🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đất Nước
Ebooks
Nhóm Zalo
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Nhà văn Hữu Mai rất quen thuộc với bạn đọc qua những tiểu thuyết sử thi về đề tài chiến tranh cách mạng. Đất Nước là một trong những thành công tiêu biểu của ông về thể loại này. Tiểu thuyết Đất Nước ra đời vào năm 1984 với số lượng 32.200 bản đã nhanh chóng đi vào bạn đọc.
Chúng ta đã có một số tác phẩm viết về những năm đầu chiến tranh. Nhưng chỉ ở Đất Nước, người đọc mới tìm thấy một cái nhìn toàn cảnh đối với cuộc kháng chiến. Tác giả đã giới thiệu với người đọc tình hình cuộc chiến bằng một thực tế cụ thể, sinh động đồng thời mang tính khái quát, làm nổi bật lên những nét đặc thù của cuộc kháng chiến, báo hiệu sự ra đời của nghệ thuật chiến tranh toàn dân Việt Nam. Qua hệ thống nhân vật trong tác phẩm, nhà văn đã phác họa quy luật hình thành tính cách con người Việt Nam trong chiến tranh.
Cuộc chiến chống xâm lược lần này khởi đầu từ các đô thị, với Thủ đô Hà Nội là trung tâm. Qua Đất Nước, người đọc đã thấy mọi tầng lớp nhân dân Thủ Đô đã dấn thân vào công cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc như thế nào. Đó là những người không phân tuổi tác, tôn giáo, giàu nghèo, từ em bé nhi đồng đến những ông già, nhưng đông đảo vẫn là các tầng lớp nam nữ thanh niên, đủ mọi màu sắc: bộ đội, công nhân, học sinh, dân nghèo thành thị, anh nhạc công, anh đầu bếp, và cả cô gái bán hoa ở ngõ Sầm Công. Những con người với xuất xứ rất khác nhau đã trở thành những chiến sĩ quyết tử cho “Tổ Quốc Quyết Sinh". Không chỉ có thế, tác giả còn cho thấy rõ họ đã làm như thế nào để tồn tại suốt 60 ngày đêm giữa vòng vây của kẻ thù, lớn lên thành một trung đoàn và rút ra an toàn.
Cũng chính những con người đó đã hòa vào trong cuộc chiến đấu toàn dân tại Việt Bắc, Đông Bắc góp phần đánh bại cuộc tấn công lớn nhất và cũng là duy nhất vào căn cứ địa Việt Bắc, đánh bại chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của Pháp.
Chiến tranh được miêu tả bằng một ngòi bút hiện thực nghiêm ngặt, có mặt sáng mặt tối, đi đôi với cái nhìn tổng quát, những lời bình giải của tác giả, giúp người đọc hiểu rõ những biến cố lịch sử. Ở đây biện chứng lớn của chiến tranh, của cuộc sống hòa quyện với biện chứng nhỏ tâm hồn các nhân vật tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm. Tác giả đã lý giải được một phần cái điều cho đến nay vẫn là câu hỏi lớn đối với nhiều nhà sử học. Với những con người như thế nào, cách đánh như thế nào chúng ta đã vượt qua những thử thách vô cùng khắc nghiệt trong cuộc chiến đấu hoàn toàn không cân sức những năm đầu chống Pháp để cuối cùng đi tới chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Trên đây là đôi điều chúng tôi muốn giới thiệu với bạn đọc khi tái bản cuốn tiểu thuyết sử thi Đất Nước của nhà văn Hữu Mai.
PHẦN I
1
Phố Thái Phiên, một đường phố ngắn ít quen thuộc ở Hà Nội, nối liền phố Huế và phố Lê Lợi, tối nay vắng vẻ. Ánh sáng của những ngọn đèn đường yếu ớt. Những ngôi nhà, cửa đóng im ỉm, như đứng thu mình dưới rặng cây bàng về mùa đông lá vẫn sum sê. Không phải đợi gió mùa khô hanh đã xua đi những hoạt động thường ngày trên đường phố. Mấy ngày qua, tự vệ đến từng nhà hối thúc đồng bào tản cư. Lần này, người ta cảm thấy không còn là chuyện để phòng xa. Nhiều gia đình đã kéo nhau đi vãn.
Chiến tranh có vẻ gần kề. Nhiều chiến lũy xuất hiện trong thành phố. Những chiến lũy thật sự, khác xa với những bàn ghế, cánh cửa và trăm thứ đồ dùng tạp nham trong nhà được xếp đống trên đường như trước đây mỗi khi quân Pháp khiêu khích. Một hào sâu gắn liền với một ụ đất cao ken hai bên những cột gỗ lớn, tua tủa những thanh sắt đường tàu điện, xe lửa, những tấm tà vẹt, bít kín hẳn từng dãy phố. Bọn lính mũ đỏ không còn ngông nghênh kéo đi từng tốp nhỏ trên phố Tràng Tiền khiêu khích tự vệ, công an. Chúng biết làm như vậy vào lúc này có thể mất mạng. Chúng đã chuyển sang những cuộc hành binh dùng cả xe tăng, xe bọc thép tiến vào khủng bố từng khu phố.
Mới xa Hà Nội một tuần, tối nay trở lại thành phố. Phong thấy không khí đã khác nhiều.
Ngôi hàng cà phê duy nhất của phố Thái Phiên vẫn có ánh đèn nhiều xe đạp dựng trước cửa. Gia đình bác Mô-ka vẫn chưa tản cư. Phong rẽ vào. Khách không đông lắm. Phong chọn được chỗ ngồi ưa thích ở góc nhà. Lần đầu Phong đến cửa hàng cà phê này do sự tình cờ. Anh đã nhận thấy ngay chủ nhân không phải là người chuyên nghiệp. Ông cũng giống như nhiều
người ở thành phố trở thành thất nghiệp sau ngày Nhật đảo chính Pháp. Họ xoay sang mở cửa hàng giải khát, một nghề dễ làm và không cần nhiều vốn liếng. Ngoài cửa không có biển tên hiệu. Trong nhà, trên tường chỉ có một tấm bảng đề mấy chữ "Cà phê Mô-ka bơ", vẽ hình một tách cà phê bốc khói không lấy gì làm hấp dẫn. Bàn ghế cho khách mỗi thứ một kiểu, chắc là được thu thập từ nhiều nơi về. Chướng nhất là bộ xa lông khảm to kềnh đặt giữa nhà. Thay vào dàn nhạc và những ca sĩ như ở các tiệm giải khát sang trọng quanh Hồ Gươm, là một chiếc máy thu thanh kiểu cổ được mở hầu như tất cả các giờ phát thanh. Ông chủ người hom hem có mái tóc đen dày và một bộ ria lởm chởm chắc không bao giờ được chăm sóc. Ngồi ở quầy thu tiền, một bà đứng tuổi, tóc vẫn đuôi gà, dáng người thanh mảnh, ăn mặc óng chuốt. Người đưa hàng cho khách là mấy cô gái, nét mặt giống mẹ, ít nói, ít cười.
Phong sẽ không trở lại cửa hàng này nếu tối hôm đó anh không bất chợt được nghe tại đây một bản tin của đài Tiếng nói Huê Kỳ, phát thanh viên rõ ràng là ngườiViệt nhưng có giọng cổ họng và cách nói nhấn âm như người Anh, loan tin: "ông Hồ Chí Minh, Tổng thống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam tại Hà Nội". Hình như cái bác người Việt ở nơi xa xôi ấy cũng đang rất vui sướng vì sự kiện vừa xảy ra ở Tổ quốc mình nên đoạn tin ngắn này vang hẳn lên như một hồi kèn thắng trận.
Phong hay tới đây vì bị hấp dẫn bởi cái máy thu thanh chủ hàng thường chiêu đãi khách cả những buổi phát tin tiếng Việt của nước ngoài. Khách hàng lui tới tiệm cà phê này số không ít cũng là những người sính tin. Ông chủ mở máy vào những giờ phát tin không chỉ để chiều khách mà vì chính ông cũng rất thích thời sự. Trong những người Phong quen biết có lẽ ông là người thông thạo nhất những tin tức mới vì ông chăm nghe dài. Hơn nữa, cà phê của ông cũng không phải xoàng. Nước cà phê đen sánh như mật, mùi thơm quyến rũ. Uống xong tách cà phê, hương vị còn lưu lại. Có người nói ông Mô-ka nghiện thuốc phiện nên đã trộn thêm nó vào cà phê. Cũng có người nói ông khéo chọn
giống cà phê tốt, khéo rang xay, chứ nếu trộn thêm thuốc phiện vào thì ông không thể bán với giá bình dân như vậy.
Phong thờ ơ nhìn tấm bảng quảng cáo: "Bổ thận đại vương! Chè Long nhãn trứng" mới treo trên tường. Anh cũng chưa phải là người nghiện cà phê. Tách cà phê ngon của cửa hàng này đối với anh không mang lại thích thú hơn một cốc kem hay một bát phở. Anh cũng như nhiều người dân khác, những năm tháng gần đây bắt đầu có một thói quen mới là chính nghe thời sự, đặc biệt những gì có liên quan đến tình hình đất nước. Anh không thể không rẽ vào cửa hàng của ông Mô-ka, vì không biết tên ông nên khách hàng thường gọi ông như vậy, mỗi lần anh ở nơi tản cư về.
Một trong số những người khách ngồi ở chiếc bàn phía trong, vừa lên tiếng hỏi ông chủ:
— Bác Mô-ka có đồng ý với câu"Thăng Long phi chiến địa" không? ông chủ trả lời khá to như muốn để mọi người cùng nghe:
— Tôi không tin. Câu sấm đó mất thiêng từ khi Mỹ bỏ bom xuống ga Hàng Cỏ rồi. Nhưng tôi cho rằng Hà Nội chưa có chiến tranh.
Nhiều người quay về phía ông Mô-ka. Đây là một vấn đề thời sự nóng hổi mà ai cũng quan tâm. Ông Mô-ka đặt chai nước cốt cà phê màu nâu đen xuống bàn, nói tiếp:
— Đác-giăng-li-ơ vềPháp rồi, một mình Va-luy ở bên này không dám quyết định chiến tranh.
— Nếu nó được quyết định từ bên kia thì sao? - Người khách lại hỏi. — Đã tính cả chuyện ấy. Các ông có đọc kỹ bài Nhật ký Pa-ri đăng trên báo Cứu Quốc không...? Sau mấy năm Hít-le chiếm đóng, nước Pháp kiệt quệ lắm rồi. ăn còn chưa đủ lấy gì mà đánh nhau! Hơn nữa, phải xem chính phủ hiện nay là chính phủ nào? Blom vừa lên, Blom là bạn thân của Cụ Hồ, Blom lại là thủ lĩnh đảng xã hội. Không thể nào Blom để xảy ra chiến tranh với ông bạn già khi mình làm thủ tướng.
Những điều ông Mô-ka nói khác với những gì Phong thường nghe mấy ngày gần đây. Nhiều người nói chiến tranh sắp nổ ra. Phong liếc mắt nhìn mấy
anh tự vệ đầu đội ca lô, mặc áo blu dông Mỹ sang trọng. Kể cả họ cũng không lên tiếng phản đối. Ông Mô-ka không quên họ. Ông quay về phía họ nói tiếp: — Tôi rất tán thành việc làm của các vị. Phải đào hào, đắp lũy. Phải tích cực chuẩn bị vũ trang. "Nếu anh muốn hòa bình thì hãy chuẩn bị chiến tranh"... Đúng như vậy phải không các vị?
Những anh tự vệ chỉ gật gù. Họ dường như không biết nói sao trước những lý lẽ xác đáng của ông chủ hiệu cà phê.
Bà chủ nhà vẫn đứng chờ bên quầy pha chế không dám ngắt cuộc trao đổi đang hòa hứng của chồng, lúc này mới nhắc nhẹ nhàng:
— ông khách mới đến ngồi bàn ngoài dùng cà Phê.
ông Mô-ka quay ra nhìn Phong, giơ hai tay ra hiệu nhận lỗi rồi lại cầm lấy chai nước cốt cà phê đặt trên bàn.
— Phen này thì Già Hồ bạc hết râu!
Phong nhận thấy giọng nói bỡn cợt này có vẻ quan quen. Anh chú ý nhìn đám người đang nói chuyện với ông Mô-ka. Một người mập mạp, đội chiếc mũ nồi che kín vừng trán. Đúng là Hưởng. Anh ta đang cười mũi như mọi lần.
ông Mô-ka đặt chiếc xoong con hâm cà phê lên bếp cồn, quay lại nhìn hưởngnói với vẻ trang nghiêm:
— Chính trị Cụ Hồ thì khỏi phải bàn! Ngày hai chục vạn quân Tàu sang, ai cũng tưởng chúng sẽ ở lại ta độ trăm năm nữa. Cụ Hồ không tốn một viên đạn, chỉ hạ tay ký một chữ là tất cả phải cuốn xéo không còn một tên!
Hưởng chỉ cười hí hí không nói gì thêm. Phong đã quen cái kiểu cười này, không ai biết khi cười như vậy thì anh ta nghĩ gì.
Một người ngồi cùng bàn với Hưởng, bỗng nói to:
— Xin cụ một "bổ thận đại vương"!
Cả bọn cười ầm.
ông Mô-ka không cười. Và từ đó chỉ chăm chú vào việc pha chế. Phong nhấm nháp một ngụm cà phê cảm thấy ngon hơn mọi lần. Không biết vì trời lạnh hay anh bắt đầu nghiện.
Phong ngước mắt nhìn lên, bát gặp nụ cười của người ngồi trước mặt cùng chung một bàn. Mãi đến giờ. Phong mới chú ý đến anh ta. Với dáng người mảnh mai và đôi mắt lắp lánh sau làn kính cận, anh ta có vẻ là một sinh viên. Một sinh viên đã hòa vào thời thế. Điều đó chứng tỏ qua bộ quần áo ka ki Mỹ màu xám may theo kiểu quân phục mà Phong đã nhận ra, mặc dù anh ta đã trùm lên bên ngoài một chiếc áo len đen dày dặn. Thời trang hiện nay là mặc quần áo theo kiểu nhà binh.
Nụ cười của anh ta khá dễ thương. Phong mỉm cười đáp lại. Chắc anh ta cũng vừa theo dõi câu chuyện của những người ở bàn phía trong như Phong. — Đánh nhau thì đánh luôn đi cho rồi! - Anh nói giọng miền Trung. Cái giọng nói hiền lành và ngây thơ như giọng trẻ con.
Nhìn cái xắc nhỏ từ lúc vào anh vẫn đeo liền bên người, Phong hỏi: — Anh từ Trung Bộ ra?
— Mình ở Huế ra - Anh trả lời với giọng thân mật- Đánh nhau luôn thì mình khỏi phải vô Huế lại.
— Chắc anh học ở Khải Định?
— Trước kia có học qua Khải Định.
Khải Định là trường trung học ở Huế. Nếu vậy chắc chắnanh phải là sinh viên.
Anh đeo kính nói tiếp:
— Không học có lẽ hay hơn. Càng học càng thấy con người và việc đời khó hiểu. Mình có ông anh rê chỉ học hết cái "pri-me" , dốt thấy mồ, nhưng bố mình lại rất thương. Con mình thì ông cụ ghét không muốn nhìn.
Vì sao mới gặp mình lần đầu mà anh ta đã thổ lộ tâm sự một cách dễ dàng? Anh ta có vẻ khinh bạc, chán đời, nhưng lại thích chiến tranh? Mấy câu nói của anh đã gợi cho Phong sự tò mò. Phong cũng chuyển sang giọng nói thân mật:
— Ra Hà Nội lâu chưa?
— Lần này thì mới ra, nhưng trước đây mình đã học ở Hà Nội... - Anh ngập ngừng rồi nói tiếp - Chán học, mình bỏ trở về Huế... Cậu có thích Angdé
gida không?
— Không thích lắm, vì đọc Gi-dơ, mình không hiểu.
— Như vậy cậu là người sung sướng... Gi-dơ ghê gớm lắm! Phong muốn biết thêm về con người này:
— Cậu muốn biết thêm về con người này:
— Cậu ra Hà Nội có công tác ư?
— Có mà không... Một thầy học cũ của mình, hiện nay là một nhân vật của Chính phủ, đo công cán qua Huế, gặp mình. Cách đây một tháng, ông gửi thư cho mình, bảo ra làm việc với ông ở Bộ Ngoại giao. Mình đang thích xa Huế, đi luôn. Nhưng khi đến Hà Nội, gặp thầy ở cơ quan thì thấy ông quan trọng quá... mình bắt đầu ngại. Làm việc được ít hôm, mình nhận thấy không nên tiếp tục nữa, mặc dù đó là công việc của một anh ký quèn chẳng khó khăn gì. Điều thúc đẩy mình nên thôi việc là ông thầy cũ vẫn coi mình như anh học trò gần mười năm trước đây. Mình phải đi để giữ trọn vẹn tình cảm với thầy... Cậu nhìn cái nhân vật ngồi phía sau lưng mình, gần quầy tính tiền... Đừng để hắn biết mình chú ý đến hắn...
Người mà anh đeo kính vừa nói là một chỉ huy tự vệ, vóc dáng to lớn, mặc bộ quân phục rất sang, đeo một thanh kiếm dài, ngồi chiếm cả nửa cái bàn, đang xì xụp ăn chè long nhãn. Phong nghĩ bọn Tây mũ đỏ gặp anh tự vệ này chắc cũng phải kiêng nể.
— Nhìn rõ chưa? - Anh đeo kính hỏi.
Phong gật đầu.
Anh đeo kính thì thầm:
— Mình quen cậu ta. Cách mạng lên, nó chỉ thay đổi có cái sao vuông. Trước đây làm "gác-điêng đờ pe"cho Pháp nó cũng oai vệ như thế! Phong bắt đầu thích con người tự do và cởi mở này. Một lát sau, Phong biết anh đeo kính tên là Tôn Thất Lượng, có bố làm quan trong triều đình Huế. Họ đã tìm thấy giữa họ có một điểm giống nhau: rất ghét những người xu thời. Nhưng về tất cả mọi mặt, Phong cảm thấy Lượng hơn mình một cái đầu.
Lượng đã chán ngấy cái nhà anh ở trọ gần hai tuần nay tại Hà Nội. Phong mời Lượng về nhà mình.
Thành phố không đến nỗi quá vắng vẻ như lúc ban tối. Nhiều nhà đóng cửa nhưng vẫn còn người ở lại. Những anh tự vệ tất bật chạy ngược, chạy xuôi. Họ đeo ở thắt lưng những quả lựu đạn đủ kiểu. Họ xách choòng, cuốc chim, đi từng tốp vào những ngôi nhà. Họ hí hoáy khoan lỗ trên thân những cây bàng, cây sấu dọc hè phố. Địch ở rải rác nhiều nơi trong thành phố. Ta không thể bít ngay tất cả mọi con đường. Ta chuẩn bị sẵn sàng để có thể hạ ngay những cây này vào lúc cần thiết. Những anh tự vệ phần lớn vào trạc tuổi Phong. Chính họ tạo nên không khí khẩn trương của thành phố. Thái độ của họ hăng hái. Hơn thế, nhiều người còn như say sưa và vui vẻ với công việc chuẩn bị đánh nhau này.
Nhân nhìn thấy Hưởng trong hàng cà phê tối qua, một loạt những kỷ niệm đã lần lượt hiện lên trong đầu óc Phong. Sáng nay, anh quyết định việc làm đầu tiên của mình là đến thăm ngôi nhà ở xóm Hạ Hồi, một xóm nhỏ toàn nhà gạch nằm giữa Hà Nội, gần hồ Thiền Quang.
Bố Phong làm nghề tư ký cho những hãng buôn tư nhân. Thời buổi kinh tế khủng hoảng, ông chạy từ tỉnh này qua tỉnh khác kiếm việc làm, lôi theo cả gia đình trôi nổi như một con thuyền. Mấy năm trước, gia đình Phong từ Hải Dương đã chuyển về Hà Nội vì bố anh xin được chân kế toán ở một hãng rượu của người Pháp. Phong vừa tốt nghiệp trung học thì ông mất vì bệnh sốt rét định kỳ. Gia đình anh lâm vào cảnh thiếu thốn. Một người bạn cũ của bố anh đã dẫn anh đến một gia đình ở xóm nhỏ này xin cho anh được dạy học thêm vào những buổi tối. Người giới thiệu phải khai tăng số tuổi anh. Phong chỉ hơn cô học trò lớn nhất chừng hai, ba tuổi. Ông bà chủ hài lòng vì anh nhận kèm cả ba đứa con với giá rẻ, nhưng vẫn ngại cậu giáo quá trẻ, không biết các con có chịu học hay không. Rầy rà nhất là hai cậu bé cứ nói cậu giáo chỉ đáng tuổi anh chủng. Anh kiếm được việc làm là nhờ có cô chị. Sau vài buổi học, cô chị khen cậu giáo giảng dễ hiểu. Khi thấy chị chịu học rồi, những đứa nhỏ mới hết chê bai.
Những ngày ở gia đình này là những nhày hạnh phúc nhất và cũng đau khổ nhất đối với anh. Anh biết hạnh phúc sẽ nhanh chóng bay đi, còn đau khổ sẽ lắng đọng lại trong anh đến hết cuộc đời.
Cho đến bây giờ Phong cũng không thể tả lại Kiều Oanh, cô thiếu nữ đó có bộ mặt xinh đẹp như thế nào. Lúc nào anh cũng thấy bối rối trước những vẻ đẹp khác nhau của cô. Khi cô chăm chú nghe giảng một định lý. Khi cô lo sợ vì chưa tìm được cách giải một bài hình. Khi cô rụt rè hỏi cậu giáo có đồng ý đưa ba chị em đi xem một buổi chiếu bóng ban ngày để giải trí sau cả tuần học tập. Ngay cả nụ cười của cô cũng hay thay đổi. Cảm giác bao trùm của anh đối với cô gái là sự tinh khiết, cao quý khiến cho mình phải hết sức gượng nhẹ. Nếu cô là hoa thì cô phải là một bông huệ, không rực rỡ, đơn sơ, mảnh mai, bé nhỏ, nhưng không thua kém bất cứ bông hoa đẹp nào.
Kèm cô gái học, anh đã làm một công việc vượt quá sức mình. Anh phải nghiên cứu rất kỹ phần dành cho giáo viên dài dòng trong các sách giáo khoa. Nhưng khó khăn hơn cả là phải chế ngự những tình cảm của mình, giữ làm sao khỏi bối rối ghi gần cô gái. Mỗi lần cô gái dành cho cậu giáo những cử chỉ, những tình cảm thân mật, tin cậy, là anh lại nghĩ ngay con chim vàng anh này sắp tuột khỏi tay mình.
Cô gái thi đậu. Cả nhà vui mừng tổ chức một bữa tiệc gia đình để cảm ơn cậu giáo. Tiệc mừng này đối với anh chính là tiệc chia ly vì đã tới lúc anh phải xa Kiều Oanh.
Khi không còn dịp lui tới ngôi nhà, những tình cảm của anh lại càng thêm da diết. Đối với anh, thế gian này chỉ còn có một cô gái. Mỗi lần đi ngang xóm Hạ Hồi, trống ngực anh lại đổ dồn. Mỗi ngôi nhà, mỗi bức tường, mỗi viên đá lát đường, ở đây đều có uy lực với anh. Vì nó gắn bó với người anh yêu. Anh dè dặt đặt từng cử chỉ khi gặp một người, dù không quen biết, ở xóm này đi ra. Anh lo sợ họ có thể nói những lời không hay về mình đến tai cô gái. Anh đã mất không biết bao thời giờ qua lại trước cửa trường Đồng Khánh để được nhìn cô lúc tới trường hay vào giờ tan học. Chỉ cần thoáng thấy cô nhanh nhẹn, hai cánh áo màu tung bay, đi giữa các bạn, là anh mãn nguyện.
