🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đánh Thức Trí Thông Minh
Ebooks
Nhóm Zalo
Table of Contents
Đ\NH THỨC TRÍ THÔNG MINH
NỘI DUNG
MỸ I Hai cuộc Chuyện Trò: J. Krishnamurti và Giáo sư J. Needleman
1 VAI TRÒ CỦA VỊ THẦY Chuyện trò giữa J. Krishnamurti và Giáo sư Jacob Needleman
2 VỀ KHÔNG GIAN BÊN TRONG Chuyện trò giữa J. Krishnamurti và Giáo sư J. Needleman
MỸ II Ba Cuộc Nói Chuyện Ở Thành Phố New York
1 CUỘC CÁCH MẠNG BÊN TRONG
2 TƯƠNG QUAN
3 KINH NGHIỆM TÔN GIÁO. THIỀN ĐỊNH
MỸ III Hai Cuộc Trò Chuyện: J. Krishnamurti và Alain Naudé
1 RẠP XIẾC TRANH ĐẤU CỦA CON NGƯỜI Trò Chuyện giữa J. Krishnamurti và Alain Naudé
2 VỀ TỐT VÀ XẤU Trò Chuyện giữa J. Krishnamurti và Alain Naudé
ẤN ĐỘ IV Ba cuộc Nói Chuyện ở Madras
1 NGHỆ THUẬT THẤY
2 TỰ DO
3 CÁI THIÊNG LIÊNG
ẤN ĐỘ V Ba cuộc Đối Thoại ở Madras
1 XUNG ĐỘT
2 THỜI GIAN, KHÔNG GIAN VÀ CÁI TRUNG TÂM
3 MỘT CÂU HỎI NỀN TẢNG
CHÂU ÂU VI Bảy cuộc Nói Chuyện ở Saanen, Thụy Sĩ
1 CÁI GÌ LÀ SỰ QUAN T]M HƠN HẾT CỦA BẠN?
2 TRẬT TỰ
3 CHÚNG TA CÓ THỂ TỰ HIỂU MÌNH?
4 CÔ ĐỘC
5 TƯ TƯỞNG VÀ CÁI KHÔNG THỂ ĐO LƯỜNG
6 H[NH ĐỘNG CỦA Ý CHÍ V[ NĂNG LƯỢNG CẦN CHO MỘT THAY ĐỔI TẬN GỐC 7 TƯ TƯỞNG, TRÍ THÔNG MINH, V[ C\I VÔ LƯỢNG
ANH VII Hai buổi nói chuyện ở Brockwood
1 SỰ TƯƠNG QUAN VỚI TỈNH GIÁC VỀ TƯ TƯỞNG VÀ HÌNH ẢNH
2 TÂM THIỀN ĐỊNH VÀ CÂU HỎI KHÔNG THỂ Đ\P
ANH VIII Một thảo luận với một nhóm nhỏ ở Brockwood Bạo lực và cái “tôi” BẠO LỰC VÀ CÁI TÔI
ANH IX Nói chuyện giữa J. Krishnamurti và Giáo sư David Bohm VỀ TRÍ THÔNG MINH Nói chuyện giữa J. Krishnamurti và Giáo sư David Bohm NHỮNG S\CH Đ^ XUẤT BẢN CỦA NXB THIỆN TRI THỨC
Chia sẻ ebook : http://downloadsach.com/
Follow us on Facebook : https://www.facebook.com/caphebuoitoi
NỘI DUNG
MỸ
PHẦN I.
Hai cuộc Chuyện Trò:
J. Krishnamurti và Giáo sư J. Needleman
1 Vai trò của vị thầy
2 Về không gian bên trong
PHẦN II.
Ba Cuộc Nói Chuyện Ở Thành Phố New York
1 Cuộc cách mạng bên trong
Cần thiết phải thay đổi. Một tiến trình trong thời gian hay tức thời? Ý thức và vô thức; những giấc mộng. Tiến trình phân tích. Thấy nội dung của ý thức mà không có sự tách biệt giữa người quan sát và cái được quan sát. Ồn ào và kháng cự. “Khi có sự dừng dứt hoàn toàn sự phân chia giữa người quan sát và cái được quan sát, bấy giờ ‘cái đang là’ không còn là cái đang là nữa.“
2 Tương quan
Tương quan. “Bạn là thế giới.“ Cái ngã tách biệt; bại hoại. Thấy cái thực sự “đang là”. Cái không phải là tình thương. “Chúng ta không có đam mê; chúng ta có tham dục, chúng ta có lạc thú.“ Hiểu cái chết là gì. Tình thương là sự vĩnh cửu của chính nó.
3 Kinh nghiệm tôn giáo. Thiền định.
Có một kinh nghiệm tôn giáo không? Tìm cầu chân lý; ý nghĩa của sự tìm cầu. “Cái gì là một tâm tôn giáo?“ “Cái gì là tính chất của tâm không kinh nghiệm nữa?” Kỷ luật; đức hạnh; trật tự. Thiền định không phải là trốn thoát. Chức năng của kiến thức và tự do khỏi cái biết. “Thiền định là tìm ra liệu có một trường xứ đã không nhiễm ô bởi cái biết.” “Bước đầu tiên là bước cuối cùng.”
PHẦN III.
Hai Cuộc Trò Chuyện:
J. Krishnamurti và Alain Naudé
1 Rạp xiếc tranh đấu của con người
2 Về tốt và xấu
ẤN ĐỘ
PHẦN IV.
Ba cuộc Nói Chuyện ở Madras
1 Nghệ thuật thấy
Thấy, không phải từng phần mà toàn phần. “Hành động thấy là chân lý duy nhất. Chỉ một phần mảnh của tâm bao la được dùng. Ảnh hưởng phần mảnh của văn hóa, truyền thống.
“Sống trong một góc nhỏ của một trường méo mó.“ “Bạn không thể thấu hiểu qua một phần mảnh.“ Giải thoát khỏi “góc nhỏ”. Cái đẹp của thấy.
2 Tự do
Chia xẻ một tâm tự do. “Nếu chúng ta gặp gỡ cái này, đó thực sự là một đóa hoa huyền nhiệm.“ Tại sao con người không có cái này? Sợ hãi. “Sống” là không sống. Những lời chữ được cho là bản chất. Hao phí năng lượng. “Tâm trưởng thành thì không có so sánh… không có đo đạc.“ Hiệu lực của “đời sống bạn sống mỗi ngày… không hiểu nó bạn sẽ chẳng bao giờ hiểu thương yêu, cái đẹp hay cái chết.” Qua phủ định, cái độc nhất vốn là khẳng định hiện bày.
3 Cái thiêng liêng
Cày, không bao giờ gieo. Ý niệm hóa. Sự nhạy cảm không có trong đời sống. Chú ý và thông minh. Vô trật tự trong bản thân chúng ta và trong thế giới: trách nhiệm của chúng ta. Vấn đề thấy. Những hình ảnh và tiếp xúc trực tiếp. Cái thiêng liêng. “Khi bạn có yêu thương bạn có thể vất bỏ mọi cuốn sách thiêng của bạn.“
PHẦN V.
Ba cuộc Đối Thoại ở Madras
1 Xung đột
Những hình ảnh: chúng ta có biết chúng ta thấy qua những hình ảnh? Những quan niệm; lỗ trống giữa những quan niệm và cuộc sống hàng ngày; sanh ra xung đột. “Để sáng tỏ bạn phải có thể nhìn.“ “Sống không xung đột, nhưng không đi ngủ.“
2 Thời gian, không gian và cái trung tâm
Lý tưởng, quan niệm, và “cái đang là”. Cần hiểu khổ đau: đau đớn, cô đơn, sợ hãi, ghen tỵ. Trung tâm cái tôi. Không gian và thời gian của cái trung tâm. Có thể không có một trung tâm cái tôi nhưng vẫn sống trong thế giới này? “Chúng ta sống trong nhà tù của sự suy nghĩ của chính chúng ta.” Thấy cơ cấu của cái trung tâm. Nhìn không có trung tâm.
3 Một câu hỏi nền tảng
Cái gì là suy nghĩ sáng tỏ liên hệ đến cuộc sống hàng ngày? Gặp gỡ hiện tại với quá khứ. Làm sao để sống với trí nhớ và kiến thức kỹ thuật nhưng vẫn thoát khỏi quá khứ? Làm sao sống mà không có sự phân mảnh? Im lặng trước cái bao la của một câu hỏi nền tảng. “Bạn có thể sống trọn vẹn đến độ chỉ có cái hiện tại sống động bây giờ?“
CHÂU ÂU
PHẦN VI.
Bảy cuộc Nói Chuyện ở Saanen, Thụy Sĩ
1 Cái gì là sự quan tâm hơn hết của bạn?
Đam mê và mãnh liệt cần thiết. Cái bên trong và bên ngoài, chúng có thể bị phân chia? 2 Trật tự
Chỉ tâm thức biết sự vô trật tự. Trạng thái “không biết”. Tự ngã là phần của văn hóa, nó là vô trật tự.
3 Chúng ta có thể tự hiểu mình?
Vấn đề tự-hiểu biết là vấn đề nhìn. Nhìn không có phân mảnh, không có cái “tôi”. Phân tích, những giấc mộng và giấc ngủ. Vấn đề của “người quan sát” và của thời gian. “Khi bạn nhìn vào chính bạn mà không có đôi mắt của thời gian, ai ở đó để nhìn?“
4 Cô độc
Lo nghĩ về chính mình. Tương quan. Hành động trong tương quan và đời sống hàng ngày. Những hình ảnh làm cô lập: hiểu sự xây dựng hình ảnh. “Quan tâm đến chính mình là hình ảnh chính của tôi.“ Tương quan không có xung đột nghĩa là thương yêu.
5 Tư tưởng và cái không thể đo lường
Tư tưởng có thể giải quyết những vấn đề của chúng ta? Chức năng của tư tưởng. Trường của tư tưởng và những phóng chiếu của nó. Tâm thức có thể đi vào cái không thể đo lường? Cái gì là nhân tố của ảo tưởng? Sợ hãi thuộc thân thể và thuộc tâm trí và những trốn chạy. Tâm thức học hỏi thường trực.
6 Hành động của ý chí và năng lượng cần cho một thay đổi tận gốc
Năng lượng lớn lao cần có; sự hao phí của nó. Ý chí là đề kháng. Ý chí như sự khẳng định của cái “tôi”. Có chăng hành động không chọn lựa, nó không có động cơ? “Nhìn với đôi mắt không bị điều kiện hóa.” Tỉnh giác không chọn lựa về sự điều kiện hóa. Thấy và từ chối cái sai giả. Cái không phải là thương yêu. Đối mặt với vấn đề cái chết. “Sự chấm dứt của một năng lượng như là cái ‘tôi’ là khả năng nhìn vào cái chết.“ Năng lượng để nhìn vào cái không biết: năng lượng tối cao là trí thông minh.
7 Tư tưởng, trí thông minh và cái vô lượng
Những ý nghĩa khác nhau của không gian. Không gian mà từ đó chúng ta suy nghĩ và hành động; không gian do tư tưởng đã xây dựng. Thế nào người ta phải có không gian vô lượng? ”Mang gánh nặng của chúng ta nhưng tìm kiếm tự do.” Tư tưởng không tự phân chia thì chuyển động trong kinh nghiệm. Ý nghĩa của trí thông minh. Hòa điệu: tâm, lòng bi và cơ thể. “Tư tưởng thuộc thời gian, trí thông minh không thuộc thời gian.“ Trí thông minh và cái vô lượng.
ANH
PHẦN VII.
Hai buổi nói chuyện ở Brockwood
1 Sự tương quan với tỉnh giác về tư tưởng và hình ảnh
Những ích dụng và những giới hạn của tư tưởng. Những hình ảnh. Những hình ảnh: quyền lực của hình ảnh. “Người ta càng nhạy cảm, gánh nặng những hình ảnh càng lớn.“ Phân tích và những hình ảnh. Trật tự tâm lý; những nguyên nhân của vô trật tự: ý kiến, so sánh, những hình ảnh. Sự tan biến có thể được của những hình ảnh. Sự thành hình của những hình ảnh. Chú ý và không chú ý. “Chỉ khi tâm không chú ý hình ảnh mới được tạo thành.“ Chú ý và hài hòa: tâm, lòng, thân.
2 Tâm thiền định và câu hỏi không thể đáp
“Thiền định là sự giải phóng toàn bộ năng lượng.” Thế giới phương Tây xây dựng trên đo lường, nó là maya theo phương Đông. Sự vô ích của những phái thiền định. Năng lượng dựa vào tự tri. Vấn đề tự quan sát. Nhìn “không có đôi mắt của quá khứ”. Đặt tên. Cái che dấu trong chính mình. Những chất kích thích. Nội dung che dấu và câu hỏi không thể đáp. “Thiền định là một cách để qua một bên tất cả những gì con người đã hình dung về chính nó và thế giới.“ Một cuộc cách mạng tận gốc trong đó người ta ảnh hưởng toàn bộ thế giới. Cái gì xảy ra khi tâm bình lặng? “Thiền định là… thấy sự đo lường và vượt khỏi sự đo lường.” Hòa điệu và một “đời sống hoàn toàn khác”.
PHẦN VIII.
Một thảo luận với một nhóm nhỏ ở Brockwood
Bạo lực và cái “tôi”
PHẦN IX.
Nói chuyện giữa J. Krishnamurti và Giáo sư David Bohm
Về trí thông minh
Tư tưởng thuộc về cấp bậc của thời gian; trí thông minh là một cấp bậc khác, một tính chất khác. Trí thông minh có liên hệ đến tư tưởng không? Bộ óc là dụng cụ của trí thông minh; tư tưởng như là một gợi ý. Tư tưởng chứ không phải trí thông minh thống trị thế giới. Vấn nạn của tư tưởng và sự thức dậy của trí thông minh. Trí thông minh hoạt động trong một khuôn khổ giới hạn có thể giúp đỡ nhiều cho những mục tiêu không thông minh. Vật chất, tư tưởng, trí thông minh có một nguồn gốc chung là một năng lượng; tại sao nó phân chia? An toàn và sống còn: tư tưởng không thể xem xét cái chết một cách thích đáng. “Tâm có thể giữ sự thanh tịnh của nguồn gốc nguyên sơ không?“ Vấn đề làm bình lặng tư tưởng. Cái thấy thấu suốt, tri giác cái toàn thể, là cần thiết. Thông tin không có sự can thiệp của tâm ý thức.
