"
Đi Trốn - Bình Ca PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đi Trốn - Bình Ca PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
BÌNH CA
—★—
ĐI TRỐN
NHÃ NAM & NXB HỘI NHÀ VĂN ebook©vctvegroup | 29-11-2020
Cuốn sách này kể về một câu chuyện diễn ra cách đây hơn nửa thế kỷ. Tất cả các nhân vật chính đều được xây dựng bởi sự tưởng tượng của tác giả. Vì vậy, nếu tình cờ có những chi tiết trùng với sự thật đã xảy ra ở một nơi nào đó, tác giả xin được miễn trách.
MỘT CÂU CHUYỆN SINH ĐỘNG VÀ CẢM ĐỘNG
Năm năm sau ngày ra mắt Quân khu Nam Đồng, cuốn truyện đầu tay rất hay và thành công của mình, tác giả Bình Ca đã viết xong cuốn thứ hai. Năm năm, là khoảng thời gian vừa phải để hoàn thành một cuốn tiểu thuyết, và sự điềm tĩnh ấy cho thấy là nhà văn đã không vì sự đánh giá cao và cả sự hối thúc nữa của dư luận bạn đọc mà phải vội vã, song cũng không quá chậm rãi khiến làm giảm đi mất nhuệ khí và phong độ của cuốn đầu.
Qua những trang mở đầu cho tiểu thuyết Đi trốn, tôi hiểu do đâu mà tác giả đã tin cậy lựa tôi là một trong những người đọc bản thảo. Là bởi vì cuốn tiểu thuyết này kể về cuộc đời của thế hệ tôi, hoặc nói một cách cụ thể hơn là lứa chúng tôi, những đứa trẻ “con nhà cán bộ kháng chiến”, sinh ra vào đầu thập niên 1950 ở vùng tự do; sau ngày kháng chiến thành công theo gia đình về Thủ đô yên hưởng mười năm hòa bình giữa hai cuộc chiến; tới đầu 1965 cuối thời niên thiếu lại bắt đầu đời gian khổ: rời Hà Nội, xa bố mẹ sơ tán về các miền quê, trải từng cuộc sống kham khổ thiếu thốn cùng đồng bào nông thôn; học hành, thi cử trong không gian đất trời dữ dội thời Chiến tranh Phá hoại; và đến tuổi thanh niên thì tiếp bước cha anh lên đường trường chinh chống Mỹ. “Bởi hầu hết số phận
của những đứa trẻ sinh ra, lớn lên trong những năm đất nước có chiến tranh là ở chiến hào”.
“Có thể mường tượng thấy hướng đi cuộc đời của các nhân vật trong Đi trốn là như vậy, tuy nhiên tác giả không dõi theo họ cho tới ngày họ lên đường ra trận, mà, như đã nêu trong phần Vĩ thanh: “Cuộc đời mỗi người như một dòng sông, luôn chảy về phía trước. Trong cuốn sách này, tôi muốn giới hạn câu chuyện kể về những nhân vật của mình trong một khúc sông tuổi thơ.”
Một khúc sông ngắn ngủi thời niên thiếu, một cuộc phiêu lưu trẻ thơ, non nớt, vụng dại. Ban đầu chỉ với ý định tạm trốn khỏi trại sơ tán để thoát cuộc điều tra liên quan đến việc ăn trộm súng đạn, bốn cậu học trò Tự Thắng, Việt Bắc, Linh, Hoài Nam, về sau bớt Nam thêm Thảo, cùng với Sơn là cậu bạn người địa phương đã bí mật rủ nhau làm một chuyến “dã ngoại” thăm thú núi rừng hang động. Nhưng do vướng vào trận bom Mỹ nên cuộc trốn học rong chơi ấy đã hóa thành một vụ lạc rừng đáng sợ, đầy gian nan và hiểm nguy, đi dần đến tuyệt lộ.
Đây là một vụ mất tích do nhà văn tưởng tượng ra hay là một hồi ức có thật? Bạn đọc khó lòng phân biệt, nhưng dù là hư cấu hay phi hư cấu, Đi trốn vẫn là một câu chuyện được kể rất sinh động và cảm động.
Với vốn sống dày dặn phong phú và bằng lời văn kể chuyện giản dị, miêu tả phác họa, nhanh và tự nhiên, chữ nghĩa không cầu kỳ nhưng diễn đạt được nội tâm cùng lối nghĩ và lời nói của các nhân vật một cách rất đúng tuổi đúng thời, nhà văn Bình Ca đã nhẹ nhàng, trữ tình và cả hóm hỉnh nữa, dẫn dắt bạn đọc qua lần lượt
những chặng mạo hiểm đầy hấp dẫn và hồi hộp: đánh nhau với rắn hổ mang chúa, bị ong mật tấn công, gặp phải trăn gấm, đụng đầu bom Mỹ… Và giữa những pha gay cấn ấy, ngòi bút nhà văn đã đồng thời làm hiện lên trước mắt chúng ta vẻ đẹp nên thơ và huyền bí của thiên nhiên hoang dã: Hồ Mây, Vách Đá Ma, Vườn Chim, Động Người Xưa… Nhưng điều quan trọng hơn cả, cốt yếu đối với một tác phẩm văn học, ấy là nhà văn đã khắc họa được rõ nét diện mạo, tính nết, phẩm cách và phần nào đó cả gốc gác thân phận của từng nhân vật trong nhóm trẻ đi trốn.
Đọc bản thảo Đi trốn, tôi vừa như đang nhập mình vào một chuyến đi cắm trại hồn nhiên tưoi vui của một nhóm thanh thiếu niên, lại như đang trở về với ký ức xưa kia, một toán lính trẻ tân binh bị lạc trong rừng sâu sau trận đánh, đang co cụm lại, sát cánh nhau vượt qua nguy nan lần đường trở về với đơn vị. Phần nào đó như những người lính ấy, năm bạn trẻ trong Đi trốn, ngoài Sơn có kinh nghiệm núi rừng, đều là dân thị thành không chút từng trải, nên thoạt đầu khi gặp tình huống gian nan thì không tránh khỏi bối rối, hoang mang, sợ hãi, song đã vừa độc lập và tự thân kiên cường lên, vừa giữ vững được sự đoàn kết, nương tựa vào nhau, vực dậy tinh thần và sức lực của nhau, cùng nhau vượt qua hoàn cảnh tuyệt vọng.
Hồi trước, trong chiến tranh, tôi luôn thầm một nỗi ngạc nhiên về những bạn đồng đội vốn là học trò thành phố, con em các gia đình cán bộ công nhân viên chức, thậm chí có cả COCC, nghĩa là những tay, như người ta thường định kiến, chính hiệu tạch tạch xè, dài lưng tốn vải và quen ăn trắng mặc trơn, vậy mà do đâu, vì sao, họ đã
mau chóng và mạnh mẽ nhập mình vào quân ngũ, cứng cáp lên rất nhanh, sớm trở thành những chiến binh can trường trong chiến đấu, giỏi chịu đựng gian khổ, tháo vát lanh lẹ vượt qua những tình huống khó khăn thử thách? Có thể nói tiểu thuyết Đi trốn như đang muốn giúp tôi tự cắt nghĩa thắc mắc ấy.
Theo tôi, nhóm bạn trẻ năm người trong tiểu thuyết chính là hình ảnh thời niên thiếu của cánh lính trẻ gốc gác học trò thành thị những năm chống Mỹ. Nhờ vào truyền thống gia đình (mà trong truyện là trực tiếp từ đường đời và số phận có thể nói đầy nghiệt ngã và bi kịch của cha mẹ), và do hoàn cảnh đất nước bị tai ương chiến tranh, phải rời Hà Nội đi sơ tán, sớm chạm trán với khó khăn thử thách, (mà trong truyện là cuộc đi trốn đầy hiểm nguy), các nhân vật thiếu niên hồn nhiên vô tư lúc đầu truyện đến cuối truyện đã từng trải và trưởng thành hẳn lên. Có thể thấy trước rằng với những đức tính và phẩm cách bước đầu có được sau cuộc đi trốn nhớ đời ấy mà Tự Thắng, Việt Bắc, Linh, Thảo sẽ là những nhân vật điển hình cho một thế hệ thanh niên còn ghi dấu mãi trong lịch sử đất nước: thế hệ đã trải qua thời niên thiếu gian khổ nhưng gắn bó sâu nặng với nhân dân và thiên nhiên, thế hệ đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, thế hệ đã đưa đất nước vượt qua gian khó thời hậu chiến bao cấp, thế hệ đã mở màn công cuộc Đổi mới…
Nhà văn Bình Ca gắn bó mật thiết với thế hệ ấy. Truyện Quân khu Nam Đồng và tiểu thuyết Đi trốn đều kể về thời thanh thiếu niên của họ. Và rồi đây, như nhà văn đã hứa hẹn: “Có thể một ngày nào đó, tôi sẽ kể cho các bạn về họ ở một khúc sông khác, trong
một câu chuyện chiến tranh.” Tôi chắc chắn nhà văn sẽ luôn thành công trong văn nghiệp như là sự thành công của thế hệ tuyệt vời ấy. Bảo Ninh
PHẦN I SƠ TÁN
1.
TỰ THẮNG
Có một ngôi trường mà sau bảy mươi năm, chỉ còn lưu giữ trong ký ức của một số ít người. Đó là Trại Nhi đồng Khe Khao, nhà trẻ nội trú đầu tiên của ngành giáo dục mầm non nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trại được thành lập đầu năm 1951 tại ATK* Chợ Đồn, tỉnh Bắc Cạn.
Tự Thắng là một trong những học sinh của Trại Nhi đồng Khe Khao.
Khe Khao ở độ cao 1000m so với mặt biển. Nơi đây không khí trong lành, sáng và tối phủ đầy sương, ban ngày bầu trời trong xanh. Bọn trẻ con được các chú bộ đội và người dân địa phương cho vào thúng, gánh lên núi, qua một chặng đường dốc ngược quanh co, hai bên phủ đầy lau sậy. Ngày trước vùng này có một mỏ kẽm, do Pháp khai thác, nay đã đóng cửa. Mấy gian nhà gạch, khi xưa là nơi ở của nhân viên người Pháp, được cô Tụy Phương cải tạo lại, làm phòng ăn, phòng ngủ, phòng chơi, trạm xá. Khi các cháu đông lên, phải làm thêm hai dãy nhà tranh.
Gần trại, có một hang đá. Mỗi lần máy bay Pháp đến, mọi người đều chạy vào hang trú ẩn. Trong hang có một dòng suối mát lạnh, chảy róc rách suốt đêm ngày. Sáng sáng, các cô dẫn cả lớp đến hang rửa mặt. Một hôm có hai con trăn cuộn lấy nhau, trôi trên suối.
Chú Sáng chạy theo tìm cách bắt mà không được. Từ đó, chẳng đứa nào dám đi ngược lên vùng tối phía bên trong hang nữa. Những ngày đầu, sau khi rửa mặt xong, các cháu được dẫn xuống khúc suối bên dưới đi vệ sinh. Vừa sạch sẽ, lại sẵn nước rửa. Sau đó, cô Tụy Phương nhận thấy làm thế sẽ ảnh hưởng tới nguồn nước của đồng bào ở chân núi. Chú Sáng nhận nhiệm vụ đào những cái hố để các cháu đi ị. Hố đầy, các cô lấp lại, một thời gian sau trồng rau lên trên, vừa ăn, vừa để ngụy trang. Những giàn bí và su su trong trại đặc biệt xanh tốt là nhờ phần lớn ở công đóng góp của các cháu.
Mùa đông, độ bốn năm giờ chiều là trời bắt đầu tối. Đêm lạnh buốt, mờ mịt sương. Ăn xong, các cô mắc màn, bắt tất cả lên giường. Tự Thắng nhớ có lần cả lớp đang thiu thiu ngủ, bỗng nghe tiếng chân chạy thình thịch ngoài sân, tiếng loảng xoảng của xoong chậu va vào nhau, rồi cánh cửa bị xô mạnh. Một con vật kỳ lạ, trên người có rất nhiều chấm sao lao vào. Nó đi một vòng từ đầu đến cuối lán, ngơ ngác nhìn quanh. Đâu đó vẳng một tiếng chó ăng ẳng rồi tắc nghẹn. Tiếp đó là tiếng răng rắc của đồ gỗ rơi gãy. Các cô từ phòng họp hốt hoảng xách đèn bão chạy về. Bọn trẻ trên hai dãy giường làm bằng những tấm phản gỗ ghép đều đã ngồi dậy, tranh nhau kể về một con vật kỳ lạ. Đúng lúc đó, chú Sáng hổn hển chạy tới. Chú cho biết một con hươu sao bị báo đốm đuổi đã tông cửa chạy vào đây. Mất dấu con mồi, báo đốm vồ luôn con chó Mực của trại. Vì đi họp nên chú không mang súng, chỉ kịp nhặt chiếc ghế gỗ ném theo.
Sau lần báo đốm vào trại, tối nào chú Sáng cũng để cây súng bên mình. Chừng một tháng sau, khi mọi người chuẩn bị đi ngủ thì bên ngoài có tiếng sột soạt. Chú đẩy cửa bước ra. Thấy phía trước có hai đốm sáng, đoán là mắt hổ bắt đèn nên chú nổ súng. Sớm hôm sau, mọi người mới biết con vật bị giết là ngựa của bác Hoàng Quốc Việt* xổng chuồng. Ở vùng rừng núi, ngựa là phương tiện đi lại chính. Mỗi khi quân Pháp mở đợt càn quét lên ATK, Bác Hồ lại yêu cầu đưa những con ngựa khỏe nhất đến chuyên chở đồ đạc và cử các chiến sĩ đến cõng các cháu, giúp nhà trẻ sơ tán sang dãy núi khác.
Ở Khe Khao lâu, mọi người cũng quen dần với việc gặp hổ báo. Một lần Tự Thắng rủ Việt Bắc trốn ngủ trưa đi chơi. Khi hai đứa đang tìm cách vượt hàng rào ra ngoài thì một con hổ lững thững đi tới. Lần đầu tiên gặp hổ, cả hai trố mắt ngạc nhiên. Con hổ cũng đứng im nhìn hai đứa bé nhỏ xíu, mặc quần “cổng chào”*, bên trong hàng rào. Thỉnh thoảng nó lại thè lưỡi liếm mép. Rất may lúc đó kẻng báo thức. Các cô chú cấp dưỡng trông thấy hổ liền lôi hết xoong, nồi ra gõ để xua nó đi. Có lần cả lớp sang xưởng sản xuất vũ khí của ông Trần Đại Nghĩa* xem biểu diễn văn nghệ. Trên đường đi cô Tụy Phương phát hiện có nhiều vết chân lạ. Hỏi những người dân địa phương, họ nói là vết chân hổ. Không có chú Sáng mang súng đi cùng, cô Tụy Phương nghĩ ra cách vừa đi vừa hát và vỗ tay thật to để đuổi hổ. Cô Lan Hương nói hổ sợ tiếng nứa đập vào nhau, thế là các cô chặt nứa, bổ thành các thanh, vừa đi vừa gõ lách cách… Lần khác, cả lớp trên đường đi chơi về trại thì phát hiện hổ đang ăn thịt một con trâu ở bụi lau phía dưới. Bọn con gái khóc thút thít vì
thương con trâu, còn lũ con trai tranh nhau ngó nghiêng, có đứa nhặt hòn đá định ném. Chú Sáng nói: “Khi hổ đang ăn mồi, nó không quan tâm đến xung quanh, nhưng các cháu phải im lặng. Nếu làm nó nghĩ mình định tranh mồi của nó, mình sẽ gặp nguy hiểm.” Thế là cô trò lặng lẽ rời xa chỗ đó.
Đi lạc trong rừng Khe Khao là một trong những chuyện Tự Thắng không thể nào quên. Đầu giờ chiều một ngày nắng đẹp, khi sương mù tan hết, không khí bắt đầu ấm lên, các cô tổ chức đi chơi. Toàn trại xếp hàng đôi, mỗi đoạn lại có một cô đi kèm. Thảo quên mũ trong lớp nên cô Tụy Phương bảo Tự Thắng cùng nó quay lại lấy. Tự Thắng nhanh nhẹn nên hay được cô tin tưởng, giao nhiệm vụ giúp đỡ các bạn. Khi Thảo lấy được mũ, Tự Thắng bảo nó chờ, để mình đi ị. Phía trên dốc, tiếng cười đùa ríu rít. Thảo đợi một lát không thấy Tự Thắng ra nên đi lên đỉnh dốc. Các bạn đã đi khuất, nhưng vẫn nghe thấy tiếng cười đùa từ xa vọng lại. Chờ thêm một lúc vẫn không thấy Tự Thắng lên, Thảo bắt đầu lo lắng. Tiếng cười đùa của các bạn ngày càng xa và nhỏ dần. Sợ bị lạc, Thảo đuổi theo. Nó chạy về hướng trước đó nghe thấy tiếng cười, nhưng không thấy ai. Thảo càng đi tìm, càng lạc sâu vào rừng.