Nếu được cô nhìn thấy, mỉm cười chào, hoặc nói đôi câu thì đó là một hạnh phúc kéo dài trong nhiều ngày. Chỉ vài năm sau, cô đã quá lớn, không thể chào anh bằng "cậu giáo" như trước ở chỗ đông người. Lần đầu được cô gọi bằng "anh", Phong sướng muốn phát điên. Anh đã vượt được qua một lớp rào ngăn cách. Nhưng không phải chỉ có một lớp rào.
Phong mất nhiều công phu để nối lại mối quan hệ với hai chú em Kiều Oanh, chơi với các chú như một người bạn hơn tuổi. Cả hai cậu em đã kéo Phong trở lại gia đình. Kiều Oanh cũng chủ động trêu đùa anh là "cậu giáo" trước đây khai man tuổi. Cô thân mật coi Phong như một người anh. Rõ ràng cô gái cũng có những tình cảm đối với mình. Anh cho rằng những tình cảm đó bị chế ngự một thời gian dài vì tình thầy trò. Nhưng anh cũng sớm nhận ra cái ranh giới khắc nghiệt ngăn cách giữa anh với cô là hoàn cảnh kinh tế giữa hai gia đình. Gia đình Kiều Oanh không giàu. Nhưng gia đình anh thì lại quá nghèo. Mẹ anh và anh phải chạy ăn hàng tháng. Đó chính là bức tường mà anh không thể vượt qua. Một vài triệu chứng cho anh biết là cái ngày anh lo sợ nhất đang đến gần. Một sáng chủ nhật đến đầu xóm Hạ Hồi anh nhìn thấy một đoàn xe nhà dài dằng dặc, chở những ông bà ăn vận sang trọng mang theo những chiếc "quả" sơn son thếp vàng, đang chạy vào xóm. Người anh lạnh hẳn đi. Anh cố trấn tĩnh bước theo đoàn xe. Khi nhận thấy rõ ràng chiếc xe đầu rẽ vào nhà Kiều Oanh, anh vội quay trở ra như người chạy trốn.
Một thời gian dài. Phong có thái độ dửng dưng với tất cả những cô gái. Tình yêu ở anh nếu không phải đã chết thì cũng bị một đòn đau bất tỉnh, cần phải có thời gian để hồi sinh. Xóm Hạ Hồi không còn là mảnh đất thiêng liêng đối với anh. Phong trở lại đó một phần vì Tước, em Kiều Oanh, đã coi anh là một người bạn thân. Một phần khác vì Uyên, chị gái lớn của Kiều Oanh, tỏ ra thông cảm với tâm trạng của anh. Trong gia đình này, hình như chỉ có chị hiểu điều đó. Đôi lần chị đã nói với Phong những lời xa xôi, như để an ủi, làm cho Phong đặc biệt cảm động. Nếu như qua chị, Kiều Oanh hiểu được một phần tình cảm của anh, một việc trước đây Phong không bao giờ dám làm, thì đối
với anh là một điều an ủi thực sự. Tình yêu không nhất thiết đòi được đáp lại, nhưng nó đòi hỏi được biết đến.
Sau ngày Cách mạng thành công, Phong thấy Hưởng xuất hiện ở ngôi nhà này. Mới đầu, gia đình giới thiệu với anh đó là một người họ xa. Nhưng sau một vài lần lui tới, anh biết Hưởng có quan hệ với chị Uyên. Chị Uyên tâm sự với Phong, chị yêu tha thiết một người lớn hơn mình mười tuổi, chị có thể hy sinh cả cuộc đời vì người đó. Qua cặp mắt của chị khi nhìn Hưởng. Phong biết người mà chị nói chính là Hưởng.
Hưởng đối xử với chị Uyên với vẻ bề trên. Hơn thế, anh như có một uy lực đối với cả gia đình này. Hưởng độc chiếm một phòng lớn trong ngôi nhà, ở đó anh đặt bàn giấy, máy điện thoại như một văn phòng. Hình như Hưởng đang chỉ đạo công việc làm ăn mới của gia đình. Họ vừa mua về một máy xay xát lớn, và đang thuê thợ đặt máy ở nhà dưới.
Nếu Hưởng còn ở đây, chị Uyên chưa rời Hà Nội. Bỗng nhiên. Phong muốn gặp chị để hỏi thăm tin tức Kiều Oanh. Nay mai nếu chiến tranh nổ ra, chưa biết chuyện gì sẽ đến với mỗi người. Có nên tìm cách gặp lại cô ấy?... Biết đâu lần gặp này lại chẳng phải là lần gặp cuối cùng...?
Cánh cửa sắt được khóa cẩn thận bằng một chiếc xích lớn.
Phong bấm chuông. Trong lúc đứng chờ, anh đưa mắt ngắm ngôi nhà. Nó cũng bình thường như mọi ngôi nhà trong xóm nhỏ này. Không hiểu sao trước đây nó đã làm mình phải nể sợ đến thế?...
Phong bấm chuông lần thứ hai. Hưởng ló đầu ở khoang cửa sổ trên gác, cặp mắt ngơ ngác. Anh chỉ mỉm cười khi nhận ra Phong.
Hưởng ngậm chiếc píp ra mở cửa, đưa Phong vào buồng khách. — Tước đâu anh? - Phong hỏi.
— Cậu ấy bận suốt ngày, đi đục tường, đục cây...
Hưởng nhoẻn miệng cười. Hai hàm răng anh đều và chắc. Anh có bộ râu quai nón thưa, mọc lởm chởm.
Sáng nay nhìn rõ mặt Hưởng, anh thấy Hưởng hơi già đi. Bộ râu của Hưởng tạo một cảm giác gai gai. Đàn bà có khó chịu khi người đàn ông có bộ
râu thế kia mà chẳng chịu cạo không? Phong lại nghĩ đến chị Uyên. Chị đã trở thành một đường dây gắn bó giữa Phong và Kiều Oanh. Một sự gắn bó chỉ còn tác dụng an ủi. Dù như vậy vẫn còn hơn không?
Hưởng nhả píp, cầm tay, hỏi Phong:
— Tối qua, tôi nhìn thấy anh ở hiệu cà phê Mô-ka. Tôi tưởng anh đi tản cư với gia đình ông Toàn Thịnh?
Anh vẫn dạy bọn trẻ ở đấy chứ?
— Vâng. Tôi đã vào Hà Đông, mới về tối qa.
— Tình hình đang găng. Về làm gì?
— Cậu học trò trốn về Hà Nội. Gia đình nhờ tôi đi tìm.
— Nghe nói gia đình này có cô Dung xinh lắm phải không? — Cũng đường được...
— Tối hôm qua tôi định gọi anh, nhưng thấy không tiện vì vướng mấy ông tự vệ... Tôi bất cần, nhưng không muốn để họ chú ý đến anh... — Vì sao vậy?
— Vì sao... Tôi hay nói ngang, họ không ưa, thế thôi.
Hưởng cười hí hí. Phong nhận thấy anh cười như vậ khi muốn che giấu một điều gì.
— ông Mô-ka bảo chưa có chiến tranh. Tây chưa đánh ta... Anh thấy thế nào? - Phong hỏi.
— ông già khôn như cáo. Tôi cũng bảo chưa có chiến tranh. Tây chưa đánh ta mà ta cũng chưa muốn đánh Tây.
— Mọi người chuẩn bị tấp nận lắm.
— Để nắn gân Moócc-li-e... Mấy quả lựu đạn lọ mực, mấy chai ét-xăng cơ-rếp, vài ba khẩu súng săn...
— Đánh cái gì! Những ụ đất ở đầu Hàng Đào, Cầu Gỗ, xe háp-tơ-rắcchỉ cần năm phút là dọn xong. Già Hồ rành lắm! Đánh ngoại giao thôi, không đánh võ trang. Việt Minh chỉ giỏi mỗi cái tuyên truyền... Thánh đấy!
— Anh có nhớ ngày Việt Minh còn ở chiến khu không? Ai cũng tưởng là quân đông, khí giới tối tân. Đánh Tây, đánh Nhật, có cả quan hệ với Đồng
minh kia mà! Khi Quân Giải phóng kéo về Hà Nội, rút cục chỉ toàn súng lấy từ trại Bản an binh, quần áo cũng là quần áo "gạc anh-đi-giền" . Thậm chí "mác-sê ô pa"cũng chưa biết. Thế mà cũng gọi là quân đội!... Cậu Tước nhà này hôm trước đem về mấy quả lựu đạn Phan Đình Phùng. Tôi bảo: "Chú muốn đánh Tây thì mua mấy quả lựu đạn Mỹ hoặc mấy quả lựu đạn chày của Tàu về mà dùng. Đánh bằng lựu đạn này thì người chết không phải là Tây, mà người mất tay, có khi mất mạng sẽ là chú". Nó vặc với tôi một lúc. Nhưng ngày hôm sau, cậu lẳng lặng mang đi, chắc là đem trả...
Cho đến hôm nay. Phong vẫn đứng ngoài lề những hoạt động chính trị của Việt Minh, kể cả những hạot động chuẩn bị kháng chiến. Những ngày Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm trước. Phong hối hả chạy khắp nơi, xem Việt Minh chiếm Bắc Bộ phủ, chiếm trại Bảo an binh, đoàn Quân Giải phóng ở chiến khu về... Anh có thể đứng cả giờ trước loa phóng thanh nghe những bài hát cách mạng sục sôi như bốc lửa. Anh thực sự vui mừng trước cảnh nước nhà độc lập. Nhưng anh tự thấy mình chưa có gì gắn bó với sự nghiệp cách mạng. Sự nghiệp này không phải là của anh. Một số bạn bè Phong đã gia nhập các tổ chức của Việt Minh. Có người vào Vệ quốc đoàn. Nhưng anh không thích làm theo họ. Anh nghĩ họ là những kẻ xu thời... Nhưng lúc này ngồi nghe Hưởng nói thao thao, Phong bỗng thấy đắng cả miệng. Anh gượng hỏi:
— Tình hình theo anh rồi sẽ ra sao?
— Nếu đánh nhau thực sự thì Vệ quốc đoàn có thể bị đánh tan trong hai mươi bốn giờ đồng hồ, thậm chí trong một đêm như Nhật quật Pháp đêm mồng 9 tháng 3 năm 1945. Người sống sót chỉ còn cách lại chạy lên rừng. — Ta còn rất nhiều dân quân, tự vệ?
— Cái đó thì lâu hơn, nhưng không phải chiến tranh mà là những cuộc tảo thanh.
Phong không muốn tin những điều Hưởng nói là đúng. Nhưng anh không có lý lẽ gì để tranh cãi với Hưởng. Anh mong rằng lực lượng kháng chiến của ta không đến nỗi yếu kém đến như thế. Nhưng anh cũng phải nhận là những lời Hưởng nói đúng một phần. Từ Hà Nội ra đến vùng lân cận, anh thấy lực
lượng bộ đội ta thưa thớt và có ít khí giới. Đâu đâu cũng chỉ thấy dân quân, tự vệ. Họ đứng gác bằng giáo, mác, mã tấu. Thỉnh thoảng mới thấy có người đeo lựu đạn. Hưởng nói không sai. Nhưng tại sao Hưởng lại nói những điều này với một vẻ dường như thích thú?...
— Anh xem - Hưởng nói - tôi vẫn ở đây, vẫn cho dắt máy xay xát. Cụ Hồ tay trắng làm nên cơ đồ, không đời nào lại đem nướng cả cho Va-luy trong một đêm.
— Nhưng ở Nam Bộ thì sao? - Phong đã nghĩ ra điều đó - ở Nam Bộ ta đánh Tây hơn một năm?
— Anh tưởng thế à? Đó là tuyên truyền. Nam Bộ xong lâu rồi! Tây chiếm xong Nam Bộ mới tính chuyện đưa quân ra Bắc. Tuyên truyền giỏi lắm! Kiểu Nga hết! Mít tinh, khẩu hiệu, cả cái lối viết chữ nguệch ngoạc trên tường này cũng là Nga!... Cụ Hồ là âoí. Cờ đỏ, sao vuông, sao tròn cũng đỏ. Một ngày kia rồi anh xem, ngôi sao vàng trên lá cờ của ta sẽ nhỏ lại và có thêm hai cái búa liềm...
Lần đầu tiên, Phong được nghe những nhận xét mới mẻ này. Trước đây, Phong cứ tưởng mọi việc làm của ta là những hành động tự phát của dân chúng, và anh thấy có những cái không đẹp mắt lắm. Nhưng nếu tất cả những việc làm này đều dựa theo một khuôn mẫu, mà lại là khuôn mẫu của nước Nga, một cường quốc đã đánh thắng phát xít Đức, phát xít Nhật, thì phải đâu là chuyện đáng cười! Phong lại thấy tinh thần mình được củng cố.
Phong đứng dậy cáo từ. Hưởng cũng đứng lên, lại bên Phong nói nhỏ: — Chỗ tinh thần... nói thật với anh: thời gian này anh không nên đi lại đây nhiều. Mấy ông Việt Minh hay thành kiến không ưa gì tôi. Tôi không tiện đưa anh ra cửa Anh cứ khép tạm cổng, tôi sẽ ra khóa sau.
Có chuyện gì không bình thường ở con người này? Phong không có ác cảm với anh. Phong không muốn anh là một kẻ xấu, một người chống lại kháng chiến.
Lúc bắt tay Hưởng. Phong hỏi:
— Gia đình cô Kiều Oanh hiện nay ở đâu?
Hưởng nhún vai:
— Phải hỏi cô Uyên hoặc cậu Tước.
Nhưng cả chị Uyên và Tước đều không có nhà.
Đi tìm cậu học trò suốt ngày không thấy, trời đã xế chiều, Phong quay về nhà.
Trước đây gia đình Phong ở mãi ngoài cửa ô. Ông Toàn Thịnh đã nói với một người quen có ngôi nhà hai tầng rộng rãi tại phố Nhà Thờ, cho gia đình Phong đến ở nhờ. Chủ nhà là anh Năm, trạc ba mươi tuổi. Anh có một xí nghiệp làm thủy tinh dưới Hải Phòng. Căn nhà này anh thuê cho người vợ bé không có cưới xin. Gia đình Phong được ở hoàn toàn tầng dưới. Về sau Phong mới biết, anh Năm mời gia đình Phong về đây vì muốn nhờ mẹ Phong trông nom giúp cô vợ trẻ. Anh Năm nhiều khi vắng nhà cả tháng.
Sau ngày Tổng khởi nghĩa, một số cán bộ Quân Giải phóng hay lui tới nhà này. Anh Năm bắt đầu sắm quân phục ka ki Mỹ, đeo súng ngắn, có lúc đội mũ ca lô gắn sao vàng vành. Tuy vậy, anh vẫn tiếp tục buôn bán. Có người nói anh làm công tác kinh tài cho bộ đội Đệ Tứ chiến khu Đông Triều.
Cũng sau ngày Cách mạng thành công ít lâu, cô vợ bé xinh xắn của anh Năm bỗng dưng biến khỏi nhà. ít ngày sau, anh Năm đưa về hai cô gái da ngăm ngăm, có khuôn mặt tròn giống nhau, nói tiếng Sài Gòn. Họ là hai chị em từ Sài gòn ra Hà Nội học, không trở về nhà được vì chiến tranh nổ ra tại miền Nam. Cô chị làm nghề dạy nhạc để nuôi em. Hai chị em rõ ràng là con cái một gia đình giàu có, không may lỡ bước. Về mặt học vấn, họ hơn hẳn anh Năm. Cô chị nói tiếng Pháp và tiếng Anh trôi chảy, đánh đàn giỏi. Cô em hát hay. Anh Năm có vẻ mê cô chị. Đối với cô, anh dành một thái độ trọng vọng, khác hẳn thái độ đối với người vợ bé trước đây.
Pháp đánh chiếm thành phố Hải Phòng. Anh Năm lên Hà Nội sau khi đã đưa cả gia đình về quê. Anh dẫn về nhà một người bạn mới. Người này thấp nhưng thân hình chắc mập như một con dế. Anh ta đeo kính cận. Bộ quân phục dày cộp bó chặt lấy người. Cái quần đúng là quần của binh lính Nhật vẫn mặc trước đây. Khi anh ta đội trên đầu chiếc mũ sắt tròn, trông anh ta hoàn toàn
giống một võ quan Nhật. Khẩu súng ngắn anh ta đeo lủng lẳng bên hông cũng là súng Nhật. Phong đã có dịp xem khẩu súng này. Đó là một khẩu Chiêu Hòa, nước thép xanh bóng.
Theo lời anh Năm giới thiệu, đó là Hồng Kỳ, một người Nhật không chịu về nước, ở lại giúp Việt Nam chiến đấu. Vừa qua, Hồng Kỳ chỉ huy một đội cảm tử đánh Pháp rất anh dũng tại Hải Phòng. Hồng Kỳ bị sức ép của đại bác từ hạm tàu Pháp bắn vào, về đây để nghỉ ngơi.
Phong bước vào nhà, thấy Lượng đang ngồi nói chuyện với Hồng Kỳ. Phong chợt nghĩ nếu chiến tranh nổ ra tại Hà Nội, tự vệ khu phố này có thể lợi dụng khả năng quân sự của Hồng Kỳ.
Hồng Kỳ trỏ chén nước trà trên bàn nói:
— Cái tách này đang ở trước mắt chúng ta, bảo rằng có nó, cũng được, nhưng nếu bảo là không có nó thì cũng không sai. Tôi có thể chứng minh với anh là không có nó.
Lượng mỉm cười, vẻ bình thản:
— Mình không quan đến đến những chuyện rắc rối của những nhà triết học. Bảo nó có hay không thì nó vẫn cứ ở đấy, chúng mình vẫn cứ uống trà như thường.
Hồng Kỳ cũng là nhân vật mà Phong cảm phục. Anh chỉ hơi phân vân một chút về quốc tịch của anh chàng Nhật này. Nhìn nét mặt Hồng Kỳ chỉ vào trạc tuổi Phong. Nếu anh ta sang đây với đội quân của Nhật Hoàng thì anh ta đã đăng lính quá sớm. Hồng Kỳ hoàn toàn có dáng dấp của một người Nhậtkhi anh ló đầu với cặp kính ra khỏi cửa sổ, hỏi một người đi ngang đường: "ông ơi! Bao nhiêu giờ rồi?". Nhưngkhi anh ta ngồi nói chuyện như lúc này, Phong lại nghĩ có lẽ anh không phải là người Nhật. Anh quá thông thạo tiếng Việt. Anh không hề bao giờ tỏ ra là mình không hiểu bất cứ câu tiếng Việt Nào, kể cả những tiếng lóng.
Cách đối đáp của Lượng với Hồng Kỳ làm cho Phong rất thích. Lượng nói tiếp:
— Cái mà mình quan tâm, mình băn khoăn là mình không thể hiểu được chính mình. Trong mình không phải chỉ có hai, ba con người, mà đến hàng chục con người. Khi conngười này bảo mình làm thế này, thì con người kia bảo mình làm thế kia, mình không biết theo con người nào...
Thấy Phong về, họ bỏ dở câu chuyện.
Hồng Kỳ hỏi:
— Súng nổ ở đâu?
— ở Hàng Điếu và ở đâu nữa thì không rõ.
Lượng bình luận:
— Mấy ông tự vệ bịt đường, nó phá để lấy đường đi.
Hồng Kỳ nói:
— Tôi đã bảo chỉ đắp ụ là không tốt, phải đào hố, đào hố lớn trước ụ đất. Có hố lớn, xe tăng địch không thể phá được.
Lượng lại thủng thỉnh:
— Thôi, có đánh nhau thì đánh đi cho rồi!
Từ khi gặp Lượng ở hàng cà phê rồi đưa Lượng về nhà, Phong cảm thấy yên tâm. Anh bạn mới này vừa hơn Phong cả về tuổi tác, về kiến thức, về cách suy nghĩ, về cả tinh thần dũng cảm mà Phong thấy mình chả có được bao nhiêu. Không có gì ràng buộc anh ở Hà Nội, nơi đã trở nên nguy hiểm đối với tất cả mọi người. Nhưng anh lại thích ở lại. Anh muốn như một trò chơi. Và chỉ qua mẩu đối thoại ngắn ngủi vừ rồi. Lượng đã hơn Hồng Kỳ một bậc. Hồng Kỳ mất hẳn chủ động trước Lượng. Người bạn mới này đã mang lại thêm vinh dự cho anh.
Anh Năm xuất hiện ở cửa ra vào với bộ quân phục ka ki Mỹ màu xám. Anh nở một nụ cười rất tươi, đến bên bàn, kéo ghế ngồi.
— Mình vừa ra Bắc Bộ phủ về...
— Tình hình thế nào? - Hồng Kỳ hỏi.
— Moóc-li-e vừa gửi tối hậu thư cho ta... Sáng nay, Pháp đưa quân chiếm nhà Bộ Tài chính. Chúng dàn quân từ Hàng Da đến cầu Long Biên và cho xe phá chiến lũy ở phố Hàng Điếu cho là tình hình khó cứu vãn. Hà Nội nổ súng
thì toàn quốc cũng nổ súng. Khu phố này sẽ gay go. Đầu này, nhà Moóc-li-e, đầu kia Nhà Thờ lớn. Chiến lũy không có. Xe tăng có thể thọc vào bất cứ lúc nào...
Nụ cười vẫn nở trên môi khi anh Năm nói những điều nghiêm trọng này. Rồi anh quay sang Phong, hỏi:
— Tìm thấy thằng nhóc chưa? Liệu ra đi thôi!
Phong còn đang lúng túng thì Lượng nhoẻn miệng cười, nói: — Bọn tôi cũng đang mong đánh đi cho sớm sủa.
Phong thầm cảm ơn ban. Đó không phải là ý nghĩ của anh. Nhưng anh đã nhận thấy cả bạn và mình cần có một thái độ như vậy trước mặt Hồng Kỳ. Không thể để anh chang ngoại quốc này coi thường mình.
Đêm hôm đó. Phong nằm mơ thấy mình bị bọn Tây mũ đỏ săn đuổi giữa một thành phố đen mù khói bom, đạn nổ khắp nơi. Anh lao đầu chạy vào một ngõ hẻm. Bốn thằng Tây mũ đỏ khác đứng chặn ngay trước mặt. Anh quay đầuchạy vào một ngõ hẻm. Bốn thằng Tây mũ đỏ khác đứng chặn ngay trước mặt. Anh quay đầu chạy trở lại, một chiếc xe tăng đã bịt kín đầu ngõ. Anh nghĩ nếu mình không chết vì những loạt đạn, cũng bị địch bắn, những cực hình ghê gớm đang chờ đợi anh. Nệubi bắt thì khai như thế nào?... Sẽ nói mình là một người dân thường, mình không phải là Vệ quốc đoàn hay tự vệ. Anh chợt nhận thấy mình đang nắm trong tay một quả lựu đạn lọ mực. Anh ném thẳng quả lựu đạn về phía bốn thằng Tây. Anh chờ lựu đạn nổ xong, sẽ chạy về hướng đó. Nhưng quả lựu đạn không nổ. Một thằng Tây nhặt nó lên, cầm trong tay, nhìn anh mỉm cười chễ giễu. Một thằng khác bỗng giương khẩu tiểu liên nhắm thẳng vào ngực anh. Nếu nó hô mình giơ tay lên, mình sẽ sống, nó nổ súng, mình sẽ chết... Nòng súng tiểu liên tóe lửa. Phong hét lên và choàng tỉnh giấc.
— Cậu bị bóng đè à? ú ớ ghê quá! - Lượng đang vừa lay anh vừa hỏi. Phong bàng hoàng nhìn trời đã rạng sáng. Tiếng động cơ máy bay từ phía Gia Lâm vọng về. Không hiểu có phải những tiếng ầm ì này đã mang lại cho anh cơn ác mộng vừa rồi. Lần đầu, Phong nói dối bạn:
— Ừ mình bị bóng đè... Mình có tật hay bị bóng đè.
— Tim không tốt.
Có lẽ tim mình không tốt thật. Phong nghĩ. Nó là nguyên nhân đã gây ra tính nhút nhát. Anh biết mình sẽ không bao giờ kể lại với bất cứ ai giấc mơ vừa rồi.
