"
Đời Ong - Maurice Maeterlinck full mobi pdf epub azw3 [Tham Khảo]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đời Ong - Maurice Maeterlinck full mobi pdf epub azw3 [Tham Khảo]
Ebooks
Nhóm Zalo
TỦ SÁCH VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI MAURICE MAETERLINCK
ĐỜI ONG
Khảo luận triết học
Thi Hoa dịch
NHÀ XUẤT BẢN THẾ GIỚI ebook©tudonald78 | 25-04-2021
Ebook này được thực hiện theo dự án “SỐ HÓA SÁCH CŨ” của diễn đàn TVE-4U.ORG
TÁC GIẢ
--------
MAURICE MAETERLINCK (1862-1949)
Maurice Maeterlinck sinh tại Ghent trong một gia đình Pháp khá giả, bố
làm công chứng, mẹ là con gái một luật sư giàu có. Sau khi tốt nghiệp luật tại Đại học Ghent vào năm 1885, Maeterlinck đi Paris. Năm 1886, ông gia nhập Đoàn Luật sư Ghent, viết thơ, ký, phê bình cho các báo và tạp chí như La Jeune Belgique, La Wallonie...
Năm 1886 ông in truyện ngắn đầu tiên Le massacre des innocénts (Cuộc tàn sát những kẻ vô tội); năm 1889 ông xuất bản tập thơ đầu tiên và vở kịch đầu tiên, được nhà phê bình Octave Mirbeau của báo Le Figaro hết lời khen ngợi. Từ đó ông bỏ nghề luật sư. Trong những năm tiếp theo, ông viết hàng loạt vở kịch cổ tích, tượng trưng, kịch rối...
Năm 1895 Maeterlinck cưới vợ là Leblan - diễn viên tham gia đóng các vở kịch của ông và năm 1896 sang Paris sinh sống. Maeterlinck ủng hộ nghệ thuật thuần túy, là một trong những đại diện tiêu biểu của trường phái tượng trưng cả trong thơ ca lẫn sân khấu, trong các tác phẩm của mình mở ra một thế giới đầy màu sắc, mộng ảo chống lại số phận khắc nghiệt.
Năm 1909 ông viết xong vở kịch L'Oiseau Bleu (Con chim xanh), một kiệt tác của sân khấu kể về những cuộc phiêu lưu kiếm tìm hạnh phúc qua hình tượng con chim xanh và đã trở thành một điển cố văn học biểu tượng cho hạnh phúc tình yêu cũng như đã được dựng lên trong nhiều phim.
Maurice Maeterlinck là người làm vườn rất giỏi. Ông dành 20 năm nuôi ong và nghiên cứu về loài ong không khác gì các nhà ong học. Ngoài tác phẩm Đời ong là một khảo luật triết học về đời sống loài ong, nhưng tác phẩm này đã truyền cảm hứng cho nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau như ballet, xiếc, thơ, nhạc… Trong cuốn sách Thông thái và số phận, ông mở đầu bằng một câu cũng về loài ong: 'Loài ong làm việc trong bóng tối mà đức hạnh thì không phô trương'. Kiến thức về ong của ông không thua các nhà nghiên cứu”.
Maurice Maeterlinck dùng ngòi bút để nói về ngọn lửa tâm linh, không
chỉ cháy lên trong đời sống con người mà còn ở thế giới thực vật: những loài hoa, loài rong dưới nước hay trên bờ, loài kiến, mối, để từ đó kể những câu chuyện về sức sống bí ẩn, truyền từ đời này sang đời khác của vạn vật.
Bộ ba khảo luận triết học của Maurice Maeterlinck đã phát hành tại Việt Nam.
Bộ ba khảo luận triết học, Thông thái và số phận (1898), Đời ong (1901) và Trí tuệ của hoa (1910) có thể chia thành ba chủ đề: con người, côn trùng (ong) và thực vật (hoa). Dù đọc theo thứ tự nào cũng thấy một sơ đồ hình chóp, từ cỏ cây, đến con người và ngược lại, từ vị trí người nhìn xuống. Thiên nhiên là một điều vĩ đại, bầu sữa lớn đã nuôi xanh Trái đất hàng triệu năm. Con người không phải chủ nhân của địa cầu, sự hiểu biết của con người có hạn, thậm chí ngô nghê trước những điều huyền diệu trong cuộc sống.
Maeterlinck viết như một nhà hiền triết, xuyên chiếc thấu kính xuống những thứ con người đã bỏ sót hoặc chưa thấu tỏ, ông không phải nhà khoa học mà là một triết gia. Bởi thế, ngoài việc giải mật những điều kỳ diệu của cuộc sống, ông mong muốn một sự nhìn lại của mỗi người về thế giới.
T
Phần I
Ở ngưỡng cửa tổ ong I
ôi không có ý định viết một chuyên luận về nghề nuôi ong hay sách hướng dẫn về việc chăm sóc đàn ong. Tất cả các nước văn minh đã có những cuốn sách chỉ dẫn tuyệt vời, mà cải biên chúng là một việc vô ích: nước Pháp có các cuốn của các tác giả Dadant, Georges de Layens và Bonnier, Bertrand, Hamet, Weber, Clément, cha xứ Collin v.v. Những nước nói tiếng Anh có các tác giả như Langstroth, Bevan, Cook, Cheshire, Cowan, Root và các học trò. Nước Đức có các tác giả Dzierzon, Van Berlepsch, Pollmann Vogel và nhiều tác giả khác.
Nhưng cuốn sách của tôi cũng không phải là một chuyên khảo khoa học về ong mật châu Âu (apis mellifica), ong Italia (ligustica), ong mật Ai cập (fasciata) v.v., không phải là một tập tuyển chọn các quan sát hay nghiên cứu mới. Tôi sẽ hầu như không nói một điều gì mà có lẽ tất cả những ai dẫu chỉ có đôi chút hiểu biết về ong đều đã rõ. Để tránh khiến cuốn sách này trở nên nặng nề một cách không cần thiết, tôi đã để lại cả một loạt những kinh nghiệm và quan sát được tôi tiến hành trong hai mươi năm làm nghề nuôi ong cho một công trình khác dành riêng cho các chuyên gia; những kinh nghiệm và quan sát này khá mang tính chuyên môn, và vì thế chúng chẳng mấy hấp dẫn.
Tôi chỉ muốn kể về “những chú ong vàng” của Ronsard như cái cách
người ta bàn về một đề tài mà người ta quen biết và yêu thích khi nói với những ai hoàn toàn chẳng biết gì nó. Tôi không có ý định tô vẽ cho sự thật, cũng như tự xếp mình vào trong số những nhà chuyên môn về loài ong bị Réaumur trách cứ rất đúng bởi đã đem thay thế một điều thực sự kỳ diệu bằng cái thứ kỳ diệu mà họ tưởng tượng ra và thích thú. Trong tổ ong có rất nhiều điều kỳ diệu, nhưng đó không phải là cái cớ để phóng đại. Ngoài ra, tôi đã từ lâu rồi từ bỏ việc tìm kiếm trong thế giới này cái điều kỳ diệu hấp dẫn hơn và tuyệt vời hơn sự thật hoặc điều mà sự nỗ lực của con người thấu hiểu được. Chúng ta sẽ không phí hoài công sức cho việc tìm kiếm sự vĩ đại của đời sống trong cái huyền bí. Những sự việc bình thường nhất đã đủ đầy vĩ đại, và chúng ta cho đến giờ chưa nghiên cứu một cách căn cơ một sự việc nào trong số đó. Bởi vậy tôi sẽ chỉ nói về những sự việc, hoặc đã được tôi tự thân kiểm chứng, hoặc việc kiểm tra chúng là thừa vì rằng chúng đã được xác minh đầy đủ trong ngành ong học. Công việc của tôi giới hạn trong việc trình bày các sự kiện một cách khoa học, nhưng ở một hình thức sinh động hơn, gắn liền với những suy nghĩ sâu sắc hơn và phóng khoáng hơn về chúng và đem lại cho chúng diện mạo hài hòa hơn những gì mà người ta có thể làm được trong một cuốn sách chỉ dẫn, trong một cuốn sách giáo khoa thực hành hay một chuyên luận khoa học. Ai đó đọc cuốn sách này, dĩ nhiên, sẽ không thể làm chủ một tổ ong, nhưng anh ta sẽ biết gần như mọi điều xác thực, thú vị, mật thiết và sâu sắc về các cư dân của nó. Song tất cả những điều này, tất nhiên, chẳng là gì khi so sánh với những gì mà ngoài chúng ra anh ta cần phải tìm hiểu. Tôi sẽ không bàn đến mọi sự nhầm lẫn mang tính truyền thống vẫn tiếp tục là huyền thoại ở các vùng làng quê và trong nhiều sáng tác về tổ ong. Khi xuất hiện mối nghi ngờ, sự bất đồng, giả thuyết, khi vấp phải một điều chưa biết, tôi sẽ thành thực thú nhận. Các bạn sẽ thấy rằng chúng ta thường xuyên phải dừng lại trước điều chưa biết. Ngoài những hành vi xuất sắc và
đáng kể của việc điều hành ở bên trong và hoạt động của các cô con gái tuyệt vời của Aristée1, chúng ta chẳng hề biết được gì xác thực về chúng. Trong quá trình hoàn thiện việc nuôi dưỡng đàn ong, chúng ta càng thường xuyên thấy rõ rằng, chúng ta chẳng biết gì về những điều thực sự sâu kín trong đời sống của chúng; nhưng chính sự không hiểu biết như thế còn tốt hơn là sự ngu dốt vô thức và tự thỏa mãn tạo nên cái nền tảng khoa học của chúng ta về sự sống. Vâng, rất có thể, tất cả những gì con người có thể hi vọng hiểu biết được trong thế giới này chỉ nhờ vào điều ấy.
Liệu đã có một công trình nào về loài ong tương tự như cuốn sách này hay không? Cá nhân tôi chưa từng thấy một tác phẩm nào ở dạng này, dù sao tôi cũng nghĩ rằng mình quả thật đã đọc tất cả những gì được viết về chúng, ngoài một chương được Michelet dành cho đề tài này ở cuối cuốn Côn trùng (L’Insectè) của ông, và một tiểu luận về đề tài này trong cuốn Cuộc sống tinh thần của động vật (Geistesleben der Thiere)2 của Ludwig Buchner - tác giả nổi tiếng với cuốn “Các lực và vật chất”. Michelet mới đề cập thoáng qua về đối tượng này, còn Buchner, thì tiểu luận của ông khá đầy đủ, tuy nhiên, khi đọc xong những khẳng định đầy phiêu lưu, những sự việc mang tính hoang đường, những trích dẫn từ các nguồn đã bị loại bỏ từ lâu lắm rồi, tôi ngờ rằng ông chưa bao giờ bước ra khỏi thư phòng của mình để trực tiếp thăm hỏi các nữ anh hùng của mình, chưa bao giờ mở một trong số hàng trăm tổ ong huyên náo, như thể cháy nhà, mà cần phải thâm nhập vào đó trước khi linh cảm thích ứng được với sự bí ẩn của chúng, trước khi thấm đẫm bầu không khí, hương thơm, linh hồn và những điều huyền bí của những nàng trinh nữ cần mẫn. Trong cuốn sách của Buchner không có hương thơm của mật ngọt và linh hồn của ong; nó mắc đúng cái nhược điểm như nhiều cuốn sách giáo khoa uyên bác của chúng ta là các kết luận thường mang tính định kiến, còn lí luận khoa học của chúng chỉ là một mớ toàn những chuyện hài hước đáng ngờ, bạ đâu
cóp nhặt đấy. Nhưng tôi hiếm khi phải đụng chạm đến nó trong tác phẩm của mình, vì các xuất phát điểm của chúng ta, các quan điểm của chúng ta và các mục đích của chúng ta hoàn toàn khác.
II
Thư mục về loài ong là một trong những thư mục lớn nhất (chúng ta bắt đầu từ sách vở để nhanh chóng thoát khỏi chúng và hướng đến ngọn nguồn trực tiếp nhất của chúng). Sinh vật bé nhỏ kì lạ này, sống thành một xã hội tuân theo những luật lệ phức tạp và trong bóng tối thực hiện những công việc phi thường, từ thuở xa xưa đã thu hút sự quan tâm của con người. Aristote, Caton, Varron, Pline, Collumelle, Palladius đã nghiên cứu về loài ong, đấy là chưa kể đến triết gia Aristomachus, người, mà theo lời của Pline, đã nghiên cứu về chúng trong suốt năm mươi tám năm, và về Phyliscus xứ Thasos, người đã sống nơi hoang mạc để không phải thấy một ai, ngoài ong, và được gọi là “Người cô độc”. Nhưng chính từ họ mới có huyền thoại về loài ong và tất cả những gì có thể rút ra từ đó, tức là thu được một điều gì đó, thì gần như là bằng không, đã được thuật lại ở bài ca thứ tư trong Nông Ca (Géorgiques) của Virgile.
Lịch sử về loài ong trực tiếp bắt đầu vào thế kỉ XVII với phát kiến của Swammerdam - học giả vĩ đại người Hà Lan. Tuy nhiên nên bổ sung thêm một chi tiết ít người biết đến: đó chính là, trước cả Swammerdam, có Clutius - một nhà tự nhiên học, người Flandre, đã phát biểu một số chân lí quan trọng về vấn đề này, trong số đó có sự thật rằng, ong chúa là bà mẹ duy nhất của toàn bộ đàn ong và nó mang đặc tính của cả hai giống; song ông ấy không chứng minh được điều này. Swammerdam đã sáng tạo ra những phương pháp nghiên cứu có tính khoa học, chế ra kính hiển vi, nghĩ ra những liều thuốc tiêm bảo quản, là người đầu tiên giải phẫu ong, bằng việc phát hiện ra buồng trứng và vòi trứng, ông đã dứt điểm xác định được
rằng ong chúa là con cái, mà trước đó người ta vẫn coi là con đực, và ông đã bất ngờ làm sáng tỏ các mối quan hệ bên trong tổ ong là dựa trên mẫu tính. Sau cùng là việc ông tiến hành việc giải phẫu và vẽ những bức tranh hoàn hảo đến mức cho đến nay chúng vẫn được dùng để minh họa cho nhiều chuyên luận về nghề nuôi ong. Sống ở thành phố Amsterdam ồn ào và bất ổn, ông thấy tiếc nuối “cuộc sống chốn làng quê yên bình”, và qua đời ở tuổi 43 vì lao lực. Ông đã trình bày những nghiên cứu của mình trong một công trình lớn Thiên nhiên mới (Bybel der Nature), nó được viết bằng một văn phong nghiêm cẩn và chặt chẽ. Trong tác phẩm này [ta có thể thấy] những biểu hiện trào dâng sự hứng khởi thuần khiết và tuyệt vời của một niềm tin sợ rằng mình sẽ bị lung lạc, mọi điều được liệt ra đều đặng vinh danh Đấng Hóa Công; một trăm năm sau tác phẩm này được tiến sĩ Boerhave dịch từ tiếng Hà Lan sang tiếng La tinh với tựa đề Biblia Naturae (Leyden, 1737).
Tiếp đó là Réaumur, người trung thành với những phương pháp như trên. Ông đã thực hiện vô số những thí nghiệm và quan sát rát hay trong những khu vườn của mình ở Charenton, và dành cho những chú ong cả một cuốn sách trong một loạt Hồi kí về lịch sử của các loài côn trùng (Mémoires pour servir a l’histoire des insectes). Chúng ta có thể đọc cuốn đó một cách hứng khởi và thu được điều gì đó hữu ích. Cuốn sách được trình bày mạch lạc, thiết thực, trung thực, nhưng không mất đi sự hấp dẫn nhất định, tuy có đôi chút thô mộc và khô khan. Trước tiên tác giả cố gắng xóa tan rất nhiều những nhầm lẫn xưa cũ, và đồng thời phổ biến một số điểm mới; ông đã phần nào làm sáng tỏ những nguyên do hình thành đàn ong, chế độ cai quản của ong chúa, nói tóm lại là, ông đã xác định được một số sự thật quan trọng và chỉ dẫn cho nhiều người khác tiếp bước. Qua những nghiên cứu của mình, công việc đầu tiên là ông khẳng định sự kì diệu trong kiến trúc của tổ ong, và tất cả những gì đã được ông trình bày
thì không có một ai có thể nói hay hơn. Chúng ta cũng biết ơn ông về ý tưởng tổ ong bằng kính, sau này chúng được hoàn thiện hơn, chúng cho chúng ta thấy rõ toàn bộ đời sống ẩn kín của các cô ong thợ chuyên cần bắt đầu công việc của mình trong ánh dương quang rực rỡ và chỉ khi bóng tối bao phủ mới kết thúc. Để cho đề tài được đầy đủ hơn, tôi cần phải kể đến những tìm tòi và công việc của các nhà nghiên cứu muộn hơn sau này – của Chartes Bonnet và Schirach (người giải quyết dứt điểm bí ẩn về trứng của ong chúa), nhưng tôi sẽ giới hạn ở điểm chính thôi, rồi tôi sẽ chuyển ngay sang Francois Huber, một bậc thầy, một tác giả kinh điển của khoa học về loài ong.
Huber sinh ra ở Geneve vào năm 1750, bị mù từ khi còn rất trẻ. Mới đầu Huber chỉ quan tâm đến các thí nghiệm của Réaumur và muốn kiểm tra lại chúng thôi, rồi ông nhanh chóng say mê các nghiên cứu này, và nhờ sự giúp đỡ của Francois Burnens, một người hầu thông minh và trung thành, ông đã dành cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu ong. Trong biên niên sử về những nỗi đau khổ và chiến thắng của nhân loại, không có một điều gì cảm động hơn và có tính giáo dục hơn câu chuyện về sự hợp tác kiên tâm này: một người chỉ thấy được ánh sáng tinh thần, chỉ dẫn cho khối óc, đôi bàn tay và cặp mắt của một người được vui hưởng ánh sáng thật sự; một người chưa bao giờ, như người ta quả quyết, tận mắt mình nhìn thấy một tầng mật, thế nhưng đã nhìn, - qua màn sương mù trong đôi mắt của mình, - xuyên thấu màn sương mù gấp bội phần mà thiên nhiên dùng để che phủ tất thảy những gì tồn hữu, những bí ẩn sâu kín nhất của đấng thần linh đã tạo ra cái tầng mật vô hình này. Toàn bộ câu chuyện có thật này dường như muốn cho chúng ta thấy rằng không có một hoàn cảnh nào mà vì thế chúng ta phải từ bỏ niềm hi vọng được sở hữu chân lí. Tôi sẽ không liệt kê những gì mà ngành khoa học về loài ong phải chịu ơn của Huber, tốt hơn là tôi sẽ chỉ ra những gì mà nó không phải chịu ơn ông. Cuốn Những nghiên cứu
mới về loài ong (Nouvelles observations sur les abeilles) của ông vẫn là một kho báu dồi dào và đáng tin cậy để tất cả những người nghiên cứu ong khai thác được nhiều điều; tập đầu tiên của tác phẩm này được viết vào năm 1789 dưới hình thức những bức thư gửi Charles Bonnet, còn tập thứ hai đến 20 năm sau mới xuất hiện. Quả thật, trong đó ta có thể thấy một vài sai lầm, một số chân lí chưa được hoàn thiện; từ khi cuốn sách ra đời thế giới đã đạt được không ít thành tựu trong ngành vi sinh, thực hành nuôi dưỡng ong, các phương pháp đối xử với ong chúa và v.v., nhưng không một nghiên cứu cơ bản nào của ông bị gạt bỏ hay bị coi là không chính xác: chúng vẫn là bất khả xâm phạm trong các thí nghiệm đương đại của chúng ta và làm nền tảng cho các thí nghiệm này.
III
Sau những phát kiến của Huber là một vài năm im ắng; tuy nhiên không lâu sau Dzierzon, một vị linh mục xứ Carlsmarrk (ở Silésie), phát hiện ra sự trinh sản, tức là sự sinh sản trinh bạch của ong chúa, và phát minh ra tổ ong đầu tiên có các tầng tổ di động, nhờ thế người nuôi ong từ nay có thể thu hoạch phần mật ong cho mình, mà không giết hại những đàn ong tốt nhất của mình và không nhất thời hủy hoại công lao của cả một năm trời. Tổ ong này vẫn còn rất chưa hoàn hảo, về cơ bản nó đã được hoàn thiện nhờ Langstroth, người đã phát minh ra bộ khung di động, chúng được phổ biến cực kì thành công ở Mĩ. Root, Quinby, Dadant, Cheshire, de Layens, Cowan, Heddon, Howard… đã có thêm một số cải tiến có giá trị cho phát minh này. Để tránh cho ong khỏi sự can thiết phải chế tạo sáp và xây kho chứa, mà vì thế chúng phải mất rất nhiều mật và thời gian quý báu nhất, Mehring đã nghĩ ra cho đàn ong những tầng tổ được chế san - chúng được đàn ong đón nhận và thích ứng ngay cho những nhu cầu của mình. De Hruschaka phát minh ra Smélatore, bằng cách áp dụng lực li tâm nó cho
phép tách mật ra, mà không phá vỡ tầng tổ, v.v. Trong vài năm thôi lề thói thủ cựu của nghề nuôi ong đã bị phá bỏ; sản lượng và mức sinh sản của tổ ong đã tăng gấp ba; khắp mọi nơi đều có những trại ong lớn và được gây dựng sẵn. Kể từ đó không còn chuyện giết hại một cách vô ích những đàn ong di cư chăm chỉ nhất và cái việc ghép đàn trái ngược tai quái vốn là hậu quả của những lần tàn sát như thế. Con người thật sự trở thành ông chủ của bầy ong, một ông chủ bí ẩn và vô hình chỉ đạo mọi việc mà không cần ra lệnh, và giữ tất cả trong sự tuân phục mà không bị nhận ra. Con người áp đặt ý chí của mình vào nơi trước đây mọi sự đều phụ thuộc vào thời vụ, sửa đổi cả bốn mùa; con người hợp nhất các “cộng hòa ong quốc” thù địch, chia đều tài sản, tăng hoặc giảm số lượng sinh nở, điều chỉnh mức sinh sản của ong chúa, con người hạ bệ và thay thế bằng một ong chúa khác bằng cách khôn khéo ép buộc dân ong ưng thuận cái việc khó chấp nhận này - chúng sẽ nổi giận khi nghi ngờ về sự can thiệp mờ ám. Khi thấy điều này là cần thiết, con người thản nhiên phá hủy sự bí ẩn của các căn phòng thiêng liêng và cực kì khôn ngoan hủy bỏ chính sách thận trọng của nữ hoàng ong. Con người năm, sáu lần liên tục lấy đi những thành quả lao động của những người chị em trong ngôi nhà thân thiện, nhẫn nại này, mà không gây hại cho chúng, không làm mất đi ở chúng lòng dũng cảm và không dẫn chúng đến cảnh khánh kiệt. Con người điều chỉnh kho vựa chất chứa vụ hoa bội thu trong các ngôi nhà của chúng, những cánh hoa rải rác trên các sườn đồi mỗi độ rộn rã Xuân về. Nói tóm lại, con người làm những gì anh ta muốn và nhận về từ đàn ong những gì anh ta đòi hỏi, tuy nhiên, với một điều kiện là phải tuân theo các đặc tính và luật lệ của chúng, vì rằng vượt lên trên ý chí của vị chúa tể không mong đợi, làm chủ đàn ong này, vượt lên trên ý chí - cái ý chí quá lớn để ghi nhận, và quá xa lạ để hiểu được này - loài ong nhìn xa hơn chính vị chúa tể này, và trong sự quên mình không gì lay chuyển được chúng chỉ nghĩ về việc thực hiện cái nghĩa
vụ bí ẩn của giống loài của mình.