Mặt trời dần khuất sau những ngọn cây. Sương bắt đầu xuống. Mây mù từng lớp kéo về. Rừng trở lạnh. Thảo vừa đi, vừa khóc, vừa gọi Tự Thắng. Nó gọi tới khi lạc hết cả giọng. Mệt lả, Thảo ngồi bệt dưới gốc cây ven bờ suối. Dù rất khát nước, nhưng nó không dám xuống uống, vì nhớ tới đôi trăn trôi trên dòng suối trong hang hôm nào. Đêm hạ tuần tối đen như mực. Những con thú bắt đầu đi kiếm ăn. Tiếng kêu gọi bầy và cả những tiếng gầm gừ trong đêm làm
Thảo rất sợ. Tiếng khóc của nó chìm trong bóng đêm và tiếng gió ngàn, rồi chuyển thành tiếng ư ử trong cổ họng…
Tự Thắng ị xong, chạy lên dốc không thấy Thảo. Đoán Thảo đã đi cùng cả lớp, Tự Thắng đuổi theo. Lúc trước nó nghe cô Tụy Phương nói hôm nay sẽ lên chơi đền Bà chúa Thượng Ngàn, là nơi nó đã được chú Sáng cho đi “tiền trạm”, nên chạy về hướng đó. Tới nơi không thấy Thảo, Tự Thắng hốt hoảng báo với các cô. Cô Tụy Phương lập tức cử cô Lan Hương ở lại với lớp, còn các cô cùng chú Sáng chia nhau đi tìm. Tìm tới khuya vẫn không thấy Thảo. Tuy không nói ra, nhưng trong lòng ai cũng sợ nó bị thú dữ ăn thịt. Ngoài chuyện đó, cô Tụy Phương còn một mối lo nữa. Trước khi đi tìm Thảo, cô đã hỏi đi hỏi lại Tự Thắng lúc về lấy mũ Thảo có mặc thêm áo ấm không, và rất lo lắng khi biết nó chỉ mặc một chiếc áo khoác mỏng. Đêm trong rừng, mặc phong phanh dễ cảm lạnh.
Ở trại, cô Tụy Phương là người rất quan tâm đến cách ăn mặc của các cháu. Việc chăm sóc những đứa trẻ quá kỹ lưỡng đã làm cô bị hiểu không đúng. Có người đưa ra cuộc họp, phê bình cô giáo dục theo kiểu tiểu tư sản, xa rời bản chất giai cấp công nông. Họ dẫn ra việc ngày nào cô cũng bắt thay áo cho các cháu ba lần và rửa đít cho các cháu bằng tay, trong khi đồng bào ở đây chỉ rửa bằng đầu ngón chân. Về chuyện thay áo, cô Tụy Phương giải thích: “Buổi sáng ở Khe Khao nhiều sương lạnh, phải mặc cho các cháu đủ ấm. Trưa trời hửng, các cháu ra nhiều mồ hôi, phải cởi bớt áo ra. Tối trời trở lạnh, phải mặc thêm áo…” Còn chuyện rửa đít bằng tay, cô biết mọi người phản đối chỉ vì quan điểm khác biệt, chứ ai cũng coi các cháu như con mình, và sẵn sàng làm những điều tốt nhất cho các cháu. Vì
vậy, cô kiên trì thuyết phục và trực tiếp dùng tay rửa khi các cháu đi vệ sinh. Theo cô, da các cháu còn mỏng, nếu dùng ngón chân cái ngoáy ngoáy, có thể làm da bị xước, gây nhiễm trùng. Cuối cùng, mọi người cũng ủng hộ cô. Việc làm này vẫn được duy trì cho tới cả khi các cháu chuyển về Trại Nhi đồng Miền Bắc ở Hà Nội.
Khoảng mười giờ đêm, đầu trại có ánh đuốc và giọng nói lao xao. Một nhóm người dân tộc đưa Thảo về trại. Họ đi rừng về muộn, tình cờ nghe như có tiếng trẻ con khóc nên chia nhau tìm và phát hiện Thảo đang ngồi dưới gốc cây. Ban đầu họ hỏi bằng tiếng dân tộc, làm Thảo đã sợ càng thêm sợ. Sau đó, có một người nói bằng tiếng Kinh lơ lớ. Thảo nghe mãi mới hiểu họ hỏi có phải ở Trại Khe Khao không và gật đầu. Thế là mọi người thay nhau cõng nó về trại.
Vì tất cả đều lo tìm Thảo nên mọi sự quan tâm của các cô tập trung vào nó. Đến lúc gặp được Thảo, mọi người mới nhận ra trại còn thiếu một người nữa. Đó là Tự Thắng.
Khi chú Sáng và các cô đi tìm Thảo được một lát, Tự Thắng chạy theo. Lo Thảo lạc trong rừng sẽ bị hổ hoặc báo ăn thịt, nó chạy khắp nơi để tìm, quên cả sợ, quên cả trời đang tối. Đến khi không nhìn thấy đường nữa thì Tự Thắng mới hốt hoảng, gọi cô Tụy Phương và chú Sáng. Tiếng của nó chìm nghỉm trong sương mù mờ mịt. Gió thổi ào ào. Lạnh quá, Tự Thắng vun lá khô dưới gốc cây lại làm ổ, bẻ các cành cây nhỏ phủ lên trên rồi chui vào trong, nằm co ro và ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Cũng may nó nằm cạnh con đường mòn đi rừng của người địa phương nên sáng sớm hôm sau được người dân phát hiện, đưa về trại.
Sau đêm đó, Tự Thắng bị sưng phổi. Cũng vì cái vụ ốm này mà Tự Thắng bị gọi là sờ tờ cờ. Một cái tên đệm khiến Tự Thắng vô cùng tức tối. Tất cả chỉ tại thằng Việt Bắc.
2.
SƠ TÁN
Năm 1954, Hiệp định đình chiến Geneva được ký kết. Đất nước chia cắt thành hai miền qua vĩ tuyến 17. Quân Pháp rời khỏi miền Bắc, Việt Minh rút khỏi miền Nam. Hai bên thỏa thuận sẽ tiến hành tổng tuyển cử một cách tự do và dân chủ để thống nhất đất nước trước tháng 7 năm 1956.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định cuộc tổng tuyển cử sẽ không thể tiến hành theo đúng Hiệp định Geneva. Vì vậy, ông chủ trương cho một số con em cán bộ, bộ đội miền Nam ra Bắc, với dụng ý chuẩn bị lực lượng kế cận cho cuộc chiến đấu trường kỳ. Các Trường Học sinh Miền Nam được thành lập ở Thanh Hóa, Thái Bình, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Hải Phòng, Quảng Ninh…
Để tiếp nhận các cháu bé từ miền Nam ra, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam giao cho cô Tụy Phương, giám đốc Trại Nhi đồng Khe Khao, về Hà Nội thành lập Trại Nhi đồng Miền Nam. Cô được lãnh đạo Thành phố giới thiệu cho một khu đất ở Thái Hà Ấp, phía sau Gò Đống Đa. Nơi đây thoáng mát, xung quanh là hồ. Có hai dãy nhà, tổng cộng mười hai căn, mỗi căn cách nhau năm, sáu mét và một xưởng lớn.
Sau khi xây dựng xong Trại Nhi đồng Miền Nam, cô Tụy Phương được giao tiếp nhiệm vụ thành lập Trại Nhi đồng Miền Bắc để đón
các cháu từ Khe Khao về.
Trại Nhi đồng Miền Bắc ở 20 phố Thụy Khuê, sát Hồ Tây. Trước kia, nơi đây là khu nhà nghỉ cuối tuần của sĩ quan Pháp. Từ ngày Cách Mạng tiếp quản, khu này tạm thời bị bỏ hoang.
Tháng 2 năm 1955, Tự Thắng cùng các bạn trở về Thủ đô. Cùng với số học sinh ở Hà Nội bổ sung, trại có 100 cháu, từ 3 đến 6 tuổi, sinh hoạt theo chế độ nội trú. Bố mẹ nào có điều kiện, cuối tuần có thể đón con về. Không ít cháu từ lúc nhập trại đến lúc ra không được bố mẹ đón lần nào.
Theo quy định, những cháu người miền Nam sẽ được gửi sang Trại Nhi đồng Miền Nam. Việc phân chia này là để các cháu hằng ngày được nghe giọng nói của quê hương, và giúp các cháu không quên mình là một phần của mảnh đất mà một ngày nào đó các cháu sẽ quay trở về. Ban đầu má Việt Bắc định cho nó sang Trại Nhi đồng Miền Nam vì chế độ ở trại bên đó cao hơn trại miền Bắc, do chính sách ưu tiên miền Nam. Nhưng Việt Bắc đã quen với cô, với bạn nên không chịu đi. Nó vẫn tiếp tục ở lại Trại Nhi đồng Miền Bắc cho đến khi tốt nghiệp “đại học chữ to”.
Đầu tháng Tám năm 1964 xảy ra cái gọi là “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ”. Theo những nguồn thông tin khác nhau, đây chỉ là cớ người Mỹ viện dẫn để mở màn chiến dịch dùng không quân đánh phá miền Bắc Việt Nam. Ngày 7/2/1965, Mỹ ném bom thị xã Đồng Hới, Quảng Bình, chính thức mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất. Mục đích của việc ném bom nhằm phá hủy hệ thống giao thông, các cơ sở công nghiệp, lực lượng phòng không của Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa và ngăn chặn sự tiếp viện cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam.
Trừ những cơ quan, đơn vị bắt buộc phải ở lại, người Hà Nội hối hả sơ tán và tổ chức sơ tán cho học sinh, sinh viên. Khi chiến tranh phá hoại trở nên ác liệt, số học sinh miền Nam được sơ tán sang tận Quế Lâm, Trung Quốc. Cùng sang Trung Quốc còn có Trường Thiếu sinh quân Nguyễn Vần Trỗi, đa phần là con em cán bộ trung, cao cấp của trung ương và quân đội. Đó là lứa học sinh được nhà nước đặc biệt quan tâm về việc đảm bảo an toàn.
Tự Thắng và các bạn ở Trại Nhi đồng Khe Khao giờ đã là những học sinh cấp II, cấp III. Trừ một số ít về quê với ông bà, phần lớn sơ tán theo trại của cơ quan bố hoặc mẹ. Một lần nữa, Tự Thắng, Việt Bắc, Thảo… lại đi trại cùng nhau, nhưng lần này không theo trại của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, mà theo cơ quan của bố. Những đứa bé (học sinh cấp I trở xuống) được ở tập trung, có người chăm sóc và học lớp riêng do trại tổ chức. Số còn lại ở nhờ nhà dân và học trường làng. Hầm trú ẩn xuất hiện ngày càng nhiều ở các miền quê thanh bình. Giao thông hào chạy từ cửa lớp ra các hầm chữ A. Mỗi học sinh đến trường đều mang theo một chiếc mũ rơm. Theo hướng dẫn, mũ rơm có tác dụng dảm bảo an toàn cho những vùng quan trọng nhất của cơ thể khi mảnh đạn hoặc các viên bom bi bắn vào. Cùng với thời gian, những chiếc mũ rơm được cải tiến và phát huy thêm tác dụng. Loại rộng vành, được kết bằng những sợi rơm vàng óng, vừa bảo vệ đầu, che nắng, vừa để bọn con gái làm đẹp. Loại tròn đeo lưng bảo vệ cột sống, có thể làm đệm ngồi học hoặc gối
ngủ. Tuy vậy, những chiếc mũ này có khả năng vô hiệu hóa bom đạn của Không lực Hoa Kỳ tới đâu thì chưa bao giờ được tổng kết.
Tự Thắng và Linh được phân ở nhà ông Hải Rắn. Trong cải cách ruộng đất, ông bị quy là Quốc dân Đảng phản động. Nếu không được minh oan vào phút cuối, ông đã bị xử bắn. Từ đó, ông bỏ nghề làm thuốc của cha ông, chuyển sang bắt rắn kiếm sống. Sơn, con trai ông Hải, cũng trạc tuổi hai đứa nhưng đã bỏ học, ở nhà giúp bố. Trong nhà ông Hải lúc nào cũng có những bình rượu thuốc tam xà, ngũ xà. Một lần Tự Thắng, Việt Bắc và Linh đứng xem ông mổ rắn. Ông lấy ba quả tim bỏ vào một cái đĩa. Dù đã bị lấy ra ngoài, mấy quả tim rắn vẫn co bóp không ngừng. Ông Hải nhặt một quả cho vào miệng nuốt chửng, bảo “ăn gì bổ nấy”. Sau khi tợp thêm ngụm rượu, ông chìa đĩa mời bọn trẻ con. Tự Thắng ngần ngừ rồi nhón một quả, nhắm mắt nuốt, còn Linh mặt tái nhợt, chạy ra phía sau nôn thốc nôn tháo. Sau lần đó, không bao giờ Linh xem ông Hải mổ rắn nữa.
Một buổi chiều Chủ nhật ở nơi sơ tán, Linh, Tự Thắng, Việt Bắc, Thảo và Thạch Bột chơi trốn tìm. Trong lúc đi trốn, Linh phát hiện một ổ trứng nhỏ trong cái hốc dưới gốc cây phi lao. Nó định nhặt thì nhìn thấy phía trong có con rắn màu xám đang ngóc đầu, bành mang, thè lưỡi. Linh chạy đi tìm gậy. Khi quay lại, con rắn đã bò đi mất. Linh lấy ổ trứng mang về và kể cho cả bọn chuyện con rắn trong tổ chim.
Sơn cầm mấy quả trứng lên xem và nói:
– Đây là trứng rắn hổ mang. Chim đẻ trên cao chứ không đẻ dưới gốc cây và chỉ đẻ ba, bốn trứng, không đẻ nhiều thế này… Rắn hổ mang là loại thù dai, nhớ lâu. Nếu bọn mày ăn cắp trứng của nó, thể nào ban đêm nó cũng tìm báo thù.
Việt Bắc lo lắng:
– Vậy bọn mình phải đi tìm giết nó ngay.
Tự Thắng tỏ vẻ nghi ngờ:
– Nếu bọn rắn biết báo thù sao tới giờ bố con mày không ai bị cắn?
Sơn chìa ngón trỏ bàn tay phải. Đốt trên cùng gần như bị tụt mất, nhưng vẫn còn một chút móng:
– Ai bảo mày bố con tao không bị cắn? Một lần tao túm cổ con hổ mang cho bố cắt tiết, mổ bỏ bộ lòng trước khi ngâm rượu. Dù đã mất hết máu và tim gan, khi tao đặt xuống đất, nó vẫn ngoái lại xơi tao một phát vào đầu ngón tay.
– Bố mày có bị cắn bao giờ không?
– Nhiều. Hồi mới bắt rắn, bố tao đeo cái bao vải đựng rắn ngang hông. Thế là bị con cạp nia xơi cho một phát. Hai cái răng nanh xuyên qua cả bao lẫn quần. Trong nhà tao ai cũng bị rắn cắn. May mà có thuốc gia truyền chứ không đã lần lượt đi theo ông bà ông vải. Mẹ tao cũng bị rắn lục đuôi đỏ cắn…
Nói tới đó Sơn bỗng ngừng bặt. Linh cầm bàn tay của Sơn và hỏi:
– Sao cắt tiết xong mày không chặt đầu con rắn cho an toàn?
– Bố tao nói ngay cả khi đã bị chặt đứt, cái đầu rắn ấy vẫn có thể cắn mình. Rắn mất đầu không ngâm rượu bán được. – Rắn cắn có đau không?
– Hổ mang cắn giống như tiêm thôi, nhói một cái. Nhưng loại rắn này cực kỳ độc. Người bị nó cắn là hai mắt tối sầm, nhìn mọi thứ đen kịt. Mẹ tao kể một đêm thức dậy cho tao bú, lật chăn lên thấy một đôi rắn cạp nong, khoang đen vàng, to bằng cây mía, nằm cuộn tròn cạnh tao.
Tự Thắng không tin:
– Vô lý, làm gì có chuyện nó chui vào chăn cả đêm mà không cắn mày.
– Rắn chỉ cắn người khi nó bị tấn công thôi.
– Đêm nay mày thử thả hai con vào trong chăn của thằng Linh xem nó có bị cắn không.
– Không được. Khi bắt rắn ra khỏi chuồng, tức là mình đã tấn công nó. Chưa kể thằng Linh có thể đè vào rắn khi ngủ. Với lại rắn lạ mùi nó.
Tự Thắng cười:
– Có khi vì người mày lúc nào cũng sặc mùi rắn nên bọn nó tưởng là đồng loại.
Sơn gật đầu:
– Khi đã quen mùi, mình cho rắn quấn quanh người, nó cũng không cắn.
Mấy đứa lùng sục cả buổi chiều không tìm thấy con rắn đâu. Linh hoàn toàn dửng dưng với câu chuyện của Sơn. Nhưng Tự Thắng thì không. Trước khi đi ngủ, nó soi đèn kiểm tra kỹ các ngóc ngách trong nhà, gầm giường và giũ tung chăn xem có rắn mai phục không. Sau khi giắt màn, Tự Thắng còn cẩn thận lấy gạch đè lên bốn góc.
Những lúc không phải học bài hoặc ngày Chủ nhật, Tự Thắng, Linh và Việt Bắc hay theo Sơn ra đồng bắt chuột và rắn. Những con chuột đồng béo mượt được Sơn lựa chọn, mổ sạch sẽ, tẩm ướp muối cùng lá chanh, lá sả và nướng trên than hoa, là món ăn tuyệt vời của bốn đứa trong ngôi miếu nhỏ giữa đồng. Số chuột còn lại, Sơn bỏ vào bao vải, mang về cho rắn ăn. Nhờ Sơn hướng dẫn tận tình, và học đi đôi với hành, chẳng mấy chốc Tự Thắng và Linh bắt rắn khá thành thạo. Riêng Việt Bắc trước sau như một, dứt khoát không dây với rắn.
