành quần bò xanh. Có một câu chuyện đặc biệt luôn ám ảnh tôi. Năm ấy tôi bảy hoặc tám tuổi và đang ở trong phòng thay quần áo để đi nhà thờ, tôi đưa tấm khăn ẩm lên lau mặt, lau tay và chân, chỉ kỳ cọ những chỗ để hở. Mẹ nhìn tôi mặc chiếc váy vải bông qua đầu, chiếc váy mà tôi chọn vì nó dài tay để tôi khỏi phải rửa cánh tay, và mắt mẹ ánh lên nỗi ghen tị. “Nếu con là con gái của bà,” mẹ nói, “thì chúng ta sẽ phải thức đến mờ sáng để sửa sang mái tóc của con. Sau đó cả buổi sáng sẽ được dành cho việc chọn đôi giày nào, màu trắng hay màu kem, để tạo ấn tượng phù hợp.” Mặt mẹ nhăn nhó bởi nụ cười làm xấu. Mẹ cố tỏ ra hài hước nhưng ký ức đã khuấy động nỗi ghen tị. “Thậm chí sau khi đã chọn màu kem, bọn mẹ vẫn bị muộn bởi vì vào phút cuối bà hoảng sợ và lái xe tới nhà em họ Donna để mượn đôi giày màu kem có gót thấp hơn.” Mẹ nhìn đăm đăm ra ngoài cửa sổ. Mẹ chìm vào suy tư. “Màu trắng hay màu kem ư?” Tôi nói. “Chẳng phải đó là một màu sao ạ?” Tôi chỉ có một đôi giày để đi nhà thờ. Đó là giày màu đen, hoặc ít nhất nó cũng đen khi nó còn là của chị gái tôi. Mặc váy xong, tôi quay nhìn vào gương và phủi đất cát quanh ngấn cổ của mình, vừa phủi vừa nghĩ thật may mẹ đã thoát khỏi cái thế giới mà trong đó màu trắng và màu kem khác hẳn nhau, và thoát khỏi nơi mà những vấn đề như vậy có thể làm hỏng cả một buổi sáng tốt lành không chê vào đâu được, một buổi sáng mà nếu ở một điều kiện khác, có thể dành để sục sạo trong bãi phế liệu của bố cùng với con dê của Luke. Bố tôi, Gene, hồi đó là một trong những chàng trai trẻ dường như vừa nghiêm nghị lại vừa tinh quái. Vẻ ngoài của bố gây chú ý, tóc đen như gỗ mun, khuôn mặt góc cạnh, cương nghị, cái mũi giống như một mũi tên hướng về phía đôi mắt sâu dữ tợn. Đôi môi của bố ép vào nhau thành một nụ cười hài hước, cứ như cả thế giới là để cho bố cười nhạo. Mặc dù tôi cũng trải qua tuổi thơ ở chính quả núi mà bố đã sinh ra và lớn lên, cho lợn ăn bằng cùng một cái máng sắt, tôi biết rất ít về thời niên thiếu của bố. Bố chẳng bao giờ kể về nó, vậy nên tất cả những gì tôi có để lần theo là những gợi ý lờ mờ từ mẹ, người đã kể với tôi rằng, trong những năm còn trẻ, ông-ở-chân-đồi đã rất hung bạo, dễ nổi giận. Cách mẹ sử dụng từ đã luôn khiến tôi thấy buồn cười. Tất cả chúng tôi chẳng dại gì mà làm ông cáu. Ông nóng nảy, đó là sự thật và bất cứ ai trong thung lũng cũng có thể khẳng định với bạn như vậy. Ông là người phong trần cả ở bên trong lẫn bên ngoài, căng thẳng và vạm vỡ như những con ngựa ông thả rông trên núi. Bà nội tôi làm việc cho Cục Nông nghiệp ở trong thị trấn. Đến lúc trưởng thành, bố luôn có quan điểm gay gắt về những người phụ nữ đi làm, kể cả là làm cho cộng đồng Mặc Môn ở vùng nông thôn của chúng tôi. “Chỗ của đàn bà là ở nhà,” bố nói mỗi khi nhìn thấy một phụ nữ đã có gia đình làm việc trong thị trấn. Bây giờ tôi đã lớn hơn, thỉnh thoảng tôi tự hỏi liệu thái độ gay gắt của bố liên quan đến mẹ đẻ của bố hơn hay đến giáo lý hơn. Tôi tự hỏi không biết có phải bố ước ngày trước mẹ của mình ở nhà, để bố không bị bỏ mặc ở nhà hàng giờ dài đằng đẵng với người cha nóng tính hay không. Việc trông nom trang trại ngốn hết tuổi thơ của bố. Tôi ngờ rằng bố mong được đi học đại học. Tuy nhiên, theo như mẹ tôi kể, hồi đó bố tràn đầy năng lượng, tiếng cười và sự phô trương. Bố lái chiếc Volkswagen Beetle màu xanh nhạt, mặc những bộ complet lạ mắt được cắt từ những loại vải sặc sỡ, để ria mép rậm, hợp mốt. Họ gặp nhau trong thị trấn. Một tối thứ Sáu, nàng Faye đang làm nhân viên phục vụ tại một bãi chơi bowling thì chàng Gene cùng một nhóm bạn xuất hiện. Trước đó nàng chưa bao giờ gặp chàng vậy nên nàng biết chàng không phải là người thị trấn và chắc hẳn đến từ một khu dân cư trên núi quanh thung lũng. Đời sống nơi thôn dã đã khiến chàng Gene trông không giống những chàng trai trẻ khác: Ở tuổi của mình anh chàng Gene nghiêm túc, gây ấn tượng sâu sắc hơn cả về thân hình lẫn tính độc lập. Sống ở trên núi, con người ta có ý thức về chủ quyền, về quyền riêng tư và lối sống tách biệt, thậm chí quyền thống trị. Trong không gian rộng lớn ấy bạn có thể lướt đi một mình trong nhiều giờ, lơ lửng phía trên những cây thông, bụi cây và những tảng đá. Ý thức đó được lặng lẽ sinh ra từ khung cảnh bao la ấy; nó yên bình mà mênh mang, tạo nên những con người thuần phác. Bố Gene của tôi được sinh ra giữa khung cảnh thôi miên của núi cao, giữa cảnh yên bình không tranh đoạt. Ở thung lũng, mẹ Faye cố không nghe những chuyện ngồi lê mách lẻo chẳng bao giờ hết của một thị trấn nhỏ có những tin đồn được đẩy vào nhà người ta qua những ô cửa sổ, luồn dưới những ô cửa chính. Mẹ tự nhận bản thân là người luôn đi làm hài lòng người khác: mẹ nói mẹ không thể không để ý xem mọi người muốn mẹ trở thành gì và không thể không miễn cưỡng điều chỉnh bản thân để trở thành người như người ta muốn. Sống trong ngôi nhà đầy ắp sự đoan trang, nề nếp của mình ở trung tâm thị trấn, quây quần với bốn căn nhà khác, nhà này sát nhà kia đến nỗi bất kỳ ai cũng có thể ngó vào qua cửa sổ và thì thầm buông lời phán xét, Faya cảm thấy như bị mắc kẹt. Tôi thường hình dung ra lúc bố Gene đưa mẹ lên núi Buck và mẹ, lần đầu tiên, không thể nhìn thấy những khuôn mặt hoặc nghe những giọng nói của người dân ở thị trấn phía dưới. Những khuôn mặt ấy, những giọng nói ấy thật xa, xa lắc xa lơ. Tất cả đã bị ngọn núi làm cho nhỏ xíu, câm lặng. Chẳng bao lâu sau họ đính hôn. Mẹ thường kể một chuyện từ dạo trước khi mẹ kết hôn. Mẹ thân với Lynn, anh trai của mẹ, đến nỗi mẹ dẫn anh đi gặp người đàn ông mà mẹ hy vọng sẽ trở thành chồng mình. Đó là mùa hè, trời tối, và các anh em họ của bố đang làm ầm ĩ cả lên như họ vẫn thường thế sau vụ thu hoạch. Lynn tới và nhìn thấy một căn phòng toàn những kẻ hùng hổ chân vòng kiềng đang gào thét, giơ nắm đấm, đấm vun vút vào không khí, ngỡ mình đang chứng kiến một cuộc ẩu đả y hệt trong phim của John Wayne⦾. Lynn toan gọi cảnh sát. “Mẹ bảo bác hãy cứ nghe cái đã,” mẹ nói, cười chảy cả nước mắt. Mẹ luôn kể đi kể lại chuyện này theo đúng một cách, và chúng tôi ưa thích câu chuyện đến mức nếu mẹ đi chệch khỏi nguyên bản thì chúng tôi kể lại nó cho mẹ. “Mẹ bảo bác hãy chú ý đến lời lẽ thực sự mà họ đang gào lên. Thoạt nghe thì ai cũng ồn ĩ như ong bắp cày, nhưng thực sự họ đang có một cuộc trò chuyện thú vị. ‘Anh phải nghe xem họ nói gì cơ, đừng chú ý đến cách họ nói.’ Mẹ bảo bác ấy, đó chỉ là cách người nhà Westover nói chuyện thôi mà!” Mẹ chưa kể xong, chúng tôi đã cười bò trên sàn. Chúng tôi cười cho đến khi đau cả sườn, tưởng tượng ra cảnh ông bác đứng đắn, đường đường giáo sư của chúng tôi gặp đám anh em hoang dã của bố. Bác Lynn thấy cảnh ấy khó chịu đến mức ông không bao giờ quay lại đó nữa, và từ bé đến giờ tôi chưa hề nhìn thấy ông ở cái núi này. Thật đáng đời bác, chúng tôi nghĩ, vì bác đã can thiệp và cố kéo mẹ tôi trở lại cái thế giới của những chiếc váy đầm may bằng vải gabardine và giày màu kem. Chúng tôi hiểu rằng sự tan rã của gia đình đằng mẹ là khởi đầu của gia đình chúng tôi. Hai gia đình, không thể cùng tồn tại. Chỉ một gia đình có được mẹ mà thôi. Mẹ chưa bao giờ kể với chúng tôi rằng gia đình mẹ phản đối cuộc hôn nhân của bố mẹ nhưng chúng tôi biết điều đó. Có những dấu vết mà nhiều thập kỷ không thể xóa nhòa. Bố tôi hiếm khi bước chân vào nhà của bà trong-thị-trấn, và khi ở đó mặt bố sưng sỉa và bố chỉ nhìn đăm đăm ra cửa. Khi còn nhỏ, tôi hầu như không biết các bác trai, bác gái, các dì, các cậu họ ở đằng ngoại. Chúng tôi hiếm khi đi thăm họ – tôi thậm chí không biết hầu hết họ sống ở đâu – và họ còn hiếm khi đến núi này thăm chúng tôi hơn. Một ngoại lệ là dì Angie, em gái út của mẹ, sống ở thị trấn và vẫn khăng khăng gặp mẹ. Tôi biết qua loa sự kiện bố mẹ đính hôn, hầu hết là từ những câu chuyện mẹ kể. Tôi biết mẹ có nhẫn đính hôn trước khi bố đi nghĩa vụ – một nhiệm vụ mà những người đàn ông Mặc Môn trung thành với đạo phải thực hiện – và dành hai năm đi truyền đạo ở Florida. Bác Lynn nhân lúc bố đi vắng đã giới thiệu em gái mình cho tất cả những người đàn ông đủ tuổi kết hôn mà bác có thể tìm thấy ở phía bên này của dãy Rockies, nhưng không ai có thể làm cho mẹ quên chàng trai nông thôn cương nghị thống trị cả một quả núi. Chàng Gene từ Florida trở về và họ cưới nhau. Bà LaRue may váy cưới. Tôi chỉ thấy duy nhất một tấm ảnh cưới của bố mẹ. Trong ảnh bố mẹ đứng trước một tấm rèm mỏng như tơ màu vàng ngà. Mẹ mặc một chiếc váy truyền thống được may bằng lụa đính hạt phối ren, với đường viền cổ cao che kín xương quai xanh. Một tấm mạng thêu được trùm quanh đầu mẹ. Bố mặc bộ complet màu kem có ve cổ rộng màu đen. Hai người say sưa trong hạnh phúc, mẹ nở nụ cười không vướng bận, bố nở nụ cười rộng ngoác đến nỗi bộ ria mép rậm rì của bố chẳng thể che lấp được. Thật khó để tôi tin rằng chàng trai trẻ vô ưu trong tấm ảnh đó là bố mình. Bố mà tôi biết ở ngoài đời rõ ràng là một người đàn ông trung niên mệt mỏi, đầy lo lắng và sợ hãi, tích trữ thực phẩm và đạn dược. Tôi không biết chàng trai trong tấm ảnh đó đã trở thành người đàn ông mà tôi biết là bố mình từ khi nào. Có lẽ là ngay tắp lự. Bố kết hôn năm hai mươi tuổi, có con trai đầu lòng, anh Tony của tôi, năm bố hai mươi hai. Hai mươi bốn tuổi, bố hỏi mẹ liệu họ có thể thuê một thầy lang đỡ đẻ khi mẹ sinh anh Shawn của tôi không. Mẹ đồng ý. Đó là mách nước đầu tiên, hay đơn giản bố Gene là thế, lập dị và trái khoáy, cố tình làm cho những người nhà đằng vợ vốn không ủng hộ mình bị sốc? Dù gì, hai mươi tháng sau, khi Tyler chào đời, cuộc sinh nở ấy cũng diễn ra tại một bệnh viện. Khi bố hai mươi bảy tuổi, Luke chào đời, tại nhà, được một bà đỡ vườn đỡ. Bố quyết định không làm giấy khai sinh, một quyết định mà bố lặp lại với Audrey, Richard và tôi. Vài năm sau, khi bố bước sang tuổi ba mươi, bố không cho các anh tôi đến trường nữa. Tôi không nhớ chuyện đó, bởi vì nó xảy ra trước khi tôi chào đời, nhưng tôi tự hỏi phải chăng đó là một bước ngoặt. Bốn năm sau, bố tháo bỏ điện thoại và chủ động không gia hạn bằng lái xe. Bố ngừng đăng ký và mua bảo hiểm cho ô tô gia đình. Sau đó bố bắt đầu tích trữ thực phẩm. Phần sau cùng ấy nghe có vẻ giống bố tôi, nhưng không phải là người bố mà các anh trai của tôi nhớ. Bố vừa bước sang tuổi bốn mươi thì người của Liên bang bao vây gia đình Weaver, một sự kiện củng cố những nỗi sợ tệ hại nhất của bố. Sau đó bố luôn dự vào một cuộc chiến, dù cuộc chiến đó chỉ ở trong đầu bố. Có lẽ đó là lý do tại sao Tony nhìn tấm ảnh đó thấy bố của anh, còn tôi thì thấy một người lạ. Mười bốn năm sau sự việc xảy ra với gia đình Weaver, tôi ngồi ở giảng đường của trường đại học nghe một vị giáo sư tâm lý học miêu tả cái gọi là “chứng rối loạn lưỡng cực”. Đó là lần đầu tiên tôi nghe nói về bệnh tinh thần. Tôi biết con người ta có thể phát điên – có người đội những con mèo chết trên đầu hoặc yêu mê cuồng một cây củ cải – nhưng tôi chưa bao giờ có ý niệm rằng một con người có thể vẫn làm việc bình thường, minh mẫn, đầy thuyết phục, mà lại mang bệnh tinh thần. Vị giáo sư đọc các thông tin bằng giọng thô, buồn tẻ: tuổi phát bệnh trung bình là hai mươi lăm; có thể trước đó không hề có triệu chứng gì. Điều mỉa mai là nếu bố tôi bị chứng rối loạn lưỡng cực – hoặc bất cứ bệnh gì trong số cả tá chứng rối loạn tâm thần có thể giải thích cho hành vi của bố – thì chính chứng hoang tưởng bộ phận là một triệu chứng của căn bệnh cản trở sự chẩn đoán và điều trị nó. Ai mà biết được. Ba năm trước bà-trong-thị-trấn qua đời ở tuổi tám mươi sáu. Tôi không biết rõ về bà lắm. Tất cả những năm ấy tôi ra vào căn bếp của bà, và bà chẳng bao giờ kể với tôi bà cảm thấy như thế nào khi nhìn con gái mình sống tách biệt, bị những bóng ma và chứng hoang tưởng vây quanh. Bây giờ khi tôi hình dung về bà tôi chỉ nhớ một hình ảnh duy nhất, cứ như trí nhớ của tôi là một cái máy chiếu bị kẹt khay. Đó là cảnh bà đang ngồi trên chiếc sofa bọc nệm. Tóc bà được cuộn thành những lọn tóc xoăn tít, và môi bà giãn ra thành một nụ cười lịch sự, hợp với hoàn cảnh. Đôi mắt bà vui nhưng trống rỗng, cứ như thể bà đang theo dõi một vở kịch trên sân khấu. Nụ cười ấy ám ảnh tôi. Nó là thứ bất biến, vĩnh hằng duy nhất, bí hiểm, vô tư, thản nhiên. Bây giờ, vì rằng đã lớn hơn và đã chịu khó tìm hiểu về bà, hầu như qua các cô dì, chú bác của mình, tôi biết bà chẳng phải là con người có những đặc tính ấy. Tôi đã dự lễ tang của bà. Đó là một cái quan tài hạng tốt được mở nắp và tôi nhận ra mình đang tìm kiếm khuôn mặt của bà. Các chuyên gia bảo quản thi hài đã không giữ được đôi môi của bà như nó vốn thế – nụ cười lịch thiệp mà sinh thời bà giữ trên khuôn mắt chẳng khác gì cái mặt nạ sắt đã bị gỡ ra. Đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy bà không có nụ cười ấy và cuối cùng tôi chợt nghĩ: rằng bà là người duy nhất có thể hiểu chuyện gì đang xảy ra với tôi, hiểu chứng hoang tưởng và lòng tin tưởng tuyệt đối vào Kinh Thánh đã chia cắt cuộc sống của tôi như thế nào, cướp mất những người tôi quan tâm ra sao, và chỉ để lại cho tôi những bằng cấp và chứng chỉ – cái vẻ đứng đắn. Những gì xảy ra bây giờ trước kia đã xảy ra. Đây là sự cắt đứt quan hệ thứ hai giữa mẹ và con gái. Cuộn băng đang được tua lại. Chương 4 Những Người Phụ Nữ Của Bộ lạc Apache⦾ Không ai nhìn thấy chiếc xe lao khỏi đường cao tốc. Anh Tyler của tôi, mười bảy tuổi, ngủ gật trước vô-lăng. Lúc đó là sáu giờ sáng và anh đã lái xe trong im lặng gần như suốt cả đêm, điều khiển chiếc xe thùng qua Arizona, Nevada và Utah. Chúng tôi đã ở Cornish, một thị trấn vùng quê cách núi Buck hai mươi dặm về phía Nam, khi chiếc xe cán qua vạch kẻ làn đường lấn sang làn đường khác, rồi rời đường cao tốc. Nó lao xuống một cái rãnh, đâm vào hai cột điện được dựng bằng thân cây tuyết tùng chắc nịch, và cuối cùng chỉ dừng lại khi đâm vào một chiếc máy gặt. Chuyến đi đó là ý tưởng của mẹ. Vài tháng trước, khi những chiếc lá khô bắt đầu rơi xuống mặt đất, báo hiệu mùa hè kết thúc, bố trở nên phấn khích. Ngồi ăn sáng bố giậm chân theo nhịp nhạc, và vào bữa tối bố thường chỉ tay lên núi, mắt bố sáng lấp lánh, miêu tả chỗ bố sẽ đặt đường ống để dẫn nước xuống nhà chúng tôi. Bố hứa rằng khi đợt tuyết đầu tiên rơi, bố sẽ đắp một quả cầu tuyết lớn nhất bang Idaho. Bố nói việc bố sẽ làm là cuốc bộ tới chân núi và đắp một quả cầu tuyết nhỏ, bình thường rồi lăn nó xuống sườn đồi, và nhìn nó to lên gấp ba mỗi khi nó lăn qua một cái gò hoặc xuống một hẻm núi. Cho đến khi nó lăn tới nhà chúng tôi ở trên đỉnh ngọn đồi cuối cùng trước thung lũng, nó sẽ to cỡ bằng cái nhà kho của ông nội tôi, và mọi người ở trên đường cao tốc sẽ nhìn nó, đầy kinh ngạc. Chúng