MỸ
I
Hai cuộc Chuyện Trò:
J. Krishnamurti và Giáo sư J. Needleman
1
VAI TRÒ CỦA VỊ THẦY
Chuyện trò giữa J. Krishnamurti
và Giáo sư Jacob Needleman
Needleman: [01] Có nhiều thảo luận về một cuộc cách mạng tâm linh trong giới trẻ, đặc biệt ở California này. Ngài có thấy trong hiện tượng rất lộn xộn này hy vọng nào về một sự nở hoa mới cho văn minh hiện đại, một khả năng mới của phát triển?
KRISHNAMURTI: Đối với một khả năng mới của phát triển, thưa ông, ông không nghĩ rằng người ta phải khá nghiêm cẩn, và không chỉ nhảy từ một tiêu khiển ngoạn mục này qua một cái khác sao? Nếu người ta nhìn vào mọi tôn giáo của thế giới và thấy sự phù phiếm được tổ chức của chúng, và từ nhận thức ấy thấy ra cái gì chân thật và sáng tỏ, có lẽ bấy giờ có một cái gì mới ở California, hay trong thế giới. Nhưng trong mức độ tôi đã thấy, tôi e rằng không có một tính chất nghiêm cẩn trong mọi cái đó. Tôi có thể sai lầm, bởi vì tôi chỉ thấy những người được gọi là giới trẻ ấy từ khoảng cách xa, trong thính giả và đôi khi ở đây; và với những câu hỏi của họ, cách cười của họ, sự vỗ tay tán thưởng của họ, họ không gây cảm tưởng cho tôi là rất nghiêm cẩn, chín chắn, với sự chú ý quan tâm lớn lao. Dĩ nhiên, tôi có thể lầm.
Needleman: Tôi hiểu điều ngài đang nói. Câu hỏi của tôi chỉ là: có lẽ chúng ta không thể trông đợi những người trẻ nghiêm cẩn thật nhiều.
KRISHNAMURTI: Đó là tại sao tôi không nghĩ điều đó thích hợp với các người trẻ. Tôi không biết tại sao người ta đã chờ một điều phi thường như vậy nơi những người trẻ, tại sao nó đã trở thành một điều quan trọng như vậy. Trong một vài năm đến lượt họ, họ sẽ là người già.
Needleman: Như một hiện tượng, ngoài những cái đó ra, sự quan tâm này vào một kinh nghiệm siêu việt – hay bất cứ cái gì người ta muốn gọi điều đó – có vẻ là một loại mặt đất cho hạt giống, từ đó một số người khác thường nào đó ngoài tất cả những đồ dỏm và lừa bịp, chẳng hạn những Đạo sư, có thể phát sinh.
KRISHNAMURTI: Nhưng tôi không chắc, thưa ông, rằng mọi kẻ lừa bịp và lợi dụng không cố gắng khai thác điều đó. “Tâm thức Krishna“ và Thiền Định Siêu Việt và mọi thứ vô nghĩa như vậy vẫn đang tiếp tục – họ bị mắc vào mọi thứ đó. Đó là hình thức của chủ nghĩa trình diễn, một hình thức vui đùa và giải trí. Vì điều gì mới mẻ xảy ra phải có một hạt nhân là con người thực sự tận tụy, nghiêm chính, người đi vượt qua đến cái tận cùng. Sau khi vượt qua mọi thứ đó, họ nói, “Đây là cái tôi định theo đuổi đến tận cùng.”
Needleman: Một người nghiêm cẩn là người phải trở nên không mộng tưởng với mọi thứ khác.
KRISHNAMURTI: Tôi không gọi nó là không mộng tưởng mà là một hình thức nghiêm cẩn.
Needleman: Nhưng một điều kiện cho nó?
KRISHNAMURTI: Không, tôi không muốn gọi nó là không mộng tưởng chút nào, nó dẫn đến tuyệt vọng và yếm thế. Tôi muốn nói sự khảo sát mọi cái được gọi là tôn giáo, được gọi là tâm linh: khảo sát, tìm ra cái gì sự thật trong tất cả cái ấy, có chân lý nào trong đó hay không. Hay bỏ đi toàn bộ sự việc đó và bắt đầu mới lại, và không đi qua mọi cái bề ngoài huy hoàng đó, mọi cái lộn xộn đó.
Needleman: Tôi nghĩ đó là điều tôi cố gắng nói, nhưng nói như trên thì diễn tả tốt hơn. Người ta đã thử một cái gì và họ đã thất bại.
KRISHNAMURTI: Không phải là “người khác”. Tôi muốn nói người ta cần bỏ đi tất cả những lời hứa, tất cả những kinh nghiệm, tất cả những khẳng định thần bí. Tôi nghĩ người ta phải bắt đầu như thể người ta tuyệt đối không biết cái gì cả.
Needleman: Điều đó rất khó.
KRISHNAMURTI: Không thưa ông, tôi không nghĩ điều đó khó. Tôi nghĩ nó khó chỉ cho những người làm đầy ứ mình với những kiến thức của người khác.
Needleman: Không phải hầu hết chúng ta đều thế cả sao? Tôi đang nói về lớp học hôm qua của tôi ở San Francisco State, và tôi nói tôi sắp phỏng vấn Krishna-murti và câu hỏi nào các sinh viên muốn tôi hỏi ông. Họ có nhiều câu hỏi, nhưng câu gây ấn tượng nhất cho tôi là của một thanh niên: “Tôi đã đọc đi đọc lại những cuốn sách của ông và tôi không thể làm điều ông nói.” Có cái gì khá rõ ràng về điều đó, nó có vẻ quen quen. Có vẻ trong một cảm thức tinh tế nào đó bắt đầu là theo cách ấy. Là một người bắt đầu, tươi mới!
KRISHNAMURTI: Tôi không nghĩ chúng ta đã hỏi đủ. Ông có biết tôi muốn nói gì không? Needleman: Có.
KRISHNAMURTI: Chúng ta chấp nhận, chúng ta cả tin, chúng ta tham lam những kinh nghiệm mới. Người ta nuốt lấy điều người nào có một bộ râu, có những hứa hẹn, nói rằng anh sẽ có một kinh nghiệm lạ lùng nếu anh làm một vài điều gì đó! Tôi nghĩ người ta phải nói: “Tôi không biết gì cả.” Rõ ràng tôi không thể nương dựa vào những người khác. Nếu không có những cuốn sách, những guru, bạn sẽ làm gì?
Needleman: Nhưng người ta quá dễ bị đánh lừa.
KRISHNAMURTI: Bạn bị đánh lừa khi bạn muốn cái gì đó.
Needleman: Vâng, tôi hiểu điều đó.
KRISHNAMURTI: Thế nên bạn nói, “Tôi sắp tìm ra, tôi sắp tìm hỏi từng bước. Tôi không muốn tự đánh lừa mình.” Lừa bịp sanh ra khi tôi muốn, khi tôi tham lam, khi tôi nói, “Mọi kinh nghiệm đều nông cạn, tôi muốn một cái gì huyền bí” – thế rồi tôi bị mắc kẹt.
Needleman: Ngài đang nói với tôi về một trạng thái, một thái độ, một đường lối, mà tự nó rất khó hiểu cho một người. Tôi cảm thấy mình rất xa chỗ đó, và tôi biết những sinh viên
của tôi cũng vậy. Và như thế họ cảm thấy, dù đúng dù sai, một nhu cầu cần giúp đỡ. Hẳn là họ hiểu sai giúp đỡ là gì, nhưng có một điều gì như là sự giúp đỡ chăng?
KRISHNAMURTI: Ông sẽ nói: “Tại sao ông đòi hỏi giúp đỡ?”
Needleman: Hãy để tôi nói cách thế này. Bạn có phần nào phát hiện ra bạn đang đánh lừa mình, bạn không biết chính xác…
KRISHNAMURTI: Khá đơn giản. Tôi không muốn đánh lừa mình, đúng không? Thế thì tôi tìm cho ra cái gì là sự chuyển động, cái gì là sự việc đem đến đánh lừa. Rõ ràng đó là khi tôi tham lam, khi tôi muốn cái gì đó, khi tôi không toại nguyện. Thế rồi thay vì tấn công tham lam, ham muốn, không toại nguyện, tôi muốn cái gì hơn nữa.
Needleman: Vâng.
KRISHNAMURTI: Thế nên tôi phải hiểu sự tham lam của tôi. Tôi tham lam cái gì? Có phải tôi đã được nuôi dưỡng bởi thế giới này, tôi đã có vợ, tôi đã có những chiếc xe hơi, tôi đã có tiền bạc và tôi muốn cái gì thêm nữa?
Needleman: Tôi nghĩ người ta tham lam vì người ta muốn sự kích thích, quên đi phiền muộn, để người ta không thấy sự nghèo nàn của chính mình. Nhưng điều tôi đang thử hỏi – tôi biết ngài đã trả lời câu hỏi này nhiều lần trong những buổi nói chuyện của ngài, nhưng nó vẫn tái diễn, hầu như không tránh khỏi – những truyền thống lớn của thế giới (ngoài những cái đã méo mó, giải thích sai và làm lầm lẫn phát xuất từ chúng) luôn luôn trực tiếp hay gián tiếp nói đến cứu giúp. Chúng nói “Vị guru cũng là chính bạn”, nhưng đồng thời có sự giúp đỡ.
KRISHNAMURTI: Thưa ông, ông biết từ ngữ “guru” nghĩa là gì?
Needleman: Không, không chắc lắm.
KRISHNAMURTI: Người chỉ cho, đó là một nghĩa. Nghĩa khác là người đem lại giác ngộ, cất đi gánh nặng của bạn. Nhưng thay vì cất đi gánh nặng của bạn họ lại thêm gánh nặng cho bạn.
Needleman: Tôi thấy sợ.
KRISHNAMURTI: Guru cũng có nghĩa là người giúp đỡ bạn vượt qua – và như vậy, có nhiều nghĩa. Khoảnh khắc vị guru nói ông biết, khi ấy bạn có thể chắc là ông không biết. Bởi vì điều ông biết là cái gì đã qua rồi, rõ ràng như vậy. Kiến thức là quá khứ. Và khi ông nói ông biết, ông đang nghĩ đến kinh nghiệm nào đó ông đã có mà ông thừa nhận là cái gì lớn lao, và sự thừa nhận này sanh từ kiến thức trước đó của ông, nếu không thì ông không thể thừa nhận nó, và bởi thế kinh nghiệm của ông có gốc rễ trong quá khứ. Thế nên nó không thực.
Needleman: Vâng, tôi nghĩ rằng hầu hết kiến thức là vậy đó.
KRISHNAMURTI: Thế thì tại sao chúng ta muốn một hình thức nào của truyền thống quá khứ hay hiện đại trong tất cả điều đó? Này, thưa ông, tôi không đọc cuốn sách tôn giáo, triết học, tâm lý nào: người ta có thể đi vào chính mình nơi những chiều sâu khủng khiếp và tìm ra mọi sự. Đi vào chính mình là vấn đề, làm sao để làm điều đó. Không có thể làm nếu người ta hỏi, “Ông có vui lòng giúp đỡ tôi không?”
Needleman: Đúng.
KRISHNAMURTI: Và người bạn khác nói, “Tôi sẽ giúp anh” và đẩy ông ra một chỗ khác.
Needleman: Vâng, nó trả lời phần nào câu hỏi. Hôm trước tôi có đọc một cuốn sách nói đến điều gì gọi là “Sat-san”.
KRISHNAMURTI: Nó có nghĩa là gì?
Needleman: Làm bạn với người trí.
KRISHNAMURTI: Không, với người tốt.
Needleman: Với người tốt, ồ!
KRISHNAMURTI: Tốt, thì bạn là người trí. Chứ không phải là người trí thì bạn là người tốt.
Needleman: Tôi hiểu điều đó.
KRISHNAMURTI: Bởi vì bạn tốt, bạn là người trí.
Needleman: Tôi không cố gắng xác định điều này là cái gì, nhưng tôi thấy các sinh viên và chính tôi, khi chúng tôi đọc và nghe ngài, chúng tôi nói, “Ồ! Tôi không cần ai cả, tôi không cần có mặt ai cả” – và có một sự lừa dối kinh khủng trong sự việc ấy.
KRISHNAMURTI: Dĩ nhiên, bởi vì bạn đang bị ảnh hưởng bởi người nói. Needleman: Vâng, điều đó có thật. (Cười)
KRISHNAMURTI: Thưa bạn, nào, chúng ta hãy rất đơn giản. Giả sử, nếu không có sách, không có guru, không có thầy, bạn sẽ làm gì? Người ta đang rối loạn, mê lầm, đau đớn, bạn sẽ làm gì? Không có ai giúp đỡ bạn, không có những chất kích thích, không có những thuốc làm dịu, không có những tôn giáo được tổ chức, bạn làm gì?
Needleman: Tôi không thể tưởng tượng tôi sẽ làm gì.
KRISHNAMURTI: Vậy đấy.
………
Needleman: Hãy để tôi hỏi ngài điều này. Chúng ta biết rằng không có công việc lao động thân thể có thể bệnh, và công việc khó nhọc này chúng ta gọi là cố gắng. Liệu có cố gắng khác cho cái mà chúng ta gọi là tinh thần? Ngài chống đối cố gắng, nhưng chẳng phải sự trưởng thành và an vui trong mọi mặt của con người đòi hỏi cái gì như một loại công việc khó nhọc nào đó sao?
KRISHNAMURTI: Tôi không biết ông nói công việc khó nhọc là gì? Công việc khó nhọc về thân ư?
Needleman: Đó là cái chúng ta thường cho là công việc khó nhọc. Hay là đề kháng lại những tham muốn.
KRISHNAMURTI: Ông thấy đấy, chúng ta đang ở đâu! Sự bị quy định của chúng ta, văn hóa của chúng ta, được xây dựng bao quanh cái “đề kháng” này. Dựng lên một bức tường kháng cự. Thế thì khi chúng ta nói “công việc khó nhọc”, chúng ta muốn nói gì? Lười biếng ư? Tại sao chúng ta phải cố gắng đối với bất cứ điều gì? Tại sao?
Needleman: Bởi vì tôi muốn cái gì đó.
KRISHNAMURTI: Không. Tại sao có sự tôn thờ cố gắng này? Tại sao tôi phải cố gắng đạt đến Thượng Đế, giác ngộ, chân lý?
Needleman: Có thể có nhiều câu trả lời, nhưng tôi chỉ có thể trả lời cho chính tôi. KRISHNAMURTI: Đúng như vậy, chỉ có tôi không biết làm sao nhìn.