Phong lại mất thêm một buổi sáng đi tìm Luyến, người con trai duy nhất của gia đình ông Toàn Thịnh.
Cậu bé như đang chạy trốn anh. Anh tới chỗ này, người ta trỏ qua chỗ khác. Có nơi anh tới, Luyến vừa đi khỏi. Anh đi rạc cẳng cả buổi vẫn không gặp Luyến.
Thêm nhiều con đường chạy về khu chợ Đồng Xuân bị bịt kín. Tự vệ ra sức củng cố các chiến lũy. Những chiếc xe bò chở đầy cát ùn ùn từ bờ sông Hồng kéo về. Ngay ở gần nhà Phong, đồn công an Hàng Trống cũng đã chất trước cửa ra vào một núi bao tải cát. Hầu hết những cửa hàng đều ngừng hoạt động. Quán Nghệ sĩ ở Bờ Hồ, nơi hôm qua anh Năm còn đưa người yêu tới, sáng nay đã đóng cửa.
Phong bắt đầu cảm thấy phân vân về công việc ông bà Toàn Thịnh ủy thác. Trong khi mình sống an nhàn ở nơi tản cư, ngày hai bữa chờ cho tình hình bớt căng thì họ ở lại vất cả ngày đêm, đào hào, đắp lũy đánh nhau với quân địch. Có nên thực hiện lời anh đã hứa với ông bà Toàn Thịnh, nhất là với cô con gái lớn của gia đình này, sẽ tìm được Luyến, khuyên bằng được Luyến trở về nhà? Việc làm đó có khác gì xúi giục một chiến sĩ đào ngũ giữa trận đánh. Dù người chiến sĩ đó chỉ là một chú bé. Anh đã nhì thấy vô số những chú bé chỉ bằng trạc tuổi Luyến. Người ta đã chấp nhận các chú trong cuộc chiến đấu này. Anh lo ngại cho cuộc gặp sắp tới giữa mình và Luyến. Mình sẽ nói gì? Rõ ràng là những lý lẽ của anh sẽ rất yếu ớt. Cậu bé là người đứng trong hàng ngũ chiến đấu, còn mình đang trốn tránh cuộc chiến đấu này.
Gần trưa, Phong trở về nhà, Anh định nấu nướng cho Lượng ăn rồi buổi chiều lại đi tìm Luyến.
Mở cửa, nhà vắng ngắt. Không biết Lượng đi đâu? Anh chợt nhìnthấy một mảnh giấy đặt trên bàn. Đó là mấy dòng lượng để lại:
«Phong.
Mình thấy tất cả mọi chuyện đều phi lý. Kể cả cái ý nghĩ điên rồ của mình là muốn làm một cuộc du ngoạn ở Hà Nội trong những ngày chiến tranh! Mình chưa rõ quyết định cuối cùng của cậu về việc đi, ở thế nào. Nếu cậu muốn tự thể nghiệm trong bom đạn thì mình không dám ngăn. Mong là chúng mình sẽ có ngày gặp lại.
Mình gửi lại cho cậu trong ngăn kéo một món quà nhỏ (mình không cần đến nó nữa) để làm kỷ niệm cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng rất đáng ghi nhớ giữa mình và cậu. Đây là loại cực tốt, lỡ ra có lúc cậu phải dùng đến nó. Mình đi đây!
Lượng»
Phong mở ô kéo, thấy một khẩu "Côn" xinh xắn cùng với một băng đạn đặt nằm bên cạnh.
Chuyện gì đã đến với anh ta, Phong tự hỏi. Mình chưa hiểu được anh ta. Anh ta có những cái không giống với mình, không giống với mọi người. Chắc chắn anh ta không hèn nhát. Phải chăng chính vì anh mà mình đã thay đổi sự suy nghĩ, đã có ý định ở lại. Nhưng bây giờ anh ta đã đi rồi, mình có nên ở lại đây nữa không? Mình đã mất một chỗ dựa về tinh thần... Phong cảm thấy cô đơn. Anh đứng tần ngần nhìn mảnh giấy và bỗng nghĩ tới mẹ, tới các em. Mẹ chắc đang mong mình về. Mẹ sẽ không ăn, không ngủ được vì lo lắng nếu ở Hà Nội xảya đánh nhau. Cô ấy cũng sẽ lo lắng vì mình. Chắc cô ấy sẽ vô cùng ân hận vì đã nhờ cậy mình, đã yêu cầu mình trở lại Hà Nội... Chiều hôm nay mình sẽ cố tìm gặp Luyến. Nếu Luyến không chịu làm theo ý ông bà Toàn Thịnh và Dung, thì đó không phải lỗi ở mình. Không có gì ràng buộc mình ở lại đây. Mình có thể quay ra ngay để gặp những người thân. Hay là... Hay là chiều nay mình sẽ rời Hà Nội? Anh bỗng cảm thấy một sự cấn cái... Ra đi vào lúc này có khác chi là chạy trốn!...
Anh Năm từ trên gác đi xuống.
— Ngoài phố có chuyện gì không, chú Phong?
— Phố vắng hơn hôm qua, nhưng sáng nay yên tĩnh. Quán Nghệ sĩ đóng cửa rồi anh Năm ạ.
— Mình đã ra đó và phải quay về pha cà phê uống ở nhà...
— Chị Lan và cô Mai đi chưa anh?
— Không chịu đi. Đòi ở lại làm cứu thương cho bộ đội, ghê chưa? Dân Nam Bộ hăng đánh Tây lắm. Chú phải ra với bà cụ chứ?
Phong ngập ngừng rồi đáp:
— Em còn có chút việc phải ở lại.
— Làm nhanh nhanh đi rồi ra kẻo cụ mong - Anh Năm nói với vẻ chân tình.
Phong im lặng.
Anh Năm nói tiếp:
— Sáng nay tự vệ đến nhà mình. Họ định chọn nhà này làm một ổ tác chiến. Sẽ bố trí một tiểu đội ở đây. Nếu có đánh nhau thì mình đánh ngay ở nhà, khỏi phải đi đâu,... Hồng Kỳ nói vị trí này gay go đấy. Nhà mình chỉ cách đại bản doanh của Moóc-li-e có ba chục mét. Đầu kia là Nhà Thờ, khi đánh nhau, bọn Pháp sẽ chiếm ngay gác chuông, đặt liên thanh trên đó để kiểm soát toàn khu vực. Dưới chân Nhà Thờ là phố Nhà Chung toàn dân công giáo. Ta đừng có hòng mà ẩn nấp ở đó. Nếu nhà mình ở bên kia đường, lúc cần, ta có thể lui vào phía Hàng Bông hayNgõ Huyện. Nhưng nhà mình lại ở bên này đường, gặp khó khăn, hết cách rút lui. Mình và Hồng Kỳ là dân lính chiến ở lại cũng không sao, nhưng chú là học trò, chú ở đây làm gì! Anh bạn của chú đi rồi phải không?
Phong đáp một cách sượng sùng:
— Vâng, anh ấy đi rồi.
— Sao không chờ chú cùng đi một thể? Chắc là tại sao ta nghe nói Moóc li-e lại tiếp tục gửi tối hậu thư cho ta. Tôi gặp khối người kiểu cậu này ở Hải Phòng.
Phong rất biết ơn anh Năm đã giúp chỗ ở cho gia đình mình và quý mến mẹ con mình, nhưntg anh cảm thấy khó chịu khi bạn mình bị miệt thị. Phong tự hỏi: tại sao anh Năm vẫn chưa đưa hai chị em cô người yêu đi tản cư? Đêm qua Lượng đã cả quyết với Phong rằng, anh Năm là nhà buôn và Hồng Kỳ là một sinh viên triết loại tồi, đóng vai võ quan Nhật. nếu đúng như vậy vì sao mấy người này còn ở lại đây...?
Anh Năm lại nói:
— Nếu chú ở lại thì phải gặp anh Nhã tối nay, anh ấy là tiểu đội trưởng tự vệ phụ trách các chú. Chú có biết anh Nhà kéo đàn ở Ta-véc Roay-ankhông? — Anh Nhã mặc com lê xanh nước biển, đi ghệt vẫn hay ôm cái đàn phong cầm?
— Đúng đấy, anh em thường gọi là Nhã cao... Nhưng nếu chú định chiều hay sớm mai đi thì không cần gặp.
— Em sẽ gặp anh ấy.
Phong đã đi đến một quyết định chừng nào gia đình anh Năm còn có mặt tại đây thì anh sẽ không rời Hà Nội. Anh phải ở lại để bảo vệ danh dự nếu không phải là cho mình thì cho bạn của mình.
2
Cả ngày 19 tháng Chạp trôi qua một cách yên tĩnh.
Buổi chiều, trung đội tự vệ phố Nhà Thờ được lệnh tập hợp. Phong cũng được gọi đến. Anh Năm và Hồng Kỳ vẫn ở nhà. Họ không cần có mặt vì họ là bộ đội, như lời họ nói.
Phong bỡ ngỡ nhìn những người thanh niên trong cùng phố. Nhiều người anh quen mặt nhưng không biết tên. Có những người anh chỉ mới gặp lần đầu. Ở thành phố lớn người ta có thói quen nhà nào biết nhà ấy. Chỉ những người nào có nét gì đặc biệt mới được chú ý.
Một trung đội nhưng không người nào giống nười nào từ cách ăn mặc đến vũ khí. Qua quần áo và trang bị chiến đấu của họ có thể biết được kẻ giàu, người nghèo. Giữa mùa đông, người mặc quần áo len dạ, người chỉ đánh chiếc quần soóc, đi dép cao su trắng. Vũ khí của họ nói chung rất sơ sài. Chừng năm, sáu người mang súng trường. Những khẩu súng trường cũng rất khác nhau, khẩu ngắn, khẩu dài. Một anh mang khẩu súng săn hai nòng. Súng ngắn thì nhiều hơn. Khẩu có bao da. Khẩu để trần, giắt thắt lưng. Có anh chỉ mang theo một con dao găm.
Phần lớn họ quen biết nhau. Phong tới đây lần đầu nên thấy mình lạc lõng. Anh nhận ra Nhã cao, người anh Năm đã giới thiệu sẽ là tiểu đội trưởng của mình. Nhã chỉ vào trạc tuổi Phong. Cậu tavẫn mặc bộ quần áo len màu xanh chai, ve chéo, đội mũ dạ tím, đi giày có ghệt. Phong đã nhiều lần thấy Nhã cầm súng đứng gác trước cửa Nhà Thờ. Vóc dáng cao lớn và cặp lông mày lưỡi mác to, đen của Nhã làm cho mọi người phải nể khi Nhã đứng với một khẩu súng trong tay. Nhã thuộc loại người nổi bật. Anh bao giờ cũng đi trên đường phố với một chiếc đàn phong cầm hoặc cây súng.
Vừa nhìn thấy Phong, Nhã xăm xăm đi tới, chìa tay bắt tay Phong. Nhã quay lại nói với mọi người:
— Đây là đồng chí Phong ở ngôi nhà số chẵn, nơi tiểu đội mình đặt ổ tác chiến.
Cử chỉ thân mật của Nhã làm cho Phong đỡ bỡ ngỡ.
Một người trạc trung liên, đầu húi "cua", vẻ mặt nghiêm trọng, mặc áo blu dông Mỹ từ ngoài đi vào. Phong nhận ra đó là bác Tám, chủ hiệu chữa xe đạp ở gần Nhà Thờ lớn. Anh còn là một tay đua xe đạp khá nổi tiếng. Nhã quay sang nói với Phong:
— Anh Tám, trung đội trưởng của bọn mình. Cậu biết không? Phong gật đầu.
Tám nhìn quanh rồi hỏi:
— Các tiểu đội đủ người chưa?
Những tiếng đáp:
— Đủ...
— Đủ...
Anh Tám nói:
— Tôi vừa đi họp ở khu về. Trên phổ biến tình hình găng. Đêm nay, tất cả phải sẵn sàng. Đồng chí nào chưa ăn cơm, lát nữa về nhà ăn cơm thật nhanh. Trước sáu giờ tối, tất cả phải có mặt ở ổ tác chiến. Đem theo đầy đủ vũ khí. Các đồng chí rõ chưa?
Nhã lên tiếng:
— Đề nghị anh Tám đi họp nghe thêm được chuyện gì nói cho anh em biết với. Ngày hôm nay Tây nó hoạt động ra sao?
— Cuộc họp rất vội. Đồng chí khu trưởng chỉ nói có thế và dặn là các trung đội phải có sẵn kế hoạch, nếu nghe tiếng súng nổ có thể chiến đấu được ngay.
Một người mặc bộ quần áo xanh công nhân nói:
— Tối nay ta đào hào cắt ngang đường đi thôi! Cứ để đường thông thống thê snày làm sao chặn được ô tô của đich?
Tám nói:
— Chưa có lệnh cắt đường ở phố này. Nếu cắt được tôi đã để các đồng chí làm từ lâu. Nhà Moóc-li-e ở Hàng Trống đã bị ta chạn ở hai đầu. Một đầu là chiến lũy của tự vệ phố Hàng Hòm. Một đầu là ổ tác chiến của công an quận I. Tây chỉ còn có con đường này để chạy xe từ Tràng thi vào nhà Moóc
li-e. Mình cuốc vài nhát đường là đánh nhau ngay. Bọn lính ghác ở nhà Moóc li-e sẽ bắn luôn. Nó gọi háp-tơ-rắc đến liền... Tôi nhắc các tiểu đội nhớ đem theo mìn dẻo. Nếu nghe tiếng súng nổ, ta hạ cây luôn. Các đồng chí mới, sắp nhập cả vào tiểu đội 2, anh Nhã chỉ huy, bố trí tại nhà số lẻ. Tôi chỉ huy tiểu đội 1 bố trí ở dãy số chẵn. Khi đánh nhau, hai bên cùng phối hợp. Tiểu đội 2
làm nhiệm vụ hạ cây... Thôi, các đồng chí về ăn cơm thật nhanh. Mọi người vội vã giải tán.
Tám đứng dừng ở cửa, chờ Phong đi ra, nói:
— Đồng chí ở cùng nhà với anh Năm phải không?
— Vâng. - Phong gật đầu, đáp.
— Đồng chí nói với anh Năm, như đã bàn lúc sáng, nếu súng nổ nhiều thì anh Năm mời cả đồng chí Hồng Kỳ cùng sang với trung đội ở bên dãy nhà số chẵn.
Chắc qua anh Năm, trung đội tự vệ đã biết đến khả năng quân sự của Hồng Kỳ và họ muốn tận dụng khi nổ ra đánh nhau.
Phong đạp xe ra phố tràng Tiền tìm một thứ gì ăn cho qua bữa. Lượng đi rồi, từ trưa đến giờ anh không buồn tính đến chuyện thổi cơm. Trời chiều rét ngọt. Thành phố hết sức im ắng. Không còn bóng lính Pháp trên đường phố. Tỉnh thoảng mới gặp một chiếc xe gíp nhà binh Pháp phóng rất nhanh.
Phố Tràng Tiền còn được gọi là phố Tây. Những ngôi nhà hai tầng, ba tầng, năm tầng nằmken sát nhau không lọt một khe hở. Phần lớn là nhà của Pháp kiều làm nghề buôn bán. Người Pháp dường như định tạo phố này thành một khu biệt lập. Nhà cửa đều theo kiến trúc Pháp, không to lắm nhưng vẫn có vẻ đồ sộ, vững chãi với những bức tường bằng đá, những ô kính sáng choang, những cửa lùa bằng thép, những mái hiên chìa ra đường có cái trùm kín vỉa hè. Người đi đường tha hồ dán mũi vào cửa kính ngắm đồ hàng từng dãy mà không sợ nắng, mưa. Cuối phố, Nhà hát lớn nằm ngang, chắn cả một góc trời, phía trước là một quảng trường rộng. Kiến trúc của ngôi nhà rất tinh tế, rập đúng kiểu nhà hát ở Pa-ri. Người Pháp muốn biến đường phố cạnh Hồ Gươm, ở trung tâm Hà Nội này, thành một đường phố của nước Pháp, nơi họ sẽ sinh con đẻ cái, sống lâu dài.
Trừ tiệm nảy Ta-véc Roay-an ở đầu phố, chiếm một góc ngã tư nhìn ra Hồ Gươm, tất cả những ngôi hàng khác, cửa đóng im ỉm. Tiệm này thường tấp nập, chật ních bọn lính Pháp, giờ này nhìn qua ô kính, bàn ghế đều trống trơn. Mấy anh bồi bàn, kẻ đứng người ngồi, ngẩn ngơ nhìn đường phố.
Phong không tìm thấy một xe bán bánh mì nào trên vỉa hè. Anh đạp xe vòng về Bắc Bộ phủ. Khách sạn Mê-tơ-rô-pôngần đây đã biến thành một trại lính
Tây. Qua những tấm cửa kính quay, Phong nhìn thấy bọn sĩ quan Pháp đi lại. Trước cửa, hai chiếc xe gip sơn trắng nằm chờ.
Trên tầng gác ngôi nhà Bắc Bộ phủ, các cửa sổ đều đóng kín. Ngôi nhà vắng ngắt. Không hiểu Cụ Hồ và các nhân viên Chính phủ ta còn làm việc ở đây không? Một chiến sĩ Vệ quốc quân mặc áo trấn thủ, đầu đội ca lô, cầm khẩu "Xten"đứng bên cạnh hàng rào sắt nhìn về phía Nhà băng Đông Dương . Anh đang theo dõi đối thủ của mình. Trước cửa Nhà băng, mấy tên lính Pháp đầu đội múắt, tay xách tiểu liên "Tôm-xơn"4 cũng đang nhìn sang phía này. Ngôi nhà băng đồ sộ với những bức tường những cột bằng đá cao ngất. Ngôi nhà Bắc Bộ phủthanh mảnh với những bức tường quét vôi màu vàng, những cửa chớp sơn xanh.
Những tên lính Pháp to lớn, nặng nề. Anh Vệ quốc quân bé nhỏ. Phong âm thầm làm một sự so sánh. Nếu cuộc chiến đấu bùng nổ đem nay thì giờ đầu sẽ diễn ra ở đây.
Ra tới Bờ Hồ, Phong mới gặp một bà bán bánh mì đang vội vã đẩy xe về nhà. Phong mua hai chiếc bánh lạnh cứng, nhét vào túi áo.
Nước Hồ Gươm xanh ngắt lăn tăn gợn sóng. Những cành liểuu bên hồ đang run lên trước làn gió bấc.
Ngày đầu tới Hà Nội, Phong đã ngây ngất trước cảnh đẹp của Hồ Gươm. Anh thấy nhà cửa, đường phố, con người ở đây, cái gì cũng đẹp. Anh thầm ước ao được trở thành người của Hà Nội. Anh nhìn những chú bé học sinh, những chú bé bán báo, đánh giày... thèm muốn được như các chú. Anh có thể chịu đựng mọi thiếu thốn, khổ cực, làm bất cứ công việc gì để được gắn mình với thành phố này. Rồi bố anh tìm được việc ở Hà Nội. Phong trở thành một học sinh của Hà Nội. Nhưng anh vẫn chưa thấy mình gắn với Hà Nội. Đời sống của gia đình quá bấp bênh. Mọi thứ ở đây vẫn còn xa lạ với anh. Hà Nội vẫn có thể loại bỏ anh bất cứ lúc nào. Người em út của bố Phong không tìm
được việc làm ở Hà Nội, đã phải ra tận mỏ Vàng Danh để kiếm việc. Mỏ than Vàng Danh vỡ sau ngạyNhât đảo chính Pháp. Chú của Phong lại phải chuyển ra Hòn Gai để kiếm ăn. Anh luôn luôn nghĩ nếu một ngày kia không còn cách
sinh sống ở đây thì anh cũng phải ra vùng mỏ theo con đường của chú, một học sinh thông minh, hiền lành, thích văn thơ mà suốt những năm còn thơ ấu Phong đã coi là mẫu mực để noi theo.
Chỉ qua buổi họp ngắn ngủi vừa rồi, lúc này anh bỗng cảm thấy mình đã chính thức trở thành người Hà Nội. Nếu chiến tranh nổ ra, anh sẽ là một trong số người không nhiều lắm ở lại chiến đấu giữa lòng thành phố. Hà Nội không thể là của những người đã vội vã lên xe, lên tàu ra đi khi số phận của nó đang bị quân giặc đeo dọa. Tự nhiên, anh thấy mình caohơn họ. Chỉ cần anh chiến đấu ở đây ba ngày, năm ngày hoặc mười ngày. Hà Nội sẽ đúng là của anh. Sao từ lâu nay, anh lại không nghĩ đến điều đó?... Hà Nội sẽ không phải là của ông bà Toàn Tịnh, của Dung..., những người không trực tiếp chiến đấu bảo vệ nó.
Một khẩu hiệu trên một bức tường đập vào mắt anh: "Thanh niên Hà Nội sống chết với Thủ đô!".
Những người viết lên khẩu hiệu này, những anh tự vệ chỉ có trong tay quả lựu đạn, con dao găm, chắc trong số họ khối người không phải sinh trưởng ở Hà Nội, mới chính là những người chủ hiện nay và tương lai của Hà Nội. Anh không muốn tiếp tục cuộc sống cũ nữa, cuộc sống giúp việc cho một gia đình chỉ lo lắng về chuyện buôn bán, chỉ lo lắng làm sao cho bom đạn không đụng đến mình. Một cuộc đổi đời sắp diễn ra. Cuộc chiến đấu ở đây sẽ khác cuộc chiến đấu ở tất cả những nơi khác. Cuộc chiến đấu để trở thành người Thủ đô. Anh lại chợt nghĩ đến Lượng. Sao Lượng lại không biết điều đó? Nếu ý nghĩ này đến sớm với anh một chút, từ đêm qua chẳng hạn, anh sẽ nói với Lượng, chắc chắn Lượng sẽ không rời thành phố. Lượng không là dân Hà Nội, nhưng Lượng hẳn phải có ước muốn được trở thành người Hà Nội. Cậu ta đã bỏ lỡ một cơ hội.
Phong nghĩ đến một ngày sắp tới, những người tản cư ùn ùn từ những vùng nông thôn kéo về, nhìn thấy Phong quần áo đầy bụi bặm, cầm khẩu súng đứng giữa những ngôi nhà đổ nát, có người sẽ vẫy chào anh, có người sẽ phải cúi mặt. Ôi, đó sẽ là những giờ phút tuyệt vời!
Tâm hồn anh lâng lâng khi đạp xe quay về nhà. Những ngôi nhà cửa đóng kín âm thầm, xa cách, thậm chí còn đe dọa anh bằng những viên đạn bất ngờ, lúc này bỗng trở nên thân thiết, đẹp đẽ dưới một ánh hào quang. Cả những cây bàng lá đỏ úa, những cây sấu xao xác, những cây liễu sướt mướt trước làn gió lạnh này, đều là của anh, đang cần đến sự che chở của anh. Một luồng máu nóng đang tuôn chảy bừng bừng trong cơ thể của anh.
Phong nghĩ tới Nhã, nghĩ tới những bộ mặt quen và chưa quen trong tiểu đội. Anh mong gặp lại họ và muốn ôm hôn mọi người.
Thành phố đã lên đèn.
Tự vệ lục tục kéo tới. Chưa đến sáu giờ tối, tất cả đã đủ mặt. Trang phục của họ có thay đổi so với lúc ban chiều. Hầu hết đều đội ca lô hoặc mũ nhựa có gắn sao vuông. Họ kiếm đâu được những chiếc dây lưng to, thắt bên ngoài áo ấm, người đeo súng, đeo lựu đạn, người đeo kiếm, đeo dao găm. Có anh khoác ống nhòm. Có anh đem theo cả máy ảnh.
Tiểu đội có mười hai người. Phong đếm được hai khẩu súng trường, năm khẩu súng ngắn và bảy, tám quả lựu đạn.
Nhã bảo mọi người:
— Bây giờ chúng mình đi một tua kiểm soát con đường trong nhà, mang theo choòng cuốc, nơi nào vướng thì ta mở rộng ra.
