"
Đừng Kể Tên Tôi - Phan Thúy Hà full mobi pdf epub azw3 [Hậu Chiến]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đừng Kể Tên Tôi - Phan Thúy Hà full mobi pdf epub azw3 [Hậu Chiến]
Ebooks
Nhóm Zalo
Truyện ký của Phan Thúy Hà
CÁI GIÁ CỦA CHIẾN THẮNG
LỚN HƠN SỰ THẬT CỦA NÓ
Đại tá Thái Kế Toại
Tôi là một con người của chiến tranh.
Vào một buổi sáng mùa thu tuyệt đẹp, tinh khiết của Hà Nội, 24-8-1970, thành phố đã tiễn lứa chúng tôi, hàng nghìn sinh viên các trường đại học Tổng hợp, Bách khoa, Sư phạm, Ngoại ngữ, Xây dựng, Kinh tế, Cơ điện… đã bỏ bút nghiên, bỏ cả khát vọng, tình yêu, người thân ở lại để đi ra mặt trận.
Trong không khí cờ hoa phơi phới ít ai nghĩ rằng hàng nghìn người con trai có thể nói là ưu tú nhất trong thế hệ của chúng tôi đã được ném vào cuộc chiến tranh đang đi vào hồi quyết liệt nhất và cùng với chiến thắng, hàng nghìn bi kịch đang chờ đón họ, người yêu của họ, bố mẹ của họ.
Tôi cũng không nghĩ đến cái bi kịch của mình… Mãi năm năm sau khi cuộc chiến khép lại, gặp nhau trước cửa trường mọi người mới thấy những bi kịch hiển hiện giữa các bạn mình.
Bố cháu Phan Thúy Hà là chàng sinh viên ngồi cạnh tôi trong chuyến xe ra đi hôm ấy. Số phận còn gắn bó chúng tôi hai năm sau nữa, trên mâm pháo cao xạ, chiến trường Cánh Đồng Chum và những cây cầu đường sắt khu Bốn… Lẽ ra, không có cuộc ra đi đó ba năm sau anh đã là một cử nhân nghiên cứu sử học phán xét về cuộc chiến tranh này. Phan Văn Bá không trở về trường đại học cùng chúng tôi. Anh tiếp tục một trường “đại học” khác, một cuộc chiến tranh biên giới nữa rồi xuất ngũ về quê Hương Khê, Hà Tĩnh làm ruộng. Nhưng cuộc chiến tranh đã qua không để bạn sống yên ổn. Bá đổ bệnh, không chống cự được với căn bệnh hiểm nghèo di họa của cuộc chiến.
Trong cuốn sách này Hà không kể về bố cháu, những bi kịch của gia đình cháu gánh chịu từ cuộc chiến. Nhưng nhà cháu chưa khổ bằng bao nhiêu nhà hàng xóm khác. Và họ đã đi vào cuốn sách, thành những nhân vật của chiến tranh, loại nhân vật
không phải xây dựng bằng trí tưởng tượng. Cháu chỉ sắp xếp lại những mảnh vỡ của chiến tranh. Cuộc chiến tranh này đã qua đi hơn bốn mươi năm. Rất nhiều số phận đã an bài. Nhiều vết thương đã thành sẹo. Cả trong tâm lý lẫn cuộc đời. Các nhân vật thậm chí còn không muốn kể về họ, không muốn nêu tên. Họ vẫn thấy mình còn may mắn so với hàng triệu đồng đội đã không trở về hoặc không còn vết tích gì.
Cháu Hà đã không đi tìm những nhân vật trở thành hình mẫu, được tôn vinh mà chỉ ghi chép lại chuyện của những người làng cháu, sống gần cháu. Họ không kể ra thì họ chỉ là muôn vàn người bình thường. Nhưng họ đã kể thì sự thật bỗng nặng trĩu, quằn quại, đau đớn. Chúng ta mới hiểu bộ mặt thật của chiến tranh tàn nhẫn như thế đấy, số phận người là như thế đấy. Đấy là sức nặng của một cuốn sách mà tác giả của nó chính là những nhân vật. Họ
cũng như Phan Thúy Hà không chủ ý làm văn chương. Cái giá của chiến thắng lớn hơn sự thật của nó.
Tháng 11. 2017
T.K.T.
Bạn tôi có bác là liệt sĩ. Bác đi vào chiến trường miền Nam năm 1966. Năm 1976 gia đình nhận được giấy báo tử.
Chuyện gì đã xảy ra trong suốt mười năm đó? Bác đã chết như thế nào?
Chuyện xưa bà ngoại nhớ rất nhiều, nhưng hễ đến đoạn ký ức có hình ảnh của bác là bà ngưng lại hoặc kể sang một chuyện khác. Tên bác là tên kiêng không được gọi nhắc.
Trong chiếc rương của bà ngoại có một lá thư của bác gửi về nhà khi vừa hoàn thành xong khóa huấn luyện, chuẩn bị vào chiến trường. Những dòng chữ với thông tin tình hình sức khỏe của mình, dặn người ở nhà yên tâm. Nội dung thư như nhiều lá thư thời ấy.
Tại sao họ lại có thể giữ cho riêng mình câu chuyện dữ dội như vậy?
Vì họ là đàn ông. Vì họ là người lính. Hay, vì họ là người Việt Nam?
Vì không ai hỏi. Vì chúng ta đã tỏ ra không xứng đáng để được nghe?
- Ước mơ của bác khi đó là gì?
- Ước mơ của bác khi đó là được về nhà ăn với mẹ và em gái một bữa cơm rồi quay vào chiến trường chết cũng được.
Tôi chép những câu đó lên trạng thái facebook kèm theo bức ảnh một người lính già đang châm thuốc ngồi suy tư dưới hàng cây ven đường.
Ôi bác của tôi. Ước mơ không bao giờ thực hiện được. Bạn tôi đã thốt lên.
Bạn hối thúc tôi viết. Bạn muốn đọc. Bạn muốn biết. Những chuyện gì đã xảy ra.
Trên người chú còn bốn mảnh bom.
Chú kéo áo lên cho tôi xem từng mảnh bom tay chạm vào cảm thấy được. Hai thằng con trai tôi nghe chuyện đó thấy kinh hoàng. Người ta có thể sống với rất nhiều mảnh bom dính trong cơ thể.
- Gia đình chú có tám người tham gia chiến tranh. Hai anh trai bị nhiễm độc nặng. Một anh nằm một chỗ mười hai năm đã mất. Một anh người như xác khô trên giường đã mười lăm năm.
- Ông ơi, sao cả gia đình ông chọn nghề nguy hiểm như vậy ạ? – Con trai tôi hỏi.
- Không phải nghề cháu ạ. Không có nghề đánh giặc. Thanh niên lớn lên trong thời đại đó hầu hết ai cũng như các ông. Nếu cháu sinh ra ở thời của ông, sống ở làng quê ông thì cháu cũng vậy thôi.
Một đứa bé học vừa xong lớp năm. Nó có cần thiết phải biết một cách cụ thể chuyện chiến tranh đã xảy ra không? Và tôi, người mẹ, người con sinh ra khi đất nước đã im tiếng súng tiếng bom, hiểu biết được tới mức độ nào để nói cho con?
Tôi gần như không biết gì.
Ông đã kể và nước mắt nhạt nhòa. Những giọt nước mắt tuổi già trước mặt đứa trẻ lớp hai và lớp năm.
- Cháu sẽ viết những câu chuyện như thế này. – Tôi nói.
“Đừng kể tên tôi” là câu tôi được nghe nhiều nhất trong những cuộc gặp gỡ.
“Đừng kể tên tôi”, nhưng sau đó: khi nào viết xong nhớ báo cho tôi biết.
Cuối cùng mỗi người đều đồng ý cho tôi được viết lên dòng tên và địa chỉ rõ ràng.
Đừng kể tên tôi. Tôi không cần ai biết.
Đừng kể tên tôi. Tôi không muốn ai đó phiền lòng.
Đừng kể tên tôi. Tôi có chung tên với mọi người. Tên là chúng tôi.
Chúng tôi – những người có cùng một cuộc sống.
Chúng tôi – những người có cùng một ý nghĩ.
Sau cùng, trước khi ra về, tôi nói, các bác có niềm an ủi lớn đó là vợ thương mình.
Các bác gái đã đón tiếp tôi niềm nở. Một bác tìm ảnh cưới cho tôi xem. Bức ảnh chụp ở Hà Nội, năm 1973. Một bác nói, muốn hỏi chuyện đánh nhau thì hỏi tôi chứ ông ấy bị tụt lưỡi rồi, cô nghe không quen không hiểu đâu.
Từ hôm tôi tới nhà mỗi ngày bác gái om thêm một ấm chè xanh. Bởi đang giữa cuộc trò chuyện sẽ xuất hiện vài người hàng xóm ghé qua và góp vào câu chuyện của hai bác cháu.
Một người bác dựng xe đạp ngoài ngõ, tay cầm cây roi. Bác vừa đi thả bò ngoài bãi về. Tôi hỏi, bác cũng từng đi lính?
Tôi hỏi câu đó vì từ sáng tới giờ đi qua ngõ nhà nào cũng được giới thiệu nhà này có người đi bộ đội. Bác nhìn tôi với vẻ khó hiểu, rồi cởi mũ: Nói cho cô biết, tôi không đi lính nhưng tôi tham gia vào chiến tranh chẳng khác gì lính ở mặt trận. Tôi làm liên lạc cho các ông ở trên xã. Mà xã tôi, cô đã biết chưa đấy, là xã bị đánh bom nhiều nhất huyện nhất tỉnh này. Máy bay đi ngang qua ngứa tay là nó ném. Máy bay đi đâu về thừa quả nào là nó thả nốt. Bom giết chết cô người yêu của tôi. Cô đang ngồi ở cầu tiêu. Chết luôn ở cầu tiêu, chưa kịp kéo quần lên.
Việc của tôi là sau mỗi trận bom đi đếm xem có bao nhiêu người chết bao nhiêu người bị thương bao nhiêu người kẹt lại trong đất rồi báo con số lên cho các ông. Có nhà ông Trí bom rơi chết luôn sáu đứa con và một đứa cháu nữa là bảy.
Bác đội lại mũ, đi ra ngõ. Tôi đi theo. Bác kể tiếp đi, cháu đang muốn nghe. Thôi, vào trong kia ông ấy kể nhiều chuyện còn hay hơn, chuyện tôi chỉ vậy thôi.
Thế cha mẹ của sáu đứa con sau đó…? Giờ họ còn sống không?
Thì cũng phải sống tiếp sau đó chứ như thế nào nữa.
Bác trai chủ nhà ra bờ sông tháo dây dàng dắt bò về chuồng. Bác vừa mua thêm được một con bò. Hai ông già đi bên nhau kể về con bò vừa mới đến. *
Bác trai dừng lại. Đây cháu, đây là đường 15 – đường từ Hòa Bình đi vào Quảng Trị. Đường 15 chạy gần song song quốc lộ 1A. Các xã ở huyện Hương Khê là điểm tập kết hàng hóa, là kho vũ khí quân sự, là điểm bộ đội dừng chân trên đường vào Nam.
Đường 15 chạy qua xã Gia Phố men theo sông Ngàn Sâu. Bao nhiêu xác người. Bao nhiêu bom đạn. Đếm làm sao hết. Viết bao nhiêu giấy cho đủ. Những người có bom bi lặn trong da thịt xếp hàng dài. Sông Ngàn Sâu nơi các chị giũ máu áo thương binh áo người đã chết. Nước sông loãng bớt màu nước sông trôi hết máu. Áo khô nhanh để bao bọc thân thể khác đang nằm chờ.
Đường 15 đường đi vào chiến trường đường qua huyện Hương Khê.
Phan Thúy Hà
NGƯỜI BÊN SÔNG NGÀN SÂU
1.
Tôi đang cưỡi trâu bên đường 15 thì nhìn thấy một loạt máy bay ra hoạt động.
Một quả bom thả xuống, hai quả bom… ba… bốn… năm quả bom thả xuống.
Lũ trẻ chúng tôi đã quen với hình ảnh bom rơi mỗi ngày. Chúng tôi chơi trò đếm máy bay. Đếm máy bay và đếm bom. Đứa nào cũng phân biệt được loại máy bay, bom và cách bay lượn như thế
nào trước và sau khi cắt bom.
Năm máy bay hướng tới mục tiêu là cầu Đá Lậu. Cầu Đá Lậu nằm trên đường 15. Phá được cầu sẽ gây tắc đường, xe và người bị kẹt lại không tiến được vào Nam.
Máy bay thứ nhất thả bom. Chiếc thứ hai và thứ ba bị pháo phòng không của ta bắn tới tấp. Chiếc thứ tư lao về phía miền xuôi.
Chiếc thứ năm quay một vòng. Phi công bung dù. Máy bay rơi tự do xuống rừng Chúc A. Cột lửa
khổng lồ bốc lên cùng tiếng nổ rầm trời. Một cái dù lơ lửng.