Needleman: Nhưng bấy giờ phải có một chướng ngại.
KRISHNAMURTI: Làm sao nhìn! Nó ở ngay quanh góc nhà, dưới đóa hoa, nó có thể ở bất cứ nơi đâu. Thế nên trước hết tôi phải học nhìn, không phải cố gắng nhìn. Tôi phải tìm ra cái để cho việc nhìn có ý nghĩa thật của sự nhìn.
Needleman: Vâng, nhưng chẳng lẽ ngài không chấp nhận rằng có một sự kháng cự lại cái nhìn ấy?
KRISHNAMURTI: Bấy giờ chớ quấy nhiễu việc nhìn! Nếu có ai đến và nói, “Tôi không muốn nhìn”, bạn bắt buộc họ phải nhìn sao?
Needleman: Không. Tôi đang nói về mình bây giờ thôi. Tôi muốn nhìn.
Krishnamurti: Nếu bạn muốn nhìn, bạn hiểu nhìn là sao? Bạn phải tìm ra cái có nghĩa là nhìn trước khi bạn có một cố gắng để nhìn. Đúng không, thưa ông?
Needleman: Đó sẽ là một cố gắng với tôi.
KRISHNAMURTI: Không.
Needleman: Làm điều đó một cách tinh tế, tế vi. Tôi muốn nhìn, nhưng tôi không muốn tìm ra cái có nghĩa là nhìn. Tôi nhận rằng cái này với tôi thì hơn sự việc căn bản nhiều. Nhưng sự muốn làm việc đó thật nhanh, vượt qua nó, đấy không phải là một sự kháng cự sao?
KRISHNAMURTI: Cách nhanh chóng để vượt qua nó.
Needleman: Có cái gì trong tôi mà tôi phải nghiên cứu, cái gì kháng cự lại điều tinh tế, rất tế vi mà ngài đang nói đến? Đây không phải là công việc, cái ngài đang nói? Hỏi câu hỏi một cách rất yên lặng, rất tinh tế, không phải là công việc sao? Với tôi hình như không nghe theo cái phần nó muốn làm điều đó chính là công việc…
KRISHNAMURTI: Một cách nhanh chóng.
Needleman: Với chúng tôi, nhất là ở Tây phương, hay có thể với tất cả mọi người.
KRISHNAMURTI: Tôi e rằng cả thế giới đều như nhau. “Hãy nói với tôi làm sao để đến đó nhanh chóng.“
Needleman: Và tuy nhiên ngài nói nó là trong một khoảnh khắc.
KRISHNAMURTI: Nó đang là, rõ ràng.
Needleman: Vâng, tôi hiểu.
KRISHNAMURTI: Thưa ông, cái gì là cố gắng? Buổi sáng ra khỏi giường, khi ông không muốn đứng dậy, là một cố gắng. Cái gì đem lại sự lười biếng này? Mất ngủ, ăn nhiều, buông thả quá và mọi thứ còn lại; và sáng hôm sau ông nói, “Ôi, thật là phiền toái, tôi phải dậy!” Xin hãy chờ một chút, thưa ông, hãy theo nó. Cái gì là lười biếng? Đó là sự lười biếng về thể xác, hay bản thân tư tưởng là lười biếng?
Needleman: Tôi không hiểu điều đó. Tôi cần một lời nói khác. “Tư tưởng là lười biếng?“ Tôi thấy rằng tư tưởng luôn luôn như nhau.
KRISHNAMURTI: Không, thưa ông. Tôi lười biếng, tôi không muốn thức dậy và như vậy tôi tự bắt buộc mình đứng dậy. Trong đó là cái gọi là cố gắng.
Needleman: Vâng.
KRISHNAMURTI: Tôi muốn điều đó, nhưng tôi không làm, tôi cưỡng chống lại nó. Sự cưỡng chống là cố gắng. Tôi tức giận và tôi phải không tức giận: cưỡng chống, cố gắng. Cái gì làm tôi lười biếng?
Needleman: Tư tưởng tôi phải đứng dậy.
KRISHNAMURTI: Chính là nó.
Needleman: Rất đúng.
KRISHNAMURTI: Thế nên tôi phải thực sự đi vào toàn bộ đối với tư tưởng này. Không cho thân thể là lười biếng, cưỡng bách thân thể ra khỏi giường, bởi vì thân có sự thông minh của riêng nó, nó biết khi nào nó mệt và cần nghỉ. Sáng nay tôi mệt; tôi đã sửa soạn chiếu và mọi thứ để làm những thực tập yoga và thân thể nói, “Không, xin lỗi.” Và tôi nói, “Được thôi.” Đó không phải là lười biếng. Thân thể nói, “Hãy để tôi một mình vì anh đã nói chuyện hôm qua, anh đã gặp nhiều người, anh đã mệt.” Rồi tư tưởng nói, “Anh phải đứng dậy và làm những thực tập bởi vì điều đó tốt cho anh, anh đã làm điều đó mỗi ngày, nó đã trở thành một thói quen, chớ thư giãn, anh sẽ lười biếng, hãy duy trì nó.” Có nghĩa là: tư tưởng đang làm tôi lười biếng, không phải thân thể làm cho tôi lười biếng.
Needleman: Tôi hiểu. Thế nên có một cố gắng về phần tư tưởng.
KRISHNAMURTI: Thế nên không có cố gắng! Tại sao tư tưởng quá máy móc? Và có phải tất cả tư tưởng đều máy móc?
Needleman: Vâng, rất đúng, người ta đặt câu hỏi ấy.
KRISHNAMURTI: Là sao?
Needleman: Tôi không thể nói tôi đã kiểm nghiệm nó.
KRISHNAMURTI: Nhưng chúng ta có thể, thưa ông. Khá đơn giản để thấy. Tất cả tư tưởng là máy móc, phải không? Trạng thái không máy móc là sự vắng mặt của tư tưởng; không phải sự xao lãng, không chú ý đến tư tưởng mà là sự không có tư tưởng.
Needleman: Làm sao tôi có thể khám phá?
KRISHNAMURTI: Bây giờ hãy làm điều đó, nó rất đơn giản. Bạn có thể làm điều đó bây giờ nếu bạn muốn. Tư tưởng là máy móc.
Needleman: Chúng ta hãy giả định như vậy.
KRISHNAMURTI: Không giả định. Chớ giả định cái gì cả.
Needleman: Đúng.
KRISHNAMURTI: Tư tưởng là máy móc, phải thế không? – bởi vì nó lập đi lập lại, uốn nắn cho phù hợp, so sánh phân biệt.
Needleman: Phần đó tôi thấy, sự so sánh phân biệt. Nhưng kinh nghiệm của tôi là không phải tất cả tư tưởng đều cùng phẩm chất như nhau. Có những phẩm chất của tư tưởng.
KRISHNAMURTI: Có ư?
Needleman: Theo kinh nghiệm của tôi thì có.
KRISHNAMURTI: Chúng ta hãy tìm ra. Tư tưởng là gì, sự suy nghĩ ấy?
Needleman: Có vẻ tư tưởng là cái rất nông cạn, rất lập lại, rất máy móc, có một ý vị nào nơi nó. Hình như có loại tư tưởng khác liên kết nhiều hơn với thân tôi, với toàn thể tự ngã tôi, nó âm vang theo một kiểu khác.
KRISHNAMURTI: Nó là cái gì, thưa ông? Tư tưởng là sự trả lời của trí nhớ. Needleman: Đúng lắm, đó là một định nghĩa.
KRISHNAMURTI: Không, không, tôi có thể tự mình thấy điều đó. Tôi phải đi đến nhà ấy chiều nay – trí nhớ, khoảng cách, sự phác họa – tất cả điều đó là trí nhớ, có phải không?
Needleman: Vâng, đó là trí nhớ.
KRISHNAMURTI: Tôi đã ở đó trước đây và thế là trí nhớ được thiết lập rõ ràng và từ đó có hoặc tư tưởng trong khoảnh khắc hoặc tư tưởng trong một thời gian ngắn. Thế nên tôi tự hỏi: mọi tư tưởng đều tương tự, máy móc, hay có tư tưởng không máy móc, không có tính cách ngôn ngữ?
Needleman: Vâng, đúng thế.
KRISHNAMURTI: Có tư tưởng không nếu không có lời nói?
Needleman: Có sự hiểu.
KRISHNAMURTI: Chờ đã, thưa ông. Cái hiểu này xảy ra thế nào? Nó xảy ra khi tư tưởng vận hành nhanh, hay khi tư tưởng bình lặng?
Needleman: Khi tư tưởng bình lặng.
KRISHNAMURTI: Hiểu không can hệ gì với tư tưởng. Ông có thể lý luận, đây là tiến trình của suy nghĩ, có luận lý, cho đến khi ông nói, “Ồ! Tôi thấy nó, tôi hiểu nó.” Cái hiểu ấy không phải là một kết quả của tư tưởng.
Needleman: Ngài nói đến một năng lượng có vẻ như không có nguyên nhân. Chúng ta kinh nghiệm năng lượng của nhân và quả, nó hình thành cuộc sống chúng ta, nhưng đâu là sự liên hệ giữa năng lượng kia và năng lượng chúng ta đã từng quen thuộc? Năng lượng là gì?
KRISHNAMURTI: Trước hết: năng lượng có thể phân chia không?
Needleman: Tôi không hiểu. Hãy tiếp tục.
KRISHNAMURTI: Nó không thể phân chia. Năng lượng thể xác, năng lượng của tức giận và vân vân, năng lượng vũ trụ, năng lượng con người, chúng đều có thể phân chia. Nhưng đó đều là một năng lượng, phải vậy không?
Needleman: Về mặt lý luận, tôi thấy đúng. Tôi không hiểu năng lượng. Đôi khi tôi kinh nghiệm cái mà tôi gọi là năng lượng.
KRISHNAMURTI: Tại sao chúng ta cứ phân chia năng lượng, cái mà tôi muốn thông hiểu; rồi chúng ta có thể đi đến nó một cách khác. Năng lượng tình dục, năng lượng thân thể, năng lượng tinh thần, năng lượng tâm lý, năng lượng vũ trụ, năng lượng của nhà kinh doanh đến xí nghiệp và vân vân – tại sao chúng ta phân chia nó? Cái gì là lý do cho sự phân chia này?
Needleman: Hình như có nhiều phần của bản thân mình bị tách biệt, riêng rẽ; và chúng ta phân chia đời sống vì vậy.
KRISHNAMURTI: Tại sao? Chúng ta đã phân chia thế giới thành Cộng sản, Xã hội, Đế quốc, và Công giáo, Tin lành, Ấn giáo, Phật giáo, và những quốc tịch, những ngôn ngữ, toàn bộ là phân mảnh. Tại sao tâm thức đã phân mảnh toàn thể đời sống?
Needleman: Tôi không thể trả lời được. Tôi thấy biển và tôi thấy một cái cây: có một sự phân chia.
KRISHNAMURTI: Không. Có một sự khác biệt giữa biển và cây – tôi hy vọng thế! Nhưng đó không phải là phân chia.
Needleman: Không. Đó là một khác biệt, không phải là phân chia.
KRISHNAMURTI: Nhưng chúng ta đang hỏi tại sao có sự phân chia, không phải chỉ bên ngoài mà ở trong chúng ta.
Needleman: Nó ở trong chúng ta, đó là vấn đề đáng quan tâm nhất.
KRISHNAMURTI: Bởi vì nó ở trong chúng ta, chúng ta trải nó ra bên ngoài. Bây giờ tại sao có sự phân chia này trong tôi? Cái tôi và cái không phải tôi. Bạn theo dõi chứ? Cái cao và cái thấp. Chân Ngã (Atman) và phàm ngã. Tại sao có sự phân chia này?
Needleman: Có lẽ nó có, ít nhất trong lúc ban đầu, để giúp người ta tự hỏi. Để cho họ hỏi họ có thật sự biết cái mà họ nghĩ là họ biết.
KRISHNAMURTI: Nhờ phân chia họ sẽ tìm ra chăng?
Needleman: Có thể nhờ ý niệm mà có cái gì tôi chưa hiểu.
KRISHNAMURTI: Trong một con người có một sự phân chia – tại sao? Cái gì là lý do tồn tại, cái gì là cơ cấu của sự phân chia này? Tôi thấy một người suy nghĩ và tư tưởng – đúng chứ?
Needleman: Tôi không thấy điều đó.
KRISHNAMURTI: Có một người suy nghĩ, nó nói, “tôi phải kiểm soát tư tưởng này, tôi phải không nghĩ cái này, tôi phải nghĩ cái kia.” Thế nên có một người suy nghĩ và nói, “tôi phải” hay ”tôi phải không”.
Needleman: Đúng.
KRISHNAMURTI: Có sự phân chia. “Tôi nên thế này“, và ”tôi nên thế kia”. Phải chi tôi có thể hiểu tại sao sự phân chia này hiện hữu trong tôi – Ồ hãy xem, hãy xem! Xem những ngọn đồi kia kìa! Kỳ diệu, phải thế không?
Needleman: Tuyệt đẹp!
KRISHNAMURTI: Bây giờ, thưa ông, ông có nhìn nó với sự phân chia không?
Needleman: Không.
KRISHNAMURTI: Tại sao không?
Needleman: Không có cái tôi tác động gì trong đó.
KRISHNAMURTI: Đó là tất cả vấn đề. Bạn không thể làm điều gì đối với nó. Đây này, với tư tưởng, tôi nghĩ tôi có thể làm cái gì đó.
Needleman: Vâng.
KRISHNAMURTI: Thế nên tôi muốn biến đổi “cái đang là”. Tôi không thể thay đổi “cái đang là” ở đó, nhưng tôi nghĩ tôi có thể thay đổi “cái đang là” ở trong tôi. Không biết làm sao thay đổi nó tôi đã trở nên thất vọng, lạc lõng, tuyệt vọng. Tôi nói, “Tôi không thể thay đổi”, và bởi thế tôi không có năng lượng để thay đổi.
Needleman: Đó là điều người ta nói.
KRISHNAMURTI: Thế nên trước hết, trước khi tôi thay đổi “cái đang là”, tôi phải biết ai là người thay đổi, ai là cái thay đổi.
Needleman: Có những giây phút người ta biết điều đó, một khoảnh khắc thôi. Những giây phút đó qua đi. Có những giây phút người ta biết cái người thấy “cái đang là” trong chính mình.