Họ luồn qua những lỗ tường mới đục sẵn.
Lần đầu, Phong biết tận mắt bên trong của những ngôi nhà ở cùng phố. Con đường ngoắt nghéo, luồn qua những sân sau, những gian bếp, những khu vườn nhỏ. Nhã luôn luôn nhắc những vật cần chú ý: "Cái giếng nhé! Thụt xuống đây là bỏ đời!". "Cái bể nước mưa! Thiếu nước thì sang đây!". "Cạo đám rêu này đi! Ban đêm ngã trật mắt". "Chú ý cái xà gồ này, bươu trán như chơi"... Qua sự chỉ dẫn, Phong thấy Nhã là người cẩn thận.
Khi quay về, Nhã bảo Phong dẫn cả tiểu đội lên gác.
Anh Năm đang ngồi ở phòng khách. Thấy mọi người rộn rịp kéo lên, anh nhoẻn miệng cười, giơ cả hai tay:
— Mời các đồng chí cứ tự nhiên. Chúng tôi đã chuyển cả vào buồng trong và gác ba. Phòng ngoài này dành hoàn toàn cho các đồng chí bố trí. Anh tỏ ra đã biết rõ kế hoạch chiến đấu của họ.
Nhã ra ban công đứng ngó quanh rồi quay vào nói:
— Nếu nổ súng, chúng mình hạ ngay cây sấu trước cửa. Xe của nó chạy tới sẽ phải dừng lại. Ai có súng và lựu đạn, đứng ở ban công ném lựu đạn và bắn xuống. Các đồng chí mang kiếm và dao găm bố trí ở nhà dưới. Thấy lựu đạn nổ rồi thì mở cửa xung phong, cướp hết súng đạn, rồi đốt cháy xe.
Hồng Kỳ từ phòng trong đẩy cửa đi ra, đứng nghe các anh tự vệ bàn bạc. Phong rất lo kế hoạch của Nhã bị anh võ quan Nhật này bác đi. Nhưng Nhã vẫn nói với vẻ tự tin:
— Khi xung phong, tất cả phải hô thật to. Hô to Tây nó mới sợ. Hô to để báo cho tiểu đội 1 ở bên số chẵn biết ta đã xung phong. Mình lẳng lặng xông ra, Tây không thấy đâu, có khi lại ăn đạn và lựu đạn của anh em ta! Một cậu đeo chiếc kiếm nói:
— Các anh ở trên này nhìn rõ tình hình, các anh hô trước, chúng tôi xô cửa xông ra.
— Được - Nhã nói - Mình sẽ hô. Mình hô trước, các bạn hô theo. Nhã quay về phía Hồng Kỳ vẫn đứng im lặng, hai tay đút túi quần: — Đồng chí... Việt Nam mới có ý kiến gì thì góp với chúng tôi. Nhã tỏ vẻ thích thú vì đã tìm ra mấy tiếng "Việt Nam mới" để gọi người bạn chiến đấu ngoại quốc mà anh chưa biết tên.
— Có ba-dô-ka không? - Hồng Kỳ hỏi cộc lốc.
— Không có.
— Có bom không?
— Không có.
— Có chai cháy không?
— Cũng không có.
Nhã nhoẻn miệng cười thú nhận sự nghèo nàn của tiểu đội mình. — Không đánh xe tăng được! - Hồng Kỳ nhận xét.
— Xe tăng thì mặc nó. Bọn chúng tôi sẽ đánh háp-tơ-rắc và xe gíp. — Cũng được... Đánh xong ở đây, chuyển sang nhà khác. Chuyển về cuối phố. Đại bác nó sẽ bắn đổ nhà này. Ở Hải Phòng như thế...
Hồng Kỳ quay trở vào buồng trong.
Nhã lại bảo mọi người:
— Đồng chí nào có súng hoặc lựu đạn ra cửa sổ quan sát đi. Lần lượt từng người một, đừng để cho bọn Tẩybên nhà Moóc-li-e hoặc ở Nhà Thờ lớn nom thấy!
— Có Tây ở Nhà Thờ à? - Một người giật giọng hỏi.
— Đó là đề phòng.
Phong ló đầu ra cửa sau cùng. Anh cũng có súng, nên vị trí chiến đấu của anh ở đây. Anh là người ở nhà này, nhưng lần đầu anh đứng nhìn chung quanh với cặp mắt "quân sự".
Thế là bàn xong kế hoạch chiến đấu.
Họ kéo nhau xuống nhà dưới sau khi để lại một người ngác. Từ khi nghe Hồng Kỳ nhận xét ngôi nhà sẽ đổ sụp vì đại bác, một số người có vẻ lo lắng. Họ hiểu là nếu quân Pháp bị đòn đau, lập tức nó sẽ trả thù. Ngôi nhà của họ sẽ trở thành mục tiêu. Đại bác địch sẽ trút đạn xuống đây như thác đỏ.
Phong chợt nhớ ra mình chưa ăn chiều. Anh móc chiếc bánh mì trong túi ra. Nhã tròn mắt nhìn, rồi nói:
— Hay nhỉ! Mình quên không đút túi chiếc bánh mì.
Phong rút ra chiếc bánh mì thứ hai, đưa anh. Nhã không từ chối, cầm ăn luôn. Có lẽ anh cũng chưa ăn cơm chiều.
Thành phố vẫn yên tĩnh. Thỉnh thoảng có tiếng động cơ xe ô tô từ phía đường Tràng Thi vọng lại. Tối nay cũng có thể là một tối bình thường như mọi tối. Chẳng phải đây là lần đầu người ta báo tin tình hình căng thẳng. Lo lắng vơi dần. Câu chuyện giữa đám người trẻ tuổi lại râm ran. Thỉnh thoảng điểm những chuỗi cười giòn giã.
Phong hỏi Nhã, người mà anh cảm thấy bắt đầu gắn bó:
— Hình như anh mới đi đâu xa về. Anh đi học quân sự phải không? — Mình mới đi xa về, nhưng không phải đi học quân sự... Mình đi kiếm ăn ở nước ngoài.
— Ở nước ngoài?
— Ừ... mình sang Côn Minh. Một ông bầu người Việt đưa bọn mình, năm thằng, sang chơi nhạc cho một "bar". Kiếm ăn cũng được. Nhưng khi nghe tin Pháp chiếm Hải Phòng, cho rằng chiến tranh sắp nổ ra cả nước, bọn mình điên lên đòi về. Hợp đồng chưa hoàn thành, chủ không nghe. Bọn mình làm reo. Chủ không trả đủ tiền công, hẹn chúng mình hai mươi bốn tiếng phải ra khỏi nhà. Nó quỵt chút ít thậm chí tất cả tiền công cũng cóc cần, miễn là được về nước, chẳng phải chờ hết hai mươi bốn tiếng, bọn mình ra liền. Đang không biết làm thế nào kiếm thêm ít tiền lấy vé máy bay thì gặp một bác người Việt Nam làm công nhân đường hỏa xa Vân Nam. Biết chúng mình đòi về nước để đánh Tây, bác đi vận động kiều bào ủng hộ cho đủ tiền mua năm chiếc vé về đến Hà Nội. Về nhà hôm trước, thì hôm sau mình đi gác liền. Mình vốn đã là tự vệ phố từ thời Việt Minh còn hoạt động bí mật.
— Anh lại quay về kéo dàn ở Ta-véc Roay-an?
— Bậy nào! Mình bỏ đấy từ lâu rồi. Mình về đánh Tẩy mà lại đi kéo đàn cho Tẩy thì còn ra sao! Bọn lính mũ đỏ nhìn thấy mình đứng gác ở cửa Nhà Thờ lớn, lại thấy mình kéo đàn ở tiệm nhảy đó, nó thịt ngay. — Tôi vẫn thấy anh ôm đàn đi ở phố?
— Đúng như vậy. Giờ mình kéo đàn ở quán Thiên Thai Hàng Gai, ở quán Ta-ka-ra Khâm Thiên. Phải chỗ nọ, chỗ kia, chạy rống bái công lên mới đủ ăn. Nhưng mình vừa vớ được một cái hợp đồng bở lắm! Chưa làm ăn gì cả mà chủ đã phát lương luôn sáu tháng...
— ở đâu vậy?
— Ngay đầu phố này. Hôtel des Colonies .
— Sao anh bảo không làm cho Tẩy?
— Không làm cho Tây. Thằng chủ Tây sợ cách mạng ta, bỏ của chạy lấy người, bán rẻ khách sạn cho một "me" Nhật. Ả này trước đi nhảy đầm. Ả mua
để mở "bar". Ả phải nhờ đến mình. Ả định cửa hàng sẽ khai trương vào đúng đêm Nô-en này. Hôm đó, bạn không bận thì bạn ghé vào, sẽ thấy mặt thằng tôi.
— Vậy anh học quân sự vào lúc nào?
— Mình cũng như cậu, không học quân sự bao giờ! Quân sự tự học, học mót, gặp mỗi người học một tí. Kế hoạch vừa rồi là sáng kiến của tớ. Cậu xem ông Nhật lùn có góp được ý kiến nào đâu! Nó đánh mình, mình phải nghĩ cách đánh nó.
— Đồng chí trung đội trưởng của ta có khá quân sự không? — Chắc cũng hơn mình một tí. Cậu ấy được lên Thành huấn luyện một, hai tuần.
— Anh thấy Hồng Kỳ ra sao?
— Hồng Kỳ nào?
— Anh người Nhật ban nãy.
— Tên là Hồng Kỳ à?... Cũng phải xem... Có khi ông ấy chỉ giỏi với binh lính, súng ống của Nhật mà không giỏi với mình. Đã thấy ông ấy đưađưa ra cao kiến nào đâu.
Nhã ngồi nhích lại bên Phong, ghé tai thì thầm:
— Hai cô Thúy Vân, Thúy Kiều trên gác có phải là vợ lớn, vợ bé của ông Năm không?
— Mình không rõ, nhưng nếu đúng thì chỉ là cô lớn thôi.
— Cô bé trông hiền lành, nhưng cô lớn có cặp mắt khiếp lắm! Một anh tự vệ mặc bộ đồ xanh công nhân gọi Nhã. Nhã quay lại, anh ta bảo:
— Anh hát đi vài bài cho vui.
— Mình kéo đàn, còn giọng hát thì ống bơ gỉ. Nhưng thôi được... Hát bài gì bây giờ?
Mỗi người nhao nhao một ý kiến:
— Thiên Thai!
— Trương Chi!
— Con chim lạc bạn...
— Đàn chim Việt...
Nhã ngần ngừ:
— Những loại bài này thì phải có đàn. Cậu nào ở nhà có cây ghi-ta, về lấy đem sang đây.
Không ai nói gì. Phong chợt nhớ đến chị em Tuyết Lan, Tuyết Mai. — Trên gác có đàn pi-a-nô.
— Lên gác cũng được. Nhưng phải được sự ưng thuận của chủ nhân. Một người nói:
— Có pi-a-nô, anh Nhã cho nghe một bản Xê-rê-nát.
— Muốn gì cũng được. - Nhã đáp vui vẻ.
Họ lại lục tục kéo nhau lên gác.
Anh Năm đang ngồi nói chuyện với Hồng Kỳ ở buồng trong. Nhã bước vào, cúi đầu chào với dáng điệu rất lịch sự.
— Anh em yêu cầu tôi chơi một vài bản nhạc. Chủ nhân có thể cho chúng tôi sử dụng cây đàn và gian phòng này mươi lăm phút không?... Không ngờ anh Năm có cây đàn tốt quá!
Anh Năm tươi cười chìa cả hai tay về phía chiếc dương cầm: — Mời các bạn cứ tự nhiên. Bọn mình ngồi đây nghe nhờ được chứ! — Càng vui.
Nhã ngồi vào ghế, nhấn thử mấy phím đàn. Anh chưa biết chọn bản nhạc nào. Từ phía Nhà Thờ lớn, bỗng vang lên những tiếng chuông điểm khắc lảnh lót. Những tiếng chuông đã làm cho anh nghĩ tới một bản nhạc được anh yêu thích từ ngày xưa, bản nhạc: "Lời khẩn cầu của cô gái đồng trinh". Những ngón tay anh bắt đầu chạy trên những phím đàn.
Gian phòng đang im lặng bỗng vang lên những âm thanh trầm bổng, dìu dặt, vừa thiết tha, vừa thành kính như những lời cầu nguyện. Hòa vào với giai điệu này là những hợp âm phụ rất nhanh, dạt dào như những gợn sóng lăn tăn trên mặt hồ trước làn gió mạnh, ríu rít như hạt mưa mau, có lúc bay lên cao
vút như muốn biến vào thinh không, có lúc trầm lắng rì rầm như tiếng suối chảy dưới thung sâu.
Hình ảnh một cô gái trinh bạch, mặt chiếc áo trắng như tuyết, qỳ trên thềm nhà thờ, ngước cao đôi mắt nhìn tượng Đức Mẹ lung linh giữa hàng bạch lập, cất tiếng cầu nguyện cho hạnh phúc, cho tình yêu, cho tuổi trẻ, cho cuộc sống yên lành... hiện lên trước mắt mọi người.
Không biết là tại không khí khác thường của một thành phố ban đêm vắng lặng hay tại mọi người đang sống trong những giây phút căng thẳng chờ đợi một biến cố lớn lao mà tiếng đàn bỗng mang lại một hiệu quả đặc biệt. âm thanh của cây đàn như chế ngự cả không gian và thời gian. Thời gian đọng lại. Không gian thêm mênh mông. Màu sắc trong gian phòng dường như cũng thay đổi cùng với âm thanh. Khi là ánh sáng rực rỡ của muôn ngàn ngọn nến lung linh. Khi là màu xanh huyền hoặc của ánh trăng. Khi là màu trắng tinh khiết của những bông huệ. Khi là màu đỏ của đóa hồng rung rinh trước gió.
Mấy anh tự vệ không ai bảo ai đã ngồi dựa lưng vào tường, mắt lơ mơ nhìn theo làn khói thuốc lá.
Hai chị em Tuyết Lan, Tuyết Mai đã xuất hiện từ lúc nào trước cửa. Cô em dần dần nhích lại gần chiếc dương cầm, cặp mắt không rời anh tự vệ đội cái mũ ca lô bằng dạ tím, dính ngôi sao vàng rung rinh, khẩu súng ngắn lúc lắc bên người, chân đi giày ghệt nhà binh, đang mê mải với phím đàn.
Bản nhạc đã kết thúc. Nhã ngẩng đầu lên bắt gặp cặp mắt xanh của cô gái, dịu hiền như mắt Đức Bà, đang nhìn mình... ồ, thì ra từ nãy đến giờ mình đang nói lên lời cầu nguyện của chính cô gái này. Một ánh sáng tinh nghịch lóe lên trong đôi mắt anh. Anh lại cúi xuống cây đàn.
Âm thanh đã hoàn toàn đổi khác. Bây giờ là tiếng đàn đáy, tiếng đàn bầu hòa với nhịp sênh, nhịp phách, những âm giai ngũ cung Việt Nam, của ca trù đã thay thế cho những tiếng nhạc phương Tây.
Sau khúc dạo đầu, gọng nam trung của Nhã cất lên:
«Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng
Nhớ Lưu, Nguyễn ngày xưa lạc tới Đào Ngyên...»
Nhã muốn nói với cô gái: bây giờ tôi đáp lại lời nguyện cầu của cô. Mời cô trở lại dòng suối hoa đào thời xa xưa với hai chàng Lưu Nguyễn. «Thiên thai! Chốn ấy hoa xuân chưa gặp bướm trần gian
Có một mùa đào, dòng ngày tháng, chưa tàn qua một lần...» Tiếng hát đã làm cho âm thanh gần gụi hơn, thân thuộc hơn.
Hình như tiếng hát và tiếng đàn chứ không phải làn gió dông dang rì rào chạy trên những vòm cây sấu, làm rung những sợi dây điện dăng hàng và lắt lay những ngọn đèn đường màu vàng nhạt bên ngoài cửa sổ.
Một giọng nữ cao cũng bất thần vút lên, hòa vào với giọng nam trung của Nhã.
«Thiên tiên chúng em xin dâng hai chàng trái đào thơm
Khúc Nghê thường này đều cùng múa vui bày tiên theo đàn...» Không phải chỉ có thêm Tuyết Mai hát mà mọi người đều cảm thấy qua giọng hát của người thứ hai này, chính mình đã lên tiếng hòa vào bài hát. «Gió hát trầm tiếng ca
Tiếng phách giòn lắng xa
Nhắc chi ngày xưa đó đến se buồn lòng ta...»
Phong đã quên đi tất cả mọi chuyện dồn dập bắt anh phải lo âu, căng thẳng suy nghĩ mấy ngày hôm nay. Đầu óc anh dịu hẳn lại như vừa được một thứ thuốc an thần tuyệt vời. Anh quên mình đang ở đâu và đang chuẩn bị làm gì..., Một tiếng nổ lớn làm rung chuyển ngôi nhà.
Ngọn đèn điện trong buồng phụt tắt.
Tiếng đàn, tiếng hát ngừng bặt.
Mọi người nhìn ra ngoài. Cả vòm trời tối đen. Không phải chỉ ngôi nhà này mất điện mà cả thành phố.
Có mấy tiếng súng lớn.
— Pháo đài Láng bắn rồi! - Một người nào đó kêu như reo. Sau đó, tiếng súng liên thanh, súng trường vang lên khắp nơi như tiếng pháo đêm giao thừa.
Linh tính báo với họ là chiến tranh đã nổ ra. Chiến tranh thực sự. Từ một tháng nay, Hà Nội thỉnh thoảng lại có súng nổ. Nhưng chưa bao giờ tiếng súng nổ cùng một lúc thành phố mất điện toàn hoàn. Và lần đầu, có tiếng súng lớn. Tiếng súng lớn! Đó là báo hiệu của chiến tranh lớn. Không bên nào dám dùng đến súng lớn ở Thủ đô nếu chưa phải là chiến tranh.
Phong đã ra khỏi giấc mơ phiêu diêu dọc theo một con suối có hoa đào nở bốn mùa với những nàng tiên múa hát, quay về thực tại. Anh lắng tai mong chờ tiếng súng lắng đi hay ngừng lại. Nhưng nó bùng lên và lan rộng rất nhanh như một phản ứng dây chuyền.
— Đánh?
— Đánh rồi!...
Không ai phản đối. Mọi người đã công nhận thực tại.
Nhã đứng lên rời cây đàn, ra lệnh:
— Hai đồng chí được phân công đốt mìn xuống hạ cây ngay, hạ cây sấu trước cửa nhà. Chú ý bọn địch bên nhà Moóc-li-e.
— Mìn dẻo đâu rồi? - Một người hỏi.
— Ai giữ mìn dẻo?
Không ai đáp. Mọi người lúng túng.
— Chết cha! - Nhã lầm bầm. Rồi anh quát to: "Đồng chí nào giữ mìn đó?". Một tiếng trả lời từa phía cửa sổ:
— Tôi... tôi giữ đây.
Anh ta đứng gác mải quan sát nên bây giờ mới nghe rõ.
— Không phải gác nữa! - Nhã nói - Để đấy cho bọn mình. Cậu xuống với anh em hạ cây. Chú ý làm thế nào cho cây đổ ngang mặt đường. Hạ tiếp thêm một cây nữa trước nhà Moóc-li-e. Ai không có súng và lựu đạn xuống cả dưới nhà, khi có lệnh thì xung phong.
Một ánh sáng hồng ngoài cửa sổ, soi vào căn phòng. Chắc đã có nơi nào cháy. Phong nhìn thấy Tuyết Lan đứng nép bên anh Năm. Tuyết Mai vẫn đứng chỗ cũ, kề bên chiếc dương cầm.
Phong lại bên anh Năm nói:
— Đồng chí trung đội trưởng bảo tôi nói với anh, nếu súng nổ nhiều thì anh và anh Hồng Kỳ sang bên dãy số lẻ.
Anh Năm cuống quýt:
— Đúng rồi! Hai chị em cô vào thu xếp ngay. Tôi gọi Hồng Kỳ. thu xếp thật nhanh, lát nữa không qua đường được đâu. Tôi và Hồng Kỳ sẽ làm việc với ban chỉ huy trung đội bên số lẻ.
— Mang theo cái gì bây giờ? Em Mai nó bảo cứ ở đây... - Tiếng Tuyết Lan.
Anh Năm gắt:
— Không đi thì mặc? Mang theo tư trang, quần áo. Sang bên kia đường rồi, không quay về được.
Anh Năm kéo Tuyết Lan đi.Tuyết Lan kéo Tuyết Mai. Tuyết Mai giụt tay lại nhưng rồi cũng lững thững đi theo vào buồng trong. Phong không hiểu có chuyện bất đồng gì giữa họ.
Nhã nhìn quanh, lẩm bẩm nhắc tên từng người để kiểm tra xem còn lại những ai.
— Có tất cả mấy quả lựu đạn nhỉ? - Nhã hỏi.
Những người có lựu đạn lên tiếng.
— Được rồi! Bảy quả. Xe đầu, ta ném ba quả cho ăn chắc. Còn bốn quả để dành cho hai xe sau, mỗi xe hai quả. Đợt đầu, tôi, đồng chí Bảo, đồng chí Nghĩa mỗi người ném một quả lựu đạn. Ai có súng ngắn, súng trường, mỗi người bắn một phát. Ba quả lựu đạn, năm phát súng... Tây chết hết! Chờ có tiếng cây đổ thì ra ngoài bố trí. Nhớ ngồi xổm, không ghé đẩua ngoài nhi...ề...u.
Những tiếng cuối cùng Nhã nói lập cập, như người hụt hơi. Hay là anh ta sợ, Phong nghĩ. Anh mong là mình nghe lầm. Cả chỗ dựa của tiểu đội lúc này là Nhã.
Mọi người im lặng. Phong nghe rõ những hơi thở mạnh, trong đó có cả tiếng thở của mình. Cuộc chiến đấu sắp bắt đầu. Liệu mình có bị trúng ngay một phát đạn trước khi làm được một việc gì không?...
— Mìn nổ chưa nhỉ? - Nhã hỏi.
— Chưa thấy gì. - Một người đáp.
— Làm ăn thế nào mà lâu thế?
Phong chạy ra cửa sổ, ngó xuống đường. Đường phố vẫn trống trơn, chạy thông thống suốt từ nhà Moóc-li-e ra cửa Nhà Thờ lớn.
Phong quay vào đã thấy một anh tự vệ ngồi bên Nhã đang báo cáo: — Bọn tôi tra đây cháy chậm, đốt hai lần, mìn vẫn không nổ. Chúng tôi dùng choòng đào gốc nhưng đất rắn lắm, có đào hết đêm chưa chắc nó đã đổ. Nhã ngồi đực ra một lát, rồi nói:
— Mặc cha nó! Các cậu vào cả trong nhà, im lặng, tớ hô xung phong thì lao ra.
Anh tự vệ đi ra cầu thang, dò từng bậc xuống nhà.
Nhã khoát tay bảo mọi người:
— Ra bố trí. Xe ở nhà Moóc-li-e ra, hay ở Tràng Thi vào là đánh. Đợt đầu, tôi, Bảo, Nghĩa ném lựu đạn.
Bảy người ngồi chen chúc nhau bên hai cái cửa sổ. Hai anh có súng trường, hết quỳ lại ngồi, lựa tư thế bắn. Phong ngoắc quai dây súng ngắn vào cổ tay, sợ lát nữa khi súng nổ nnó có thể tuột khỏi tay mình.
Anh thò nòng súng qua khe chấn song, nhắm xuống một chỗ trống trên mặt đường. Anh thấy tay mình run quá. Anh đặt nòng súng lên cái dóng ngang cho có chỗ tựa. Nhưng cái nòng súng bé nhỏ cứ nhảy lên liên hồi. Hai vật bằng sắt thép va chạm vào nhau thành những tiếng lách cách rất gấp. Anh phải rụt nòng súng khỏi điểm tựa, và đưa mắt nhìn người bên cạnh, sợ anh ta nhận thấy sự khiếp đảm của mình. Cậu này đang ngồi thu lu, bó gối với một quả lựu đạn trong tay. Phong nghe thấy hai hàm răng cậu ta đánh vào nhau lập cập. Cậu ta cũng sợ chứ không phải chỉ có mình. Cậu ta quay lại nhìn anh, nói không ra tiếng:
— R..e...é...t qu...á!