IV
Bây giờ, khi những cuốn sách đã trình bày cho chúng ta tất cả những gì chính yếu mà chúng có để kể cho chúng ta về lịch sử vô cùng cổ xưa của loài ong, chúng ta sẽ để cái môn khoa học đã được những người khác nắm bắt, và nhìn lại loài ong bằng con mắt của riêng mình. Một tiếng đồng hồ ở giữa tổ ong sẽ cho chúng ta thấy những điều, có thể, kém chính xác hơn, nhưng lại vô cùng sống động và bổ ích hơn.
Tôi vẫn không quên được trại ong đầu tiên tôi được thấy và nhờ nó học cách yêu loài ong. Chuyện này xảy ra từ nhiều năm trước ở một ngôi làng nhỏ bình dị của vùng Flandre Zélandaise, - Flandre còn sạch và duyên dáng hơn chính Zélande, hình ảnh thu nhỏ của Hà Lan này hội tụ trong mình sở thích thẩm mĩ với những sắc màu rực rỡ và dỗ yêu con mắt bằng những ngọn tháp và những đầu mái nhà vuốt nhọn của mình trông tựa như những món đồ chơi đẹp và được làm rất công phu, bằng những chiếc xe ba gác sơn màu rực rỡ, bằng những chiếc tủ sáng choang và những chiếc đồng hồ treo tường trong các hành lang sâu hút, bằng những hàng cây nhỏ nối nhau dọc theo các bờ kè, dòng kênh, như thể đang mong đợi một nghi lễ thơ ngây và tốt lành, bằng những chiếc sà lan và những con thuyền có mạn lái được trang hoàng, bằng những cánh cửa chính và những ô cửa sổ chẳng khác gì những bông hoa, bằng những âu thuyền hoàn mỹ, bằng nhưng cây cầu nâng nho nhỏ và đủ mọi sắc màu, bằng những ngôi nhà sơn bóng trông như món đồ tao nhã và sáng loáng, có những người phụ nữ đeo các đồ trang sức bằng vàng và bạc trông như những quả chuông nhỏ, bước ra từ đó để đi vắt sữa bò ngoài cánh đồng cỏ được rào bằng hàng rào màu trắng, hoặc trải phơi quần áo trên những thảm cỏ được cắt tỉa thành hình ô-van và hình thoi màu xanh dịu và điểm đầy hoa. Ở nơi ấy có một nhà hiền triết già
ẩn cư khá giống với ông lão Virgile.
Một người sánh ngang đế vương và giống như các vị thần.
Và La Fonten có thể nói thêm: giống như các vị thần, người ấy bình tâm đắc ý; ông lánh đời ở nơi mà cuộc đời dường như eo hẹp hơn những nơi khác, nếu như thật sự có thể thu nhỏ được đời sống. Ông thu xếp cho mình một chốn ẩn dật chẳng phải vì ghê tởm cuộc đời - bậc hiền minh không biết đến cái sự ghê tởm kinh khủng như thế, - mà bởi ông đã phần nào mệt mỏi cật vấn những con người thiển cận hơn cả muông thú và cỏ cây khi trả lời những câu hỏi duy nhất có ý nghĩa, mà ta có thể đặt ra cho thiên nhiên và các quy luật thực tại. Toàn bộ niềm hạnh phúc nơi ông, giống như ở vị triết gia của xứ Scythia, quy tụ lại trong những vẻ đẹp của khu vườn, và giữa những vẻ đẹp ấy có một vẻ đẹp được ông yêu thích hơn cả và thường xuyên đến thăm hơn là khu trại ong gồm có 12 tổ ong làm bằng rơm, hình chuông được ông tô điểm đủ màu - vài tổ có màu hồng rực, hai ba tổ có màu vàng tươi, nhưng đa số có màu xanh dịu, vì ông nhận thấy, rất lâu trước các thí nghiệm của ngài John Lubbock, rằng màu xanh da trời được các chú ong ưa thích nhất. Ông sắp xếp trại ong ở cạnh bức tường quét vôi trắng của ngôi nhà, trong cái góc được tạo thành nhờ gian bếp, - một gian bếp Hà Lan dậy vị thơm ngon và mát mẻ với những chiếc giá bằng sành, nơi xếp bộ đồ làm bếp bằng thiếc và đồng sáng bóng, qua cánh cửa rộng mở soi bóng xuống dòng kênh thanh bình. Và dòng nước ăm ắp những hình ảnh không chút già tạo dưới rặng dương hướng ánh mắt ta tới tận chân trời xa - ta sẽ được mãn nhãn nhờ bức tranh phong cảnh đồng nội cùng những chiếc cối xay gió.
Ở nơi đây, cũng như ở bất cứ nơi nào có đặt những tổ ong, chúng sẽ đem lại cho những cánh hoa, sự tĩnh lặng, bầu không khí man mác, những tia nắng một ý nghĩa mới. Ở đó như thể đang diễn ra ngày hội mùa Hạ. Ở
đó ta có thể nghỉ ngơi ở một ngã tư tươi sáng, nơi những đường bay hội tụ và lan tỏa, từ lúc bình minh ló rạng cho đến khi hoàng hôn buông xuống, chúng mang theo đủ mọi hương vị bận rộn và đầy thanh sắc của làng quê. Ở đó ta có thể thấy một tâm hồn ngời ngời và hạnh phúc, một tiếng nói khôn ngoan và đầy nhạc điệu, một tổ ấm vui nhộn trong thời khắc tuyệt đẹp của khu vườn. Ở đó, trong ngôi trường của đàn ong, chúng ta hiểu ra những môi bận tâm của tự nhiên toàn năng, những mối quan hệ trong sáng giữa ba thế giới của tự nhiên, sự phát triển bất tuyệt của sự song, đức hạnh của sự lao động hăng say và vô vị lợi, và cũng tuyệt vời như đức hạnh của sự lao động - ở đó có những cô ong thợ anh hùng dạy ta biết quy trọng hương vị ngọt ngào thoáng qua lúc nhàn cư, qua những đường nét nồng nhiệt được hàng nghìn đôi cánh nhỏ của mình vẽ nên như thể nhấn mạnh cái niềm vui sướng gần như không thể diễn tả nổi của những ngày thanh khiết hồi chuyển quanh mình trong không gian, khi chẳng mang theo mình một cái gì, ngoài cái chu trình trong sáng, vẹn toàn, giống như niềm hạnh phúc hết mực trinh bạch.
V
Để cho việc theo dõi lịch sử trọn vẹn một vòng đời của tổ ong được đơn giản hơn, chúng ta hãy lấy một tổ ong vừa thức giấc mỗi độ Xuân về và bắt tay vào công việc. Và chúng ta sẽ thấy trước mắt chúng ta mở ra những sự kiện lớn của một đời ong theo một trình tự tự nhiên của mình, đó chính là: việc hình thành và tách đàn, việc tạo lập một nơi ở mới, sự sinh nở, những cuộc giao tranh và chuyến bay giao hoan của các ong chúa trẻ, việc tiêu diệt các con ong đực và trở lại thời kì ngủ Đông. Mỗi một sự kiện trong số đó tự nó đem lại những lời giải thích đối với các luật lệ, các đặc tính, các tập tính, các biến cố gây nên hay đi kèm theo sự kiện, vì trong một vòng đời ong ngắn ngủi, hoạt động của nó dù thế nào đi chăng nữa cũng
không kéo dài quá thời đoạn từ tháng Tư đến cuối tháng Chín - chúng ta sẽ tiếp xúc với tất cả những bí ẩn của ngôi nhà ngào ngạt hương mật. Còn bây giờ, trước khi lựa chọn một tổ ong và đưa ra cái nhìn tổng thể về nó, chỉ cần nói rằng một tổ ong bao gồm một ong chúa, bà mẹ của toàn bộ dân ong, trong số một nghìn ong thợ, những con ong cái có khiếm khuyết vô sinh và cuối cùng, trong số hàng trăm con ong đực sẽ có duy nhất một một con được chọn làm ông chồng bất hạnh của bà nữ hoàng tương lai được các cô ong thợ chọn ra sau sự ra đi ít nhiều có phần tự nguyện của bà mẫu hậu đang trị vì.
VI
Lần đầu tiên mở một tổ ong, bạn cảm thấy có sự lo âu nào đó; nó giống như cái cảm giác ta phải trải qua khi thâm nhập thô bạo và một khu vực bí hiểm có thể đầy những bất ngờ đáng sợ, như vào hầm mộ chẳng hạn. Xung quanh loài ong đã hình thành truyền thuyết đầy những mối nguy hiểm đe dọa. Lập tức trong kí ức hiện lên kỉ niệm khó chịu về những cú ong chích gây đau đớn ghê gớm không gì có thể sánh được; có thể nói là bỏng rát, cứ như lửa sa mạc trút xuống nơi hỏa hoạn; như thể các cô con gái của mặt trời đã làm ra thứ chất độc cháy bỏng từ những tia nắng giận dữ của cha mình, những mong để bảo vệ tốt hơn kho mật ngọt được chúng gom góp trong những giờ phút tốt đẹp của chúng.
Quả thật, nếu người mở tổ ong không tuân thủ sự thận trọng, anh ta không biết và không tôn trọng cá tính và tập quán của các cư dân ở tổ ong, thì tổ ong này trong chớp mắt biến thành một búi lửa bùng cháy sự giận dữ và anh hùng. Nhưng chẳng có gì dễ dàng hơn bằng việc có đôi chút khôn khéo cần thiết để tiếp xúc với tổ ong mà không bị trừng phạt. Chỉ cần một chút khói nghi binh, hết sức bình tĩnh và mềm mỏng là đủ, - và những cô ong thợ được vũ trang tốt sẽ cho phép ta cướp bóc, thậm chí chẳng nghĩ
đến việc thò ngòi ra. Chúng không công nhận thủ lĩnh của mình, chẳng sợ con người, nhưng mùi khói và những động tác chậm rãi của đôi tay chuyển động trong ngôi nhà của chúng sẽ không đe dọa chúng, khiến chúng nghĩ rằng, đây không phải là sự tấn công và không phải là một kẻ thù ghê gớm, chúng có thể tự vệ chống lại được, mà đó là một thứ gì đó như thể là sức mạnh hay tai họa của thiên nhiên buộc chúng phải phục tùng. Thay vì chiến đấu một cách vô ích, những chú ong rất có tài tiên lượng - sự tiên lượng đánh lừa chúng, vì chúng quá nhìn xa trong rộng - những chú ong muốn, chí ít là cứu lấy tương lai và lao vào nguồn mật dự trữ để lấy và giấu trong chính bản thân mình chất liệu cho việc nhanh chóng tạo dựng một thành phố mới, nếu thành phố cũ bị phá hủy và cần phải từ bỏ nó.
VII
Một kẻ phàm phu được khi được quan sát một tổ ong mới đầu sẽ rất thất vọng3. Người ta quả quyết với anh ta rằng, cái hộp kính này chứa đựng trong mình sự hoạt động có một không hai, vô số những luật lệ khôn ngoan, rất nhiều điều đáng kinh ngạc về sự thiên tài, những bí ẩn, kinh nghiệm, tính toán, khoa học, những nghệ thuật khác nhau, sự nhìn xa trông rộng, niềm tin, những tập tính tinh khôn, những tình cảm kì lạ và những phẩm hạnh. Thế nhưng trong đó anh ta chẳng thấy gì, ngoài một đống chả ra hình thù gì những quả nhỏ màu hung đỏ, rất giống hạt cà phê rang hay quả nho khô chồng chất bên các tấm kính. Đống quả đáng thương ấy quả thật nằm như chết, chẳng sống động gì. Cả đống khẽ rung rinh bởi những chuyển động chầm chậm, rời rạc, khó hiểu. Anh ta không nhận thấy trong đó những giọt sáng đẹp mê hồn không ngừng vừa mới chìm xuống lại trồi theo nhịp thở rạo rực của cả nghìn đài hoa mãn khai tràn đầy châu ngọc.
Chúng run rẩy trong bóng tối. Chúng ngột ngạt trong đám đông bất
động, như đám tù nhân ốm yếu hay những nữ hoàng bị truất ngôi chỉ có một khoảnh khắc huy hoàng giữa vườn hoa rạng rỡ, để rồi ngay sau đó phải trở về cảnh nghèo hèn tủi hổ trong lãnh cung chất chứa buồn đau của mình. Nhưng ở đây cũng diễn ra cái điều đúng như nó xảy ra với bất kể một thực tại sâu sắc nào. Cần phải học cách quan sát nó: một cư dân của một hành tinh nào đó nếu nhìn thấy những con người hầu như lầm lủi đi lại ngược xuôi trên đường phố, tụ tập thành đám đông quanh một vài tòa nhà hay trên quảng trường nào đấy, chẳng biết họ chờ đợi cái gì, chẳng hiểu vì sao cứ ngồi lì trong những ngôi nhà của mình, thì người đó từ những gì nhận thấy sẽ rút ra kết luận rằng, con người thật ù lì và thảm hại. Chỉ dần dần từng chút một mới có thể nhận biết ra cái hoạt động rất phức tạp trong sự thụ động này.
Thực sự thì bất kể một cái hạt nhỏ bé nào, gần như bất động trong số đó đang lao động không ngừng và làm một nghề đặc biệt. Không một con ong nào trong đàn biết đến nghỉ ngơi, và thí dụ những con ong trông như đang ngủ im và treo mình thành chùm bất động trên tấm kính, chúng đang thực hiện một công việc bí ẩn và nặng nề nhất: chúng đang luyện và tiết ra sáp. Nhưng chúng ta sẽ trở lại với những điểm đặc biệt của hoạt động thống nhất này ngay sau đây. Bây giờ chỉ cần chú ý đến một đặc điểm trọng yếu trong thiên tính của loài ong giải thích cho nỗi buồn chán khác thường khi chúng làm việc trong bóng tối. Khi một con ong ra khỏi tổ, nơi chen chật đến mức, nó phải dùng đầu mở đường cho mình xuyên qua những bức vách sống động bao quanh nó, nó bước ra khỏi bản năng của mình. Nó vụt chìm vào một không gian tràn ngập hoa, như một người lặn xuống đại dương đầy ngọc quý; nhưng bởi cái chết đe dọa nên nó qua những khoảng thời gian chính xác phải trở về hít thở không khí bầy đàn, đúng như người thợ lặn hít thở dưỡng khí. Trong tình cảnh đơn độc, một con ong có thể chết sau vài ngày, chính vì sự cô đơn này. Trong tình cảnh
này thì nguồn thức ăn dồi dào, lẫn nhiệt độ thuận lợi nhất cho sự sống của nó cũng chẳng giúp ích được gì. Sự tập trung đông đúc, chiếc tổ chia sẻ cho nó thứ dưỡng chất vô hình xiết bao cần thiết như mật ngọt vậy. Cần chú ý đến nhu cầu này, để làm rõ được linh hồn trong các luật lệ của tổ ong. Trong tổ ong một cá thể chẳng là gì, nó chỉ là một thành tố không đáng quan tâm, một công cụ được chắp cánh của giống loài. Toàn bộ cuộc đời của nó là sự hy sinh trọn vẹn cho sự tồn sinh của [bầy đàn] đông vô kể và không ngừng tiếp nối, mà nó là một phần ở trong đó. Việc nhận ra rằng điều này không phải luôn như vậy mới thật kỳ lạ. Ngày nay trong các loài có cánh màng làm mật ta thấy tất cả các giai đoạn của một nền văn minh tiến bộ của con ong nhà của chúng ta. Dưới gầm cầu thang nó làm việc đơn độc, khốn khó; nó thậm chí thường không được thấy con cháu của mình (như Prosopis, Collates, v.v.), đôi khi sống giữa một gia đình chen chúc do nó tạo nên trong vòng một năm (như ong đất), tiếp theo là nó tạo ra những quần thể tạm thời (như Panurgues, Dasypodes, Halictes, v.v.), và cuối cùng, khi chuyển dần từng mức một, nó tiến tới một xã hội gần như hoàn chỉnh, nhưng nhẫn tâm với một cá thể - xã hội của các tổ ong của chúng ta - nơi một cá thể bị thể chế cộng hòa nuốt chửng, và nơi mà thể chế cộng hòa, đến lượt mình, lại thường xuyên trở thành vật hiến sinh cho cái xã hội trừu tượng và bất tử trong tương lai.
VIII
Chúng ta không nên vội vàng dựa trên những sự kiện này rút ra các kết luận áp dụng cho con người. Con người có khả năng không tuân theo các quy luật của tự nhiên; và vấn đề là ở chỗ, anh ta có quyền hay không, khi sử dụng khả năng này - nó là một trong những điểm quan trọng và ít được làm sáng tỏ nhất trong đời sống của anh ta. Song không vì thế mà việc nắm bắt ý chí của tự nhiên trong một thế giới khác biệt với thế giới của chúng
ta trở nên kém thú vị hơn; rõ ràng là, ý chí này bộc lộ một cách hết sức rõ ràng trong sự tiến hóa của những con vật cánh màng làm mật, mà sau con người, trong số các cư dân của trái đất, chúng là những sinh thể có trí lực trời phú hơn cả. Tự nhiên, rõ ràng, cố gắng hướng tới sự cải thiện giống loài, nhưng nó đồng thời cho thấy rằng, đừng mong điều đó hoặc không thể đạt được điều đó bằng một cách nào khác là phải làm tổn hại đến sự tự do cá nhân, các quyền và hạnh phúc của một cá thể. Cùng với việc một xâ hội hình thành và phát triển, đời sống riêng của mỗi thành viên của nó bị thu hẹp lại. Ở bất cứ đâu ta nhận thấy có sự tiến bộ, thì nó đều là kết quả của việc càng ngày càng hi sinh toàn bộ lợi ích cá nhân cho cái chung toàn. Việc đầu tiên là cần phải làm sao để mỗi thành viên từ bỏ những thói tật xấu - những hành động tự chủ. Ong đất nằm ở mức áp chót của nền văn minh ong là thế, chúng giống như những kẻ ăn thịt người của chúng ta vậy. Các con ong thợ trưởng thành thường bò loanh quanh những cái trứng để ăn chúng, và ong chúa buộc phải quyết liệt bảo vệ trứng. Sau đó là cần phải làm sao để mỗi thành viên đã trấnh khỏi các thói tật nguy hại nhất, có được một số đức tính tốt nhất định - đây là một việc ngày càng trở nên khó khăn hơn. Những cô ong thợ của loài ong đất chẳng hạn, chúng không nghĩ đến việc từ bỏ tình yêu, nhưng ong nhà của chúng ta lại sống luôn luôn trinh bạch. Vả lại, chúng ta sẽ được thấy ngay thôi tất cả những lợi ích cá nhân mà cô ong thợ phải từ bỏ vì hạnh phúc, sự an toàn, sự hoàn hảo về kiến trúc, kinh tế và chính trị của cả tổ ong, và chúng ta sẽ trở lại với sự tiến hóa phi thường của những con côn trùng cánh màng làm mật ở chương dành nói về sự tiến bộ của giống loài.
Đ
Phần II Tổ ong
I
ể tiến gần hơn tới thiên nhiên, giờ ta sẽ xem xét các tầng mức khác nhau của đàn ong khi chúng đi vào một cái tổ thông thường, vốn lớn gấp mười-hai mươi lần cái tổ ta theo dõi, để lũ ong được hoàn toàn tự do, không bị ngăn trở.
Ở đây, chúng đã rũ bỏ cái vẻ lờ đờ, uể oải mùa Đông. Ong chúa lại bắt đầu đẻ trứng ngay những ngày đầu tháng Hai, các ong thợ lũ lượt kéo đến các cây liễu, cây dẻ, hoa tím, hoa tước, cỏ ngỗng, cỏ phổi. Rồi mùa Xuân sang, khắp các hầm vựa đầy mật và phấn hoa, mỗi ngày có đến hàng ngàn ong mới ra đời. Những con ong đực quá tuổi lúc này túa cả ra khỏi lỗ, nhặng xị nô đùa trên mặt tổ; và cái thành phố phồn vinh trở nên đông đúc đến nỗi vào buổi tối, hàng trăm ong thợ về muộn không tài nào chen được vào tổ, đành qua đêm bên ngoài, cho buốt giá mặc sức tàn hại. Đám thần dân hiếu động không ngưng, còn bà hoàng già bắt đầu chuyển mình. Nó cảm thấy được một định mệnh mới đang được nhen nhúm. Nó đã thành tâm thực hiện trách nhiệm của mình hệt như một bà mụ tận tụy; vậy mà kết cuộc chỉ là đau khổ, muộn phiền. Nếp thanh bình đang bị đe dọa bởi một mãnh lực khôn cưỡng; nó sẽ sớm buộc phải rời bỏ thành trì, nơi nó đã trị vì? Nhưng cái thành phố này là công trình của nó, là chính nó, bản thân nó. Nó không phải là dạng chúa tể như cách con người nghĩ. Nó không ban
tuyên chỉ dụ nào cả; nó cũng ngoan ngoãn tuân phục như những thần dân khiêm nhường nhất của nó, còn cái thế lực bí ẩn, cái ý chí ngự trị, bây giờ ta sẽ đặt là “linh hồn của tổ ong.” Song con ong chúa lại là bộ phận - tình yêu duy nhất, là đức mẹ của cả cái “thành phố” này. Trong túng thiếu và vô định, nó đã dựng lên cả tòa thành. Dân ngụ trong thành cũng từ bản thể của con ong chúa mà ra; mọi thứ chuyển động trong tổ, hết thảy đều do ong chúa dứt ruột đẻ ra: ong thợ, ong đực, ấu trùng, nhộng và những ong chúa non - ngày sinh của chúng cũng là lúc ong chúa ra đi đến gần kề; một trong các “công chúa” ong đó đã được “linh hồn của tổ ong” chọn làm kẻ kế vị.