3.
TẾT
Cứ gần đến Tết, điều bọn trẻ con sơ tán quan tâm nhất là năm nay có thỏa thuận ngừng bắn hay không. Nếu ngừng bắn, trường sẽ cho học sinh về Hà Nội.
Năm đó, Tự Thắng nảy ra ý định xin ba nó, ông Thiện, cho Sơn về Hà Nội ăn Tết. Nó cũng không ngờ vừa nói là ba đồng ý. Về sau nghe ba kể, Tự Thắng mới biết ba nhận ra ông Hải ngay từ lần đầu gặp, nhưng ông không biết ba. Trong cải cách ruộng đất, ba nó có mặt trong đoàn Thanh tra Chính phủ về kiểm tra đúng ngày ông bị xét xử. Theo ba, đó là một câu chuyện buồn, nếu gia đinh ông Hải không nhắc tới thì đừng gợi lại.
Được về Hà Nội, Sơn vô cùng sung sướng. Ngồi trên ô tô, gặp ai nó cũng vẫy như muốn cho cả làng biết nó được đi Hà Nội ăn Tết. Những ngày giáp Tết, bên bể nước công cộng, mọi người chen chúc vo gạo, đãi đỗ, rửa lá dong, lấy nước dự trữ… Nhà Thảo chỉ gói có bốn chiếc bánh chưng nên cô Thu nhờ má Tự Thắng luộc hộ. Tự Thắng và Sơn nhận nhiệm vụ ngồi canh nồi bánh chưng ở ngoài sân. Gần nửa đêm, Thảo cũng ra ngồi hóng. Dù buồn ngủ díp mắt, nhưng nó chỉ chịu về khi chiếc bánh chưng con được vớt ra. Tết là khoảng thời gian tuyệt vời nhất của bọn trẻ con trong khu tập thể. Chúng được ăn những bữa no và ngon nhất, được gặp lại
bạn cũ. Tụi con gái chơi chuyền, trồng nụ trồng hoa, nhảy dây, nhảy ngựa, ô ăn quan. Con trai chơi đá bóng gôn tôm, bắn bùm, đánh đáo, chơi quay. Quay bằng gỗ là trò du nhập từ nơi sơ tán, còn quay bằng đồng xèng là đặc sản Hà Nội. Nắp chai bia được đập dẹt, đặt lên đường ray tàu điện. Chỉ một lần tàu chạy qua là có đồng xèng mỏng dính. Đục hai lỗ, luồn qua một sợi dây đay, dây gai, hoặc dây chỉ tháo từ vỏ bao xi măng, là có ngay con quay rút. Tự Thắng luôn mài cạnh đồng xèng của mình sắc lẻm, thừa lúc đối phương không để ý, cho xèng cứa đứt dây quay đối thủ. Năm nay còn có thêm trò chọi gà, do mấy thằng sơ tán ở Hà Nam mang về. Riêng trò đánh khăng, ban đầu vẫn chơi nhưng sau đó bị cấm, vì thỉnh thoảng lại có đứa vụt con khăng vào những người đi qua. Tệ nhất là Thảo. Nó vụt con khăng vào giữa mặt chú Tài, bảo vệ khu. Chỉ lệch thêm tí nữa thi chú đã phải khoét một mắt. Thảo không dùng lực cổ tay đánh con khăng như mọi người, mà xoay cả người lấy đà. Sau cú vụt của nó, bao giờ cây khăng cũng vắt ra sau vai. Cách đánh đó tuy mạnh nhưng không chính xác.
Khu tập thể có rất nhiều chuột. Khó chịu nhất là bọn chuột nhắt. Cái gì chúng cũng cắn, từ hộp mứt, gói kẹo, cái bánh chưng đến áo len, gáy sách, thậm chí cả dây điện… Với loại chuột này, mèo khinh không thèm bắt, mà muốn bắt cũng khó, vi chúng quá nhanh lại nhỏ, thoắt ẩn thoắt hiện ở những chỗ mèo ít qua lại như bàn thờ, giá sách, ngăn kéo, tủ quần áo. Mặt khác, lũ mèo được chiều nên ngày càng lười biếng. Chúng quen với việc cọ người vào chân chủ, ngước cặp mắt trong veo lên chớp chớp khi bữa cơm được dọn ra thay vì đuổi, lao, vồ, cắn kẻ thù để thỏa mãn cái dạ dày, nên mất
dần bản năng chiến đấu. Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn tới sau này hậu duệ nhà mèo được phong làm “tiểu hổ”, sánh ngang với chó trong việc trèo lên đĩa trong các quán nhậu bình dân.
Tết này, trật tự trong nhà Tự Thắng và Việt Bắc được lập lại, khi những chuyên gia săn chuột từ nơi sơ tán trở về. Chuột lớn đến chuột bé trong nhà lần lượt bị hai đứa tóm hết. Thay bằng đập chết lũ phá hoại này, Tự Thắng nghĩ ra trò “đốt xe tăng địch”. Đó là buộc giẻ tẩm dầu hỏa vào đuôi những con chuột to rồi châm lửa. Bọn trẻ con đứng trong sân, mỗi đứa cầm một cái que, xua con chuột chạy lòng vòng quanh mấy bức tường, hò reo ầm ĩ. Theo Tự Thắng, làm thế những con khác sẽ sợ, không dám vào nhà nữa.
Chiều 29 Tết, Sơn tóm được một con chuột đang tìm cách cạy vung nồi thịt đông. Con này to và đen như Hắc toàn phong Lý Quỳ trong truyện Thủy hử. Tự Thắng cẩn thận tăng thêm số vải tẩm dầu buộc vào đuôi chuột. Khi quả cầu lửa bùng cháy, “Lý Quỳ” cuống cuồng lao thẳng qua rừng chân trước mặt rồi phóng lên cầu thang như một cơn lốc. Sau ba cú chuyền, nhảy, nó phi xuống mái nhà tắm. Cú rơi từ trên cao làm con chuột lăn mấy vòng rồi ngất xỉu. Ngọn lửa nhanh chóng bùng lên trên nóc mái nhà lợp bằng giấy dầu. Khói đen kịt bốc lên nghi ngút. Nếu lửa lan sang dãy nhà tập thể một tầng bên cạnh, có nguy cơ cháy cả khu.
Nhìn nhà tắm bốc cháy, Việt Bắc phóng tới chiếc kẻng, làm bằng vỏ quả bom ở gần phòng bảo vệ, đánh liên hồi. Cả khu tập thể nhốn nháo. Tự Thắng vớ đại một chiếc quần chẳng biết của ai trong chậu giặt, leo lên mái nhà tắm dập lửa. Sơn làm theo, vơ hai cái áo hoa
mới, vừa may để mặc Tết của chị em cái Huyền, đập lấy đập để vào chỗ cháy. Mấy bác lớn tuổi chuyền các xô nước lên cho hai đứa hắt vào ngọn lửa. Từ trong nhà tắm thơm sực nước lá mùi già, các cô, các chị chạy túa ra. Người che bằng tay, người che bằng khăn, người che bằng xô, người che bằng chậu, che trên hở dưới, che dưới hở trên, làm buổi chữa cháy náo nhiệt như đi xem hội.
Tối hôm đó, mẹ cái Huyền dẫn hai đứa con gái nước mắt lã chã sang nhà Tự Thắng. Má Tự Thắng phải đền tờ phiếu vải 4 mét*. Tiền mua vải và công may thì thôi, vì dù sao hai cái áo ấy sau khi giặt sạch, vá lại vài chỗ vẫn còn dùng tạm được.
Nhưng ấn tượng nhất vẫn là trò chơi phóng tàu vũ trụ. Trò này do Thống Nhất, anh trai Tự Thắng nghĩ ra. Thống Nhất cho mình là người lớn, coi khinh các trò chơi quay, đánh đáo, bắt dế, bắt chuột. Nó gạ anh Hoàng Minh, một kỹ sư tên lửa đang tán tỉnh chị Hòa Bình, làm giúp cho một quả tên lửa để phóng vào đêm giao thừa.
Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn được cô chị phải chiều cậu em. Anh Hoàng Minh sốt sắng nhận lời. Anh còn tỏ ra nhiệt tình tới mức hứa làm cho Thống Nhất hẳn một con tàu vũ trụ. Để giữ bí mật, tàu được làm ở trong nhà anh. Tàu có ba khoang. Mỗi khoang tạo thành từ nhiều lớp giấy, được bồi bằng hồ gạo. Cấu tạo như vậy giúp cho khoang có trọng lượng nhẹ, dễ phóng lên cao. Vỏ ngoài của khoang được bọc bằng các loại giấy màu, trông rất bắt mắt. Cái dù gắn ở khoang trên cùng. Khoang này có một ô cửa bằng giấy bóng kính cho phi công quan sát. Phi công là những chú dế chọi đen nhánh. Để đủ trọng lượng kéo căng dù khi bung ra khoảng không,
khoang phi công được gắn thêm một hòn sỏi. Lũ dế phải thi đấu qua các vòng. Con vô địch được tuyển làm phi công.
Chế tạo dù là khâu cầu kỳ nhất. Anh Hoàng Minh vẽ đi vẽ lại kiểu. Hết dùng dây thép lại chuyển sang cật tre để làm gọng. Anh cắt nát cả chiếc khăn dù trắng, kỷ niệm của bố trước lúc đi chiến trường. Có thể nói, chiếc dù của anh Hoàng Minh là một tuyệt phẩm. Khi đi cứu phi công, bọn trẻ con trong khu tập thể chỉ nhăm nhăm cướp cái dù.
Khoang dù được nối với khoang thứ hai bằng một sợi dây chun nhỏ. Khi bốc cháy, khoang này sẽ tách khỏi khoang dù. Khoang thứ ba là khoang chứa thuốc phóng, đặt trên một bệ có ba chân, uốn bằng dây thép. Bạn của Hoàng Minh bên kho quân khí cho anh mấy viên đạn để tháo lấy thuốc phóng. Loại thuốc đầu tiên cháy nhanh quá, anh Hoàng Minh phải đổi đi đổi lại mấy lần mới tìm ra loại thích hợp.
Khi con tàu đầu tiên hoàn thành, thấy vẫn còn nhiều vật liệu thừa, Thống Nhất năn nỉ anh Hoàng Minh “chuyển giao kỹ thuật” chế tạo cho mình. Đang sẵn sàng làm tất cả để chứng minh tình yêu với chị Hòa Bình, anh Hoàng Minh cho luôn Thống Nhất chỗ vật liệu còn lại và hướng dẫn nó rất tỉ mỉ. Gọi là “chuyển giao kỹ thuật”, nhưng thực chất là anh ngồi làm cùng với nó.
Tàu vũ trụ được phóng vào 9 giờ tối đêm 30 Tết. Dây cháy chậm, gồm những sợi pháo dây nối với nhau. Nhìn những tia nhỏ li ti nhảy múa trên đường dẫn tới bệ phóng, đứa nào cũng cảm thấy hồi hộp và phấn khích. Ngọn lửa bùng lên và con tàu bay vút vào không trung. Ở độ cao khoảng một trăm mét, dù bung ra. Tàu của
Thống Nhất còn phóng cao hơn cả tàu của anh Hoàng Minh, do tăng thêm lượng thuốc vào khoang phóng.
Tuy vậy, loại tàu vũ trụ này cũng có nhược điểm. Đó là tất cả các phi công dế đều tử nạn do không được cấp đồ bảo hộ thích hợp để chống lại sức nóng của thuốc phóng lên tới trên ngàn độ… Đã chiến tranh thì phải biết chấp nhận hy sinh. Chắc các phi công dế cũng hiểu được chết trên bầu trời phố Lý Nam Đế khi làm nhiệm vụ là một vinh dự vô cùng to lớn.
Khi anh Hoàng Minh và Thống Nhất chế tạo tàu vũ trụ, Tự Thắng và Sơn luôn ngồi bên cạnh xem. Sơn xin Thống Nhất một ít thuốc phóng để làm “đạn” cho khẩu súng lục gỗ, có bộ phận điểm hỏa làm từ chiếc van xe đạp. Khi dùng thuốc lấy ra từ những viên đạn, tiếng nổ to hơn hẳn loại thuốc cạo từ đầu que diêm hoặc rút ruột quả pháo đùng. Tự Thắng ngạc nhiên khi thấy Sơn rất say sưa với những gì liên quan đến súng ống, thuốc nổ. Nó ngồi chăm chú xem ba Tự Thắng lau khẩu súng săn, hỏi hết cái nọ đến cái kia. Khi ở nhà chỉ có hai đứa, nó cầm cây súng lên ngắm nghía mãi không chán. Tự Thắng nói:
– Những lần đi công tác ở vùng rừng núi, bao giờ ba tao cũng mang theo súng để bắn chim.
– Nhà mày có nhiều đạn không?
Tự Thắng lấy chiếc chìa khóa mẹ giấu trên nóc tủ, mở ngăn kéo, lấy hộp đạn cho Sơn xem. Nó nói với vẻ tự hào:
– Đạn này ba tao và tao tự chế tạo đấy.
Tất nhiên Tự Thắng nói thế cho oai. Khi ba làm đạn, nó chỉ ngồi hóng bên cạnh, thỉnh thoảng được ba sai vặt. Thấy Sơn tỏ vẻ thán phục, Tự Thắng càng tỏ ra mình hiểu biết. Nó giảng giải:
– Để làm đạn săn, đầu tiên phải có chì… Chì được nấu chảy, đổ vào dầu qua một tấm lưới kim loại. Gặp dầu lạnh, những giọt chì quay tròn, tạo thành các viên bi, to hay nhỏ tùy thuộc vào mắt lưới. Hòn chì phải tròn, khi bắn mới đi thẳng. Khi dầu nóng lên, viên chì trông như hạt chanh.
– Trong mỗi viên đạn có bao nhiêu hòn chì?
– Cũng tùy. Số lượng hòn chì trong một viên đạn có thể nhiều hoặc ít, nhưng trọng lượng chì không được thay đổi. Bắn hổ dùng loại đạn 1 hòn chì, bắn hoẵng dùng loại 9 hòn, bắn ngỗng trời 15 hòn, còn chim nhỏ thì dùng loại vài chục hòn…
– Các viên đạn bên ngoài đều giống nhau, làm sao phân biệt được viên nào bắn chim, viên nào bắn hổ?
– Ba tao đánh số các viên đạn và để riêng từng gói. – Viên đạn này có đầu nhọn bằng sắt. Khi đổ các viên chì vào thì tháo đầu đạn vứt đi à?
– Vứt đi chứ giữ làm gì.
Sơn thắc mắc:
– Để bắn chim phải làm đạn ghém bằng chì, nhưng để bắn hổ tại sao không dùng luôn đầu đạn nhọn, lại bỏ đi, thay một hòn chì vào?
Tự Thắng không biết trả lời thế nào. Những điều nó giải thích cho Sơn chỉ là kể lại những gì được ba giảng giải trong lúc nấu đạn.
Sơn nói:
– Ở chỗ tao, thợ săn không bao giờ dùng súng săn bắn chim. Thú nhỏ cũng không bắn. Mỗi viên đạn của họ phải đổi một con hổ, cùng lắm cũng là hươu, nai, sơn dương. Mày có biết bắn súng không?
– Tất nhiên. Bắn nhiều là khác, nhưng chỉ bắn chim thôi. Tao tiếc là chưa gặp được con hổ nào khi đi săn.
Thực ra, dù ba hướng dẫn Tự Thắng cách sử dụng súng khá kỹ, nhưng cũng mới cho nó bắn chim có hai lần.
– Nhà thằng Sính con chú Lễ, em họ bố tao, cũng có một khẩu giống hệt khẩu này. Chú Lễ đổi một bộ xương hổ lấy khẩu súng. Nhưng khó kiếm đạn lắm.
– Các chú ở đơn vị cho bố tao cả thùng.
– Từ khi chú Lễ mất, súng nhà thằng Sính để không. Mày có thể xin ba vài viên đạn không? Chỉ cần đạn bắn chim thôi. Mình sẽ mượn súng nó đi bắn. Tao biết một nơi có nhiều chim lắm. – Được chứ.
Sở dĩ Tự Thắng nói vậy vi nó biết ba chẳng bao giờ đếm trong ngăn kéo có bao nhiêu đạn. Lấy vài viên ba cũng chẳng biết. Trước hôm lên trại, nghĩ mình đã học được cách làm tàu vũ trụ, Tự Thắng xin Thống Nhất hai viên đạn thừa để lấy thuốc phóng. Thống Nhất không đồng ý vì nghĩ cho bọn nhóc con chơi với đạn và thuốc nổ lành ít, dữ nhiều.
Xin không được, Tự Thắng thủ luôn chục viên đạn của ba mang đi. Nó dự định ngoài đi săn sẽ tháo lấy thuốc phóng để làm tàu vũ
trụ. Có thể thuốc này không tốt bằng của đạn trung liên, đại liên, nhưng tàu không bay cao thì bay thấp cũng có sao. Nếu nó phóng trên đỉnh đồi Nùng thì còn cao bằng mấy lần anh Thống Nhất phóng ở sân khu tập thể.