tôi chỉ cần có loại tuyết phù hợp. Những bông tuyết dày và dính. Sau mỗi trận tuyết rơi, chúng tôi mang hàng nắm tuyết cho bố, nhìn bố xoa xoa những bông tuyết giữa những ngón tay. Tuyết kia quá mịn. Tuyết này quá ướt. Bố nói, để sau Giáng sinh xem sao. Đó là khi ta có loại tuyết thứ thiệt. Nhưng sau Giáng sinh bố dường như tụt cảm hứng, xuống tinh thần. Bố không nói về quả cầu tuyết nữa, sau đó bố chẳng nói chuyện nữa. Bóng tối dâng đầy đôi mắt bố cho đến khi nó bao phủ chúng. Bố bước đi, hai cánh tay lòng khòng, đôi vai khọm xuống, như thể có một lực nào đó túm lấy bố kéo bố về phía mặt đất. Đến tháng Một bố không thể ra khỏi giường. Bố nằm ngửa, nhìn trân trân lên trần nhà trát vữa với những đường ngoằn ngoèo, gợn sóng. Hằng ngày, khi tôi mang bữa tối vào cho bố, bố không chớp mắt. Tôi không chắc bố biết tôi ở đó. Đó là khi mẹ thông báo chúng tôi sẽ đi Arizona. Mẹ nói bố như một bông hoa hướng dương – ở trong tuyết bố sẽ chết – vì thế tháng Hai đó bố cần được đưa đi xa và “được trồng” trong ánh mặt trời. Vậy là chúng tôi chất đầy các thứ lên chiếc xe thùng và lái mười hai tiếng đồng hồ, luồn lách qua những hẻm núi, phóng trên các xa lộ, cho tới khi chúng tôi đến ngôi nhà lắp ghép ở sa mạc Arizona khô nẻ, nơi ông bà nội tôi đang đợi mùa đông trôi qua. Chúng tôi đến nơi sau khi mặt trời mọc vài giờ. Bố trụ được cho tới khi bố tới hiên nhà bà, nơi bố nằm lại, với chiếc gối bằng sợi móc kê dưới đầu và một bàn tay đầy vết chai để trên bụng. Bố giữ nguyên tư thế đó suốt hai ngày, mắt mở chong chong, không nói một lời, im lìm như một bụi cây trong cái nóng khô khan vắng bặt gió của sa mạc. Vào ngày thứ ba dường như bố phục hồi, nhận thức được những gì diễn ra xung quanh, lắng nghe tiếng trò chuyện vào giờ ăn của chúng tôi thay vì chỉ nhìn trân trân xuống thảm, không phản ứng gì. Hôm đó, sau bữa tối, bà tôi chơi trò gửi tin nhắn qua điện thoại để bàn của bà, và hầu hết hàng xóm và những người bạn đều chào đáp lại. Sau đó, một giọng phụ nữ vang lên qua ống nghe khiến bà nhớ đến cuộc hẹn với bác sĩ vào ngày hôm sau. Tin nhắn đó có ảnh hưởng một cách đáng ngạc nhiên tới bố tôi. Thoạt tiên bố hỏi bà: Bà hẹn gặp bác sĩ để làm gì, bác sĩ đó là ai, tại sao bà phải gặp bác sĩ khi mà mẹ của chúng tôi có thể cho bà các loại cồn thuốc. Bố luôn tin một cách sâu sắc vào các loại thảo dược của mẹ, nhưng tối hôm đó tôi cảm thấy có gì đó khang khác, như thể có điều gì đó bên trong bố đang thay đổi, một tín ngưỡng mới thống trị. Bố nói thảo dược là một học thuyết tâm linh phân biệt lúa mì với đậu tằm, dân có đạo và dân ngoại đạo. Sau đó, bố dùng một từ mà tôi chưa từng nghe: hội Illuminati⦾. Từ đó nghe lạ hoắc, đầy sức mạnh, bất kể nó có nghĩa gì. Bố nói bà là một đại điện vô thức của hội Illuminati. Bố nói Chúa không thể chịu nổi “dân ngoại”. Đó là lý do tại sao những kẻ tội lỗi đáng ghét nhất lại là những kẻ không biết chọn một, cứ sử dụng cả thảo dược lẫn thuốc tây, thứ Tư đến gặp mẹ tôi, thứ Sáu lại đi gặp bác sĩ – hoặc như bố miêu tả, “những kẻ hôm trước thờ Chúa, hôm sau lại cúng quỷ Satan.” Những kẻ đó giống như dân Israel thời cổ đại bởi vì họ đã được ban cho một tôn giáo thực sự nhưng cứ khát khao những thần tượng giả tạo. “Bọn bác sĩ và những viên thuốc tây,” bố nói, gần như la lối, “là thánh thần của họ và họ cứ đánh đi theo.” Mẹ nhìn chằm chằm đĩa thức ăn của mình. Mẹ khựng lại trước từ “đánh đi,” ném về phía bố một cái nhìn giận dữ, sau đó đi về phòng, đóng sập cửa lại. Không phải lúc nào mẹ cũng đồng tình với bố. Khi không có bố ở đó, tôi nghe thấy mẹ nói những điều mà bố – hoặc chí ít sự hiện thân mới của bố – chắc hẳn sẽ coi là báng bổ, những câu chẳng hạn “Thảo dược chỉ là phụ thêm thôi. Với những bệnh nghiêm trọng, ta nên đi bác sĩ.” Bố không thèm chú ý đến cái ghế trống của mẹ. “Bọn bác sĩ không cố cứu sống ta đâu,” bố nói với bà. “Bọn chúng cố giết ta thì có. Khi tôi nghĩ đến bữa ăn tối đó, cảnh tượng ấy hiện lên trong đầu tôi thật rõ. Tôi đang ngồi tại bàn ăn. Bố đang nói, bằng giọng gấp gáp. Bà ngồi đối diện với tôi ở phía bên kia bàn, nhai trệu trạo món măng tây bằng hàm răng khấp khểnh hệt như bò nhai rơm, uống những ngụm nước đá, không hề có biểu hiện gì cho thấy bà có nghe một lời nào bố nói, ngoại trừ việc thỉnh thoảng lại liếc xéo cái đồng hồ treo tường bằng ánh mắt bực dọc khi nó báo cho bà biết vẫn còn quá sớm để đi ngủ. “Mẹ là một người tham gia vào các kế hoạch của quỷ Satan,” bố nói. Cảnh này cứ hiện lên trong đầu tôi hằng ngày, đôi khi vài lần một ngày, trong thời gian còn lại của chuyến đi. Lần nào cũng như lần nào. Bố, bừng bừng hăng hái, nói triền miên suốt một giờ hoặc hơn, trích dẫn đi trích dẫn lại những câu không đổi, được tiếp năng lượng bởi cảm xúc mãnh liệt từ bên trong mà sau khi chúng tôi nghe thuyết giảng đã rơi vào trạng thái ngẩn ngơ đờ đẫn, vẫn cứ chảy hoài. Bà tôi cười vào những bài thuyết giảng đó của bố theo một cách khó quên. Đó là tiếng thở dài, một kiểu thở ra kéo dài qua kẽ răng kết thúc bằng việc đảo mắt lên phía trên như thể giả bộ cáu tiết một cách uể oải, cứ như bà muốn giơ hai cánh tay lên trời nhưng quá mệt không thể thực hiện động tác đó. Sau đó bà mỉm cười – không phải nụ cười ngọt ngào dành cho bất cứ ai khác mà cho bản thân bà, nụ cười của niềm thích thú bị cản trở, một nụ cười mà đối với tôi dường như luôn có nghĩa là, Ta sẽ nói gì với các cháu nhỉ, chẳng phải không có gì buồn cười bằng cuộc sống thực ư. Đó là một buổi trưa nóng như thiêu đốt, nóng đến nỗi bạn không thể đi chân trần trên vỉa hè, khi bà lái xe đưa tôi và Richard qua sa mạc, bắt chúng tôi phải thắt dây an toàn mà trước đó chúng tôi chẳng bao giờ chịu thắt. Chúng tôi lái xe cho tới khi con đường bắt đầu dốc xuống, sau đó tiếp tục lái đi khi nhựa đường bắt đầu biến thành bụi dưới lốp xe và vẫn tiếp tục đi. Bà cho xe chạy quanh co lên cao hơn, cao hơn nữa tới những ngọn đồi trắng lóa, chỉ dừng lại khi con đường đất kết thúc và một đường mòn mở ra. Sau đó chúng tôi đi bộ. Đi được vài phút bà hết hơi, vậy nên bà ngồi xuống một hòn đá đỏ phẳng lì và chỉ một dãy sa thạch phía xa xa, xếp thành hình xoắn ốc, khối nào cũng đã ít nhiều đổ nát, và bảo chúng tôi hãy cuốc bộ tới đó. Khi tới đó, chúng tôi sẽ tìm thấy những viên đá quặng đen. “Chúng được gọi là những giọt lệ Apache,” bà nói. Bà cho tay vào túi áo và lấy ra một viên đá đen nhỏ, bẩn và nham nhở, có những đường vân như kính vỡ màu xám và trắng. “Loại đá đó sau khi được đánh bóng chút ít trông như thế này này.” Bà lấy từ trong túi áo khác ra viên đá thứ hai, có màu đen như mực, nhẵn thín. Richard nhận ra cả hai viên đó đều là đá vỏ chai. “Đó là đá từ núi lửa,” anh nói bằng giọng hiểu biết. “Nhưng đá này thì không phải.” Anh đá một hòn đá bị xói lở và phẩy tay trước thông tin vừa rồi. “Đây là trầm tích.” Richard là người thông thạo những điều vặt vãnh trong lĩnh vực khoa học. Thường thì tôi chẳng để ý đến giảng giải của anh, nhưng hôm nay tôi bị thu hút, và bởi địa hình khô nẻ, lạ lùng này. Chúng tôi đi vòng quanh dãy sa thạch trong một tiếng đồng hồ, quay trở lại chỗ bà với vạt áo đằng trước võng xuống vì đựng những viên đá. Bà vui; bà có thể bán chúng. Bà cất chúng vào cốp xe và trên đường trở về nhà bà kể cho chúng tôi nghe huyền thoại về những giọt lệ Apache. Theo lời bà kể, một trăm năm trước, trên