— Rét thật.
Phong nói mà không nghe rõ tiếng nổi của mình. Trái tim nhộn nhạo làm anh nói không thành tiếng.
Một cậu nào đó đang thở phì phò như lò bễ.
Nhã lom khom lách người đi ngó hai bên cửa sổ. Anh vấp phải Phong. Nhận ra Phong, anh cúi xuống ghé vào tai:
— Mẹ cha nó! Chưa bao giờ mình run như lần này!
Lời thú nhận của Nhã làm cho Phong yên tâm. Cả cậu ấy cũng sợ thì chắc đây chỉ là tâm lý chung của con người trước giờ chiến đấu.
Có tiếng động cơ phía Tràng Thi vọng lại. Tiếng ầm ầm mỗi lúc một to, giống như tiếng xe xích. Nó chạy thẳng ra Bờ Hồ hay nó sẽ quành về phía này?
Tiếng xích nạo mặt đường tạo nên một âm thanh ghê rợn.
Đột nhiên, hai ánh đèn pha sáng rực cuối phố.
— Nó đấy!
— Háp-tơ-rắc!
Mấy người cùng thốt lên.
Phong vội đặt tay vào cò súng. Cái nòng súng rung mạnh như không chịu sự điều khiển của anh.
Mặt đường sáng rực lên. Phong nhìn rõ cả những chiếc lá sấu. Luồng ánh sáng của hai ngọn đèn pha làm cho mắt bị lòa đi. Tiếng xích sắp nghiến mặt đường như siết vào màng tai.
Rồi mặt đường tối sầm lại rất nhanh. Cái xe xích đã chạy vụt qua. Nó phóng nhanh đến nỗi mọi người không kịp phản ứng. Kế hoạch của họ đã bị lỡ.
Một tiếng nổ vang lên. Nhã cúi đầu xuống như để phòng địch bắn trả. Anh vừa bắn một phát vuốt đuôi.
Tiếng súng của anh bị chìm đi trong muôn ngàn tiếng súng râm ran khắp thành phố.
Khói súng phả vào mũi mọi người một mùi nồng nồng. Nó như một thứ men kích thích làm cho Phong cảm thấy bớt sợ.
— Mẹ cha nó! Nhanh quá - Nhã nói.
— Nhanh thật! - Phong nói tiếp để giải thích cho hành động chậm chạp của mình.
Cùng một lúc mấy cái đầu ló lên khỏi cửa sổ nhìn theo con mồi họ chưa kịp vồ.
Chiếc xe xích lao vào trong sân nhà Moóc-li-e. Đường nét của ngôi nhà sáng bừng lên trước ánh đèn pha.
Bỗng từ đó vẳng lại những tiếng gào to: Moọc...li...e...! Moọc...li...e...!". Rồi lại những tiếng: "Moọc...li...e!Moọc...li..e!" rền vang.
Tiếp theo là tiếng giày đinh chạy lạo xạo trên sỏi.
— Nó sẽ quay lại. Cánh ta phải bình tĩnh. Chộp cho đúng đầu thằng Moóc li-e. Phen này ăn to đấy!
Giọng nói của Nhã đã gần trở lại bình thường, tuy chưa giấu được cảm xúc.
Phong thấy bàn tay bớt run. Bây giờ anh mới nhớ ra là mình vẫn chưa lên đạn. Anh kéo nòng súng. Viên đạn nhỏ nhảy lên nòng một cách nhẹ nhàng. Ta không cần dựa nòng súng vào dóng ngang nữa. Chờ cái xe chạy đến trước cửa, ta sẽ đứng thẳng người bắn một phát vào khoang xe, rồi thụp nhanh xuống như Nhã vừa làm.
Đường phố lại sáng rực lên. Hai ngọn đèn pha vẫn làm cho mắt họ lòa đi. Chẳng cần tập trung nhìn vào nó làm gì. Mình không cần đến hai ngọn đèn. Cái mình cần là thùng xe ở phía sau. Ban nãy, anh đã không kịp nhìn thấy trong thùng xe có mấy tên lính Pháp.
Chiếc xe lao về phía họ cũng nhanh như lúc chạy vào.
Khi nó đi ngang cửa, một loạt lựu đạn từ cửa sổ tới tấp lăng xuống. Phong thấy cậu ngồi bên cạnh chồm người lên và vung tay. Anh cũng chồm lên, nhắm nòng súng về phía thùng xe bắn liền hai phát. Anh nhìn thấy những bóng đen lố nhố. Đầu đứa nào cũng đội mũ sắt.
Người nổ súng đầu tiên chính là Phong. Tiếp theo phát súng của anh là một loạt những phát súng khác khá giòn giã.
Họ chờ mãi không thấy một tiếng lựu đạn nào nổ. Chiếc xe vẫn tiếp tục lao về phía Nhà Thờ lớn. Nó rẽ ngoặt về phía Tràng thi. Bọn lính Pháp trên xe không bắn trả phát nào. Chúng sợ họ? Chúng không muốn chiến đấu dây dưa để đưa nhanh chủ tướng về thành? Hay chúng phải đối phó với mấy quả lựu đạn chưa nổ rơi trúng thùng xe?...
Tiếng động cơ nhỏ dần. Có lúc nó rống lên như một con vật bị đạn. Trận đánh đầu tiên của họ đã kết thúc.
Đôi lúc tiếng súng lắng dịu. Người ta hy vọng giống như mọi lần sự yên tĩnh đang trở lại. Nhưng rồi nó lại rộ lên mãnh liệt hơn. Giống như một trận bão, gió đổ về từng đợt, đợt sau dữ dội hơn đợt trước.
Khung trời ngoài cửa sổ đỏ rực lên như lúc hừng đông.
Bọn lính Pháp đóng ở nhà Moóc-li-e thỉnh thoảng lại tuôn ra một tràng liên thanh dọc con đường phố Nhà Thờ, dãy số nhà chẵn và lẻ đã bị cắt đôi. Từ lúc nổ súng đến nửa đêm, không còn một chiếc xe nào chạy qua đường phố.
Tiếng súng nổ đột nhiên có vẻ gần hơn. Những tiếng nổ choang choác ngay trên nócnhà.
Nhã bảo Phong:
— Cậu biết địa thế khu này, vào nhà trong, nơi hai cô Kiều ở, trèo lên gác thượng xem tình hình đánh đấm như thế nào. Ngồi trong nhà này cứ như ngồi trong hũ.
Gác trong vắng ngắt. Có lẽ anh Năm và những người thân chắc đã sang cả bên số chẵn. Các buồng, cửa đều khóa chặt. Phong chợt nhìn thấy bóng một cô gái ở gác ba, trong buồng Tuyết Lan. Phong định gõ cửa khuyên hai chị em nên xuống nhà dưới cho đỡ nguy hiểm. Nhưng cánh cửa đã mở. Tuyết Mai đứng nhìn anh.
— Chị Lan đâu cô Mai?
— Chị em sang bên số chẵn rồi.
— Tại sao cô còn ở lại?
— Em không đi.
— Cô phải xuống nhà dưới, đề phòng địch bắn đại bác.
— Anh xin cho em vào tự vệ được không? Em muốn vào tiểu đội anh. — Cô nên đi theo anh Năm.
— Em không đi theo anh Năm. Em muốn ở lại Hà Nội...
— Anh Năm cũng ở lại Hà Nội?
— Nhưng... em muốn ở đây.
— Tùy cô... Cô xuống nói chuyện với anh Nhã.
Phong bỏ Mai ở đó, leo vội lên gác thượng vì nghe tiếng súng nổ quá gần. Nhìn lại, thấy Mai vẫn đứng ở chân cầu thang, Phong giục:
— Xuống gặp anh Nhã ngay đi! Nó sắp đánh đến nơi rồi.
Trước cô gái ngây thơ này, anh tự thấy mình là người am hiểu. Phong đứng trên gác thượng nhìn quanh. Bốn phía đều có những vầng lửa. Những đám mây trên trời cũng nhuốm hồng màu lửa. Súng nổ râm ran khắp nơi. Chỗ này vừa lắng xuống, chỗ kia lại rộ lên. Những tiếng nổ dữ dội mà anh vừa nghe thấy là ở phía Bờ Hồ, cách đây theo đường chim bay chỉ khoảng một trăm mét. Những luồng đạn lửa đan nhau. Những tiếng nổ như xé màng tai. Phong đã nhận ra đó là đồn công an quận I . Nhà Moóc-li-e nằm giã phố Hàng Trống. Mấy ngày hôm nay xe của Pháp từ Tràng Thi và các phía tới nhà Moóc-li-e vẫn phải đi theo phố Nhà Thờ, qua trước cửa nhà anh, vì có đồn công an đóng ngay đầu phố Hàng Trống. Quân Pháp đã mở cuộc tiến công vào khu phố của họ bắt đầu từ đồn công an Quận I. Những khẩu đại liên của chúng đang chõ cả vào đấy mà tuôn đạn như mưa. Ta bắn trả bằng những loạt súng ngắn, những phát súng trường. Trận đánh xem chừng ác liệt. Anh hoàn toàn hết hy vọng cuộc chiến đấu đêm nay sẽ sớm kết thúc. Đây đúng là chiến tranh. Chiến tranh đã diễn ra ở khắp thành phố, ở tất cả những nơi có ta và địch đóng quân. Một mũi nhọn của cuộc chiến tranh đang trực tiếp nhằm vào khu phố của anh.
Phong ngước mắt nhìn bầu trời. Ngoài những đám mây phản chiếu ánh lửa đỏ hồng, trời chi chít những vì sao. Những cặp mắt thiên thần từ vô cùng xa xôi ấy đang nhìn về trần thế lo lắng. Cuộc chiến tranh này sẽ kéo dài đến bao giờ? Có lẽ không phải vàingày, một tuần. Mẹ anh và các em anh ở ngoài kia
sẽ ra sao? Mối dây liên hệ giữa gia đình anh với gia đình ông bà Toàn Thịnh chính là anh. Nếu bây giờ mối liên hệ đó bị cắt? Sẽ không thể nào còn sự quan hệ chặt chẽ giữa hai gia đình. Mẹ anh chỉ có một vốn liếng rất nhỏ. Gia đình anh làm cách nào mà sống qua ngày nếu chiến tranh kéo dài? Dễ gì anh ra khỏi cái biển lửa này? Có thể anh sẽ ngã xuống vì một viên đạn. Chính anh đã tự dẫn mình vào cuộc hiểm nguy. Anh làm như vậy là đúng hay sai? Anh không có thời giờ để nghĩ đến chuyện, đúng, nhưng lúc này có biết bao người đang lo lắng vì anh...
Phong nhớ đến Dung.
Dung là con gái đầu lòng của ông bà Toàn Thịnh. Những ngày đầu Phong đến dạy học cho cậu em. Dung tỏ vẻ lãnh đạm. Anh có cảm giác cô gái nhìm mình như một người làm thuê. Vết thương lòng của anh đối với Kiều Oanh còn chưa hàn gắn. Như một con chim phải tên, anh xa lánh những cô gái con nhà giàu. Phong đáp lại thái độ lãnh đạm của Dung bằng những cử chỉ lễ độ khi chào hỏi, và không bao giờ anh gợi chuyện, thậm chí không bao giờ anh tỏ ra chú ý đến cô. Bà Toàn Thịnh có lúc nói đùa với chồng: "Cậu giáo nhà này thanh niên chưa vợ mà có vẻ đứng đắn hơn cả ông".
Đã quen với cảnh những chàng trai lẽo đẽo theo mình từ khi rời trường học đến lúc về nhà, thái độ dửng dưng của người thanh niên nghèo làm cô gái phải để tâm. Dung chủ động hỏi han anh. Cô nói với mẹ bảo cậu giáo đưa mình và em đi xem xi-nê, xem hát. Nhưng cô vẫn không làm cho Phong thay đổi thái độ đã có từ lúc ban đầu.
Phong biết cô gái chú ý đến mình. Được một người con gái như vậy có cảm tình đâu phải là điều không may mắn. Nhưng anh đã đoán trước cái chung cục. Anh không dám thử thách số phận một lần nữa. Tình trạng giữa hai người trở nên căng thẳng. Dung tỏ vẻ hờn giận anh.
Một tuần, Phong bị cảm lạnh, phải nghỉ ở nhà. Bữa ấy, anh đang nằm trong buồng, chợt nghe tiếng Dung nói với mẹ ở sân trước:
— Thưa bà, cậu mợ cháu bảo cháu tới thăm anh Phong".
Mẹ anh xuýt xoa:
— Trời ơi! Quý hóa quá, tôi đã lên báo với ông bà là em nó đã khỏi rồi, sắp đi làm, vậy mà ông bà chu đáo quá, vẫn bắt cô xuống.
Mẹ Phong dẫn Dung vào buồng.
Dung đặt trên bàn mấy trái cam, tươi cười nói:
— Cậu mợ em bận, bảo em xuống xem anh đã thực khỏe chưa. Nếu anh chưa khỏe hẳn thì cứ nghỉ tiếp ít ngày. Ở nhà, em sẽ bảo em nó học. Cô gái chuyện trò với anh bằng những lời lẽ dịu dàng, rất dễ thương. Khi mẹ anh vừa ra khỏi buồng, giọng cô gái trở nên ráo hoảnh:
— Cậu mợ tôi không bảo tôi xuống! Các cụ đã biết anh khỏi bệnh và sắp đi làm. Tôi tự xuống đây vì có việc cần phải báo với anh... Sự thay đổi thái độ đột ngột của cô gái làm Phong ngạc nhiên. Dung nói tiếp:
— Tôi thấy phải nói cho anh biết là có kẻ đang định hại anh... Phong lại càng ngơ ngác nhìn cô.
— Anh có biết thằng Sếu không? - Dung hỏi.
— Có - Phong vừa đáp vừa gật đầu - Em Luyến có trỏ cho tôi một đôi lần, nhưng thực tình tôi không chú ý lắm.
Phong đã nhớ tới một anh chàng cao gầy, hay đeo chiếc ca vát màu huyết dụ, mặc quần "gọn" , không biết ở đâu, thường có lúc đứng hàng giờ ở gốc cây bàng xế bên kia đường, đăm đăm nhìn sang cửa sổ buồng học của Dung. Có những thanh niên muốn tỏ tình theo kiểu này, bày tỏ sự si mê của mình trong im lặng để làm rung động trái tim người đẹp. Luyến đặt tên anh chàng này là "thằng Sếu".
Dung nói:
— Anh chú ý hắn, phải đề phòng và tốt nhất là nên lánh xa mỗi khi gặp hắn, vì hắn dọa sẽ giết anh.
— Giết tôi?
— Nó dọa giết anh vì nó thấy anh đi với tôi một đôi lần... Nó chạy theo tán tỉnh tôi, tôi mắng nó. Nó nghĩ là tôi... có cảm tình với anh, nên cự tuyệt
nó... Đấy là tự nó nghĩ ra như thế... Nó bảo với tôi, nó sẽ giết anh. Tôi thấy có bổn phận phải báo anh biết để anh đề phòng.
Phong lúng túng:
— Tôi rất cảm ơn cô.
— Anh cảm ơn tôi à...? Tôi không dám nhận lời cảm ơn của anh... - Giọng nói của Dung như nghẹn lại - Thôi chào anh, tôi về.
Dung vụt ra khỏi buồng như người bỏ chạy.
Dung không chuyện trò với Phong, không cùng Luyến đi xem chiếu bóng, xem hát với anh nữa. Nhưng tới khi có lệnh tản cư, cô xuống nhà Phong một lần nữa; cô gặp mẹ Phong, nói gia đình mình gia đình Phong cùng đi tản cư một chỗ. Tất nhiên, mẹ Phong không bao giờ từ chối một dịp may như thế.
Từ ngày đi tản cư. Phong đã trở nên dịu dàng với cô gái mà trước đây anh xa lánh vì anh nghĩ đóa hoa đẹp này ở một cành quá cao. Cách đây ba hôm, chính Dung đã nằn nì với anh:
— Mợ em không ăn không ngủ được vì chuyện thằng Luyến trốn về Hà Nội. Nếu không có anh thì chính em phải đi tìm nó. Em không muốn anh về trong đó chút nào, nhưng trong trường hợp này, mong anh giúp em... Anh đi đường phải hết sức cẩn thận...
Anh đã không thực hiện được lời đã hứa với ông bà Toàn Thịnh và nhất là với Dung. Nhưng lúc này Phong không băn khoăn vì điều đó. Anh tự trách mình về thái độ đối với cô gái. Lần đầu trong đời, anh được một cô gái bày tỏ tình yêu... Nếu mình không trở về, không còn có dịp gặp lại Dung thì đó là điều đáng ân hận biết chừng nào...!
Bỗng chốc anh thấy tâm hồn trống rỗng, cô đơn...
Phong giật mình vì một viên đạn réo gần. Có thể là một viên đạn lạc. Anh nhớ ra nhiệm vụ lên đây quan sát để trở về báo cáo với Nhã... Mắt Phong rời khỏi những vì sao trên bầu trời. Anh đưa mắt nhìn quanh một lần nữa. Cuộc chiến đấu ở đồn công an Quận I có vẻ mỗi lúc càng ác liệt. Súng địch bắn dữ hơn, súng ta bắn trả thưa thớt hơn. Ngoài ra, anh không nhận được cuộc chiến đấu đang diễn ra ở những đâu, những nơi nào đang bốc
cháy. Những tiếng súng chìm sâu dưới chân anh. Anh chưa bao giờ nhìn thành phố ở một độ cao như thế này. Chỉ thấy những mái nhà màu nâu hồng, những sân thượng, những lùm cây nhỏ con con. Anh không phân biệt được cả những ngôi nhà mà anh thường ngày qua lại.
Phong quay xuống tầng dưới thuật lại những gì anh đã nhìn thấy với Nhã. Nhã có vẻ lo lắng.
Tuyết Mai mặc một cái áo khoác bằng nhung đen ngồi thu lu ở góc nhà, bên cạnh là ngọn đèn dầu cô mới đem từ trên gác xuống. Chắc Mai đã được Nhã chấp thuận cho vào tiểu đội.
Nhã bỗng hỏi:
— Sao bên số chẵn họ không phá cây nhỉ?
Cả tiểu đội lao xao bàn tán:
— Có lẽ họ cũng như mình, đốt mìn nhưng mìn không nổ!
— Lúc chúng mình đánh xe, không thấy tiểu đội 1 tham gia. — Các ông bên ấy cứ im lặng như tờ.
— Hay là họ kéo đi đâu rồi?
Tuyết Mai ngồi bên ngọn đèn bỗng quay mặt về phía bóng tối. Nhã lẩm bẩm:
— Không biết các ông ấy làm ăn thế nào? Đã bàn, đoạn trên chặn, đoạn dưới cũng chặn thì xe nó mới không chạy thoát.
Phong đang ngồi tự lưng vào tường bỗng nghe những tiếng cậm kịch ở nhà bên. Hình như có người đang đục tường. Phong biết nhà bên cạnh đã tản cư hết. Ban chiều, khi đi qua nhà này, Phong thấy không còn ai. Anh bảo Nhã: — Có cái gì ở nhà bên, tôi chạy sang coi.
Phong rút khẩu súng trong túi ra.
Cậu tự vệ ban nãy ngồi cạnh Phong nói:
— Tôi cùng đi với anh.
Hai người vào nhà trong. Họ chui qua lỗ tường đục sẵn, lọt sang khu vườn nhà hàng xóm. Phong ra hiệu cho người bạn đừng lại. Họ dỏng tai về phía nhà
trên lắng nghe. Rõ ràng có tiếng người. Có thể là người mình. Nhưng cần phải nghe rõ tiếng nói của họ. Vì quân Pháp cũng chỉ ở cách họ có mấy nhà. Phong rón rén đi qua vườn, vào giáp căn nhà bếp.
Không còn nghe thấy những tiếng thình tịch bên trong. Bỗng có tiếng người nói:
— Hầm chứa củi chứ không phải lỗ ăn thông sang nhà bên.
— Chỗ trên nhà, tường chắc lắm.
— Tìm nữa đi! Tự vệ nói cả phố này đều có đường thông bên trong nhà. Nếu không có, công kênh nhau lên mà vượt tường...
Người của mình rồi! Nhưng không phải là tự vệ ở phố này. Họ không biết lối thông qua tường ở sâu phía trong. Phong lên tiếng:
— Các đồng chí ở đâu đấy?
Im lặng.
Một lát có tiếng người bên trong hỏi lại:
— Ai nói đấy?
— Tự vệ phố Nhà Thờ lớn. - Phong đáp.
— Chúng tôi đang đi tìm các đồng chí đây. -Tiếng người bên trong mừng rỡ - Anh em chúng tôi ở đầu phố.
— Các đồng chí mở cửa bếp ra vườn. Lối đi ở ngoài vườn này Cửa bếp mở. Mấy bóng người chạy ra. Người nào cũng có súng đạn. Họ mặc quần áo công an. Phong hỏi:
— Chắc các đồng chí ở quận I?
— Chúng tôi ở quận I rút về. Ai là chỉ huy của các đồng chí? — Anh Nhã.
— Cho chúng tôi gặp đồng chí Nhã.
— Các đồng chí theo tôi.
Phía trong nhà kéo tiếp ra hơn chục người. Một anh bị thương, đầu quấn băng trắng, đi phải có người dìu.
Họ đã sang hết bên nhà Phong.
Người vừa nói chuyện với Phong lại hỏi:
— Đồng chí Nhã là trung đội trưởng à?
— Là tiểu đội trưởng. Trung đội trưởng ở dãy nhà bên kia.
— Đồng chí Nhã ở đâu?
— Ở nhà trên.
— Tôi là đồn phó đồn Công an quận I. Đồng chí đồn trưởng bị thương. Đồng chí đưa tôi lên gặp đồng chí Nhã.
Anh quay lại bảo những người kia:
— Các đồng chí ở đây chờ tôi.
Anh đồn phó đi theo Phong lên nhà trên. Phong giới thiệu anh với Nhã. Anh đồn phó hỏi Nhã:
— Tình hình ở đây như thế nào?
— Súng nổ được một lúc thì Tây đưa háp-tơ-rắc đến đón Moóc-li-e. Chúng tôi đánh vào xe. Vì lựu đạn không nổ nên xe chạy mất. Sau đó, không thấy xe địch đến nữa. Tình hình yên tĩnh. Thỉnh thoảng bọn lính ở nhà Moóc li-e bắn ra vu vơ.
— Không yên tĩnh đâu đồng chí ạ - Anh đồn phó hạ thấp giọng. - Đồn Công an quận I mất rồi. Chúng tôi là những người cuối cùng rút khỏi đó. Sao các đồng chí chỉ có một tiểu đội?
— Một tiểu đội nữa ở bên kia đường, nhưng không thấy họ động tĩnh gì từ chập tối.
Anh công an trầm ngâm rồi nói:
— Đồn quận I đã mất. Khu phố này không có chiến lũy. Lực lượng chúng tôi và các đồng chí chỉ có thế này, không ngăn được chúng. Thể nào nó cũng phải chiếm phố Nhà Thờ để bảo vệ nhà Moóc-li-e. Theo tôi, chúng ta phải rút, rút vào phía trong chiến lũy ở Ngõ Huyện.
— Phố này vẫn còn dân?
— Sẽ đưa cả dân rút theo...
Hai người tiếp tục bàn bạc kế hoạch rút lui. Họ thống nhất sẽ theo con đường trong nhà, đi về cuối phố, qua nhà nào có dân thì vận động bà con cùng đi. Họ sẽ bố trí canh gác quanh Nhà Thờ, bắt liên lạc với tự vệ ở Ngõ Huyện,
rồi tổ chức cho từng người bí mật vượt qua đường, cố gắng không để cho bọn lính ở nhà Moóc-li-e biết.