4.
KÍP NỔ
Trở lại nơi sơ tán sau nghỉ Tết, Tự Thắng bàn với Linh và Sơn kế hoạch chế tạo tàu vũ trụ. Nó nói sẽ lấy thuốc phóng từ đạn súng săn, nhưng nếu kiếm được đạn trung liên hay đại liên thì tốt hơn. Theo Tự Thắng, ở đâu bộ đội đóng quân thì ở đó có đạn.
Đã chứng kiến cảnh con tàu vũ trụ cùng một vệt lửa dài phóng vào bầu trời sâu thẳm, trong tiếng pháo nổ đì đùng đêm 30 Tết, Sơn vô cùng hào hứng. Nó hình dung ra cảnh cả bọn lao đi bắt phi công dế khi chiếc dù bung ra trên đỉnh đồi Nùng. Sau Tết, mối quan hệ của Sơn với Tự Thắng ngày càng thân thiết. Không nói ra nhưng Sơn luôn cảm thấy tự hào vì mình được lên Hà Nội ăn Tết, một điều mà trẻ con cả xã không đứa nào dám mơ. Đã thế Sơn còn được nhận tiền mừng tuổi. Lần đầu tiên trong đời nó có đồng tiền riêng của mình.
Nghe Tự Thắng nói về việc kiếm đạn để lấy thuốc phóng, Sơn chợt nhớ lại chuyện xảy ra năm ngoái. Khi đó chú Lễ vẫn còn sống. Sơn với Sính theo chú đi săn. Chú Lễ bắn bị thương một con hoẵng. Hai đứa đuổi theo vết máu. Con hoẵng chạy vào một cái hang nhỏ khuất sau phiến đá. Nó không đi về cuối hang mà chui tọt vào một ngách bên hông. Nghĩ con hoẵng đã vào lối cụt, hai đứa chui theo. Không ngờ ngách này lại thông sang một cái hang lớn, chứa rất nhiều súng và các hòm bọc kín. Chắc người giữ kho không biết có lối
thông, vì nó chỉ là một lỗ nhỏ ở trên cao, bị những hòn đá lởm chởm đằng trước che lấp. Từ ngày Mỹ ném bom miền Bắc, vùng này có khá nhiều đơn vị bộ đội về đóng quân, nhưng đều ở trong núi, cách biệt dân làng. Sơn kể lại với Tự Thắng và nói nếu cần đạn để lấy thuốc phóng, có thể tới đó kiếm.
Linh phì cười:
– Mày cứ làm như đi kiếm củi hay mót lúa không bằng. Nói thẳng là đi ăn trộm cho xong.
Một buổi sáng Chủ nhật, khi sương mù còn bao phủ, Sơn dẫn Tự Thắng và Linh đi sâu vào dãy núi Long Ẩn. Đường xa, khó đi. Dù trời lạnh nhưng người đứa nào cũng đầm đìa mồ hôi. Cây cối mọc um tùm, che lấp cửa hang. Sơn phải tìm một lúc lâu mới thấy lối vào. Ba đứa lần theo cái ngách nhỏ ngày trước con hoẵng chạy trốn, tới kho vũ khí. Tự Thắng soi đèn pin, nạy nắp một số hòm, nhưng không tìm thấy loại đạn giống của anh Hoàng Minh. Đi tiếp vào phía trong, Sơn phát hiện một cái giá xếp những cây súng giống hệt khẩu súng săn ở nhà Tự Thắng. Cạnh đó là mấy hòm sắt, viết chữ nước ngoài và số 120. Tự Thắng nạy ra, thấy đúng cỡ đạn ở nhà mình. Nó làm luôn một vốc đút túi, “để phòng khi đi săn gặp hổ”, rồi bảo Linh:
– Mày đứng ngoài này gác, thấy động thì báo. Tao và Sơn vào trong tìm loại đạn to hơn. Đạn to thuốc phóng mới mạnh. Tự Thắng nói vậy, chứ đâu có hiểu gì về thuốc phóng, thuốc nổ. Nó chỉ nhăm nhăm tìm đúng loại đạn giống của anh Hoàng Minh. Hai đứa cạy thêm một số hòm. Toàn đạn pháo lớn. Cuối cùng Tự Thắng đành chọn mấy viên đạn cỡ nhỏ hơn, chẳng biết là đạn gì. Thấy cái hòm gần đó đề “kíp nổ”, nó mở ra xem. Bên trong chứa
những ống kim loại hình trụ bằng đồng, to hơn mấy viên đạn vừa lấy. Nghĩ kíp nổ cũng giống đạn, nó bốc đại mấy cái. Hai thằng quay ra. Linh đứng chờ ở lối thông sang hang bên kia, tay cầm một khẩu súng. Tự Thắng giật mình:
– Mày ăn cắp súng à? Không được đâu.
Linh tự ái:
– Tao thèm gì ăn cắp. Mày lấy đạn được, tao cũng lấy súng được.
– Đạn chỉ là thứ lặt vặt, súng là vũ khí quân sự. Lấy vũ khí quân sự tội nặng lắm.
– Khẩu này là súng săn, giống cây súng của ba mày ở nhà, không phải vũ khí quân sự. Thấy mày lấy đạn nên tao mới lấy súng, đỡ phải đi mượn.
– Không phải súng săn đâu. Ba tao nói đây là súng Mỹ trang bị cho lực lượng phòng vệ dân sự của Việt Nam Cộng hòa, bên mình thu được. Loại súng này bắn phát một, dùng trong công tác huấn luyện.
– Đằng nào sau này mình đi bộ đội cũng sẽ được huấn luyện bằng súng này. Lấy một khẩu tập luyện trước có sao. Sơn cũng không đồng ý lấy súng. Nó nói:
– Trả lại đi. Bị phát hiện là tù đấy.
Linh dỗi:
– Bọn mày không lấy thì thôi, để tao trả!
Một tuần sau, Tự Thắng hoàn thành hai khoang tàu vũ trụ. Trước khi làm tiếp khoang thứ ba, nó hẹn Việt Bắc và Linh buổi tối ra ngôi
miếu hoang đốt thử thuốc phóng.
Mới hơn sáu giờ chiều nhưng căn miếu đã tối om. Tự Thắng mang theo những viên đạn và số kíp nổ lấy hôm trước. Nó đưa một cái kíp nổ và một viên đạn cho Linh, số còn lại đút vào túi áo ngực. Linh chẳng lạ gì mấy thứ này nên chuyển cho Việt Bắc. Lần đầu nhìn thấy kíp nổ, Việt Bắc vặn to chiếc đèn bão để ngắm cho kỹ. Xem xong, nó tiện tay gác cái kíp lên nắp che của đèn và lấy viên đạn ra. Việt Bắc vừa buông tay, một ánh chớp lóe lên, kèm theo tiếng nổ. Chiếc đèn bão vỡ tan, vung vãi lửa ra bốn bề. Việt Bắc hứng trọn các mảnh đồng vụn từ chiếc kíp nổ. Nếu không có cái áo trấn thủ, ngực nó đã thủng lỗ chỗ. Một mảnh đồng nhỏ bắn vào mắt trái Việt Bắc.
Ban đầu Tự Thẳng tưởng mình không sao, nhưng sau đó thấy hơi đau ở bẹn khi cử động và đũng quần ươn ướt. Nó kiểm tra và phát hiện thứ nước đo đỏ, nhơn nhớt ở đũng quần của mình là máu. Lúc chiếc kíp phát nổ, Tự Thắng đang đứng nên chim đúng tầm văng của mảnh đồng. Nếu vết thương sâu thêm chút xíu nữa là nó bị cứa đứt chim. May mà số kíp còn lại Tự Thắng đút trong túi áo không bị kích nổ.
Linh bị mấy mảnh đồng nhỏ găm vào mặt.
Một xe com măng ca quân sự chở cả bọn về Viện Quân y 108 trong đêm. Trước khi lên xe, Tự Thắng lén vứt hết số kíp nổ và đạn đi. Nó không ngờ hành động phi tang vật chứng của mình dẫn tới không biết bao điều rắc rối về sau.
Tới bệnh viện, ba đứa được đưa thẳng vào phòng cấp cứu. Mảnh đồng văng vào mắt Việt Bắc tuy nhỏ, nhưng găm đúng con ngươi. Vì
vậy, mắt trái Việt Bắc ngày càng mờ đục và cuối cùng hỏng hẳn. Do không giữ vệ sinh, vết thương của Tự Thắng bị nhiễm trùng. Nó sốt mê man mấy ngày. Sau này Việt Bắc kể suýt nữa Tự Thắng đã bị cắt chim, biến thành con gái, có ti to như cái Thạch Bột. May mà má Tự Thắng nhờ được giáo sư Phan trực tiếp chữa. Giáo sư Phan là người đầu tiên ở Việt Nam biết cách nối chim khi bị đứt. Người ta nói ông còn biết làm ra cả những cái chim mới cho bộ đội bằng phương pháp Philatop.
Sau khi cả bọn ra viện, trại tiến hành kiểm điểm vụ đốt kíp nổ. Tự Thắng nhận hết tội. Nó khai với bác trại trưởng là hôm Tết xin được cái kíp nổ từ một chú bộ đội. Hỏi chú bộ đội tên gì nó không nhớ, chỉ biết là người quen của bố tới nhà chơi. Bố Tự Thắng đang ở chiến trường nên không thể giúp làm sáng tỏ sự việc. Tự Thắng bị kết tội nghịch thuốc nổ gây nguy hiểm và bị điều lên Nhà Kỷ luật.
5.
NHÀ KỶ LUẬT
“Nhà Kỷ luật” là một khu vườn trên đồi, gần nơi ở của các thầy cô giáo. Có hai căn lán, một dành cho những đứa mắc khuyết điểm, một là chỗ ở của thầy Khải.
Thầy Khải trước kia là bộ đội lái xe. Trong chuyến xe cuối cùng, thầy nhận nhiệm vụ đón một đoàn học sinh miền Nam vượt Trường Sơn ra Bắc. Đoàn xe tải của thầy chở các cháu từ Vĩnh Linh, vùng đất đầu tiên bên này giới tuyến, ra Ủy ban Thống nhất ở Hà Nội. Xe có mái che và lá ngụy trang, mỗi xe hai chục người. Rơm được đưa lên xe. Bọn trẻ con ăn trên rơm, ngủ trên rơm, nôn trên rơm, lạnh đắp rơm. Tưởng tới miền Bắc là an toàn, hóa ra nguy hiểm cũng chẳng kém. Để tránh máy bay Mỹ, xe chỉ lên đường khi nhập nhoạng tối. Chủ yếu đi ban đêm. Một hôm, đang đi trên đường 15 thì gặp máy bay. Đoạn này khá trống trải. Thầy Khải dừng xe, bắt tất các cháu xuống, chia cho các xe phía sau. Một mình thầy lái xe rẽ sang hướng khác. Được một đoạn, thầy cho xe phóng hết tốc lực và bật pha sáng quắc. Máy bay đuổi theo bắn rocket. Xe bốc cháy và lật, hất thầy văng ra ngoài. Thầy mất một tay, sát tới vai, nhưng đoàn xe chở các cháu được cứu thoát. Ra viện, thầy xin chuyển ngành, được phân về trại. Ngoài dạy học cho bọn học sinh cấp I, thầy được giao phụ trách Nhà Kỷ luật. Những đứa bị đưa lên đây đa phần là rạch trời rơi xuống, nhưng đều quý thầy Khải và rất thích
nghe thầy kể chuyện chiến đấu. Tối tối, thầy dành thời gian chuyện trò, tâm sự, phân tích những sai phạm và vạch phương hướng sửa chữa cho từng đứa một.
Khi Tự Thắng tới Nhà Kỷ luật thì Hoài Nam đã ở đó. Hoài Nam mắc tội đánh Việt Trung chảy máu đầu. Chẳng hiểu vì chuyện gì, hai đứa cãi nhau kịch liệt. Bị Hoài Nam nói những câu khinh bỉ, Việt Trung tức quá, gọi nó là “đồ xét lại”. Hoài Nam nổi điên, vớ chiếc ghế đẩu quật vào mặt Việt Trung. Cả lớp ngơ ngác. Không ai biết “xét lại” là gì mà làm Hoài Nam tức giận đến thế.
Tự Thắng lên Nhà Kỷ luật được hai hôm thì Linh và Việt Bắc lần lượt xách ba lô nhập bọn.
Tội của Linh đúng là từ trên trời rơi xuống. Đó là tội “làm chết trâu ngoài ý muốn”. Ngày Chủ nhật, một số đứa ở trại sơ tán hay lên đồi xem bộ đội tập. Chú Chính trị viên đơn vị vốn là lính cũ của ba Thảo. Vì bọn sơ tán toàn con nhà lính, có cháu ba còn là “thủ trưởng của thủ trưởng” nên các anh bộ đội cũng dễ dãi. Bọn chúng được vào gần khu vực bộ đội luyện tập để xem. Thỉnh thoảng giờ giải lao, có anh còn hướng dẫn Thảo và Thạch Bột tập bắn súng. Thạch Bột tập hai buổi thì bỏ. Ngược lại, Thảo đặc biệt say mê môn này.
Linh, Tự Thắng và Việt Bắc thích theo Sơn bắt rắn, bắt chuột hơn lên đồi chơi. Sau hôm Tự Thắng phải lên Nhà Kỷ luật, Thảo và Thạch Bột rủ Linh và Việt Bắc đi xem bộ đội tập. Giờ giải lao, cả lũ xúm xít xung quanh các anh tân binh tán chuyện dưới các gốc cây. Khu vực này chỉ có bộ đội và học sinh sơ tán, nên khi tập xong, các anh vẫn để nguyên súng tại chỗ. Linh không hay la cà, chuyện trò
với người lạ nên ra một góc ngồi. Thảo ra dấu cho Linh theo nó. Hai đứa chạy dọc theo giao thông hào, tới bãi tập. Thảo rủ: – Mình tranh thủ lấy súng tập bắn đi anh. Khi nào có kẻng báo tập, mình cất về chỗ cũ. Em vẫn làm thế. Không ai để ý đâu. Nói đoạn, nó lấy một khẩu AK-47 trên giá súng, chạy ra bệ tập ngắm. Linh cũng làm theo. Dưới chân đồi, có một thằng bé ngồi dưới gốc cây thổi sáo, cạnh đó là con trâu đang gặm cỏ. Ban đầu Linh hướng nòng súng về phía con trâu, nhưng thấy mục tiêu to quá, nó rê nòng súng sang phía thằng bé và bóp cò. Một tiếng nổ đanh xé gió. Không ngờ trong ổ đạn vẫn còn một viên. Dưới chân đồi, con trâu lăn đùng ra, giãy đành đạch. May mà Linh nhằm vào thằng bé nên con trâu chết. Nó mà nhằm vào con trâu, có khi thằng bé đã trúng đạn.
Tất cả trận địa nháo nhào. Các anh bộ đội lao ra chỗ để súng. Thảo đã chạy mất từ hồi nào, bỏ mặc Linh đứng ngẩn ra ở đó. Một lúc sau, bọn trẻ con thấy phía trên yên ắng, bắt đầu mò đến. Các anh bộ đội đang vây quanh Linh. Thảo cũng quay lại, nấp sau gốc cây nghe ngóng. Chú Chính trị viên giải thích: “Không có chuyện gì đâu. Các cháu tập ngắm, không biết trong súng còn một viên đạn. Đó là sơ suất của anh em… Mọi người giải tán. Nhớ giữ bí mật chuyện này, đừng nói với ai.”
Mặc dù chú đã dặn giữ bí mật, nhưng chỉ một lúc sau, tất cả trại đều biết chuyện. Một viên đạn giá trị bằng mười cân gạo, và mỗi viên đạn là một quân thù. Như vậy, sáng nay Linh đã ăn hết mười cân gạo và làm mất cơ hội diệt một quân thù, có thể là hai nếu bắn xuyên táo. Trại phải bỏ tiền đền con trâu chết. Bù lại, mọi người
được chén mấy bữa thịt trâu. Dù chú Chính trị viên nói các cháu chỉ nghịch thôi, lỗi là tại các chú, Linh vẫn bị điều lên Nhà Kỷ luật. Bị phạt thế Linh càng thích. Nó đang muốn lên Nhà Kỷ luật với Tự Thắng cho vui.
Chuyện Việt Bắc phải lên Nhà Kỷ luật lại khác. Chả hiểu sao những chuyện làm mọi người nhớ tới Việt Bắc đều liên quan đến ị với tè.
Chiều thứ Hai, thầy giáo ốm nên lớp được nghỉ học. Bọn con trai rủ nhau tới Nhà Kỷ luật thăm Tự Thắng, Linh và Hoài Nam. Thảo và Thạch Bột đi theo. Đêm qua gió mùa Đông Bắc về nên trời khá lạnh. Trời lạnh thì hay buồn đi tiểu. Nếu chỉ con trai với nhau, chắc Việt Bắc đã tè ngay bên vệ đường. Vì có hai đứa con gái nên nó cố nhịn. Có lẽ vì nhịn tiểu nên dẫn tới buồn ị, hoặc do hôm trước ăn phải cái gì ôi thiu, bụng Việt Bắc đau quặn. Tới khi gặp nhà vệ sinh thì bên trong lại có người.