những tảng đá bạc màu đó một bộ lạc người Apache đã đấu tranh chống lại kỵ binh Hoa Kỳ. Bộ lạc ấy không đông bằng lực lượng kia. Họ thua, và cuộc chiến kết thúc. Tất cả những gì còn có thể làm là chờ chết. Chẳng bao lâu sau khi trận đánh bắt đầu, các chiến binh bị mắc kẹt trên một rìa đá. Không muốn chịu thất bại nhục nhã, không muốn mất từng người, từng người một, khi cố gắng phá vòng vây của lực lượng kỵ binh, họ lên ngựa và lao thẳng vào vách núi. Khi các phụ nữ Apache tìm thấy thi thể tan nát của họ trên bãi đá phía dưới, họ khóc và những giọt nước mắt lớn chất chứa niềm tuyệt vọng của họ hóa thành đá khi rơi xuống mặt đất. Bà không bao giờ kể cho chúng tôi nghe chuyện gì đã xảy ra với những người phụ nữ ấy. Người Apache đang có chiến tranh nhưng không còn các chiến binh, vậy nên có lẽ bà nghĩ kết chuyện quá buồn để mà kể. Từ “tàn sát” nảy ra trong đầu tôi, bởi vì đó là từ thích hợp cho một cuộc chiến khi mà một bên không chống cự nổi. Đó là từ chúng tôi vẫn hay dùng ở trang trại. Chúng tôi tàn sát những con gà, chúng tôi không chiến đấu với chúng. Một cuộc tàn sát có thể là hậu quả từ lòng dũng cảm của các chiến binh. Họ chết như những anh hùng, vợ của họ chết như nô lệ. Khi chúng tôi lái xe về ngôi nhà lắp ghép của bà, mặt trời sắp lặn, những tia nắng cuối cùng vắt ngang đường cao tốc, tôi nghĩ về những phụ nữ Apache. Họ đã chết ở nơi giống như bàn thờ sa thạch, cuộc đời họ đã được định đoạt từ nhiều năm trước – trước khi những con ngựa bắt đầu phi nước kiệu, thân hình nâu đỏ của chúng uốn cong đợi trận xung đột cuối cùng. Trước khi các chiến binh lao mình vào vách núi từ rất lâu rồi, chuyện sống như thế nào, chết ra sao của những người phụ nữ ấy đã được định đoạt. Bởi các chiến binh, bởi chính bản thân những người phụ nữ. Đã được định đoạt. Những lựa chọn, vô kể như cát, đã xếp thành tầng tầng, lớp lớp và được lèn chặt, hợp thành trầm tích, rồi thành đá tảng, cho đến khi tất cả an bài dưới dạng những viên đá. Trước đó tôi chưa bao giờ rời khỏi núi Buck và tôi nhớ nó đến quay quắt, nhớ hình ảnh nàng công chúa được khắc trong rừng thông vắt ngang khối núi. Tôi nhận thấy mình đang liếc nhìn bầu trời Arizona trống trải, hy vọng nhìn thấy hình hài đen sẫm của nàng nhô lên từ mặt đất, tuyên bố một nửa bản thân thuộc về thiên đường. Nhưng tôi chẳng thấy nàng ở đó. Hơn cả hình ảnh của nàng, tôi nhớ sự âu yếm vuốt ve của nàng – những cơn gió nàng gửi xuống qua các hẻm núi và khe suối mơn man làn tóc tôi mỗi buổi sáng. Ở Arizona chẳng có gió máy gì. Chỉ có cái nóng táp túa hết giờ này đến giờ khác. Tôi dùng những ngày của mình đi lang thang từ phía bên này sang phía bên kia của ngôi nhà lắp ghép, ra khỏi nhà bằng cửa sau, đi qua hiên sau, bước qua cái võng, sau đó đi vòng ra hiên trước nơi tôi bước qua chỗ bố đang nằm nửa tỉnh nửa mê rồi lại quay vào trong nhà. Tôi nhẹ cả người, khi mà vào ngày thứ Sáu, chiếc xe bốn bánh của bà bị hỏng và Tyler cùng Luke tháo tung nó ra để xem nó trục trặc ở đâu. Tôi ngồi trên cái thùng nhựa màu xanh dương to tướng, xem các anh ấy làm, tự hỏi khi nào chúng tôi có thể về nhà. Khi nào bố thôi nói về Illuminati nữa. Khi nào mẹ thôi bỏ ra khỏi phòng khi bố bước vào. Tối hôm đó sau bữa ăn bố nói đã đến lúc phải đi. “Thu dọn đồ đạc của các con đi,” bố nói. “Nửa giờ nữa chúng ta sẽ ra đến đường cao tốc.” Lúc đó mới là đầu buổi tối, thời điểm mà bà bảo rằng thật lố bịch để bắt đầu một cuộc lái xe kéo dài mười hai giờ. Mẹ nói chúng tôi nên đợi tới sáng hôm sau, nhưng bố muốn về nhà để bố và các anh tôi có thể làm phế liệu vào sáng hôm sau. “Tôi không thể bỏ lỡ thêm một ngày làm việc nào nữa,” bố nói. Mắt mẹ tối sầm lại vì lo âu, nhưng mẹ không nói gì. Tôi choàng tỉnh khi chiếc xe đâm vào cột điện thứ nhất. Tôi ngủ trên sàn xe dưới chân chị gái với một tấm chăn trùm kín đầu. Tôi cố ngồi dậy nhưng xe lắc kinh khủng quá – tôi có cảm giác nó sắp vỡ bung – và Audrey ngã lăn xuống đè lên người tôi. Tôi không nhìn được nhưng tôi có thể cảm thấy và nghe được chuyện gì đang xảy ra. Sau một tiếng uỵch rõ to, một đợt tròng trành, tiếng kêu của mẹ tôi vang lên, “Tyler!” từ ghế trước, và một cú xóc nảy khủng khiếp cuối cùng trước khi tất cả dừng lại và chìm vào im lặng. Vài giây trôi qua không có bất cứ điều gì xảy ra. Thế rồi tôi nghe thấy giọng nói của chị Audrey. Chị gọi tên từng người một. Sau đó chị nói, “Mọi người đây rồi, trừ Tara!” Tôi cố kêu lên nhưng mặt tôi bị ép dưới ghế xe, má tôi bị ép xuống sàn. Tôi cố giãy dưới sức nặng của Audrey khi chị gọi tên tôi. Cuối cùng tôi cong lưng và đẩy được chị ấy xuống, sau đó thò đầu ra khỏi chăn và nói, “Đây.” Tôi nhìn quanh. Tyler đã vặn nửa người trên để anh có thể gần như trèo được sang băng ghế sau, mắt anh lồi ra khi anh nhìn từng vết rách, vết bầm đập, từng đôi mắt hoang dại. Tôi có thể nhìn thấy khuôn mặt của anh nhưng nó trông không giống mặt anh. Máu trào ra miệng anh, chảy xuống áo sơ mi của anh. Tôi nhắm mắt lại, cố quên đi những góc méo mó của những chiếc răng dính máu của Tyler. Khi tôi mở mắt ra, đó là để kiểm tra những người khác có sao không. Richard đang ôm đầu, mỗi tay bịt một bên tai như thể anh đang cố chặn một tiếng ồn. Mũi của Audrey khoằm xuống kỳ cục và máu chảy từ đó xuống cánh tay chị. Luke đang run rẩy nhưng tôi không thể nhìn thấy máu. Tôi bị rách một vết dài và sâu ở cánh tay khung ghế xe bập vào tôi. “Cả nhà mình ổn chứ?” Đó là giọng bố tôi. Chúng tôi thì thào đáp lại đồng loạt. “Có dây điện ở trên xe,” bố nói. “Không ai được ra khỏi xe cho đến khi ngắt điện.” Cửa xe ở phía bố bật mở, và trong chốc lát tôi nghĩ bố đã bị điện giật chết, nhưng sau đó tôi nhìn thấy bố lao mình ra đủ xa để người bố không chạm vào xe và mặt đất cùng lúc. Tôi nhớ mình đã nhìn theo bố qua cửa kính vỡ khi bố đi vòng quanh xe, chiếc mũ lưỡi trai màu đỏ của bố bị hất về phía sau đến nỗi phần lưỡi trai dựng đứng lên, liếm không khí. Bố trông giống trẻ con lạ lùng. Bố đi vòng quanh xe sau đó dừng lại, cúi thấp người, để đầu bố ngang tầm với ghế khách. “Mọi người ổn cả chứ?” Bố hỏi. Rồi bố lặp lại câu hỏi đó. Lần thứ ba bố nói câu đó, giọng bố run run. Tôi rướn người trên ghế để xem bố đang nói với ai, và chỉ khi đó tôi mới hiểu vụ tai nạn nghiêm trọng đến mức nào. Nửa đằng trước của xe bị bẹp rúm, động cơ bị bẻ cong, cuộn về phía trong, giống như một nếp gấp trong đá núi. Mặt trời buổi sáng chiếu lấp lóa trên kính chắn gió. Tôi nhìn thấy những vết nứt, vết rạn đan chéo nhau. Hình ảnh ấy quen thuộc, tôi đã nhìn thấy hàng trăm tấm kính chắn gió xe hơi nứt vỡ trong bãi phế liệu, mỗi tấm đều độc nhất vô nhị, với những chùm vết nứt như tơ nhện lộ ra từ điểm va đụng, biên niên sử về một vụ đâm xe. Những vết nứt trên tấm kính chắn gió của chúng tôi kể câu chuyện của riêng nó. Tấm chấn là một vòng tròn nhỏ với những vết nứt tỏa ra theo hình vòng tròn. Vòng tròn đó ở ngay phía trước ghế khách. “Em không sao chứ?” Bố hỏi giọng van vỉ. “Em à, em có nghe anh nói không?” Mẹ đang ngồi ở ghế khách. Người mẹ không hướng ra cửa sổ. Tôi không thể nhìn thấy mặt mẹ, nhưng có gì đó đáng sợ trong cái cách mẹ ngồi lún sâu trong ghế. “Em có thể nghe anh nói không đấy?” Bố nói. Bố nhắc lại câu đó vài lần. Cuối cùng, bằng một cử động nhỏ đến nỗi gần như không thể nhận ra, tôi thấy túm tóc cột kiểu đuôi ngựa của mẹ hơi hạ xuống