Phong nhìn lại căn phòng gia đình mình ở lần cuối trước khi đi. Mọi vật đều in sâu những kỷ niệm buồn vui. gia đình anh không có đồ vật gì quý giá. Nhưng có những vật mà bố anh lúc sinh thời, mẹ anh, các em anh, và bản thân anh rất quý. Tim anh thắt lại. Anh là người thay mặt cả gia đình vĩnh biệt những đồ vật thân yêu này, những đồ vật đã trở nên có hồn. Cuộc rút lui đã nói lên tình hình nghiêm trọng. Mấy ngày trước đây, cả Hà Nội đã ầm ầm lên khi Pháp chiếm của ta một ngôi nhà. Bây giờ, ngay tại đây, họ đã phải bỏ cả một khu phố cho quân địch. Rồi ngày mai, khi mặt trời đã đem ánh sáng trả lại thành phố, cuộc chiến đấu sẽ còn quyết liệt hơn, họ sẽ còn gặp nhiều khó khăn hơn.
Khi họ chuyển về đến cuối phố Nhà Thờ lớn, đoàn người đã tăng quá gấp đôi. Dân chúng phần lớn là người giúp việc của các gia đình, ở lại để giữ nhà, nhưng cũng có một số ông bà già, các bác chủ nhà tin rằng chiến tranh sẽ không nổ ra nên không chịu tản cư.
Tự vệ Ngõ Huyện sẵn sàng tiếp nhận họ.
Trước họng súng của quân địch, những người già, những ông bà đứng tuổi, những chị phụ nữ đều trở nên nhanh nhẹn, khéo léo. Cả đoàn người đã vượt qua đường an toàn dưới chân pho tượng Đức Mẹ đứng ôm trong tay Chúa Hài đồng.
3
Khác hẳn với phía ngoài, bên trong chiến lũy có cả một tổ chức chiến đấu hẳn hoi.
Tự vệ tiếp tục bồi đắp thêm công sự. Quãng quãng lại có một trạm gác. Nhiều ngôi nhà cửa vẫn mở, có ánh đèn dầu,người đi lại nhộn nhịp. Cuộc chiến đấu diễn ra đã mấy tiếng đồng hồ nhưng những người ở đây vẫn bình
tĩnh. Hình như họ không lo địch ập đến bất thần. Những ụ đất, những đườnghào và những cây súng phục sẵn mọi nơi sẽ bảo vệ cho họ. Nhìn qua một cánh cửa để ngỏ, Phong thấy một dãy nồi lớn đặt trên những viên gạch, lửa khói nghi ngút. của ban hỏa thực . Phong bỗng cảm thấy đói. Từ trưa đến giờ anh mới ăn một chiếc bánh mì. Anh tự hỏi bữa sáng mai mình sẽ ăn ở đâu.
Phong nằmtrằn trọc vì lạnh. Bên anh, Nhã đã ngáy vo vo. Tuyết Mai nằm ở góc buồng thỉnh thoảng lại trở mình. Người ta nói thanh niên Sài gòn ra Hà Nội học đều là con cái những nhà giàu có. Nếu đem hoàn cảnh của mình so sánh với cô gái yếu đuối kia thì thật chẳng có gì đáng phàn nàn.
Súng lại nổ mạnh, có phần dữ dội hơn cả lúc ban tối. Lại có một trận đánh đang diễn ra ở đâu? Tiếng xe xích chạy ầm ì trên đường Tràng Thi. Không phải một chiếc mà cả một đoàn xe. Nền nhà dưới lưng anh cũng đang rung chuyển. Tiếng ngáy của ai vừa rống lên nghe thật buồn cười. Dường như tiếng động cơ của những xe xích đang vỗ về họ trong giấc ngủ. Phong lo lắng nghĩ đến ngày mai. Nhưng về đến đây, anh không còn cảm thấy cô đơn.
Các đồng chí công an đã dìu người bị thương vào một trạm xá. Họ sẽ đi bắt liên lạc với nhau. Tiểu đội của Nhã phải đến gặp khu để báo cáo. Người liên lạc dẫn họ đi quanh co qua những đường phố nhỏ đến một ngôi nhà gác hai tầng, phía trước là một sân rộng.
Nhã nhìn lại tiểu đội rồi bảo Phong:
— Xem phía sau còn ai nữa không, bảo và hết cả trong này. Phong quay ra nhìn suốt dọc phố, không thấy một ai.
Tiểu đội họ chỉ còn tám người, kể cả Tuyết Mai. Phong không hiểu những người kia đi lạc đường hay họ cố tình rời khỏi hàng ngũ.
Trong nhà, một người độ mũ ca lô tím không có phù hiệu, mặc áo vá rơi xanh, ngồi trước một chiếc bàn giấy lớn, trên đặt ngọn đèn bão. Người đó hỏi:
— Các đồng chí ở đơn vị nào?
Nhã đáp:
— Báo cáo: Chúng tôi ở trung đội Nhà Thờ lớn.
— Sao lại tự ý bỏ trung đội?
Đáp lại câu hỏi hơi xẵng, Nhã nói bình tĩnh:
— Trung đội bỏ chúng tôi chứ chúng tôi có bỏ trung đội đâu! — Trung đội trưởng của các đồng chí là ai?
— Đồng chí Tám.
— Tám "cua-rơ" phải không? Đồng chí Tám đâu?
— Đồng chí ấy cùng với tiểu đội 1 rút lúc nào chúng tôi không biết. Chúng tôi ở tiểu đội 2 bố trí bên dãy nhà số lẻ.
— Tại sao các đồng chí chưa đánh đã bỏ vị trí?
— Chúng tôi có đánh. Đánh hết nửa số đạn và lựu đạn. Đồn Công an quận I bị địch chiếm. Chung quanh chúing tôi toàn là địch. Các đồng chí công an bảo chúng tôi phải rút vào trong này để tiếp tục chiến đấu.
— Công an quận I mất rồi à? - Người đó càng nói to hơn.
Một người từ phía ngoài nhanh nhẹn đi vào. Đó là một chị mặc chiéc áo véc bằng ki ki, chỉ khoảng hai mươi ba, hai mươi bốn tuổi là cùng. Người ngồi ở bàn đứng vội dậy:
— Báo cáo chị: đồn Công an quận I mất rồi. Tiểu đội ở phố Nhà Thờ chạy về đây.
Chị mặc vét ka ki nói:
— Đồng chí ra đôn đốc các chị em nấu nướng, sáng sớm mai phải có đủ cơm nước cho bộ đội và tự vệ, để tôi nói chuyện với các anh chị đây. Người đội ca lô vội vã đi ra. Chị mặc áo vét lại bên Nhã.
— Tôi là Thúy Hường, khu phó. Tôi vừa gặp các đồng chí công an quận I bên bệnh xá. Anh em nói là cùng rút với các đồng chí. Các đồng chí đã hoàn thành nhiệm vụ ở khu phố. Vào đây, lại tiếp tục chiến đấu. Tiểu đội các đồng chí còn bao nhiêu người?
— Báo cáo chị: tám người.
— Ngày mai biên chế lại. Sẽ có bộ đội tới chỉ huy các đồng chí. — Chúng tôi gần hết đạn và lựu đạn rồi.
— Ban quân khí sẽ phát thêm cho các đồng chí. Bây giờ mời các đồng chí đi nghỉ.
Thúy Hường gọi một người liên lạc dẫn họ đi.
Phong vẫn còn ngạc nhiên vì sự bình thản và lời ăn tiếng nói dịu dàng của chị phụ nữ. Nhã chạm khuỷu tay vào người anh:
— Cậu biết bà này không?
— Không.
Người trong Mặt trận Việt Minh đấy. Mình đã nghe bà ấy diễn thuyết một lần.
Nhã quay sang hỏi người liên lạc:
— Cái cậu ca lô tím oai vệ ngồi ở bàn giấy khu là ai đấy?
— Đồng chí Ngự, chánh văn phòng.
— Thằng cha... Đáng ăn mấy cái bợp. Lúc đầu mình lại tưởng nó là khu trưởng...
Nơi nghỉ của họ là trường Gia Long. Ở đấy có nhiều đơn vị tự vệ và những anh bộ đội đang ngủ say sưa, mặc tiếng súng vẫn nổ rền.
Mỗi người chọn một chiếc ghế dài làm chỗ nằm.
Nhã tháo khẩu súng ngắn ở thắt lưng, đặt trên ghế làm vật gối đầu. Tuyết Mai cuộn tròn trong chiéc vỏ chăn, gối đầu lên cái xắc nhỏ mà cô mang theo. Cô ấy chuẩn bị cho mình khá chu đáo. Phong bỗng thấy tiếc là ban nãy ở nhà đã không nghĩ gì đến chuyện kiếm một ít đồ dùng cá nhân chuẩn bị cho cách ăn, ở mới.
Họ đã được biên chế vào một trung đội mới do một đồng chí Vệ quốc quân chỉ huy. Thành phần trung đội này gồm đủ mọi loại người: mấy anh Vệ quốc quân, mấy anh công an từ quận I rút về, số khá đông là tự vệ các phố gom nhặt lại, có cả những người như Phong và Tyết Mai trước ngày nổ súng chưa hề là tự vệ.
Trung đội chia làm ba tiểu đội. Nhã, Phong, Tuyết Mai vẫn ở tiểu đội 2. Mai đã trở thành cứu thương của tiểu đội. Không biết cô gái học nghề này từ
bao giờ, nhưng cô đã thản nhiên nhận về một túi cấp cứu có in hình chữ thập đỏ với đầy đủ bông băng, thuốc sát trùng, thuốc tiêm và kim tiêm. Chỉ huy trung đội là Tôn Chỉ, một anh Vệ quốc quân, người Tày, bộ mặt lầm lì.
Hàng ngày, sáng dậy họ nhận mỗi người một nắm cơm đóng khuôn như chiếc bánh chưng. Họ ngồi quây quanh một nồi canh lớn; đó là thức ăn. Sau đó, từ trường Gia Long, họ phân chia nhau đi khắp nơi.
Tiểu đội Phong vẫn quay về hoạt động tại khu vực quen thuộc là phố Nhà Thờ. Tiểu đội trưởng đưa họ lên bố trí ở những ngôi nhà gác, trên sân thượng, có khi trên những mái nhà chung quanh khu vực ta đắp chiến lũy. Trước đây, Phong cứ tưởng bộ đội và tự vệ nấpngay đằng sau chiến lũy bắn ra, hoặc ném
lựu đạn để ngăn cản quân địch tiến vào. Nhưng bây giờ anh đã biết phía sau chiến lũy thường chỉ có một người gác. Bản thân chiến lũy không phải là nơi chiến đấu. Chiến lũy chỉ là một vật cản ngăn không cho xe tăng và bộ binh địch vượt qua. Người bảo vệ chiến lũy nằm ở những nơi khác. Những nơi thật bất ngờ. Và những vị trí này cần phải thay đổi luôn.
Đã mấy ngày chiến đấu, tình hình khu vực này vẫn khá yên tĩnh. Thỉnh thoảng mới có một chiếc xe gíp, xe háp-tơ-rắc từ nhà Moóc-li-e ra hoặc từ nơi khác đến chạy ngang phố Nhà Thờ. Chúng phóng rất nhanh. Phải là những tay súng thiện xạ mới có thể hạ được một hai thằng ngồi trong xe. Thường thì họ chỉ nhắm đúng mục tiêu là chiếc xe. Bắn trúng một vậy đang chạy nhanh như vậy ở xa vài chục mét, không phải chuyện dễ dàng. Nếu gây thương vong được cho những tên địch đi trên xe là điều tốt nhất. Nếu chỉ xuyên thủng được vỏ thép của chúng hoặc làm viên đạn réo qua đầu chúng cũng đủ gây cho chúng sự kinh hoàng.
Nhã đã được phát một khẩu súng trường. Nhã và Phong chuyền tay nhau bắn. Họ đã dùng hết vài chục viên đạn nhưng vẫn chưa thấy được kết quả cụ thể trừ thái độ của địch hoảng hốt bắn trả hoặc lao xe thật nhanh.
Điều họ khó hiểu là không biết tại sao bọn địch cứ để cho họ nằm yên, ăn yên, ngủ yên tại khu phố bé nhỏ này. Tại sao chúng chưa đánh thẳng vào chiến
lũy? Họ cũng muốn thử thách sức chịu đựng của nó. Tại sao Pháp không ném bom vào khu vực này? Tại sao chúng cũng không bắn đại bác? Sang ngày thứ ba, có mấy viên đạn súng lớn rơi vào phố Huyện. Hai ngôi nhà bị sập mái. Một viên đạn khóet một lỗ bằng cái thau trên mặt đường. Cũng may chỉ có một con lợn chết. Mấy anh tự vệ bị tức ngực, phải đưa về trạm xá. Người ta nhặt được một viên đạn khổng nồ, và xác định đó là đạn moóc-chi-ê. Đạn moóc-chi-ê, cái chết từ trên trời rơi xuống, bắt đầu đe dọa sự yên lành của những người ở bên trong chiến lũy.
Không biết do đâu Tuyết Mai đã nghĩ ra một sáng kiến: làm cho bảo vệ chống sức ép của moóc-chi-ê. Cô lấy ở Hàng Bông về một số mền chăn và vải màn, cắt thành những mảnh nhỏ, khâu cho mỗi người trong tiểu đội một miếng để buộc trước ngực. Sáng kiến của Tuyết Mai được một số nơi bắt chước. Giữa mùa đông, quần áo nhiều người mỏng manh, có thêm chiếc mền bông đặt trước ngực cũng dễ chịu. Hơn nữa, tặng phẩm do chính bàn tay của cô gái ngoan ngoãn, dịu hiền này làm ra khiến cho mọi chàng trai không thể chối từ. Cả trung đội trưởng Tôn Chỉ vốn đã có áo trấn thủ cũng nhận một áo bảo vệ.
Họ không thấy bóng tiểu đội 1 phố Nhà Thờ lớn ở đâu. Họ không gặp cả những anh chàng trong tiểu đội của họ bị lạc khi từ Nhà Thờ rút sang bên này. Phong không hỏi được tin tức anh Năm, Hồng Kỳ và Tuyết Lan. Người ta nói địch đã bao vây chặt chẽ Liên khu I Hà Nội, nhưng vẫn còn một con đường từ đây rút ra ngoài, con đường đó nằm ở phía bờ sông.
Từ ngày nổ súng, Phong chưa hề nhìn thấy một đơn vị bộ đội nguyên vẹn. Dường như bộ đội ta chỉ có rất ít tại đây. Và họ đã chia ra thành những tổ nhỏ để chỉ huy những đơn vị tự vệ thành, những người dân như anh vừa tập hợp lại sau giờ nổ súng.
Ngày, đêm Hà Nội vẫn ran tiếng súng. Xe tăng, xe cơ giới của địch chạy mỗi ngày càng nhiều. Có lẽ quân Pháp đã giải tỏa được một số con đường và làm chủ thêm nhiều phố ở Hà Nội. Có lẽ chúng đang tỏa ra đánh nhau với ta ở các đầu ô. Tiếng súng nổ vọng về lúc gần, lúc xa.
Một tuần sắp qua.
Buổi sáng, cơm dọn ra có thịt lợn rang.
Nhã reo lên:
— Ăn mừng Thiên Chúa giáng sinh anh em ơi! Đêm qua mình chợt nhớ ra là Rê-vây-ông . Mình nằm mơ thấy được ăn một bữa thật ngon. Hôm nay được ăn thật.
Tuyết Mai liếc nhìn Nhã rồi nói:
— Em tưởng chỉ có em đêm qua nhớ Rê-vây-ông.
Nhã không nhìn Thuyết Mai, nói tiếp:
— Đáng lẽ đêm nay khai trương cái "bar" ở Hàng Trống. Phong nhớ không, hôm nọ mình đã mời cậu nếu không đánh nhau thì tối nay đến cửa hàng với mình... Hay là đêm nay ta tổ chức nhảy đi... Mình quên không ôm theo cây đàn. Mình lấy sáu tháng lương hợp đồng của "me" Nhật chỉ mua được hai thứ là khẩu Côn bát và chiếc ắc-coóc-đi-ông. Vứt mất một cái rồi!
Đồng chí đại đội trưởng đến khi họ vừa ăn sáng xong. Anh bảo Tôn Chỉ tập hợp cả trung đội. Mọi người đoán lại có chuyện gì.
Đại đội trưởng đứng chờ họ bên chiếc bảng đen trong căn buồng trước đây là phòng học. Trời rét nhưng anh chỉ mặc phong phanh một bộ quần áo xanh công nhân. Nếu không có chiếc ca lô với ngôi sao vành vàng lấp lánh, người ta sẽ không nghĩ anh là một cấp chỉ huy. Nước da anh đỏ như đồng hun. Bộ ngực nở nang căng tròn sau lần áo mỏng. Thân hình anh cân đối, đẹp như một pho tượng.
Phong đã nghe mấy anh bộ đội kháo nhau Trần Chương, đại đội trưởng của họ là tự vệ chiến đấu, lựclượng vũ trang của đoàn thể, mới chuyển qua Vệ quốc đoàn.
Chương chờ mọi người ngồi yên trên hàng ghế dài rồi mới bắt đầu nói. Giọng nói nhẹ nhàng của anh dần dần đanh lại.
— Hiện thời bốn phía chung quanh ta đều là quân địch. Có phải Bộ chỉ huy mặt trận đã vô tình để chúng ta lọt vào giữa vòng vây không?... Không phải như vậy. Đây là một chiến thuật. Đồng chí Trung Dũng, chỉ huy trưởng
mặt trận gọi đó là chiến thuật "trùng độc chiến". Chúng mình sẽ làm con sâu độc phá từ trong ruột địch phá ra. Bộ đội lớn bao vây quanh Hà Nội, từd ngoài đánh vào, ta từ trong đánh ra, thằng địch ở giữa sẽ lúng túng. Nhưng con sâu độc này lại lành quá! Anh em ta chưa làm cho địch phải lên cơn, phải giãy giụa, mà chỉ gây cho nó vài cơn đau bụng xoàng. Vì vậy, nó còn đủ sức đánh ra ngoài. nếu nó thọc mạnh vào một vài nơi, mặt trận bao vây vỡ, nó sẽ quay lại để xoay ta, bấy giờ sẽ mệt với nó... Lệnh của trên: ở trong này phải đánh thật mạnh, kìm chặt địch lại.
Chương vung cườm tay chém vào không khí, nói tiếp:
— Đêm nay sẽ đánh hẳn vào nhà Moóc-li-e ở Hàng Trống. Phong bật lên hỏi:
— Moóc-li-e còn ở đó không ạ?
— Nó còn đó hay chuồn vào thành, ta vẫn cứ đánh. Đánh vào đó địch mới rung động.
Chương cầm cục phấn vẽ lên bảng địa hình khu vực mục tiêu. Theo kế hoạch của anh, trung đội sẽ hành quân vòng ra Bờ Hồ, vào phố Bảo Khánh, qua vườn chuối, leo qua nhà viên tổng giám đốc Bưu điện rồi thọc vào phía sau nhà Moóc-li-e. Anh nói thêm:
— Đêm nay Nô-en, mình đánh, địch sẽ bất ngờ. Tiểu đội 2 mang theo một lá cờ, chiếm được nhà Moóc-li-e sẽ treo lên, để quân địch và cả thành phố ngày mai sẽ nhìn thấy... Tối nay tôi sẽ đi với các đồng chí...
Cả ngày, trung đội được nghỉ ngơi để chuẩn bị cho trận đánh. Ba cô cứu thương của đơn vị tìm nhau bàn cách buộc tóc, buộc ống quần, làm sao cho quai dép khỏi tụt. Phong mở súng trường ra lau và nghĩ thầm trận đánh thực sự của mình tối nay mới bắt đầu. Nhìn mấycô gái ríu rít chuẩn bị, anh bỗng thấy ái ngại. Giá anh là người chỉ huy ở đây thì anh sẽ bảo họ ở lại nhà.
Rời khỏi nhà được một lát, Phong hoàn toàn mất phương hướng. Đường đi nằm ngay trong nhà, xuyên qua những lỗ đục tường. Căn nhà nào cũng vắng lạnh, tối như hũ nút. Phải tập trung tinh lực nhìn về phía trước nhận cho ra cái khoảng trống vừa lọt người đã được mở giữa những bức tường. Có lúc phải
giơ tay sờ lần. Không cẩn thận là đầu hoặc trán lại va vào gạch tóe đom đóm mắt. Thỉnh thoảng qua một sân con hoặc một khu vườn nhỏ, Phong ngước mắt nhìn những vì sao chi chít trên đầu, hít một hơi dài, rồi lại vội vã bám theo người trước.
Tiểu đội của Phong đi cuối hàng quân cùng với tốp ba cô cứu thương của trung đội. Nhã và Bỉnh được trao nhiệm vụ treo cờ. Phong chưa biết mình sẽ làm gì trong trận đánh này. Anh ở trong tổ của Nhã. Anh tự bảo mình sẽ bám Nhã không rời một bước, Nhã làm thế nào mình sẽ làm thế nấy.
Thỉnh thoảng họ dừng lại khá lâu. Có lúc họ tưởng như người ở đằng trước đã bỏ đi, quên gọi mình. Họ không hiểu có chuyện gì xảy ra. Người dẫn đường bị lạc? Hay một chiếc xe tăng địch đứng chặn trên đường họ đi...? Không một lời giải thích. Khi có lệnh tiếp tục đi, họ cảm thấy như vừa thoát nạn.
Một ý nghĩ nảy ra trong đầu Phong: bây giờ mình chỉ cần né sang bên vài bước, đứng thu mình tronb bóng tối kia, chờ mọingười đi qua, mai về nói là mình lạc đường thì cũng không ai có thể trách cứ. Anh sẽ tránh được sự hiểm nghèo, có thể là cái chết... Nhưng anh không thể làm việc đó. Một sức vô hình đã gắn chặt anh vào với đoàn quân. Anh đang bị cuốn theo như chiếc lá bị cuốn theo sức mạnh của một cơn lốc. Trận đánh không phải chỉ đem lại cho anh sự lo lắng mà có cả sức hấp dẫn của nó. Đêm nay, các anh sẽ làm một việc động trời trong thành phố bị bao vây: đánh vào dinh tên chỉ huy quân đội viễn chinh ở Bắc Bộ. Kẻ thù sẽ kinh hãi vì trận đánh táo bạo này. Toàn thành và cả nước sẽ biết đến chiến công của các anh. Nếu ngày mai, anh vẫn bình an trở về, anh sẽ ngẩng cao đầu và nhìn mọi người. Mọi người cũng sẽ nhìn anh với cặp mắt khác - với cặp mắt như cặp mắt anh vẫn nhìn những người đã tham dự chiến đấu. Phát súng đầu tiên của anh bắn ở Nhà Thờ cũng như những phát súng anh đã bắn mấy ngày nay từ những vị trí bắn, không đủ giúp anh giành được vinh dự đó. Phải là một trận đánh như trận đánh đêm nay. Nhưng cái anh nghĩ đến nhiều hơn vẫn là một khoảng không vô tận, màu xám mông lung, ở đó không còn yêu thương, lo lắng, không còn mối quan hệ với mọi
người, không còn sự sống. Đó là cái mà một viên đạn đang chờ đem lại cho anh ở phía trước... Không biết những người khác cónghĩ như mình không. Phong tự hỏi. Có lẽ không. Nếu họ nghĩ như mình thì tội gì họ phải gắn bó với cuộc chiến đấu này? Họ cứ lẳng lặng ra đi. Không ai giữ họ lại được. Chắc không ai nghĩ như mình. Kể cả những cô gái yếu đuối kia. Chỉ riêng mình mới có ý nghĩ hèn nhát đó. Mình phải cố gắng che giấu nó đi nếu không muốn mọi người nhìn mình bằng cặp mắt khinh bỉ. Anh có thể chị đựng mọi sự thiếu thốn, khó khăn nhưng không thể chịu đựng sự khinh bỉ.