Huyện đội điều động một trung đội phối hợp với dân quân nông trường và dân quân các xã vây quanh khu rừng bắt phi công. Lực lượng phòng không của địch đến ứng cứu. Chúng thả bom bi vướng và phóng rocket không cho quân ta tiếp cận được mục tiêu.
Hai ngày hai đêm là cuộc chiến giữa mặt đất và trên cao. Phi công* đã bị bắt. Dân quân áp giải phi công về nhà một người dân.
Người ở các xã nườm nượp kéo nhau đi xem phi công Mỹ. Tôi chen lấn tìm được chỗ đứng xem gần nhất.
Phi công cao lớn quá mức tôi tưởng tượng. Da trắng. Mắt xanh. Tay chân đầy lông. Phi công không mặc quân phục. Quân phục và giày đã bị lột ra.
Phi công ngồi trên phản gỗ. Một chỗ ngồi của hắn chiếm gần hết tấm phản.
Phi công ra hiệu muốn uống nước, dân quân đưa nước cho uống.
Phi công ra hiệu muốn đi vệ sinh. Dân quân dẫn ra vườn, chỉ cho biết trước mặt là hố xí. Bấy giờ quê tôi có hố xí hai ngăn tân tiến. Hố xí dầm bằng đất sét, mặt trên là những thanh gỗ nhẹ xếp lại.
Phi công đứng trước cửa nhà vệ sinh hồi lâu do dự. Thò được đầu thì người không vào được. Loay hoay mãi, một nữ dân quân phải hỗ trợ thì phi công mới chui được vào trong.
Dân quân cách xa một đoạn bồng súng canh gác. Người dân vẫn vòng trong vòng ngoài đứng chờ. Sao lâu vậy. Đi vệ sinh gì mà lâu vậy.
Hai chị dân quân tiến lại gần. Phi công đang mắc kẹt trong hố phân. Những tấm ván không trụ được sức nặng trên một tạ đã bị đổ sụp. Phi công rơi xuống. Người nhoe nhoét phân. Các chị dẫn phi công lại bên giếng bảo ngồi xuống.
Tôi đứng đó, há hốc mồm nhìn tên giặc Mỹ được các chị dân quân đang chuyền tay múc nước dội lên cho tắm. Tên giặc Mỹ lái máy bay thả bom xuống làng quê tôi là như thế này sao.
2.
Tôi đi chăn trâu với Hùng. Cánh tay trái của hắn bị tật từ lúc sinh ra. Sức mạnh dồn vào cánh tay phải. Vì thế tay phải hắn khỏe hơn mức bình thường.
Những buổi chiều hè hai đứa chặt cành lá ngụy trang vác lên trận địa pháo cho bộ đội. Giữa đường đi gặp máy bay sà xuống cắt bom bảo nhau nằm im. Đợi tiếng máy bay nghe xa mới bò dậy. Đến nơi thấy các chú đang bận bắn máy bay thì xuống hầm chờ. Lý do chờ là để được nhận thưởng mỗi đứa một cái cát tút.
Những cái cát tút bằng đồng vàng óng. Tôi biết đồng là quý giá. Ở nhà có cái mâm đồng mẹ chỉ đem ra dùng khi có khách quý.
Mỗi tuần xã lại tổ chức một buổi cổ động. Cát tút được mang ra sử dụng. Lũ trẻ tay giơ cao khẩu hiệu “Đế quốc Mỹ cút khỏi miền Nam Việt Nam” miệng thổi cát tút rộn ràng náo nhiệt.
Tôi đã góp được ba mươi lăm cái cát tút. Hùng bàn với tôi khi nào chiến tranh kết thúc hai đứa sẽ chung nhau mở xưởng đúc đồng. Những cái cát tút này hứa hẹn sẽ làm ra tiền. Chúng tôi cất giấu toàn
bộ số đồng có được vào dưới hầm kín. Nhà tôi có năm cái hầm. Giờ tôi chẳng còn nhớ đã cất giấu số cát tút đó ở hầm nào.
Hôm đó tôi dắt trâu ăn kẹ. Không biết là khu ruộng bên kia Hùng cũng vừa đuổi trâu ra đồng. Trên cánh đồng vài ba người mang cuốc đi đào nhôm, đào sắt. Sau những trận bom người ta đào bom, mìn, đạn đem về bán hoặc nhờ thợ gò thành đồ dùng gia đình.
Hùng thả trâu, đi mượn cuốc của người đào nhôm gần đấy. Cuốc vung lên trúng vào đầu bom napalm chưa nổ.
Một tiếng nổ inh trời. Khói tỏa ra đen kịt. Tôi nhìn sang, Hùng đang như ngọn đuốc vàng cháy rừng rực phía đằng kia.
Tôi nhận ra Hùng vì một cánh tay thõng thượt quen thuộc.
- Hùng ơi nằm xuống. – Tôi hét lên.
Hùng có lẽ không còn nghe được gì nữa. Tôi đuổi theo.
Tôi kéo hắn tạt vào hố bom mới, ghì hắn xuống đất rồi tới tấp bốc đất bột phủ lên dập tắt lửa. Lửa dập tắt. Tôi cõng hắn lên lưng và chạy.
Chạy được chừng mươi mét thì hắn giật vào vai tôi, ý như bảo dừng lại. Da mặt và da bụng Hùng dính vào áo tôi. Hắn đau quá không chịu được tư thế ghì sát này nữa.
Tôi thả hắn xuống. Dắt tay chạy về phía làng. Đàn ông khỏe mạnh đi ra chiến trường, đi lên xã lên huyện trực chiến, làng xóm chỉ có người già yếu và phụ nữ, trẻ con.
Người ta bảo tôi chặt lá chuối trải dưới đất cho Hùng nằm. Tôi đỡ Hùng nằm xuống, tiếp tục đi kiếm những gốc chuối thối theo lời chỉ bảo đắp lên người cho mát.
Mẹ tôi và mẹ Hùng đang cấy ngoài đồng nghe chuyện chạy theo sau vừa về tới nơi. Họ đưa Hùng đi bệnh viện.
Bệnh viện Huyện gần nhà bị đánh bom nay sơ tán về xã Hương Long cách bảy cây số. Tôi ở nhà không được đi. Mẹ tôi nghe người ta nói lại rằng nhìn thấy chấm lửa ngấm sâu vào xương.
Bệnh viện không có loại thuốc nào để dập tan lửa đang cháy sâu trong cơ thể. Một ngày một đêm sau Hùng chết.
Bấy giờ chúng tôi đang là những đứa học sinh lớp bốn.
3.
Đào hầm. Học lớp một đã phải đào hầm. Đào hầm ở nhà. Đào hầm ở lớp. Năm nào cũng đào hầm. Hầm cũ sập đào làm hầm mới. Lớp một đào hầm lớp bảy vẫn đào hầm.
Cô giáo phân công mỗi em phải đào bao nhiêu mét hầm. Em gái yếu sức, phần đào hầm phải nhờ anh trai.
Cha tôi mất năm 1964. Cha mất vì bệnh đau dạ dày. Căn bệnh quá nhiều người gặp những năm tháng đó. Vì đói, vì khổ, vì không có thuốc men. Anh trai đi bộ đội trong Quảng Bình. Chị gái học lớp bảy, em gái lớp bốn. Tôi mười tuổi thành người mạnh mẽ trong gia đình.
Hầm vẫn đào. Mà người vẫn chết. Tôi mệt mỏi. Tôi chán quá rồi. Tôi không muốn đào hầm nữa. Tôi ức chế mà không nói ra được.
Ngồi trên lưng trâu nhìn máy bay từ dưới Địa Lợi đang chuẩn bị cắt bom là tôi biết bom thả xuống làng mình. Lại có người chết rồi, không biết lần này nhà ai.
Tôi lùa trâu về. Chạy sang nhà đứa bạn cùng lớp. Bom đánh trúng nhà nó. Bộ đội đang bới đất tìm người. Một cái đầu hói nhô ra. Cái đầu của người cha. Người ta nhanh chóng lấy rổ úp trên đầu để đất bột không vùi. Tiếp tục bới tiếp tục cào. Thân thể ông kéo lên mềm nhũn và bầm tím như quả chuối. Trong hầm còn ba xác chết nữa. Đứa cháu và hai người hàng xóm.
Hai người con trai của người vừa chết đang đi chiến trường. Các anh không biết chuyện ở nhà. Tiếng bom tắt. Mọi người quay về nhà mình xem còn gì không.
Một ngôi nhà đổ sập. Hàng tiếng đồng hồ sau người mẹ và đứa con nhỏ chui ra từ đống đổ nát. Hai cô chị đi chơi buổi trưa ở ngoài làng suýt nữa trúng bom. Họ là một gia đình may mắn.
Người lớn nói với nhau, bom tránh người chứ người sao tránh được bom. Tắt mặt trời biết là hôm nay mình còn sống. Một con bò bị bom đánh chết. Xẻ thịt ra, đói khổ là thế mà không ai thiết tha nữa. Ăn làm gì, ngày mai rồi mình cũng thế.
Ngày mai rồi mình cũng thế. Qua phút bi quan quẫn cực lại nhìn nhau vui cười. Đợi đêm xuống
cùng nhau ra ruộng bẻ ngô. Trong bóng đêm phần ngô sót lại nhiều hơn ngô mang về nhà. Cuộc sống sôi động về đêm. Nhưng rồi bom rơi không kể ngày đêm nữa. Lao đầu ra đồng bom thì kệ bom.
Cảnh sống thế này bao giờ thì chấm dứt? Tôi lại sốt ruột tôi lại không yên ở trong lòng. Bao giờ lớp học không phải trong hầm hào? Bao giờ trên trời không thấy máy bay sà sà bao giờ không còn tiếng rì rì báo hiệu loạt bom mới.
Chuyện đó có thể kết thúc không? Chiến tranh có thể kết thúc không?
Sau chuyện của Hùng tôi được đi dự hội nghị hai giỏi ở Hương Long. “Hai giỏi” là hai giỏi gì tôi không biết. Thầy giáo viết một trang giấy cho tôi mang đi đọc tại hội nghị. Đến nơi tôi gặp con bé ở xã bên cạnh tên là Nguyễn Thị Mão. Là học sinh sống sót trong trận bom mới xảy ra ở lớp 5A trường cấp hai Hương Phúc. 1
1 Vào lúc bốn giờ rưỡi chiều ngày 9-2-1966, một tốp máy bay F4 của lực lượng Không quân Mỹ ném 58 quả bom xuống vùng dân cư. Có 6 quả rơi vào khu vực trường cấp hai Hương Phúc, trong đó 2 quả rơi vào lớp 5A, làm chết 33
4.
Tôi xem bộ phim Nguyễn Văn Trỗi mười ba lần ở các rạp chiếu phim lưu động.
Thằng bé quần đùi áo trần lon ton phim chiếu ở đâu cũng có mặt. Lần xem nào tôi cũng xúc động mạnh. Tôi nhớ rõ từng cảnh phim, từng lời nói trong phim. Nhớ đến nỗi nhắc đến phim ảnh, cho đến tận bây giờ, vang lên trong đầu tôi là những hình ảnh trong phim Nguyễn Văn Trỗi.
Tôi thuộc lòng từng câu anh Trỗi nói. “Tôi chống đế quốc Mỹ đã xâm lược miền Nam Việt Nam gieo bao đau thương tang tóc cho đồng bào tôi”. “Kẻ có tội chính là đế quốc Mỹ. Tôi rất tiếc đã sớm sa vào tay giặc, không được tiếp tục chiến đấu để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, thực hiện lý tưởng của đời tôi”.
Đêm về tôi ngủ mơ thấy hình anh Trỗi trước họng súng mà vẫn hiên ngang nói lời chính trực. Không có hình ảnh nào đẹp hơn. Không có hình
em tại chỗ, 24 em và thày giáo Thái Văn Nhậm bị thương. Ngôi trường bị phá hủy.
ảnh nào làm tôi rung động hơn thế. Anh là con người Việt Nam yêu nước hôm nay. Được chết như anh Trỗi tôi hạnh phúc biết bao. Tôi mơ tưởng và ngủ mê trong tiếng bom ngoài đường 15 vang rầm trời.
Hàng tuần cán bộ xã về từng đội măng non ở các xóm để gặp gỡ, trao đổi và tìm ra gương mặt tiêu biểu. Một chú giao cho tôi nhiệm vụ chủ nhiệm hợp tác xã măng non. Chủ nhiệm hợp tác xã măng non là chỉ huy các bạn quàng khăn đỏ tuổi dưới 15.
Mùa hè mỗi tuần hai đêm tôi đi sinh hoạt chính trị một lần. Tôi đã hiểu tại sao quê mình bom pháo nhiều đến thế, tại sao giặc Mỹ gây tội ác cho dân mình. Mỹ chiếm miền Nam và Mỹ sẽ tấn công ra miền Bắc. Việt Nam sẽ bị Mỹ nuốt chửng. Mỹ sẽ cai trị đất nước này. Người dân cả nước Việt Nam rồi sẽ chìm trong đêm trường tăm tối.
5.