Buồn tiểu là một căn bệnh đột xuất và hay lây. Đang yên lành không sao, chỉ cần một đứa khởi xướng, nhiều đứa tự dưng có nhu cầu. Cửa nhà vệ sinh vừa mở, Thạch Bột lao ngay vào, còn Thảo chạy luôn đến xếp hàng. Đang sắp ị ra quần, đến lúc chuẩn bị vào nhà vệ sinh lại có đứa tranh khiến Việt Bắc phải nghiến răng, thót bụng, mặt mũi tím tái. Khi Thạch Bột vừa hé cửa, Việt Bắc lập tức xông tới, gạt Thảo sang một bên để vào trước. Vì vội, lại quáng mắt do từ chỗ sáng bước vào chỗ tối, Việt Bắc trượt chân. Cú ngã khiến nó đập mông vào cái chỗ màu vàng có rất nhiều con trăng trắng mà người ta vẫn gọi là dòi. Không đứa nào nhịn được cười khi Việt Bắc lồm cồm bò dậy, quần bê bết những thứ ướt và nhão. Thảo vỗ tay
hoan hô ầm ĩ. Thật đáng đời, ai bảo đi tranh với con gái. Việt Bắc vô cùng bẽ bàng. Bao nhiêu cay cú nó trút cả vào cái nhà vệ sinh. Thấy Việt Bắc đã chập ba que diêm làm một mà lửa vẫn không bén vào mái lá, Thạch Bột lấy trong túi bài kiểm tra Toán được điểm 10, dành chờ mẹ lên khoe lĩnh thưởng, đưa nó mồi. Chỉ tới khi mái nhà bốc cháy, Việt Bắc mới sực nhớ đáng lẽ phải ị xong hãy đốt. Nhịn gì còn được chứ buồn ị đến điểm ngưỡng rất khó kiếm chế. Tuy đã mím môi thót bụng hết cỡ, cuối cùng Việt Bắc vẫn tương ra quần. Đành rằng ở đời ai mà chẳng có lúc ị đùn, nhưng ị đùn ở tuổi của Việt Bắc thì chỉ có mỗi nó. Giữa đỉnh đồi lộng gió, cái nhà vệ sinh bốc cháy ngùn ngụt. Cả lũ bỏ chạy tán loạn, quên luôn việc đi thăm mấy đứa bị kỷ luật.
Trong lúc chờ làm lại nhà vệ sinh, thầy Khải và bọn ở trong Nhà Kỷ luật phải ra đồi ị. Dù thầy Khải dặn để giữ vệ sinh, ị xong phải lấp đất lên, nhưng chả đứa nào buồn lấp.
6.
ĐI TRỐN
Sau vụ học sinh trại sơ tán đốt kíp nổ, chỗ nào cũng thì thào chuyện súng, đạn và thuốc nổ của bộ đội bị đánh cắp. Có tin đồn trong quá trình vận chuyển vũ khí đem giấu, bọn biệt kích đánh rơi đạn và kíp nổ đầy vệ đường. Tất cả các đơn vị quân đội trong vùng được lệnh kiểm kê. Một số đơn vị báo cáo đạn và kíp nổ trong kho không khớp với sổ sách.
Trong thời chiến, mọi người đều được giác ngộ về tinh thần cảnh giác, giữ gìn bí mật. Phong trào “ba không” khởi nguồn từ kháng chiến chống Pháp vẫn phát huy tác dụng trong cuộc chiến tranh chống Mỹ. Khi người lạ hỏi, tất cả đều trả lời “không nghe”, “không thấy”, “không biết”. Nhưng đó là cảnh giác với người ngoài, còn nội bộ thì khác. Trong nhà chưa tỏ, ngoài ngõ đã tường. Chả biết nguồn tin từ đâu, cán bộ điều tra sẽ về làm việc với trại vụ lấy trộm vũ khí, kíp nổ.
Tin đồn đến tai Sơn. Nó hớt hải chạy ngay lên Nhà Kỷ luật thông báo. Tự Thắng trấn an:
– Chắc họ điều tra vụ ăn cắp nào đó. Bọn mình chỉ lấy có mấy cái kíp nổ và đạn chứ có lấy vũ khí gì đâu.
Linh ngần ngừ một lúc rồi nói:
– Tao sợ họ không tìm thấy khẩu súng tao cất trong khe đá.
Tự Thắng ngạc nhiên:
– Thế hôm đó mày không trả súng vào chỗ cũ à?
– Khi tao đang tới chỗ để súng thì nghe có tiếng chân người. Vì vậy tao dúi khẩu súng vào khe và chạy luôn.
– Thế mà mày chả nói gì cả.
– Thì cũng coi như đã trả lại rồi, súng vẫn trong kho của họ. – Nếu không tìm được khẩu súng, họ sẽ nghi ngờ bị biệt kích đột nhập lấy cắp và sẽ tiến hành điều tra. Bây giờ có nhiều gián điệp, biệt kích được tung ra miền Bắc lắm.
Việt Bắc nói:
– Nếu họ phát hiện bọn mày đột nhập kho quân sự, ăn cắp súng, đạn, kíp nổ thì lôi thôi to.
Sơn tỏ ra lo lắng:
– Hồi cải cách ruộng đất bố tao bị bắt giam. Dù đã được minh oan, nhưng cán bộ ở xã vẫn thành kiến. Nay tao mắc tội dẫn bọn mày đi ăn cắp vũ khí của quân đội, bố con tao chắc khó mà yên thân.
Hoài Nam hỏi:
– Bố mày là địa chủ à?
– Bố tao bị nghi là Việt gian, Quốc dân Đảng, nhưng sau đó được minh oan.
– Như thế là nhà mày thuộc loại đã có vấn đề. Nếu bị bắt, bọn tao con em cán bộ, cũng chỉ đến kỷ luật vì tội nghịch súng đạn là
cùng. Bố con mày kiểu gì cũng bị kết tội ăn cắp vũ khí quân đội. Đi tù là cái chắc!
Tự Thắng nói ngay:
– Nếu họ phát hiện, tao sẽ nhận tất cả tội về mình, không để ảnh hưởng đến mọi người.
Linh phản đối:
– Vụ đốt kíp nổ mày đã gánh hết rồi. Hơn nữa súng do tao lấy. Vụ này để tao nhận.
Hoài Nam bĩu môi:
– Nếu nghi ngờ, quân đội sẽ bắt giam cả lũ. Vào đến đó, đừng tưởng thích khai thế nào cũng được. Nhận linh tinh lại thêm tội thiếu thành khẩn.
Sơn ngập ngừng:
– Mình nhờ cái Thảo… xin hộ được không?
Tự Thắng ngạc nhiên:
– Nó thì liên quan gì đến chuyện này mà xin với xỏ. – Tao nhìn thấy nó đi xe com măng ca vào cái kho bọn mình lấy trộm đạn cùng chú Chính trị viên. Chú ấy là lính cũ của bố nó. Tự Thắng thắc mắc:
– Nó vào kho đó làm gì nhỉ?
– Nó đi lấy củi với con bác chủ nhà, gặp xe chú Chính trị viên nên xin đi nhờ. Trên đường về chú tạt qua kho. Chắc để lĩnh vũ khí. Việt Bắc tán thành:
– Đúng rồi. Bảo nó nhận cùng đi ăn trộm đạn với bọn mày để làm tàu vũ trụ, rồi chỉ cho chú ấy chỗ thằng Linh cất khẩu súng, thế là xong. Không đời nào chú Chính trị viên lại bắt con thủ trưởng của mình đi tù.
Hoài Nam cười khẩy:
– Chúng mày có biết thế nào là “quân pháp bất vị thân” không? Nếu đã có tội thì tướng họ cũng bắt.
Tự Thắng liếc Hoài Nam và gật đầu:
– Tao nghĩ chuyện này không nên để cái Thảo dính vào. Linh nói:
– Đơn vị này sắp vào Nam. Hôm vừa rồi chú Chính trị viên về Hà Nội thăm nhà, hỏi cái Thảo có viết thư cho má không để chú chuyển giúp. Giờ này họ đang chuẩn bị hành quân, chắc không có thời gian điều tra bọn mình đâu.
Điều Tự Thắng lo nhất là có chuyện gì xảy ra cho gia đình Sơn. Ba luôn dặn nó: “Người dân ở nông thôn tuy nghèo nhưng chất phác và tốt bụng. Khi xảy ra chiến tranh, họ luôn sẵn lòng giúp đỡ, chia sẻ nhà cửa với mình. Con hãy cố gắng sống làm sao để mọi người ở đó quý mến. Nhớ tuyệt đối không được làm điều gì ảnh hưởng tới gia đình chủ nhà.” Tự Thắng vô cùng áy náy. Nó chợt nảy ra một ý:
– Hay là bọn mình đi trốn. Các chú bộ đội sẽ chẳng thể làm gì nhà thằng Sơn nếu họ không tìm được bọn mình.
Việt Bắc hỏi:
– Thế đi trốn tới khi nào?
– Tới khi đơn vị bộ đội và kho tàng của họ chuyển đi hết mình lại về.
Hoài Nam góp ý:
– Muốn trốn thì phải trốn luôn. Nếu trốn sau khi họ đã tiến hành điều tra, sẽ bị họ nghi ngờ.
Việt Bắc vẫn tỏ ra lo lắng:
– Nhưng biết trốn đi đâu?
Sơn ngập ngừng:
– Vào Hồ Mây trốn… Chỉ có tao và thằng Sính biết chỗ này. Chúng tao vẫn vào đó đi săn. Hồ Mây đẹp và có nhiều chim lắm. Tự Thắng đã được nghe Sơn kể về Hồ Mây nên đồng ý ngay. Nó hỏi Hoài Nam:
– Mày có đi với bọn tao không?
Linh ngạc nhiên:
– Nó có liên quan gì tới vụ của bọn mình đâu mà phải đi trốn? Đời nào Hoài Nam chịu ở lại. Nó lườm Linh:
– Bọn mày đi trốn thi tao cũng phải đi trốn. Tao ở lại, bị điều tra lại mất công khai ra bọn mày.
Tự Thắng quyết định:
– Vậy sáng mai bọn mình trốn luôn.
Không ai phản đối. Nhìn mặt ba đứa, Tự Thắng thấy thằng nào cũng tỏ ra thích trò đi trốn. Nó bảo Sơn:
– Mày mượn súng của thằng Sính, mang vào Hồ Mây để săn nhé. Cầm theo tất cả chỗ đạn tao đưa mày cất.
– Từ ngày bố thằng Sính mất, lấy súng lúc nào cũng được. Nhưng mình sẽ phải cho nó một viên đạn.
Tự Thắng gật đầu:
– Cho hai viên luôn!
Nghĩ đến cảnh sắp thoát khỏi Nhà Kỷ luật, cùng nhau bước vào một cuộc phiêu lưu, đứa nào cũng thấy phấn khích. Chúng rì rầm bàn hết chuyện nọ tới chuyện kia cho tới khi thầy Khải sang đuổi Sơn về và bắt tất cả đi ngủ.
Sáng sớm tinh mơ, trong màn sương mờ đục, Tự Thắng, Việt Bắc, Linh và Hoài Nam lặng lẽ chuồn khỏi Nhà Kỷ luật. Sơn đã đợi sẵn ở chỗ cái miếu. Sau hơn hai giờ men theo những lối đi heo hút, năm đứa tới một hồ nước trong xanh. Việt Bắc vừa thở vừa hỏi:
– Đây là Hồ Mây à?
– Không, đây là Hồ Thanh Long. Đằng kia là núi Bạch Hổ. Chờ tao đi lấy bè nhé.
Sơn đi về phía lùm cây phía xa. Một lúc sau, nó trở lại trên một chiếc bè nhỏ và nói:
– Cái bè này nhỏ, không chở nổi 5 đứa đâu, phải đi làm hai chuyến. Bọn mình sẽ xuyên qua núi Bạch Hổ.
Nhìn vách núi dựng đứng, Tự Thắng ngạc nhiên:
– Làm sao mà xuyên được?
– Phải chui qua hang Le Le.
– Tao có thấy hang nào đâu?
– Ai cũng thấy thì còn gì là bí mật. Cửa hang khuất sau tảng đá, trông giống như chiếc khánh, phía đằng kia. Bây giờ tao chở Linh và Tự Thắng vào trước rồi quay ra đón Việt Bắc và Hoài Nam.
Chiếc bè chui vào một cửa hang nhỏ và thấp. Nhìn bên ngoài, không ai nghĩ đó là cái hang. Sơn kể:
– Thằng Sính tìm ra hang này khi đuổi theo con ngỗng trời. Nó bơi vào trong một đoạn thì gặp bức tường chắn ngang. Sau này thằng Sính phát hiện mỗi khi mưa lớn, trong hang có lá cây và những cánh hoa trôi ra. Nghi hang thông với một vùng nước khác, nó rủ tao vào xem thế nào.
Vào bên trong một đoạn ngắn, ba đứa gặp bức tường đá chắn ngang, chỉ có một khe nhỏ để chiếc bè lách qua. Sơn nói: – Đây là chỗ thằng Sính tưởng hang bị cụt. Thực ra đó là thạch nhũ từ trên buông xuống, tạo thành một bức tường. Cái ngách bọn mình qua là chỗ nhũ buông ít nhất. Tháng Tám lũ về, nước ngập tới trần hang. Tháng Mười hai âm lịch là lúc mực nước trong hang thấp nhất.
Tự Thắng rọi đèn về phía trước. Có những chỗ trần hang thấp đến nỗi ba đứa gần như phải nằm rạp xuống bè. Càng đi vào trong càng rộng. Có rất nhiều thạch nhũ óng ánh, hình thù kỳ dị. Linh và Tự Thắng thi nhau tưởng tượng, từ vòi voi, đầu sư tử đến mỏ đại bàng, từ Tôn Ngộ Không đến đầu ông Bụt… Nhũ đá in bóng dưới nước, giống như một khu rừng kỳ ảo. Khi bè lướt qua, tất cả chòng chành, tan biến và những khu rừng mới lại xuất hiện trước mũi bè. Sơn nói:
– Mỗi lần vào hang, tao chỉ đốt một chiếc đèn bão nhỏ, có hôm bắt đom đóm bỏ vào chai để lấy sáng. Hôm nay có đèn pin mới thấy hang đẹp quá. Nhưng chỗ này tao có thể chèo không cần đèn rồi. Tắt đi để đỡ tốn pin.
Hang bắt đầu nhờ nhờ sáng. Qua hai khúc ngoặt, ba đứa rơi vào một vùng nắng rực rỡ. Linh và Tự Thắng sững sờ. Trước mặt chúng là một hồ nước, có màu rất lạ. Bên dưới rong xanh ngắt, điểm xuyết các cụm màu vàng, màu cam, màu đỏ, khiến con bè như đang lướt trên một vườn hoa. Từng tốp chim màu xám, cỡ bằng nắm tay, trông như lũ vịt con nhởn nhơ bơi. Thỉnh thoảng chúng lại vỗ cánh, co chân chạy lướt trên mặt nước rồi bất thình lình vục đầu lặn mất hút như đang chơi trốn tìm. Tự Thắng hỏi:
– Những con kia là vịt trời à?
– Không, đó là chim le le. Những con màu sáng là chim non, những con già màu sẫm. Loài chim này không chỉ biết bay, bơi, mà còn biết lặn và chạy trên mặt nước nữa.
Linh nhận xét:
– Bọn này kiêm luôn cả hải, lục, không quân. Bộ đội mình mà được như chúng nó, đảm bảo đánh đâu thắng đó.
– Hôm nay le le ít. Lần trước tao vào nhiều lắm.
Tự Thắng tấm tắc:
– Hồ Mây đẹp quá.
Sơn có vẻ tự hào:
– Đây mới là hồ Le Le. Tất cả tên các hồ, các hang trong này đều do tao và thằng Sính đặt.
Linh hỏi:
– Thế Hồ Mây ở đâu?
– Mình phải bơi xuyên qua một cái hang nữa mới tới. Sơn chỉ cho Linh một cái hang lấp ló phía xa. Gần đấy, trên vách đá cheo leo, có một con vật to lớn, cặp sừng đen nhánh vểnh lên rất oai vệ. Sơn nói:
– Sơn dương đấy. Trong Hồ Mây có rất nhiều sơn dương.
Hồ Mây nằm lọt giữa ba bề núi đá, phía bắc tiếp giáp với rừng nguyên sinh, đằng sau rừng vẫn trập trùng núi đá. Những vách đá dựng đứng bao quanh đã ngăn cách Hồ Mây với thế giới bên ngoài… Mây trắng bồng bềnh cùng những triền hoa rực rỡ từ vách núi chen nhau soi bóng xuống hồ, tạo nên những thảm màu trắng, vàng, đỏ, tím lung linh. Chiếc bè đi vào dòng sông nhỏ nằm giữa đảo và một dải đất hẹp ven núi. Nhiều lúc bè phải luồn bên dưới những bộ rễ cổ thụ mốc thếch vắt ngang. Những hòn đá mồ côi rải rác trên sông, hòn trông như mẹ bồng con, hòn giống rùa rụt cổ, hòn nhìn từa tựa cánh buồm… Tán cây hai bờ giao nhau, tạo nên một vùng tối sẫm. Những tia nắng li ti xuyên qua kẽ lá, nhảy múa trên mặt nước. Cả không gian mênh mang chìm trong tĩnh lặng.