KRISHNAMURTI: Không, thưa ông. Xin lỗi. Chỉ thấy “cái đang là” là đủ, không thay đổi nó.
Needleman: Tôi đồng ý. Tôi đồng ý với điều đó.
KRISHNAMURTI: Tôi chỉ có thể thấy “cái đang là” khi người quan sát không có mặt. Khi bạn nhìn những ngọn đồi này người quan sát không có.
Needleman: Tôi đồng ý, vâng.
KRISHNAMURTI: Người quan sát chỉ có mặt khi bạn muốn thay đổi “cái đang là”. Bạn nói: Tôi không thích “cái đang là”, nó phải được thay đổi, thế nên tức thời có một sự phân đôi, có nhị nguyên. Tâm thức có thể quan sát “cái đang là” mà không có người quan sát? Điều đó xảy ra khi bạn nhìn những ngọn đồi này với ánh sáng kỳ diệu nơi chúng.
Needleman: Chân lý này là chân lý tuyệt đối. Khoảnh khắc người ta kinh nghiệm nó người ta nói, “Vâng!” Nhưng người ta cũng kinh nghiệm sự quên mất nó.
KRISHNAMURTI: Hãy quên!
Needleman: Tôi hiểu điều đó là người ta tiếp tục cố gắng thay đổi nó. KRISHNAMURTI: Hãy quên nó đi, và nắm nó trở lại.
Needleman: Nhưng trong sự thảo luận này, có sự giúp đỡ đến từ sự thảo luận này. Tôi biết, chừng nào tôi hiểu điều gì, nó không thể xảy ra mà không có sự giúp đỡ đang hiện diện giữa chúng ta. Tôi có thể nhìn những ngọn đồi kia và có thể có sự không phê phán này, nhưng điều đó không quan trọng đối với tôi; tôi không cho rằng đó là cách tôi phải nhìn để được cứu độ. Và tôi nghĩ điều này là một vấn đề người ta luôn luôn muốn nêu ra. Có lẽ đây là cái tâm lại muốn nắm bắt và chấp giữ cái gì, tuy nhiên có vẻ thân phận con người…
KRISHNAMURTI: Thưa ông, chúng ta đã nhìn những ngọn đồi kia, ông không thể thay đổi cái ấy, ông chỉ nhìn; và ông nhìn vào trong và cuộc chiến bắt đầu. Trong một chốc lát ông nhìn mà không có trận chiến đấu ấy, không có sự xung đột ấy, và mọi thứ linh tinh khác. Rồi ông nhớ lại vẻ đẹp của giây phút ấy, và ông muốn nắm bắt nó trở lại. Ông biết, nếu ông nghĩ về nó, nó không như cũ, nó không phải là cái ấy. Thế nên ông nỗ lực, ông chiến đấu. “Tôi phải kiểm soát, tôi phải không muốn“ – đúng chứ? Trong khi nếu ông nói, “Tốt lắm, nó đã qua rồi, đã chấm dứt”, thì giây phút ấy là xong hẳn.
Needleman: Tôi phải học cái đó. KRISHNAMURTI: Không, không. Needleman: Tôi phải học, không phải sao? KRISHNAMURTI: Có cái gì để học? Needleman: Tôi phải học cái vô ích của sự xung đột này.
KRISHNAMURTI: Không. Có cái gì để học? Chính bạn thấy rằng giây phút ấy của cái đẹp trở thành một trí nhớ, rồi trí nhớ nói, “Nó thật đẹp, tôi phải có nó trở lại.” Bạn không quan tâm đến cái đẹp, bạn quan tâm đến sự theo đuổi lạc thú. Lạc thú và cái đẹp không đi chung. Thế nên nếu bạn thấy cái ấy, nó tự chấm dứt. Như một con rắn nguy hiểm, bạn không đến gần nó một lần nữa.
Needleman: (Cười) Có lẽ tôi đã không thấy nó, thế nên tôi không thể nói. KRISHNAMURTI: Đó là vấn đề.
Needleman: Vâng, tôi nghĩ là phải như vậy, bởi vì người ta cứ đi trở lại luôn luôn.
KRISHNAMURTI: Không, đây là sự việc đích thực. Nếu tôi thấy cái đẹp của ánh sáng ấy, và nó thực sự đẹp đẽ lạ lùng, tôi chỉ thấy nó. Bây giờ với cùng phẩm chất chú ý, tôi muốn thấy chính tôi. Có một giây phút của tri giác nó cũng đẹp như vậy. Thế rồi cái gì xảy ra?
Needleman: Rồi tôi muốn nó.
KRISHNAMURTI: Rồi tôi muốn bắt giữ nó, tôi muốn trau dồi, nuôi dưỡng nó, tôi muốn theo đuổi nó.
Needleman: Và làm thế nào thấy nó?
KRISHNAMURTI: Chỉ thấy cái gì đang xảy ra là đủ.
Needleman: Đó là cái tôi quên!
KRISHNAMURTI: Nó không phải là một vấn đề quên.
Needleman: Đúng, đó là cái tôi không hiểu cho đủ sâu. Đó chỉ thấy là đủ. KRISHNAMURTI: Hãy nhìn, thưa ông. Khi ông thấy một con rắn, điều gì xảy ra? Needleman: Tôi sợ.
KRISHNAMURTI: Không. Cái gì xảy ra? Bạn chạy, giết nó, làm cái gì đó. Tại sao? Bởi vì bạn biết nó nguy hiểm. Bạn ý thức sự nguy hiểm của nó. Một vách đá, tốt hơn là lấy thí dụ một vách đá, một vực thẳm. Bạn biết sự nguy hiểm của nó. Không cần ai phải nói với bạn. Bạn trực tiếp thấy cái gì xảy ra.
Needleman: Đúng.
KRISHNAMURTI: Bây giờ, nếu bạn thấy trực tiếp rằng cái đẹp của giây phút tri giác đó không thể lập lại, nó xong hẳn. Nhưng tư tưởng nói, “Không, nó không chấm dứt, trí nhớ về nó còn lại.” Thế rồi bạn làm gì bây giờ? Bạn theo đuổi trí nhớ đã chết về nó, không phải là cái đẹp sống động của nó – đúng chứ? Bây giờ nếu bạn thấy cái đó, chân lý của nó – không phải ngôn ngữ, lời nói, mà chân lý của nó – nó chấm dứt.
Needleman: Bấy giờ cái thấy này hiếm có hơn chúng ta nghĩ nhiều.
KRISHNAMURTI: Nếu chúng ta thấy cái đẹp của giây phút ấy, nó chấm dứt. Tôi không muốn theo đuổi nó. Nếu tôi theo đuổi nó, nó trở thành một lạc thú. Rồi nếu tôi không thể có nó, nó sẽ đem lại thất vọng, đau đớn và mọi thứ khác. Thế nên tôi nói, “Tốt lắm, chấm dứt.” Thế thì cái gì xảy ra?
Needleman: Từ kinh nghiệm của tôi, tôi e rằng cái xảy ra là con quái vật được sanh ra trở lại. Nó có cả ngàn cuộc đời. (Cười)
KRISHNAMURTI: Không, thưa ông. Khi nào cái đẹp ấy xảy ra?
Needleman: Lúc tôi thấy mà không cố gắng thay đổi.
KRISHNAMURTI: Khi tâm hoàn toàn bình lặng.
Needleman: Vâng.
KRISHNAMURTI: Phải thế không? Đúng chứ?
Needleman: Vâng.
KRISHNAMURTI: Khi bạn nhìn nó, tâm bạn bình lặng, nó không nói, “Tôi muốn thay đổi nó, sao chép và chụp ảnh nó, cái này, cái kia, cái khác” – bạn chỉ nhìn. Tâm không tác động, vận hành. Hay đúng hơn, tư tưởng không tác động vận hành. Nhưng lập tức tư tưởng lại vận hành. Bây giờ người ta hỏi, “Làm sao tư tưởng có thể bình lặng? Làm sao người ta có thể sử dụng tư tưởng khi cần thiết, và không sử dụng nó khi nó không cần thiết?”
Needleman: Vâng, đó là vấn đề gây cho tôi quan tâm mãnh liệt, thưa ngài.
KRISHNAMURTI: Nghĩa là, tại sao chúng ta tôn thờ tư tưởng? Tại sao tư tưởng trở nên quan trọng phi thường như vậy?
Needleman: Nó hình như có thể thỏa mãn những tham muốn của chúng ta; nhờ tư tưởng chúng ta tin là chúng ta có thể thỏa mãn.
KRISHNAMURTI: Không, không phải do từ thỏa mãn. Tạo sao đối với nhiều người trong tất cả mọi nền văn hóa tư tưởng trở nên mối quan tâm trọng yếu như vậy?
Needleman: Người ta luôn luôn đồng hóa mình là tư tưởng, là những tư tưởng của mình. Nếu tôi nghĩ về chính tôi, tôi nghĩ về cái tôi nghĩ, loại ý niệm nào tôi có, cái gì tôi tin. Có phải đó là điều ngài muốn nói?
KRISHNAMURTI: Không hẳn. Lìa khỏi sự đồng hóa với “tôi”, hay với ”không phải tôi”, tại sao tư tưởng luôn luôn hoạt động?
Needleman: A, tôi thấy.
KRISHNAMURTI: Tư tưởng thì luôn luôn vận hành trong kiến thức, phải thế không? Nếu không có kiến thức, tư tưởng làm gì có. Tư tưởng luôn luôn vận hành trong lãnh vực
của cái đã biết. Hoặc máy móc, không bằng lời nói, và vân vân, nó luôn luôn làm việc trong quá khứ. Thế nên đời sống của tôi là quá khứ, bởi vì nó đặt nền trên kiến thức quá khứ, kinh nghiệm quá khứ, trí nhớ, khoái lạc, khổ đau, sợ hãi… quá khứ – tất cả nó là quá khứ. Và tương lai là cái tôi phóng chiếu từ quá khứ, tư tưởng phóng chiếu từ quá khứ. Thế nên tư tưởng dao động giữa quá khứ và tương lai. Mọi lúc, nó nói, “Tôi cần làm cái này, tôi phải làm cái nọ, tôi phải cư xử thế nọ thế kia.” Tại sao nó làm mọi thứ này?
Needleman: Tôi không biết. Thói quen?
KRISHNAMURTI: Thói quen. Rất đúng. Hãy tiếp tục. Chúng ta hãy tìm ra. Thói quen? Needleman: Thói quen đem đến cái chúng ta gọi là lạc thú.
KRISHNAMURTI: Thói quen, lạc thú, khổ đau.
Needleman: Để bảo vệ tôi. Khổ đau, vâng, khổ đau.
KRISHNAMURTI: Nó luôn luôn làm việc trong mảnh đất ấy. Tại sao?
Needleman: Bởi vì nó không biết làm cái gì tốt hơn.
KRISHNAMURTI: Không. Không. Tư tưởng có thể làm việc trong mảnh đất nào khác sao?
Needleman: Loại tư tưởng đó, không.
KRISHNAMURTI: Không, bất kỳ tư tưởng nào. Tư tưởng có thể làm việc trong một miếng đất nào khác ngoài cái đã được biết?
Needleman: Không.
KRISHNAMURTI: Rõ ràng không. Tôi không thể làm việc trên một chỗ mà tôi không biết; nó chỉ có thể làm việc trong mảnh đất này. Bây giờ tại sao nó làm việc trong đó? Nó ở đó, tại sao, thưa ông? Nó chỉ là cái duy nhất tôi biết. Trong đó có an toàn, có bảo vệ, có an ninh. Đó là tất cả cái tôi biết. Thế nên tư tưởng chỉ chuyển vận trong mảnh đất của cái đã biết. Và khi nó đã mệt mỏi vì cái đó, nó tìm kiếm cái gì khác ở ngoài. Bấy giờ cái nó tìm kiếm vẫn là cái đã biết. Những thần linh của nó, những thị kiến của nó, những trạng thái tâm linh của nó – tất cả được phóng chiếu từ cái quá khứ đã biết vào cái tương lai đã biết. Thế nên tư tưởng luôn luôn làm việc trên mảnh đất này.
Needleman: Vâng, tôi hiểu.
KRISHNAMURTI: Bởi thế tư tưởng luôn luôn làm việc trong một nhà tù. Nó có thể gọi đó là tự do, nó có thể gọi đó là cái đẹp, nó có thể gọi đó là cái gì nó thích! Nhưng nó luôn luôn ở trong giới hạn của hàng rào kẽm gai. Bây giờ tôi muốn tìm ra tư tưởng có chỗ nào khác ngoài mảnh đất đó. Tư tưởng không có chỗ khi tôi nói, “Tôi không biết.” ”Tôi thực sự không biết.” Đúng không?
Needleman: Trong lúc này thôi.
KRISHNAMURTI: Tôi thực sự không biết. Tôi chỉ biết điều này thôi, và tôi thực sự không biết tư tưởng có thể vận hành trong chỗ nào khác, ngoại trừ mảnh đất này. Tôi thực sự không biết. Khi tôi nói, “Tôi không biết”, đó không có nghĩa là tôi đang hy vọng biết, khi tôi nói tôi thực sự không biết – cái gì xảy ra? Tôi trèo xuống cái thang. Tôi trở nên, tâm tôi trở nên, hoàn toàn khiêm tốn.
Bây giờ trạng thái “không biết” này là thông minh. Bấy giờ nó có thể vận hành trong mảnh đất của cái biết và thoát khỏi phải làm việc ở một chỗ nào khác nếu nó không muốn.
MALIBU, CALIFORNIA 26 tháng Ba 1971
2
VỀ KHÔNG GIAN BÊN TRONG
Chuyện trò giữa J. Krishnamurti
và Giáo sư J. Needleman
Needleman: Trong những buổi nói chuyện của ngài, ngài đã cho một ý nghĩa mới mẻ về việc con người cần thiết phải trở thành thẩm quyền của chính nó. Nhưng sự khẳng định này có thể dễ dàng chuyển thành một hình thức tâm lý học nhân bản không đếm xỉa đến chiều kích siêu việt và thiêng liêng của đời sống con người trên trái đất ở giữa một vũ trụ thông minh và bao la không? Chẳng phải chúng ta không chỉ cần cố gắng nhìn thấy chính mình trong khoảnh khắc, mà cũng phải thấy chính mình như những tạo vật của Vũ trụ sao? Điều tôi đang hỏi chính là vấn đề này về chiều kích vũ trụ.