Phong lại cụng đầu vào một viên gạch. óc anh choáng lên. Đây là lần thứ ba anh va đầu vào gạch. Phong loạng choạng đứng lại.
— Lại đụng đầu rồi à? - Tiếng Nhã hỏi.
Phong không trả lời được vì đau.
— Nhanh lên! Đến nơi rồi!
Phong ôm đầu, cố nhịn đau gập người chui qua cái lỗ.
Anh lại nhìn thấy bầu trời chi chít những vì sao. Trước mắt anh là một đám đông, trong đó có dáng người cao lớn của Chương. Bên trái là những tàu lá chuối sum sê. Anh nhận ra đây là khu vườn chuối ở phố Bảo Khánh. Một luồng gió lạnh buốt từ Bờ Hồ thổi vào. Không biết sương đêm nay nước mưa đọng trên những tàu lá chuối rơi rào rào. Một giọt nước giá như băng lọt vào cổ anh.
Đại đội trưởng hỏi Tôn Chỉ:
— Trung đội đến đủ chưa?
Chỉ lại hỏi:
— Mấy cô cứu thương đến chưa?
Tiếng Tuyết Mai đáp:
— Cả ba chúng em đây rồi.
Tôn Chỉ nói với Chương:
— Báo cáo: đủ.
Chương vẫy tay bảo mọi người:
— Đứng gần cả lại đây.
Những bước chân rậm rịch: Súng đạn va vào nhau lách cách. Chương nói:
— Anh chị em nghe tôi. Trước mặt chúng mình một trăm mét là tường của nhà tên giám đốc Bưu điện. Vượt qua bức tường đó, chúng mình sẽ nhìn thấy một dãy nhà ngang. Qua nhà này, qua một bãi cỏ sẽ đến dinh Moóc-li-e. Bên phải chúng mình là đường Hàng Trống chạy qua cửa trước nhà Moóc-li-e. Bên trái là đường Bờ Hồ chạy sau nhà Moóc-li-e, chỗ này Tây đặt một trạm gác. Nhiệm vụ của từng tổ, tôi đã phổ biến kỹ cho các đồng chí tổ trưởng rồi. Bây giờ: đánh! Tất cả mọi người phải xung phong quyết tử.
Về cuối, từng tiếng của đại đội trưởng như dao chém đá. Nó truyền đến cho mọi người một quyết tâm đồng thời với sự lo lắng.
Giọng nói của một cô cứu thương lanh lảnh vang lên:
— Bọn con gái chúng em làm cách nào trèo qua tường ạ?
Có những người phì cười.
Chương nói:
— Các đồng chí cứu thương không cần leo qua tường. Các đồng chí ở lại bên này. Có người bị thương chúng tôi sẽ khiêng ra. Rõ chưa? — Rõ ạ.
— Tất cả vào việc đi! Tiểu đội 1 đi theo tôi.
Đoàn quân theo hàng một rầm rịch tiến về phía nhà viên tổng giám đốc Bưu điện . Bức tường màu trắng chạy dài trước mặt họ ngày càng rõ dần.Đã nhìn thấy đằng sau đó là một tòa nhà vuông vức, đồ sộ, màu trắng nhờ nhờ. — Đi!
Tiếng người đi sau thúc người đi trước đang chần chừ.
Một con dế như vừa tỉnh giấc, rúc lên một hồi dài. Rồi cả đàn dế lên tiếng khi nỉ non, khi than vãn.
Thỉnh thoảng lại có tiếng hục hặc trong cổ họng. Một anh nào đó đang bịt mồm để khỏi phát thành tiếng ho.
Sao rất sáng. Nhìn rõ nét mặt nghiêm trọng, lo âu của từng người. Nhã đi phía trước lùi lại, ghé vào tai Phong:
— Đêm nay không run nữa, nhưng sao vẫn hồi họp như người đi thi? Anh chàng này thực thà, Phong nghĩ. Anh ta dám nói ra vì anh ta không sợ quá như mình.
Nhã hỏi Bính, anh tự vệ được trao nhiệm vụ treo cờ:
— Cậu có sợ không?
Bính không đáp.
Nhã lại nói:
— Sợ thì hai thằng chúng mình cũng phải treo bằng được lá cờ. Cậu có nhìn mắt Tôn Chỉ không? Mình sợ cặp mắt ấy hơn sợ Tây đấy! —Anh cứ trỏ chỗ cho tôi! Tôi sẽ treo được cho mà coi. Cần góc gì đời! — Cần cóc gì đời! - Nhã nhắc lại.
Tôn Chỉ từ phía trên quay xuống:
— Gần đến rồi! chuyện lắm thế hả?
Cả hai vội vàng im bặt.
Đoàn người vẫn rậm rịch tiến lên. Đã gần đến bức tường, không ai bảo ai, mọi người đều rón rén như những con mèo.
Bỗng những tiếng chuông vang lên. Tiếng chuông như khuấy nát bầu thinh không yên tĩnh. Chuông Nhà Thờ lớn đang đổ hồi báo giờ Chúa ra chào đời. Một vài tiếng ho bị cầm giữ từ lâu trong cổ họng nhân dịp đó bật lên. Những người đi phía trên đãbắt đầu nằm xuống.
Họ bò nhích dần lên. Những ô cửa từ ngôi nhà Bưu điện sừng sững trên đầu họ như những cặp mắt mở to đang trừng trừng nhìn xuống. Trong nhà Bưu điện này không còn ai. Nhưng biết đâu bọn Pháp lại chẳng mới đưa ra đây một toán lính làm nhiệm vụ canh gác cho chúng trong đêm nay.
Cái lạnh lúc nửa đêm đến kinh người. Nhất là khi lại áp mình trên mặt đất. Đất như một khối băng phả hơi giá vào khắp người họ. Tiếng kèn hát từ đâu văng vẳng vọng lại. Nghe như có cả tiếng cười đùa. Những tiếng rày có thể từ nhà Moóc-li-e phát ra. Chúng nó đang vui chơi đêm Thiên chúa giáng sinh chăng?
Chúng mày cứ thả sức nhảy nhót, cười đùa đi! có những người đang mang "quà Nôen) đến mừng chúng mày đây!...
Tổ của Nhã đã bò đến chân tường.
Bính quá thấp nên không làm sao bám được thành tường. Nhã và Phong mấy lần nhảy lên lại tụt xuống.
Nhã càu nhàu:
— Ban chiều tớ đã bảo là tường cao quá không thể trèo qua được! Nhã lại cố sức nhảy lên lần nữa. Anh bám được vào gờ tường. Anh cố đạp chân vào mặt tường để lấy thế leo lên. Nhưng lần này cả người anh rơi bịch xuống đất.
Gần đó, mấy người đi cùng Tôn Chỉ cũng đang loay hoay chưa biết làm cách nào vượt qua tường.
Nhã thì thầm với Phong:
— Tớ và cậu cao mà không qua được, thằng Bính xoay xở ra sao? Nó lại làm nhiệm vụ cắm cờ!
Ba người đang lo lắng không biết giải quyết cách nào thì nghe thấy bên kia tường có những tiếng rậm rịch. Địch hay ta? Chả lẽ đã có một số người qua được rồi? Họ qua bằng cách nào?
Phong bỗng nhìn thấy mấy bóng người đang bám vào cửa sổ nhà viên tổng giám đốc Bưu điện tìm cách leo lên tầng trên. Anh giựt áo Nhã, vừa trỏ vừa nói:
— Anh em mình vào kia rồi!
Nhã đứng bật dậy:
— Quay về đằng trước. Qua phía nhà mình mà đánh vào.
Nhã chạy dọc theo tường rồi rẽ sang phải. Phong và Bính chạy theo. Có tiếng một người con gái:
— Ơ...! Các đồng chí chạy à! Dừng lại!
Nhã gắt:
— Chạy cái con khỉ!... Tiểu đội theo tôi, nhanh lên!
Họ ra tới con đường phố ngắn từ Hàng Trống đổ về Bờ Hồ. Phía sau lưng, Hồ Gươm tối đen. Trước mặt họ là đền Hàng Trống.
Nhã lại cắm đầu chạy. Tới phố Hàng Trống anh quay đầu lại chỉ thấy có Phong và Bính:
— Tiểu đội đâu cả rồi?... Mặc! Ba thằng mình cứ từ đằng trước đánh vào! Trong khi Nhã chăm chú quan sát ngôi nhà của Moóc-li-e thì Phong đưa mắt nhìn về phố Nhà Thờ lớn. Lòng anh se lại khi nhìn thấy ngôi nhà của mình cửa vẫn đóng kín, mái ngói xiên xiên như một người khoanh tay cúi đầu trầm tư thế sự.
Nhã nói:
— Chúng nó không gác trước cửa!
Nhìn về phía nhà Moóc-li-e, Phong thấy cái chòi gác bằng gỗ không hiểu tại sao lại nằm kềnh trên vỉa hè.
Nhã bàn với họ bò dọc theo bờ tường đến nhà Moóc-li-e, diệt thằng gác, rồi bắn vào trong nhà, chờ một số người từ phía sau đã đột nhập được, họ sẽ trèo qua hàng rào nhảy vào.
Họ đang bờ thì nghe tiếng động cơ ô tô. Con đường Nhà Thờ lớn bỗng sáng rực ánh đèn pha. Một chiếc xe gíp lao ngang con đường Hàng Trống và dừng lại trước cổng nhà Moóc-li-e.
Có tiếng chân lạo xạo trên sỏi. Tiếng cửa sắt rít lên. Tên gác ra mở cửa. Nhã giương khẩu súng trường nhắm vào chiếc xe, bắn một phát. Liền đó, nổi lên một tiếng kêu ghê rợn. ít nhất một tên ở trên xe đã trúng đạn. Tiếng động cơ rồ lên. Chiếc xe gíp vọt về phía sau như một mũi tên. Chiếc xe cứ chạy lùi như vậy đến Nhà Thờ lớn và quay đầu chạy về phía Tràng Thi mang theo tên địch bị trúng đạn.
Phong lao vọt lên. Bính chạy theo anh. Họ tới tấp ném hai quả lựu đạn về chỗ trạm gác. Lại nghe một tiếng rú, rồi những bước chân rời rạc lạo xạo trên mặt sỏi. Tên ra mở cửa cũng đã bị thương.
Ba người tiếp tục chạy đến nhà Moóc-li-e, nép mình ở chân hàng rào sắt trước cửa.
Ánh đèn trên nhà Moóc-li-e phụt tắt.
Một tràng súng liên thanh từ phía trong bắn đổ đạn ra cửa trước. Những viên đạn lửa vun vút như sao bay ngay trước mặt họ.
Nhã kề súng lên tường hoa, nhắm hỏa điểm địch bắn một phát. Tiếng súng địch im bặt. Nhưng sau đó khẩu liên thanh lại nổ. Nhã bắn tiếp phát thứ hai. Đạn của địch cắm phầm phật vào chân tường hoa nơi họ đang nằm ẩn. Vôi vữa rơi rào rào xuống người. Phong cảm thấy thần chết đang đặt bàn tay lạnh buốt trên gáy mình:
— Bò lùi ại phía sau! - Nhã nói.
Ba người cùng bò thụt lùi.
Nhã lắp đạn rồi chuyển súng cho Phong.
— Cậu làm tiếp đi!
Lúc này, Phong thấy mình bình tĩnh. Nhìn những viên đạn lửa. Phong biết đường đạn rất gần nhưng không đi về phía mình. Mùi khói đạn làm cho người anh như say. Phong kề súng lên tường hoa, luồn đầu súng qua hàng rào sắt, nhắm vào hỏa điểm địch ở một ô cửa sổ, bóp cò. Anh bắn liền hai phát.
Khẩu liên thanh của địch chỉ ngừng giây lát rồi lại bắn xối xả. Họ phải thụt lùi một quãng nữa vì biết cứ nằm tại chỗ sẽ rất nguy hiểm. Và họ nhận thấy cuộc đấu súng này về mọi mặt đều bất lợi cho họ. Họ không thể nào bắn trúng thằng địch nấp sau vị trí bắn chắc là được bố trí khá cẩn thận trên căn nhà gác cách họ vài chục mét. Nhưng họ rất dễ bị địch bắn trúng nếu cứ nằm mãi ở dãy tường hoa này.Chỉ cần lùi thêm về phía sau mấy bước, nép vào ngôi nhà ở dọc phố, họ sẽ được an toàn. Nhưng như vậy là kết thúc cuộc chiến đấu khi nó chỉ mới mang lại cho họ một kết quả nhỏ bé. Chợt họ nghe trong nhà Moóc-li-e có nhiều tiếng nổ. Tiếng nổ của lựu đạn và súng trường. Những tiếng nổ kéo dài một lúc. Khẩu liên thanh của địch đã im bặt. Có nhiều tiếng hô "xung phong" vang dậy.
Một ánh lửa lóe lên phía sau nhà Moóc-li-e. R$ồi một cột lửa đỏ khé bùng bùng bốc lên cao. Anh em ta đã đốt nhà Bưu điện. Có những tiếng chân chạy rầm rầm trên mái tôn. Rồi tiếng người gọi nhaúi ới trong nhà Moóc-li-e. ánh
lửa soi rõ những anh tự vệ chạy đi chạy lại trong sân. Có cậu chỉ mặc quần soóc.
Nhã nhảy lên:
— Vào cả rồi!
Ba người cùng chạy về phía nhà Moóc-li-e. Cánh cửa sắt vẫn để ngỏ một nửa. Phong nhìn thấy những vệt máu tím bầm đổ dài trên sỏi. Anh đoán đây là máu của tên lính gác ra mở cửa.
Người rất đông. Trên sân, trên gác, trên những mái nhà ngang, đâu đâu cũng có tự vệ. Họ đốt đuốc gọi nhau í ới đi tìm địch. Hai anh tự vệ đang dùng xà beng phá cửa giữa. Một anh quàng khăn đỏ quyết tử, môi ngậm thuốc lá, chõ súng lên giời bắn một phát để thị oai.
Thấy ba người từ phía cửa đi vào, đại đội trưởng Chương hỏi: — Lúc nãy các cậu bắn xe gíp phải không?
— Vâng. - Nhã đáp - Buồn cười quá, nó chạy thụt lùi như chiếc pháo chuột.
— Các cậu bắn nhau với nó ở cửa trước à?
— Nó bắn là chính, chúng tôi chỉ bắn được mấy phát.
— Rất hay, có các cậu đánh nó ở phía này, bọn mình mới ập vào phía sau dễ dàng. Địch hoàn toàn bất ngờ. Tại sao các cậu nghĩ ra cách vòng ra phía trước nghi binh?
— Vì chúng tôi không trèo được qua tường phía sau nên phải vòng ra phía trước. Các anh làm cách nào mà trèo qua tường?
— Mình đã nói với các cậu lúc chiều, công kênh nhau., trèo lên vai nhau mà vào.
Ba thằng chúng tôi quên lú đi mất.
— Nhưng các cậu vòng ra đằng trước lại hay hơn...
Giữa lúc ấy, Tôn Chỉ quát to:
— Đồng chí nào giữ cờ của tiểu đội 2, treo lên ngay!
— Em đây! - Bính đáp - Treo ở chỗ nào?
Tôn Chỉ nhìn quanh rồi trỏ lên nóc nhà.
Chương quay sang nói với Nhã:
— Lần sau mình phải nghiên cứu cách cài vào lá cờ một quả lựu đạn. Thằng nào trèo lên hạ cờ xuống thì sẽ mất mạng.
Bính đi vòng quanh ngôi nhà một lát. Anh dừng lại bên đường ống máng, buộc lá cờ vào cổ, rồi bắt đầu leo lên thoăn thoắt.
Bính đã ở sát mái nhà. Anh tháo lá cờ quấn quanh cổ. Lá cờ tung bay phần phật trong tay anh. Bỗng một phát súng nổ. Bính rời tay khỏi ống máng rơi thẳng xuống đất như một con chim lửa. Nhiều người kêu thét lên.
Phong lao lại ôm lấy Bính. Thân hình Bính mềm nhũn. Anh đã hy sinh! Chương quát to:
— Lùng nhanh xem thằng nào bắn!
Những toán người hò hét, chạy xô ra khắp nơi. Một số người chạy ra cổng, sang hẳn bê kia đường tìm kiếm. Họ không tìm thấy bóng thủ phạm. Có thể là một tên Pháp nào nấp ở "Hôtel des cdonies" hoặc ở Nhà Thờ bắn sang. Không có cách nào để tìm ra nó ngay lúc này.
Tôn Chỉ lầm lì đến nhặt lá cờ lên. Anh nhìn con đường ống máng. Anh rũ sạch bụi đất dính vào lá cờ, quàng vào cổ. Anh nói:
— Tôi mà ngã thì các đồng chí tiếp tục.
Anh chậm chạp leo lên ống máng. Đôi giày đinh làm cho chân anh bám khôn chắc những gờ ống. Anh phải dùng chủ yếu đôi tay để bám chặt lấy ống máng. Mọi cặp mắt không còn tập trung theo dõi người treo cờ như ban nãy. Nhiều người chĩa sẵn nòng súng về những ngôi nhà ở phía trước, sẵn sàng nhả đạn khi thấy xuất hiện một tia lửa.
Tôn Chỉ buộc xong lá cờ trên mái nhà. Lá cờ nhuốn ánh lửa hồng, đỏ tươi như máu. Động tác của anh rất chậm chạp. Anh từ từ tụt xuống cũng như khi leo lên. Khi anh xuống tới mặt đất, mọi người mới thở phào nhẹ nhõm. Mấy người cùng chạy ra ôm lấy anh.
Để trả thù cho Bính, họ ném lựu đạn vào mấy căn buồng tối om, nơi họ nghi có những tên địch ẩn nấp và đập một chai cháy đốt chiếc xe gíp nằm ở góc sân.
Phong và Nhã thay nhau cõng Bính về.
Không ai biết gia đình Bính. Bính cũng như nhiều thanh niên niên khác ở những khu phố chung quanh sau khi nổ súng đã kéo nhau vào bên trong chiến lũy và tự động đứng vào hàng ngũ tự vệ.
Về tới vườn chuối, một chiến sĩ quyết tử cởi lá cờ đỏ quàng trên cổ, khâm liệm cho Bính. Tuyết Mai vuốt mắt, vuốt tóc cho anh, rồi bỗng ôm chầm lấy thi hài anh khóc nức nở.
Nước mắt Phong ứa ra. Thế là anh đã mất đi một người bạn đồng đội. Bính chắc cũng có một người mẹ và những người em như anh đang mỏi mắt trông chờ. Anh đến tiểu đội và ra đi không để lại một dấu vết. Các anh đã có thêm một mối thù phải thanh toán với quân cướp nước.
Gió mùa đông lạnh lẽo ù ù như một bản nhạc Chiêu hồn tử sĩ. Tiểu đội bắn ba phát súng để vĩnh biệt người đồng đội.
Vừa chôn cất Bính xong thì nghe tiếng xe tăng địch ầm ầm. Rồi tiếng súng lớn, súng nhỏ của địch bắn như mưa như gió. Những luồng đạn như những sợi dây lửa đan nhau trên đầu họ. Mảnh đạn rơi lộp bộp trên những tàu lá chuối.
Họ rút nhanh theo con đường chạy luồn trong những ngôi nhà. Trận đánh thắng to. Ta diệt được một số địch, thu được một khẩu trung liên, hai khẩu tiểu liên và một số đạn, nhưng Phong cảm thấy lòng nặng trĩu.
Chiếc áo bảo vệ chống sức ép đạn moóc-chi-ê của Tuyết Mai bắt đầu gây phiền toái. Trời tuy đang mùa đông như các chiến sĩ luôn luôn phải vận động, nhiều úc ra mồ hôi. Nước đã mất cùng một lúc với điện thành phố. Nguồn nước chỉ còn trông vào một số bể chứa ở các gia đình và một số giếng nước rất hiếm hoi. Nước được dành ưu tiên để uống và nấu ăn, không phải cho tắm giặt. Mồ hôi thấm dần vào mền bông khiến nó trở nên chua lòm và làm cho họ ngứa ngáy. Một hôm, Phong tháo cái mền bông lót ngực ra xem. Anh giật mình nhận thấy những chú rận trắng to kềnh. Trứng rận lấm tấm đầy miếng vải màn. Chắc chắn là còn những con rận khác lẩn sau lớp bông dày. Tuyết Mai bàn ngâm vào nước sôi. Phong thấy tốt nhất là nên vứt nó đi. Vì trong hoàn cảnh
hiện nay, họ không có cách nào giữ vệ sinh tốt. Nếu cứ áp tấm mền bông ở ngực thì tiêu diệt hết lớp rận này sẽ có tiếp lớp rận khác.
Cô y tá dịu dàng, chăm chỉ và ngây thơ đã gây cho Phong nhiều cảm tình. Trước kia ở cùng nhà, Phong ít khi chú ý đến cô gái. Cô âm thầm, mờ nhạt như một cái bóng, lặng lẽ bên cạnh người chị lúc nào cũng hoạt bát, sôi nổi. Không biết vì sao cô đã đi theo họ? Hành động này ở cô gái là một sự vùng dậy, một sự phản kháng. Lúc đầu, Phong ngờ cô có cảm tình với Nhã. Nhưng rồi saúit ngày cùng sống trong tiểu đội, nhất là từ lúc nhìn thấy cô vuốt mắt, vuốt tóc Bính và ôm chầm lấy xác Bính khóc nức nở, Phong không nghĩ như vậy nữa. Cô gái yêu thương tất cả mọi người. Ở trong tiểu đội, Tuyết Mai giống như một cô em gái ngoan, một người chị hiền. Mai sẵn sàng nhường phần cơm mình cho người khác khi cơm lĩnh về thiếu một suất. Mai ôm từng đống quần áo không biết của những ai thay ra, còn bỏ đó, đem đi giặt. Những bộ quần áo chẳng sạch sẽ gì. Mai biết tính nết của từng người, biết cả những thứ đồ dùng của những anh chàng hay lơ đãng và nhắc cho họ nó đang nằm ở xó xỉnh nào mỗi khi họ cuống quýt đi tìm. Mai không dám mạnh tay vì sợ làm cho họ đau khi chăm sóc vết thương. Mai không nề hà sự bẩn thỉu, hôi hám. Mỗi buổi họ đi chiến đấu về, Mai lo lắng trông chờ cho đến khi người cuối cùng trong tiểu đội đã có mặt. Căn phòng xa lạ ở trường học, có Mai, đã trở thành một nơi ấm cúng. Đi chiến đấu về gặp Mai, họ có cảm giác như gặp lại người trong gia đình.
Một buổi, Phong nói với Mai:
— Đi đâu tôi cũng để mắt tìm chị Lan và anh Năm cho cô, nhưng tìm mãi chẳng thấy đâu!
Mai ngước lên nhìn Phong, rồi chớp mắt cúi xuống và nói:
— Anh đừng tìm nữa!
— Tại sao vậy?
— Chị Lan và các anh ấy đã ra ngoài.
— Vì sao cô biết?
— Em biết...
Mai chỉ nói thế rồi im lặng.
Biết Mai không muốn nói thêm, Phong hỏi:
— Vì sao cô ở lại đây một mình?
— Gia đình em ở Sài Gòn tan nát cả rồi, tan nát vì giặc Pháp. Em không muốn đi theo anh Năm. Anh Năm đã có gia đình ở Hải Phòng. Em muốn sống một cuộc đời tự lập. Chị Lan ngăn không cho em tham gia công tác. Kháng chiến là một dịp để em sống theo ý muốn của mình.
Phong lại tò mò hỏi:
— Cô không sợ bom đạn à?
— Sợ... Sợ hay không sợ cũng chẳng được. Khắp Nam Bộ đâu đâu cũng là bom đạn. Khắp Bắc Bộ bây giờ cũng vậy. Trốn vào đâu? Cuối cùng, ai cũng phải chọn một chỗ. Em chọn chỗ... Ở với cácanh.