II
“Linh hồn tổ ong” là cái gì - nó ngụ nơi nào? Không như thứ bản năng đặc biệt dạy lũ chim biết xây cái tổ hoàn chỉnh, rồi lại dạy chúng biết tìm đến những vùng trời khác khi đến mùa di trú. Cũng chẳng phải tập tính cố hữu của giống loài hay lòng ham sống đến mù quáng – thứ sẽ ném cả đàn vào bất cứ mối nguy hiểm rồ dại nào nếu chẳng may có biến cố xảy ra đảo lộn trật tự các hiện tượng quen thuộc. Ngược lại, “linh hồn tổ ong” sẽ vẫn tuân thủ cái độc đoán gớm ghê của ngoại cảnh, hệt như một tên nô lệ linh lợi, tinh ý, biết lợi dụng, vun vén thậm chí cả từ những mệnh lệnh nguy hiểm nhất của chủ nhân.
Nó vứt bỏ không mảy may thương tiếc mọi của cải và hạnh phúc, cả tự do và cuộc sống của tất thảy đám thần dân có cánh này; nhưng vẫn sáng suốt, như thể nó kiềm hãm chính mình bởi một sứ mệnh vĩ đại nào đó. Hàng ngày, “linh hồn tổ ong” điều hòa số lượng ong sinh ra, và điều chỉnh số đó phù hợp sít sao với số lượng hoa nở trong vùng. Nó có quyền hạ bệ ong chúa hoặc báo cho “bà hoàng” biết mà ra đi; nó cũng ép buộc ong chúa phải sinh ra chính đối thủ của mình, rồi phục dịch lũ này một cách vương giả, bảo vệ chúng khỏi lòng căm ghét chính trị của mẹ chúng. Bởi thế, cũng
cùng với sự hào phóng về các loại hoa, thời gian mùa Xuân, và cả các mối hiểm nguy tiềm tàng từ chuyến bay hôn phối, nó sẽ hoặc cho phép hoặc cấm những ong cái non lứa đầu tiên được giết chết ngay trong kén những con cái non lứa sau - những cô công chúa nhỏ đang ca bài ca của các nữ hoàng. Những khi khác, vào lúc mùa tàn, thời gian hoa nở ngắn hơn, nó sẽ lệnh cho tụi ong thợ tự tay hạ sát toàn bộ cái dòng giống hoàng gia kia, để khép lại thời đại cách mạng, và để lao động trở thành mục tiêu duy nhất. “Linh hồn của tổ ong” có ranh ma, có tằn tiện nhưng không hề bủn xỉn. Bởi thế, có thể nó nhận thức được, các quy luật tự nhiên hễ cứ liên quan đến tình yêu thì đều hoang dại và vô lý, nên trong những ngày hè sung túc, nó trở nên khoan dung cho hàng ba bốn tràm ong đực chen chúc nhau trong tổ, từ đám này ong chúa sắp ra đời sẽ chọn lấy tình lang của mình; ba bốn trăm sinh vật ngu ngốc, hậu đậu, vô dụng, ồn ào mà lại khoe mẽ, phàm ăn, bẩn thỉu, thô lỗ, hoàn toàn ăn không ngồi rồi một cách đáng tởm, lại còn tham lam và đông đúc.
Nhưng khi ong chúa đã thụ tinh, khi hoa tàn sớm, nở muộn, cái linh hồn ấy một sớm mai sẽ lạnh lùng ban lệnh thảm sát hàng loạt, tức thì tất cả mọi ong đực. Nó chỉnh đốn lại lao động của bọn ong thợ, tùy theo độ tuổi của chúng; nó phân nhiệm vụ cho những ong bảo mẫu chăm sóc nhộng và ấu trùng, các ong thị tì có vinh dự hầu bên ong chúa và không bao giờ rời mắt khỏi nó; lại còn bọn gia nô làm nhiệm vụ điều hòa không khí, làm mát làm ấm bằng cách tự vỗ cánh và làm mật bay hơi nước nhanh hơn nếu tích nhiều nước quá; rồi ong kiến thiết, ong thợ xây, ong thợ sáp và những ong điêu khắc có nhiệm vụ dựng lên các chuỗi và cấu trúc của rỗ tổ ong; còn bọn ong kiếm mồi lùng sục các loại hoa tìm mật hoa để làm mật, tìm phấn hoa làm thức ăn cho ấu trùng và nhộng, phấn hoa cũng làm keo ong để gắn kết và gia cố “các tòa nhà trong thành phố”, hoặc kiếm nước và muối cho lũ ong non - thế hệ thanh xuân của đất nước. Các mệnh lệnh của nó đến
với ong-hóa học nhằm bảo quản mật bằng cách nhỏ một giọt acid formic qua chót đuôi của chúng; đến với ong-đóng gói để bọn này phong kín lỗ tổ khi thứ mật quý báu đã ngấu; đến các ong lao công giữ cho phố xá và những nơi công cộng được sạch sẽ đến mức không chê vào đâu được; đến bọn phu dịch có nhiệm vụ di dời các xác chết; và đến những con ong cái to khỏe canh gác ngày đêm lối cửa, tra hỏi khắp kẻ ra người vào, xét cho bọn ong mới trở về từ chuyến bay đầu tiên, răn đe lũ du thủ du thực, hay bè kẻ cướp bóc, tống cổ bọn đột vòm, ào lên nhất loạt tấn công và nếu cần, sẽ chẹn ngay cả lối vào.
Cuối cùng, chính linh hồn của tổ ong đã ấn định thời khác cho đại lễ hiến sinh cho thần hộ mệnh giống loài: thời khắc của bầy ong, chính thế; là khi ta thấy toàn thể đàn ong – vốn đã đạt tới đỉnh cao nhất của sự phồn thịnh và quyền lực, bỗng nhiên phong tỏa mọi thứ tài sản, cung điện, nhà cửa và thành quả lao động ngọt ngào của chúng; rồi tự quăng mình vào những hiểm nguy, gian khó ở một đất nước mới, xa xôi. Hành động này, dù là vô thức hay không, thì cũng không nghi ngờ gì nữa, đã vượt quá các giới hạn đạo lý của con người. Đôi khi kết cục sẽ là sụp đổ, nhưng chắc chắn bao giờ cũng sẽ là nghèo đói; và cái thành phố vô cùng sung sướng đó bị xé lẻ ra để tuân phục một thứ luật định tối thượng áp đặt trên chính niềm hạnh phúc của nó. Ta sẽ sớm tìm ra, đâu là nơi ban hành thứ luật định ấy, cái thứ mù quáng vô lối và cũng chắc chắn vô cùng. Ở đâu, ở hội đồng nào, ở tập thể nào, ở phạm vi đạo đức, trí tuệ nào, mới là nơi trú ngụ của linh hồn này, để mà hết thảy phải phục tùng, mà bản thân nó cũng chịu bị trói buộc vào một nhiệm vụ liều lĩnh, vào một thứ trí tuệ mang nhãn quan đã được xác định chắc chắn ở tương lai?
Đối với loài ong, cũng như hầu hết mọi sự khác trên cõi đời này; ta quan sát một vài tập tính của chúng; ta nói chúng làm cái này, chúng làm theo cách kia cách ấy, các ong chúa được sinh ra như thế, bọn ong thợ thì
còn son, chúng tụ thành bầy vào một lúc nhất định nào đó. Sau đó ta cho rằng mình đã hiểu loài ong rồi, chẳng còn gì để hỏi nữa. Ta nhìn chúng vo ve từ bông hoa này sang bông hoa khác, ta thấy được sự náo nhiệt cuống cuồng trong tổ ong; đối với ta, đời ong có vẻ rất đơn giản, cũng như mọi cuộc đời khác, bị giới hạn trong những lo âu bản năng về việc sinh sản và kiếm ăn. Nhưng hãy ghé mắt đến gần hơn một chút, nhìn chăm chú sẽ thấy ngay lập tức cảnh tượng nhỏ nhất bỗng trở nên phức tạp kỳ vĩ khôn lường; ta đối diện với điều bí ẩn của trí tuệ, của số phận, của ý chí, mục đích, phương thức, căn nguyên; một thứ tổ chức không thể nào hiểu được của một hoạt động sống khiêm nhường bậc nhất.
III
Vậy, tổ ong của chúng ta, đang bắt đầu kéo bầy di tản; sẵn sàng cho cuộc hiến sinh vĩ đại dâng những thánh thần tham lam của loài ong. Tuân theo ý chỉ của linh hồn - cái lệnh hẳn là khó hiểu đối với chúng ta, bởi nó hoàn toàn trái ngược với tất cả bản năng và cảm xúc của ta - trong tổng số dân khoảng tám, chín vạn ong có đến sáu, bảy vạn sẽ dời bỏ quê mẹ vào thời điểm đã định trước. Chúng sẽ không ra đi vào những lúc tuyệt vọng; cũng không nhất định khăng khăng phải bỏ tổ mà đi lúc túng quẫn, lúc tổ bị tàn phá bởi nạn đói, dịch bệnh hay chiến tranh. Không, cuộc xuất hành đã được ấn định trước từ lâu, và thời khắc đã định cứ thế mà kiên nhẫn đợi chờ. Nếu tổ ong đói kém, hoặc giả bị cướp bóc, hay giông bão, hay điều gì bất hạnh xảy đến với hoàng gia, lũ ong sẽ không bỏ rơi nó. Chúng bỏ tổ chỉ khi đã đạt đến đỉnh điểm sung túc; là lúc mà, sau cả mùa Xuân miệt mài lao động, cung điện lộng lẫy bằng sáp đã có đến mười hai vạn lô chứa được xếp đặt cẩn thận tràn trề mật mới và bột phấn nhiều màu, gọi là “bánh mì ong”, dành sẵn cho nhộng và ấu trùng ăn.
Chưa bao giờ to ong đẹp đẽ dường này, ngay đêm trước cuộc di tản bi
tráng, vào cái thời khắc vô song ngập tràn cảm xúc và niềm vui sướng; nhưng tổ ong lúc này cũng lại rất đỗi thanh bình, tất cả để dành cho sự háo hức và cuồng nhiệt.
Ta hãy tự mình cố gắng hình dung ra cảnh tượng ấy, không phải như cách bọn ong nhìn thấy, - bởi ta không thể biết được những điều kỳ diệu, dữ dội nào có thể được phản chiếu vào sáu bảy ngàn con mắt đơn trong cặp mắt ở hai bên và bộ ba mắt đơn trên đỉnh trán của chúng, - mà phải là với chúng ta, như thể ta có kích thước tầm vóc giống bọn ong vậy. Từ tầm cao của một mái vòm còn kỳ vĩ hơn cả mái vòm của tòa thánh St. Peter ở Rome, các bức tường sáp phủ xuống nền tổ, cân đối giữa khoảng không và bóng tối; các cấu trúc thẳng đứng và song song, khổng lồ và đa diện, mà tương ứng với sự chính xác, táo bạo, rộng lớn của nó, thì không có một kiến trúc nào của nhân loại có thể sánh cùng. Các bức tường này vẫn nguyên vẹn hoàn hảo, thơm nức, tinh khiết và ánh lên màu tươi mới; mỗi bức chứa hàng nghìn khoang lỗ dùng để tích trữ đủ nuôi ăn cả đàn trong khoảng vài tuần lễ. Ở đây, đựng trong các khoang trong suốt là phấn hoa, thứ men tình yêu của mọi loại hoa mùa Xuân, làm ánh lên rực rỡ đủ các màu đỏ vàng đen tím. Chung quanh đó là hai vạn thùng chứa được niêm kín sẽ chỉ được mở trong những ngày cùng quẫn, chứa mật ong tháng Tư, trong và thơm nhất, cuộn tròn bằng lớp vàng dài, lộng lẫy, viền bo chặt cứng. Cao hơn một chút là mật tháng Năm đang ngấu trong những chum mở, bên cạnh có lính gác túc trực và liên tục duy trì để thoáng khí. Ở trung tâm, cách xa ánh sáng từ những tia lấp lánh lọt vào qua lối cửa duy nhất, trong phần ấm áp nhất tổ, là nơi cư ngụ của tương lai; chúng ngủ say rồi thức dậy, là ở đây. Đây là chốn cấm cung làm các khoang ấp, dành riêng cho ong chúa và đoàn thị tì; khoảng một vạn khoang chứa trứng, vạn rưỡi đến vạn sáu ô đựng ấu trùng và bốn vạn lỗ nhộng trắng được hàng ngàn ong hộ lý chăm sóc4. Và cuối cùng, ở nơi thiêng liêng nhất, có đến ba,
bốn, sáu hay mười hai cung được phong kín, to lớn hơn hẳn những khoang khác, là nơi chứa những nàng công chúa bé thơ nằm đợi đến thời khắc của mình, bọc kín bằng một lớp áo, hết thảy đều bất động và yếu ớt, và được nuôi dưỡng trong bóng tối.
IV
Để rồi, vào cái ngày mà linh hồn của tổ ong đã ấn định, tuân theo những luật lệ kiên quyết không thể lay dời, một phần nào đấy của bầy sẽ đi tiên phong, mở đường cho những niềm hy vọng mà đến giờ thậm chí còn chưa thành hình. Trong cái thành phố còn say ngủ, còn lại những con ong đực mà từ đó sẽ được lựa chọn để tiến cung, phục vụ chăn gối cho hoàng tộc; còn lại những ong rất non phục dịch cho các khoang ấp, và một vài ngàn ong thợ vẫn còn kiếm ăn ở ngoài, để canh giữ đống của cải chất chồng và để gìn giữ lề thói, truyền thống của tổ ong. Vì mỗi tổ lại có những quy tắc, lề thói riêng. Một số thì rất hợp tình hợp lý, còn một số lại quá là quái đản; vậy nên người nuôi ong mà bất cẩn sẽ thường làm thoái hóa đàn ong, khiến chúng mất đi sự tôn trọng đối với tài sản của kẻ khác, khuyến khích chúng đi cướp phá và tạo nên những thói quen chiếm đoạt lẫn lười nhác, những điều biến chúng thành nguồn gốc tai họa đối với những tổ ong xung quanh. Những điều này là kết quả của việc lũ ong phát hiện ra rằng kiếm ăn giữa các bông hoa cách xa nhau thì cần hàng nhiều trăm lượt đi lại mới tạo ra được một giọt mật, không phải là cách duy nhất hay nhanh nhất để trở nên giàu có, thế nhưng sẽ dễ hơn nhiều nếu dùng mưu lẻn được vào cướp bóc những thành phố-tổ ong canh phòng lỏng lẻo, hay dùng vũ lực đối với những tổ quá yếu. Mà cũng chẳng phải dễ dàng gì để mà khôi phục nhưng lề thói của một tổ ong đã trở nên sa đọa nhường ấy.
V
Mọi thứ đều chứng tỏ rằng không phải ong chúa, mà chính linh hồn của tổ ong mới quyết định việc kéo bầy. Con ong chúa của chúng ta cũng như các thủ lĩnh ở thế giới loài người, dù có quyền ra lệnh nhưng bản thân nó vẫn buộc phải phục tùng những mệnh lệnh còn bí ẩn, khó lý giải hơn nhiều so với những lệnh nó đưa ra cho bọn thuộc cấp. Thời khắc kia, một khi đã ấn định, linh hồn tổ ong sẽ có thể hé lộ lúc bình minh, hay vào đêm trước đó, nếu không thì là hai đêm trước; lúc mặt trời vừa mới thưởng thức những giọt sương đầu tiên khi cả trong lẫn ngoài tổ bắt đầu ồn ào huyên náo; người nuôi ong hiếm khi nào lại bỏ qua chỉ dấu của hiện tượng này. Có đôi khi người ta nhận thấy dấu hiệu của những tranh cãi, do dự, yếu lòng. Thậm chí cái trạng thái kỳ lạ đó còn tiếp diễn ngày này qua ngày khác, mà rõ là chẳng có căn cớ gì, cứ thế xuất hiện rồi biến mất giữa cái đám đông vàng óng trong suốt này. Có phải một đám mây lặng lẽ trôi qua trên bầu trời mà đám ong đang ngắm nhìn nhưng chúng ta lại không trông thấy được? Hay trí tuệ của chúng đang dằn vặt nuối tiếc? Có một hội đồng ong nào còn tranh cãi liệu chuyến xuất hành có cần thiết không? về chuyện này, ta không biết gì cả; bởi ta không biết bằng cách nào mà linh hồn của tổ ong truyền đạt ý chí quyết tâm của nó tới bầy ong. Ví thử lũ ong có giao tiếp với nhau, thì ta cũng không rõ cách thức của chúng có giống của loài người không. Có lẽ, thậm chí cả những khúc ca của chính lũ ong, chúng cũng không nghe được: ấy là âm thanh rì rầm vọng đến tai người trĩu nặng mùi hương mật ong, tiếng thì thầm mê mẩn của những ngày hè thần diệu nhất mà người nuôi ong yêu biết mấy, khúc hoan ca của lao động miệt mài trầm bổng quanh tổ ong vào thời khắc vàng ngọc, và có thể lắm, là cả bài thánh ca của những đóa hoa náo nức, ca tụng niềm vui sướng của chúng và vang vọng mùi hương dịu ngọt, và cả giọng nói từ những bông cẩm chướng trắng, của cây kinh giới ô, của cỏ xạ hương. Tuy vậy, chúng vẫn có
toàn bộ những cung bậc âm thanh mà ta có thể phân biệt, từ niềm vui sướng sâu sắc đến dọa nạt, đau buồn, tức giận; chúng có bài tụng ca nữ hoàng, bài ca của phồn vinh sung túc, có bi ca buồn thảm, và, cuối cùng, những tiếng gào thét xung trận kỳ bí mà những ong chúa non đồng thanh trong chiến trận và trong những trường thảm sát ngay trước chuyến bay hợp hoan. Phải chăng đây chỉ là nhạc điệu ngẫu hứng, không ích gì để giúp lũ ong tĩnh tâm được? Dẫu sao đi nữa, chúng có vẻ không thấy phiền hà gì với những tiếng động khi ta đến gần tổ ong; mà chúng hẳn coi chuyện ấy không dính dáng, và cũng chả ảnh hưởng gì đến lợi ích của chúng. Có khả năng chúng ta về phía mình chỉ nghe được một phần rời rạc từ những âm thanh bầy ong tạo ra, và có thể chúng có nhiều hòa âm không hợp với tai người. Ta sẽ thấy lũ ong hiểu nhau nhanh chóng đến mức đáng kinh ngạc, qua những công cụ hòa phối nào đó, khi mà, ví thử có một tên trộm mật ong khổng lồ - con ngài mặt quỷ đai đỏ (ngài nhân sư/ acherontia atropos) - loài bướm đêm mang điềm gở có hình đầu lâu trên lưng, xông thẳng vào tổ ong, gào rú lên âm thanh quái đản như thể niệm một thứ thần chú không gì cưỡng lại được; thì ngay lập tức tin báo sẽ lan truyền từ nhóm ong này sang nhóm ong khác, từ ong lính gác cửa đến ong thợ trong những khoang sâu nhất, khiến toàn bộ cư dân phải run lên vì sợ.
VI
Trong suốt một thời gian dài, người ta tin rằng khi những con thông thái, thường cũng rất cẩn trọng, rất biết tiết kiệm, biết lo xa, bỏ mặc đống của cải của cả vương quốc để rồi lao mình vào những thứ bất định của cuộc đời, là chúng đang phó mặc cho một điều gì rồ dại không cưỡng lại được, một cơn bốc đồng mù quáng, một định luật của giống loài, một mệnh lệnh từ thiên nhiên, hay là chịu thúc thủ trước một sức mạnh áp lên tất cả mọi tạo vật trong vòng xoáy thời gian. Trường hợp của con người
chúng ta cũng không khác gì như với loài ong, đó chính là thói quen của ta cứ hễ cái gì không hiểu được thì đều coi là số phận. Nhưng giờ đây tổ ong đã buông bỏ hai ba điều bí mật trọng đại của nó, ta phát hiện ra rằng cuộc xuất hành này chẳng phải bởi bản năng mà cũng không cần thiết đến mức sống còn. Đó không phải là một cuộc di trú mù quáng, nhưng hiển nhiên là cuộc hiến sinh đã được chuẩn bị kỹ lưỡng là ân huệ mà thế hệ đi trước dành cho thế hệ tiếp sau. Người nuôi ong chỉ phải dỡ bỏ các lỗ chứa mà bên trong bọn ong chúa non vẫn còn lẫm chẫm và đồng thời, nếu vẫn còn lúc nhúc nhộng với ấu trùng; để mở rộng các kho lẫm, nơi ở cho cả vương quốc, để giảm ngay lập tức sự xáo trộn vô ích này, cho công ăn việc làm được khôi phục nhanh chóng, để những bông hoa lại có khách viếng thăm; trong khi đó, ong chúa già, giờ lại trở nên cần thiết, không có kẻ kế vị để mà đặt niềm hy vọng, hoặc cũng có thể để mà lo sợ, sẽ lại từ bỏ nỗi khát khao được nhìn thấy ánh mặt trời trong suốt một năm nữa. Vững tin vào tương lai của hành động sẽ sớm xuất hiện trong cuộc đời, nó sẽ bình thản quay lại công việc sinh nở, tuần tự theo hình xoắn ốc nó di chuyển qua các lỗ trong tổ và đẻ ra đến hai ba ngàn trứng mỗi ngày, từ lỗ này sang lỗ khác, không bỏ sót một cái nào, không ngừng không nghỉ.
Định mệnh nào ở đây nếu không phải là tình yêu của giống loài hôm nay gìn giữ cho con cháu ngày mai? Ở nhân loại cũng tồn tại thứ định mệnh này, nhưng phạm vi và mức độ có vẻ ít hơn rất nhiều. Ở nhân loại, nó không bao giờ tạo nên những cuộc hiến sinh lớn lao, đồng loạt và hoàn hảo đến thế. Nếu biết rằng tương lai sẽ có một định mệnh như thế, liệu chúng ta có tuân phục nó không? Ta không biết, cũng như ta chẳng biết liệu có giống loài nào đang quan sát chúng ta như chúng ta đang quan sát lũ ong hay không.