Đột nhiên, từ trên cao có những tiếng khách khách khách khách… vang vọng cả khu rừng, những âm thanh cao và chói, ríu rít như ai đó đang cười. Sơn mừng rỡ:
– Cụ Phượng!
Linh và Tự Thắng nhìn lên, nhưng chỉ thấy vòm lá xanh kín mít. Sơn chèo bè nhanh về phía trước, vừa chèo vừa nói: – Cụ Phượng là chim phượng hoàng. Im lặng nhé, để tao dừng bè lại… Số chúng mày phải may lắm nên hôm nay mới được gặp Cụ. Theo hướng Sơn chỉ, một đôi chim rất đẹp, sải cánh rộng hơn người dang tay, mình đen, đuôi có những khoang trắng đang sà xuống ngọn cây. Những cái mỏ to và dài của chúng trông rất ấn tượng. Một con mỏ trắng ngà, một con mỏ da cam. Đặc biệt, phía trên mỏ có một chiếc sừng cong, màu vàng tươi pha đỏ, trông như bông hoa chuối rừng. Linh thích quá, bảo Sơn:
– Hôm nào mình bắn một con ăn thịt. Tao vẫn nghe người ta nói “nem công chả phượng”. Chắc thịt con này ngon lắm. Sơn đưa tay lên miệng, “suỵt” một tiếng:
– Mày nói khẽ thôi, Cụ nghe thấy thì chết.
Linh ngạc nhiên:
– Sao mà chết?
– Cụ Phượng là chim thần. Cụ ra đây để dẫn đường cho bọn mình. Lần trước nhờ Cụ chỉ, tao và thằng Sính mới tới được động Người Xưa. Lạy Cụ đi, để Cụ còn chỉ lối cho.
– Chim làm sao là thần được. Mày chỉ mê tín dị đoan. Sơn cau mặt:
– Mày không tin thì thôi, đừng nói vớ vẩn, có ngày chết toi. Tự Thắng hỏi:
– Cụ Phượng đến Hồ Mây làm gì?
– Trong khu rừng này có nhiều loại quả các Cụ thích: dâu da, nhãn, xà cừ rừng, quả gáo, quả sanh, quả si, quả vải, quả bùi, quả trám… Cụ ăn cả cá nữa.
Trong những quả Sơn kể, Tự Thắng biết mỗi quả nhãn và quả trám. Nó lắc đầu:
– Vậy thì không phải là thần rồi. Thần gì mà ăn vớ ăn vẩn thế. – Mày đừng có mà báng bổ. Lần trước vì hiểu nhầm thằng Sính, một Cụ dùng mỏ kẹp suýt gãy cổ tay nó. Mày nhìn mỏ Cụ xem. Quả xà cừ rắn thế mà Cụ chỉ kẹp nhẹ là vỡ làm đôi. Đứa nào nói lăng nhăng, Cụ vật cho chết.
Lần đầu tiên Tự Thắng thấy Sơn tỏ vẻ khó chịu ra mặt. Nó chợt nhớ tới cuộc nói chuyện về thần linh với ba trong một lần đi săn. Khi được ba dẫn vào đền thắp hương, nó hỏi:
– Mình cầu xin thần linh cho săn được nhiều chim hả ba? – Muốn săn được nhiều chim phải bắn giỏi. Hơn nữa, chắc gì đã có thần linh mà cầu xin.
– Nếu không có thần linh, sao ba còn vào đền thắp hương? Ba lúng túng một lát rồi giải thích:
– Khi qua đền, chùa ba vẫn vào thắp hương. Đó là những nơi giúp cho con người tĩnh tâm và tin vào điều thiện. Ba không tin thần linh nhưng có rất nhiều người tin, và ba tôn trọng. Đó là vấn đề tín ngưỡng.
– Tín ngưỡng có phải là mê tín dị đoan không ba?
– Tín ngưỡng là niềm tin tôn giáo. Việc tin vào trời, Phật là tự do tín ngưỡng của mỗi người. Nếu ba không tin thần linh, đó là quyền
của ba. Người khác tin là quyền của họ.
Tuy Tự Thắng không hiểu hết những điều ba nói, nhưng nó cảm nhận chính ba cũng có vẻ không chắc lắm về việc có thần linh hay không. Hơn nữa, lúc này cả bọn đang nhờ cậy Sơn, vì vậy, nó chắp hai tay hướng lên trời “lạy Cụ” cho xong chuyện. Linh thấy vậy cũng “lạy Cụ” theo, nhưng cặp mắt nó vẫn nhìn đôi chim hau háu. Khi Linh muốn cái gì, nhìn mặt biết ngay. Chắc chắn nó đang nghĩ cách bắt một Cụ nướng chả, để xem “chả phượng” ngon cỡ nào.
Sơn chèo bè theo hai Cụ Phượng. Đôi chim bay được một đoạn ngắn lại dừng, đợi ba đứa tới mới bay tiếp. Nhìn cái cây hai Cụ đậu lại trước khi vỗ cánh bay về khu rừng phía bắc, Sơn lẩm bẩm: “Vậy là các Cụ bảo mình tới trạm dừng chân.” Nó cập bè vào bờ, đưa con dao quắm cho Linh.
– Tao quay lại đón hai thằng kia. Mày chặt lấy mấy cái gậy làm vũ khí. Ở rừng lúc nào cũng nên đề phòng.
– Dài bao nhiêu thì vừa?
– Thấy vừa tay là được. Chọn cho thằng Việt Bắc cây to nhất. Tự Thẳng cười hì hì:
– Cái thằng béo bệu ấy thì gậy to cũng chẳng để làm gì. Hai đứa đi tìm những cây vừa tay làm vũ khí. Cũng mất khá nhiều thời gian, vì Linh muốn kiếm những cây vừa rắn, vừa dẻo. Riêng cây chọn cho mình, nó đẽo nhọn một đầu. Khi Sơn chở Việt Bắc và Hoài Nam tới, cả bọn men theo một lối nhỏ và dốc lên “trạm dừng chân”. Đó là một cái hang ở độ cao chừng hai chục mét so với
mặt hồ. Cửa hang quay về hướng đông. Bên trong có một phiến đá phẳng. Sơn nói:
– Bọn mày ngủ ở chỗ này.
Nó chỉ cho bốn đứa đống củi khô xếp bên những tảng đá quây thành bếp và dặn:
Tối đốt lửa cho ấm.”
Ngoài dao, đèn pin, chăn, võng, khăn mặt và quần áo, những thứ mang theo còn có một mảnh nilon, bốn cái bát sắt, non nửa bao diêm, ba thanh lương khô, sáu cái kẹo… Trong cái bao dùng đựng rắn của Sơn có một ít gạo, muối, mấy sợi dây câu, hai cục đá… Sơn mang theo cả cái mũ sắt cũ, nhà nó vẫn dùng làm cối giã cua, và con gà mái đã bị vặn cổ.
– Mày ăn trộm gà nhà ai thế?
– Gà nhà tao. Coi như nó bị cáo vồ. Lần đầu bọn mày vào Hồ Mây, phải có cái gì đó ăn mừng.
Bốn đứa ngồi xem Sơn lấy lửa. Nó dùng hai cục đá đập mạnh vào nhau. Những tia lửa li ti bắt sang mớ bùi nhùi được chà xát nóng. Sơn dùng bùn vừa lấy dưới hồ bọc kín con gà, vùi xuống dưới lớp than gio cháy đỏ. Khi gỡ lớp bùn, lông gà long ra từng mảng. Con gà béo vàng, nước mỡ chảy sóng sánh trong bụng. Lần đầu tiên những đứa ở trại sơ tán được chứng kiến kiểu nướng gà bằng bùn.
Ăn xong, Sơn nhặt chỗ lông gà, men theo vách đá đi vào bên trong, ném xuống. Sau đó, nó lấy một cành củi cắm vào khe đá và nói:
– Chúng mày nhớ không được đi quá chỗ này. Phía trước có một cái hang sâu lắm. Trượt chân ngã xuống là chết toi.
Việt Bắc gạ:
– Mày ở đây cùng bọn tao đêm nay nhé.
– Không được. Bọn mày bỏ trốn, nếu tao không về sẽ bị nghi ngờ. Mai tao lại vào đây với bọn mày.
Tự Thắng dặn:
– Mày về nhớ thám thính xem tình hình ở trại thế nào nhé.
PHẦN II HỒ MÂY
7.
HỔ MANG CHÚA
Có lẽ do thấm mệt sau một chuyến đi dài, cả bọn lăn ra ngủ. Khi trở dậy, trời đã nhá nhem tối. Không biết dơi ở đâu bay ra loạn xạ. Nghe nói mắt dơi không nhìn được, vậy mà chúng bay rất nhanh, không đâm vào nhau, cũng không va vào các vách đá lởm chởm. Việt Bắc gật gù:
– Có dơi bắt muỗi, mình càng đỡ phải mắc màn.
Linh hỏi:
– Thế lúc dơi đi ngủ, muỗi ra thì sao?
Hoài Nam cũng góp chuyện. Suốt cả ngày, đến giờ nó mới lên tiếng:
– Muỗi rừng độc lắm, nó đốt một phát là mình bị sốt rét ngay. Tự Thắng rút mấy thanh củi khô mang lại bếp:
– Vậy thì phải nhóm lửa lên đuổi muỗi. Việt Bắc đưa giúp tao hai hòn đá.
Việt Bắc quờ quạng tìm đá. Đột nhiên nó nhảy như con choi choi* và hét toáng lên:
– Rắn! Rắn…
Nghe đến rắn, Hoài Nam lùi lại phía sau, im thin thít. Linh bật đèn pin, nhặt cây gậy nhọn đầu, vừa đi vừa khua khua trên nền
hang. Tự Thắng cũng lấy một cây gậy chạy tới. Hai đứa tìm một hồi không thấy con rắn nào. Nhớ lời Sơn dặn phải tiết kiệm pin, Tự Thắng nhặt hai hòn đá, bắt chước Sơn nhóm lửa. Khi Tự Thắng vừa đập hai hòn đá vào nhau, Việt Bắc lại hét lên:
– Nó đấy, rắn đấy.
Linh lăm lăm cây gậy, hỏi:
– Nó đâu?
– Trên mỏm đá sau lưng mày. Tao vừa thấy cái lưỡi nó thè ra… Theo hướng Việt Bắc chỉ, Linh đến gần nhưng chẳng thấy gì. Nó làu bàu:
– Mày chỉ khéo tưởng tượng.
Tự Thắng loay hoay mãi nhưng không sao làm cho lửa bén vào đống bùi nhùi. Linh làm thử cũng thất bại. Nó nói:
– Dùng diêm mà thắp cho nhanh. Thằng Sơn mới biết cách lấy lửa bằng đá chứ mình lấy sao được.
Tự Thắng bật diêm châm lửa nhưng vẫn cãi:
– Phải tập mới biết làm chứ. Ở trong này lâu, hết diêm thì sao. Việt Bắc hỏi:
– Không biết lúc mình ngủ rắn có bò ra không nhỉ?
– Ban đêm rắn thường đi săn mồi. Nhưng nó chỉ ăn những con vừa miệng như cóc, ếch, nhái thôi. Mày béo thế, làm sao nó nuốt được mà sợ.
– Tao không sợ nó nuốt, nhưng sợ nó cắn.
– Nếu mình không trêu rắn thì không bao giờ nó cắn mình. Ngày thằng Sơn mới đẻ, hai con rắn cạp nong chui vào chăn ngủ suốt đêm cùng nó mà có sao đâu.
Nghe rắn chui vào chăn, Việt Bắc co rúm lại:
– Đúng rồi, bọn rắn thích rúc vào chăn cho ấm. Đêm nay tao không đắp chăn đâu.
Linh vớ một cái chăn và nói:
– Tao với Tự Thắng ngủ chung. Còn một chăn của hai đứa mày. Nếu sợ rắn thì đừng đắp.
Hoài Nam và Việt Bắc nhìn nhau. Cả hai thống nhất đêm nay hai đứa sẽ ngủ trên võng. Việt Bắc sợ rắn đã đành, không ngờ Hoài Nam cũng sợ rắn đến thế.
Linh cười thầm. Nó chui đầu vào trong chăn, nói vọng ra: – Hai đứa mày nên một thằng ngủ, một thằng canh. Nằm trên võng rắn vẫn leo lên được.
Ngày ở Trại Khe Khao, Việt Bắc là đứa nổi tiếng hay ị đùn. Nó béo nhất lớp, ăn rất khỏe. Ăn lắm ị nhiều là chuyện bình thường, nhưng nó khác người ở chỗ không có biểu hiện gì trước khi ị. Thông thường các cô chỉ cần nhìn mặt đứa nào đần ra là biết đứa ấy sắp ị. Với Việt Bắc thì ngược lại. Mỗi khi mặt đần ra là nó đã ị xong rồi.
Khi chuyển từ Khe Khao về Trại Nhi đồng Miền Bắc, Việt Bắc vẫn nổi tiếng về chuyện ị. Ngày đó trại mới thành lập. Do chuyển đổi từ khu nhà nghỉ cuối tuần của các sĩ quan Pháp thành trại trẻ nên không đủ chỗ cho các cháu đi vệ sinh. Bể nước tưới cây ở vườn hoa
được cải tạo thành chỗ đi ị. Đó là một cái bể xi măng, nửa nổi nửa chìm, thành cao năm mươi phân, dài khoảng hai mươi mét, sàn dốc về cuối, được ngăn đôi theo chiều dọc bằng tường gạch. Từng cặp hai nửa tấm ván được ghép lại với nhau thành hình chữ H, đặt trên thành bể. Mỗi cặp ván tạo nên hai lỗ vuông đối xứng. Sáng nào cũng vậy, tập thể dục xong, lần lượt từng lớp, con trai con gái cởi quần, xếp hàng, tiến vào nhà vệ sinh. Tất cả ngồi chổng mông vào nhau cùng ị. Sau khi xong xuôi, chú lao công dỡ những tấm ván ra và giội nước cho phân trôi về phía cuối, dồn vào bể phân. Theo quy định, bạn nào xong thì giơ tay để cô dẫn ra bức tường có gắn các vòi nước bên ngoài rửa. Vẫn theo truyền thống từ Trại Khe Khao, các cô dùng tay rửa cho các cháu.
Vi có những đứa buổi sáng không chịu ị rồi đang học lại đòi đi, nên các cô kiểm tra rất cẩn thận. Nhiều hay ít, đứa nào cũng phải có “sản phẩm”. Chỉ khi tất cả đều hoàn thành nhiệm vụ, lớp mới được đi ăn sáng.
Thảo luôn là đứa ị lâu nhất. Các bạn xong hết rồi, nó vẫn ngồi. Hôm nào cả lớp cũng phải chờ nó. Một lần nhân lúc cô dẫn bạn đi rửa, Việt Bắc ị hộ Thảo. Trót lọt vài lần. Thấy hay, nhiều đứa bắt chước. Từ đó sinh ra trò ị hộ. Đứa nào cũng sẵn sàng giúp bạn để nhanh được đi ăn. Có đứa còn ị vào lỗ trống, để cho đứa không ị được chuyển sang. Việt Bắc to béo nhất lớp nên có nhiều sản phẩm. Đứa nào không ị được là nó giúp đỡ. Có hôm nó ị hộ cho hai đứa. Một lần Việt Bắc bị táo bón. Nhân lúc cô dẫn Tự Thắng đi rửa, nó cầu cứu:
– Bạn nào ị hộ Việt Bắc với.
Lúc đó trừ Thảo, tất cả đều đã ị xong, chỉ chờ cô quay vào là giơ tay xin dẫn ra ngoài. Thảo biết Việt Bắc xin nhưng lờ đi. Đến khi Việt Bắc năn nỉ thì nó dài giọng:
– Sao hôm nọ Thảo xin kẹo anh Việt Bắc không cho, hôm nay lại còn nhờ Thảo?
Nói rồi nó ngồi nhẩn nha ị nốt chỗ dở. Việt Bắc rất tức tối. Ở lớp, nó là đứa có nhiều kẹo nhất, vì má làm ở Cửa hàng Cung cấp Tông Đản. Tuy không chia kẹo cho mọi người, nhưng mỗi khi ăn chẳng may bị bạn nào phát hiện, Việt Bắc cũng cho cắn một tí. Thảo không nhớ tới những lần nó cho ăn chung, chỉ nhớ lần nó không cho để trả thù. Là đứa ị giỏi nhất lớp, khi mọi người cần nó giúp đỡ vô tư. Thế mà khi nó cần không một ai chịu hỗ trợ.
Sau hôm đó Việt Bắc không ị giúp ai nữa. Đứa nào cần thì phải vay. Từ đó trong lớp sinh ra trò vay cứt. Ai cũng muốn cho nhiều người vay để khi cần còn đòi được. Sáng sáng, hoạt động vay, trả nợ, gán nợ, đòi nợ và quỵt nợ trong nhà vệ sinh diễn ra sôi nổi. Việt Bắc là đứa có nhiều người vay cứt nhất lớp. Có bạn mấy chục năm sau gặp lại vẫn bị nó nhắc nhở món nợ từ thế kỷ trước.
Tối nay, cũng vì chuyện đi ị của Việt Bắc mà dẫn tới một cuộc đụng độ kinh hoàng ở Hồ Mây, với rắn hổ mang chúa.