Hai cái bát úp vào nhau. Đi học về nhìn thấy hai cái bát úp vào nhau là biết bữa nay mỗi đứa được ăn hai bát cơm. Gọi là hai bát cơm nhưng thực ra là hai phần khoai một phần cơm. Mẹ nấu chín xới cơm vào bát, phần mẹ vét xung quanh nồi. Mẹ ăn xong rồi ra đồng.
Nếu không có hai cái bát úp vào nhau thì sẽ là bữa ăn như mọi bận. Mẹ gọi các con vào bếp. Mỗi đứa cầm một cái bát lại nồi chan canh rau khoai.
Đói ăn không phải là chuyện gây ra đau khổ. Bấy giờ ai cũng chỉ nghĩ đến hòa bình. Mong ngày hòa bình đến thật nhanh. Hòa bình rồi ăn rau khoai rau má suốt đời cũng được.
Nhà tôi một gian hai hồi dành để gạo cho bộ đội. Gạo chất chồng gạo. Ngoài vườn là kho vũ khí. Mấy mẹ con nép lại phía góc nhà. Mình ở chật chội một chút cũng không sao, nhường các chú giường nằm để các chú nghỉ còn có sức đánh giặc.
Chú bộ đội nhìn mẹ con ăn canh rau mãi thấy thương. Chú nói nhỏ với mẹ lấy bớt vài bò gạo. Mẹ
dứt khoát không. Chết đói cũng không lấy bớt đồ ăn của bộ đội.
Người dân ở đây ai cũng vậy. Đồ ăn thức uống đồ dùng của bộ đội để la liệt khắp các ngôi nhà các khu vườn mọi người bảo vệ. Bộ đội cho cũng không được lấy.
Một chú bộ đội thấy trong bếp mẹ chẳng có gì. Trước khi đi chú cố tình để quên một cái nồi. Mẹ chưa kịp thấy thì người hàng xóm đã phát hiện ra. Mẹ bị phê bình. Chiếc nồi phải chuyển ra ngoài trụ sở xã chờ một một đơn vị khác tới dùng.
Thiếu ăn, đói ăn là chuyện của mỗi nhà. Trách nhiệm chung vẫn phải thực hiện. Mỗi người dân trên mười tám tuổi mỗi năm phải nộp mười cân thịt lợn hơi cho quốc phòng. Làm sao nuôi được mười cân thịt lợn hơi trong hoàn cảnh cảnh đêm ngày chạy bom thế này. Không có thịt lợn thì quy ra sáu mươi cân thóc.
Dân có nghĩa vụ nuôi bộ đội. Dân không được tơ hào gì đến đồ ăn đồ dùng của bộ đội. Lấy của bộ đội dù một hạt muối cũng là Việt gian. Sau chiến tranh chục chiếc xe đạp phượng hoàng bị bỏ quên trên chạn một ngôi nhà dân. Gia đình không có xe đạp đi vẫn không dám đụng tới. Làng xã họp bàn.
Phải khẩn trương tìm đơn vị bộ đội nào đó đến mang đi.
6.
Tôi không biết mình sinh năm nào. Cô giáo hỏi mẹ, mẹ bảo không nhớ. Cô giáo viết trên giấy tờ tôi sinh năm 1957.
- Mày sinh năm bảy thì mới mười ba tuổi, ai cho đi bộ đội?
Những người bác trong xóm quát tôi.
Tôi viết lại lá đơn xin đi bộ đội, khai sinh năm 1951. Tôi nộp đơn cho xã đội trưởng. Chị gái đọc được lá đơn trên xã, về nhà hỏi, sao mày là em mà sinh trước cả tao.
Tôi được gọi đi khám sức khỏe. Tôi biết sức khỏe tôi xếp vào B2-. B2- là không đạt. Tôi đi dép lốp, nói với anh y tá cân đo rằng cứ tính cho em cả dép. Trên đường đi nhặt hai cục đá cho vào hai túi quần. Mưu mẹo của những đứa trẻ mới lớn khao khát ra trận.
Vậy là tôi cân nặng gần được 44,5 kg, chiều cao 1.6m. Trúng tuyển vòng đầu.
Đến lúc có giấy gọi mẹ mới biết chuyện tôi đã làm đơn xin đi bộ đội. Con ơi, cha thì mất rồi, anh con đã bảy năm chưa về, giờ con mà đi thì ai chăn trâu ai đi cày cho mẹ. Con ở nhà thêm vài năm nữa, học xong rồi đi mẹ không cấm.
Bấy giờ tôi đang học lớp bảy. Tôi đi học muộn hơn các bạn cùng lứa tuổi.
Cả trường cấp hai chỉ mình tôi xin đi bộ đội. Học sinh cấp hai chưa có nghĩa vụ phải vào chiến trường.
Ba cán bộ xã đến nhà tôi. Họ nói: Mày không được đi. Mày đi là sai quan điểm. Xã vẫn đang còn người đủ tiêu chuẩn đi bộ đội. Mày làm vậy trên họ kiểm điểm chúng tao.
Tôi nói: Các chú các bác hiểu lầm rồi. Các chú các bác được đọc nhiều nghe nhiều có nhiều tài liệu và báo chí vậy giải thích cho cháu “thiếu sinh quân” nghĩa là gì. Có phải là những em chưa đủ
tuổi vẫn có thể đi vào quân đội làm những công việc như là liên lạc không? Cháu cứ đi tập luyện cho quen. Vài năm nữa cứng cáp chiến đấu trực tiếp là vừa.
Một người nói: Mày đã nói vậy thì bọn tao chịu rồi.
Không ngăn được quyết tâm con trai cuối cùng mẹ phải chấp nhận.
Lớp tổ chức buổi liên hoan. Đứa góp vừng đứa góp mật nấu một nồi kẹo vừng. Có các bạn lớp khác đến tham gia. Buổi chiều thật vui. Tôi thành nhân vật trung tâm của lớp. Tôi thành nhân vật trung tâm của cả trường. Tôi tự hứa với lòng mình sẽ chiến đấu kiên cường như anh Trỗi để xứng đáng với tình cảm các bạn hôm nay dành cho.
Các bạn tặng tôi cuốn sổ tay. Bốn lăm đứa viết lời chia tay. Có đứa viết ba trang, có đứa viết kín hết năm trang.
Mẹ đến trường mời các thầy cô giáo đến nhà ăn một bữa cơm chia tay học sinh.
Trong nhà có một yến thóc ba lá. Thóc này để phòng khi đói quá thì đem ra giã làm thính. Gạo ba lá là gạo đặc biệt. Mẹ cất dành đã nhiều năm. Hôm nay mẹ quyết định mang ra giã cho con trai và thầy cô ăn bát cơm ngon.
Thầy cô đến nhà từ rất sớm. Ai cũng phải ngụy trang. Ngoài kia bom ném tọa độ và ăn cơm tối xong là pháo sáng liên tục.
Những lời dặn dò. Em đi chân cứng đá mềm. Em cố gắng phấn đấu tốt. Em cố gắng hoàn thành nhiệm vụ. Em là niềm tự hào của cả trường.
Cô Hà dạy môn Hóa ôm tôi khóc. Cô khóc nức nở không nói được câu gì. Cô có hai người anh đi bộ đội hy sinh vào năm 1968 và 1969. Cô trao cho tôi chiếc khăn mùi soa có thêu đôi chim bồ câu và dòng chữ “Nhớ mãi không quên”.
Trước đó các thầy cô đều gặp riêng tôi khuyên đừng đi. Cô Hà không nói gì. Cô không nói nhưng ánh mắt cô có bao điều muốn nói.
Mẹ bê mâm cơm ra. Trên mâm là hai tô canh gà. Mẹ đã làm thịt con gà trống đầu đàn. Một nồi canh chuối. Nồi cơm ba lá đặt bên cạnh.
Mẹ xới cơm cho mọi người. Mẹ ngồi tiếp chuyện nhưng không ăn. Trong lòng tôi dâng lên nỗi xúc động. Mẹ cấm không cho con đi mà giờ mẹ lại làm được bữa cơm thế này cho con vui.
Tôi đưa bát cơm lên ăn. Trời ơi, mùi gì vậy? Mùi mốc. Nồng nặc mùi gạo mốc. Tôi cố và một miếng cơm. Vị đắng khét. Đắng tới mức không thể nào nuốt nổi. Cơm gạo ba lá mà sao ra thế này? Tôi chực khóc.
Sau này tôi mới biết sao nồi cơm hôm đó lại đắng khét như vậy.
Lý do thứ nhất là thóc chưa khô khén mẹ đã mang cất. Lý do thứ hai là đổ thóc vào thùng ngay khi vừa giữa nắng đưa vào. Thóc đang nóng bốc hơi đổ mồ hôi rồi mốc. Và một lý do nữa, thóc để
lâu năm quá bị biến chất.
Mẹ không phải là người phụ nữ khéo léo việc nhà. Một tuổi bà ngoại bán mẹ cho nhà khá giả. Mẹ lớn lên thành con ở nhà người. Không được học chữ, không được ai bày vẽ. Chưa hết tuổi lớn thì lấy chồng. Rồi làm lụng nuôi bốn đứa con một cách vụng về.
Tôi nhìn sang các thầy các cô. Không ai tỏ ra có chuyện gì. Bát cơm nào cũng còn nguyên. Thầy hiệu trưởng xin mẹ cái bát không chan canh chuối. Cô giáo chủ nhiệm cũng xin một bát canh chuối. Mỗi người ăn một bát canh chuối thay cơm.
Mẹ không để ý. Mẹ không biết. Cũng may là khi đó mẹ không biết gì hết.
7.
Ông đội trưởng đội sản xuất đánh kẻng người làng tới họp. Nội dung cuộc họp kêu gọi đóng góp một hộ dân một đến hai hào động viên cháu Ngọc lên đường làm nhiệm vụ. Cả đội sản xuất góp lại được chín đồng.
Chi đoàn thanh niên cũng tổ chức họp. Chi đoàn mua tặng tôi chiếc khăn mặt và nói lời động viên người ra trận.
Bấy giờ tôi đang là đội viên. Trước ngày nhập ngũ một vài người bên xã đề nghị tôi được kết nạp đoàn nhưng không được. Lý do là những ai đã đi học đối tượng đoàn trước đó giờ phải học lại mới được kết nạp để đoàn viên mang tên Đoàn viên Thanh niên Hồ Chí Minh. Tôi làm gì còn đủ thời gian để đi học lại.
Buổi sáng mai mẹ tiễn tôi ra đầu ngõ thì gặp ông xã đội trưởng. Mẹ bàn giao tôi cho ông rồi về. Sao mẹ không đi cùng tôi thêm đoạn nữa? Sao chị và em gái không tiễn tôi đi như những gia đình khác? Đến xã Phú Gia, nơi đơn vị huấn luyện về nhận quân, thấy mỗi người đi đều có cả gia đình bên
cạnh. Họ ngồi trò chuyện to nhỏ đến tận trưa. Tôi thì một mình.
Tôi một mình nhưng không buồn. Tâm trạng vẫn đang hồi hộp vì biết phía bên nhận quân còn kiểm tra sức khỏe một lần nữa. Tôi chưa chắc chắn mình được đi.
Xã đội trưởng bước ra từ nhà dân gần đó với khuôn mặt bực bội. Ông vừa bị huyện đội trưởng phê bình quát tháo. Lý do tại sao huyện yêu cầu phải vận động được mười hai người mà giờ chỉ có mặt được bảy. Tôi lại lo. Không đủ số quân họ hoãn lại thì sao.
Buổi trưa chúng tôi vào nhà dân nghỉ chân và nấu cơm. Trong nhà không có gì để nấu. Mỗi người góp ít tiền đi mua gạo còn rau thì đi xin. Bữa cơm đầu tiên xa nhà ăn qua quýt.
Ba giờ chiều đơn vị nhận quân gọi tên khám lại. Tôi được nhập ngũ chắc chắn rồi. Lòng tôi vui sướng mà không có ai bên cạnh để reo lên.
8.
Hành quân. Mỗi người vác trên vai năm ngọn lá cọ để đến nơi huấn luyện lợp lán trại.
Hương Thu, Hương Thanh. Những xã trong huyện lần đầu tiên tôi đặt chân tới. Giọng nói người dân ở vùng này sao khó nghe. Họ nói sai dấu và phát âm kéo dài.
Chân tôi đi bộ nhiều quá sưng phù. Đêm xuống một người bà đun nước ấm pha muối bảo tôi ngâm đỡ đau để mai còn đi tiếp.
Nhìn tôi nhỏ quá, một người đi cùng đoàn vỗ vai: “Mày tiễn anh nào mà đi xa thế, sao qua đêm vẫn chưa về?”. Ba người đã hỏi cùng câu đó. Tôi là bộ đội rồi. Họ không biết tôi là bộ đội sao.
Chuyện thấp bé nhẹ cân còn làm tôi lo âu thêm lần nữa khi đến Cẩm Xuyên. Hai người đi lại trước mặt tôi. Tay họ cầm cuốn sổ và cây bút. Một người cầm tay hỏi tôi tên gì. Người thứ hai khuôn mặt đầy vẻ băn khoăn. Họ trao đổi với nhau gì đó rồi bỏ đi. Một lúc sau quay lại nắm tay tôi lần nữa: cậu được cử làm liên lạc cho ông Thứ.