rồi lại trở về vị trí cũ khi mẹ gật đầu. Bố đứng đó, nhìn những sợi dây điện đang dẫn điện, nhìn mặt đất, nhìn mẹ. Trông bố đầy vẻ bất lực. “Em có nghĩ – anh nên gọi xe cứu thương không?” Tôi nghĩ mình đã nghe thấy bố nói như vậy. Và nếu bố đã nói như vậy, và chắc hẳn bố đã nói, mẹ chắc hẳn đã thều thào trả lời, hoặc có lẽ mẹ không thể thều thào bất cứ điều gì, tôi không biết nữa. Tôi luôn mường tượng rằng mẹ bảo mọi người đưa về nhà. Sau này tôi được kể cho biết rằng người chủ trang trại có chiếc máy gặt bị xe của chúng tôi đâm vào vội chạy từ nhà ông ta ra. Ông gọi cảnh sát, điều mà chúng tôi biết sẽ mang đến phiền phức bởi vì xe của chúng tôi không có bảo hiểm, và không ai trong chúng tôi thắt dây an toàn. Có lẽ phải mất tới hai mươi phút sau khi người chủ trang trại đó thông báo về vụ tai nạn chọ cơ quan điện lực Utah họ mới cắt điện trên tuyến đường dây đó, Sau đó, bố nhấc mẹ ra khỏi chiếc xe thùng và tôi nhìn thấy khuôn mặt của mẹ – đôi mắt mẹ, ẩn dưới những vệt thâm tím cỡ bằng những quả mận, và những chỗ sưng to khiến những đường nét mềm mại trên mặt mẹ trở nên méo mó, vài nét bị kéo dài, vài nét khác rúm ró. Tôi không biết chúng tôi đã về nhà bằng cách nào, hoặc khi nào, nhưng tôi nhớ mặt núi ánh lên màu da cam trong ánh mặt trời buổi sáng. Vừa vào trong nhà tôi nhìn Tyler nhổ cả suối chất lỏng màu đỏ sẫm xuống bồn rửa trong phòng vệ sinh. Răng của anh bị đập vào bánh lái, lộn xộn hết cả, đến mức chúng thụt vào trong, nhô về phía vòm miệng của anh. Mẹ nằm trên sofa. Mẹ làu bàu rằng ánh sáng làm mẹ nhức mắt. Chúng tôi kéo rèm lại. Mẹ muốn ở dưới tầng hầm, nơi không có cửa sổ, vậy nên bố đưa mẹ xuống cầu thang và trong vài giờ tôi không nhìn thấy mẹ, cho đến tối hôm đó, khi tôi dùng chiếc đèn pin lờ mờ để mang bữa tối xuống cho mẹ. Khi tôi nhìn thấy mẹ, mẹ như một người lạ đối với tôi. Cả hai mắt mẹ tím sẫm, tím đến mức trông chúng như toàn một màu đen, và sưng đến nỗi tôi không biết mắt mẹ đang mở hay nhắm. Mẹ gọi tôi là Audrey, thậm chí sau khi tôi đính chính cho mẹ hai lần. “Cảm ơn con, Audrey, ở đây tối và yên tĩnh, thế là tốt rồi. Tối. Yên tĩnh. Cảm ơn con. Một lúc nữa hãy quay trở lại xem mẹ ra sao nhé, Audrey.” Trong suốt một tuần mẹ không ra khỏi hầm. Mỗi ngày chỗ sưng của mẹ lại tệ hơn, những vết bầm càng ngày càng trở nên thâm đen hơn. Tối nào tôi cũng chắc chắn rằng mặt mẹ đã bầm tím và biến dạng hết mức có thể rồi, nhưng sáng nào tôi cũng thấy nó thâm đen hơn, sưng húp hơn. Sau một tuần, khi mặt trời lặn, tôi tắt đèn đi và mẹ bước lên cầu thang. Trông mẹ như có hai trái táo, đen như quả ô liu được gắn vào trán. Không ai bàn thêm về bệnh viện nữa. Thời điểm để quyết định đã trôi qua, và quay trở lại với chủ đề đó chẳng khác nào quay trở lại với tất cả nỗi giận dữ và sợ hãi mà vụ tai nạn gây ra. Bố nói dẫu sao các bác sĩ cũng chẳng thể làm gì cho mẹ được. Mẹ đang ở trong tay của Chúa. Trong những tháng sau đó, mẹ gọi tôi bằng nhiều cái tên. Khi mẹ gọi tôi là Audrey tôi không lo lắng, nhưng nó thật sự là vấn đề khi mẹ cứ ám chỉ tôi là Luke hoặc Tony, và trong gia đình chúng tôi mọi người, thậm chí bản thân mẹ, luôn nhất trí rằng kể từ vụ tai nạn đó mẹ sẽ không bao giờ còn được như trước nữa. Bọn trẻ chúng tôi gọi mẹ là Mắt Gấu Trúc. Chúng tôi cứ nghĩ đó chỉ là đùa thôi, khi những quầng đen hiển hiện trên mắt mẹ trong vài tuần, đủ lâu để chúng tôi quen với chúng và khiến chúng trở thành đối tượng để trêu đùa. Chúng tôi không biết đó là một thuật ngữ y khoa. Mắt gấu trúc. Một dấu hiệu của tổn thương não nghiêm trọng. Tyler bị ám ảnh bởi cảm giác có lỗi. Anh trách bản thân vì vụ tai nạn, rồi tiếp tục trách mình về mọi quyết định được đưa ra sau đó, về mọi hậu quả, mọi ảnh hưởng lay lắt qua nhiều năm. Anh tuyên bố cái khoảnh khắc đó và mọi hậu quả của nó đều thuộc trách nhiệm của mình, như thể chính thời gian đã khởi đầu khoảnh khắc chiếc xe thùng của chúng tôi chạy ra khỏi đường cái, mà không có lịch sử, bối cảnh, hay bất kỳ lực nào cho tới khi anh bắt đầu mọi chuyện, ở tuổi mười bảy, bằng việc ngủ gật trước vô lăng. Thậm chí bây giờ, khi mẹ đã quên bất kỳ chi tiết nào, dù là vặt vãnh, vẻ hối lỗi ấy vẫn xuất hiện trong mắt anh – nó xuất hiện ở anh sau vụ tai nạn, khi máu tuôn ra từ miệng anh khi anh nhìn thấy cảnh đó, đảo mắt lục tìm những gì anh hình dung là do mình gây ra, chỉ do mình anh thôi. Cá nhân tôi, tôi chưa bao giờ trách ai vì vụ tai nạn đó, chí ít không đổ toàn bộ lỗi cho Tyler. Việc anh ngủ gật chỉ là một trong nhiều yếu tố. Một thập kỷ sau, sự hiểu biết của tôi thay đổi, một phần vì tôi đã có bước chuyển nhọc nhẫn sang tuổi trưởng thành, rồi sau đó vụ tai nạn luôn khiến tôi nghĩ đến những người Phụ nữ Apache, và tất cả những quyết định ảnh hưởng đến một cuộc đời – những lựa chọn mà con người ta làm cùng nhau hoặc đơn lẻ, dẫn đến bất cứ một sự kiện nào. Những hạt cát, nhiều vô kể, nén lại thành trầm tích, rồi hóa đá. Chương 5 Đời Lấm Lem Lương Thiện Núi rũ dần lớp tuyết phủ trên mình và nàng công chúa xuất hiện trên bề mặt của núi với mái đầu chạm nhẹ vào bầu trời. Đó là ngày Chủ nhật, một tháng sau vụ tai nạn, và cả nhà tôi đều đã tập trung trong phòng khách. Bố vừa mới bắt đầu giải nghĩa một đoạn Kinh Thánh thì Tyler hắng giọng nói rằng anh sẽ đi. “Con sẽ đ-đ-đi học đ-đ-đại học,” anh nói, mặt anh đanh lại. Một đường gân trên cổ anh nổi rõ khi anh cố ép cho lời nói bật ra, và cứ vài giây đường gân ấy lại xuất hiện rồi biến mất, như một con rắn đang bò len lỏi. Tất cả mọi người đều nhìn bố. Vẻ mặt bố không lộ cảm xúc, dửng dưng. Im lặng còn khó chịu hơn cả quát tháo. Tyler sẽ là người thứ ba trong số các anh của tôi đi khỏi nhà. Tony, anh cả của tôi, chuyên chở thiết bị, cát sỏi hoặc phế liệu, cố ky cóp được đủ tiền để cưới cô gái nhà ở ngoài đường cái. Shawn, anh thứ hai, vài tháng trước đã to tiếng với bố và bỏ đi. Từ đó tôi chưa gặp anh mặc dù cứ vài tuần mẹ lại nhận được một cú điện thoại chớp nhoáng của anh thông báo rằng anh ổn, rằng anh đang hàn xì hoặc chở các thứ. Nếu Tyler cũng bỏ đi thì bố sẽ không có một đội lao động nữa, và không có ai làm cùng, bố không thể xây dựng chuồng trại hay lán chứa cỏ khô cho người ta. Bố sẽ phải quay lại với việc gom phế liệu. “Trường gì vậy?” Tôi hỏi. “Trường đặc biệt dành cho những đứa quá ngu không thể học thẳng một lèo,” bố nói. Tyler nhìn trân trân xuống nền nhà, mặt anh căng thẳng. Sau đó vai anh chùng xuống, mặt anh nhẹ nhõm và anh ngước lên nhìn; đối với tôi dường như về mặt tinh thần anh không còn ở đó nữa. Đôi mắt anh dịu dàng và vui vẻ. Tôi không thể nhìn thấy anh ở trong đó. Anh lắng nghe bố bắt đầu bài thuyết giáo của mình. “Có hai loại giáo sư đại học,” bố nói. “Một loại biết mình đang nói dối, và một loại nghĩ mình đang nói thật.” Bố cười xếch đến mang tai. “Không biết loại nào tồi hơn, hãy nghĩ mà xem, một người theo hội Illuminati thành thật, chí ít cũng biết mình ở phía quỷ dữ, hay một tay giáo sư kiêu căng luôn nghĩ trí khôn của mình vĩ đại hơn của Chúa.” Bố vẫn cười ngoác miệng. Tình huống không nghiêm trọng; chỉ là bố cần giúp con trai của bố nhìn nhận vấn đề một cách hợp lý thôi mà. Mẹ nói bố đang lãng phí thời gian, rằng một khi Tyler đã quyết định điều gì thì không ai có thể thuyết phục anh thay đổi. “Anh cũng có thể cầm chổi và bắt đầu quét bụi trên núi kia mà,” mẹ nói. Sau