Nhưng tổ ong mà ta đã chọn, bị đảo lộn trong câu chuyện của nó mà không hề có sự can thiệp của con người; và khi cái ngày tươi đẹp rực rỡ,
thanh bình dần trồi dưới những ngọn cây vẫn còn đẫm sương mai, bầu nhiệt huyết của nó dường như làm thời khắc định trước kia trở nên chậm lại. Trên toàn bộ bề mặt những hành lang vàng óng chia cách các bức tường song song nhau, cánh ong thợ đang hối hả chuẩn bị khởi hành. Mỗi con trước hết phải tự mình mang đủ lượng mật dùng trong năm, sáu ngày. Từ chỗ mật mang theo mình, chúng sẽ chuyển hóa theo một quá trình hóa học nào đó vẫn chưa giải thích được, thành sáp dùng ngay để xây tổ mới. Còn bản thân chúng cũng ăn một phần keo ong, một loại chất dính mà chúng sẽ dùng để trám vào những khe kẽ ở tổ mới, hay để gia cố những chỗ yếu, để trát tường, và bịt không cho ánh sáng lọt qua; bởi loài ong ưa hoạt động trong điều kiện gần như là tối hoàn toàn, tự dò đường bằng những con mắt đa diện, hay có thể là bằng râu, thì dường như có một cơ chế cảm nhận của một giác quan bí ẩn nào đó, giúp chúng đo đạc, định lượng được trong bóng tối.
VII
Vì vậy, chẳng phải chúng không biết trước điều gì sẽ xảy ra vào cái ngày nguy hiểm nhất trong suốt cả cuộc đời mình. Tất thảy đều dồn vào những hiểm họa khôn lường của cuộc phiêu lưu vĩ đại, chúng sẽ không có thời gian để thăm lại những khu vườn, những đồng cỏ; cả ngày mai, ngày mốt nữa, biết đâu trời lại mưa, hay nổi gió; những chiếc cánh ong có thể bị đóng băng hay nhỡ đâu, những bông hoa không còn nở nữa. Không thấy được viễn cảnh này, nạn đói và chết chóc hẳn sẽ đợi sẵn ở phía trước. Sẽ không ai đến giúp đỡ chúng, mà chúng cũng chẳng cầu ai giúp. Bởi tổ ong này không hề biết đến tổ ong khác, và trợ giúp là thứ không bao giờ xảy ra. Và thậm chí có thể người nuôi ong đã đặt cái tổ vào đúng chỗ ông ta đã thu lượm cả ong chúa cũ lẫn bầu đoàn thê tử của nó, ngay bên cạnh chúng từng cư ngụ nhưng vừa mới rời bỏ. Không hiểu cái tai họa nào chưa bao giờ ghê
gớm nhường ấy giáng xuống đầu chúng, dường như chúng đã quên bẵng đời thái bình và hạnh phúc chúng từng biết ở đó, sự giàu có dư dả và an toàn một thời thuộc sở hữu của chúng; rồi từng con từng con một cho đến con cuối cùng ngã xuống, thà chết dần chết mòn vì đói rét quanh bà hoàng xấu số, chứ không chịu trở lại nơi chôn rau cắt rốn, nơi vẫn còn mùi thơm sung túc, mà thực ra, lại chính là cái mùi hương của tháng ngày lao động miệt mài đã qua, cứ phảng phất len vào nỗi khốn cùng của chúng.
VIII
Hẳn có người sẽ nói đó không phải là điều mà con người sẽ làm - một bằng chứng cho thấy loài ong, bất luận tổ chức của chúng có siêu việt đến đâu, vẫn thiếu trí tuệ và ý thức thực thụ. Có chắc vậy không? Chắc chắn rằng các loài khác có thể sở hữu một trí thông minh khác biệt so với chúng ta, tạo nên những hệ quả khác, do đó không hề thấp kém hơn chúng ta. Và ngoài ra, chúng ta, cứ cho là chỉ trong một nhúm nhỏ này thôi, có đáng là những kẻ sáng suốt để mà phán xét cả những vấn đề liên quan đến tâm linh? Giả dụ nhìn thấy có hai ba người đang đi lại đằng sau một cái cửa sổ nhưng lại không nghe thấy tiếng họ nói, liệu chúng ta có nắm bắt được những tư duy nào đang bao trùm lên mấy người đó không? Hay giả sử có một người sao Kim hoặc sao Hỏa nào đấy đang đứng trên đỉnh núi ngắm nhìn chúng ta, quan sát những cái chấm đen nhỏ xíu trong không gian khi chúng ta đang đi ngoài phố. Cái viễn ảnh bé nhỏ khi ta chuyển động, của các tòa nhà, máy móc, kênh mương liệu có truyền đạt được một ý nghĩ xác thực nào về đạo lý, trí tuệ, cách tư duy, cách yêu, cách hy vọng của nhân loại - tóm lại là về bản thể chính xác và chân thực của chúng ta - đến sinh vật sao Kim hay sao Hỏa kia không? Tất cả những gì hắn có thể, như chúng ta khi chăm chú nhìn vào tổ ong, hẳn là ghi chép một vài dữ kiện có vẻ rất đáng kinh ngạc; rồi từ những dữ liẹu đó suy diễn ra những kết luận mà có
lẽ cũng sai lệch, mơ hồ như những gì mà chúng ta nghĩ về loài ong.
Dẫu sao thì “những cái chấm đen tí xíu” của chúng ta cũng không hé lộ gì về đạo lý lớn, về sự đồng nhất tuyệt vời - là những thứ hiển hiện rất rõ ràng ở tổ ong. “Chúng đang hướng đến đâu? Chúng làm cái gì thế?” có lẽ hắn thắc mắc như vậy, sau nhiều năm, nhiều thế kỷ kiên nhẫn quan sát. Mục đích sống của chúng là gì? Chúng chạy theo điều gì? Chúng có tuân phục đấng thần thánh nào không? Tôi chả thấy cái gì chi phối hành động của chúng cả. Những thứ bé xíu xiu hôm nay chúng gom góp rồi xây đắp lên, đến hôm sau lại phá tan nát cả. Chúng đến rồi đi, tụ lại rồi tản ra, nhưng ai biết được chúng kiếm tìm cái gì. Trong vô số trường hợp cảnh tượng chúng tạo nên, tất thảy đều không thể lý giải. Ví dụ có một số con hình như rất hiếm khi cử động. Chúng được nhận ra bởi tấm áo choàng bóng loáng và cũng bởi tấm thân to lớn hơn hẳn. Chúng chiếm những tòa nhà to gấp mười, hai mươi lần những căn bình thường, xây cất một cách khéo léo hơn, và cũng dư dả hơn. Hàng ngày chúng tốn mất nhiều giờ đồng hồ cho các bữa ăn, mà đôi khi kéo dài đến tận đêm. Chúng được trọng vọng hết mức bởi những con xung quanh; nhiều con từ các ngôi nhà bên cạnh mang thực phẩm tới, và thậm chí cả những con ở nơi xa tít cũng tới, mang nặng quà cáp đến. Ta chỉ có thể nhận xét được rằng những con này hẳn phải có vị trí không thể thay thế đối với giống loài của nó, để đổi lại, nó sẽ có cống hiến lớn lao, dù các phương thức nghiên cứu của chúng ta vẫn chưa cho phép phát hiện được cống hiến đó chính xác là gì. Ngoài ra còn những con khác, cắm đầu cắm cổ vào thứ công việc chán ngắt, cả trong những tòa nhà chứa đầy các bánh răng quay tít liên tu bất tận, hay cạnh những nơi bốc dỡ, vận chuyển, hoặc trên những mảnh đất nhỏ, suốt từ lúc mặt trời mọc đến khi mặt trời lặn, chúng cứ cặm cụi đào đào xới xới không ngừng nghỉ. Điều này khiến ta cho rằng chúng đang bị áp bức, hay bị trừng phạt. Bởi những con bị đày đọa này trú ngụ trong những nơi tồi tàn, bẩn
thỉu, dột nát. Chúng ăn mặc nghèo nàn, ít màu sắc. Đối với hoạt động độc hại, hay có thế nào cũng là vô ích này, thì biểu hiện của chúng là quá lớn, đến mức chúng hiếm khi cho phép mình có thời gian ăn, ngủ. Về số lượng, chúng đông gấp hàng ngàn lần các loại khác. Cần chú y rằng các loài đã sinh tồn đến ngày nay dưới những điều kiện rất không thuận lợi đối với sự phát triển của chúng. Tuy nhiên, phải nói rằng ngoài lòng tận tâm đặc trưng của chúng dành cho cái công việc buồn tẻ nhọc nhằn, chúng cũng có biểu hiện bạc nhược, dễ bị sai khiến; và bằng lòng với những thứ mà bọn - rõ ràng là lính canh, nếu không nói là những đấng cứu tinh của cả giống nòi, quẳng cho.”
IX
Chẳng phải lạ lùng sao, cái tổ ong mà ta quan sát một cách hời hợt, lại đưa câu trả lời chắc chắn và uyên thâm đến thế, ngay từ ánh mắt tò mò đầu tiên của ta. Chẳng đáng khâm phục sao, cái phương thức hiển hiện đấng tối linh hay tư tưởng thống trị của loài ong qua những lâu đài cung điện vững chãi một cách ấn tượng của chúng, qua những tập tính, luật lệ, tổ chức mang tính chính trị và kinh tế của chúng, những đức tính và cả sự tàn độc của chúng. Dù đó có thể là đấng thần linh duy nhất mà nhân loại chưa bao giờ thờ phụng một cách đàng hoàng, thì thế nào đi chăng nữa, đó cũng không phải đấng thần linh ít chính thống nhất, ít được chấp nhận nhất, mà chúng ta có thể mường tượng. Thần của loài ong chính là tương lai. Khi chúng ta, trong lịch sử nghiên cứu nhân loại, luôn thiên về việc đánh giá phẩm hạnh hay sự vĩ đại của một người hay một dòng dõi, song ta chỉ có một tiêu chuẩn cho việc bình xét đó - chân giá trị và sự trường tồn của tư tưởng của họ, và sự quên mình cho những gì mà họ theo đuổi. Liệu chúng ta có thường gặp được một tư tưởng nào phù hợp hơn với thiên ý, trong sáng rộng rãi hơn, vô tư hơn hay siêu phàm hơn không? Chúng ta có
thường thấy được một sự hy sinh hoàn hảo hơn, anh dũng hơn?
X
Chẳng phải đáng ngạc nhiên hay sao khi chiếc tổ ong mà chúng ta nhìn thấy thật đầy khó hiểu từ một vị trí trên cao của một thế giới khác mà chỉ mới thoạt nhìn thôi đã có thể cho chúng ta một câu trả lời chắc chắn và sâu sắc? Chẳng phải đáng ngưỡng mộ hay sao khi những hình khối đầy tính chắc chắn, những tập tính, tổ chức đời sống kinh tế và luật lệ, những đặc tính của nó và cả những sự nhẫn tâm của nó nữa có thể cho chúng ta biết ngay được ý nghĩ hay vị chúa tể mà lũ ong quy phục, vốn chẳng phải là vị chúa tể ít hợp thức nhất hay ít suy xét nhất mà ta có thể tạo ra, mặc dầu rằng có thể đó là người duy nhất mà chúng ta còn chưa nghiêm túc tôn thờ, tôi muốn nói tới tương lai chăng? Đôi khi trong câu chuyện về loài người của chúng ta, chúng ta tìm cách đánh giá sức mạnh và tính lớn lao về luân lí của một loài hay một bầy và chúng ta không thấy được những góc cạnh khác ngoài sự bền bỉ hay tính chất lớn lao về lí tưởng mà chúng theo đuổi hay sự hy sinh hết mình của chúng. Liệu chúng ta đã thường xuyên gặp một lí tưởng phù hợp hơn với ý muốn của Vũ Trụ, bền vững hơn, tôn nghiêm hơn, vô tư hơn, hiển nhiên hơn cũng như một sự hy sinh trọn vẹn và anh hùng hơn hay chưa?
XI
Một thể chế cộng hòa nhỏ bé kì lạ biết bao! Nó hợp lí đến thế, chân chính đến thế, thiết thực đến thế, quá nguyên tắc đến thế và tằn tiện đến thế, ấy thế nhưng nó lại là vật hy sinh cho một giấc mơ lớn lao và mong manh đến thế! Một bộ tộc nhỏ bé quyết đoán và sâu sắc, được nuôi dưỡng bằng hơi ấm, ánh sáng và tất thảy những gì tinh túy nhất trong tự nhiên,
bằng tâm hồn của hoa, tức là bằng nụ cười rạng rỡ nhất của một thứ vật chất và bằng khát vọng cảm động nhất của thứ vật chất này vươn tới hạnh phúc và cái đẹp - Ai sẽ nói cho chúng tôi biết, các bạn đã giải quyết được những nhiệm vụ nào trong số những nhiệm vụ, mà chúng tôi còn phải giải quyết? Các bạn đã có được những tri thức đáng tin cậy nào, mà chúng tôi còn cần phải lãnh ngộ? Và nếu đúng là các bạn đã giải quyết những nhiệm vụ đó, có được những tri thức đó mà không nhờ đến sự giúp đỡ của trí tuệ, mà nhờ vào một xung động sơ khởi và mù quáng nào đó, thì câu hỏi sẽ là - các bạn phải chăng đã đẩy chúng tôi đến một bí ẩn còn khó giải đáp hơn? Một lãnh địa nhỏ bé, tràn đầy một niềm tin, tràn trề những hy vọng, vô số những bí ẩn, tại sao cả trăm ngàn trinh nữ của các bạn nhận về mình một nhiệm vụ, mà chẳng bao giờ có một kẻ nô lệ nào của con người chịu nhận? Nếu như những trinh nữ ấy tiếc sức lực của mình hơn một chút thôi, quên bản thân mình ít đi một chút thôi, bớt hăng say trong lao động đi một chút thôi, thì họ có lẽ đã được thấy một mùa Xuân khác và một mùa Hè khác; nhưng vào thời khắc tuyệt vời đó, khi những bông hoa gọi mời họ, họ dường như mê mụ bởi thứ men say lao động chết người, và với đôi cánh tả tơi, với thân thể yếu gầy đầy những vết thương kín họ đồng loạt chết vào tuần thứ năm gì đó.
Tình yêu lớn của hoa và mật
Virgile đã thốt lên trong cuốn Nông Ca thứ tư dành nói về loài ong, trong đó ông đã thuật lại cho chúng ta những sự nhầm lẫn đầy sức hấp dẫn của người xưa, khi họ quan sát thiên nhiên bằng đôi mắt vẫn còn hoàn toàn mê mụ bởi sự tồn tại của các vị thần tưởng tượng.
XII
Tại sao những trinh nữ ong từ chối giấc hoa, vị ngọt của mật, tình yêu
và những chuyến lãng du tuyệt trần, mà chẳng hạn, như anh bạn có cánh của họ - chàng bướm kia biết? Phải chăng họ không thể sống như chàng bướm đó? Nhưng họ đâu có bị cái đói thúc ép. Hai-ba bông hoa là đủ để họ ấm bụng, thế mà họ trong một tiếng đồng hồ ghé thăm hai hay ba trăm bông hoa, để thu gom kho báu ngọt ngào, mà họ chẳng bao giờ nếm thử. Bao công sức để làm gì, sự vững tâm đến thế đến từ đâu? Điều đó có nghĩa là, các bạn vững tin rằng thế hệ, mà các bạn chết vì nó, xứng đáng với những sự hy sinh như thế, rằng nó sẽ tuyệt vời hơn và hạnh phúc hơn, rằng nó sẽ thực hiện một điều gì đó, mà các bạn không thể hoàn thành nổi? Chúng tôi hiểu được mục đích của các bạn - nó cũng rõ ràng, như mục đích của chúng tôi: các bạn muốn sống mãi trong thế hệ hậu duệ của các bạn, như chính trái đất; nhưng cái đích của mục tiêu lớn lao này nằm ở đâu và sứ mệnh của sự tồn tại tiếp nối muôn đời này là gì?
Nhưng có phải chúng tôi đây mới là những kẻ đang bị dằn vặt trong những sự dao động và lầm lạc, phải chăng chúng tôi - những kẻ mơ hão mới đi đặt ra những câu hỏi vô nghĩa? Các bạn có lẽ bằng con đường thường xuyên tiến hóa đã đạt được sự toàn năng và niềm hạnh phúc lý tưởng, các bạn có lẽ đã đạt tới cảnh giới tột cùng, từ đó các bạn làm chủ những quy luật của tự nhiên, các bạn có lẽ, rốt cuộc, đã trở thành những vị thần bất tử, còn chúng tôi cứ đi căn vặn, vẫn cứ dò hỏi các bạn rằng, các bạn hy vọng vào cái gì, các bạn đang vươn tới đâu, các bạn có ý đính dừng lại ở đâu? Và chúng tôi sẽ tiếp tục cho rằng, các bạn chẳng có những niềm khát vọng đâu. Chúng tôi yên trí đến mức, chẳng có gì làm chúng tôi thỏa mãn, chúng tôi những tưởng chẳng có một thứ gì có một mục đích tự thân, đối với chúng tôi chẳng có cái gì tồn tại một cách đơn thuần, không có thâm ý. Cho đến ngày hôm nay liệu chắc gì chúng tôi có thể tưởng ra nổi dẫu chỉ một trong số những vị thần của chúng tôi, từ vị thô vụng nhất cho đến vị thông tuệ nhất, mà lại không bắt ông ta lập tức phải có cảm xúc, mà
lại không buộc ông ta phải tạo ra cả một đám sinh vật và cả một đống sự vật, phải tìm kiếm cả ngàn mục đích ngoài chính bản thân ông ta? Và chúng tôi liệu có một lúc nào đó chấp nhận việc, bình tĩnh hình dung trong một thời kì nào đấy có một hình thái thú vị trong hoạt động của vật chất, và sau đó lại quay trở lại, mà không hề luyến tiếc và không chút ngạc nhiên, với một hình thái khác - một hình thái vô thức, xa lạ, vô tri, vĩnh cửu?
XIII
Song, không nên quên tổ ong của chúng ta, nơi đàn ong đang mất đi sự kiên nhẫn - cái tổ ong của chúng ta đang sôi sục và đã phát ra những làn sóng đen rung động, giống như đường ven căng phồng lên dưới ánh mặt trời bỏng rát. Chính ngọ. Có thể nói rằng, trong cái nóng thiêu đốt bao trùm cây cối đang kiềm hãm tán lá của mình, giống như việc ghìm nén hơi thở khi có sự hiện hữu của một cái gì đó rất đỗi ngọt ngào, nhưng cũng rất trọng đại. Đàn ong đang trao mật và sáp cho người quan tâm đến chúng, nhưng - điều này, có lẽ, còn đáng giá hơn cả mật và sáp - chúng đang hướng sự quan tâm của con người đến niềm hân hoan của tháng Sáu, chúng đang cho con người cảm nhận được sự hài hòa của những ngày giờ tuyệt diệu, chúng gợi nhắc rằng, mọi sự kiện, mà chúng can dự vào, đều gắn liền với bầu trời sáng trong, với ngày hội của những sắc hoa, với những mùa hạnh phúc nhất trong năm. Chúng là tâm hồn của mùa Hè, là chiếc đồng hồ cho thấy những khoảnh khắc sung túc, là đôi cánh rộn rã của những mùi hương thơm lừng, là trí tuệ của những tia nắng rập rờn, là tiếng thì thầm của vầng hào quang rạo rực, là bài ca của bầu không khí yên bình, và đường bay của chúng là dấu hiệu rõ ràng, là âm điệu réo rắt ngân vang của của vô vàn niềm vui nhỏ bé nảy sinh nhờ sự nồng ấm và sống động trên đời.
XIV
Người nào lần đầu tiên có mặt trong sự kiện huyên náo và hỗn loạn, - sự kiện tách đàn của một tổ ong khá đông dân cư, - anh ta chắc hẳn sẽ rất bối rối và lo sợ khi tiến lại gần nó. Anh ta không nhận ra những con ong nghiêm túc và hiền lành của thời gian cần mẫn trước đó. Trong vài giây trước đó thôi anh ta còn thấy chúng bay về từ khắp đầu làng cuối xóm, đầy vẻ đăm chiêu, như những bà nội trợ tiểu tư sản, chẳng có gì khiến họ xao nhãng công việc gia đình. Chúng quay trở về, hầu như chẳng ai nhận thấy, mệt mỏi, thở gấp, vội vã và âu lo, chúng chỉ gặp sự chào đón thể hiện qua những chiếc râu giương lên của các nữ chiến binh trẻ ở cửa tổ. Nếu chúng có trao đổi, thì nhiều nhất cũng ba hay bốn câu, có lẽ là cho phải phép, rồi vội vã giao số mật thu hoạch được cho một trong những cô ong khuân vác trẻ luôn đứng sẵn ở trong sân của nhà máy; đôi khi chúng tự đi xếp hai giỏ nặng phấn hoa đeo ở hai bên đùi vào những kho chứa rỗng nằm xung quanh những lỗ tổ của ấu trùng và ong non, rồi lại tất tả quay trở lại, chả mấy bận tâm về việc xảy ra trong các phân xưởng, trong các phòng ngủ chung của đàn nhộng con hay ở trong hoàng cung, chả hề tham gia chút nào vào tiếng xì xào và huyên náo trên quảng trường công cộng nằm ở cửa tổ, và trong thời gian nóng nực nhược người luôn ồn ào tiếng của những cô bạn làm nhiệm vụ quạt thông gió, mà theo cách nói đầy hình ảnh của các nhà nuôi ong người Pháp là: «font la barbe».
XV
Nhưng hiện giờ mọi thứ đã thay đổi. Quả thật là, có một số con ong thợ vẫn bình thản, như thể chẳng có chuyện gì xảy ra, bay ra đồng cỏ, quay về, làm vệ sinh tổ, lên những phòng ấp trứng, mà không hề bị cuốn vào sự say sưa chung của cả đàn. Đó là những con sẽ hộ tống ong chúa, chúng sẽ ở lại ngôi nhà cũ, để bảo vệ, trông coi và nuôi dưỡng tám hay chín ngàn quả
trứng, mười tám ngàn ấu trùng, ba mươi sáu ngàn nhộng con và bảy hay tám cô công chúa ở đây. Chúng được lựa chọn cho những trọng trách khắc nghiệt, hơn nữa không rõ [việc lựa chọn] đó là do những luật lệ nào đấy, do ai, cũng như theo cách thức nào. Chúng hiến dâng thân mình cho các nghĩa vụ của mình một cách bình thản và kiên định, và tuy tôi đã nhiều lần lặp lại thí nghiệm, bằng cách rắc một chất có màu lên một vài trong số những «Cô bé Lọ Lem» này, khá dễ nhận ra chúng theo những cung cách nghiêm túc, có phần nào nặng nề của chúng giữa đám dân ong trong tâm trạng lễ hội — rất hiếm khi tôi thấy dù chỉ một con trong số chúng ở trong đám đông say sưa của đàn ong.