Buổi học chính trị đầu tiên. Không có bàn ghế, chúng tôi tháo dép lốp ra ngồi. Một ai đó nhanh ý đi mượn được cái ghế nhỏ trong nhà dân. Họ đứng dậy bỏ đi đâu đó. Tôi với tay lấy ghế thì một bàn tay khác cũng giành lấy. Hai tay giằng co. Tôi ngước mắt nhìn lên. Thầy chủ nhiệm lớp 5 của tôi. Thầy Phàn. Thầy chuyển về trường khác dạy cách đây hai năm và ra đi nghĩa vụ từ xã đó.
Tôi thả tay ngay và cùng lúc bàn tay kia cũng rời ra. Hai thầy trò nhường nhau chiếc ghế. Giờ chúng tôi là đồng đội.
9.
Sáu tháng huấn luyện ở Cẩm Xuyên. Ba tháng huấn luyện ở Hương Sơn.
Tập bắn súng. Đào hầm. Làm lán trại. Nấu ăn nhanh. Báo động ban đêm. Cơ động đơn vị. Trong thời gian huấn luyện ở Cẩm Xuyên tôi được về nhà mười ngày.
Từ ngày tôi đi ở nhà mỗi lần bom trút gần là mẹ lại nằm vật ra hai chân đập đét. Mẹ hốt hoảng mẹ
khóc. Nó giết mất thằng con tôi trời ơi. Nóng ruột quá mẹ lại chạy đến nhà ông xã đội trưởng gào thét như thể ông là người gây ra nông nỗi này.
Trước hôm tôi về một người anh nói nhỏ: Mày về rồi cho cha tao xuống đây nhé. Tôi nói: Anh cũng vừa được về mười ngày mà. Anh bảo: Cha tao muốn biết đơn vị con.
Tôi đưa cha anh xuống đơn vị. Hai bác cháu đến nơi vừa bữa cơm trưa. Có tiền mẹ cho trước lúc đi, tôi mời bác vào quán cơm. Bữa cơm có thịt trâu, cá kho và một bát canh cá. Tôi muốn bác yên lòng. Muốn cho bác thấy đời lính không có thiếu thốn đói khổ gì đâu. Bọn con thích thì còn gọi cả rượu.
Gặp con trai, bác nói với anh, thằng Ngọc làm gì ở đơn vị mà khá lắm, nó mời tao một bữa ra trò. Bữa cơm ra trò ngày hôm đó sau này mỗi dịp gặp tôi bác lại nhắc.
Người anh nhờ cha nói với thủ trưởng cho về. Anh muốn hình ảnh cha già lam lũ ốm yếu sẽ lay động lòng thương. Ở nhà anh còn vợ và con nhỏ.
Hôm sau anh lắc đầu: Không được mày ạ. Mày làm liên lạc quen biết nhiều hơn mày nói với họ một tiếng giúp tao. Mày nói là tao xuống đây ăn cơm không quen bị đau bụng.
Tôi trả lời anh, nói giúp anh câu đó đơn giản thôi nhưng khó nghe quá anh ạ.
10.
Ngày 12 tháng 1 năm 1971 tiểu đoàn được lệnh vào Nam.
Mọi người có mặt tại sân vận động Sơn Quang nghe tiểu đoàn trưởng tuyên bố: Cuộc hành quân trường kỳ đánh Mỹ của tiểu đoàn ta bắt đầu. Âm lịch hôm nay là ngày 29 Tết.
Đang tập trung tôi nhìn thấy anh Nam người cùng làng đạp xe đi qua. Lúc này nhìn thấy anh trong lòng xúc động như thấy gia đình mình. Tôi chạy ù ra, ôm lấy anh nghẹn ngào mãi mới nói được. Lúc nào về phép nhờ anh đến thăm mẹ em, nói với mẹ là em đã đi chiến trường. Từ nay thư từ không nhờ anh gửi được nữa rồi.
Lệnh không được mang theo sổ tay, nhật ký. Ai có thì nhờ người gửi về nhà cất, nếu không gửi về được phải đốt. Lý do không được mang đi là đề phòng bị địch bắt cuốn sổ sẽ rơi vào tay địch. Địch
sẽ lần theo địa chỉ về tận địa phương rải truyền đơn xuyên tạc sự thật gây hoang mang cho người ở nhà. Cha mẹ họ hàng dân làng sợ hãi không cho con đi lính. Thanh niên sợ hãi mà chùn chân.
Tôi bí mật cất cuốn lưu bút vào đáy ba lô. Thỉnh thoảng mang ra đọc và chép chuyện xảy ra trên đường chiến đấu.
Tiếng hô lớn hành quân. Đoàn người cất bước dọc bờ đông dãy Trường Sơn.
Qua đò, hai xe ô tô chờ sẵn.
Xe chuyển bánh cũng là lúc xóm Sơn Phố lên đèn.
Trên xe, phải giữ bí mật nên anh em không nói chuyện nhiều. Vài cái đầu thò ra ngoài xe nôn. Ba, bốn tiếng đồng hồ sau thì những ai bị say xe nôn hết ra ba lô của người ngồi trước và người ngồi bên cạnh.
Đến Quảng Trạch – Quảng Bình rồi các chú ạ. Lái xe thông báo. Chúng tôi được ở lại Quảng Trạch một ngày. Tới xã Cự Nẫm, huyện Bố Trạch thấy người dân nấu bánh chưng, chuẩn bị đồ tết nhớ
ra ngày mai là tết.
Hành quân bộ đường rừng vào ban đêm. Cơn mưa rừng đầu tiên trút xuống. Máy bay B52 dội bom. Những mảnh bom lừ lừ bay sát qua đầu, đất đá văng ào ạt. Dưới chân bùn đến mắt cá chân. Ba lô trĩu nặng. Trời tối thui không nhìn thấy đường đi. Đêm ba mươi tết đất trời thương xót không ai bị trúng bom.
Mờ sáng đến trạm 5 của đường dây 559. Bên vệ đường thấy một nồi cơm trắng đổ xuống gốc cây. Nghe nói là chiều qua nhiều tiểu đội không cắt cử người nắm cơm mà để nguyên cả nồi cơm gánh lên xe nên sáng ra phải đổ cơm đi để lấy nồi. Đến chiều nồi cơm của tiểu đội tôi cũng bị đổ đi vì lý do như vậy.
Hành quân hết đất Quảng Trị tôi được lệnh bổ sung cho sư đoàn 320 tham gia chiến dịch Nam Lào.
11.
Trận chiến đầu tiên của đời lính.
Ngày 2 tháng 2 năm 1971.
Đại đội lên đường vào vị trí chiến đấu tại căn cứ điểm 601.
Năm giờ sáng.
Bốn chiếc xe tăng. Gọi là một đại đội xe. Đoàn xe xuất kích được một chặng đường, cách trận địa chừng một cây số thì một chiếc bị sa lầy, rơi vào hố bom địch.
Địch đổ bộ vào hôm qua. Hôm nay ta đánh. Chúng chưa kịp làm hàng rào.
Ba chiếc xe tăng tiến vào. Địch trong đồn dùng súng hỏa lực, súng bộ binh, súng hỏa lực tầm xa bắn xung quanh trận địa. Hàng chục chiếc trực thăng, hàng chục chiếc 0V10. AD6 bay rầm trời trút đạn rocket xuống hướng quân ta đang tiến.
Đài quan sát của ta báo về lực lượng địch trên đồn gồm một tiểu đoàn bộ binh.
Địa hình này tôi hoàn toàn xa lạ. Tôi được bổ sung vào tiểu đội cối 60, tức tiểu đội 10 hỏa lực của đại đội 11, tiểu đoàn 9, trung đoàn 64, sư đoàn 320.
Trước khi đi tôi được bố trí mang 1 cái đế cối nặng 15 kg, 11 quả đạn, 1 khẩu AK có 100 viên đạn.
Đơn vị dàn quân, nghe lệnh của đại đội nổ súng. Tiểu đội có hai khẩu cối. Tôi đã tiếp tay cho xạ thủ số 2 được năm quả. Súng bộ binh chưa bắn được viên nào.
Mười giờ. Địch co cụm lại. Ta chiếm được lô cốt đầu cầu và tuyến 1.
Quân ta tạm dừng lại. Lý do là ông Nguyễn Văn Tranh tiểu đoàn phó đã bị một mảnh pháo cắt đôi ống tay trái từ khúc tay trở ra. Cánh tay dính vào cơ thể bằng một mảnh da và cụm gân. Tổ liên lạc đang băng bó. Ông lệnh cho liên lạc tiểu đoàn là anh Kiều Duy Tý chặt đứt phựt ngay phần lủng lẳng băng bó cho tiện. Mọi người nhìn nhau ngập ngừng.
“Không làm được gì nữa đâu mà để lại”. Anh Kiều Duy Tý rút dao găm ra thực hiện mệnh lệnh thủ trưởng.
Trận đánh tiếp tục.
Viên AR15 xuyên qua ngực ông Bảy đại đội phó đại đội 1. Trận địa như đang trong cơn giông bão. Tiếng đạn bộ binh trong đồn bắn ra không ngớt. Rừng nứa gãy đổ toang toác. Tiểu đội tôi là tiểu đội hỏa lực, không được bắn tùy tiện.
Tôi được phân công cùng với đồng chí vận tải tiểu đoàn khiêng ông Bảy ra phía sau. Ông Bảy nằm trên cáng thương lúc tỉnh lúc mê.
Chúng tôi vừa đi vừa dò đường. Ra phía sau trận đánh có nhiều người đi lại. Họ chỉ chúng tôi cách qua khe qua suối.
Vừa mệt vừa đói chúng tôi dừng chân nghỉ. Cơm của tôi bỏ lại trận địa. Tôi ăn chung nắm cơm của anh vận tải.
Ăn cơm xong nhìn ông Bảy tưởng như chết rồi. Tôi hơi hoảng. Anh vận tải có kinh nghiệm lấy tay đẩy nhẹ vào lỗ mũi ông và sờ vào ngực thấy tim vẫn còn đập. Mừng quá vừa cáng vừa chạy để kịp bàn giao cho tuyến ngoài.
Năm giờ chiều chúng tôi xong nhiệm vụ bàn giao thương binh.
Đói quá, chúng tôi đi tìm anh nuôi xin cơm. Anh nuôi trả lời, ở đây chỉ có nước chứ cơm thì không. Hai anh em tìm về đơn vị. Đi đến bên con suối lớn nghe tiếng một đơn vị gần đó đang chia cơm. Tôi chạy vào cầm ngay cái vung giữ tay anh nuôi lại cầu xin. Chúng tôi đưa thương binh ra phía sau, giờ về đơn vị thì xa quá, xin anh bớt cho một xẻng cơm. Theo tay anh nuôi chỉ tôi chạy vào hầm lấy ăng gô ra đựng phần cơm mình.
Ăn xong thì trời tối. Cơn buồn ngủ kéo đến. Chúng tôi xin được ngủ lại. Không cần họ trả lời, hai anh em bẻ ôm lá rải bên bờ suối ngủ một mạch tới sáng.
Tám giờ tối chúng tôi lần tìm về được tới đơn vị. Sau trận hôm qua tiểu đội tôi hai người hy sinh, một người bị thương.
Tiểu đoàn phó Nguyễn Văn Tranh đã hy sinh. Sau khi được băng bó ông Tranh tiếp tục chỉ huy đơn vị đến hai giờ chiều. Đơn vị chiếm lĩnh trận địa. Tạm thời thắng lợi. Ông bị trúng đạn thêm lần nữa. Một viên đạn AR13 bắn xuyên đùi. Máu ra quá nhiều.
Tiểu đoàn ra trận ở thế chủ động, qua một ngày con số hy sinh và bị thương hơn một nửa. Số quân
còn lại 150 người. Tiểu đội hỏa lực 9 người còn lại 6.
Chúng tôi nghỉ lại bên bờ suối một ngày để củng cố lực lượng.
Chưa kịp nghỉ ngơi thì nửa đêm có lệnh phải trở lại vị trí hôm qua để thay cho đại đội 10 đang nằm giữ trận địa. Đại đội lên đường trong đêm.
12.
Bản A Lầy Nhầy.
Bảy giờ đêm, ngày 29 tháng 4 năm 1971. Chúng tôi được lệnh lên đường đến bản Đông tập trung cho toàn bộ tiểu đoàn để chi viện cho đơn vị bạn.
Dàn xong đội hình chúng tôi nghe phổ biến mật khẩu đề phòng ta và địch chạm mặt nhau mà không phân biệt được.
Đại đội trưởng Tài đi từ đầu đoàn đến cuối đoàn: Hỏi Tài thì đáp Sộp. Hỏi Sộp đáp Tài. Và ngược lại.
Ông Tài là đại đội trưởng. Ông Sộp là chính trị viên trưởng đại đội.
Mật khẩu thứ hai: Vỗ vào báng súng ba cái thì đáp lại hai cái. Vỗ vào báng súng hai cái thì đáp lại ba cái.