Sau trận đánh nhà Moóc-li-e, Chương được điều về tiểu đoàn. Trong những cuộc săn Tây hàng ngày, họ không đi cả tiểu đội nữa, mà đi từng tổ nhỏ. Nhã vẫn đi với Phong. Những lúc Nhã bận, trên thường giao cho Phong dẫn tổ đi.
Ngày hôm trước, Phong vừa lập được một chiến công mới. Tự vệ đã rút khỏi phố Nhà Thờ lớn nhưng địch không đóng quân ở đây. Đường phố này chiều dài không quá trăm mét. Hai vọng gác ở nhà Moóc-li-e và Nhà Thờ lớn đủ để kiểm soát chặt chẽ cả con đường. Biết tình hình như vậy, Phong và một người bạn đã đục tường mò ra ngôi nhà đầu phố, nằm bên ngoài chiến lũy. Anh leo lên gác, chõ nòng súng trường qua một khe cửa, ngồi chờ. Một chiếc xe gíp từ nhà Moóc-li-e chạy ra, trên chở hai viên sĩ quan. Tên lính Pháp đứng gác ở Nhà Thờ cẩn thận bắn một loạt tiểu liên lên những chỗ hàng ngày hắn vẫn thấy hỏa điểm của ta xuất hiện.Chờ chiếc xe rẽ ngoặt về phía phố Nhà Chung, Phong nổ súng liền hai phát. Mục tiêu của anh lần này rút ngắn được gần một nửa. Anh giương to mắt chờ kết quả. Chiếc xe đang chạy thẳng bắt đầu chạy ngoằn ngoèo rồi đâm lên hè và dừng lại. Một thằng Tây, chỉ còn một thằng nhảy vội từ xe xuống, lao đầu vào trong một căn nhà để tránh đạn của ta
bắn tiếp theo. Địch nã súng sang như mưa. Nhưng chúng không hề bắn vào ngôi nhà mà Phong đang ẩn nấp.
Sáng nay, Phong và Nhã lại kéo nhau ra ngôi nhà này. Họ chờ mỏi mắt vẫn không có chiếc xe nào chạy qua.
Buổi trưa, họ nghe tiếng súng lớn, nhỏ nổ dữ dội phía cuối Hàng Bông. Súng nổ kéo dài đến qua hai giờ chiều. Những triệu chứng khác thường làm cho họ sốt ruột. Trường Gia Long, nơi họ ở, cũng nằm kề Hàng Bông. Họ định chờ thêm lát nữa, nếu không có địch, sẽ quay về nhà. Phong cảm thấy bồn chồn, bảo Nhã:
— Cậu nằm đây, mình quay vào hỏi thăm xem tình hình ra sao. Vừa tới đầu Ngõ Huyện, Phong gặp một anh mặc quần áo công an, nét mặt nhớn nhác:
— Đồng chí có đóng ở trường Gia Long không?
— Có.
— ở đây còn ai nữa không?
— Còn.
— Gọi tất cả anh em về ngay. Tây đang đánh vào trường.
Phong hớt hải quay ra gọi Nhã. Hai người cùng lật đật quay về. Phong nghĩ đến Mai. Thường thường những buổi trưa, trung đội chỉ còn mấy cô cứu thương ở lại nhà trường.
Tới đầu Ngõ Huyện, họ gặp một đám người, tự vệ, công an, bộ đội từ phía phố Hàng Bông ùn ùn kéo về.
Nhã hỏi một anh bộ đội đeo phù hiệu sao vàng vành trắng:
— Đánh nhau ở trường phải không đồng chí?
— Địch chiếm trường Gia Long rồi. Đồng chí ở đơn vị nào? — Trung đội chúng tôi đóng ở trường Gia Long.
— Không đến đó được nữa! Bố trí giữ lấy Ngõ Huyện. Mẹ cha mấy thằng ở phố Hàng Bông, đánh đấm thế nào để vỡ mặt trận! Xe tăng của nó thọc ngay vào nách mình.
Đám người lũ lượt kéo qua. Còn lại hai người đứng nhìn đường phố Phủ Doãn vắng tanh.
Một anh tự vệ đầu không mũ, chân đi đất, ống quần rách bươm, cầm trong tay một quả lựu đạn, lần theo mép đường, tập tễnh đi lại.
Phong chạy đến hỏi:
— Đồng chí làm sao thế?
— Mình nhảy từ ban công xuống, bị trẹo chân. Việt gian đưa Tây mũ đỏ thọc vào sân sau, chẳng còn cách nào.
— Trường Gia Long còn không?
— Tây mũ đỏ đóng đầy rồi. Xe tăng nó đang kéo đến ùn ùn. Vào Ngõ Huyện đi thôi. Nó ập đến bây giờ!
Họ chỉ có hai người với hai khẩu súng trường làm sao đối chọi được với xe tăng và rất đông Tây mũ đỏ? Nhã và Phong cùng với anh tự vệ đi vào Ngõ Huyện.
Bộ đội, tự vệ đang chiếm lĩnh những vị trí bắn trên những ngôi nhà ở đầu ngõ. Lực lượng của ta dồn lại khu vực này khá đông. Nhã và Phong đi quanh quẩn trên những con đường ngang, dọc trong ngõ, xem có gặp người nào trong tiểu đội. Họ mong nhất là gặp lại Mai. Họ đi mãi vẫn không thấy bóng dáng một ai. Cả tiểu đội, trung đội của họ đã biến đi không còn dấu vết. Phong nghĩ đến cặp mắt Đức Bà dịu hiền của cô gái. Nếu bây giờ nhìn thấy cô, Phong sẽ ôm chầm lấy cô mà hôn lên vầng trán.
Anh bàn với Nhã:
— Tìm nhà nào cao, leo lên quan sát xem sao!
— Sáng kiến hay.
Họ nhìn quanh quẩn thấy gần đó một ngôi nhà hai tầng, có sân thượng. Cánh cửa sát vẫn để ngỏ. Nhà không có người. Mọi căn buồng đều khóa ngoài. Chủ nhà chắc đã tản cư từ lâu. Đường cầu thang từ nhà dưới lên gác thượng vẫn thông. Chắc đây cũng là một đài quan sát của tự vệ phố. Hai người trèo lên sân thượng. Nhã bật tiếng kêu:
— Trời ơi!
Trước mặt họ là phố Chân Cầm, một phố ngắn ở giáp Ngõ Huyện. Xe bọc thép, xe tăng và binh lính địch rải đầy suốt dọc phố. Một chiếc xe bọc thép của địch không hiểu vì sao đã đâm đầu xuống hố. Cái làm cho họ kinh ngạc và lo lắng không phải là quân địch mà là đám người đông như kiến đang tụ đầy trong sân sau của một ngôi nhà nằm giữa phố này. Chắc là dân từ phố Hàng Bông dồn về. Phần lớn là những người đứng tuổi, cả đàn ông, đàn bà. Nhiều em nhỏ. Có cả những anh tự vệ, những chiến sĩ Vệ quốc quân. Dân ngồi ken nhau trên sân. Bộ đội và tự vệ cầm súng đi chung quanh.
Số người này chỉ cách quân địch một gian nhà, có thể chỉ là sau một cánh cửa. Nếu bây giờ một tên địch nào đứng trên đường kia tò mò nhìn qua khe cửa...? Bộ đội và tự vệ sẽ chiến đấu để bảo vệ dân. Nhưng chắc chắn sau đó là một cuộc thảm sát. Họ không có hầm hố hoặc công sự che chở. Một số Vệ quốc quân và tự vệ thành không thể nào đương đầu với xe bọc thép, xe tăng! Một viên đạn có thể xuyên táo qua mấy người.
Từ đây, với hai khẩu súng trường và vài chục viên đạn, họ có thể làm gì, nếu chuyện đó xảy ra? Và chuyện đó dường như chắc chắn sắp xảy ra. Địch không thể không nghe thấy những tiếng động của gần một ngàn con gnười chỉ ở cách chúng không quá chục mét. Có thể báo tin cho bộ đội và tự vệ trong Ngõ Huyện biết tình hình này để giải cứu cho họ không? Các anh đã biết rõ khả năng của những đơn vị ở đây. Các đơn vị đó cũng giống như trung đội anh, hầu hết là những người dân vừa tập hợp lại, người có súng, người không có súng. Không thể tổ chức dàn trận đánh với một đoàn quân địch đông đảo như thế kia, lại có cả xe tăng, xe bọc thép, ban ngày trên đường phố. Một vài phát súng nổ lẻ tẻ lúc này chỉ làm kích động bọn lính Pháp. Chúng sẽ chú ý và phát hiện ra đám người nằm lọt trong vòng vây của chúng... Họ sẽ phải khoanh tay chứng kiến cảnh thảm sát. Họ sẽ phải nhìn một biển máu, máu đồng bào, đồng chí của mình.
Bây giờ chỉ còn cách nín thở chờ cho những giờ phút nguy hiểm nay qua đi.
Trên đường phố Chân Cầm, một chiếc xe bọc thép của địch đang tìm cách kéo chiếc xe bọc thép bị sa hố lên. Một chiếc xe tăng trấn giữ đầu phố, vươn nòng pháo kiểm soát dọc con đường Phủ Doãn. Bọn lính địch dàn ra canh gác hai bên đường. Những tốp lính địch không biết làm gì, chạy ngược chạy xuôi.
Khu phố Ngõ Huyện nhỏ bé đã bị cắt khỏi Liên khu I.
Chỉ có bóng đêm sẽ cứu thoát những người ngồi kia. Kinh nghiệm cho biết là quân địch thường không dám ở lại ban đêm tại những phố chúng vừa chiếm được.
Nắng chiều vẫn điểm vàng pho tượng Đức Mẹ bồng Chúa Hài đồng đứng trước Nhà Thờ lớn. Phong hết nhìn đám người ngồi ở phố Chân Cầm lại nhìn pho tượng Đức Mẹ. Anh chỉ còn có một mong ước: ánh sáng vàng trên pho tượng chóng nhạt dần và tắt đi, màn đêm buông xuống.
Quân địch đã trục được chiếc xe bọc thép sa hố, kéo đi. Nhưng binh lính của chúng và xe tăng vẫn chưa rời phố Chân Cầm.
Trái đất như ngừng quay.
Cuối cùng, pho tượng Đức Mẹ đã trở thành một bóng đen đứng chơ vơ trên sân Nhà Thờ lớn màu chì.
Những tên địch rút đi vội vã như chạy trốn bóng đêm.
Nhã và Phong rời ngôi nhà gác.
Theo lệnh của khu, toàn bộ các đơn vị vũ trang và nhân dân ở Ngõ Huyện phải chuyển về bên kia phố Hàng Bông, tiếp tục chiến đấu bên trong những chiến lũy còn chưa bị địch phá vỡ.
Phong lầm lũi đi giữa đoàn người dài dằng dặc, số đông và dân chúng. Phía trước anh, một cặp vợ chồng lớn tuổi cùng khiêng một chiếc va li khá nặng. Người chồng đội mũ phớt, đeo kính trắng, lộp cộp đôi giày da, ăn mặc rất sạch sẽ. Người vợ đầu trùm khăn nhung đen có tua, áo len dài tay mặc ngoài áo dài, vừa đi vừa luôn mồm than vãn: "Người ăn người làm, toàn những quân phản chủ!... Đối xử với chúng nó như thế mà đến lúc này chúng nó bỏ mình...", "Không biết còn kéo đến bao giờ!... Hôm nay bảo sắp xong, ngày mai lại bảo sắp xong...", "Con giai đi! Con gái đi!... Bỏ mặc cha, mặc
mẹ như thế này đây!...". Ông chồng im lặng, hình như đang nghiến chặt răng để dồn sức khiêng một đầu va li. Hai vợ chồngnày cũng giống như khá đông dân phố, tin rằng cuộc xung đột quá lắm chỉ kéo dài vài ngày, Cụ Hồ sẽ điều đình, thành phố sẽ yên hàn hoặc nhì nhằng như trước kia. Họ không tin hoặc không muốn tin vào lời kêu gọi cả nước kháng chiến của Cụ Hồ mà các đội tuyên truyền đã đọc ra rả nhiều lần trong khu phố. Họ cho rằng đây là ta làm găng với quân địch, cho nó sợ, nó phải điều đình với ta. Những anh tự vệ như Phong cũng góp phần củng cố sự lạc quan của họ. Hàng ngày, các anh nói với họ toàn tin chiến thắng: Xanh-tơ-ny suýt bị bắt, Moóc-li-e suýt chết, hàng trăm Tây mũ đỏ bị tiêu diệt trong một chiếc hầm ngầm, diệt năm xe tăng, ba xe tăng ở chỗ này, chỗ nọ và rất đong bộ đội ở các tỉnh đang lũ lượt kéo về Hà Nội, v.v Ngay bản thân Phong cũng tin là cuộc chiến đấu này sẽ chấm dứt nay mai, ta đánh địch chỉ để bày tỏ quyết tâm kháng chiến, địch đánhta không lấy gì làm quyết liệt lắm, hơn mười ngày rồi chúng vẫn chưa đụng đến cái chiến lũy không lấy gì làm vững chắc của các anh ở phố Lý Quốc Sư...
Phong thấy thương cặp vợ chồng già đi phía trước. Đây là hình ảnh của mẹ anh, cha anh, nếu cha anh còn sống. Cả gia tài của gia đình này còn dồn lại trong một chiếc va li. Nhà Phong cũng nuôi một người ở gái. Khi gia đình Phong tản cư thì người ở bỏ đi. Anh cũng giống như con cái ông bà đứng tuổi này, đã để mẹ, cha ở lại, đi theo kháng chiến. Nếu gia đình anh còn ở Hà Nội thì đêm nay, cái cảnh này cũng diễn ra với mẹ và các em anh. Khi phải chui qua những lỗ đục tường, Phong và Nhã giúp cặp vợ chồng già chuyển chiếc va li qua. Mỗi lần như vậy, ông chồng lại cười như mếu, lắp bắp: "Méc-xi... Méc-xi biêng" .
Lần thứ hai, Phong tham dự một cuộc rút lui. Từ ngày nổ súng, Phong đã nghe nói tới nhiều cuộc rút lui. Bộ đội, tự vệ những khu phố khác đã rút ra các cửa ô. Bộ đội, công an, tự vệ ở Bắc Bộ Phủ, Tòa Thị chính, Nhà đèn, Nhà Bưu điện Bờ Hồ rút cả về Liên khu I. Rồi chính các anh ở Liên khu I cũng đang rút sâu vào bên trong. Cuộc rút lui này còn kéo dài đến bao giờ? Họ còn bao nhiêu đường đất để rút lui?...
Một đường phố nằm ngang trước mặt. Phong tưởng đã tới phố Hàng bông nhưng nhận ra đó mới là phố Chân Cầm, nơi đã diễn ra cái quang cảnh làm cho tim anh thắt lại suốt buổi chiều. Đường phố ngắn, hiền lành, hai dãy nhà cửa đóng kín, chẳng ghi lại chút gì của cơn biến cố chiều nay. Thực ra, ngoài
chiếc xe bọc thép địch bị sa hố, chẳng có chuyện gì ghê gớm đã diễn ra ở đây! Chắc anh sẽ còn gặp lại những cảnh này, những cảnh bình thường trong một cuộc chiến không được sử sách nào ghi lại. Những cảnh có thể làm người đứng tuổi bạc đầu. Hình ảnh ghê gớm chiều nay tan đi như một cơn ác mộng.
Một bóng người nhỏ bé đứng bên hè, lao tới bíu lấy hai vai Phong. Người bé nhỏ đó gục đầu vào gnực anh. Một tiếng reo nghẹn ngào đầy nước mắt: — Anh Phong!
Phong đã nhận ra tiếng nói của Tuyết Mai. Phong buông rơi cây súng trường, ôm lấy cô. Hai bàn tay anh đặt lên một chiếc ba lô căng phồng trên vai Mai. Phong áp môi trên mái tóc ướt nước mưa của cô gái, và thấy những hạt nước mắt ấm nóng của cô đang nhỏ xuống cổ mình.
Nhã từ trong nhà bước ra sau Phong, kêu lên:
— Cô Mai!
Tuyết Mai rời Phong, rồi lại lao đến ôm lấy Nhã.
Phong hỏi:
— Sao Mai lại đứng một mình ở đây?
— Em đứng chờ các anh.
— Từ bao giờ?
— Từ lúc những người trong Ngõ Huyện rút ra.
— Sao cô lại ở đây?
— Tây đánh vào trường. Chỉ còn ba đứa con gái chúng em ở nhà, mỗi đứa chạy mỗi nơi. Em ra đường gặp những người ở Hàng Bông đổ về. Em theo họ chạy về đây.
Như vậy là Mai cũng ở trong đám người Phong nhìn thấy tập trung trong sân sau ngôi nhà ở phố này chiều nay.
— Em có biết Tây qua lại phía ngoài không?
— Biết...
Phong hiểu là cô gái đã trải qua những giờ phút khủng khiếp như thế nào. Nhã nhìn Mai đeo các thứ đầy người như một con ngựa thồ: ba lô, túi du lịch, xắc cứu thương, nói:
— Cô đưa cái ba lô cho tôi và cái túi du lịch cho anh Phong... Từ đây đi là phải chui suốt.
Tuyết Mai chần chừ rồi tháo chiếc ba lô đưa Nhã, Nhã đón chiếc ba lô kêu lên:
— Trời! Những gì mà nặng thế này?
— Quần áo các anh để lại. Có cả quần áo của anh và anh Phong. Em vơ nhét vội cả vào chiếc ba lô này... Các anh kia đâu?
Những người dân đang tiếp tục kéo qua, vượt sang bên kia đường. Đến lượt họ ngạc nhiên. Phong hỏi:
— Cô chưa gặp ai à?
— Chưa thấy một ai trong tiểu đội mình.
Sau cuộc rút lui lần trước, tiểu đội của họ vắng gần một nửa. Chả lẽ đến cuộc rút lui lần này, tiểu đội lại chỉ còn có ba người?
Nhã nói:
— Đi thôi! Sang bên kia rồi lại gặp nhau tất cả.
Phong nhặt khẩu súng rơi trên vỉa hè. Một lần nữa anh muốn ôm hôn cô gái.
Bên kia đường phố, có tiếng nói của một người phụ nữ:
— Mấy đồng chí bộ đội mau chân lên! Đến Hàng Bông phải vượt nhanh qua đường. Giữ bí mật! Không ai ở lại lâu trên đường phố.
Giọng nói nhẹ nhàng nhưng vẫn ra giọng nói của một người chỉ huy. Giọng nói này quen quen. Phong có nhớ xem người vừa nói đó là ai. Nhã giục:
— Đi!... Bà "déc xê" đến kia rồi!
Phong đã nhớ ra, đó là chị khu phó của khu này mà anh đã gặp tối hôm trước.
Một câu hỏi từ chiều đến giờ thỉnh thoảng lại vấn vương trong đầu anh: Có phải là do việc làm của anh ngày hôm qua, bắn trúng chiếc xe gíp chở mấy tên sĩ quan từ Nhà Moóc-li-e chạy ra, mà bọn địch đã tổ chức một cuộc đánh lớn vào khu vực này?... Anh không dám trao đổi với Nhã điều băn khoăn đó. Nếu đúng như vậy, anh sẽ chịu trách nhiệm về chuyện ta phải rời bỏ khu Ngõ Huyện tối nay. Và nêu lên câu hỏi đó có khác nào đề cao việc làm của mình, một việc đã gây kinh động cho quân địch đến nỗi chúng phải tổ chức cả một cuộc hành binh lớn để đối phó. Vả lại, anh cũng chỉ mới biết có hành động của riêng mình. Trong một ngày, có biết bao nhiêu cây súng ở khu vực này đã nhắm vào những chiếc xe, những tên địch! Biết đâu họ đã chẳng làm nên những việc to tát hơn anh rất nhiều...
4
So với Ngõ Huyện thì cuộc chiến đấu ở các đường phố bên này Hàng Bông tổ chức chu đáo hơn. Những chiến lũy chặn các con đường vào khu vực được xây dựng khá kiên cố. Phía ngoài là một hố rộng và sâu. Bên trong, những cây gỗ lớn đặt nằm ngang ken chặt hai bên một thành đất dày. Những cột đèn dọc đường và cây cối phần lớn đều bị đánh đổ, biến những con đường nhựa quang đãng thành những khu rừng rậm rạp với cây cối đăng mắc và những sợi dây điện cong queo cuốn lấy chân. Từng quãng người ta lại đào những đường hào chắn ngang. Những đường hào này vừa có tác dụng ngăn xe cơ giới của địch, vừa là đường di chuyển bí mật từ dãy nhà bên này qua dãy nhà bên kia, vừa là nơi trú ẩn khi địch bắn phá, ném bom. Từ phố này qua phố khác, người ta cũng đắp những ụ đất chắn ngang, gọi là những chiếc "then cài".
Tại đây không phải chỉ có những đường di chuyển qua những lỗ đục tường ở tầng dưới mà còn có những con đường xuyên qua những tầng gác, những con đường chạy trên những mái nhà.
Phong nghe nói ủy ban hành chính kháng chiến của Liên khu I vẫn ở lại. Ta có một cơ quan chính quyền nằm ngay giữa lòng Hà Nội, lãnh đạo và chỉ huy cuộc chiến đấu.
Tuy nhiên, cũng giống ở Ngõ Huyện, anh nhận thấy bộ đội tại đây không nhiều. Người chiến đấu phần lớn là tự vệ thành, có những người cũng mới gia nhập chiến đấu nh anh. Họ được tổ chức thành tiểu đội, trung đội, đại đội do những anh Vệ quốc quân chỉ huy. Phong, Nhã và Tuyết Mai được bổ sung vào một trung đội thuộc đại đội ông Vĩnh. Đó là một người trung liên, béo sớm, cắt tóc móng lừa, dáng đi nặng nề. Ngoài bộ ka ki Mỹ, Vĩnh luôn luôn khoác một chiếc áo dạ nhà binh màu cứt ngựa, với hàng khuy đồng vàng óng. Có người nói ông Vĩnh là bảo an binh thời Nhật chuyển sang hàng ngũ Vệ quốc đoàn. Chính trị viên đại đội là Linh, một thanh niên trẻ măng, ít nói, đối với Vĩnh có thái độ rất nể nả. Phong không có cảm tình với Vĩnh ngay từ đầu, khi họ tới gặp ban chỉ huy đại đội. Vĩnh nhìn Tuyết Mai bằng cặp mắt hau háu, vừa cười vừa hỏi hết chuyện này đến chuyện khác quên cả sự có mặt của anh và Nhã. Cũng may là chính trị viên đã đồng ý với nguyện vọng của họ, xếp cả ba người cùng về một trung đội.
Hàng ngày họ ra phục vụ ở đầu các chiến lũy, đề phòng Tây đánh vào, hoặc mò lên những ngôi nhà gác chung quanh những vị trí địch mới cắm dọc nửa bên kia đường phố Hàng Bông làm nhiệm vụ "săn Tây". Họ thích thú với loại công việc thứ hai này hơn là nằm phục suốt ngày nhiều khi chẳng có việc gì làm bên chiến lũy. Bắn trúng một tên địch là một chiến công. Bọn địch cũng rất quỷ quyệt. Rất ít khi chúng tụ tập đông người một chỗ. Khi đi lại, chúng tránh hoặc vượt qua rất nhanh những nơi chúng nghi ta có thể nấp để bắn lén. Những vị trí gác của chúng đều được bảo vệ bằng một bức tường kiên cố hoặc những bao cát đầy. Nếu không bắn trúng địch thì cũng chọc tức chúng, làm cho chúng đổ đạn đi vô ích. Những anh tự vệ trẻ cảm thấy thích thú khi ngồi hút thuốc lá phì phèo mặc cho những viên đạn địch gãi ghẻ bên kia tường hoặc bay réo qua đầu. ít nhất cũng làm cho chúng biết là ở khắp nơi, ngay giữa thành phố này, sát nách chúng, chúng ta vẫn có mặt.