XVI
Nhưng ma lực của ngày hôm nay dường như không kiềm chế được. Sự kích động hy sinh đến cực độ này, có thể là sự hy sinh mang tính vô thức, do một vị thần đòi hỏi; đây là ngày hội của mật ngọt, là chiến thắng của chủng loài và tương lai, đây là ngày duy nhất của niềm vui, sự quên lãng và điên rồ, đây là ngày chúa nhật duy nhất của đàn ong. Người ta cho rằng, đây cũng là ngày duy nhất chúng được ăn thỏa thích và hoàn toàn hiểu ra niềm vui của kho báu mà chúng thu gom được. Chúng giống như những tù nhân bất ngờ được giải thoát và được chuyển đến một xứ sở sung túc và khu an dưỡng. Chúng hân hoan, chúng không làm chủ được mình nữa. Chúng, những kẻ chưa từng bao giờ có một hành động không chuẩn mực và vô nghĩa, hết vào lại ra, lăng xăng rối rít, rồi lại đi vào, để thúc các chị em của mình xem ong chúa đã sẵn sàng hay chưa, để làm dịu đi sự sốt ruột. Chúng bay cao hơn những lúc bình thường, và làm lay động những chiếc lá của tất cả các cây xung quanh tổ. Ở chúng đã không còn những nỗi sợ hãi và bận tâm nữa. Trong chúng không còn cái tính hoang dã, nhỏ mọn, đa nghi, hay tức giận, sự nhiệt huyết, tính bất trị. Con người, chủ nhân mà
chúng chưa từng được biết đến, chúng chưa bao giờ nhận ra, đã không còn cách nào khác bắt chúng làm nô lệ, ngoài một cách là thích ứng với mọi thói quen lao động của chúng, tôn trọng mọi luật lệ của chúng và theo dõi sát sao cái lề thói đã bị trí óc đánh bật mất trong đời sống của chúng - một cái trí óc luôn hướng đến hạnh phúc tương lai và chưa từng bao giờ bối rối và đi chệch khỏi mục đích của mình. Bây giờ người ấy có thể tới gần, xé toang tấm mành vàng ánh và ấm áp do những cơn lốc xoáy nghe chói tai của chúng tạo ra xung quanh anh ta; anh ta có thể trấn an chúng, tập hợp chúng lại trông giống như một chùm quả - chúng cũng hiền lành, cũng vô hại, như một đàn chuồn chuồn hay một đàn bướm; và vào ngày này những con ong hạnh phúc là những con chẳng phải tinh thông một cái gì nữa, tin tưởng vào tương lai, nếu chúng không bị tách khỏi ong chúa, là những con đại diện cho cái tương lai đó - chúng tuân phục tất thảy và không hề làm một ai bị thương.
XVII
Nhưng tín hiệu thực sự chưa được phát ra. Trong tổ diễn ra một cảnh tượng hốt hoảng và hỗn loạn không thể tưởng tượng nổi, nguyên nhân của nó thật không thể hiểu nổi. Thông thường những con ong sau khi trở về tổ, chúng quên mất rằng, chúng có cánh, và con nào cũng gần như bất động, nhưng không phải là không hoạt động, trên các tầng tổ, ở vị trí được dành cho nó theo loại công việc của nó. Giờ đây, như những kẻ mất trí, chúng chuyển động theo những vòng khép kín từ trên xuống dưới của các bức vách thẳng đứng, như một khối bột phông lên xẹp xuống, chuyển dịch bởi một bàn tay vô hình. Nhiệt độ bên trong của tổ nhanh chóng tăng lên, đôi khi đên độ sáp của các công trình xây dựng nhão ra và bị bién dạng. Con ong chúa thông thường không bao giờ rời khỏi các tầng tổ trung tâm, bồn chồn hổn hển chạy trên bề mặt bốc hỏa của cái đám đông không ngừng
chuyển động. Điều này xảy ra là để thúc đẩy nhanh việc bay khỏi tổ hay làm nó chậm lại? Ong chúa ra lệnh hay là chính nó phải tuân theo điều đó? Có vẻ như khá rõ ràng, xét theo những gì chúng ta biết về tâm lí chung của ong, việc tách đàn luôn được thực hiện trái với ý muốn của con ong chúa già. Thực tế là, trong con mắt của các con ong thợ tuyệt dục, các cô con gái của bà nữ hoàng, thì chúa ong là cơ quan tình yêu - nó cần thiết và thiêng liêng nhưng có đôi chút vô thức và thường nhẹ dạ. Và chúng đối xử với nó như với người mẹ bảo hộ cho đàn con. Nhưng chúng có thái độ tôn kính đến độ quên mình và vô hạn cùng sự dịu dàng với ong chúa. Dành cho nó là loại mật tinh túy nhất, được tinh chế một cách đặc biệt và hầu như được cơ thể hấp thụ hoàn toàn. Ong chúa có một đội vệ sĩ, hay theo cách nói của Pline là quân cấm vệ, thức canh cho nó cả ngày lẫn đêm, làm giảm bớt cho nó sự khó nhọc của đấng mẫu nghi, chăm sóc, nâng giấc, cấp dưỡng cho nó, quét dọn và thậm chí ăn cả cặn bã do nó thải ra. Khi có một sự việc nhỏ nhất xảy ra với nó, thì tin này được loan báo từ con ong này sang con ong khác, và toàn thể dân ong cuống cuồng và buồn rầu. Nếu ong chúa bị bắt cóc khỏi tổ, và trong khi đó đàn ong chưa có khả năng thay thế nó, có phải do nó không ấn định trước người thừa kế, hay bởi không có một con ấu trùng ong thợ dưới ba ngày tuổi (vì bất kể một một con ấu trùng ong thợ nào dưới ba ngày tuổi đều có thể, nhờ chế dộ dinh dưỡng đặc biệt, trở thành ấu chúa; đây là một nguyên tắc dân chủ vĩ đại của tổ ong làm cân bằng đặc quyền tiền định của bà mẹ), nếu trong tình huống ong chúa bị bắt giữ, biệt giam và mang đi xa khỏi tổ, thì cái chết của nó vừa được xác nhận, đôi khi phải mất hai hay ba tiếng đồng hồ để làm điều này, trước khi cả đàn biết được tin này - như trong một thành phố lớn vậy - gần như ở khắp mọi nơi công việc dừng lại. Các con ong non bị bỏ lại, một phần dân ong đi quanh quẩn bất cứ chỗ nào để tìm ong mẹ, một phần khác ra khỏi tổ đi tìm nó, những dây ong thợ đang bận công việc xây dựng các tầng tổ đứt
rời và hỗn loạn, những con ong đi thu hoạch không ghé qua các bông hoa nữa, đội canh gác ở cửa tổ bỏ khỏi chốt gác, đám cướp ở bên ngoài và cả bầy kí sinh của tổ thường xuyên rình rập kiếm mồi tự do vào ra, mà không vấp phải một chút sự chống đối nào để bảo vệ những kho báu phải khó nhọc đến thế mới tích cóp được. Thành phố ong dần nghèo đi và dân ong thưa vắng dần, những cư dân đã mất đi sự dũng cảm của nó nhanh chóng chết vì buồn và thiếu thốn, dẫu đủ mọi loài hoa của mùa Hè vẫn đang bung nở đài hoa trước mặt chúng.
Nhưng nếu đấng mẫu nghi của chúng được trao trả trước khi cái chết của nó trở thành sự đã rồi và không thể vãn hồi, trước khi sự nản chí ngã lòng của tổ ngấm quá sâu (ong cũng như con người: nỗi bất hạnh và sự tuyệt vọng kéo dài quá lâu sẽ làm cho trí óc chúng lụi tàn và hủy hoại nếp sống của chúng), nếu việc trao trả ong chúa về tổ sau vài tiếng đồng hồ thôi, thì cuộc đón rước nó sẽ thật phi thường và đầy cảm động. Tất cả cùng xúm xít vây quanh nó, chúng tụ tập thành đám đông, hết con này đến con khác bò đến, vuốt ve nó bằng những sợi râu dài của mình - những sợi râu chứa đựng trong mình biết bao nhiêu là cơ quan không thể giải thích nổi cho đến tận bây giờ; chúng dâng cho nó mật ngọt và ồn ào hộ tống nó đến tận hoàng cung. Kỉ luật lập tức được lập lại, công việc được tiếp tục từ các tầng tổ trung tâm, nơi có các khoang tổ ấp nở, cho đến các khu nhà phụ xa nhất, nơi chứa lượng thu hoạch dư dật; những con ong thu hoạch đi ra thành những hàng ong đen kịt và quay trở về, đôi khi chưa đầy ba phút đã thồ nặng mật và phấn hoa; đám kẻ cướp và lũ kí sinh bị tống cổ ra hay bị nện tời bời, đường phố được quét sạch, và trong tổ khe khẽ và đều đều ngân nga một bài ca đặc sắc và hạnh phúc - bài ca thiết tha gắn với sự hiện diện của ong chúa.
XVIII
Chúng ta đã biết đến hàng ngàn ví dụ về sự gắn bó và trung thành tuyệt đối của những con ong thợ với nữ hoàng của chúng. Trong mọi thảm họa của thể chế cộng hòa nhỏ bé - vỡ tổ hay các tầng tổ, sự dã man hay ngu dốt của con người, cái lạnh, cái đói và bệnh tật - thậm chí khi đại bộ phận dân ong đã chết, ong chúa hầu như vẫn được cứu sống, và người ta thấy nó sống sót dưới những cái xác của các cô con gái chung thủy của mình. Tất cả bảo vệ nó, giúp nó chạy trốn dễ dàng hơn, lấy thân mình tạo thành bức thành kiên cố và nơi ẩn trốn cho nó; chúng giữ thứ thức ăn bổ dưỡng nhất và những giọt mật cuối cùng để dành cho nó. Một khi nó còn sống, dẫu tai họa có lớn đến đâu đi nữa, thì sự tuyệt vọng vẫn không thể làm chủ được xứ sở của “những cô trinh nữ uống sương mai”. Bạn cứ thử hai mươi lần liền phá vỡ các tầng tổ của chúng, hai mươi lần liên tục bắt đi những đứa con của chúng, cùng lượng lương thực dự trữ của chúng, thì bạn cũng không bắt đàn ong nghi ngờ vào tương lai được, hàng loạt những con ong bụng trống rỗng đói khát lập thành một đội nhỏ, khó khăn lắm mới che chắn được cho bà mẹ của mình khỏi ánh mắt quân thù, chúng lập lại quy chế của bầy đàn, thông qua những biện pháp cấp thiết nhất, phân công lại công việc giữa chúng với nhau cho phù hợp với những nhu cầu bất thường trong thời kì khốn khó, và lập tức lại bắt tay vào lao động với sự kiên nhẫn, lòng nhiệt tình, sự hiểu biết, tính kiên định, mà người ta không thường xuyên thấy được ở cả tầm cao nhất trong thiên nhiên, dẫu chúng ta đã biết, phần lớn các sinh vật đã tỏ ra có lòng dũng cảm hơn và tinh thần vững tin hơn con người.
Để xóa bỏ sự mất tinh thần và duy trì tình yêu trong đàn ong, mà không đòi hỏi phải có sự hiện diện của ong chúa, thì chỉ cần khi cái chết đến với nó hay khi rời bỏ tổ của mình, nó đã để lại một niềm hi vọng dẫu mong manh thôi là đủ. “Chúng ta đã thấy - Langstroth đáng kính, một trong những vị cha đẻ của nghề nuôi ong hiện đại, có nói - chúng ta đã thấy một
đàn ong không còn số lượng ong đủ để phủ kín được 10cm2 tầng tổ thử nuôi dưỡng ong chúa. Trong suốt hai tuần lễ chúng trông giữ niềm hi vọng; cuối cùng, khi số lượng của chúng chỉ còn lại một nửa, con ong chúa của chúng đã ra đời, nhưng đôi cánh của nó không hoàn thiện, vậy là nó không thể bay được, và dù bị tàn tật, những con ong của nó vẫn không kém kính trọng hơn trong thái độ đối xử với nó. Một tuần nữa qua đi số ong còn sống không quá một tá; rốt cuộc con ong chúa biến mất, để lại trong các tầng tổ những kẻ đau khổ khôn nguôi”.
XIX
Chúng ta có ví dụ ngay đây: có một hoàn cảnh - nó gây nên những thử thách chưa từng thấy, buộc các nữ anh hùng bất khuất, nhưng bất hạnh này phải chịu sự can thiệp bạo ngược của chúng ta trong thời nay — hoàn cảnh để chúng ta theo dõi được những biểu hiện sâu sắc nhất trong tình yêu và sự quên mình của các cô con gái nhà ong. Tôi đã nhiều lần, giống như những người yêu loài ong, phải đặt mua từ Ý những con ong chúa đã thụ tinh, vì chủng ong Ý là chủng tốt hơn, khỏe hơn, mắn con hơn, năng động hơn và hiền lành hơn chủng ong của chúng ta. Việc vận chuyển này diễn ra trong nhưng chiếc hộp nhỏ có khoan lỗ. Người ta cho vào đó một ít thức ăn dự trữ và cho con ong chúa ở chung với một nhóm nhỏ ong thợ - chúng được lựa chọn, có thể, từ những con ong thợ già nhất (tuổi của ong khá dễ nhận ra theo thân mình nhẵn nhụi, gầy guộc, gần như đói ăn của chúng, và đặc biệt là theo đôi cánh của chúng - những đôi cánh mang lâu ngày rồi và rách nát vì công công việc) - để chúng nuôi con ong chúa, chăm sóc cho nó, bảo vệ nó trong thời gian của chuyến đi. Có một điều rất thường thấy là khi về đến nơi phần lớn số ong thợ đã chết. Có lần chúng chết hết vì đói; nhưng lần này, cũng như những lần tương tự khác, con ong chúa bình yên vô sự và khỏe mạnh, còn có một con cuối cùng trong số các con đồng hành
với ong chúa, có vẻ như đã chết bởi nó đã dành cho bà chúa của mình - đối với nó bà ta là biểu tượng cho một sự sống quý báu hơn, lớn lao hơn sự sống của riêng nó - giọt mật dự trữ cuối cùng còn lại trong tận bọng mật của nó.
XX
Con người sau khi nhận thấy cái hằng tính gắn bó này đã biết sử dụng sự nhạy cảm mang tính chính trị lạ thường phát nguyên từ nó hay vốn có trong nó, sự hăng say trong lao động, tính kiên trì, lòng khoan dung, khát vọng vươn tới tương lai của loài ong để làm lợi cho mình. Nhờ sự gắn bó này, con người trong những năm gần đây đã thành công đến mức độ nào đó trong việc thuần dưỡng, mà chúng không hay biết, những nữ chiến binh hoang dã, vì chúng không lùi bước trước bất kể một sức mạnh xa lạ nào, và trong tính nô lệ vô thức của mình chúng tuy nhiên vẫn chỉ phục vụ cho những quy luật của riêng mình - những quy luật nô dịch chúng. Con người có thể tin chắc rằng, khi đã điều hành được ong chúa, thì anh ta đã nắm trong tay linh hồn và số phận của tổ ong. Qua việc con người sử dụng ong chúa như thế nào, có thể nói, anh ta diễn trò với nó như thế nào, anh ta có thể, chẳng hạn như, khơi lên, nhân lèn, ngăn cản hay hạn chế sự tách đàn; anh ta hợp nhất hay phân chia đàn, định hướng cho sự lưu vong của các ong quốc. Thế nhưng có một điều chính xác là, con ong chúa, thực chất hoàn toàn chỉ là một biểu tượng sống, cũng như mọi biểu tượng - nó là nguyên lí ít được nhận thấy hơn và lớn hơn, mà việc tính đến nó sẽ hữu ích cho người nuôi ong, nếu anh ta không muốn chịu nhiều lần thất bại. Rốt cuộc ở đây loài ong không hề bị lừa và không hề đánh mất đi vị chúa tể phi vật chất, đích thực và thủy chung của mình - cái tư tưởng nổi trội nhất của mình, mà chúng tiên lượng được qua nữ chúa hiển hiện, nhất thời của mình. Tư tưởng này có dụng ý hay không, điều quan trọng chỉ ở mức
độ mà chúng ta muốn, đặc biệt như, lấy làm ngạc nhiên là loài ong có được tư tưởng này, hay lấy làm lạ rằng thiên nhiên đã gửi gắm nó vào trong chúng. Dẫu tư tưởng này có nằm ở đâu đi chăng nữa - trong một thể xác bé nhỏ hay gầy yếu đến thế, hoặc trong một thể xác to lớn huyền bí, thì nó vẫn xứng đáng để chúng ta chú tâm đến. Và nhân đây mà nói, nếu như chúng ta tránh bắt sự quan tâm của mình tuân theo chừng ấy điều kiện về địa điểm và thời gian, thì ắt hẳn chúng ta đã không thường xuyên đến thế bỏ qua những cơ hội cho chính mình được mở rộng tầm mắt và thấy ngạc nhiên, nhưng liệu có bổ ích hơn chăng việc được mở rộng tầm nhìn như thế?
XXI
Có thể phản bác rằng, toàn bộ điều này là những phỏng đoán đầy mạo hiểm và quá mang tính [chủ quan] của con người; loài ong, có lẽ, không có được một tư tưởng nào trong số những tư tưởng giống như thế; khái niệm về tương lai, tình yêu với chủng loài và nhiều điều khác, mà chúng ta gán cho chúng, thực chất chỉ là những hình thức được tiếp nhận do các nhu cầu sống còn đối với chúng, do nỗi sợ đau khổ và cái chết và do sức cám dỗ của khoái lạc. Tôi đồng ý, - toàn bộ điều này, có thể, chỉ là nói vậy thôi, - vì thế tôi không cho điều đã nói có tầm quan trọng quá lớn. Điều duy nhất đích xác ở đây, - như nó vốn là điều duy nhất đích xác trong mọi vấn đề khác vừa tầm hiểu biết của chúng ta - đó là việc công nhận một thực tế rằng, trong những điều kiện nào đấy, thì đàn ong sẽ đối xử với ong chúa theo các cách nào đấy. Cái còn lại là sự bí ẩn, mà đối với nó chỉ có thể đặt ra những giả định ít nhiều vui tai, ít nhiều sắc sảo. Nhưng nếu như chúng ta nói về con người, có thể, như đã từng nói một cách chí lí về đàn ong, - thì chúng ta có quyền nói về chúng nhiều hơn nữa hay không? Và chúng ta cũng chỉ tuân theo các nhu cầu, tuân theo sức lôi cuốn tới khoái lạc hay nỗi
sợ hãi đau khổ, và thứ mà chúng ta gọi là trí tuệ của chúng ta có cùng một nguồn gốc và cùng một sứ mệnh, như cái mà chúng ta gọi là bản năng ở các loài vật mà thôi. Chúng ta thực hiện những hành động nào đấy và nghĩ rằng, chúng ta đã thấu hiểu các nguyên do của chúng rõ hơn là loài ong khi làm như thế; nhưng thêm nữa là, cái giả định này chả có một nền tảng vững chắc nào, những hành động này thật nhỏ mọn và hiếm khi so sánh được với số lượng khổng lồ [các hành động] của những Kẻ Khác, và mọi sự - được biết nhiều nhất và không được biết đến nhất, nhỏ nhặt nhất và to lớn nhất, gần gũi nhất hay xa xôi nhất - đều được thực hiện trong bóng tối mịt mùng, nơi có thể, chúng ta cũng gần như những kẻ mù lòa, như cái cách chúng ta phỏng đoán về loài ong.
XXII
”Cần đồng ý, - Buffon, người có thái độ căm ghét khá buồn cười với loài ong, có nói - cần đồng ý rằng, nếu lấy riêng từng con côn trùng này, thì mỗi con trong số chúng hóa ra có ít tài năng hơn một con chó, một con khỉ và phần lớn các con vật khác; cần đồng ý rằng, loài ong ít nghe lời hơn, ít gắn bó hơn, ít nhạy cảm hơn, nói tóm lại là chúng có ít phẩm chất so sánh được với những phẩm chất của chúng ta; nhưng trong trường hợp này thì cần đồng ý rằng, cái trí khôn bề ngoài của chúng là do sự tập hợp thống nhất của số đông; thế nhưng chính sự thống nhất này không ước định một trí khôn nào, vì chúng thống nhất lại hoàn toàn không phải do những lí do có tính đạo lí và ở cùng nhau mà không có sự ưng thuận của chúng. Có nghĩa là, xã hội này chỉ là sự thống nhất về thể xác, mà thiên nhiên đòi hỏi và nó độc lập với bất cứ sự nhận thức nào, bất kể lập luận nào. Con ong mẹ sản sinh ra mười ngàn cá thể, tất cả cùng vào một lúc và ở cùng một địa điểm; mười ngàn cá thể này, nếu như chúng thậm chí ngàn lần vô nghĩa hơn tôi phỏng đoán, thì chúng bất dắc dĩ chỉ để tiếp tục tồn tại
bằng một cách thức nào đó được sắp đặt sẵn; vì chúng tất cả đều hành động giống nhau và với sức lực ngang nhau, thì nếu như chúng thậm chí bắt đầu làm hại nhau, do đó chúng có thể nhanh chóng tiến tới việc, bắt đầu ít làm hại nhau hơn ở mức có thể nhất, tức là chúng có thể giúp đỡ nhau; cho nên chúng có thể, dường như hiểu nhau và cố gắng vươn tới một mục đích; một người quan sát sẽ nhanh chóng gán cho chúng những ý đồ khác nhau và cả cái trí khôn mà chúng không có được; anh ta muốn cắt nghĩa mỗi một hành động của chúng; mỗi một hoạt động của chúng sẽ nhanh chóng có nguyên cớ của mình, và vì thế sẽ diễn ra những điều kì diệu hay quái đản của vô số các luận thuyết; bởi mười ngàn cá thể này được sản sinh ra cùng một lúc, sống cùng nhau, tất cả chúng đều biến đổi gần như vào cùng một thời điểm - tất cả chúng không thể làm chính cái điều, mà nếu chúng dẫu có sự nhạy cảm đến mức độ nào đó, có những tập tính chung, được sắp đặt sẵn, cảm thấy dễ chịu khi ở cùng nhau, chăm lo cho ngôi nhà của mình, ra đi, rồi lại trở về và v.v., và vì thế mà có nào là kiến trúc, hình học, nào là nề nếp, tính lo xa cùng tình yêu tổ quốc, nói tóm lại là một nền cộng hòa; nhưng tất thảy những điều này, rõ ràng, đều dựa vào sự khâm phục của người quan sát”.