Bảy giờ đêm rừng núi mịt mù. Trinh sát dẫn đầu. Anh em nghe tiếng động nhẹ bám sát vào nhau đi theo hàng dọc khỏi bị lạc.
Không nghe tiếng máy bay. Chỉ có ánh lửa chớp nhoằng nhoằng trước mặt. Và tiếng ầm ầm của đất đá cây cối.
B52 rải cắt ngang đội hình.
Tôi bị tung lên lên ngọn cây. Lộn nhào xuống. Mũ cối vẫn trên đầu.
Tôi bò dậy. Cảm thấy khó thở. Mặt ướt đẫm. Hai tay vuốt liên tục. Máu chảy ra từ mũi từ miệng mà tôi tưởng là mồ hôi.
Tôi về hầm. Chúng tôi mới rời đi mấy chục bước chân.
- Mày sao nằm đó. Ra mà nhặt anh em. – Một người anh quát.
- Không hiểu sao em bị choáng đầu ù tai. – Tôi đáp.
- Vậy cứ nằm đó đi.
Trong bóng đêm anh không nhìn thấy mặt tôi lấm máu.
Tôi nằm thêm một lúc rồi cũng phải dậy. Tai vẫn ù đầu vẫn choáng váng. Tôi ra cùng anh em đi nhặt anh em. Những người anh em tôi chưa biết mặt.
Chúng tôi mò mẫm nhặt suốt đêm. Sáng sớm mai nhìn thấy bốn khối thịt xương. Tiếp tục nhặt. Phải nhặt hết. Không được để sót.
Nhìn lên ngọn cây là ruột. Xuống dưới khe là chân. Bên kia sườn núi là đầu. Tôi nhặt đem về đổ vào số xương thịt anh em.
Đại đội trưởng Tài đâu?
Một thân người nằm gục dưới chân cột ngôi nhà sàn. Mảnh bom xuyên thẳng vào hậu môn. Tôi lật mặt người. Đại đội trưởng đã chết cứng.
Tôi tìm thấy ba lô mình văng ra bên một gốc cây đã bị phạt ngang. Hình dung ra cảnh đêm qua mình bị hất tung lên và rơi xuống cùng lúc với thân cây. Tôi đã vướng phải một quả bom đào nổ dưới chân. Nếu không phải bom đào thân thể tôi chắc đang nằm trong đống thịt phân chia đằng kia.
Tiểu đội hỏa lực của tôi đi giữa đội hình đại đội. Một người bị lìa đầu, một người văng mất chân. Các đơn vị đưa danh sách số người chết. 58 người chết. 60 người bị thương.
58 phần xương thịt chia ra tương đối đồng đều. Không cần khớp. Không cần đầy đủ. Không cần. Không thể.
Trải tăng. Trải ni lông. Bốc thịt bốc xương vào. 58 ngôi mộ.
Ban chỉ huy đại đội 11 bị xóa sổ.
17 tuổi. Tôi viết trong cuốn sổ đây là trận số 10. Còn bao nhiêu trận đang chờ tôi phía trước?
13.
Sau trận xảy ra ở bản A Lầy Nhầy tôi phải vào nằm viện hai ngày. Ra viện mặc một bộ quần áo và đi đôi dép nhặt được của người đã hy sinh.
Về đến đơn vị nhận lệnh lên chốt ở căn cứ mới chiếm được hôm trước.
Giữa mùa chiến dịch pháo bắn tứ phương, máy bay hoạt động đầy trời, đường lên chốt qua nhiều khe suối, anh nuôi đưa cơm khó khăn. Có khi hai ngày vẫn không lên được.
Cách trận địa ba trăm mét có kho lương thực của ta đã bị đốt cháy cách đấy hơn một tháng. Trung đội trưởng cho hai người ra kho tìm xem có gì ăn được không mang về. Việc này cũng là liều bởi vì địch thường gài mìn xung quanh kho và dưới các thùng lương khô.
Hơn tiếng đồng hồ sau hai người trở về cùng thùng lương khô đã cháy khét. Tôi cố gạt từng thanh, tách hết lớp cháy đen thui, còn lại một chút bằng ngón tay màu hồng cho vào miệng cố nuốt mà đắng quá không nuốt được.
Tôi mang súng dạo quanh chốt xem địch còn sót lại cái gì ăn được không. Gặp được mấy bọc cơm của anh em đã chết cách đó cả tuần. Mang về dùng dao cắt gọt. Phía ngoài bị mốc rêu xanh, lớp trong mùi rượu. Cắt cho mỗi người mỗi miếng nuốt thật nhanh.
Pháo tầm xa các ngả của địch tập trung bắn về cao điểm 826 ở cây số 23. Bắn liên tục mười một
tiếng đồng hồ thì ngớt. Ba phía chân đồi địch bò lên đồng loạt.
Bò lên cách chừng năm mươi mét chỉ huy địch hô to xung phong. Chúng tôi bên trong chờ lúc đó nổ súng và lựu đạn. Hai bên giao tranh liên tục một giờ đồng hồ. Địch chết, bị thương, bỏ chạy xuống chân núi. Anh em mở ba lô địch vừa chết tìm đồ ăn. Ba lô nào cũng có cơm, gạo, giò và thuốc lá. Cười nói với nhau, trận nào cũng được như thế này thì hay quá.
Tôi lên cơn sốt. Sốt và khát nước kéo dài suốt bốn, năm tiếng đồng hồ. Nằm mê man dưới giao thông hào. Xẩm tối chỉ huy chốt cho tôi bám theo anh nuôi đưa cơm về tiểu đoàn uống thuốc. Ba giờ
lên cơn sốt một lần. Tôi lả đi. Anh em y tá cho tôi về tuyến sau.
Đêm cuối tháng 5 năm 1971 chiến dịch Nam Lào kết thúc. Tôi nằm bệnh viện của trung đoàn. Tiếp tục lên bệnh viện mặt trận B5 của quân khu.
Lên viện mặt trận tôi mới biết bệnh viện dã chiến theo đường dây của chiến dịch có quá nhiều thương binh ở mặt trận về. Thương binh và bệnh binh sốt rét phải đi ra theo tuyến sau.
Anh em y sĩ cho tôi lên một chuyến xe ra Bắc. Vượt qua đèo 900 ở Quảng Trị xe phải dừng lại vì một đoạn đường vừa trúng bom, công binh đang khắc phục. Tôi nằm trên xe rét run lẩy bẩy lúc tỉnh lúc mê. Một mình tôi là bệnh nhân sốt rét, mười người kia là thương binh nặng. Tất cả đều nằm. Không ai ngồi được. Không ai nói với ai câu gì. Thỉnh thoảng có tiếng la hét vì đau quá. Một tiếng bom nổ bên cạnh đồi. Đất đá rơi vào thùng xe trúng vào người đang nằm trên xe. Và lại tiếng la hét.
Đường được san lấp. Xe tiếp tục đi. Mờ sáng hôm sau chúng tôi được cáng vào một hang đá to rộng. Tôi ngắt cơn sốt, tỉnh táo, dậy đi lại. Hang đá đông người nhưng vẫn mát mẻ. Có máy nổ thắp sáng. Có mạch nước ngầm để sinh hoạt. Đó là một bệnh viện của đường dây mặt trận B5 và sở chỉ huy của mặt trận.
Ở lại đây một ngày chứng kiến mười lăm trận bom. Mỗi lần bom dội đá trên núi tuôn xuống cửa hang trắng như vôi.
Hôm sau chúng tôi lên xe và lần này chở thêm mười lăm thương binh. Thương binh nặng nằm trên lớp lá cây. Đường đi quá xấu. Xe lắc mạnh. Có
những đoạn đường vừa làm được vài tiếng đồng hồ đã bị phá. Lại dừng chờ.
Tận khuya xe đến đất Vĩnh Linh. Y tá và nhân viên chạy ra khiêng bệnh nhân nặng. Bệnh nhân nhẹ từng người được dìu, được cõng vào lán. Giường cơ động là những tấm phản được đặt trên hai cây gỗ nhỏ. Những cử chỉ ân cần ấm áp. Tôi cảm thấy như được về nhà mình, đang ở nhà mình. Lâu quá rồi tôi không được sống trong hơi ấm gia đình.
Sáng sớm tiêm xong tôi mang quần áo ra suối giặt. Ngâm mình trong nước suối Vĩnh Linh trong vắt ban mai nước mắt tôi lăn trào. Sao mà bình yên thế này. Không tiếng bom gầm. Tiếng đạn bộ binh nghe thưa và xa tít.
Tôi vò hai bộ quần áo. Một bộ dài và một bộ mặc lót. Bệnh viện không có xà phòng tôi phải đi tìm hòn đá nhám để chà cho hết các vết máu khô.
Hai bộ quần áo này đâu phải của tôi. Và bộ quần áo lát nữa sẽ mặc cũng không phải của tôi. Đó là quần áo của những người đã bỏ xác lại chiến trường.
Đồng chí ơi áo quần này bao lâu rồi anh chưa giặt. Tôi đang giặt quần áo cho anh tôi sẽ mặc quần
áo của anh. Tôi đang kỳ sạch những vết máu khô bụi đường.
Một người xuống suối tắm. Nhìn vẻ mặt tôi anh hỏi có phải là lính mới không. Tôi nói về những bộ quần áo. Anh vỗ vai ối trời ơi chuyện thường. Mày lính mới chứ bọn tao lính sáu bảy sáu tám. Đâu phải mỗi mày nhặt đồ người chết. Cái quần tao đang mặc đây bị bom làm mất nửa ống rồi, tao cũng không biết mình mặc lại của liệt sĩ nào.
14.
Sau chiến dịch Nam Lào đơn vị quay về đóng quân tại Kỳ Anh. Cuối tháng 10 năm 1971 nhận nhiệm vụ đi B dài.
Bảy ngày đi được một ngày nghỉ. Sau một tháng nâng lên mười ngày đi một ngày nghỉ. Đi được một tháng hai chín ngày tới Ngã ba Đông Dương. Chúng tôi được bố trí đến Kon Tum.
Kon Tum mùa khô. Khu rừng không có dân cư. Nơi đây có vẻ như chưa từng có dấu chân người. Trên rừng không biết kiếm thứ gì ăn. Khe suối khô
cạn. Sư đoàn dừng lại đây dựng lán trại và tiếp tục học chính trị.
Học chính trị. Giáo viên là những người ngoài Bắc vào. Chúng tôi ngồi im chúng tôi nghe. Việt Nam hóa chiến tranh là âm mưu, thủ đoạn của Đế quốc Mỹ; là chiến lược dùng người Việt đánh người Việt để giảm xương máu người Mỹ trên chiến trường. Lực lượng quân đội của chính phủ Việt Nam Cộng hòa được Mỹ viện trợ về tài lực và quân sự đánh thuê cho Mỹ.
Sứ mệnh của người lính chúng ta là bảo vệ tổ quốc, thống nhất đất nước.
Tôi học chưa xong lớp bảy buông sách vở ra đi. Kiến thức về lịch sử đất nước còn mơ hồ. Bài giảng về lịch sử hôm nay ngấm vào máu.
Ban ngày học chính trị đêm về thì đói. Đói cồn cào ruột gan.
Đói. Nghĩ gì cũng thèm. Đói. Lúc nào trong đầu cũng nghĩ cách kiếm cái gì cho vào bụng. Các thủ trưởng đi trinh sát. Sư đoàn còn lại hai cấp phó và anh em lính.
Tiêu chuẩn mỗi người một ngày bốn lạng gạo. Không rau, không thức ăn, không muối.
Tiêu chuẩn mỗi người một ngày bốn lạng gạo rồi cũng không còn được duy trì. Gạo đã hết. Chúng tôi vào rừng tìm nhai thử các loài cây lá xem có gì ăn được hay không mang về. Đi hai, ba cây số tìm được củ mài. Mùa khô cây khoai mài bị trụi lá khó phát hiện, tinh mắt và có kinh nghiệm đi rừng mới tìm được.
Ngày hôm sau đi thêm ba cây số nữa phát hiện ra một rừng cây giống như cây dừa. Anh em gọi là dừa núi. Cây dừa núi cao, thân to. Trèo lên chặt ngọn xuống rồi băm bỏ hết phần thân ngoài, ăn phần nõn. Cả tiểu đoàn tập trung về đó khai thác. Mới hai ngày mà cây đổ ngã vài héc ta. Sợ lộ nơi đóng quân, trung đoàn không cho khai thác nữa.
Cứ lần hồi qua ngày như vậy. Ngày nào không học chính trị thì đi rừng tìm lượm. Thấy gì cũng cắn thử nhai thử, vị đắng thì nhả ra.
Tôi tìm thấy một cây mướp có vị đắng. Về thông báo với anh em trong tiểu đội. Hôm sau vào hái thì cây mướp chỉ còn lại mấy quả. Đêm qua ai đó ở tiểu đội khác nghe được và họ đã đi hái trước.