KRISHNAMURTI: Khi nào chúng ta dùng từ ngữ “chiều kích”, nó hàm ý không gian, nếu khác đi thì nó không có chiều kích, không có không gian. Có phải chúng ta nói về không gian, không gian bên ngoài, không gian vô biên?
Needleman: Không.
KRISHNAMURTI: Hay chiều kích không gian trong chúng ta?
Needleman: Phải là cái sau, nhưng không phải hoàn toàn không có cái trước, tôi nghĩ như vậy.
KRISHNAMURTI: Có chăng một sự khác biệt giữa không gian bên ngoài, nó là vô hạn, và không gian trong chúng ta? Hay hoàn toàn không có không gian trong chúng ta và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài? Chúng ta biết không gian trong chúng ta như là một trung tâm và chu vi. Chiều kích của trung tâm ấy, và bán kính từ trung tâm ấy, là cái chúng ta hay gọi là không gian.
Needleman: Không gian bên trong, vâng.
KRISHNAMURTI: Vâng, không gian bên trong. Bây giờ nếu có một trung tâm, không gian luôn luôn bị giới hạn và bởi thế chúng ta chia cắt không gian bên trong khỏi không gian bên ngoài.
Needleman: Vâng.
KRISHNAMURTI: Chúng ta chỉ biết không gian rất giới hạn này nhưng chúng ta nghĩ chúng ta muốn đạt đến cái không gian kia, muốn có không gian bao la. Ngôi nhà này hiện hữu trong không gian, nếu không thì không thể có ngôi nhà, và bốn bức tường của căn phòng này làm nên không gian của nó. Và không gian trong tôi là không gian mà trung tâm đã tạo ra quanh nó. Giống như cái mi-crô-phôn này…
Needleman: Vâng, trung tâm của sự quan tâm.
KRISHNAMURTI: Không chỉ trung tâm của sự quan tâm, nó có không gian riêng của nó, nếu không nó không hiện hữu.
Needleman: Vâng, đúng.
KRISHNAMURTI: Cũng như vậy, con người có một trung tâm và từ trung tâm ấy họ tạo ra một không gian, trung tâm tạo ra một không gian chung quanh bản thân nó. Và không gian ấy luôn luôn giới hạn, phải thế thôi; vì trung tâm, không gian thì giới hạn.
Needleman: Nó được xác định, nó là một không gian được xác định, vâng. KRISHNAMURTI: Khi bạn dùng những từ “không gian vũ trụ”…
Needleman: Tôi không dùng những từ “không gian vũ trụ”; tôi nói vũ trụ, chiều kích của Vũ trụ. Tôi không hỏi về không gian bên ngoài và những cuộc du hành đến các hành tinh.
KRISHNAMURTI: Thế thì chúng ta đang nói đến không gian mà trung tâm tạo ra quanh nó, và cũng đến một không gian giữa hai tư tưởng; có một không gian, một khoảng trống giữa hai tư tưởng.
Needleman: Vâng.
KRISHNAMURTI: Và trung tâm đã tạo ra không gian quanh bản thân nó, có không gian bên ngoài giới hạn kia. Có một không gian giữa sự suy nghĩ, giữa những tư tưởng; và cũng có một không gian quanh bản thân trung tâm, và không gian vượt khỏi hàng rào kẽm gai. Bây giờ câu hỏi là gì, thưa ông? Làm sao để mở rộng không gian? Làm sao để đi vào một chiều kích khác của không gian?
Needleman: Không phải làm sao mà…
KRISHNAMURTI: … không phải làm sao. Liệu có một chiều kích không gian khác ngoài không gian quanh trung tâm?
Needleman: Hay một chiều kích khác của thực tại?
KRISHNAMURTI: Không gian, chúng ta đang nói về nó trong lúc này, chúng ta có thể dùng từ đó. Trước hết tôi phải thấy rất rõ ràng không gian giữa hai tư tưởng.
Needleman: Khoảng giữa.
KRISHNAMURTI: Khoảng trống giữa hai tư tưởng. Khoảng giữa nghĩa là không gian. Và cái gì xảy ra trong khoảng trống này?
Needleman: Tôi thú nhận tôi không biết vì những tư tưởng của tôi luôn luôn gối lên nhau. Tôi biết có những khoảng trống, có những khoảnh khắc khoảng trống này xuất hiện, và tôi thấy nó, và có tự do ở đó trong một khoảnh khắc.
KRISHNAMURTI: Chúng ta hãy đi vào cái này một chút, được chứ? Có không gian giữa hai tư tưởng. Và có không gian mà trung tâm tạo ra quanh bản thân nó, cái đó là không gian của cô lập.
Needleman: Đúng lắm, vâng. Đó là một từ lạnh lùng.
KRISHNAMURTI: Nó tự cắt đứt khỏi. Tôi tự cho là quan trọng, với tham vọng của tôi, với những lừa dối của tôi, với giận dữ, bản năng giới tính, sự tăng trưởng, sự thiền định, sự đạt đến Niết bàn của tôi.
Needleman: Vâng, sự cô lập đó.
KRISHNAMURTI: Nó là cô lập. Tương quan của tôi với bạn là hình ảnh của sự cô lập đó, nó là cái không gian đó. Bấy giờ khi đã tạo ra cái không gian này thì có không gian ngoài hàng rào kẽm gai. Giờ đây có một không gian của một chiều kích hoàn toàn khác chăng? Đó là vấn đề.
Needleman: Vâng, điều đó bao trùm vấn đề.
KRISHNAMURTI: Làm thế nào chúng ta tìm ra nếu cái không gian quanh tôi, quanh trung tâm, lại hiện hữu? Và làm thế nào tôi có thể tìm ra cái khác? Tôi có thể suy luận về cái khác, tôi có thể sáng chế bất kỳ không gian nào tôi thích – nhưng điều đó quá trừu tượng, quá ngờ nghệch!
Needleman: Vâng.
KRISHNAMURTI: Thế nên có thể thoát khỏi trung tâm, để trung tâm không tạo ra không gian quanh bản thân nó, dựng xây một bức tường, sự cô lập, một nhà tù quanh bản thân nó và gọi đó là không gian? Trung tâm này có thể thôi hiện hữu? Nếu không tôi không thể vượt qua nó; tâm thức không thể ra khỏi giới hạn này.
Needleman: Vâng, tôi thấy điều ngài nói. Nó hợp lý.
KRISHNAMURTI: Cái gì là trung tâm này? Trung tâm ấy là cái “tôi” và ”không phải tôi”, trung tâm ấy là người quan sát, người suy nghĩ, người kinh nghiệm, và trong trung tâm đó cũng là cái được quan sát. Cái trung tâm nói, “Đây là hàng rào kẽm gai tôi đã tạo ra quanh tôi.”
Needleman: Để rồi trung tâm ấy cũng bị giới hạn trong đó.
KRISHNAMURTI: Vâng. Thế nên nó tự tách khỏi hàng rào kẽm gai. Như vậy nó trở thành cái được quan sát. Trung tâm là người quan sát – phải không, thưa ông?
Needleman: Vâng, tôi hiểu điều đó.
KRISHNAMURTI: Và nó cố gắng bắc cầu vượt qua cái không gian ấy. Đó là điều chúng ta đang làm.
Needleman: Nó cố gắng bắc cầu vượt qua.
KRISHNAMURTI: Nó nói, “Cái này phải thay đổi, cái kia thì không, cái này nhỏ hẹp, cái kia rộng lớn, tôi phải hơn cái kia.” Tất cả đó là sự chuyển động trong cái không gian giữa người quan sát và cái được quan sát.
Needleman: Tôi theo dõi, vâng.
KRISHNAMURTI: Và từ đó có xung đột giữa người quan sát và cái được quan sát. Bởi vì cái được quan sát là hàng rào kẽm gai phải được nhảy qua, và thế là cuộc chiến bắt đầu. Bây giờ người quan sát – cái người là trung tâm, là người tư tưởng, người biết, cái người là kinh nghiệm, là kiến thức – có thể nào đứng lặng?
Needleman: Tại sao phải thế?
KRISHNAMURTI: Nếu nó không đứng lặng, không gian vẫn luôn luôn bị giới hạn.
Needleman: Nhưng cái trung tâm, người quan sát không biết rằng nó bị giới hạn theo cách đó.
KRISHNAMURTI: Nhưng bạn có thể thấy nó, hãy nhìn. Trung tâm là người quan sát trong lúc này – người tư tưởng, người kinh nghiệm, người biết, người chiến đấu, người tìm kiếm, người nói, “tôi biết, còn anh không biết”. Đúng chứ? Nơi nào có một trung tâm thì phải có một không gian quanh nó.
Needleman: Vâng, tôi theo dõi.
KRISHNAMURTI: Và khi nó quan sát, nó quan sát qua cái không gian ấy. Khi tôi quan sát những ngọn núi thì có không gian giữa tôi và ngọn núi. Và khi tôi quan sát chính tôi thì có không gian giữa tôi và sự vật tôi quan sát ở trong tôi. Khi tôi quan sát vợ tôi, tôi quan sát nàng từ trung tâm của hình ảnh của tôi về nàng, và nàng quan sát tôi với hình ảnh nàng đã có về tôi. Thế nên luôn luôn có sự phân chia và không gian này.
Needleman: Thay đổi sự tiếp cận với chủ đề một cách toàn bộ, có cái gì được gọi là thiêng liêng. Những giáo lý thiêng liêng, những ý niệm thiêng liêng, cái thiêng liêng, trong một giây lát nó chỉ cho tôi rằng trung tâm này và không gian này mà ngài đang nói đến là một ảo tưởng.
KRISHNAMURTI: Hãy chờ đã. Người ta đã học cái này từ một người khác. Có phải chúng ta đang tìm ra cái gì là thiêng liêng? Có phải chúng ta đang tìm kiếm vì có ai đó đã nói với tôi, “Cái đó là thiêng liêng.”?, hay có một sự vật thiêng liêng? Hay nó là sự tưởng tượng của tôi, vì tôi muốn cái gì linh thánh?
Needleman: Rất thường như vậy nhưng có…
KRISHNAMURTI: Bây giờ nó là cái gì? Sự tham muốn đối với cái gì linh thánh? Sự áp đặt của những người khác lên tâm trí tôi khi họ nói, “Cái này là thiêng liêng.”? Hay sự mong muốn của riêng tôi, bởi vì mọi sự là phàm tục và tôi muốn cái gì linh thánh, thiêng liêng? Tất cả mọi cái này nảy sanh từ cái trung tâm.
Needleman: Vâng, tuy nhiên…
KRISHNAMURTI: Hãy chờ đã. Chúng ta sẽ tìm ra cái này, cái là thiêng liêng. Nhưng tôi không muốn chấp nhận truyền thống, hay người nào đã nói về cái thiêng liêng. Thưa ông, tôi không biết ông đã kinh nghiệm chưa? Trước đây vài năm, để cho vui, tôi lấy một hòn đá từ vườn và đặt nó lên giá lò sưởi và chơi với nó, mỗi ngày đem hoa cho nó. Sau một tháng nó trở nên thiêng liêng kinh khủng!
Needleman: Tôi hiểu điều ngài muốn nói.
KRISHNAMURTI: Tôi không muốn loại thiêng liêng giả ấy.
Needleman: Nó là một vật linh.
KRISHNAMURTI: Tính thiêng liêng là một vật linh.
Needleman: Cứ cho là như vậy. Hầu hết là như vậy.
KRISHNAMURTI: Thế nên tôi không chấp nhận điều gì người ta nói về cái thiêng liêng. Truyền thống! Là một người Bà la môn người ta được nuôi dưỡng trong một truyền thống hơn hẳn truyền thống của bất kỳ ai, tôi bảo đảm với ông như thế!
Điều tôi muốn nói là: tôi muốn tìm ra cái gì là linh thánh, không phải một sự linh thánh do con người làm ra. Tôi chỉ có thể tìm ra khi tâm thức có không gian mênh mông. Và không thể có không gian mênh mông nếu có một trung tâm. Khi trung tâm không hiện hành, bấy giờ có không gian mênh mông. Trong không gian đó, nó là phần của thiền định, có cái gì thật sự thiêng liêng, không do cái trung tâm nhỏ bé ngu đần của tôi sáng chế ra. Có cái gì thiêng liêng vô lượng, mà bạn không thể tìm ra nếu có một trung tâm. Và tưởng tượng ra cái trung tâm ấy là ngu ngốc – bạn có thể theo dõi điều tôi muốn nói?
Tâm thức có thể thoát khỏi cái trung tâm này – với không gian eo hẹp khủng khiếp – nó có thể đo lường được và trải ra hoặc co lại và tất cả mọi thứ đó, hay không? Có thể chăng? Con người đã nói có thể và bởi thế Thượng Đế đã trở thành một trung tâm khác. Thế nên sự quan tâm đích thật của tôi là thế này: cái trung tâm có thể nào hoàn toàn trống không? Trung tâm ấy là ý thức. Trung tâm ấy là nội dung của ý thức, nội dung là ý thức; không có ý thức nếu không có nội dung. Bạn phải khám phá ra điều này…
Needleman: Chắc chắn đó là điều chúng ta thường hiểu, vâng.
KRISHNAMURTI: Không có ngôi nhà nếu không có những bức tường và trần. Nội dung là ý thức nhưng chúng ta muốn tách lìa chúng, lý thuyết hóa nó, đo lường khuôn khổ hạn hẹp của ý thức chúng ta. Trong khi đó trung tâm là ý thức, nội dung của ý thức, và nội dung chính là ý thức. Không có nội dung, ý thức ở chỗ nào? Và đó là không gian.
Needleman: Tôi theo được một ít điều ngài nói. Tôi thấy mình muốn nói: vâng, nhưng ở đây ngài coi trọng cái gì? Cái gì là điều quan trọng ở đây?
KRISHNAMURTI: Tôi sẽ đề cập đến câu hỏi đó sau khi tôi đã tìm ra tâm thức có thể trống không nội dung hay không.
Needleman: Đúng lắm.
KRISHNAMURTI: Lúc ấy có cái gì khác sẽ vận hành, nó sẽ tác động trong mảnh đất của cái biết. Nhưng không tìm thấy điều đó chỉ bằng việc nói…
Needleman: Không, không, đúng như vậy.
KRISHNAMURTI: Chúng ta hãy tiếp tục. Không gian thì ở giữa hai tư tưởng, giữa hai yếu tố của thời gian, hai hạn kỳ của thời gian, bởi vì tư tưởng là thời gian. Phải không?
Needleman: Đúng thế, vâng.