Do lạ chỗ, nằm mãi chẳng đứa nào ngủ được. Nửa đêm Việt Bắc kêu đau bụng, muốn đi vệ sinh. Tự Thắng rút một thanh củi trong bếp lửa đưa nó, dặn ra phía ngoài cửa hang, càng xa càng tốt. Việt Bắc
sợ ma, lắc đầu quầy quậy. Nó đi vào bên trong. Được một lát, Việt Bắc gọi vọng ra xin giấy lau. Tự Thắng cáu:
– Mày cứ như ông tướng, đi ị cũng phải có người hầu. Ở đây làm gì có giấy?
Tuy nói vậy nhưng Tự Thắng vẫn cầm đèn pin ra cửa hang ngắt mấy cái lá. Không hầu nó thì chính mình lại phải ngửi. Tự Thắng vừa ra ngoài, Việt Bắc bỗng rú lên: “Cứu tao với!” Linh chồm dậy, vơ cây gậy và rút thanh củi đang cháy chạy vào. Một đôi rắn đang quấn lấy nhau, gần chỗ Việt Bắc. Linh chưa bao giờ nhìn thấy những con rắn to như vậy. Có lẽ mỗi con dài trên dưới 5 mét. Nó bảo Việt Bắc:
– Ngồi yên đấy để tao đuổi chúng nó đi.
– Đánh chết nó đi. Mày đuổi, nó bò vào chỗ tao thì sao? Linh lưỡng lự. Đi bắt rắn với Sơn mãi nên nó biết khi bị tấn công, rắn thường ngóc đầu lên tự vệ. Hổ mang có thể nâng một phần ba thân trước lên khi đối diện với kẻ thù. Hai con này ngóc dậy, miệng của nó ít nhất cao ngang mặt người. Linh đã chứng kiến những cú mổ của rắn hổ mang nhanh thế nào nên cũng e dè. Đối đầu với một con đã phải cực kỳ thận trọng, huống hồ đánh một lúc hai con. Nhưng nếu dùng gậy xua, có thể chúng sẽ bò về phía Việt Bắc. Lúc đó chắc chắn Việt Bắc sẽ nhảy loạn lên, khiến đôi rắn nghĩ nó tấn công chúng. Loại rắn này cắn có trời cứu. Linh gác cây củi đang cháy dở lên gờ đá, hít một hơi dài, bước vào khoảng trống giữa Việt Bắc và hai con rắn, nhè đầu chúng đánh xuống. Do mặt hang mấp mô nên những cú vụt của Linh không như mong muốn. Đôi rắn tách nhau ra, trườn đi. Linh đuổi theo, nhằm đầu con nhỏ hơn vụt tới tấp.
May mà sáng nay Linh đã chặt mấy cái cây làm vũ khí. Nếu không có cây gậy dài, nặng, vừa tầm tay, chưa chắc nó dám đánh nhau với những con rắn khổng lồ này. Dưới những cú đánh liên tiếp của Linh, con rắn quằn quại. Linh nghe thấy những tiếng rít khè khè Sơn nói khi rắn rít lên là lúc nó đang cực kỳ giận dữ.
Chợt Linh cảm thấy ớn lạnh. Nó cảm giác từ trong bóng tối một ngọn giáo đen phóng thẳng vào mặt mình. Theo bản năng, Linh vung gậy lên và lùi về phía sau liền mấy bước.
Mãi về sau, Linh vẫn không thể nào hình dung được phản xạ của cơ thể trong lúc đó. Nó đã vung cây gậy lên hất con rắn đi, hay nó đã né người sang một bên khiến con rắn mổ trượt, sau đó mới vung gậy hất văng nó? Hóa ra tiếng khè khè Linh nghe thấy là của con rắn đực. Mải tập trung giết con cái, Linh không để ý con đực đã quay lại tấn công mình. Cú mổ của nó như một tia chớp sượt qua bên má. Chỉ nhờ phản xạ theo linh cảm mà Linh thoát cú ngoạm của tử thần. Con rắn uốn lượn trên sàn đá, đầu vẫn ngóc cao, cổ họng tiếp tục phát ra những tiếng khè khè. Mang nó bành to, cái lưỡi chẻ đảo qua đảo lại giữa cặp răng nanh nhọn hoắt, hướng đôi mắt đen tròn vô cảm vào đối thủ. Khi rắn đang giao phối, nếu bị phá đám chúng sẽ rất hung dữ. Mùa rắn sinh sản là thời gian trong làng có nhiều người bị rắn cắn nhất. Thực ra chả riêng gì rắn, mọi loại động vật trên trái đất đều hung dữ khi đến kỳ giao phối, vì chúng phải chiến đấu một mất một còn để tranh giành bạn tình. Con người cũng không đứng ngoài quy luật đó. Nhưng khác với các loài động vật khác, con người là giống duy nhất trên trái đất có tiếng nói và
chữ viết, nên họ thay dần việc đánh nhau để chiếm đoạt bạn tình bằng cách tán tỉnh và làm thơ.
Cú đánh của Linh đã kích thích bản năng săn mồi của con rắn. Trong ánh lửa nhập nhoạng, thân hình vươn cao mạnh mẽ, ánh mắt lạnh lẽo trong tư thế chuẩn bị ra đòn khiến con rắn chúa có một vẻ rất kiêu hùng. Cái lưỡi chẻ liên tục thò ra thụt vào. Lưỡi loài rắn giống như cơ quan khứu giác, dùng đánh hơi các mùi vị xung quanh để tìm kiếm con mồi và nhận biết kẻ thù. Linh nhớ mỗi lần bắt rắn, bao giờ Sơn cũng tìm cách rịt đầu rắn xuống khi nó đang trườn, không lao vào lúc nó đã ngóc lên, chuẩn bị tấn công. Cú thoát hiểm đầy may mắn khiến Linh thận trọng. Nó cầm chắc cây gậy, lùi thêm hai bước, mắt dõi theo từng chuyển động của con rắn một cách kiên nhẫn.
Sự kiên nhẫn khi đối đầu với những thứ có khả năng giết chết mình là một trong những đức tính sống còn mà tổ tiên đã truyền lại cho các thế hệ sau trong suốt quá trình tiến hóa. Từ khi biết đứng lên bằng đôi chân, cái làm cho con người chiến thắng các loài thú dữ trong những cuộc săn tanh mùi máu không phải là sức mạnh của nọc độc hay móng vuốt, mà là sự toan tính lạnh lùng.
Một lúc sau, thấy không còn dấu hiệu nguy hiểm, con hổ mang hạ thân xuống sàn đá, từ từ trườn đi. Linh nhận ra ngay cơ hội để giết chết con rắn khổng lồ. Nó siết chặt cây gậy trong tay, bước lên. Nghĩ mình đã đánh chết con rắn cái, Linh quyết định giết nốt con đực để diệt trừ hậu họa, không cho nó có cơ hội quay lại trả thù.
Nhưng Linh đã nhầm. Do sàn đá mấp mô, những cú đánh của Linh chỉ khiến con rắn cái bị thương chứ không làm giập đầu nó.
Nhìn đôi rắn cùng nhau chậm rãi trườn về phía hang sâu, Linh bỗng có một cảm giác rất lạ. Đó là sự tôn trọng tự động nảy sinh trước một đối thủ xứng đáng, kẻ có khả năng giết chết mình. Nếu con rắn không quay lại cứu, chắc chắn bạn nó đã bị Linh giết chết.
Nghe tiếng ồn ào, Tự Thắng chạy vào. Linh chỉ đôi rắn. Tự Thắng rùng mình, khẽ nói:
– Sao rắn có thể to thế nhỉ? Chờ tao đi lấy gậy.
Linh phẩy tay:
– Để cho chúng nó đi.
Trở lại bếp lửa, Việt Bắc khoa chân múa tay kể lại chuyện Linh đánh nhau với rắn. Tự Thắng hỏi Linh:
– Sao lúc đó mày lại bảo tha cho chúng nó?
Linh im lặng. Nó nghĩ nếu nói thật là mình có thiện cảm với con rắn, mọi người sẽ cười.
Việt Bắc “xì” một cái:
– Tha đâu mà tha. Nó sợ thì có. Có một quả tim rắn bé tí ông Hải đưa cho, nó cũng không dám nuốt.
Linh rùng mình, khẽ “ọe” một tiếng. Hoài Nam vẫn ngồi im thin thít từ đầu, giờ mới lên tiếng:
– Mày sợ, đúng không?
Linh nhớ lại khoảnh khắc lưỡng lự khi bước vào khoảng trống giữa Việt Bắc và đôi rắn khổng lồ, và lúc bị con rắn bất ngờ mổ thẳng vào mặt, nó gật đầu:
– Lúc đầu tao sợ thật. Nhưng khi đã đánh nhau với nó, tao không sợ nữa.
– Mày nói không sợ, sao không dám đánh tiếp?
– Tao tưởng đã đánh chết con cái, nên sẽ phải giết nốt con đực, để nó không thể quay lại báo thù. Khi phát hiện con cái vẫn còn sống, tao nghĩ nên để chúng nó đi.
Hoài Nam cười:
– Mày sợ thì cứ bảo là sợ, nói phét làm gì.
Linh rất ghét ai nghĩ mình dối trá. Nó nhìn Hoài Nam, khinh khỉnh:
– Nếu tao sợ thì có gì là xấu, khi phải đánh nhau với thứ có thể giết chết mình.
– Tao không bảo là xấu. Tao chỉ không thích mày lên mặt, nói tha không thèm giết thôi.
Linh cười nhạt:
– Không phải tao không dám giết nó. Nhưng đó là rắn chúa chứ không phải bọn cào cào, châu chấu. Với nó, tao không thích chơi trò đánh dưới thắt lưng.
– Thế nào là đánh dưới thắt lưng?
– Là đánh từ phía sau, đánh lúc nó không đề phòng. Hoài Nam phản đối:
– Đã là kẻ thù nguy hiểm thì bằng mọi giá phải giết chết, bất chấp thủ đoạn.
Việt Bắc hùa theo:
– Đúng rồi, mày sợ thì cứ nhận là sợ, cần gì phải nói loanh quanh. Nếu lúc đó không ị dở, tao đã cùng Tự Thắng giết chết hai con rắn rồi.
– Mày giỏi thì cứ việc giết. Biết đâu lát nữa chúng nó chả bò ra báo thù.
Thấy có vẻ căng thẳng, Tự Thắng nói sang chuyện khác: – Sao hai con hổ mang này đen thế nhỉ? Rắn mình bắt ngoài kia trừ cạp nong, cạp nia, hầu hết màu vàng, thỉnh thoảng mới có một con màu xám.
– Chắc nó sống trong hang đá lâu nên đen.
– Con này chắc là rắn chúa. Tao nghĩ nó phải dài năm, sáu mét. – Lần đầu tiên tao thấy rắn to thế này. Nếu nó không ngóc đầu, bành mang, tao đã nghĩ đó là con trăn.
Hóa ra những đứa to mồm nói người khác sợ cái gì lại là những đứa sợ cái đó nhất. Đêm đó, Việt Bắc và Hoài Nam dứt khoát không chịu cho Tự Thắng tắt lửa vì sợ hai con rắn quay lại báo thù. Dù Tự Thắng thuyết phục, phân tích, động viên, dỗ dành kiểu gì, hai đứa vẫn bó gối ngồi thức chờ sáng. Tự Thắng bực mình, đem tích “rắn báo thù” nghe được từ ông Hải Rắn ra kể cho hai đứa sợ luôn một thể. Chuyện có một ông đồ cho học trò phát cỏ trong vườn để cất lớp. Đêm hôm đó, ông mơ thấy một người phụ nữ dẫn bầy con nhỏ đến, xin thư thả cho ít hôm vì chưa tìm được chỗ dời nhà. Ông nhận lời và tỉnh giấc, băn khoăn không hiểu nguyên cớ gì lại mơ như vậy. Sáng hôm sau học trò của ông phát cỏ, thấy một bầy rắn con, bèn đập chết. Đêm về, ông đồ ngồi đọc sách, bỗng một giọt máu từ trên
cao nhỏ xuống, đúng vào chữ “tộc”. Máu thấm qua ba trang sách. Ngẩng lên, ông thấy một con rắn vắt ngang trên xà nhà. Một thời gian sau, gia đình ông gặp họa tru di tam tộc.
Đêm trong hang càng khuya càng lạnh. Chốc chốc lại nghe một tiếng “chóe” vang lên rồi tắc nghẹn. Giọng tắc kè lúc thì nhát một, khi thì dồn dập như cắn vào đêm càng làm cho cảnh vật thêm lạnh lẽo. Việt Bắc và Hoài Nam nhìn đâu cũng tưởng tượng thấy cảnh rắn sắp bò ra trả thù, càng sợ rúm ró. Mặc Tự Thắng và Linh ngủ tít thò lò, hai đứa thay nhau cho củi vào bếp để giữ lửa, cho tới lúc không thể nào cưỡng được cơn buồn ngủ.
8.
HOÀI NAM
Hoài Nam và Tự Thắng học với nhau từ ngày ở Trại Nhi đồng Khe Khao. Trong cả lớp, chỉ mỗi nó có ba là tướng. Với bọn trẻ con, bố giữ chức gì cũng chẳng ảnh hưởng đến quan hệ giữa chúng với nhau. Bố tao là cấp dưới của bố mày nên không dám đánh bố mày, chứ tao có phải cấp dưới của mày đâu mà không dám đánh mày?
Tình cờ, Tự Thắng biết chuyện của ba Hoài Nam. Những gì nghe được cứ ám ảnh nó mãi. Chuyện xảy ra hôm ba xin phép trại cho Tự Thắng về nhà hai ngày, trước khi ông đi B*.
Khác với lần trước, khi ba Tự Thắng chuẩn bị đi vào miền Nam, các chú trong cơ quan đến nhà nói chuyện rất ồn ào. Lần này, ai cũng nói rất nhỏ, đôi lúc thì thầm. Tự Thắng cảm thấy có điều gì đó khá nghiêm trọng. Tên ba của Hoài Nam và một vài người nữa được nhắc đi nhắc lại. Ba tưởng Tự Thắng ngủ vì nó nằm ở phòng trong, trùm chăn kín đầu. Một chú nói: “Tôi chắc chắn thủ trưởng bị oan. Nhưng việc này của ban chuyên án, mình không ý kiến được đâu.” Có một từ lặp đi lặp lại mà nó không hiểu là “xét lại”… Ba nói: “Trung ương nhận định đây là một vụ án chống Đảng nghiêm trọng. Đã có một số người bị bắt…” Tự Thắng rất lo lắng. Ba vẫn nói Trường Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi là nơi đào tạo con em của những cán bộ quân đội và trung ương thành thế hệ kế cận cho cách
mạng. Hết năm học này, nó và Hoài Nam sẽ lên trường Trỗi. Nếu ba Hoài Nam bị bắt, có thể Hoài Nam sẽ không được học ở đó nữa. Khi các chú ra về, Tự Thắng vùng dậy hỏi: “Tại sao ba của Hoài Nam lại chống Đảng? Nếu người ta bắt ba Hoài Nam thì ba có bị ảnh hưởng gì không?” Chưa bao giờ Tự Thắng thấy ba giận đến thế. Ông cho nó một cái bạt tai và lạnh lùng bắt nó hứa phải quên ngay chuyện này, coi như chưa bao giờ nghe, và từ lần sau cấm giả vờ ngủ để nghe lỏm.
Lần đầu bị ba đánh, Tự Thắng vô cùng tủi thân. Ở nhà, ba không hay nói những lời âu yếm, nhưng luôn dành cho con cái sự tôn trọng, và đối xử với chúng như những người bạn thân. Nó cảm nhận được sự yêu thương của ba với mình và luôn nghĩ về ba với niềm tự hào. Dù ba đánh không đau nhưng tự nhiên nước mắt Tự Thắng cứ trào ra. Không muốn ba biết mình khóc, nó chạy ra sân. Có lẽ câu chuyện phải có điều gì đó rất nghiêm trọng nên ba mới giận thế. Trời mù sương. Gió mùa Đông Bắc thổi từng đợt, cắt vào da thịt qua lớp áo mỏng. Tự Thắng định vào nhà mặc thêm áo, chợt thấy một làn hơi ấm choàng lên. Ba bước tới, khoác lên vai nó cái áo đại cán dạ. Vẫn mùi thuốc lá Điện Biên quen thuộc. Hai ba con lặng lẽ đi dạo hết hai vòng sân. Cuối cùng ba nói:
– Ba xin lỗi. Ba không biết con thức nên đã nói một câu chuyện mà con không nên nghe.
– Vì các chú nói ba Hoài Nam có thể bị bắt nên con lo cho nó… Cấp to như bác ấy, sao lại bị bắt được?
– Quân đội đang điều tra một số người có tư tưởng xét lại. Ba Hoài Nam nằm trong số bị nghi vấn.
– Xét lại là tội gì hả ba?
– Có thể hiểu là… không tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng con ạ. Nhưng ba tin bác ấy không làm gì sai. Những người như bác ấy không bao giờ phản bội lại lý tưởng mình theo đuổi. Chắc là có sự hiểu nhầm nên phải kiểm tra.
– Nếu sau khi kiểm tra, cấp trên vẫn bảo bác ấy có tội, thì có sao không ba?