đó mẹ đứng dậy, mất vài giây để đứng vững, rồi lê bước xuống cầu thang. Mẹ bị chứng đau nửa đầu. Mẹ gần như luôn bị chứng bệnh đó hành hạ. Ban ngày mẹ vẫn ở dưới tầng hầm, chỉ lên trên sau khi mặt trời lặn, và thậm chí mẹ hiếm khi ở trên nhà hơn một tiếng đồng hồ bởi vì khi mẹ nghe tiếng ồn và mẹ phải gắng sức cử động thì đầu mẹ đau nhức. Tôi nhìn mẹ cẩn thận và chậm chạp bước xuống các bậc thang, lưng mẹ khòng khòng, hai bàn tay mẹ bám chặt thanh vịn cầu thang, như thể mẹ bị mù và phải lần đường đi. Mẹ đợi cả hai chân đứng vững trên một bậc thang rồi mới lần tới bậc tiếp theo. Mặt mẹ đã gần hết sưng, và mẹ trông gần giống như trước, ngoại trừ những quầng đen quanh mắt, đã nhạt dần, chuyển từ màu đen sang màu tím sẫm, và bây giờ có thêm sắc tím hoa cà và màu nho khô. Một giờ sau bố thôi cười ngoác miệng. Tyler không nhắc lại ý muốn đi học đại học, nhưng anh cũng chẳng hứa sẽ ở nhà. Anh chỉ ngồi đó, với vẻ mặt trống rỗng đó, để vượt qua cơn sóng gió. “Một người đàn ông không thể kiếm sống từ sách vở và giấy vụn được,” bố nói. “Con sẽ là chủ một gia đình. Làm thế nào con có thể nuôi nổi vợ con mình bằng sách vở hả?” Tyler dỏng tai lên, cho thấy anh đang nghe, và không nói gì. “Một đứa con trai của bố, đứng xếp hàng để được bọn theo xã hội chủ nghĩa và các gián điệp của hội Illuminati tẩy não…” “Cái tr-tr-trường ấy do một nhà thờ quản lý,” Tyler ngắt lời bố, “Làm sao nó có thể x-x-xấu xa được cơ chứ?” Bố há hốc miệng và một luồng hơi được phả ra. “Mày không nghĩ hội Illuminati đã thâm nhập vào nhà thờ đó sao?” Giọng bố oang oang; từng từ dội lại với sức mạnh của quyền lực. “Mày không nghĩ nơi đầu tiên bọn người kia sẽ tìm đến là cái trường đó, nơi bọn họ có thể nuôi cả một thế hệ những người Mặc Môn theo chủ nghĩa xã hội sao? Bố nuôi dạy mày hơn thế chứ!” Tôi luôn nhớ bố mình lúc đó, cũng như uy quyền, nỗi tuyệt vọng của bố. Bố rướn người về phía trước, cằm bạnh ra, mắt nhíu lại, tìm kiếm trên khuôn mặt của con trai mình dấu hiệu của thái độ tán thành, của niềm chia sẻ. Nhưng bố chẳng tìm thấy gì. Chuyện Tyler quyết định rời khỏi núi là chuyện lạ, đầy những khoảng trống và những khúc quanh. Nó bắt đầu với bản thân Tyler, với thực tế lạ lùng về anh. Chuyện đó đôi khi xảy ra trong các gia đình: một đứa con không hòa hợp, nhịp của nó bị ngắt, lạc điệu. Trong gia đình của chúng tôi, đứa con ấy là Tyler. Anh nhảy valse trong khi những người còn lại trong gia đình nhảy điệu jig. Anh bị điếc trước thứ “âm nhạc” xôn xao náo động trong cuộc sống của chúng tôi, và chúng tôi bị điếc trước loại nhạc đa âm trầm lắng của anh. Tyler thích sách, anh thích yên tĩnh. Anh thích việc bài trí, sắp xếp và dán nhãn. Có lần, mẹ tìm thấy cả một ngăn đầy bao diêm được xếp theo năm trong tủ quần áo của anh. Tyler nói rằng chúng chứa những chiếc gọt chì của anh trong năm năm qua, mà anh đã sưu tầm để chế bật lửa cho những chiếc ba lô “thoát hiểm” của chúng tôi. Ngoài ngăn tủ đó, những chỗ khác trong nhà lộn xộn không chối cãi được: những đống quần áo bẩn, dính dầu mỡ lem nhem từ bãi phế thải, rong rắc khắp sàn các phòng ngủ; trong bếp, những lọ rượu thuốc đục ngầu xếp hàng trên mọi cái bàn, mọi cái tủ, và chúng chỉ được dọn đi để lấy chỗ cho những công trình thậm chí còn gây bừa bộn hơn, chẳng hạn để lột da một con nai chết hoặc để lột dấu niêm cất của một khẩu súng trường. Nhưng giữa trung tâm của mớ lộn xộn này, Tyler đã có bộ sưu tập gọt chì nửa thế kỷ, được sắp xếp đâu ra đấy theo năm. Các anh tôi giống như một bầy sói. Họ liên tục thử thách nhau, bằng những cuộc ẩu đả nổ ra mỗi lần người nào đó phát triển nhảy vọt và mơ đến việc tiến lên. Khi tôi còn nhỏ, những cuộc ẩu đả này thường kết thúc bằng việc mẹ gào lên át cả tiếng loảng xoảng của một chiếc đèn hoặc bình hoa vỡ, nhưng khi tôi lớn hơn chẳng còn lại nhiều thứ để mà đập vỡ. Mẹ kể rằng, khi tôi còn bé, nhà chúng tôi đã từng có một chiếc TV cho tới khi Shawn dúi đầu Tyler vào màn hình. Trong khi các anh tôi vật nhau, Tyler nghe nhạc. Anh sở hữu chiếc máy nghe nhạc duy nhất mà tôi từng nhìn thấy tính cho đến lúc đó, và bên cạnh chiếc máy ấy anh để một chồng đĩa CD cao ngất với những từ lạ hoắc in trên đó, như Mozart, Chopin. Một buổi trưa Chủ nhật, khi anh khoảng mười sáu tuổi, anh bắt gặp tôi đang tròn mắt nhìn những đĩa nhạc ấy. Tôi cố chạy, bởi vì tôi nghĩ mình có thể bị anh nện cho một trận vì mò vào phòng anh, nhưng thay vì thế anh nắm tay tôi, dẫn tôi tới chỗ những đĩa nhạc đó. “E-em thích đĩa n-nào nhất?” Anh hỏi. Tôi thích chiếc đĩa đen sì, với hình cả trăm người đàn ông và đàn bà mặc đồ trắng trên vỏ đĩa. Tôi chỉ vào nó. Tyler nhìn tôi vẻ hoài nghi. “Ð-đ đây là nhạc h-h-hợp xướng đấy,” anh nói. Anh tra đĩa nhạc đó vào cái máy nghe nhạc đen sì, sau đó ngồi vào bàn đọc sách. Tôi ngồi xổm trên sàn nhà, cạo cạo những hoa văn trên tấm thảm. Nhạc bắt đầu ngân lên: một hơi của bộ dây, sau đó là tiếng thầm thì của những giọng người, trầm bổng, êm như lụa, nhưng không hiểu sao lại vang vọng. Bài thánh ca này quen thuộc đối với tôi – tôi đã hát nó tại nhà thờ, một dàn đồng ca của những giọng hát không ăn nhập với nhau mấy cất lên trong niềm tôn kính – nhưng nhạc này khác. Nó cũng ngập tràn niềm tôn kính, nhưng nó cũng là điều gì đó khác, một điều gì đó liên quan đến học tập, kỷ luật và hợp tác. Một điều gì đó tôi chưa hiểu được. Bài thánh ca kết thúc và tôi ngồi im như tượng khi bản nhạc khác ngân lên, rồi bản tiếp theo, cho đến hết đĩa nhạc. Tôi có cảm giác thiếu âm nhạc căn phòng không có sinh khí. Tôi hỏi Tyler liệu chúng tôi có thể nghe lại đĩa nhạc đó không, và một giờ sau, khi nhạc dừng, tôi nài nỉ anh cho nghe lại. Đêm đã khuya, và ngôi nhà trở nên im ắng, khi Tyler đứng dậy khỏi bàn và ấn nút “play,” nói rằng đó là lần cuối. “Mai a-a-anh em mình lại ngh-ngh-nghe,” anh nói. Âm nhạc trở thành ngôn ngữ của chúng tôi. Trở ngại về nói năng của Tyler khiến anh trầm lặng, làm lưỡi anh nặng trĩu. Vì thế anh và tôi chưa bao nói chuyện nhiều; tôi không hiểu anh trai mình. Giờ đây, tối nào anh ở bãi phế liệu về, tôi cũng đợi anh. Sau khi anh tắm rửa, kỳ sạch bụi bẩn của ngày khỏi da mình, anh ngồi vào bàn và nói, “T-t-tối nay chúng ta sẽ ngh nghe gì-gì nào?” Sau đó tôi chọn một đĩa nhạc còn anh ngồi đọc sách trong khi tôi nằm trên sàn ngay dưới chân anh, nhìn dán mắt vào đôi tất của anh và nghe nhạc. Tôi cũng om xòm như bất cứ người anh nào của tôi, nhưng khi ở bên Tyler tôi đã thay đổi. Có lẽ chính âm nhạc, sự thanh cao của nó, hoặc có lẽ sự thanh cao của anh đã khiến tôi thay đổi. Bằng cách nào đó anh làm cho tôi thấy được bản thân qua con mắt của anh. Tôi cố nhớ không la hét. Tôi cố tránh các trận đánh nhau với Richard, nhất là loại ẩu đả kết thúc bằng cảnh hai đứa chúng tôi lăn trên sàn nhà, anh ấy bứt tóc tôi, tôi dùng móng tay cào lên gương mặt mịn màng của anh ấy. Đáng lẽ tôi nên biết sẽ có ngày Tyler ra đi. Tony và Shawn đã ra đi, mà trước đó các anh ấy gắn bó với núi Buck theo cái cách chẳng bao giờ có ở Tyler. Tyler luôn thích điều bố tôi gọi là “học qua sách,” điều mà những người còn lại trong chúng tôi, trừ Richard, hoàn toàn dửng dưng. Có dạo, khi Tyler còn bé, mẹ tôi nuôi ảo tưởng về giáo dục. Mẹ từng nói chúng tôi được giữ ở nhà để có thể hưởng sự giáo dục tốt hơn những đứa trẻ khác. Nhưng chỉ mẹ nói thế, vì bố nghĩ chúng