KRISHNAMURTI: Bạn có thể có một tá hạn kỳ thời gian nhưng nó vẫn là tư tưởng, có cái không gian ấy. Rồi có không gian quanh trung tâm, và không gian vượt khỏi cái ta, vượt khỏi hàng rào dây kẽm, vượt khỏi bức tường của trung tâm. Không gian giữa người quan sát và cái được quan sát là không gian do ảo tưởng tạo ra như là hình ảnh của vợ tôi và hình nàng có về tôi. Bạn theo chứ, thưa bạn?
Needleman: Vâng.
KRISHNAMURTI: Tất cả điều đó được trung tâm chế tạo ra. Suy đoán về cái vượt khỏi tất cả mọi thứ đó thì không có nghĩa gì với cá nhân tôi, đó là trò chơi của triết gia.
Needleman: Trò chơi của triết gia…
KRISHNAMURTI: Tôi không thích thú.
Needleman: Tôi đồng ý. Đôi khi tôi không thích thú, vào những giây phút tốt đẹp, tuy nhiên…
KRISHNAMURTI: Tôi xin lỗi, bởi vì bạn là một triết gia!
Needleman: Không, không, tại sao ngài lại phải nhớ đến điều đó.
KRISHNAMURTI: Thế thì câu hỏi của tôi là: “Trung tâm có thể tồn tại, hay trung tâm có thể tan biến?” Bởi vì nếu nó không tan biến, hay nằm thật yên, thì nội dung của ý thức sẽ tạo ra không gian bên trong ý thức và gọi đó là không gian bao la. Trong đó có sự lừa dối và tôi không muốn tự lừa dối mình. Tôi không nói tôi không nâu khi da tôi nâu. Thế nên cái trung tâm ấy có thể bị tiêu mất không? Nghĩa là, có thể không có hình ảnh, bởi vì chính hình ảnh làm phân chia?
Needleman: Vâng, đó là không gian.
KRISHNAMURTI: Hình ảnh ấy nói về tình thương, nhưng tình thương của hình ảnh không phải là tình thương. Bởi thế tôi phải tìm cho ra trung tâm có thể tiêu tan, biến mất, hay nằm như một mảnh mờ ở xa. Nếu không có thể như thế, thì tôi phải chấp nhận tù ngục.
Needleman: Tôi đồng ý.
KRISHNAMURTI: Tôi phải chấp nhận không làm gì có tự do. Bấy giờ tôi có thể vĩnh viễn trang hoàng cho ngục tù của tôi.
Needleman: Nhưng bây giờ sự có thể này mà ngài đang nói đến, nếu không tìm kiếm nó một cách ý thức…
KRISHNAMURTI: Không, chớ tìm kiếm nó!
Needleman: Tôi nói, không tìm kiếm nó một cách ý thức, đời sống hay cái gì đó thình lình chỉ cho tôi là nó có thể.
KRISHNAMURTI: Nó ở đây! Đời sống đã không chỉ cho tôi. Tôi đã được chỉ ra, khi tôi nhìn ngọn núi kia, rằng có một hình ảnh trong tôi; khi tôi nhìn vợ tôi, tôi thấy rằng có một hình ảnh trong tôi. Đó là một sự kiện. Không phải tôi phải chờ đợi mười năm để tìm ra hình ảnh! Tôi biết nó ở đây, thế nên tôi nói: “Có thể nhìn mà không có hình ảnh?” Hình ảnh là cái trung tâm, là người quan sát, người tư tưởng và mọi thứ đại loại.
Needleman: Tôi đã bắt đầu thấy sự trả lời cho câu hỏi của tôi. Tôi bắt đầu thấy – tôi đang nói về chính mình – tôi bắt đầu thấy rằng không có sự khác biệt giữa chủ nghĩa nhân bản và những giáo lý thiêng liêng. Chỉ có chân lý hay không chân lý.
KRISHNAMURTI: Tất cả là vậy, sai giả và đúng thật.
Needleman: Quá đủ rồi. (Cười)
KRISHNAMURTI: Chúng ta đang hỏi: “Ý thức có thể nào tự trống không nội dung của nó?” Không ai khác làm điều này.
Needleman: Đó là vấn đề, vâng.
KRISHNAMURTI: Không ân sủng thiêng liêng, cái siêu ngã, tác nhân tưởng tượng bên ngoài nào đó. Ý thức có thể nào tự trống không mọi nội dung này? Trước tiên, hãy thấy cái đẹp của điều đó, thưa bạn.
Needleman: Tôi thấy.
KRISHNAMURTI: Bởi vì nó phải tự trống không mà không có một cố gắng nào. Khoảnh khắc có một cố gắng, bèn có người quan sát đang cố gắng thay đổi nội dung, đây chính là một phần của ý thức. Tôi không biết bạn có thấy vậy không?
Needleman: Tôi có theo dõi. Sự làm trống không này phải không cố gắng, tức thời.
KRISHNAMURTI: Phải không có một tác nhân thao tác nơi đó, dù tác nhân ở ngoài hay ở trong. Bây giờ điều đó có thể được làm mà không cố gắng, không lệnh lạc, không có “tôi sẽ thay đổi cái nội dung”, được không? Điều này có nghĩa là sự làm trống không ý thức của mọi ý muốn, “là” hay “không là”. Thưa bạn, hãy nhìn điều gì xảy ra.
Needleman: Tôi đang xem đây.
KRISHNAMURTI: Tôi đã đặt câu hỏi đó cho chính tôi. Không có ai đặt nó ra cho tôi. Bởi vì nó là một vấn nạn của đời sống, một vấn nạn của cuộc đời trong thế giới này. Nó là một vấn nạn mà tâm thức tôi phải giải quyết. Tâm thức, với tất cả nội dung của nó, có thể nào tự trống không nhưng vẫn là tâm thức – không chỉ lang thang, loanh quanh?
Needleman: Đó không phải là tự tử.
KRISHNAMURTI: Không.
Needleman: Có một loại vi tế…
KRISHNAMURTI: Không, thưa bạn, điều đó quá ấu trĩ. Tôi đã đặt câu hỏi. Sự trả lời của tôi là: Tôi thực sự không biết. Nhưng tôi tiếp tục tìm cho ra, mà không chờ đợi tìm ra. Nội dung của ý thức của tôi là sự bất hạnh của tôi, sự thống khổ, những chiến đấu, những đau buồn, những hình ảnh của tôi mà tôi đã tích tập, gom góp suốt đời, những thần linh, những lừa dối, những lạc thú, những sợ hãi, những hấp hối, những thù hận – đó là ý thức của tôi. Tất cả nó có thể hoàn toàn trống không chăng? Không chỉ ở cấp độ hời hợt bên ngoài mà xuyên suốt? – cái gọi là vô thức. Nếu không thể, thì tôi phải sống một đời thống khổ, tôi phải sống trong phiền muộn không dứt. Không có hy vọng, cũng không có thất vọng, tôi đang ở trong tù ngục. Thế nên tâm thức phải tìm cho ra làm sao tự trống không hết nội dung của nó, mà vẫn sống trong thế giới này, không trở nên một người khờ, mà có một bộ óc hoạt động hiệu quả. Bây giờ thế nào làm được điều đó? Nó khi nào có thể xảy ra? Hay không có sự trốn thoát cho con người?
Needleman: Tôi tiếp tục theo.
KRISHNAMURTI: Bởi vì tôi không thấy làm sao thoát khỏi cái đó tôi bèn sáng chế đủ loại thần linh, đền thờ, triết học, nghi thức – bạn hiểu chứ?
Needleman: Tôi hiểu.
KRISHNAMURTI: Đây là thiền định, thiền định thực sự, không phải là thứ đồ dởm. Thấy tâm thức – với bộ óc đã tiến hóa qua thời gian, là kết quả của muôn ngàn kinh nghiệm, bộ óc chỉ hoạt động hiệu quả trong an toàn đầy đủ – hoặc là tâm thức có thể tự trống không nhưng vẫn có một bộ óc làm việc như một bộ máy kỳ diệu. Cũng thế, nó thấy tình thương
không phải là lạc thú; tình thương không phải là ham muốn. Khi có tình thương thì không có hình ảnh; nhưng tôi không biết tình thương là gì. Tôi chỉ muốn tình thương như là lạc thú, dục tình và mọi thứ như vậy. Phải có một sự liên quan giữa sự tự trống không của ý thức và cái gọi là tình thương; giữa cái không biết và cái biết, cái này là nội dung của ý thức.
Needleman: Tôi đang theo ngài. Phải có mối liên quan này.
KRISHNAMURTI: Hai cái phải hòa hợp nhau. Sự làm trống không và tình thương phải hòa hợp nhau. Và chỉ có tình thương là cái cần thiết và không cái nào khác.
Needleman: Sự tự trống không này là từ ngữ khác của tình thương, có phải đó là điều ngài đang nói?
KRISHNAMURTI: Tôi chỉ đang hỏi tình thương là gì. Có phải tình thương ở trong mảnh đất của ý thức?
Needleman: Không, không thể.
KRISHNAMURTI: Chớ có quy định. Chớ bao giờ nói có hay không; hãy tìm ra! Tình thương mà ở trong nội dung của ý thức thì chỉ là lạc thú, tham vọng và mọi thứ đó. Bấy giờ tình thương là gì? Tôi thực sự không biết. Tôi sẽ không giả định nữa về bất cứ cái gì. Tôi không biết. Có yếu tố nào đó trong này mà tôi phải tìm ra. Có phải sự tự trống không của ý thức cùng với nội dung của nó là tình thương, cái này là cái không biết? Đâu là sự liên quan giữa cái không biết và cái đã biết? – không phải cái không biết huyền bí, Thượng Đế hay bất kỳ danh xưng nào bạn gán cho nó. Chúng ta sẽ đến Thượng Đế nếu chúng ta thông hiểu điều này. Sự liên quan giữa cái không biết, cái tôi không biết, cái có thể gọi là tình thương, và nội dung của ý thức, cái tôi biết, (nó có thể không được ý thức, nhưng tôi có thể phơi mở nó và tìm ra nó) – đâu là sự liên quan giữa cái biết và cái không biết? Chuyển động giữa cái biết và cái không biết là hòa hợp, hòa điệu, là thông minh, phải thế không?
Needleman: Chắc chắn như vậy.
KRISHNAMURTI: Thế nên tôi phải tìm ra, tâm thức phải tìm ra, làm sao trống không nội dung của nó. Đó là không có hình ảnh, bởi thế không có người quan sát. Hình ảnh là quá khứ, hay hình ảnh đang xảy ra bây giờ, hay hình ảnh tôi phóng chiếu vào tương lai. Thế nên không hình ảnh – không kế hoạch công thức, không ý niệm, lý tưởng, nguyên lý – mọi cái đó bao hàm hình ảnh. Có thể nào hoàn toàn không có sự tạo lập hình ảnh? Bạn làm tổn thương tôi hay bạn cho tôi lạc thú và vì vậy tôi có một hình ảnh về bạn. Thế thì không có tạo thành hình ảnh khi bạn làm tổn thương tôi hay đem lại lạc thú cho tôi.
Needleman: Có thể không?
KRISHNAMURTI: Dĩ nhiên là có thể. Nếu không thì tôi thất bại.
Needleman: Ngài thất bại. Nói cách khác tôi thất bại.
KRISHNAMURTI: Chúng ta thất bại. Có thể không khi bạn chê trách tôi mà tôi hoàn toàn tỉnh táo, chú tâm, đến độ không để lại dấu vết nào?
Needleman: Tôi hiểu điều ngài nói.
KRISHNAMURTI: Khi bạn tâng bốc tôi – không dấu vết. Bấy giờ không có hình ảnh. Thế thì tôi đã làm như vậy, tâm thức đã làm như vậy: nghĩa là chẳng có chút tạo thành hình ảnh nào. Nếu bạn không tạo ra hình ảnh nào bây giờ, những hình ảnh quá khứ bèn không có.
Needleman: Tôi không theo được. “Nếu tôi không tạo ra một hình nào bây giờ…“
KRISHNAMURTI: Những hình ảnh quá khứ không có. Nếu bạn tạo ra một hình ảnh, bạn bèn dính dáng với nó.
Needleman: Ngài bèn nối kết với những hình ảnh quá khứ. Điều đó đúng. KRISHNAMURTI: Nhưng nếu bạn không tạo thành cái gì cả?
Needleman: Bấy giờ ngài giải thoát khỏi quá khứ.
KRISHNAMURTI: Hãy thấy điều đó! Hãy thấy điều đó!
Needleman: Rất rõ ràng.
KRISHNAMURTI: Thế thì tâm thức có thể tự trống không những hình ảnh bằng cách bây giờ không tạo thành một hình ảnh. Nếu tôi tạo thành một hình ảnh bây giờ, tôi liền liên kết nó với những hình ảnh quá khứ. Thế nên ý thức, tâm thức, có thể tự trống không mọi hình ảnh bằng cách không tạo thành một hình ảnh ngay hiện tại. Bấy giờ có không gian, không phải không gian quanh một trung tâm. Và nếu người ta tìm tòi, đi sâu vào nó nhiều hơn, bấy giờ có cái gì thiêng liêng, không do tư tưởng sáng chế ra, nó không dính dáng đến tôn giáo nào.
Needleman: Cám ơn
MỸ
II
Ba Cuộc Nói Chuyện Ở Thành Phố New York
1
CUỘC CÁCH MẠNG BÊN TRONG
Cần thiết phải thay đổi. Một tiến trình trong thời gian hay tức thời? Ý thức và vô thức; những giấc mộng. Tiến trình phân tích. Thấy nội dung của ý thức mà không có sự tách biệt giữa người quan sát và cái được quan sát. Ồn ào và kháng cự. “Khi có sự dừng dứt hoàn toàn sự phân chia giữa người quan sát và cái được quan sát, bấy giờ ‘cái đang là’ không còn là cái đang là nữa.“ Những câu hỏi: Người quan sát và cái được quan sát; sự phân mảnh; kháng cự.
KRISHNAMURTI: Chúng ta sắp cùng nhau khảo sát vấn đề cái gì được che dấu trong ý thức, trong những tầng lớp sâu hơn của tâm thức – nó thường được gọi là vô thức. Chúng ta quan tâm đến việc làm cho xảy ra một cuộc cách mạng tận gốc rễ bên trong chính chúng ta và như vậy là trong xã hội. Sự cách mạng vật chất được cổ vũ trên khắp thế giới vào lúc này đã không đem lại một thay đổi nền tảng nơi con người.