Đó là một phương pháp lí giải khác về loài ong của chúng ta. Mới đầu nó có vẻ tự nhiên hơn; nhưng điều này có thực sự diễn ra hay không do một nguyên nhân đơn giản, thì nó hầu như chẳng giải minh được gì? Tôi không nói về các sai lầm cơ bản của trang viết này; song phải chăng không cần có một trí khôn nhất định, để thích nghi được như thế với những nhu cầu của sự chung sống, làm hại nhau ít nhất ở mức có thể; cái trí khôn này càng tỏ ra tuyệt vời hơn, càng cần phải xem xét nó gần hơn, bằng cách nào “mười ngàn cá thể” này tránh được sự tất yếu phải làm hại nhau và đạt được điều là giúp đỡ nhau. Hơn thế, đây có phải là lịch sử của chúng ta hay không nhỉ; và cái điều mà một nhà tự nhiên học già bực tức nói ấy là
điều hoàn toàn có thể áp dụng cho tất cả các xã hội của con người chúng ta được không? Sự khôn ngoan của chúng ta, đức hạnh của chúng ta, chính trị của chúng ta, - những quả đắng của sự tất yếu đã được mạ vàng bằng trí tưởng tượng của chúng ta, - chẳng có một mục đích nào khác là tận dụng tính ích kỉ của chúng ta và biến cái hoạt động gây hại một cách tự nhiên của mỗi một cá nhân thành lợi ích chung. Và sau đó, tôi xin nhắc lại một lần nữa, nếu người ta không muốn công nhận rằng, loài ong có một suy nghĩ nào đó, một cảm xúc nào đó, mà chúng ta gán cho chúng, thì việc ngạc nhiên của chúng ta sẽ hướng vào đâu có quan trọng với chúng ta hay không? Nếu người ta cho rằng, việc khâm phục đàn ong là sự khinh suất, thì chúng ta sẽ khâm phục thiên nhiên; sẽ luôn đến một thời khắc, khi người ta không thể lấy đi mất sự khâm phục ở chúng ta, và chúng ta đâu có mất gì do phải nhượng bộ và chờ đợi.
XXIII
Bất luận thế nào đi nữa, ta cũng nhận thấy trong đàn ong, chính con ong chúa (chúng ta không từ bỏ sự phỏng đoán rằng - nó, ít ra cũng có ưu thế là nó liên kết trong trí óc chúng ta những hành động, rõ ràng, có liên hệ cả ở trong thực tế) yêu say đắm không chỉ bản thân con ong chúa, mà chúng còn yêu mê mụ cái tương lai bất tuyệt của chủng loài của chúng. Đàn ong tuyệt nhiên không đa cảm, và khi có một con nào trong số chúng đi làm về, bị thương nghiêm trọng đến mức, nó bị coi là không còn năng lực và có ích nữa, thì nó bị đuổi đi một cách không thương tiếc. Thế nhưng không thể nói rằng, chúng hoàn toàn không có được tình quyến luyến cá nhân, của một giống loài nhất định, đối với bà mẹ của chúng. Chúng nhận ra mẹ giữa nhiều con khác. Thậm chí khi ong chúa già, đáng thương, tàn tật, thì đội cảnh vệ ở ngoài cửa không bao giờ cho phép một con ong chúa xa lạ xâm nhập vào tổ, dù nó trông có vẻ trẻ trung, xinh đẹp, mắn đẻ đến
đâu đi nữa. Đây là một trong số những nguyên tắc thật sự có tính nền tảng trong quy chế của chúng, - chúng chỉ đôi khi phải nhượng bộ nguyên tắc này, trong thời kì lấy được nhiều mật nhất, đối với con ong thợ xa lạ nào đó đang mang khá nặng lượng thực phẩm dự trữ.
Khi ong chúa trở nên hoàn toàn vô sinh, đàn ong thay thế nó bằng một con khác, sau khi đã dạy dỗ được một số công chúa ong cho mục đích này. Song chúng làm gì với bà mẫu nghi già, thì chúng ta không được biết một cách chính xác; nhưng đôi khi những người nuôi ong phát hiện ra trên các tầng tổ một con ong chúa tuổi đương hoa sức xuân thì, còn trong góc sâu tận, nơi lãnh cung tăm tối của tổ là bà mẹ già (một «maitresse», theo cách gọi ở Normandie), còm cõi và đau ốm. Nên nghĩ rằng, trong trường hợp này đàn ong phải có biện pháp bảo vệ nó khỏi sự căm thù của một đối thủ rất mạnh, chỉ mơ đến cái chết của nó, bởi các nữ hoàng ong nuôi một sự ghê tởm không đội trời chung với nhau, khiến chúng đâm bổ vào nhau, khi cả hai cùng ở dưới một mái nhà. Có thể cho rằng, trong trường hợp nêu trên đàn ong đã chu cấp cho bà nữ hoàng già nua một chốn ở ẩn yên ổn và khiêm tốn trong góc xa xôi của vương quốc, nơi nó có thể sống hết đời. Trong chuyện này chúng ta lại vấp phải một trong số hàng ngàn bí ẩn của vương quốc bằng sáp, chúng ta lại được thấy một cơ hội để xác thực rằng, chính sách và tập tính của loài ong không hề được tiền định và hẹp hòi, và chúng tuân theo nhiều xung động phức tạp hơn những gì chúng ta những tưởng mình đã biết.
XXIV
Chúng ta đang từng bước vi phạm những quy luật của tự nhiên - chúng cần phải là những quy luật vững chắc nhất với đàn ong. Chúng ta từng ngày đặt chúng vào vị trí, mà bản thân chúng ta có thể đã rơi vào, nếu như có một ai đó đột nhiên phá vỡ những quy luật về trọng lực, không gian, ánh
sáng hay cái chết. Chúng sẽ làm gì, nếu người ta dùng sức mạnh hay mánh lới lừa dối đưa con ong chúa thứ hai vào tổ? Trong trạng thái tự nhiên, tình huống này, nhờ đội lính canh cửa, có lẽ, chưa bao giờ xảy ra kể từ khi loài ong tồn tại trên thế giới này. Chúng không hề mất bình tĩnh và biết phối hợp một cách tốt nhất hai nguyên tắc được chúng tôn trọng như những mệnh lệnh thần thánh. Thứ nhất là nguyên tắc về mẫu tính duy nhất, mà chúng không bao giờ từ bỏ, ngoại trừ trường hợp mẹ-nữ hoàng vô sinh. Nguyên tắc thứ hai còn đáng ngạc nhiên hơn; cũng không thể vi phạm nó, nhưng có thể giả nhân giả nghĩa đánh lừa. Đây là nguyên tắc bất khả xâm phạm nhân thân của bất kể một chúa ong nào. Bầy ong có thể dễ dàng dùng cả nghìn chiếc ngòi độc đâm những nhát chí mạng vào con ong chúa chui vào tổ của chúng; nó sẽ chết tức thì, và bầy ong chỉ còn mỗi một việc là lôi cái xác của nó ra khỏi tổ. Nhưng, tuy những chiếc ngòi của cả bầy luôn sẵn sàng, tuy chúng sử dụng những chiếc ngòi này bất cứ lúc nào, để chiến đấu với nhau, để giết các con ong đực, kẻ thù hay đám kí sinh ăn bám, song chúng không bao giờ thò cái ngòi của mình ra để chống một con ong chúa, cũng đúng như thế, ong chúa không bao giờ dùng cái ngòi của mình để chống lại con người, chống trả một con vật hay một con ong bình thường; vũ khí của nữ chúa ong không thẳng như ở các con ong thợ, mà được uốn như một lưỡi gươm cong, và nó tuốt gươm chỉ khi chiến đấu với một địch thủ ngang tầm, tức là một con ong chúa khác.
Không một con ong nào, có thể, dám cả gan nhận về mình nỗi khiếp sợ của hành động đẫm máu - trực tiếp giết vua, nhưng trong mọi hoàn cảnh, khi vì một thể chế tốt đẹp và sự hưng thịnh của nền cộng hòa phải làm thế nào để một con ong chúa chết, thì đàn ong cố tạo cho sự lìa đời của nó có vẻ như là một cái chết tự nhiên; chúng chia sẻ với nhau đến vô hạn tội ác ấy, vì thế nó trở thành một tội ác nặc danh. Khi đó chúng vây kín («emballent», theo cách nói có tính kĩ thuật của những người nuôi ong
Pháp) con ong chúa xa lạ bằng vô số những thân ong chen chúc chồng chất lên nhau, bằng cách này chúng tạo nên một kiểu nhà tù linh động, nơi tù nhân không tài nào nhúc nhích được nữa; cứ thế chúng giam giữ nó, nếu cần, trong suốt hai mươi tư tiếng đồng hồ, nói tóm lại, cho đến khi nó chết vì đói hay thiếu dưỡng khí. Nếu lúc đó con ong chúa hợp pháp đi đến gần, và nếu linh cảm thấy địch thủ, nó bộc lộ rõ ý định tấn công, các bức tường của nhà tù di động tức thì mở ra trước nó. Bầy ong tạo thành một vòng tròn linh hoạt vây quanh cả hai đối thủ, mà không tham gia; chúng chăm chú, nhưng không thiên vị, chứng kiến trận đấu tay đôi với tư cách khán giả, bởi chỉ có một ong chúa này mới có thể tuốt gươm chống lại một chúa ong khác - chỉ mối tội con ong chúa đó đang mang trong mình gần một triệu cuộc đời; nó, rõ ràng, có quyền bằng một cú đánh gây ra gần một triệu cái chết. Nhưng nếu cuộc đụng độ kéo dài bất phân thắng bại, nếu cả hai cái ngòi đều bị bẻ cong gập lại, cứ trượt đi một cách vô ích trên lớp giáp ki-tin nặng nề và một con ong chúa - dù là con hợp pháp hay xa lạ - có ý định bỏ chạy, thì nó sẽ bị chặn lại, bị bắt giữ, bị giam vào trong cái nhà tù được tạo thành từ những thân ong đang rung động và ở đó cho đến khi nó biểu lộ mong muốn tiếp tục trận đấu.
Cần nhận thấy rằng, trong rất nhiều thí nghiệm được tiến hành về vấn đề này, người ta thấy một điều hầu như không thay đổi là: bà mẹ-nữ hoàng giành thắng lợi - có phải vì rằng, cảm thấy mình ở tại nhà của mình, giữa các con-dân của mình, nó tỏ ra dũng cảm hơn, hăng máu hơn con ong chúa kia, hay vì rằng, bầy ong tuyệt đối không thể hiện sự thiên vị của mình trong thời gian diễn ra trận đấu, lại tỏ ra thiên vị hơn qua cung cách giam giữ hai địch thủ trong nhà tù, nên bà mẹ của chúng, dường như, không hề bị tổn thương bởi sự giam giữ này, trong khi đó con ong chúa xa lạ bước ra khỏi đó hầu như luôn rũ rượi và bạc nhược.
XXV
Có một thí nghiệm dễ dàng cho thấy rõ hơn mọi thí nghiệm khác về việc, đàn ong nhận ra con ong chúa của mình và có một sự gắn bó thực sự với nó. Bạn hãy thử đưa một con ong chúa ra khỏi tổ, và bạn sẽ thấy rõ ngay lập tức mọi biểu hiện buồn chán và tuyệt vọng đã được mô tả ở một trong các chương trước. Sau vài tiếng bạn hãy trả đúng con ong chúa đó về tổ, và thế là tất cả các cô con gái của nó ra chào đón và dâng mật mời nó. Có một số đứng thành hàng trên đường đi của nó, một số khác cúi đầu, ưỡn bụng ra, tạo thanh trước mặt nó một hình bán nguyệt nghiêm cẩn, phát ra âm thanh ngân vang, hơn thế nữa, rõ ràng là chúng đang tấu lên bản thiều chào mừng sự trở về bình an của nữ hoàng và thể hiện, có thể nói, bằng một nghi thức nhất định, sự tôn kính trang trọng hay niềm hạnh phúc tột độ, mà chúng nếm trải nhân sự kiện này.
Song bạn đừng hi vọng đánh lừa được chúng khi thay thế con ong chúa hợp pháp bằng một con ong mẹ khác. Nó chỉ vừa mới kịp bước vài bước thôi, liền có những con ong thợ phẫn nộ lao tới từ mọi hướng. Nó sẽ nhanh chóng bị bắt giữ, bao vây và giam vào một nhà tù phản loạn khủng khiếp, những bức tường trơ lì của nhà tù này sẽ không ngừng được phục dựng đến khi nó chết, vì thế trong trường hợp này hầu như không bao giờ có chuyện là nó còn sống mà ra được khỏi nơi đó.
Vì thế đưa vào và thay thế ong chúa là một trong những việc khó khăn nhất của nghề nuôi ong. Thật thú vị là việc biết được, lối ngoại giao nào, mánh khóe phức tạp nào con người phải dùng đến, để bắt chúng tuân phục mong muốn của mình và đánh lừa những con côn trùng nhỏ bé này, - những con côn trùng tinh nhạy, nhưng hồn nhiên và biết đón nhận mọi biến cố bất ngờ nhất với một lòng dũng cảm đầy cảm động, - và buộc chúng phải nghĩ rằng, sự xuất hiện của con ong chúa mới là một sự bất thường mới lạ,
nhưng có tính định mệnh của tự nhiên. Nói chung là trong toàn bộ lối ngoại giao này và sự lộn ẩu táo tợn rất thường xuyên xảy ra do những chiêu trò tinh quái mạo hiểm này, con người luôn tính đến một tình cảm thực sự kì lạ của loài ong; dựa vào kinh nghiệm, con người luôn tính đến sự phong phú vô tận trong các luật lệ của đàn ong và các tập tính kì diệu của chúng, tình yêu với sự chuẩn mực, sự yên bình và lợi ích của cộng đồng, tín niệm vào tương lai của chúng, sự lanh lẹ, lòng kiên định, tính vô vị lợi nghiêm túc trong tính cách của chúng, và anh ta đặc biệt tính đến lòng trung thành của loài trong việc thực hiện các bổn phận của mình đến mức, không gì có thể làm cho nó mệt mỏi. Nhưng các tính toán kĩ lưỡng của liệu pháp, nói thẳng ra, trong các chỉ dẫn về nghề nuôi ong này có thể kéo chúng ta đi quá xa.5
XXVI
Còn về sự gắn bó mang tính cá nhân, mà chúng ta đã nói đến, thì thậm chí cứ cho khả năng nó có đi, có thể khẳng định một cách hoàn toàn chắc chắn rằng, trí nhớ về sự gắn bó này là ngắn hạn. Nếu bạn chợt có ý định trả con ong mẹ về lại vương quốc của mình, sau một vài ngày nó rời khỏi đó, thì nó sẽ được những cô con gái giận dữ của mình tiếp đón đến mức, bạn phải vội vàng giả thoát nó khỏi sự giam hãm chết người - hình phạt cho những con ong chúa xa lạ. Chuyện này xảy ra là vì chúng đã có thời gian biến một chục căn phòng của ong thợ thành những phòng nữ hoàng và đã không còn bất cứ mối nguy hiểm nào đe dọa tương lai của chủng loài nữa. Sự gắn bó của chúng tăng lên hay giảm đi phù hợp với việc con ong chúa đại diện cho tương lai này như thế nào. Vậy là, khi con ong chúa trinh nguyên thực hiện nghi thức của “chuyến bay hôn phối” nguy hiểm, thì chúng ta thường quan sát được một hiện tượng như sau: các thần dân của nó lo sợ bị mất nữ chúa của mình đến mức, tất cả đi hộ giá nó trong chuyến tìm kiếm tình yêu xa xôi và bi kịch đó (sau nữa tôi sẽ đề cập đến
nó) - một việc chúng không bao giờ làm, nếu ta quan tâm cho chúng một mảnh tầng tổ có những khoang tổ của lứa ong non, nơi chúng tìm thấy niềm hi vọng nuôi dưỡng được các con ong mẹ khác. Tình cảm gắn bó này thậm chí có thể biến thành sự tức giận và căm thù, nếu nữ chúa của chúng không thực hiện mọi nghĩa vụ của mình đối với một vị thần trừu tượng, mà chúng ta gọi là “xã hội tương lai” và chúng hiểu rõ vị thần này hơn chúng ta. Có khi, chẳng hạn như, những người nuôi ong, do những suy tính khác nhau, đã ngăn cản ong chúa gắn kết với đàn và giữ nó ở trong tổ nhờ một cái lưới, mà bầy ong thợ tinh tế và nhanh trí đi qua song không nhận ra được; nhưng cái lưới này tạo ra sự ngăn cản ở sát lối ra, không thể vượt qua nổi đối với kẻ nô lệ đáng thương của tình yêu - nó nặng hơn và to hơn nhiều các cô con gái của ong chúa. Trong lần đi ra thứ nhất, bầy ong chắc chắn rằng ong chúa đã không đi theo chúng, khi trở về tổ chúng quở trách nó, xô đẩy và thể hiện rất rõ thái độ tệ bạc với kẻ bị cầm tù bất hạnh - chúng rõ ràng là đã kết tội nó về sự lười biếng hay chúng cho là nó có đôi chút đần độn. Ở lần đi ra thứ hai, khi sự đờ đẫn của nó lộ quá rõ, sự tức giận của chúng tăng lên, và thái độ tệ bạc trở nên trầm trọng hơn. Cuối cùng, đến lần thứ ba, khi cho rằng, đã hết thuốc chữa cho sự không trung thành của ong chúa với số phận và tương lai của chủng loài, đàn ong sẽ luôn xét xử nó và kết cho nó một cái án chết trong nhà tù của nữ hoàng.
XXVII
Trong thế giới của loài ong, rõ ràng, tất thảy đều phục tùng tương lai, với tính lo xa, sự đồng lòng nhất trí, - tính kiên định, khả năng giải thích những hoàn cảnh, để rút ra từ đó lợi ích, - nói tóm lại là những phẩm chất khiến chúng ta kinh ngạc, nếu để ý đến mọi sự bất ngờ, mọi việc siêu nhiên do sự can thiệp không ngừng của chúng ta đem đến ngôi nhà của chúng. Có thể nhận thấy rằng, ở trường hợp vừa kể đến chúng giải thích
rất tồi sự bất lực của con ong chúa trong việc đi theo chúng. Chúng ta có thể sáng suốt nhiều hơn nữa hay không, có thể có được chăng một sinh vật nào đó có trí óc khác với loại trí óc của chúng ta, và có thân hình khổng lồ đến mức, những sự vận động của nó gần như không thể nắm bắt được, như những sự vận động của hiện tượng thiên nhiên - sinh vật này có thể đặt cho chúng ta những cái bẫy như thế cốt để tiêu khiển hay không? Hơn nữa, chúng ta còn chưa rõ, biết đâu mọi việc có thể có kết cục là đàn ong có thể hiểu được thí nghiệm và gạt bỏ những sự bất tiện của nó, nếu như nó vẫn tồn tại và trở thành một điều bình thường. Đàn ong đã hiểu nhiều thí nghiệm khác và sử dụng chúng một cách thông minh nhất. Đó là thí nghiệm với “các tầng tổ di động”, hay, ví dụ như, với các gian (“sections”), nơi người ta bắt chúng phải cho số mật dự trữ của mình vào những chiếc hộp nhỏ được xếp thành những chồng; một thí nghiệm còn khác thường hơn nữa với “sáp xếp nếp”, nơi các khoang tổ rất dễ dàng được phác họa bằng một nét sáp mảnh cũng thế; ở đây đàn ong nhanh chóng đánh giá được lợi ích của thí nghiệm này, chúng bắt đầu cẩn thận kéo dài các khoang tổ mới thành hình này, mà không tốn vật liệu và mất công sức, tạo nên các khoang tổ hoàn thiện. Phải chăng trong tất cả các trường hợp không hiện ra với chúng ở dạng cạm bẫy, do một vị thần hung ác và thâm hiểm nào đó đặt, chúng không phát hiện ra cái giải pháp tốt nhất và duy nhất của con người? Chúng ta sẽ đưa ra một trong số những tình huống tự nhiên, nhưng hoàn toàn bất thường này. Chẳng hạn như, khi có một con sên hay một con chuột chui vào trong tổ và chúng sẽ bị giết chết ở trong đó, đàn ong sẽ làm gì, để thoát khỏi cái xác chẳng bao lâu sau sẽ đầu độc bầu không khí? Nếu chúng không thể đẩy được nó đi hay chia thành những phần nhỏ, thì chúng sẽ xây cho nó một ngôi mộ bằng sáp và keo ong một cách có phương pháp và kín mít; ngôi mộ này nhô lên một cách kì lạ giữa các công trình bình thường của tổ. Năm ngoái tôi đã tìm thấy ở một trong
số những tổ ong của tôi một nhóm ba ngôi mộ như thế: chúng được ngăn ra bằng các bức tường trung gian, như những khoang tổ ở các tầng tổ - chúng được làm như thế để tiết kiệm sáp. Những tay thợ xây mộ cẩn thận xây những ngôi mộ này cao hơn các phần còn sót lại của ba con ốc nhỏ do một đứa trẻ nhét vào trong trụ sở công xã tự do (phalanstère). Thông thường, nếu chúng có vấn đề với ba con ốc, thì chúng hài lòng với việc bịt kín lỗ hở của vỏ ốc bằng sáp thôi. Nhưng trong trường hợp này những cái vỏ ốc đã ít nhiều bị vỡ hay rạn nứt, và bầy ong đã quyết định rằng, đơn giản hơn là chôn toàn bộ; nhưng để không làm vướng việc di chuyển ở cửa tổ, chúng đã để lại trong khối nằm chềnh ềnh ấy một vài đường hành lang tương ứng chính xác không phải với vóc người của chúng, mà với kích cỡ của các con ong đực to béo gần gấp đôi chúng. Sự việc này và sự việc dưới đây cho phép chúng ta nghĩ rằng, bầy ong sớm hay muộn gì sẽ phát hiện ra nguyên nhân tại sao con ong chúa không thể đi theo chúng qua tấm lưới. Ở những vùng phổ biến giống bướm đêm hèn hạ có cái “đầu lâu” (Acherontia Atropos), đàn ong xây ở cửa vào tổ của mình hàng cột bằng sáp, gã cướp đêm với cái bụng phệ quá khổ của mình không thể lách nổi qua hàng cột.