Tết đến. Cái tết thứ hai của đời lính. Tết đầu tiên trên đường hành quân. Quà tết là những trận bom nổ toác đường đi. Sau này, đón thêm ba cái tết ở
chiến trường nữa mới thấy được đây là cái tết yên vui nhất đối với tôi trong những năm ở rừng. Tiêu chuẩn tết: Bảy người một lạng thịt trâu. Năm người một lạng thịt lợn. Một người hai lạng nếp. Ba người hai lạng đường. Ba người một lạng thuốc lá rời có kèm theo giấy để cuốn.
Anh em trong tiểu đội bàn bạc. Một kế hoạch được lập ra. Chúng ta sẽ mang đồ dùng cá nhân đi vào bản làng đổi nếp.
Cách nơi chúng tôi đóng quân mười lăm cây số có một bản làng.
Những người lính có gì để mang đi đổi? Đoạn dây cao su phòng khi đứt quai dép thì thay, khăn mặt, lọ thuốc nhỏ mắt, khăn mùi soa, ảnh người thân, các lọ thuốc nhỏ mắt.
Đổ hết đồ trong ba lô ra, ai có gì góp nấy. Tôi và anh Kiều Duy Tý lên đường đi tìm đồng bào đổi quà. Anh Kiều Duy Tý giờ đã là tiểu đội trưởng. Phải đi thật kín đáo để trung đoàn bộ và các đơn vị bạn không nhận ra.
Chín giờ đêm hai anh em lên đường. Đèn pin ngụy trang, chỉ để ánh sáng lọt ra bằng hạt ngô, dùng la bàn chỉ theo hướng Tây Nam.
Mò mẫm theo đường mòn sáng hôm sau thì đến bản. Chúng tôi nói tiếng Kinh họ nói tiếng đồng bào.
Chúng tôi đưa các đồ vật ra khoe và ra ký hiệu đổi.
Tiểu đội trưởng giơ cuộn dây cao su và đế dép cao su ra làm mẫu. Một đôi dép cao su hoàn thành trong chốc lát.
Đồng bào thích không?
Thích.
Thích thì một đoạn dây đổi hai típ gạo nếp. Đồng bào đồng ý đổi. Năm đoạn dây cao su đổi được mười típ gạo.
Tôi đưa lọ thuốc nhỏ mắt ra, gọi ba người mắt kèm nhem đứng xếp hàng để nhỏ vào mắt cho họ. Đồng bào hiểu ý đây là thuốc quý làm sạch mắt bẩn.
Họ quay lại nói với nhau điều gì đó. Một lúc sau thấy nhiều người kéo đến. Hai anh em như hai nghệ sĩ tài ba đứng biểu diễn ảo thuật trước những con mắt ngạc nhiên thán phục của dân bản.
Đồng bào thích không? Ai cũng gật đầu. Một lọ thuốc nhỏ mắt đổi năm típ gạo.
Một cái khăn mùi soa đổi hai ống cơm lam. Riêng chiếc khăn có dòng thêu mến tặng và bông hoa đổi được ba ống cơm lam.
Còn ảnh cô bạn gái. Tiểu đội trưởng gọi một thanh niên lại. Có thích không? Thích. Thích thì đổi. Đợi khi nào cô ấy vào thì lấy. Bức ảnh của người bố. đồng bào thích không?
Xế chiều, hai ba lô chật căng. Đồ mang đi đổi cũng đã hết. Chúng tôi hẹn hôm sau quay lại mang theo nhiều thứ quý giá.
Một cô gái có vẻ như nuối tiếc. Tôi nói, còn cái này để đổi nữa thôi. Tôi kéo cô lại chỗ kín đáo, chỉ vào cái quần đùi màu đỏ đang mặc trên người. Cô ra hiệu muốn đổi chiếc quần màu đỏ bằng một gùi rau cải.
Băng rừng, về đơn vị. Chờ tới trời tối mịt chúng tôi mới dám ra khỏi rừng. Chuyện này lộ ra sẽ bị kỷ luật.
Anh em ngâm gạo, gói bánh, mượn nồi anh nuôi về nấu. Đêm ba mươi tôi mang một chiếc bánh lên biếu đại đội phó. Bánh đâu ra thế này. Chết chết. Các cậu làm thế này thì chết.
Những năm tháng ở Tây Nguyên, hãy nói về chuyện ăn trước khi nói chuyện đánh nhau.
Thiếu muối. Cả tháng trời không có muối. Không có muối chúng tôi phải làm cách gì? Chặt tre, đốt phần mắt tre cháy thành than dùng thay muối. Hoặc ăn thật nhiều ớt.
Một hôm có người anh em reo lên mừng rỡ. Có muối rồi. Đó là muối mỏ. Muối này chát xít, đào trên rừng mang về, từng cục to tướng. Cho vào nồi quân dụng luộc sôi. Đổ nước đen bẩn.
Tiếp tục nấu. Nấu suốt cả ngày như nấu cao. Cho đến khi cục muối tan mịn mới chia về các đơn vị.
Chúng tôi run rẩy chống gậy đi từ dưới dốc lên. Trên dốc xuất hiện cô gái bản. Cô đang đi xuống. Váy xòe tung tẩy. Khuôn mặt tươi sáng. Chút phấn khích cho một ngày hành quân mệt mỏi.
Lưng chừng dốc, bộ đội đi chậm lại, cô em cũng đi chậm lại. Nhìn nhau. Sát vào mặt nhau. Thằng Chung nghịch ngợm dùng cây gậy trong tay khều váy cô em: Ê đồng bào, cái gì đây? Cô gái là con ông trưởng bản.
Chiều tối về đơn vị đã thấy cô gái cùng với cha mình ra ngồi chờ đấy. Hai cha con đến báo cáo sự việc lên thủ trưởng.
Bộ đội không tốt. Bộ đội nhìn thấy của quý của con gái mình rồi. Đồng bào mình không bao giờ có chuyện đó. Bộ đội làm chuyện xấu giờ con mình không ai lấy nữa, không có chồng nữa.
Bộ phận chính trị – ngoại giao đứng ra thu xếp với trưởng bản. Trưởng bản bắt đền ba tạ muối. Không đền thì phải bắn bộ đội.
Ba tạ muối đủ cho cả một sư đoàn dùng trong thời gian dài. Ba tạ muối đưa được từ Bắc vào Tây Nguyên là chuyện không đơn giản. Dân bản ở đây nằm giữa ta và địch. Ta đang muốn dân bản về phía mình. Để họ mất lòng là nguy hiểm.
Mùa mưa tới. Rừng xanh tươi, mát mẻ. Suối nước đã tràn về, xuống khe bắt cá. Chặt cây dương xỉ bên bờ suối, lấy phần lõi, đem về kho với cá. Cây dương xỉ trong rừng lâu năm, cao vỏng như cây gỗ.
Một người trong tiểu đội tìm được rổ nấm mang về nấu cháo. Nấm độc. Ăn xong bảy người nôn mửa, đi ngoài. Cả tiểu đoàn còn một cân đường để dành cấp cứu cho ban chỉ huy phải đưa ra giải độc.
Gặp được vườn chuối ngày nào cũng ăn chuối trừ bữa. Sau một tuần không đi ngoài được, ai nấy như rơi vào trận ốm nặng.
Đi ăn trộm trộm sắn của đồng bào. Sắn luộc nửa chín, nửa sống chưa kịp thông báo cho anh em thì máy bay địch rà rà trinh sát. Chết thì chết tao ăn cái đã. Anh Thắm người Cao Bằng chạy đi tay vẫn cầm theo sắn nóng. Cầu mong anh đừng bị thương khi sắn vẫn ngậm trong mồm.
Tôi đi vào bản không còn ai. Họ đã chuyển đi đâu không rõ. Còn lại một con chó. Tôi đập chết con chó mang về cứu đói anh em.
Tiêu chuẩn bệnh nhân sốt rét mỗi tuần được một bữa cá mắm, một thìa canh. Cá mắm vận chuyển từ Campuchia về đến mặt trận đã thành ruốc mùi khó chịu. Trong cơn mê man tôi mơ được ăn bát cơm nóng muối vừng.
Một trăm xe hàng xuất phát từ Ninh Bình, Thanh Hóa có bao nhiêu xe qua được vùng Nghệ Tĩnh. Và trong số xe đi đến Quảng Trị bao nhiêu lên được tới Tây Nguyên?
Bao nhiêu xe chở hàng cháy dọc đường. Bao nhiêu người lính lái xe đã bị thương. Chúng tôi biết
vì sao mình đói. Chúng tôi phải tìm cách để sinh tồn.
Canh chốt đói lả anh nuôi không lên được chúng tôi mong địch lên. Trong ba lô địch luôn có đồ ăn.
Trên đồi cao hai điểm chốt A và B. Bên chốt A diệt địch thu được chiến lợi phẩm là bao gạo. Ban đêm địch không lên chốt. Nửa đêm anh em mang nồi đại liên đựng đạn của địch ra nấu cơm. Nhắn người bên chốt B sang ăn cùng.
Sáu anh em ngồi trong hầm thấp chờ cơm chín. Những khuôn mặt háo hức nhìn xuống nồi cơm. Người lính mới dùng nồi đại liên không biết tháo dây roăng trước khi nấu. Tiếng nổ vang. Nồi cơm bung nắp. Cơm bắn tung tóe vào mặt vào mắt. Tất cả đều bị bỏng. Người anh ở chốt B sang bỏng nặng quá một mắt bị mù. Anh ấy đã bị thương vì bom cơm trên chốt lúc giữa đêm.
15.
Chiến dịch Kon Tum 1972.
Đêm 12 tháng 1.
Tiểu đoàn 9 vây cao điểm 1015.
Trên cao điểm địch đóng một đại đội do Phan Mạnh Hùng làm chỉ huy.
Sau khi bị bắt tên Hùng khai là dân gốc Bắc. Năm một chín năm tư hắn bảy tuổi, theo anh em vào Nam rồi gia nhập quân lực Việt Nam Cộng hòa. Mẹ hắn vẫn bán quán nước ở phố Hàng Bạc, Hà Nội. Hắn không muốn mẹ biết tin về mình.
Địch đóng ở cao điểm này đã lâu. Hàng rào có hai lớp. Hầm hố chắc chắn. Tiểu đoàn tôi chia ba mũi. Nổ súng một ngày vẫn chưa chiếm được lô cốt nào. Chúng tôi vây được địch nhưng chỉ cầm cự ở ngoài đồn. Địch ở trong thả sức nổ súng. Lợi dụng tiếng súng thưa lại nhích thêm vài ba mét. Cầm cự suốt đêm đó.
Thông tin hữu tuyến đứt dây, vô tuyến không có tín hiệu, sáng hôm sau tôi phải chạy đi đưa công
văn đến phía đông đồn địch. Tiểu đoàn trưởng là ông Phạm Văn Thành nói với tôi: “Đồng chí về phía đại đội 10 nói là lệnh của tiểu đoàn dùng D.K bắn bảy quả để mở cửa và phải khẩn trương để cho anh em phát triển chiếm trận địa càng sớm càng tốt”.
Đại đội 10 do anh Hòa chỉ huy. Sáng ngày 10 đại đội 10 đánh đại đội biệt kích ở cao điểm 982 và đã làm chủ được trận địa.
Từ chỉ huy đoàn đến hướng đại đội 10 khoảng hai cây số đường chim bay nhưng phải đi mất bốn cây số mới tới. Tôi đi cùng anh Thắm.
Chúng tôi phải lần qua tổ tiền tiêu của địch nằm trên trục đường đi lại ở giữa rừng rậm khe suối. Máy bay nhả bom bi và rocket liên tục. Trên người tôi chỉ có một khẩu AK, hai quả lựu đạn.
Tôi bảo anh Thắm: tai thật thính, mắt thật tinh, đi không được tạo ra tiếng động, bám sát tôi, nếu gặp địch phải nổ súng ngay và nghe theo lệnh của tôi.
Ba tiếng đồng hồ chúng tôi mới gặp được anh Hòa. Anh nói: “Đồng chí về báo tiểu đoàn chi viện thêm quân, đại đội 10 đã thương vong một nửa”.
Tôi và anh Thắm quay ra, bám theo hai người lính vận tải đang cáng thương binh.
Một tiểu đội địch từ đường 14 đi lên. Chúng vừa đi tuần vừa đi chi viện cho cao điểm.
Hai người vận tải đặt cáng thương binh bên cạnh gốc cây, cho anh thương binh nằm nghỉ tại đấy, quay lại cùng nổ súng với tôi và anh Thắm.
Họ chỉ có một khẩu súng. Về nguyên tắc người nào cũng phải mang súng. Tôi bảo, bốn người ba khẩu súng cũng chơi, ta sẽ diệt địch lấy súng.
Chúng tôi bám theo địch. Hai bên cầm cự hơn tiếng đồng hồ. Tôi vừa nổ súng vừa hô xung phong. Bốn tên địch gục tại chỗ, những tên còn lại bỏ chạy. Trận đánh gọn gàng, đơn giản. Tôi sau đó được bằng khen.
Ngày 16 tháng 1.