tôi nên học các kỹ năng thực tế hơn. Khi tôi còn bé xíu, đó là một cuộc chiến giữa bố mẹ: sáng sáng mẹ cố gắng duy trì việc học của các con, còn bố thì hễ mẹ quay đi là y như rằng lập tức lùa các con trai ra bãi phế liệu. Nhưng cuối cùng mẹ thua. Chuyện đó bắt đầu với Luke, đứa con trai thứ tư của mẹ. Về những gì liên quan đến núi, Luke thông minh – anh tương tác với những con thú hệt như anh đang nói chuyện với chúng – nhưng anh khuyết tật nặng trong học hành và phải vật lộn rất vất vả để học đọc. Năm năm trời, sáng sáng mẹ tôi ngồi kèm anh học tại bàn ăn, giải thích đi giải thích lại các nguyên âm, nhưng đến khi Luke mười hai tuổi, tất cả những gì anh có thể làm là vừa ho sặc sụa vừa rặn ra một câu từ Kinh Thánh trong buổi học Kinh Thánh của gia đình. Mẹ không thể hiểu nổi điều đó. Mẹ không gặp khó khăn khi dạy Tony và Shawn học đọc, và những đứa con khác đơn giản học kỹ năng đó nhờ thực hành. Tony dạy tôi đọc khi tôi bốn tuổi, để thắng một vụ đánh cược với Shawn, tôi nghĩ vậy. Khi Luke có thể viết nguệch ngoạc tên mình và đọc những cụm từ ngắn, đơn giản, mẹ chuyển sang dạy toán. Kiến thức toán mà tôi được dạy đều là trong bữa ăn sáng, vừa ăn vừa nghe mẹ giải thích đi giải thích lại phân số là gì hoặc sử dụng các số âm như thế nào. Luke chẳng tiến bộ chút nào và sau một năm mẹ bỏ cuộc. Mẹ thôi nói rằng chúng tôi đang được hưởng sự giáo dục tốt hơn so với những đứa trẻ khác. Mẹ bắt đầu lặp lại lời bố. “Tất cả những gì thực sự quan trọng,” một buổi sáng mẹ nói với tôi, “là các con hãy học đọc. Những thứ nhảm nhí khác chỉ là tẩy não mà thôi.” Bố bắt đầu xuất hiện ngày càng sớm hơn để lùa lũ con trai ra bãi phế liệu, cho đến khi tôi lên tám, và Tyler mười sáu, chúng tôi đã hình thành thói quen bỏ học cả lũ. Tuy nhiên mẹ không ngả hoàn toàn theo triết lý của bố, và thỉnh thoảng cơn nhiệt tình cũ của mẹ lại nổi lên. Vào những ngày như thế, khi gia đình tôi tập trung quanh bàn, ăn sáng, mẹ thông báo hôm nay chúng tôi sẽ học. Mẹ có một giá sách trong tầng hầm, chứa đầy những cuốn sách về thảo dược, cùng với vài cuốn sách bìa mềm. Có vài cuốn giáo trình toán mà chúng tôi dùng chung, và một cuốn sách lịch sử nước Mỹ mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy ai đọc trừ Richard. Cũng có một cuốn sách khoa học chắc hẳn dành cho trẻ con bởi vì nó đầy rẫy những hình minh họa bắt mắt. Thường phải mất nửa giờ để tìm tất cả những cuốn sách, sau đó chúng tôi chia chúng cho nhau và ngồi trong những phòng riêng để học. Tôi không biết các anh chị tôi làm gì trong giờ học, nhưng khi tôi học tôi mở cuốn sách toán của mình ra và dành mười phút để lật trang, miết ngón tay dọc đường gấp giữa quyển. Nếu ngón tay tôi chạm được tới năm mươi trang thì tôi báo cho mẹ biết rằng tôi đã học được năm mươi trang toán. “Tuyệt!” mẹ nói. “Con thấy chưa? Ở trường công thì làm sao con học nhanh được như thế. Chỉ có học ở nhà, nơi con có thể ngồi thực sự tập trung, không sao lãng gì hết, con mới có thể đạt được tốc độ đó thôi.” Mẹ chẳng bao giờ giảng bài hoặc ra bài kiểm tra hoặc bài thi. Mẹ chẳng bao giờ giao cho chúng tôi viết các bài luận. Có một chiếc máy tính trong tầng hầm cài một chương trình mang tên Mavis Beacon cung cấp các bài tập đánh máy. Thỉnh thoảng, khi mẹ đi giao thảo dược, nếu chúng tôi đã làm xong các phần việc của mình, mẹ thả chúng tôi xuống thư viện Carnegie ở trung tâm thị trấn. Tầng hầm ở đó là một phòng đầy ắp những cuốn sách dành cho thiếu nhi mà chúng tôi đọc. Richard thậm chí lấy những cuốn sách ở tầng trên, những cuốn sách nghe tên đã thấy “khó nhằn” về lịch sử và khoa học. Trong gia đình chúng tôi, chúng tôi hoàn toàn tự học: bạn học bất cứ thứ gì bạn có thể tự học lấy, sau khi bạn đã làm lụng xong. Vài người trong chúng tôi có kỷ luật tốt hơn những người khác. Tôi là đứa vô kỷ luật nhất, vậy nên khi tôi mười tuổi, môn học duy nhất mà tôi đã học một cách có hệ thống là mã Morse, bởi vì bố tôi khăng khăng bắt tôi học nó. “Nếu toàn bộ lưới điện bị cắt thì chúng ta sẽ là gia đình duy nhất ở thung lũng có thể duy trì thông tin liên lạc,” bố nói, mặc dù tôi không bao giờ hoàn toàn chắc chắn liệu có phải chúng tôi là những người duy nhất học mã Morse hay không, và chúng tôi sẽ liên lạc với ai kia chứ. Đám con trai lớn – Tony, Shawn và Tyler – lớn lên ở một thập kỷ khác, và cứ như thể các anh không phải là anh cùng bố cùng mẹ với tôi. Bố của các anh chưa bao giờ nghe nói về gia đình Weaver; chẳng bao giờ nói về hội Illuminati. Bố của các anh cho ba đứa con trai lớn nhất đi học, và dù vài năm sau đó ông bắt chúng nghỉ học cả, thề rằng sẽ dạy chúng tại nhà, khi Tony đòi đi học trở lại, ông để cho anh đi. Tony đến trường tới hết trung học, dù anh nghỉ học nhiều ngày để làm việc trong bãi phế liệu đến mức anh không thể tốt nghiệp. Vì Tyler là con trai thứ ba, anh hầu như không nhớ trường và vui với việc học ở nhà. Cho tới khi anh bước sang tuổi mười ba. Sau đó, có lẽ vì mẹ dành toàn bộ thời gian để dạy Luke đọc chữ, nên Tyler hỏi bố liệu anh có thể đăng ký đi học lớp tám hay không. Tyler học ở trường cả năm đó, từ mùa thu năm 1991 tới mùa xuân năm 1992. Anh học đại số, môn học mà anh cảm thấy gần gũi và tự nhiên đối với đầu óc của anh như không khí đối với buồng phổi vậy. Thế rồi tháng Tám năm ấy gia đình Weaver bị bao vây. Tôi không biết sau đó Tyler có đi học trở lại hay không, nhưng tôi biết rằng sau khi bố nghe tin về gia đình Weaver, bố không bao giờ cho phép các con mình đặt chân tới một lớp học của trường công nữa. Tuy nhiên, trí tưởng tượng của Tyler bị thu hút. Với số tiền mình có, anh mua một cuốn giáo trình lượng giác và mày mò tự học. Tiếp theo anh muốn học giải tích nhưng không đủ tiền để mua một cuốn sách khác, vậy nên anh tìm đến trường học, xin thầy giáo dạy toán của mình một cuốn. Ông thầy cười anh. “Cậu không thể tự học giải tích được đâu,” ông nói. “Việc đó bất khả thi.” Tyler xốc tới. “Thầy cứ cho em xin một cuốn, em nghĩ em có thể tự học.” Anh ra về với một cuốn sách kẹp nách. Khó khăn thực sự là tìm được thời gian để học. Sáng nào cũng vậy, đúng bảy giờ bố tập trung các con trai mình lại, chia ra thành các đội và phân công công việc của ngày. Thường mất khoảng một giờ để bố nhận ra rằng Tyler không có mặt trong các đội lao động của mình. Sau đó, bố lao vào nhà bằng lối cửa sau và sải bước tới chỗ Tyler đang ngồi học trong phòng riêng của anh. “Mày làm cái quái gì ở đây thế hả?” Bố gào lên, để lại những cục đất nhỏ trên tấm thảm sạch không một vết bụi của Tyler. “Luke đang chất những cái dầm chữ I lên xe một mình kia kìa – một người làm việc của hai người – và tao vào đây thấy mày đang ngồi mài mông hả?” Nếu bố bắt gặp tôi đang gặm một cuốn sách khi mà đáng lẽ tôi đang phải làm việc thì tôi sẽ đứng dậy ngay tắp lự, nhưng Tyler vẫn bình tĩnh, không thay đổi. “Bố,” anh nói. “Sau bữa tr-tr-trưa con sẽ L-l-làm việc. Nhưng buổi sáng con c-c-cần phải h-h-học.” Hầu như sáng nào bố và anh Tyler cũng tranh cãi vài phút, sau đó Tyler buông bút, vai anh chùng xuống khi anh xỏ đôi giày ống vào chân và đi găng tay bảo hộ vào. Nhưng có những buổi sáng khác – những buổi sáng luôn luôn khiến tôi ngạc nhiên – khi bố hầm hầm đi ra khỏi nhà bằng cửa sau một mình. Tôi không tin Tyler sẽ đi học đại học thật, không tin có khi nào anh lại bỏ núi để gia nhập hội