Ba im lặng bước đi. Một lát sau ba trả lời:
– Nghiêm trọng con ạ.
– Nếu thế, Hoài Nam có được đi học trường Trỗi nữa không? – Nói trước về những gì chưa xảy ra là điều khó. Hãy hứa với ba không kể lại chuyện này với ai.
– Con hứa.
– Đập tay nào. Lời hứa của con nhà lính nhé!
Ở nhà Tự Thắng, khi ba con đã đập tay, bao giờ cả hai cũng giữ cam kết. Đó là lời hứa danh dự.
Tối hôm đó, trước khi đi ngủ, ba đưa cho Tự Thắng một cái đèn pin cũ cùng đôi pin mới tinh. Ba nói:
– Ba đi chiến trường, được cấp đèn mới. Cho con cái này mang lên trại sơ tán mà dùng.
Có một cái đèn pin là điều Tự Thắng vẫn mơ ước. Nó cảm ơn ba rối rít, bụng nghĩ có khi ba đền bù vì đã đánh nó hôm nay.
Khi Tự Thắng tỉnh dậy, Hoài Nam cũng vừa thức. Linh và Việt Bắc vẫn ngủ. Tự Thắng rủ Hoài Nam đi dạo.
Hai đứa đi men theo hồ, len lỏi giữa những cây trĩu quả nhưng lạ hoắc, chẳng biết có ăn được không. Nhìn những quả chín vàng chín đỏ trên cao, bỗng dưng hai đứa cảm thấy đói cồn cào. Gặp một cây vả nằm ngả ra hồ, Hoài Nam trèo lên hái. Quả vả giống quả sung nhưng to hơn, bên trong ruột màu hồng, ăn ngòn ngọt và bùi. Những chùm quả chín, màu như củ hành tía, mọc chi chít trên những cành cây là là sát mặt nước. Hoài Nam không dám trèo ra xa vì nó không biết bơi. Đứng dưới gốc cây chờ hứng những chùm quả ném xuống, Tự Thắng thấy xung quanh có khá nhiều ong mật. Nhìn theo những con ong, nó phát hiện một tổ ong to như cái nón, cao ngang đầu, cách đó mấy mét. Ong bay ra do Hoài Nam làm những cành cây gần tổ rung động. Tự Thắng rối rít gọi Hoài Nam xuống.
Mặc cho Hoài Nam và Tự Thắng đến gần, lũ ong vẫn thản nhiên. Chúng đậu chồng chất lên nhau, như bâu vào một quả mít lớn. Những con ong liên tục chui ra, chui vào tổ. Nhóm ong “bảo vệ” làm nhiệm vụ canh gác ở phía trước. Một con ong lạ, màu nâu sẫm, có khoang vàng ở lưng, mặt hao hao mặt ngựa, to gấp mấy lần con ong mật, lảng vảng gần đấy. Khi nó bay đến gần, đội ong bảo vệ lao vào tấn công. Con “mặt ngựa” lảng ra, nhưng vẫn loanh quanh cạnh tổ, không hề tỏ ra sợ sệt. Hoài Nam nghĩ chắc con “mặt ngựa” tới do thám rồi về gọi đồng bọn đến cướp mật. Nổi máu nghĩa hiệp, nó nhặt một hòn sỏi nhỏ búng thẳng vào con “mặt ngựa”. Mãi về sau Hoài Nam mới biết con đó là ong bắp cày, loại “đốt ngày chết đêm.” Viên sỏi không trúng con mặt ngựa, mà lại trúng vào giữa tổ ong.
Hòn sỏi vừa chạm tổ, đàn ong mật như một cơn lốc đen lao thẳng vào Hoài Nam. Theo phản xạ, nó lấy hai tay đập túi bụi lên mặt và đầu. Tự Thắng hét “chạy đi!”. Hai đứa cắm đầu cắm cổ chạy, mỗi đứa một ngả.
Dù phân tán thành hai nhóm đuổi theo Hoài Nam và Tự Thắng, nhưng đàn ong xác định Hoài Nam là thủ phạm tấn công tổ nên chủ yếu dồn vào nó. Mặc cho hai đứa đã chạy rất xa, đàn ong vẫn không buông tha. Hoài Nam chạy cho tới khi vấp phải một rễ cây, ngã sấp xuống đám cỏ. Nó quyết định nằm im giả chết. Những con ong bâu lấy đầu, cổ và tay của nó đốt liên tục. Có vẻ như dây thần kinh đau của Hoài Nam đã bị tê liệt nên nó mặc lũ ong muốn làm gì thì làm.
Không ngờ việc Hoài Nam giả chết cũng có hiệu quả. Thấy nó không động đậy, lũ ong bắt đầu bay lượn lờ phía trên. Hoài Nam nằm úp mặt xuống đất rất lâu, cho tới khi nghe tiếng Tự Thắng gọi mới mở he hé mắt. Đàn ong đã bay hết. Dù bị ong đốt ít hơn Hoài Nam nhiều, nhưng mặt Tự Thắng cũng sưng húp và chi chít những cái gai. Mỗi con ong mật chỉ đốt một lần trong đời, khi chúng thấy tổ hoặc bản thân bị xâm phạm. Sau khi đốt, ngòi ong dính lại trên người kẻ thù, và con ong sẽ chết. Hoài Nam không biết so với Tự Thắng, mặt mình còn thảm hại hơn nhiều.
Sau này tìm hiểu, Hoài Nam mới biết vì sao hôm đó nó bị ong đốt nhiều thế. Một là nó đứng gần tổ ong hơn Tự Thắng. Hai là căn cứ vào hướng ném của hòn sỏi, lũ ong coi nó là kẻ tấn công tổ. Ba là nó dùng tay đập ong, khiến cho chất dịch ong bám vào mặt, kích thích ong tấn công. Bốn là đàn ong có xu hướng tấn công những vật
màu sẫm hơn những vật lạt màu. Nó mặc áo màu xanh công nhân, còn Tự Thắng mặc áo màu cháo lòng.
Vì ong đốt quá nhiều nên Hoài Nam bị choáng. Tự Thắng dùng móng tay nhổ hết ngòi ong trên mặt, cổ, gáy và hai tay cho nó. Dù ngòi đã được nhổ ra, Hoài Nam vẫn cảm thấy những chỗ bị đốt rát bỏng. Tự Thắng ngắt đại mấy bông hoa còn đọng sương đêm bên đường chà lên mặt nó. Chẳng hiểu hoa có chất gì chống lại nọc ong không, nhưng Hoài Nam cảm thấy đỡ rát hơn. Thấy vậy, Tự Thắng ngắt hết những bông hoa xung quanh, chà thật mạnh lên những chỗ Hoài Nam bị ong đốt, như người ta chà miếng xơ mướp vào chiếc chảo.
Cả Hoài Nam và Tự Thắng đều không biết sau khi bị ong đốt phải nhổ ngay ngòi đi, vì các ngòi ong trên da sẽ tiếp tục bơm chất độc vào cơ thể. Tự Thắng bị ong đốt ít hơn, chủ yếu vào mặt, nên nó bảo không cần nhổ. Ai dè những chỗ đó thâm lại và phồng lên, khiến mặt Tự Thắng trông rất khó coi. Suốt ngày hai đứa nằm lì trong hang. Việt Bắc và Linh vô cùng lo lắng nhưng chẳng biết làm gì.
Gần trưa hôm sau Sơn tới. Nó đeo một chiếc ba lô và khoác theo khẩu súng mượn của Sính. Tự Thắng đã hết sốt. Hoài Nam vẫn ngủ mê mệt, trán nóng rực. Nghe Tự Thắng kể chuyện tổ ong mật và con ong mặt ngựa, Sơn chép miệng:
– Con đó là ong bắp cày, có nơi gọi là ong đất, hay ong bò vẽ. Nó không hút nhụy hoa làm mật, mà ăn côn trùng. Ong bắp cày tấn công các tổ ong khác để ăn ong non. May mà bọn mày chỉ bị ong
mật đốt, chứ nếu là ong bắp cày thì đã bỏ mạng rồi. Đó là loại ong độc nhất rừng. Lần sau thấy nó, nhớ phải tránh xa.
Nhưng Sơn còn ngạc nhiên hơn khi nghe Linh và Việt Bắc kể về chuyện hai con rắn. Nó nói với Linh:
– Mày thoát được cú ngoạm của con hổ mang chúa là phúc lớn đấy.
– Sao gọi nó là hổ mang chúa?
– Hổ mang chúa là vua của các loài rắn. Nó là loài rắn to nhất, độc nhất và mồi săn của nó là các loại rắn khác. Tao đã nhìn tận mắt hổ mang chúa cắn chết con trâu mộng chỉ bằng một cú táp. Nhưng hổ mang chúa không tấn công người, nếu mình không chọc giận nó. Lần sau gặp, bọn mày chỉ nên xua nó đi.
Tự Thắng hỏi:
– Mày nói hổ mang chúa chỉ ăn rắn. Như vậy là nó bắt rắn tranh với mày, sao mày lại bênh nó?
– Tao chẳng thấy ảnh hưởng gì. Hổ mang chúa có từ lúc tao chưa đẻ ra, vậy mà tao có thiếu rắn để bắt đâu. Rắn nào cắn tao cũng chữa được, nhưng hổ mang chúa cắn thì chịu. Nó là loại rắn duy nhất có thể cắn nhiều phát trong một lần ngoạm.
Sau khi xem xét chỗ hai con rắn nằm đêm qua, Sơn đi sâu vào bên trong. Khi trở ra, nó nói:
– Không thể ở lại hang này được. Có nhiều rắn lắm. Không phải bỗng dưng hổ mang chúa tới đây.
– Mày đã đến đây nhiều lần, sao không biết hang này lắm rắn?
– Bọn tao chỉ ghé qua nghỉ và ăn, không kiểm tra sâu bên trong. Với tao, ở đâu càng có nhiều rắn càng tốt. Nhưng chúng mày thì không ở trong hang rắn được.
Sơn quay ra, xem các vết ong đốt của Hoài Nam. Nó chẳng nói gì, chỉ lắc đầu quầy quậy, rồi đứng dậy đi kiếm lá thuốc. Việt Bắc đi theo. Sơn vừa hái lá cây, vừa giải thích cho Việt Bắc tác dụng chữa bệnh của từng loại lá. Chẳng hạn như cái cây hai đứa đang hái, khi khỉ con bị thương, khỉ mẹ sẽ lấy lá vò nát, rịt vào vết thương và nhai nát, mớm cho khỉ con ăn. Người bị sốt hoặc đau họng hay đau răng, ăn lá này là đỡ. Ngày xưa làm gì có trạm xá. Tất cả bệnh tật đều chữa bằng thân, lá, rễ, củ của các loại cây, cỏ… Việt Bắc thấy lạ, hỏi hết câu nọ đến câu kia. Câu nào Sơn cũng trả lời rất nhiệt tình. Xưa nay, với bọn sơ tán, Sơn luôn là đứa nhìn lên, nay được dịp giảng giải, chỉ bảo cho chúng, nó cũng thấy thích. Sơn lấy dao đánh dấu một cái cây, dặn nếu có đứa nào bị rắn cắn thì lấy lá giã nát, vắt lấy nước cho uống, còn bã đắp vào vết thương. Nó biết, với bọn thành phố cây nào cũng giống cây nào nên dặn đi dặn lại. Chữa rắn độc cắn, nhầm cây nọ với cây kia là chết người ngay. Việt Bắc không ngờ mình học được phương pháp chữa rắn gia truyền nên rất khoái chí. Nó ghi nhớ kỹ vị trí của cái cây, biết đâu có dịp trổ tài.
Trở về hang, Sơn lấy lá đem giã, vắt nước bắt Hoài Nam uống. Nó ngắt lá cây con khỉ, bảo Hoài Nam ăn. Nếu vẫn không hạ sốt, sẽ phải đưa đi trạm xá. Nọc ong mật tuy không độc lắm, nhưng Hoài Nam lại bị đốt quá nhiều. Sau đó, cả bọn đi lấy tổ ong. Sơn phân công Linh và Tự Thắng nhặt những cành củi và lá khô, Việt Bắc kiếm
mấy tàu lá to, còn mình đi chặt mấy cây giang. Nó buộc củi và cành khô vào các cây giang rồi châm lửa. Chờ khói bốc lên vừa đủ, Sơn từ từ đưa từng cây lại gần tổ ong để hun. Cây này sắp hết khói, nó đẩy tiếp cây khác. Cả khu vực xung quanh tổ ong khói mù mịt. Ban đầu lũ ong kiên quyết cố thủ, nhưng rồi chúng cũng đầu hàng và bỏ đi…
Sau nửa giờ hun khói, bốn thằng hỉ hả tha về một tổ ong to như cái nón. Sơn dùng dao tiện một cây giang thành nhiều đoạn. Nó đổ mật qua một cái phễu lá vào các ống giang rồi nút lại. Lấy hết mật, nó giũ nhộng và ong non ra, trong đó có cả những con ong sắp biết bay. Nếu có mỡ, xào nhộng ong với lá lốt là ngon nhất, nhưng không có thì ăn sống. Chỗ sáp được cắt thành những miếng nhỏ, chia cho mọi người. Từ sáng chưa có gì bỏ vào bụng nên trừ Hoài Nam, đứa nào cũng ăn ngấu nghiến. Sơn ép Hoài Nam uống mấy hớp mật ong, nhưng nó uống vào lại nôn ra hết.
Sơn mang theo một cuộn dây thừng dài và một chiếc ba lô, trong đó có 5 thanh lương khô 701, bốn gói đường nhỏ trong giấy báo, mười hai cái kẹo. Sơn chỉ cái ba lô nói:
– Ba lô của Thạch Bột đưa. Nó dặn nếu gặp bọn mày thì chuyển hộ. Tao không nhận, nói không biết chúng mày trốn ở đâu thì nó nói: “Anh cứ giữ lấy. Nếu các anh ấy không về Hà Nội, thể nào cũng liên hệ với anh.”
Tự Thắng lo lắng:
– Sao nó biết mày liên quan đến bọn tao mà gửi đồ? Nó đã nghĩ như thế các thầy cô cũng sẽ nghĩ thế và theo dõi mày. Có ai trông thấy mày đến đây không?
– Mày yên tâm. Tao rất cẩn thận, chờ nó đi khuất rồi mới đi tiếp. Không ai dò theo đâu.
– Tinh hình ở trại từ lúc bọn tao trốn thế nào?
– Thạch Bột nói mọi người tìm khắp nơi không thấy nên đoán chúng mày trốn về Hà Nội. Thầy Khải đã về dưới đó. Hoài Nam chỉ tay lên vách đá nói:
– Lúc nãy tao tỉnh dậy, thấy ở đằng kia có hai con rắn. Một con xanh, một con đỏ cuộn tròn lấy nhau.
– Mùa sinh sản. Chúng cuộn với nhau là chuyện bình thường. – Nhưng hai con rắn này có mào, trông rất lạ.
Việt Bắc nghi ngờ:
– Rắn làm sao có mào được. Chắc mày ốm, thấy rắn sợ quá nên tưởng tượng thêm vậy.
– Chắc chắn tao không nhầm.
Sơn nói:
– Rắn có mào là rắn thần đấy. May mà chúng mày chưa làm gì các ngài. Phải chuyển chỗ ở ngay thôi.
Việt Bắc gật lia lịa:
– Đi càng nhanh, càng xa chỗ này càng tốt. Tí nữa thì tao đã bỏ mạng ở đây. Phải gọi cái “trạm dừng chân” của mày là hang rắn mới đúng.
– Vậy từ nay trở đi bọn mình gọi nó là Hang Rắn.
– Cụ Phượng của mày không tốt. Chỗ tử tế không dẫn, lại dẫn vào cái hang toàn rắn độc thế này.
– Đừng nói thế phải tội. Đó là các Cụ muốn thử thách bản lĩnh của bọn mày. Nhưng chắc chắn phải chuyển tới động Người Xưa, không ở đây được. Từ đây lên tới động Người Xưa cũng bằng từ hồ lên đây.
– Đúng rồi, bọn tao thử thách thế là đủ rồi. Mình chuyển luôn chứ?
Sơn sờ trán Hoài Nam. Nó lắc đầu rồi bắt mạch và nói: – Bây giờ phải đưa Hoài Nam đi trạm xá đã. Mai tao sẽ vào sớm dẫn bọn mày chuyển chỗ.
Hoài Nam phản đối:
– Tao không đi đâu.
– Mày bị ong đốt nhiều quá nên phải đi. Đã có những người chết vì ong đốt rồi đấy.
Nghe nói sẽ chết, Hoài Nam nín lặng. Việt Bắc tỏ ra lo lắng : – Nếu thấy Hoài Nam về, thể nào mọi người cũng bắt nó khai chỗ bọn mình trốn.
– Tao sẽ dẫn Hoài Nam tới nhà thằng Sính, nhờ mẹ nó đưa đi trạm xá huyện chữa. Huyện nhà nó toàn người dân tộc, không ai biết chuyện chúng mày trốn trại đâu.
Hoài Nam bảo Việt Bắc:
– Tao không khai ra bọn mày đâu mà sợ.
Tự Thắng nắm tay Hoài Nam:
– Nếu vì mày phải đi trạm xá mà bọn tao bị lộ, bọn tao cũng không trách mày.
"""