Tôi cùng ông Thành và một tiểu đội trinh sát đi kiểm tra trận địa. Bố trí xong bộ phận chốt giữ, khoảng tám giờ sáng pháo của địch bắn tới tấp vào trận địa. Địch điều một tiểu đoàn bộ binh đến hòng lấy lại cao điểm ngày hôm qua bị thất bại. Đạn cay,
đạn hóa học bắn liên tục. Chúng tôi bị chảy nước mắt, nước mũi, hoa mắt, đầu óc ngây ngất. Ba cái bi đông không còn giọt nước nào. Khăn mặt ông Thành tìm không thấy. Tôi đái vào chiếc khăn của mình, xé đôi, chia cho ông một nửa úp vào mặt để giảm bớt nồng độ chất độc. Về đến sở chỉ huy thì cũng là lúc bộ binh địch tràn đến bao vây trận địa khi chúng tôi vừa đi khỏi. Trong trận địa lúc đó chỉ có hai mươi người và một vô tuyến. Máy bay bỏ bom bi, bom phát quang, napalm. Anh em báo về con số bị thương năm, chết năm còn lại mười.
Ba giờ chiều địch ngừng bom pháo, bộ binh tiến lên chiếm. Mười người còn lại bắn trả xối xả. Địch không chiếm được mét trận địa nào.
Tiểu đoàn 9 bám trụ tại đây một tuần với mười hai trận đánh. Một trăm quân được bổ sung quá ít so với con số thiệt mạng.
Tin từ sư đoàn: Ta đã làm chủ được vòng ngoài của địch, bảo vệ được trục đường 14, canh giữ được trên hai mươi cây số và tiếp tục phát triển.
Chúng tôi rút quân và tiến về phía bắc thị xã Kon Tum.
Ngày 23 tháng 1.
Cao điểm 601 đường 14. Vùng này toàn cây le và cây tre lắm gai đi rất vướng. Chặt cây thì phát tiếng động đành dẫm lên gai mà đi.
Cách đồn địch chừng trăm mét chúng tôi bị lộ. Bị lộ nhưng hai mũi bộ binh đến mười giờ đêm cũng đã tiếp cận đến hàng rào thứ nhất. Điểm này địch có năm lớp hàng rào. Chúng tôi dùng loa kêu gọi. “Địch vận” vì chiến dịch mở ra nửa tháng, quân hao tổn nhiều, số quân bổ sung chẳng thấm vào đâu.
Tiếng loa vừa cất lên thì hỏa lực của địch bắn ra như mưa.
Ngày 28 tháng 1.
Tiếp tục đánh căn cứ xưởng cưa. Xưởng cưa là một căn cứ nằm trên quả đồi phía tây đường 14. Qua một đêm lần mò chúng tôi mới tới nơi để đặt sở chỉ huy tiểu đoàn.
Sáu giờ sáng, đại đội 10 cũng vượt suối tới trận địa. Địch phát hiện ra, tập trung hỏa lực, súng to, súng nhỏ bắn liên hồi. Đại đội 10 phải nằm lại phần nhiều ở bờ suối.
Đại đội 11 bị lạc. Tôi được lệnh phải đi tìm. Một mình tôi đi giữa rừng cây le, bom vẫn dội, đứng trên cao điểm nhìn xuống thấy như một biển nước màu vàng. Tôi vừa chạy vừa xác định phương hướng.
Dẫn đại đội 11 về vị trí xong tôi lại lần mò về nơi chỉ huy của tiểu đoàn. Lúc này có lẽ đã một, hai giờ sáng. Pháo sáng liên tục. Máy bay thả đèn dù. Bom pháo làm tre đổ ngổn ngang. Tôi vấp ngã, tre cắt ngang cổ chân tôi, máu chảy nhiều. Trên tay tôi còn phải cầm bộ phận quy lát của AK để chạy. Khi ngã thân người tôi đổ dồn về phía trước nên bị
quy lát đâm thủng lòng bàn tay phải. Tôi ngồi dậy. Xé thân áo băng cả chân và tay.
Gần sáng tôi về được đến nơi. Mọi người lo lắng nhìn bàn tay bàn chân tôi máu lem nhem. Tôi rất đau nhưng tỏ ra như không có chuyện gì. “Đời lính là vậy”. Tôi buột miệng.
Tôi ngỡ ngàng, mình đã thốt ra những từ đó. Những từ cửa miệng quen thuộc ai cũng nói. Vậy mà với tôi khi lần đầu tiên nói ra, thấy ngạc nhiên và xốn xang. Phải chăng tôi tôi đã gan lỳ, tôi đã lớn lao hơn.
Địch bắn không ngừng nghỉ nhưng anh em đại đội 10 vẫn đào được hầm chiến đấu. Mọi người nằm đào. Chỉ có anh Hòa đào được tới đầu gối còn nữa đào được khoảng hai mươi phân và dồn đất lên đầu để làm bệ bắn.
Đến một giờ chiều địch mở cuộc tấn công ra chỗ đại đội 10.
Ba giờ chiều đại đội 10 bị xóa sổ.
Anh Hòa đại đội trưởng chết gục ngay tại hầm đang đào. Nửa người trên nằm sấp trên miệng hầm, nửa còn lại bị địch rút chốt an toàn quả lựu đạn đeo ở thắt lưng nên phần mông và ngang thắt lưng bị
lựu đạn nổ tung bay mất. Tôi sờ vào ngực anh vẫn còn nóng. Người tôi như bốc lửa. Tôi chỉ huy anh em như một cán bộ tiểu đoàn.
Tôi bố trí cho đại đội 11 thay cho đại đội 10. Bảo anh em vận tải gom xác liệt sĩ vào một nơi. Xong phần việc của mình, tôi đi tiếp về hướng tiểu đoàn bộ. Vừa rời khỏi trận địa nghe tiếng rên rỉ
trong bụi rậm. Xác định là người của ta rồi. Tôi bò vào. Là anh Dư lính 2W cùng ngày nhập ngũ với tôi và một đồng chí bộ binh. Hai anh bị thương lúc chiều và trốn vào bụi cây. Tôi dìu hai anh về tiểu đoàn.
Anh em vận tải đưa liệt sĩ của đại đội 10 về để ngay trong hầm chỉ huy tiểu đoàn. Nửa đêm tôi đi ra xem có khuôn mặt nào quen không. Tôi thèm thuốc. Tôi sờ vào ngực áo và túi quần các liệt sĩ. Trong túi áo một liệt sĩ có cái ví. Trong ví có ảnh cô bạn gái và một nhúm thuốc lá. Tôi trả bức ảnh lại vị trí cũ, moi hết ra các sợi thuốc. Tôi thầm thì với anh: Anh ơi anh chết rồi không hút thuốc được nữa. Tôi thèm quá cho tôi xin anh nhé. Tôi ngồi ngay đó quấn điếu thuốc hút một hơi dài.
Đại đội 12 hỏa lực biết đại đội 10 bị xóa sổ, các xạ thủ 12 ly 7, cối 82, Đ.K.Z đồng loạt nổ súng. Địch trong đồn chống đỡ không quá được một tiếng đồng hồ nháo nhác tháo chạy. Đại đội 11 xông lên.
Địch đang giữ một đoàn người dân. Lợi dụng lúc này địch trà trộn với người dân chạy vào hướng thị xã Kon Tum. Tiểu đoàn xung phong cả ba mặt đường. Quân ta quân địch kéo dài hàng cây số. Tiểu đoàn trưởng lệnh cho tôi đuổi theo đại đội 11 báo họ chặn đoàn người lại. Phát triển được hai cây số lại gặp ngay đồn địch nằm cạnh đường. Địch trong đồn bắn ra chặn đường. Sợ bắn nhầm vào
người dân tiểu đoàn lệnh anh em rẽ phải hội ý chớp nhoáng. Hai đại đội tiếp cận, bao vây đồn địch. Sư đoàn 320 chia nhiều hướng đánh vào thị xã Kon Tum. Tiểu đoàn 9 chúng tôi phải bám trụ và tiến công hướng bắc. Đánh vào đến đồi tròn thì kiệt sức.
Số quân tiểu đoàn giờ chỉ bằng một đại đội. Sư đoàn không còn người bổ sung. Chuyển sang đánh chiến thuật vây lấn. Căn cứ này toàn lính Park Chung Hee. Chúng tôi vây chặt vòng ngoài. Địch không vào được không ra được. Hai tháng cầm cự bắn tỉa. Đến tháng thứ ba trung đoàn 66 vào thay. Qua một đêm trung đoàn 66 làm chủ được trận địa. Tiểu đoàn 9 hành quân khẩn cấp về Gia Lai.
Hành quân được mấy ngày gặp trận mưa rào mát mẻ. Bốn tháng rồi chưa một ngày được nghỉ, được ngủ. Ai cũng thèm ngủ. Chân bước mà mắt ríu lại. Nhiều anh em vừa đi vừa ngủ. Đường trơn trượt. Ngã đoành đoạch hết người nọ tới người kia.
Đi qua một bệnh viện của sư đoàn tôi gặp anh Thọ. Bom cắt mất bàn tay trái, anh phải nằm viện dài ngày. Được gặp người làng mình trong hoàn cảnh này ngậm ngùi chảy nước mắt. Tôi nắm chặt bàn tay còn lại của anh: Nếu được ra Bắc anh nhắn
với mẹ và em gái em là em vẫn khỏe, đang chiến đấu và chưa biết khi nào về.
16.
Sau chiến dịch Kon Tum tôi được đi học trường Quân chính B3. Cả tiểu đoàn chỉ có bốn người được lựa chọn đi học. Bốn người “có tác phong nhanh, nhận thức nhanh và tháo vát”.
Từ đơn vị chúng tôi hỏi thăm đường về trường. Mùa mưa hai bên đường có nhiều thứ để ăn. Măng tươi non rất nhiều. Đi ba ngày thì chúng tôi tìm được đến trường.
Trường Quân chính 3 đóng trên đất Campuchia. Nhiều người gọi là trường sĩ quan cầu lầy vì ở nơi này rừng toàn lầy lội. Từ trường đến các đơn vị bạn phải đi cầu khỉ. Nước phèn đỏ quạch. Không rửa, không lội được.
Học viên đợt chúng tôi đến cả tháng phải ăn sắn trừ bữa. Thế nên còn có tên gọi là sĩ quan lá sắn.
Tôi vào lớp C3, tức là lớp đào tạo trung đội trưởng. Trong lớp tôi trẻ tuổi nhất, và cũng nhỏ bé nhất.
Bảy ngày đến đây cả bảy ngày tôi phải đi gùi đạn, gùi sắn, chưa được ăn bữa cơm nào, chỗ ở cũng là chui xuống hầm, quần áo vẫn rách nát. Thiếu thốn không khác gì ngoài tiền tuyến.
- Em về đơn vị đây. – Tôi nói với một người anh cùng quê là giáo viên của trường.
- Sao vậy?
- Em tưởng đi học sung sướng chứ khổ thế này thà ở ngoài chiến trường đánh còn có ích hơn. Anh hẹn tối mang võng sang chỗ anh rồi trò chuyện tâm sự.
Tối, tôi sang bên chỗ anh.
- Em đừng nghĩ về tuyến trước nhanh tiến hơn hay ở đây đi học là khổ.
- Em chẳng nghĩ gì nhanh tiến chậm tiến. Em chỉ mong hết chiến dịch để về. Đi lâu quá rồi. - Anh đây này, đi từ năm sáu hai, hơn mười năm rồi chưa về nhà.
Vào đây đánh nhau vài năm, người ta tổ chức trường này thì anh là thế hệ học viên đầu tiên. Học xong anh ở lại làm cán bộ khung.
Nói cho em biết điều này, ở đây có cái hay là tránh được bom đạn.
Công việc là đi làm nương làm rẫy, tăng gia sản xuất, vài ngày lại đi học quân sự, học chính trị, tiếp thu thêm các đường lối chính trị, các vấn đề lịch sử.
Em nghe anh, cứ ở lại trường được ngày nào hay ngày đó. Tránh được bom đạn ngày nào hay ngày đó. Bao nhiêu người đang tìm cách để lùi dần ra tuyến sau mà không được. Mình được đi học lại muốn về cầm súng.
Em ạ, chiến tranh ác liệt nhưng ta có cách ta vẫn giữ được mình.
Nghe anh phân tích đầu óc tôi sáng tỏ ra đôi chút. Có đôi câu muốn nói lại nhưng nghĩ mình bậc em tốt nhất lẳng lặng mà nghe. Ví dụ như tôi muốn hỏi anh: Thế những người đang giữ chốt trong kia là sao anh? Bọn em nói với câu chốt là chét, lên chốt là lên chỗ chết. Em đã bao nhiêu phen tưởng chết ở trong chốt rồi.
- Giờ em thiếu gì để anh giúp? – Anh cắt ngang suy nghĩ tôi.
- Em giờ cái gì cũng thiếu. Bút giấy cũng không có. Bụng khi nào cũng đói.
Một tháng sau anh chuyển lên trên dạy. Chúng tôi không còn gặp nhau. Sau này về quê tôi biết anh đã nghỉ hưu, cấp bậc cao.
17.
Trận đánh thứ bốn mươi ba.
Tiểu đoàn đã nổ súng từ năm giờ sáng, mũi chúng tôi chịu trách nhiệm mở cửa. Tôi hô tất cả ra khỏi hầm, chạy thẳng vào đồn địch.