XXVIII
Về vấn đề này chúng ta đã bàn khá đủ rồi: tôi có, lẽ không bao giờ chấm dứt được, nếu như muốn dùng hết tất cả các ví dụ. Để tóm tắt lại vai trò và vị thế của ong chúa, có thể nói rằng, ong chúa là trái tim-nô lệ của thành phố ong, là trí tuệ thân thiết với thành phố này. Nó là bà chúa duy nhất, những cũng là thị tì, là vị quản thống bị cầm tù, người đại diện cực kì quan trọng của tình yêu. Dân chúng của nó cung phụng nó và tôn kính nó, tuy nhiên, đừng quên rằng, dân ong không phải tuân phục cá nhân nó, mà tuân phục sứ mệnh được nó thực hiện và những số phận được nó đại diện cho. Thật khó tìm nổi một thể chế cộng hòa của con người được như thế -
tầm quan trọng của nó có thể bao trùm một phần có ý nghĩa trọng đại đến thế những ước muốn của hành tinh chúng ta; một nền dân chủ, nơi mà tính tự chủ có thể đồng thời vừa hoàn thiện hơn vừa có trí tuệ hơn, và nơi mà sự tuân phục có thể vừa có tính toàn thể và có cơ sở xác đáng hơn. Song cũng không thể tìm thấy ở đâu có sự hi sinh nghiệt ngã hơn và tuyệt đối hơn. Bạn đừng nghĩ rằng, tôi khâm phục những sự hi sinh này cũng như các kết quả của chúng. Hiển nhiên là mong sao có thể có được những kết quả này với ít đau khổ nhất, ít những hy sinh quên mình nhất. Song một khi luận điểm cơ bản đã được chấp nhận, - và nó có thể là điều cần thiết trong tư tưởng về hành tinh của chúng ta - sự tổ chức của thể chế cộng hòa này thật đáng kinh ngạc, về điều này, bất luận chân lý của con người có thế nào đi nữa, thì trong tổ ong cuộc sống được nhìn nhận không phải như một chuỗi thời gian ít hay nhiều thuận lợi, mà do sự thận trọng chúng ta không nên làm cho chúng u ám và tồi tệ đi, trừ những thời điểm cần thiết để duy trì sự sống - mà nên nhìn nhận nó như một nghĩa vụ lớn lao và được phân chia một cách nghiêm túc cho mọi thành viên đối với cái tương lai đã không ngừng phải lùi bước từ thuở ban đầu của thế giới. Ở đây mỗi một cá nhân đã phải từ bỏ hơn một nửa niềm hạnh phúc của mình và các quyền lợi của mình. Con ong chúa giã từ ánh dương quang, giã từ những đài hoa, giã từ tự do; những con ong thợ đã phải từ bỏ tình yêu, ba hay bốn năm cuộc đời và từ bỏ niềm vui ngọt ngào được làm mẹ. Ở con ong chúa bộ óc rốt cuộc biến mất vì lợi ích của các cơ quan sinh sản, còn ở bầy ong thợ các cơ quan này lại bị teo đi vì lợi ích của các cơ quan trí óc. Có lẽ thật bất công khi khẳng định rằng, trong những sự chối từ này ý chí không hề có sự can dự nào. Quả thật, con ong thợ không thể có số phận của riêng mình, nhưng nó có quyền sắp đặt số phận của tất cả số nhộng xung quanh nó và chúng gián tiếp là các cô con gái của nó. Chúng ta đã thấy, mỗi một ấu trùng ong thợ, nếu nó được sắp đặt và nuôi dưỡng theo chế độ cho ong
chúa, có thể trở thành ong chúa; cũng tương tự như thế mỗi một ấu trùng ong chúa có thể biến thành một con ong thợ, nếu thay đổi thức ăn của nó và thu nhỏ khoang tổ một cách phù hợp. Những việc chọn lựa kì lạ này diễn ra từng ngày trong bóng tối được dát vàng của tổ. Nhưng chúng không ngẫu nhiên diễn ra, - có một sự khôn ngoan chỉ đạo và điều chỉnh chúng, mà tính quy luật và sự quan trọng sâu sắc của nó thì chỉ có con người mới có thể lạm dụng - một sự khôn ngoan luôn tỉnh táo và tính đến mọi sự diễn ra ngoài tổ ong, cũng như trong những bức tường của nó. Nếu các loài hoa nở rộ một cách không ngờ, nếu một vụ mùa bội thu tô đẹp cho những triền đồi và bờ sông, nếu ong chúa già hay kém mắn đẻ, nếu cư dân ong co cụm lại và cảm thấy mình bị chèn ép, thì bạn sẽ thấy sự xuất hiện của các khoang tổ ong chúa. Chính các khoang tổ này cũng có thể bị phá bỏ, nếu vụ mùa thất bát hay tổ ong được mở rộng. Chúng thường được duy trì đến khi con ong chúa trẻ thực hiện xong chuyến bay hôn phối của mình, và sau đó chúng bị phá bỏ, khi ong chúa trở về tổ, kéo theo mình, giống như chiến lợi phẩm, một dấu hiệu rõ ràng trong việc thụ tinh của mình. Nó ở đâu, sự khôn ngoan này - sự khôn ngoan cân nhắc hiện tại và tương lai và đối với nó cái còn chưa hiển lộ có trọng lượng hơn tất thảy những gì đã hiển hiện? Nó nằm ở đâu sự thận trong không tên này - sự thận trọng từ bỏ và lựa chọn, nâng lên và hạ xuống, sự thận trọng có thể làm cho ngần ấy con ong thợ trở thành ngần ấy con ong chúa và có thể biến ngần ấy ong mẹ thành một đàn ong trinh nguyên? Chúng ta đã nói ở chương khác rằng, nó nằm trong “linh hồn của tổ ong”; nhưng rốt cuộc, biết tìm nó ở nơi đâu - cái “linh hồn của tổ ong” này - ngoài hội ong thợ? Có thể, để tin chắc rằng, nó nằm ở chính nơi không cần thiết phải chú tâm quan sát đến thế các tập tính của thể chế quân chủ cộng hòa. Làm được như Dujardin, Brandt, Girard, Vogel và các nhà côn trùng học khác đã làm - có lẽ thế là đủ: đặt dưới kính hiển vi một hàng những cái đầu rỗng một nửa của ong chúa và cái đầu đẹp
tuyệt vời của ong đực, nơi có tới hai mươi sáu ngàn con mắt sáng loa, một cái đầu nhỏ bé, xấu xí và siêng năng của một con ong thợ trinh nguyên. Chúng ta đã thấy rằng, trong cái đầu nhỏ bé này những nếp cuộn của một bộ óc uyên bác nhất và thông minh nhất của tổ ong. Sau bộ óc của con người nó là bộ óc tuyệt vời nhất, phức tạp nhất, tinh vi nhất, hoàn thiện nhất trong tự nhiên, ở một hạng khác của các loài sinh vật và có một sự tổ chức khác6. Và ở đây cũng có một nguyên tử gần như vô hình của một thứ vật chất huyền bí biết tạo cho mình một vị thế nhỏ bé, chiến thắng và vững chắc giữa những sức mạnh khổng lồ và trì trệ của hư vô và cái chết.
XXIX
Bây giờ chúng ta hãy quay trở lại với tổ ong của chúng ta — nó đang chia đàn và không chờ đến kết cục của những suy xét để phát tín hiệu bay đi. Trong chớp mắt, khi tín hiệu này được phát ra, có thể nói rằng, mọi cánh cửa của tổ ong đều nhất loạt mở toang bởi một áp lực bột phát và điên rồ, một đám đông đen kịt lao vụt ra từ đó, hay đúng hơn là, từ đó bắn ra, tùy theo số cửa mở, hai, ba hay bốn dòng ong thẳng băng, rùng rùng, hừng hực và không ngừng - chúng lập tức tan biến và tỏa rộng trong không trung như một tấm mành kêu vang được tạo thành từ một trăm ngàn đôi cánh trong suốt rập rờn. Trong một vài phút tấm mành cứ bay như thế bên trên tổ ong, phát ra tiếng xào xạc kì thú của một tấm lụa trong suốt - nó như thể không ngừng bị hàng ngàn ngàn ngón tay bị kích động xé tan ra rồi lại được khâu lại. Nó uốn lượn, rung rinh, phập phồng, giống như những tấm thảm được treo trên bầu trời nhờ những bàn tay vô hình trong niềm hân hoan tưng bừng cứ cuộn chúng vào rồi lại mở bung ra từ mặt đất muôn hoa khoe sắc đến bầu trời xanh ngát thiên thanh, trong nỗi đợi chờ ngày về hay đi của tháng Tám. Cuối cùng thì một đầu của tấm áo choàng rực rỡ hào quang và réo rắt vui ca cũng nâng lên và đầu kia buông xuống, ánh mặt trời chan hòa
cả bốn góc của nó, và giống như tấm thảm bay khôn ngoan trong câu chuyện cổ tích bay đến miền chân trời xa, thực hiện một khát vọng nào đó - nó đã được làm hoàn chỉnh, để che chở cho sự hiện hữu thiêng liêng của tương lai; nó hướng đến một cây gia, một cây lê hay một cây liễu, nơi nữ hoàng đã chuẩn y, như cái đinh vàng để tấm áo choàng mắc những đường sóng rập rờn uốn lượn của mình và nó cuộn tấm vải đính đầy châu báu, tỏa sáng long lanh, được tạo thành từ những đôi cánh, quanh cái đinh vàng ấy.
Sau đó sự im lặng bắt đầu; và cả hồi còi báo động này cùng tấm vải phủ đáng sợ này có vẻ như ngập tràn vô số những mối đe dọa và giận dữ, và tiếng ngân vang đến đinh tai này luôn luôn chập chờn không ngừng vang lên trên mọi vật xung quanh — một phút sau tất cả biến thành cả một chùm lớn vô hại và hiền lành, được tạo nên từ hàng ngàn những hạt nhỏ, đầy sức sống, nhưng bất động, treo trên những cành cây và kiên nhẫn chờ sự trở về của các trinh sát viên, được cử đi tìm nơi cư trú.
XXX
Đây là lần dừng chân thứ nhất của đàn ong được gọi là “đàn đầu tiên”; đứng đầu đàn ong này luôn là con ong chúa già. Đàn ong thường đậu trên một cái cây hay một thân gỗ ở gần tổ, vì con ong chúa mang nặng những quả trứng và không nhìn thấy ánh sáng từ sau chuyến bay hôn phối của mình hay từ lần tách đàn năm ngoái - nó không dám liều bay ngay lên không trung; nó dường như quên mất cách sử dụng đôi cánh của mình.
Người nuôi ong đang chờ cả đám ong dồn lại; sau đó, trùm lên đầu một cái mũ rơm rộng vành (vì một con ong hiền lành nhất cũng sẽ nhất định thò ngòi ra, nếu nó bị mắc vào mái tóc, nơi nó tưởng là mình bị mắc bẫy), nhưng không cần trùm mặt và khăn voan, nếu anh ta là một người có kinh nghiệm; anh ta nhúng ngập đến khuỷu hai cánh tay để trần của mình vào
nước lạnh, rồi mới đón đàn ong lại, bằng cách rung thật mạnh cành cây ở trên tổ ong bị bỏ đi, mà anh ta ngồi trên đó. Chùm ong nặng nề rơi xuống đó, như một trái chín. Hoặc nếu cành cây quá to chắc, anh ta chỉ dùng một cái thìa xúc ong từ đống ong này và sau đó phân chia đám ong sống, trông như những cái hạt này, như anh ta mong muốn. Anh ta chả có gì phải sợ đàn ong đang vo vo quanh mình và đậu phủ kín tay và mặt mình. Anh ta nghe bài ca say đắm của chúng - nó không giống như bài ca giận dữ. Anh ta cùng chả sợ rằng, đàn ong sẽ tan rã, tức giận, bay tứ tán đi hay lẩn trốn mất. Tôi đã nói: vào ngày hôm ấy những con ong thợ đầy bí ẩn đang có tâm trạng hân hoan và cả tin, do đó không gì có thể làm chúng buồn phiền. Chúng từ bỏ những lợi ích, mà chúng cần phải bảo vệ, và không còn nhận ra các kẻ thù của mình. Chúng không gây hại, vì chúng đang hạnh phúc, mà chẳng hiểu vì sao chúng hạnh phúc: chúng đang thực hiện một luật định. Mọi sinh vật đều có một thời khắc hạnh phúc mù quáng như thế - đó là niềm hạnh phúc thiên ban, khi thiên nhiên muốn đạt được những mục đích của mình. Chúng ta đừng lấy làm ngạc nhiên rằng, đàn ong bị rơi vào sự lừa dối của thiên nhiên; chính chúng ta, quan sát nó biết bao đời nay - và quan sát nhờ bộ óc hoàn thiện hơn bộ óc của ong - bản thân chúng ta vẫn đang lang thang trong đêm tối mà đâu đã hiểu được: nó thân thiện với chúng ta, lạnh lùng hay tàn nhẫn một cách hèn hạ với chúng ta. Đàn ong sẽ ở lại nơi con ong chúa đáp xuống, và thậm chí nếu có một mình đáp xuống tổ, lập tức sự hiện diện của nó sẽ được chứng nhận, cả bầy ong tạo thành những hàng dài đen kịt hướng đến nơi ở của bà mẹ; cùng lúc đó một số con thâm nhập vào nơi đó, một số khác dừng lại một khoảnh khắc ở cửa, tập hợp thành các nhóm để hân hoan mừng vui - đây là thói thường của chúng để chào mừng những sự kiện hạnh phúc. Chúng “bốc đồng”, theo cách nói của những người nông dân. Vào thời điểm đó nơi cư trú bất ngờ được chấp nhận và điều nghiên đến từng xó góc nhỏ nhất; vị trí của nó
trong trại ong, hình dáng của nó, màu sắc của nó được nhận ra và khắc ghi trong trí nhớ thận trọng và chuẩn xác của nhiều ngàn con vật nhỏ bé. Trong khu vực phụ cận các điểm xuất phát được đánh dấu cẩn thận, ngôi nhà mới đã tồn tại trọn vẹn ở nơi sâu tận trong trí tưởng tượng dũng cảm của chúng, và vị trí của nó đã được ghi nhận trong trí óc và con tim của mọi cư dân của nó; trong những bức tường của nó vang lên bài tụng ca tình yêu để tỏ lòng tôn kính nữ hoàng, và công việc bắt đầu.
XXXI
Nếu con người không chọn đàn ong, thì câu chuyện vừa mới kể đây không dừng lại ở đó. Đàn ong vẫn treo trên những cành cây đến lúc thấy sự trở về của những con ong thợ hoàn thành nhiệm vụ trinh sát hay đội tiền trạm có cánh bay tản mát đi ngay từ những phút đầu tiên của việc tách đàn, theo mọi hướng để tìm một ngôi nhà mới. Chúng, hết con này đến con khác, quay trở về từ cuộc hành trình và báo cáo về chuyến công cán của mình; nhưng vì chúng ta không thể thâm nhập vào những suy nghĩ của loài ong, nên phải giải thích cảnh tượng, mà chúng ta chứng kiến, theo cách của con người. Không loại trừ rằng, các báo cáo của chúng được lắng nghe một cách chăm chú. Một con, có vẻ như ca ngợi một bộng cây, con khác tán tụng những ưu điểm của các khe nứt trên một bức tường cũ, những khoảng trống trong một cái động hay của một cái hang bị bỏ lại. Nhiều khi, cuộc họp phân vân do dự và bàn luận đến tận sáng hôm sau. Rốt cuộc sự lựa chọn cũng được đưa ra, nhận được sự nhất trí. Cả chùm ong có một thoáng xao động, rục rịch chuyển động, chia tách ra, tản mát bay đi một cách nhanh chóng, ráo riết - một chuyến bay không biết đến những trở ngại, vượt qua những khu vườn, những thửa ruộng, những cánh đồng, những chiếc cối xay gió, những ao hồ, những xóm làng, những dòng sông. Đam mây đen vần vũ này hướng đến một mục tiêu xác định và luôn luôn rất xa
xôi. Hiếm khi con người có thể theo dõi được chuyến di cư thứ hai của chúng.
C
Phần III
Nền tảng của thành phố I
húng ta hãy xem rõ hơn đàn ong làm gì trong cái tổ, nơi chúng được người nuôi ong tập trung lại và đưa vào đó. Trước hết chúng ta nên nhớ đến sự hy sinh của năm mươi ngàn ong trinh nữ, mà theo lời của Ronsard: “chúng có một trái tim tuyệt vời trong cái thân thể nhỏ bé”, và một lần nữa chúng ta lại thấy kinh ngạc với lòng dũng cảm cần thiết cho việc bắt đầu một cuộc sống mới ở chốn hoang sơ, nơi chúng rơi vào. Chúng đã quên đi ngôi nhà sung túc và tuyệt vời, nơi chúng sinh ra, nơi cuộc sống của chúng được đảm bảo và được tổ chức hoàn hảo, nơi mật của đủ mọi loài hoa gợi nhớ đến ánh mặt trời, cho phép chúng mỉm cười đón những mối hiểm họa của mùa Đông. Ở đó chúng đã phải bỏ lại hàng ngàn cô con gái của mình đang ngủ ngon trong những chiếc nôi-kén, chúng sẽ không bao giờ được thấy lại những đứa con ấy nữa. Ở đó chúng đã phải bỏ đi, ngoài một lượng sáp rất lớn, keo ong và phấn hoa mà chúng tích cóp được, còn phải đến hơn 60 kg mật ong, tức là nặng hơn 12 lần khối lượng của toàn bộ đàn ong cộng lại, gần 600 ngàn lần nặng hơn cân nặng của mỗi một con ong, với con người thì lượng mật đó tương đương với 42 ngàn tấn lương thực, cả một đội tàu lớn chở nặng thứ dưỡng chất quý báu hơn và thập toàn đại bổ hơn tất cả những gì chúng ta được biết, vì mật ong đối với đàn ong giống như thứ nhựa sống; đối với chúng đây là một dạng sữa
tiêu hóa được ngay và hầu như không có dư lượng tồn đọng.
Ở đây, nơi ở mới chẳng có gì: không một giọt mật, không một vụn sáp, chẳng có điểm khởi đầu, cũng chẳng có điểm tựa. Chỉ có một tòa nhà khổng lồ trần trụi ảm đạm, ở đó chẳng hề có gì ngoài mái và tường. Những bức tường lượn tròn và phẳng lì chẳng bao bọc, mà là trùm kín một không gian tối tăm, còn bên trên khoảng không là một mái vòm hình cầu. Nhưng ong không biết đến những sự luyến tiếc vô bổ, và bất kể trong tình huống nào, nó cũng chẳng chùn bước. Sự hăng say của nó chẳng những không giảm sút đi bởi thử thách dường như vượt quá bất kể một lòng dũng cảm nào, mà còn tăng thêm hơn bất kì lúc nào. Tổ chỉ vừa mới được dựng lên và đặt vào đúng chỗ, cảnh hỗn loạn do việc vỡ tổ huyên náo vừa mới được thu xếp ổn thỏa, trong đám đông pha tạp ta thấy ngay một sự phân công rất rõ ràng và hết sức bất ngờ. Phần lớn nhất của đàn ong, như một đạo quân, tuân theo một mệnh lệnh rất rõ ràng, bắt đầu leo lên - chúng tạo thành những cột ong lớn dựng dọc theo các bức tường của cái to lớn. Những con đầu tiên trong số ong đã lên tới mái vòm dùng móng của hai chân trước bấu chặt vào đó; những con sau bám vào chúng và cứ thế cho đến khi hình thành những dây ong dài làm thành cây cầu cho cả bầy đang ngày càng leo lên cao. Dần dần số lượng dây ong càng tăng lên, mỗi lúc càng trở nên dày hơn và ngày càng bện vào nhau nhiều hơn, rồi cuối cùng biến thành những tràng dài; do số ong đông vô kể và không ngừng leo lên, những tràng ong quấn vào nhau thành một bức mành dày hình tam giác hay, nó đúng hơn, là trông giống như một hình nón dày có đỉnh hướng lên mái vòm, nơi chúng được đính chắc vào, còn phần đáy trải rộng buông xuống đến một nửa hay đến hai phần ba toàn bộ chiều cao của tổ. Khi con ong sau cùng cảm thấy có giọng nói bên trong gọi nó nhập vào đội quân này, đã leo tới bức mành treo trong bóng tối, thì việc leo trèo ngừng lại; chuyển động trên mái vòm dần dần ngừng hẳn, và cái hình nón kì lạ treo lơ lửng trong suốt nhiều giờ
chờ đợi sự bí ẩn của việc hình thành sáp, trong một sự im lặng mà ta có thể nghĩ là một sự im lặng đầy linh thiêng, và trong sự bất động đáng sợ. Trong lúc đó, những con ong khác, tức là những con ong còn lại ở phía dưới của tổ, chẳng quan tâm đến sự hình thành tấm mành kì diệu, mà một tặng vật màu nhiệm có thể được ban xuống trong những nếp gấp của nó, rõ ràng là, chúng cũng chẳng bị cám dỗ bởi mong muốn hòa nhập vào nơi đó, chúng xem xét ngôi nhà và bắt tay thực hiện các công việc cần thiết.
Sàn được quét cẩn thận, và những chiếc lá, cành khô, những hạt cát lần lượt được mang dọn ra xa, vì tính ưa sạch sẽ của loài ong đạt đến độ cuồng: vào giữa mùa Đông, những trận giá rét mạnh, kéo dài quá lâu ngăn cản chúng thực hiện cái gọi là “chuyến bay thanh sạch”, không muốn tổ bị bẩn, chúng chết hàng loạt bởi một căn bệnh đường ruột khủng khiếp. Chỉ có những con đực vô tâm không sửa được mới ngang nhiên làm bẩn các tầng tổ mà chúng đi vào, bởi thế các con ong thợ phải liên tục theo sau chúng để làm sạch tổ.
Sau khi làm sạch tổ, những con ong thuộc nhóm không được thông báo đó - nhóm không chen vai thích cánh với những con ong của cái hình nón treo lơ lửng trong sự phấn chấn nào đó - bắt đầu cẩn thận trám lại bề mặt bên trong của ngôi nhà chung. Sau khi xem xét mọi khe hở, trám và phủ kín các khe hở bằng keo ong, rồi chúng mới bắt đầu đánh bóng tường của toàn bộ tòa nhà từ trên xuống dưới. Đội canh cửa được tổ chức lại, và số ong thợ nhanh chóng được xác định, cất cánh bay ra các cánh đồng và khi bay về chở nặng mật và phấn hoa.