Illuminati. Tôi nghĩ rằng bố có cả mùa hè để khiến Tyler cư xử bình thường trở lại, điều mà anh cố gắng đạt được trong hầu hết các ngày khi đội lao động của bố về nhà ăn trưa. Lũ con trai chạy lăng xăng quanh bếp, lấy đĩa thức ăn – thứ hai, rồi thứ ba, còn bố nằm thẳng đuỗn trên vải sơn lót sàn cứng quèo – bởi vì bố mệt và cần nằm nghỉ, nhưng bố quá bẩn nên không thể ngả lưng trên sofa của mẹ – và bắt đầu bài giáo huấn của mình về hội Illuminati. Một bữa trưa đặc biệt khiến tôi nhớ như in. Tyler đang xếp những chiếc bánh tacos từ các món hoa lá mà mẹ đã bày ra: anh xếp những cái vỏ bánh trên đĩa của mình, ba chiếc thành một hàng đẹp mắt, rồi cẩn thận thêm hamburger, rau diếp và những miếng cà chua, tính toán số lượng, chia đều kem chua. Bố giáo huấn bằng giọng đều đều. Thế rồi, đúng lúc bố vừa kết thúc bài giáo huấn và đang lấy hơi để bắt đầu lại, Tyler trút tất cả ba cái bánh tacos hoàn hảo vào cái máy xay sinh tố mà mẹ đùng để xay thảo dược, và bấm máy. Tiếng máy xay gầm lên trong bếp, áp đảo sự yên lặng. Tiếng gầm đó ngừng; bố tiếp tục giáo huấn. Tyler đổ món sinh tố ra ly và bắt đầu uống, cẩn trọng và chậm rãi bởi vì những chiếc răng cửa của anh vẫn lung lay, vẫn cố nhảy ra khỏi miệng anh. Nhiều ký ức có thể được gợi lại để đại điện cho giai đoạn này trong cuộc sống của chúng tôi, nhưng ký ức này cứ tồn tại cùng tôi: ký ức về giọng nói của bố cất cao từ dưới sàn nhà trong khi Tyler uống món tacos của anh. Khi mùa xuân chuyển sang mùa hè, lòng quyết tâm của bố chuyển thành sự phủ nhận – bố hành động như thể cuộc “giằng co” đã kết thúc và bố đã thắng. Bố thôi nói về chuyện ra đi của Tyler và không chịu để người khác lao động thay anh. Một buổi trưa ấm áp, Tyler dẫn tôi tới thăm bà-trong-thị-trấn, người vẫn sống trong chính ngôi nhà mà ông bà đã nuôi nấng mẹ tôi, ngôi nhà khác một trời một vực so với nhà chúng tôi. Nhìn bề ngoài nhà không đắt tiền, nhưng nó được chăm sóc kỹ lưỡng – thảm màu trắng kem trên sàn, giấy dán tường trang trí hình hoa lá trên tường, những tấm rèm xếp ly dày trên các ô cửa sổ. Họ hiếm khi thay các thứ. Thảm, giấy dán tường, mặt bàn bếp – mọi thứ đều y như trong những tấm ảnh mà tôi đã xem về thời thơ ấu của mẹ tôi. Bố không thích chúng tôi dành nhiều thời gian ở đó. Trước khi ông ngoại tôi về hưu, ông là một bưu tá, và bố nói không ai đáng được chúng tôi tôn trọng lại làm việc cho Chính phủ. Bố nói bà thậm chí còn tệ hơn. Bà phù phiếm. Tôi không biết từ đó có nghĩa là gì, nhưng bố nói điều đó thường xuyên đến nỗi tôi đâm ra gắn nó với bà – với tấm thảm màu kem và giấy dán tường đầy hình hoa lá của bà. Tyler thích mọi thứ ở đó. Anh thích không gian yên tĩnh, ngăn nắp, cái cách ông bà tôi nói năng với nhau thật nhẹ nhàng, hòa nhã. Trong ngôi nhà đó lúc nào cũng có mùi thơm thoang thoảng khiến tôi cảm thấy một cách tự nhiên mà không cần ai bảo ban, rằng tôi sẽ không la hét, không đánh bất cứ ai hoặc chạy xé gió trong bếp. Tôi không cần phải ai bảo đi bảo lại để tháo đôi giày dính bùn của mình để ở ngoài cửa. “Đi học đại học!” Một lần bà nói khi chúng tôi vừa yên vị trên chiếc sofa được bọc vải in hoa. Bà quay sang tôi. “Chắc cháu tự hào về anh cháu lắm!” Đôi mắt bà nheo lại cho khớp với nụ cười trên môi bà. Tôi có thể nhìn thấy từng chiếc răng của bà. Hãy cứ để bà nghĩ bị tẩy não là điều gì đó đáng ca ngợi đi, tôi nghĩ. “Cháu cần đi vệ sinh,” tôi nói. Một mình trong hành lang tôi bước chầm chậm, cứ bước một bước lại dừng lại để các ngón chân mình lún trong lớp thảm dày. Tôi mỉm cười, nhớ rằng bố đã nói bà có thể giữ thảm của nhà bà trắng như vậy chỉ vì ông ngoại chẳng bao giờ làm một việc gì thực sự. “Tay bố có thể lấm lem đấy,” bố nói, nháy mắt với tôi và chìa những móng tay đen đúa của bố ra. “Nhưng đó là đời lấm lem lương thiện.” Nhiều tuần trôi qua và khi đó đã là giữa mùa hạ. Một ngày Chủ nhật bố gọi cả gia đình lại. “Chúng ta đã có đủ thức ăn dự trữ,” bố nói. “Chúng ta đã có nhiên liệu và nước dự trữ. Thứ mà chúng ta không có là tiền.” Bố lấy một tờ hai mươi đô-la từ trong túi ra và vò nhàu nó. “Không phải thứ tiền này. Vào Ngày Tận Thế, cái thứ tiền này chẳng đáng giá gì hết. Người ta sẽ bỏ cả nắm những tờ một trăm đô ra để mua một cuộn giấy vệ sinh.” Tôi mường tượng ra một thế giới nơi những tờ tiền xanh bị vứt bừa bãi trên đường cao tốc như đống vỏ chai soda. Tôi nhìn quanh. Tất cả những người khác dường như cũng đang mường tượng ra cảnh đó, đặc biệt là Tyler. Đôi mắt anh đây tập trung và kiên quyết. “Bố có một ít tiền tiết kiệm,” bố nói. “Và mẹ các con có một chút để riêng. Chúng ta sẽ đổi tiền thành bạc. Đó là thứ mà chẳng bao lâu nữa mọi người sẽ ước có được, bạc và vàng.” Vài ngày sau bố về nhà với chỗ bạc đã đổi được, thậm chí một ít vàng. Số vàng bạc đó được đúc dưới dạng những đồng xu, được xếp trong những cái hộp nhỏ, nặng trịch mà bố mang vào nhà và chất đống dưới hầm. Bố không cho phép tôi mở những cái hộp đó ra. “Chúng không phải là thứ để chơi,” bố nói. Một thời gian sau Tyler lấy vài nghìn đô-la – gần như tất cả số tiền tiết kiệm mà anh còn sau khi đã trả tiền thuê máy kéo của chủ trang trại và tiền sử dụng xe thùng của bố – và mua một đống bạc của riêng mình, đống bạc mà anh cất trong hầm bên cạnh tủ chứa súng. Anh đứng đó một lúc lâu, nghĩ về những cái hộp ấy, như thể anh đang lơ lửng giữa hai thế giới. Tyler là một mục tiêu dễ chinh phục hơn. Tôi nài xin và anh đưa cho tôi một đồng xu bạc to bằng lòng bàn tay tôi. Dường như đối với tôi việc Tyler mua nó là tuyên bố về lòng trung thành, một lời thề đối với gia đình rằng dù sự điên rồ đang xâm chiếm anh, rằng dù anh muốn đến trường, cuối cùng anh sẽ chọn chúng tôi, chọn gia đình. Chọn sát cánh với chúng tôi trong đấu tranh khi Ngày Tận Thế đến. Khi những chiếc lá bắt đầu chuyển từ màu xanh rêu của mùa hè sang màu đỏ nâu và màu vàng đồng, đồng xu ấy lấp lánh thậm chí trong ánh sáng mờ nhạt nhất, được đánh bóng bởi cả nghìn cái miết ngón tay. Tôi được an ủi nhờ cái vật sờ thấy được đó, chắc chắn rằng đồng xu ấy là thật, và không thể có chuyện Tyler sẽ ra đi. Một buổi sáng tháng Tám tôi thức dậy thấy Tyler đang xếp quần áo, những cuốn sách và đĩa CD của anh vào hộp. Cho đến khi chúng tôi ngồi xuống để ăn sáng, anh đã gần như làm xong việc đó. Tôi ăn thật nhanh, sau đó đi vào phòng anh, nhìn các ngăn giá để đồ giờ đây trống không, chỉ còn mỗi một đĩa CD, chiếc đĩa màu đen có ảnh những người mặc đồ trắng mà giờ đây tôi nhận ra là dàn đồng ca Tabernacle của giáo phái Mặc Môn. Tyler xuất hiện ở cửa. “Anh đ-đ-để lại cái đĩa đó cho em đấy,” anh nói. Rồi anh bước ra ngoài và dùng vòi rửa chiếc xe hơi của anh, xối sạch hết bụi của Idaho cho tới khi chiếc xe trông như chưa bao giờ thấy một con đường đất. Bố ăn sáng xong, chẳng nói chẳng rằng, bước ra khỏi nhà. Tôi hiểu tại sao. Cảnh Tyler chất những cái hộp vào xe của anh khiến tôi phát điên. Tôi muốn gào lên nhưng thay vì thế tôi chạy, chạy ra ngoài qua lối cửa sau và chạy lên những ngọn đồi về phía núi. Tôi chạy cho tới khi tiếng mạch đập trong tai tôi vang hơn cả những ý nghĩ trong đầu tôi; sau đó tôi quay người chạy ngược trở lại, ngoặt vào quanh đồng cỏ tới chỗ cái toa tàu hỏa màu đỏ. Tôi leo lên nóc toa tàu vừa đúng lúc để nhìn thấy Tyler đóng cốp xe của anh, đi một vòng quanh như muốn chào tạm biệt nhưng chẳng có ai ở đó để """