Ra trường tôi về làm trung đội trưởng trung đội mũi nhọn phải ra chốt tuyến đầu.
Tôi vừa đánh vừa quan sát anh em.
Anh Huỳnh và Quý đang giữ khẩu súng M79 là hỏa lực của trung đội. Sao giờ này hai người vẫn đang loay hoay trong hầm. Tôi chạy vào hầm. - Báo cáo, đồng chí Quý bị thương.
- Bị ở đâu?
- Bị ở đầu.
Nhìn lướt qua khuôn mặt Quý chỉ thấy có một vết máu khô giống như con ruồi đậu trên trán. Thanh niên khỏe mạnh bị thế nhằm nhò gì. Tôi cầm cổ áo Quý lôi ngay lên khỏi hầm.
- Tính trốn hả. Anh em chết hàng loạt trên rồi kìa.
Quý vẫn chần chừ.
Tôi táng một bạt tai. Đạp tiếp vào đít.
- Xung phong mau để yểm trợ anh em. Quý buộc phải lao ra.
Chiếm được chốt chúng tôi về hầm nghỉ. Lúc này tôi mới biết đúng là Quý bị một mảnh đạn M79 nổ trước cửa hầm găm vào trán. Mảnh đạn găm lại máu không chảy ra được nên tôi đã phớt lờ.
Quý được cho ra tuyến sau. Lên viện tiểu đoàn rồi viện sư đoàn. Mảnh đạn xuyên qua xương xốp vào xương cứng. Nghe nói phải đục sâu một phân vẫn chưa lấy ra được.
Tôi day dứt, ân hận.
Đơn vị tiếp tục phát triển về phía trước, lao vào các chiến dịch lớn, tôi không còn biết tin gì về Quý.
Thông tin về Quý tôi nắm được khi đó là ở xã Kỳ Thượng, huyện Kỳ Anh, nhập ngũ năm 1972.
*
Sau năm 1976 trở về quê tôi luôn nghĩ đến việc đi tìm người đồng đội cũ xem vết thương sau đó thế nào, cuộc sống hiện tại ra sao. Và nói với người ta lời xin lỗi.
Khoảng cách chừng hai trăm cây số vậy mà cũng khó khăn. Cứ lần lữa năm này qua năm khác rồi hàng chục năm vẫn chưa làm được. Hàng chục năm trong lòng tôi nặng nề chuyện cũ.
Qua người nọ người kia tôi liên lạc được với hai cậu cùng đại đội ở Cẩm Xuyên. Bằng tuổi nhau nhưng vì tôi là đại đội trưởng nên tới giờ họ vẫn gọi tôi là anh. Tôi nhờ họ sang bên Kỳ Anh tìm thông tin về Quý.
Cẩm Xuyên sang Kỳ Anh tưởng gần vậy mà cũng hết năm này tới năm kia tôi gọi đến cả hai đều trả lời vẫn chưa tìm được. Chuyện tôi nhờ cả hai đều ghi nhớ. Ghi nhớ vậy thôi chứ chưa ai một lần bỏ buổi ra đồng để làm việc đó cho tôi.
Người bạn ở Cẩm Mỹ thả trâu ở ngoài rừng bị lạc mất trâu. Con trâu đi lạc sang bên đất Kỳ Anh. Bạn sang đất Kỳ Anh dắt trâu về tiện thể thực hiện trách nhiệm thủ trưởng cũ giao.
Ông Quý vẫn còn sống, ở trên Kỳ Thượng. Vậy là yên tâm đi thăm rồi. Tôi sốt ruột gọi cho hai người ở Cẩm Xuyên sắp xếp thời gian rồi cùng đi. Từ khi tôi giục giã cho tới khi đi được thời gian cũng phải tới hai năm. Lần nào cũng có lý do để trì hoãn.
Không chần chừ được nữa tôi quyết định lên đường.
Tôi đến đầu ngõ gặp một đứa đang gồng gánh ra đồng gặt lúa, một đứa ở cách đó chục cây số đang đi làm cá. Lệnh phải đi. Lúa không gặt hôm nay thì để mai. Cậu ta phải nhờ người đi gặt giúp bởi nếu không làm kịp sợ trâu bò phá.
Ba thằng lên xe máy vào Kỳ Anh.
Đến ngã ba đường 12 dừng lại hỏi thăm đường về Kỳ Thượng. Cô gái đi đường bảo các bác cứ theo em. Cô giới thiệu mình là cô giáo nên tôi hỏi có biết ông Quý là thương binh không cô lắc đầu. Đến xã Kỳ Thượng cô chào chúng tôi đi về hướng khác.
Kỳ Thượng 1 hay Kỳ Thượng 2. Kỳ Thượng nào cũng có người tên Quý. Người ta trả lời rồi đi tiếp.
Ba anh em đứng bên đường chờ. Một thanh niên chở ông già ngồi sau cầm nạng đoán chắc là thương binh. Giờ hỏi thăm là trúng rồi.
Ông già chỉ cho chúng tôi đi về Kỳ Thượng 1 có ông Quý thương binh loại 2 bị chấn thương sọ não. Ngôi nhà họ ở tít trong khu rừng giáp với Quảng Bình.
Chúng tôi tìm được đến nơi. Người con trai bảo các bác chờ rồi đi chở cha về.
Ngôi nhà cũ tạm bợ. Chúng tôi tìm xem có bức ảnh của thằng Quý hồi trẻ treo trên tường không nhưng không có. Nằm trên giường là người vợ của Quý nghe nói bà bị bệnh đã nhiều năm.
Ông Quý không nhận ra ba chúng tôi là ai. Không nhận ra là ai nhưng bạn chiến đấu gặp nhau thì cứ phải nhậu đã. Con trai ông mang về một rổ trứng vịt lộn và một thùng bia.
Trải chiếu ra ngồi uống bia ôn chuyện chiến trường. Kể đến trận đánh thứ tư thứ năm gì đó ông Quý mới nhớ ra được tôi là ai. Đang ông ông tôi tôi
Quý đột ngột đổi xưng hô em và anh, em và thủ trưởng.
Quý nói, em thì lại ân hận vì anh em chết bị thương gần nửa rồi mà mình vẫn ôm cây M79 yểm trợ ở trong hầm.
Lần đầu tiên sau hơn bốn mươi năm anh em mới được ngồi với nhau chuyện không sao dứt được. Tới ba giờ sáng rủ nhau ra khe tắm. Cách nhà Quý nửa cây số có một con suối chảy từ trong Quảng Bình ra. Thằng dọi đèn pin thằng cầm đèn hoa kỳ ra suối cởi hết áo quần đằm mình giữa khe tưởng mình vẫn là thằng lính năm nào được dịp ra suối lấy nước tranh thủ nhúng ướt áo quần rũ sạch bùn đỏ cả tháng lăn lê hầm hào ở Kon Tum. Chúng tôi hét, chúng tôi cười, chúng tôi bảo mình là những thằng điên. Hai bờ khe là bãi đá hệt như bãi đá ngày xưa tôi ngồi kỳ cọ bộ quần áo của đồng đội đã hy sinh. Cười cười mà vẫn không ngăn được hàng nước mắt.
18.
Mùa mưa không đánh lớn. Tập trung bám chốt cho vững và kết hợp đánh nhỏ lẻ.
Bảy giờ tối ngày 6 tháng 6 năm 1974 tôi được gọi lên ban chỉ huy đại đội nhận nhiệm vụ sáng ngày mai trung đội phải có mặt tại đoạn đường 5B phục kích đánh địch đi chi viện.
Lúc này là chín giờ đêm, từ ban chỉ huy về trung đội tôi chốt hơn một cây số. Đường rừng rậm, không đèn không đuốc, trời tối thui. Về đến nơi, anh em người đang gác người đang thức. Tôi gọi tất cả dậy chuẩn bị chiến đấu. Mười một giờ đêm xuất kích.
Ngoài tôi ra không ai biết hướng đi. Tôi cũng mới chỉ biết qua sơ đồ, ghi nhanh trong trí nhớ. Chưa ai đặt chân đến vùng đất này. Mưa nắng thất thường tình hình địch thay đổi nên địa điểm chúng tôi cũng di chuyển liên tục. Tôi đi trước, theo sau mười tám anh em. Vượt qua hai ngọn đồi, hai khe suối. Đến đúng địa điểm là ba giờ sáng. Anh em đào hầm, lắp đế cối. Tôi cùng ba tiểu đội trưởng quan sát địa hình, lên phương án đánh địch cho
từng tiểu đội và từng người. Nhắc anh em không được ngủ. Phải đặt tai, mắt vào các hướng. Lúc này chắc đã hơn năm giờ sáng. Kiểm tra tiểu đội hỏa lực xong tôi ôm súng dựa vào gốc cây to ngủ thiếp đi.
Đôi tai lính nhắc tôi tỉnh dậy rất nhanh sau đó. Trời đã sáng. Vừa mở mắt đã thấy choáng. Trận địa quá trống. Anh em ẩn nấp sau lùm cây mua cây dại che được phần đầu thì nhoài ra ngoài phần chân. Đồn địch cách nơi chúng tôi chưa tới nửa cây số. Chỉ cần ngồi xổm là địch phát hiện ra và đội hình bị xơi gọn ngay tức thì. Tôi mất bình tĩnh nhưng không để lộ ra ngoài cho anh em biết.
Chín giờ trưa anh nuôi cũng đem cơm đến được tới nơi. Tôi nhận cơm từ anh nuôi. Trên người một khẩu AK, ba băng đạn 120 viên, bốn quả lựu đạn, dao găm, bình nước và toàn bộ số cơm của anh em. Tôi trườn đi mang cơm cho từng người. Phát hiện ra tiếng xe ô tô. Tôi trườn lại chỗ anh Hường tiểu đội trưởng đang ngáy ầm ĩ. Chờ địch lâu quá anh đã ngủ say, tôi phải lay mãi anh mới tỉnh.
Chiếc xe CMC dừng lại, toàn bộ lính trên xe nhảy xuống, đi thẳng tới trước mặt đội hình chúng tôi đã bố trí. Đúng như kế hoạch. Tiếng súng tôi
phát hỏa. Tôi hô xung phong và kêu gọi địch đầu hàng.
Trận đánh xong rồi mà anh em ai cũng như mất thăng bằng. Giải tù binh và rời khỏi trận địa ngay. Đi khuất vào rừng một lúc mới trói tù binh và nghỉ. Nhận nhiệm vụ bất ngờ từ đêm qua, cơm trưa anh nuôi mang đến chưa kịp ăn. Anh em không ai bị thương, đạn tốn ít, bắt được địch làm tù binh. Tôi được ca ngợi là người chỉ huy trung đội giỏi của năm.
Ba ngày hôm sau tôi giẫm phải quả mìn địch cài sẵn lúc trước. Cỏ tranh cây cối đã mọc che nên không phát hiện ra. Đây là lần thứ ba bị thương nặng. Phải vào viện nằm ba tháng. Ra viện, bước đi chưa vững đã phải nhận nhiệm vụ lên chốt. Chân tập tễnh leo núi đá dốc khó chịu vô cùng.
Cao điểm ngày nắng ấm đêm thì rét buốt. Quần áo mỗi người được một bộ dài tay rách tả tơi. Không chăn không màn.
Ngồi trên chốt căng thẳng, bứt rứt. Ăn không được ngủ không yên. Thần kinh căng như dây đàn. Cơm anh nuôi đưa cơm lên mỗi người chỉ ăn được một bát. Dưới chân đồi địch bộ binh. Trên đầu pháo
mười lăm phút lại nã. Bom bỏ không theo quy luật nào.
Cơm thừa, tôi bảo anh em mang đi phơi để dành ăn vào lần sau. Phơi trong bóng râm chứ không dám phơi lộ liễu ngoài trời nắng. Đêm đến một đàn chuột tới ăn phần cơm. Tôi làm bẫy bắt được chục con chuột to. Hỏi anh em có ăn thịt chuột không. Đã từng nghe thịt chuột ăn được nên ai cũng muốn thử.
Những con chuột được thui lên, làm thịt, chặt miếng rán mỡ. Mỡ tôi xin được từ anh nuôi đại đội. Anh em hào hứng ngồi chờ thưởng thức.
Sáng sớm mai tôi đi ra kiểm tra vọng gác. Gió thổi vào vọng gác thứ hai. Bình và Trị đang đứng chốt nói: Bọn em thấy thối mùi thịt người. Tôi dừng lại. Đúng là mùi thối rất quen.
Tôi lần theo lối cỏ tranh ngã rạp, cách hào mười mét nhìn thấy rất nhiều phân chuột. Và cạnh đấy là năm xác chết trơ ra đầu lâu và hình thù những ngón tay ngón chân. Dấu chuột moi còn rất mới.
Hôm bàn giao chốt đơn vị bạn có nói cách đây hai tuần họ nổ súng diệt một tiểu đội địch đi tuần tra. Xác địch phơi đấy, đơn vị sợ thối chỉ lấp sơ sài. Những con chuột đã sục tìm.
"""