Trong một xã hội bại hoại, như ở đây, ở châu Âu, Ấn Độ và các nơi khác, phải có những thay đổi nền tảng trong tận cơ cấu của xã hội. Và nếu con người vẫn bại hoại trong bản thân nó, trong hoạt động của nó, nó sẽ làm thất bại bất cứ cơ cấu nào, dù hoàn hảo ra sao; thế nên cấp bách, tuyệt đối thiết yếu là nó phải thay đổi.
Có phải sự thay đổi này xảy ra qua tiến trình thời gian, qua thành tựu dần dà, qua sự thay đổi theo từng thứ bậc? Hay sự thay đổi xảy ra chỉ trong khoảnh khắc? Đó là điều chúng ta sắp cùng nhau khảo sát.
Người ta thấy rằng cần phải có thay đổi trong chính mình – người ta càng nhạy cảm, càng cảnh giác và thông minh, người ta càng ý thức rằng phải có một sự thay đổi sâu xa, vĩnh viễn và sống thực. Nội dung của ý thức chính là ý thức – cả hai không tách biệt. Cái gì được gieo trồng trong ý thức tạo thành ý thức. Và làm xảy ra một thay đổi trong ý thức – cả trong chỗ rõ ràng và trong chỗ sâu kín – có dựa vào phân tích, vào thời gian, vào áp lực của môi trường? Hay là sự thay đổi xảy ra hoàn toàn độc lập với bất kỳ áp lực nào, bất kỳ cưỡng bách nào?
Các bạn biết đấy, câu hỏi này khó thâm nhập, bởi vì nó khá phức tạp và tôi hy vọng chúng ta sẽ có thể chia xẻ với nhau điều gì được nói ra ở đây. Trừ phi đi vào chủ đề này một cách rất thành khẩn, thực sự thấu hiểu rắc rối, với sự quan tâm sâu xa, với sự đam mê, e rằng người ta sẽ không thể đi rất xa; xa không phải theo nghĩa trong thời gian hay không gian, mà rất sâu xa trong chính mình. Người ta cần một đam mê lớn lao, năng lượng lớn lao và đa số chúng ta hao phí năng lượng trong xung đột. Và khi chúng ta khảo sát toàn bộ công việc của cuộc sống, chúng ta cần năng lượng. Năng lượng có mặt với khả năng thay đổi; nếu không có khả năng thay đổi, bấy giờ năng lượng hao tán mất.
Chúng ta nghĩ chúng ta không thể thay đổi. Chúng ta chấp nhận những sự việc như chúng vẫn vậy và do đó khá chán nản, thất vọng, bất định và mê rối. Có thể thay đổi một cách căn bản và đó là điều chúng ta khảo sát. Nếu bạn muốn – không phải theo dõi từng chữ diễn giả đang nói, mà dùng những lời của ông ta như một tấm gương để quan sát chính bạn và dò hỏi với đam mê, với quan tâm, với sức sống và một năng lượng lớn. Bấy giờ có lẽ
chúng ta có thể đến một điểm rõ ràng rằng không có bất kỳ nỗ lực nào, không có bất kỳ loại động lực nào, sự thay đổi căn bản cứ xảy ra.
Không chỉ có kiến thức bề mặt của chúng ta, mà cũng có nội dung sâu xa, dấu kín của ý thức chúng ta. Làm sao người ta khảo sát nó, làm thế nào người ta trưng bày toàn bộ nội dung của nó? Nó có được làm từng mảnh một, tiệm tiến dần dần? – hay nó được phơi bày toàn bộ và thấu hiểu tức thời, và nhờ vậy toàn bộ quá trình phân tích đến chỗ chấm dứt?
Bây giờ chúng ta đi vào vấn đề phân tích này. Với diễn giả, phân tích là phủ nhận hành động; hành động luôn luôn là trong hiện tại sống động. Hành động không có nghĩa là “đã làm” hay “sẽ làm”, mà đang làm. Phân tích ngăn cản hành động trong hiện tại, bởi vì trong phân tích có đưa vào thời gian, một sự bóc vỏ dần dần, từng lớp từng lớp. Và nếu sự phân tích không hoàn hảo, trọn vẹn, chân thật, bấy giờ sự phân tích ấy không trọn vẹn, phải để sót lại một kiến thức không toàn bộ. Và sự phân tích tiếp theo nảy sinh từ cái không trọn vẹn đó.
Nào, tôi khảo sát chính mình, phân tích chính mình và nếu sự phân tích của tôi không trọn vẹn, bấy giờ cái tôi đã phân tích trở thành kiến thức để chúng ta tiến hành phân tích lớp kế tiếp. Thế nên trong tiến trình ấy mỗi phân tích trở nên không trọn vẹn và dẫn đến xung đột tiếp tục, và như vậy đến không hành động. Và trong phân tích có người phân tích và cái được phân tích, dù cho người phân tích là người chuyên nghiệp, hay như các bạn, người thường; vẫn có sự nhị nguyên này, người phân tích phân tích điều gì nó nghĩ là khác với chính nó. Nhưng người phân tích, nó là ai? Nó là quá khứ, nó là kiến thức được tích tập về mọi thứ nó đã phân tích. Và với kiến thức ấy – nó là quá khứ – nó phân tích hiện tại.
Thế nên trong tiến trình này có xung đột, có sự chiến đấu để tuân thủ, hay để cưỡng bách cái nó phân tích. Cũng có toàn bộ cái tiến trình giấc mộng này. Tôi không biết bạn có tự mình đi vào tất cả cái này, hay bạn đọc những cuốn sách của người khác, việc này rất đáng tiếc; bởi vì bấy giờ bạn chỉ lập lại điều người khác đã nói, dù họ có nổi danh thế nào. Nhưng nếu bạn không đọc mọi cuốn sách ấy – như diễn giả đã không đọc – bấy giờ bạn phải tự
mình tìm tòi, lúc ấy nó trở nên hấp dẫn hơn nhiều, nguyên thủy hơn nhiều, trực tiếp và chân thật hơn nhiều.
Trong tiến trình phân tích có cái thế giới những giấc mộng này. Chúng ta chấp nhận những giấc mộng như là tất yếu, bởi vì những nhà chuyên môn nói, “Các bạn phải mộng, nếu không các bạn sẽ điên”, và có một ít chân lý nào trong đó. Chúng ta đang dò hỏi tất cả điều này bởi vì chúng ta đang cố gắng tìm ra có thể thay đổi một cách tận gốc hay không, khi có khá nhiều mê lầm, khá nhiều khốn khổ, nhiều hận thù và tàn bạo trong thế giới; không có lòng bi. Người ta phải dò hỏi vào tất cả điều này, nếu người ta nghiêm túc. Chúng ta đang dò hỏi không chỉ vì tiêu khiển trí thức mà cố gắng thực sự tìm ra có thể thay đổi chăng. Và khi chúng ta thấy sự có thể thay đổi, dù chúng ta là ai, dù nông cạn, dù bề ngoài, lập lại, bắt chước, nếu chúng ta thấy có khả năng thay đổi tận gốc, bấy giờ chúng ta có năng lượng để làm việc đó. Nếu chúng ta nói không thể đâu, thì năng lượng ấy tiêu tán.
Thế nên chúng ta tìm hiểu vấn đề này, phân tích có phát sanh một thay đổi căn bản nào không hay nó chỉ là một trò tiêu khiển trí thức, một tránh né hành động. Như chúng ta nói, phân tích là đi vào thế giới của những giấc mộng. Những giấc mộng là gì, chúng có như thế nào? Tôi không biết các bạn có bao giờ đi vào thế giới này chưa; nếu bạn có, bạn sẽ thấy rằng những giấc mộng là sự tiếp tục của đời sống ban ngày của chúng ta. Điều bạn làm ban ngày, tất cả sự phiền lụy, sự hư hỏng, sự thù hận, những lạc thú thoáng qua, tham vọng, tội lỗi và vân vân, mọi cái đó tiếp tục trong thế giới mộng, chỉ bằng những biểu tượng, những bức tranh, những hình ảnh. Những bức tranh và hình ảnh này cần phải được giải thích và tạo thành mọi thứ nhặng xị và không thực.
Người ta không bao giờ hỏi tại sao người ta lại mộng. Người ta chấp nhận những giấc mộng là thiết yếu, là phần của đời sống. Bây giờ chúng ta đang tự hỏi tại sao chúng ta đều nằm mộng. Có thể nào khi đi ngủ các bạn có một tâm thức hoàn toàn bình lặng không? Bởi vì chỉ trong trạng thái bình lặng ấy mà tâm thức tự làm mới lại, tự làm trống không mọi nội dung của nó, để nó được làm cho tươi mới, trẻ trung, rạch ròi, không mê lầm.
Nếu những giấc mộng là sự tiếp tục của đời sống ban ngày, của sự ồn ào, lo âu, ham muốn an toàn, bám luyến mỗi ngày, thì không tránh khỏi những giấc mộng trong hình thức biểu tượng của chúng phải xảy ra. Điều đó rõ ràng chứ? Thế nên người ta hỏi, “Tại sao người ta cần nằm mộng?” Những tế bào trí óc có thể được bình lặng, không tiếp tục mọi công việc ban ngày?
Người ta phải tìm ra điều đó bằng kinh nghiệm, không chấp nhận điều diễn giả nói – và chớ bao giờ làm điều đó vì thiện ý, vì chúng ta đang cùng nhau chia xẻ, cùng nhau tìm tòi. Bạn có thể xét thấy điều đó bằng cách trọn vẹn tỉnh thức suốt ngày, quan sát những tư tưởng của bạn, những động cơ, lời nói, cách bạn đi và nói. Khi bạn tỉnh thức như vậy, có sự gợi báo của vô thức, của những tầng lớp sâu hơn, bởi vì bấy giờ bạn đang phơi bày, mời mọc những động cơ, những lo lắng ẩn kín, nội dung của vô thức mở bày ra. Thế nên khi bạn đi ngủ, bạn sẽ thấy rằng tâm thức bạn, kể cả bộ óc, thì bình lặng tuyệt vời. Nó thực sự yên nghỉ, bởi vì bạn đã chấm dứt điều bạn đã làm trong ngày.
Nếu bạn kiểm kê những gì xảy ra trong ngày khi nằm xuống giường – bạn không làm như vậy sao? – nói rằng, “Tôi cần làm điều này, tôi không nên làm điều kia”, “Làm cách kia thì tốt hơn, tôi không muốn nói điều này”, khi bạn kiểm kê những sự việc trong ngày như vậy, lúc ấy bạn cố gắng đem lại trật tự trước khi ngủ. Và nếu bạn không tạo ra được trật tự trước khi ngủ, trí óc cố gắng làm điều đó khi bạn đang ngủ. Bởi vì trí óc chỉ vận hành hoàn hảo trong trật tự, không phải trong vô trật tự. Nó vận hành hiệu quả nhất khi có trật tự trọn vẹn, dù trật tự đó thì loạn thần hay có lý trí; bởi vì trong sự loạn thần, trong mất quân bình vẫn có trật tự, và trí óc chấp nhận trật tự ấy.
Thế nên, nếu bạn kiểm kê mọi sự đang xảy ra ban ngày trước khi đi ngủ, lúc đó bạn cố gắng đem lại trật tự, và bởi thế trí óc không phải đem lại trật tự khi bạn đang ngủ: bạn đã làm nó trong ngày rồi. Bạn có thể đem lại trật tự mỗi phút giây trong ngày, bạn tỉnh thức mọi sự đang xảy ra, bên ngoài và bên trong. Bên ngoài là tỉnh thức sự không trật tự nơi bạn, sự hung dữ, sự thản nhiên, sự nhẫn tâm, sự dơ bẩn, những cãi lộn, những nhà chính trị và thủ đoạn của họ – tất cả cái gì xảy ra. Và tương quan với chồng bạn, vợ bạn, con cái bạn và bạn bè của chúng, tỉnh thức với tất cả suốt ngày, không sửa chữa nó, chỉ tỉnh biết nó. Giây
phút bạn cố gắng sửa chữa nó, bạn đem lại sự không trật tự. Nhưng nếu bạn chỉ thực sự quan sát cái đang hiện tiền, thì bấy giờ, cái đang hiện tiền là trật tự.
Chỉ khi nào bạn cố gắng thay đổi “cái hiện tiền” (cái đang là) bèn có sự không trật tự; bởi vì bạn muốn thay đổi theo kiến thức bạn đã thu lượm được. Kiến thức ấy là quá khứ và bạn đang cố gắng thay đổi “cái đang là” – nó không phải là quá khứ – theo cái bạn đã học được. Bởi thế có một mâu thuẫn, bởi thế có một méo mó, bởi thế có vô trật tự.
Thế nên suốt ngày, nếu bạn tỉnh thức về những đường lối của những tư tưởng của bạn, những động cơ bạn, sự đạo đức giả, sự nói bóng gió – làm một đàng, nói một nẻo, nghĩ một nẻo – cái mặt nạ bạn đeo lên, những biến thể của lừa gạt mà người ta có sẵn trong tay, nếu bạn ý thức tất cả cái đó suốt ngày, bạn không phải kiểm kê gì khi bạn đi ngủ, bạn đem lại trật tự trong mỗi phút. Thế thì khi bạn đi ngủ bạn sẽ thấy rằng những tế bào óc của bạn, vốn đã ghi nhớ và bám giữ quá khứ, sẽ hoàn toàn trở nên bình lặng, và bấy giờ giấc ngủ của bạn trở nên cái gì hoàn toàn khác. Khi chúng ta dùng danh từ “tâm”, chúng ta gồm trong đó cả bộ óc, toàn bộ cơ cấu thần kinh, những cảm tình, tất cả cấu trúc con người; chúng ta muốn nói đến tất cả cái đó, chứ không phải riêng cái gì. Trong đó bao hàm trí năng, trái tim, toàn bộ cơ cấu thần kinh. Bấy giờ khi bạn đi ngủ, tiến trình hoàn toàn chấm dứt, và khi thức dậy bạn thấy sự vật đúng như chúng là, không phải sự diễn giải của bạn về chúng hay ý muốn thay đổi chúng.