II
Trước khi vén những nếp gấp của bức màn bí ẩn, mà trong bóng tối của nó là nền móng của ngôi nhà đích thực, chúng ta hãy thử tìm hiểu xem
các chú ong di cư bé nhỏ của chúng ta phải thể hiện biết bao nhiêu là trí tuệ, sự nhìn nhận chính xác, sự tính toán và nghệ thuật cần thiết cho việc thích ứng với nơi cư trú, để vẽ được quy hoạch của thành phố trong khung cảnh trống trải, hình dung ra ở đó địa điểm của các tòa nhà, sẽ phải xây chúng một cách tiết kiệm nhất và nhanh nhất có thể, vì ong chúa cần phải đẻ trứng, kẻo nó đẻ trứng vương vãi khắp sàn mất. Ngoài ra, trong mê cung này còn có các công trình chưa thực hiện được, hình thức của chúng cần phải khác thường, đừng nên quên mất các quy tắc về sự thoáng khí, tính vững chác, độ bền lâu, đánh giá sức bền của sáp, tính chất của số lương thực sẽ cần phải bảo quản, sự tự do ra vào, các thói quen của ong chúa, việc bố trí, một phần nào đó, đã được xác định trước, tổ chức một cách tối ưu các kho chứa, nhà cửa, phố phường, đường đi lối lại và nhiều công việc khác mà có lẽ phải mất rất nhiều thời gian để liệt kể ra.
Hình dáng của tổ ong được con người đưa ra cho đàn ong thay đổi vô cùng: từ thân cây rỗng ruột, hình trụ đất sét ngày nay vẫn còn được sử dụng ở châu Phi và châu Á, và tổ theo lối cổ hình chuông bằng rơm, mà ta có thể bắt gặp giữa những luống hoa hướng dương, cây hoa lốc, hoa thục quỳ trong các vườn rau hay dưới ô của sổ của phần lớn các trang trại của chúng ta, cho đến các nhà máy đích thực của ngành nuôi ong thời nay, nơi đôi khi tích tới hơn 150 kg mật ở ba hay bốn tầng ong nằm nối đuôi nhau và có khung bao quanh cho phép họ kéo ra, lấy các tầng tổ, tách lấy mật ong bằng lực li tâm nhờ các tua-bin rồi đặt chúng trở về vị trí cũ như cách làm với sách trong một thư viện được tổ chức tốt.
Tính thất thường hay nhu cầu của con người vào một ngày đưa đàn ong ngoan ngoãn vào một nơi chốn nào đó làm đàn ong mất đi nề nếp thông thường. Con côn trùng bé nhỏ phải sắp xếp, định hướng, thay đổi kế hoạch mà dẫu hoàn cảnh sống có thế nào thì nó vẫn phải bất biến, phải xác định trong không gian lạ lẫm này vị trí của kho chứa mùa Đông, chúng không
nên vượt ra khỏi khu vực có nhiệt độ ấm áp do đàn ong ngủ mơ màng tỏa ra; chính nó, cuối cùng, phải xác định một điểm tập trung các tầng tổ cho lứa ong mới - vị trí của các tầng, để tránh sự không may nào đó, phải gần như không thay đổi - không quá cao, cũng không quá thấp, không gần, và cũng không xa cửa chính. Chẳng hạn như đàn ong đi khỏi một thân cây đổ có đường hầm dài nằm ngang, hẹp và dẹt - bỗng nhiên chúng rơi vào một cái tổ dựng đứng như tòa tháp cao, mái bị lấp mất trong bóng tối. Hay để hiểu rõ hơn nữa sự kinh ngạc đương nhiên của chúng, bạn hãy thử hình dung một hình ảnh như sau: chúng, suốt bao đời nay đã quen sống dưới mái vòm bằng rơm của những chiếc tổ ở làng quê của chúng ta, đột nhiên chúng thấy mình bị đưa vào một cái gì đó giống như một cái tủ to hay một cái rương, rộng gấp ba bốn lần ngôi nhà, nơi chúng ra đời, và bây giờ phải định hướng giữa một đám khung chằng chịt treo hết cái này đến cái khác, khi thì song song, khi thì vuông góc với cửa ra vào và tạo thành cả một mạng lưới rừng rậm làm rối tung toàn bộ bề mặt tổ của chúng.
III
Không gì có thể ngăn cản được chúng - người ta không nhớ nổi một ví dụ nào về chuyện đàn ong từ bỏ làm việc, mất đi lòng dũng cảm hay bối rối do sự khác thường của hoàn cảnh, miễn là ngôi nhà được chào mời không nồng nặc mùi khó chịu hay thực sự không thể sống được. Thậm chí trong tình huống như thế cũng không thể nói về sự sa sút tinh thần, sự dao động hay rũ bỏ trách nhiệm. Đàn ong đơn giản là bỏ nơi ở không thân thiện và lên đường tìm một cơ may tốt hơn ở đâu đó xa hơn. Còn hiếm thấy hơn nữa những trường hợp có một ai đó bắt gặp những con ong làm một việc không cần thiết và ngu ngốc. Chưa bao giờ người ta thấy những con ong điên rồ hay chúng khi không biết quyết định thế nào, phó mặc cho may rủi cứ xây các công trình bừa bãi và sai quy tắc. Bạn cứ thử cho chúng vào một
khối cầu, khối vuông, khối kim tự tháp, một cái giỏ hình ô-van hay đa giác, vào một khối hình trụ bay hình xoắn ốc; bạn hãy quan sát chúng một vài ngày, nếu chúng chấp nhận nơi ở - bạn sẽ thấy cái tập hợp là lạ của những bộ óc nhỏ, độc lập này đã nhanh chóng biết đi đến thỏa thuận, không hề do dự, nhờ một phương pháp mà các nguyên tắc của chúng, rõ ràng là bất di bất dịch, nhưng hậu quả là có tính sống còn, lựa chọn một vị trí có lợi nhất, thường là một địa điểm duy nhất có thể tận dụng được trong nơi ở lạ lùng này.
Khi cho chúng vào ở một trong những nhà máy có các bộ khung lớn, được lắp sẵn, mà chúng ta vừa nói đến, đàn ong để tâm đến những cái khung này chỉ một khi chúng là các điểm khởi đầu và điểm tựa thuận tiện cho các tầng tổ của đàn ong, và việc đàn ong không hề lo lắng, xem con người muốn gì, cũng như có ý đồ gì, là một điều hết sức tự nhiên. Nhưng nếu người nuôi ong có ý gắn thêm một dải sáp nhỏ cho tấm ván ở phía trên một số cái khung, thì chúng sẽ cẩn thận kéo dài dải sáp này, và bổ sung thêm cả sáp của mình, một cách có phương pháp chúng nối tiếp các tầng tổ theo quy hoạch định sẵn. Đúng như thế - đây là cách thường thấy trong ngành nuôi ong đang phát triển mạnh mẽ hiện nay - nếu tất cả những cái khung của chiếc tổ, nơi cho đàn ong vào ở, được gắn thêm từ trên xuống dưới các phiến sáp xếp nếp, đàn ong sẽ không mất thời gian dựng những cái khác ở bên cạnh hay nằm vắt ngang, chúng sẽ không làm sáp một cách vô ích, nhưng khi thấy công việc đã được thực hiện một nửa rồi, chúng lấy làm hài lòng với việc đào sâu và nối dài từng khoang tổ đã được định rõ trên phiến sáp, chỉnh sửa dần các điểm, nơi phiến sáp bị lệch khỏi đường thẳng đứng; bằng cách này, chưa đầy một tuần chúng đã là chủ nhân của một thành phố tuyệt đẹp và được xây dựng tốt, đúng như thành phố mà chúng đã bỏ đi; thế nhưng nếu phó mặc cho các nguồn dự trữ riêng của chúng, thì chúng có lẽ phải mất hai hay ba tháng làm việc, để xây dựng lên
những kho chứa dồi dào và nhà ở bằng sáp trắng như thế.
IV
Tất nhiên, khả năng thích nghi này có vẻ như vượt xa khỏi giới hạn của bản năng. Nhưng thực chất thì không có gì võ đoán hơn những sự phân biệt giữa bản năng và lí trí. Ông John Lubbock, người đã tiến hành những quan sát thú vị và độc lập về kiến, ong vò vẽ và ong mật, rất có khuynh hướng không công nhận ong có khả năng phân biệt và suy xét, như thể chúng vừa mới thoát khỏi lối mòn trong những hoạt động quen thuộc của chúng. Điều này xảy ra, có thể do sự ưu ái hơn có tính vô thức và phần nào bất công tác động đến một người nghiên cứu kiến, - là đối tượng nghiên cứu chuyên môn của ông, - vì bất kể một nhà nghiên cứu nào cũng muốn con côn trùng mà anh ta nghiên cứu là con thông minh hơn và tuyệt vời hơn các con khác; song ta nên tránh cái thói kì quặc nhỏ nhen của tính tự ái này. Để chứng minh cho suy nghĩ của mình ông John Lubbock tiến hành một thử nghiệm mà ai cũng có thể dễ dàng thực hiện. Hãy thả nửa tá ruồi và nửa tá ong vào một chiếc bình thon cổ, đặt nó nằm ngang, đáy xoay về cửa sổ của căn phòng. Những con ong suốt nhiều tiếng đồng hồ nháo nhào tìm lối ra qua đáy bình, chừng nào còn chưa chết vì mệt và đói, thế nhưng những con ruồi chưa đến hai phút đã ra hết qua miệng bình ở phía đối diện. Ông John Lubbock từ đó kết luận rằng trí óc của ong quá ư là hạn chế, còn ruồi đã thể hiện sự khôn khéo hơn nhiều để tìm được đường và thoát ra. Kết luận này có vẻ như là miễn chê vào đâu được. Bạn cứ thử lần lượt xoay 20 lần liền tùy ý, khi thì đáy, khi thì miệng một cái bình cầu trong suốt về phía có ánh sáng - cả 20 lần những con ong đều quay hướng về phía ánh sáng. Trong thí nghiệm của nhà khoa học người Anh thì cái nguy hiểm với ong là sự yêu thích ánh sáng của chúng, đây cũng chính là trí khôn của chúng. Rõ ràng là, chúng tưởng rằng trong chốn giam hãm nào thì sự giải thoát ắt hẳn
phải là từ phía sáng hơn; chúng hành động thích hợp và ngoan cố trong các hành động quá đỗi logic của mình. Chúng đâu biết đến sự bí ẩn siêu nhiên bao giờ, với chúng chính tấm kính là cái điều bí ẩn; chúng chỉ thấy không gian bỗng nhiên trở nên không thể chui lọt qua được, tức là đã xảy ra một hiện tượng không có trong tự nhiên; ắt hẳn với chúng sự ngăn trở này, điều bí ẩn này càng không thể chấp nhận được, càng không thể hiểu nổi, thì chúng càng khôn ngoan hơn; trong khi đó những con ruồi không não, chẳng hề bận tâm đến logic, đến lời kêu gọi của ánh sáng, về sự bí ẩn của tấm kính, cứ bay vô định trong cái bình cầu và vô tình trên đường bay của mình gặp được cái miệng bình tốt lành đã giải thoát cho chúng - như đôi khi những kẻ thiển cận thoát chết ở nơi mà các nhà thông thái chết.
V
Cũng chính nhà tự nhiên học này còn thấy một bằng chứng nữa cho sự thiếu trí khôn của loài ong trong đoạn trích dẫn từ Langstroth một nhà nuôi ong đáng kính, người Mĩ: “Vì ruồi có thiên tính sống không phải nhờ hoa, mà là nhờ các chất mà nó có thể đằm mình trong đó, nó cảnh giác đậu ở mép của những chiếc bình đựng thức ăn lỏng, và thận trọng hút, trong khi ấy thì một con ong đáng thương lao đầu xuống đó và chết liền, số phận đáng sợ của người chị em của chúng chẳng hề ngăn những con khác một chút nào, chúng đến lượt mình tiến sát mồi ăn: như bị mất trí, chúng đậu trên những cái xác và những con đang giãy chết. Không một ai có thể tưởng tượng nổi sự điên rồ của chúng kinh khủng đến thế nào, nếu anh ta không nhìn thấy một cửa hàng mứt kẹo bị vô số những con ong đói khát bao vây. Tôi đã thấy hàng ngàn con ong bị chìm trong si-rô được vớt ra; tôi đã thấy hàng ngàn con lao xuống nước đường đang sôi; mặt đất, và những ô cửa sổ phủ đầy xác ong đen kịt; một số lê lết, một số bay lượn, có những con bê bết đến mức chẳng thể bay, cũng như bò được; thậm chí một phần
mười số ong không thể mang về nhà chiến lợi phẩm được lấy theo cách tồi tệ ấy, thế nhưng trong không trung đàn đàn lũ lũ ong vẫn kéo đến và chúng cũng điên rồ như thế”.
Đây đâu phải là bằng chứng tốt nhất, nó có khác gì những cảnh tượng tàn tạ, phá hại của thói nghiện rượu và chiến trận là bằng chứng cho một siêu nhân muốn xác định những hạn chế về trí tuệ của chúng ta. Địa vị của ong trong thế giới này thật kì lạ, nếu so sánh nó với địa vị của chúng ta. Ong đến thế giới này để sống giữa một thiên nhiên vô tình và vô thức, chứ không phải bên một sinh vật dị thường đảo lộn các quy luật bất biến nhất gần gũi với chúng và tạo ra các hiện tượng kì vĩ và không thể hiểu nổi. Trong một trật tự tự nhiên, trong sự tồn tại đơn điệu của một cánh rừng thân thuộc sự say cuồng được Langstroth mô tả chỉ có thể có được khi vì một sự tình cờ nào đó có một tổ ong đầy mật bỗng vỡ tung ra. Nhưng khi ấy ở đó có lẽ sẽ chẳng có những ô cửa sổ nguy hiểm chết người, lẫn đường sôi, cũng như si-rô đặc quánh, vì vậy có lẽ sẽ chẳng có kẻ nào chết và những mối hiểm nguy nào khác, ngoài những mối nguy hiểm mà bất cứ một con vật nào cũng bị sa vào khi đuổi bắt con mồi.
Liệu chúng ta có thể giữ được một cách tốt hơn sự bình tĩnh của mình, nếu như có một thế lực hùng mạnh và dị thường nào đó cuốn hút trí óc của chúng ta trên mỗi bước đi? Vì thế chúng ta rất khó có thể phán xét loài ong - loài bị chính chúng ta biến thành những kẻ mất trí, và trí khôn của chúng không được trang bị để phát hiện ra các mưu kế thâm hiểm của chúng ta, đúng như trí óc của chúng ta, rõ ràng là, không được trang bị đủ để phá vỡ những mưu kế tàn độc của cái sinh thể tối cao, mà hiện nay chúng ta chưa biết đến, nhưng có thể có thật. Khi chưa biết cái gì đang thống trị chúng ta, chúng ta kết luận rằng mình đang chiếm giữ đỉnh điểm của sự sống trên trái đất của chúng ta; nhưng, rốt cuộc, điều này hoàn toàn không thể là điều hiển nhiên. Tôi không đòi hỏi mọi người tin tôi, khi tôi nói rằng, nếu chúng
ta thực hiện hành động vô lối hay hay xấu xa, thì điều này xảy ra bởi chúng ta bị rơi vào mạng lưới của một thế lực tối cao, nhưng chẳng có gì là không tưởng cả, điều này có thể đến một lúc nào đó sẽ đúng. Mặt khác, sẽ là vô lí việc khẳng định rằng loài ong không có trí khôn, vì chúng còn chưa học được cách phân biệt chúng ta với một con khỉ hay một con gấu to lớn và đối xử với chúng ta như đối xử với một cư dân thuần phác trong khu rừng nguyên thủy. Rõ ràng là, trong chúng ta và xung quanh chúng ta có những ảnh hưởng và những thế lực hết sức khác biệt nhau, mà chúng ta chưa nhận ra được nhiều hơn nữa.
Cuối cùng, để kết thúc phần biện hộ này, mà trong đó tôi có phần nào thiên lệch, điều mà tôi đã trách cứ ông John Lubbock ở phần trên đây, tôi xin nói thêm: có cần hay không là một kẻ có trí tuệ, để có khả năng đạt tới rất nhiều những sự điên rồ đến thế? Sự thể luôn là thế trong cái vùng sai lệch của trí óc, vốn là trạng thái không chắc chắn nhất, biến động nhất của vật chất. Cũng theo sự soi xét đó thì ngoài lí trí, còn có sự say mê, không thể nói một cách chính xác nó là gì - là khói lửa hay là sợi bấc đèn. Mà ở đây sự say mê của loài ong đủ cao thượng, để tha thứ cho sự bất ổn về trí khôn của chúng. Đâu phải cái tính háu ăn của con vật muốn ngốn ngấu cho chán chê mật ngọt đã đẩy nó đến sự bất cẩn này. Chúng có thể thoải mái làm điều này ở kho chứa thực phẩm trong tổ của mình. Hãy quan sát chúng, dõi theo chúng trong những hoàn cảnh tương tự, và bạn sẽ thấy chúng sau khi lấy đầy bọng mật, liền lập tức quay về tổ, để trút chiến lợi phẩm của mình vào đó, để trong suốt một tiếng đồng hồ 30 lần đến nơi thu hoạch tuyệt trần và lại quay trở về. Hiện tượng này cho thấy điều mong muốn nhất - đó là làm những công việc tuyệt vời biết bao: sự hăng say mang được nhiều nhất phúc lợi mà chúng có thể mang về ngôi nhà của những người chị em của chúng và cho ngôi nhà tương lai. Khi sự mất trí của con người do động cơ hết sức hào hiệp, thì chúng ta lại thường gọi nó
bằng một cái tên khác.
VI
Tuy nhiên cũng cần phải nói ra toàn bộ sự thật. Trong số những điều kì diệu trong nghệ thuật của chúng, sự xây dựng tiện nghi của chúng, đức tính quên mình của chúng, thì có một điều sẽ luôn khiến chúng ta kinh ngạc và ngăn cản sự khâm phục của chúng ta: đó là sự vô cảm với cái chết và những nỗi đau khổ của đồng loại của chúng. Ở đặc tính của loài ong có một sự lưỡng phân rất kì lạ. Ở trong tổ tất cả đều yêu thương nhau và giúp đỡ nhau. Chúng hợp nhất lại, như những suy nghĩ tốt đẹp trong một tâm hồn. Nếu bạn làm bị thương một con trong số chúng, hàng ngàn con sẽ hi sinh thân mình, để báo thù vì bị xúc phạm. Ở bên ngoài tổ chúng không còn biết đến nhau nữa. Cứ thử vặt cánh bẻ chân, đè nát — hay tốt hơn là đừng làm một điều gì tương tự, đó có lẽ là sự tàn ác vô nghĩa, vì có một thực tế hiển nhiên, - giả sử rằng bạn làm bị thương, đè nát ở một tầng tổ nằm cách tổ của chúng vài bước chân mười, hai mươi hay ba mươi con ong đã ra khỏi tổ, - những con mà bạn không động đến sẽ chẳng đoái hoài gì và cứ tiếp tục cắm cái lưỡi của mình, một cái lưỡi lạ thường như một thứ vũ khí của Trung Hoa, hút lấy thứ chất lỏng mà chúng quý hơn cả mạng sống, chúng dửng dưng với sự hấp hối đang giẫy giụa một lần cuối động chạm vào chúng, và với những tiếng rên la đầy tuyệt vọng vang lên quanh chúng. Và khi tầng tổ đã trống trơn, bầy ong, chẳng còn gì để mất, thản nhiên trèo lên những con đã chết và bị thương và thu gom lại mật dính vào các con đã chết, chẳng hề động lòng trước cảnh tượng chết chóc và chẳng hề nghĩ đến việc giúp đỡ những con bị thương. Vậy có nghĩa là, trong tình huống này chúng không có khái niệm gì về mối nguy hiểm với chúng, vì sự chết chóc la liệt xung quanh chúng chẳng khiễn chúng lo ngại, chẳng hề có một tình cảm nhỏ nhất nào của sự đoàn kết hay xót thương. Còn về mối hiểm nguy,
thì điều này được lí giải là bởi ong không hề biết đến sự sợ hãi và chẳng có gì làm chúng sợ, trừ khói. Khi ra khỏi tổ, cùng với bầu trời trong xanh ong hít thở thêm cái khí chất hiền lành và nhẫn nhịn. Nó tránh xa kẻ nào khiến nó lo sợ, nó làm bộ như không nhận thấy kẻ không quá đỗi chèn ép nó. Có thể nghĩ rằng, nó hiểu rõ bản thân mình trong cái vũ trụ thuộc về tất cả, nơi mỗi cá thể đều có quyền có chỗ đứng của mình và nơi đáng để là một kẻ khiêm nhường và yêu chuộng hòa bình. Nhưng dưới vẻ bao dung ấy ngầm ẩn giấu một trái tim tự tin vào bản thân mình đến độ, nó không còn nghĩ đến việc phải tuyên bố về phẩm cách của mình. Nếu bị một kẻ nào đó đe dọa, nó né tránh, nhưng không bao giờ chạy trốn. Mặt khác, khi ở trong tổ nó không bằng lòng theo cái lối bàng quan thụ động với mối hiểm nguy. Đàn ong với cái tính dễ nổi nóng lao thẳng vào bất kể một sinh vật nào: kiến, sư tử hay con người dám cả gan chạm đến nơi chốn thiêng liêng. Xét theo lối suy lí của chúng ta, thì có thể gọi đó là sự giận dữ, phát khùng vô lí hay tinh thần anh hùng.
Nhưng chẳng có gì có thể phản bác được sự thiếu tính đoàn kết của loài ong ở bên ngoài tổ, cũng như tình thân ái với nhau của chúng khi ở trong tổ. Phải chăng chúng ta nên nghĩ rằng, có những giới hạn không thấy trước được đối với trí khôn của mọi giống loài và rằng, một tia lửa nhỏ nhoi khó khăn lắm mới lóe lên nổi, sau sự bốc cháy chẳng dễ dàng gì của một khối vật chất trì trệ đến thế, luôn không thể tin chắc rằng, nó có thể soi sáng hơn dẫu chỉ một điểm thôi, khi làm mờ nhạt đi các điểm khác? Có thể nhận định rằng, ong và thiên tính trong nó đã tổ chức một cách hoàn hảo hơn ở bất cứ đâu công việc chung trong cộng đồng, sự sùng bái và tình yêu đối với tương lai. Phải chăng vì lí do đó mà loài ong bỏ qua tất thảy những thứ còn lại? Chúng yêu cái tương lai phía trước, còn chúng ta yêu những gì xung quanh mình. Có thể, yêu những gì hiện tại là đủ để không còn đủ tình yêu đặng dùng cho những gì sau này. Chẳng có gì hay đổi thay đường hướng
"""