Thế nên đối với diễn giả, phân tích ngăn cản hành động. Và hành động thì tuyệt đối cần thiết để đem lại sự thay đổi căn bản này. Phân tích như vậy đâu phải là lối thoát. Xin chớ chấp nhận điều diễn giả nói, mà phải tự mình quan sát nó, học nó, không phải từ tôi, mà học bằng cách xem thấy những hàm ý này của phân tích: thời gian, người phân tích và cái được phân tích – người phân tích chính là cái được phân tích – và mỗi phân tích phải trọn vẹn, nếu không nó làm méo mó sự phân tích tiếp theo. Do đó thấy rằng toàn thể tiến trình phân tích, dù là phân tích nội quan hay trí thức, đều hoàn toàn sai lầm! Nó không phải là lối thoát – nó có thể cần thiết cho những người ít nhiều mất quân bình; và có lẽ hầu hết chúng ta đều mất quân bình.
Chúng ta phải tìm ra một cách thức quan sát toàn bộ nội dung của ý thức mà không có người phân tích. Thật rất thú vị nếu bạn đi vào việc này, bởi vì bấy giờ bạn từ bỏ hoàn toàn mọi sự người ta đã nói. Bởi vì bấy giờ bạn đứng một mình; khi bạn tự tìm ra, đó sẽ là đích thực, chân thật, không nương dựa vào giáo sư nào, phân tích gia nào hay bất kỳ cái gì đại loại.
Thế nên người ta phải tìm ra một cách thức quan sát mà không có phân tích. Tôi đang thâm nhập vào đó – tôi hy vọng các bạn không bị quấy rầy vì việc làm của tôi, phải không? Đây không phải là trị liệu tập thể! (Cười) Đây không phải là một buổi thú tội công khai, không phải diễn giả phân tích bạn, hay làm cho các bạn thay đổi và trở thành những người kỳ diệu! Bạn phải tự mình làm việc này, và vì phần đông chúng ta là những người rất bình thường, rất khó mà loại bỏ hoàn toàn những gì các nhà chuyên nghiệp hoặc tôn giáo hoặc khoa học đã áp đặt lên các bạn. Chúng ta phải tự mình tìm ra.
Nếu phân tích không phải là lối thoát, bấy giờ người ta khảo sát hay quan sát toàn bộ nội dung của ý thức như thế nào? Cái gì là nội dung của ý thức? Xin chớ lập lại điều gì người khác đã từng nói. Cái gì là toàn bộ nội dung ý thức của bạn? Bạn có bao giờ nhìn vào nó, xem
xét nó? Nếu bạn có, nó có phải là những sự kiện khác nhau được ghi lại, đáng ưa hay không ưa, những niềm tin, truyền thống khác nhau, những ghi nhớ và những kỷ niệm khác nhau, những trí nhớ giống nòi và gia đình, văn hóa trong đó người ta đã được nuôi đưỡng – tất cả đó là nội dung, có phải thế không? Và những sự kiện xảy ra hàng ngày, những kỷ niệm, những khổ đau đủ loại, sự bất hạnh, những xúc phạm, tất cả đều được ghi giữ. Và nội dung ấy là ý thức của bạn – bạn, như là một người Công giáo, hay Tin lành, sống trong thế giới phương Tây này với sự tìm kiếm nhiều hơn, nhiều hơn và nhiều hơn nữa, thế giới của lạc thú lớn lao, giải trí, thịnh vượng, ồn ào không ngừng của truyền hình, sự tàn bạo – tất cả cái đó là bạn, đó là nội dung của bạn.
Làm sao phơi bày mọi cái đó ra? – và trong sự phơi bày nó, mỗi sự kiện, mỗi biến cố, mỗi truyền thống, mỗi vết thương, mỗi đau đớn được khảo sát từng cái một chăng? Hay nó được nhìn một cách toàn thể? Nếu nó được khảo sát từng phần nhỏ, từng cái một, bạn sẽ đi vào trong thế giới của phân tích – và trả nhiều tiền cho những người phân tích hộ, nếu đó là lạc thú của bạn.
Bây giờ chúng ta đang tìm ra làm thế nào nhìn vào những mảnh mún khác nhau này, chúng là nội dung của ý thức, một cách toàn bộ – không phân tích gì cả. Chúng ta đang tìm ra làm thế nào quan sát mà không có sự phân tích nào. Thế nghĩa là, chúng ta nhìn mọi sự – cái cây, đám mây, người vợ và người chồng, con trai và con gái – với tư cách người quan sát và cái được quan sát. Xin hãy chú ý một chút vào sự kiện này. Bạn đã quan sát sự giận dữ
của bạn, sự tham lam hay ghen ghét của bạn, bất cứ cái gì, với tư cách là người quan sát nhìn sự tham lam. Người quan sát là tham lam, nhưng bạn đã tách lìa người quan sát bởi vì tâm thức bạn bị tiến trình phân tích quy định; bởi thế bạn luôn luôn nhìn cái cây, đám mây, mọi sự trong đời sống như là một người quan sát và vật được quan sát. Bạn có nhận ra điều đó chứ? Bạn nhìn vợ bạn qua hình ảnh bạn có về cô ta; hình ảnh ấy là người quan sát, nó là quá khứ, hình ảnh ấy đã được xây dựng qua thời gian. Và người quan sát là thời gian, là quá khứ, là kiến thức được tích tập của những sự kiện, biến cố, kinh nghiệm… khác nhau. Người quan sát này là quá khứ, và nó nhìn sự vật được quan sát như thể nó không phải là cái kia mà tách biệt với cái kia.
Bây giờ bạn có thể nhìn mà không có người quan sát? Bạn có thể nhìn cái cây mà không có quá khứ như người quan sát? Nghĩa là, khi có người quan sát, bèn có không gian giữa người quan sát và cái được quan sát – cái cây. Không gian ấy là thời gian, bởi vì có một khoảng cách. Thời gian này là tính chất của người quan sát, hắn chính là quá khứ, hắn là kiến thức được tích tập, hắn nói, “Đây là cái cây”, hay “Đây là hình ảnh của vợ tôi”.
Bạn có thể nhìn, không chỉ cái cây nhưng cả vợ bạn, chồng bạn, mà không có hình ảnh? Bạn biết đấy, điều này đòi hỏi kỷ luật ghê gớm. Tôi đang chỉ cho bạn điều gì đó: kỷ luật thường hàm ý tuân theo, thường xuyên rèn luyện, bắt chước, xung đột giữa cái đang là và cái nên là. Và thế nên trong kỷ luật có xung đột: đè nén, chiến thắng, sự tập luyện ý chí v.v… – mọi thứ bao hàm trong từ này. Nhưng từ ngữ đó có nghĩa là học – không tuân thủ, không đè nén mà là học. Và tính chất của tâm thức học thì có trật tự riêng của nó, cái này là kỷ luật. Chúng ta đang học quan sát thế nào mà không có người quan sát, không có quá khứ, không có hình ảnh. Khi bạn quan sát như vậy, “cái đang là” hiện thực, là một vật sống, không phải là một vật gì được thấy như là chết, được nhận biết bởi biến cố quá khứ, bởi kiến thức quá khứ.
Nào, thưa các bạn, chúng ta hãy làm cho đơn giản hơn. Bạn nói điều gì làm tổn thương tôi, và sự đau đớn của thương tổn đó được ghi lại. Trí nhớ về việc đó cứ tiếp tục và khi có đau đớn nữa, nó lại ghi nhớ tiếp. Thế nên sự tổn thương càng nặng thêm từ thời thơ ấu. Trong khi đó nếu tôi quan sát trọn vẹn, khi bạn nói điều gì đau đớn cho tôi, lúc ấy nó không được ghi lại như một tổn thương. Còn lúc bạn ghi lại nó như một tổn thương, sự ghi này lại tiếp tục và hết cả cuộc đời còn lại của mình bạn bị tổn thương, bởi vì bạn tiếp tục thêm vào sự tổn thương đó. Trong khi đó, quan sát sự đau đớn một cách trọn vẹn mà không ghi lại nó, tức là chú ý toàn bộ vào giây phút đau đớn. Các bạn có làm như vậy không?
Nào, khi bạn đi ra ngoài, khi bạn đi bộ trong những con đường này, có đủ loại tiếng ồn, đủ loại tiếng kêu, lời nói thô tục, hung bạo, sự ồn ào này rót vào. Nó rất hủy hoại – càng nhạy cảm bạn càng thấy nó hủy hoại, nó làm tổn thương cơ cấu của bạn. Bạn chống cự lại sự tổn thương này và do đó bạn xây dựng một bức tường. Và khi bạn xây lên một bức tường thì bạn tự cô lập chính mình. Thế nên bạn làm mạnh thêm sự cô lập, do đó bạn sẽ bị thương tổn thêm. Trong khi nếu bạn quan sát sự ồn ào đó, chú ý vào sự ồn ào đó, bấy giờ bạn sẽ
thấy rằng cơ cấu bạn không hề bị tổn thương.
Nếu bạn hiểu nguyên lý căn bản này, bạn sẽ hiểu cái gì rộng lớn bao la: nơi nào có một người quan sát tự tách lìa với sự vật nó quan sát, nơi đó phải có xung đột. Hãy làm điều bạn muốn, nhưng chừng nào có một phân chia giữa người quan sát và cái được quan sát, bấy giờ phải có xung đột. Chừng nào có sự phân chia giữa người Hồi giáo và Ấn giáo, giữa người Công giáo và người Tin lành, giữa người da Trắng và Đen, bấy giờ có xung đột; bạn có thể khoan dung lẫn nhau, nhưng đó chỉ là một che đậy trí thức sự không khoan dung bên trong.
Bao giờ có sự phân chia giữa bạn và vợ bạn, bấy giờ phải có xung đột. Sự phân chia này hiện hữu một cách nền tảng, căn bản, chừng nào có người quan sát tách lìa với cái được quan sát. Chừng nào tôi còn nói, “Tức giận khác với tôi, tôi phải kiểm soát tức giận, tôi phải thay đổi, tôi phải kiểm soát những tư tưởng của tôi”, trong đó có sự phân chia, bởi thế có xung đột. Xung đột bao hàm đè nén, tuân thủ, bắt chước và mọi cái gồm trong đó. Nếu bạn thực sự thấy cái đẹp của sự thật này, người quan sát là cái được quan sát, hai cái không tách lìa, bấy giờ bạn có thể quan sát toàn thể ý thức mà không có phân tích. Bấy giờ bạn thấy toàn bộ nội dung ý thức một cách tức thời.
Người quan sát là người tư tưởng. Chúng ta đã gán cho người tư tưởng một sự quan trọng kinh khủng, phải thế không? Chúng ta sống bằng tư tưởng, chúng ta làm việc này việc nọ bằng tư tưởng, hành động của chúng ta được phát động bằng tư tưởng. Và tư tưởng được tôn thờ khắp thế giới như là cái quan trọng phi thường nhất, nó là phần của trí năng.
Và tư tưởng đã tự tách lìa như là người tư tưởng. Người tư tưởng nói, “Những tư tưởng này không tốt”, “Những tư tưởng này tốt hơn”, nó nói, “Lý tưởng này tốt hơn lý tưởng kia”, “Đức tin này tốt hơn đức tin kia”. Đó đều là sản phẩm của tư tưởng – tư tưởng tự làm tách biệt, tự chia ra thành người tư tưởng, người kinh nghiệm. Tư tưởng đã tự tách biệt làm cái tự ngã cao hơn và tự ngã thấp hơn – ở Ấn Độ nó được gọi là atman, tự ngã cao hơn. Ở đây bạn gọi nó là linh hồn, hay cái gì đại loại. Nhưng đó vẫn là sự thao diễn của tư tưởng. Điều đó rõ ràng, phải thế không? Tôi muốn nói điều đó là hợp lý, không phải là phi lý.
Bây giờ tôi chỉ cho các bạn sự phi lý của nó. Tất cả mọi cuốn sách của chúng ta, tất cả văn học của chúng ta, mọi cái là tư tưởng. Và tương quan của chúng ta được đặt nền trên tư
tưởng – hãy nghĩ đến điều này! Vợ tôi là hình ảnh tôi đã tạo ra bằng cách tư tưởng. Việc tư tưởng này đã được lắp ghép bởi sự lầm bầm dai dẳng, bởi mọi thứ tiếp diễn giữa chồng và vợ – lạc thú, tình dục, những tức giận, những loại bỏ, mọi bản năng tách biệt. Tư tưởng của chúng ta là kết quả của mối tương quan của chúng ta. Bây giờ tư tưởng là gì? Bạn được hỏi, “Tư tưởng là gì?” Xin chớ lập lại của ai khác – hãy tự bạn tìm ra. Chắc chắn tư tưởng là phản ứng của trí nhớ, phải không? – trí nhớ như là kiến thức, trí nhớ như là kinh nghiệm được tích tập, gom chứa trong các tế bào óc. Thế nên những tế bào óc chính là những tế bào của trí nhớ. Nhưng nếu không nghĩ gì cả, bạn ở trong trạng thái mất trí nhớ, bạn không thể về nhà.
Tư tưởng là phản ứng của trí nhớ được tích tập thành kiến thức, kinh nghiệm. Thế thì tư tưởng là phản ứng trả lời của quá khứ, nó có thể phóng chiếu chính nó vào tương lai, đi xuyên qua hiện tại, biến đổi nó như là tương lai. Nhưng nó vẫn là quá khứ. Thế nên tư tưởng không bao giờ tự do – làm sao nó có thể tự do? Nó có thể tưởng tượng tự do là cái gì, nó có thể lý tưởng hóa tự do là cái gì đó, tạo ra một điều không tưởng về tự do. Nhưng tư tưởng tự thân nó và trong chính nó, là thuộc về quá khứ và bởi thế nó không tự do, nó luôn luôn cũ. Đây không phải là việc bạn đồng ý với diễn giả, đây là một sự kiện. Tư tưởng tổ chức cuộc sống chúng ta, nó đặt nền trên quá khứ. Tư tưởng ấy dựa trên quá khứ, phóng chiếu ra cái ngày mai và thế là có xung đột.
Từ đó khởi lên một vấn đề, đó là với phần đông chúng ta, tư tưởng được gán cho một lượng lớn lạc thú. Lạc thú là một nguyên lý dẫn đường trong đời sống chúng ta. Chúng ta không nói rằng nó sai hay đúng, chúng ta khảo sát nó. Lạc thú là cái chúng ta thích nhất. Ở đây trong thế giới này và trong thế giới tâm linh, trong thiên đường nếu bạn có một thiên đường – chúng ta muốn lạc thú trong mọi hình thức. Và lạc thú của bất kỳ biến cố nào, được ghi lại và nghĩ lại. Thế thì tư tưởng như là lạc thú giữ phần lớn lao trong đời sống chúng ta. Cái gì xảy ra hôm qua là một việc đáng yêu, một biến cố rất vui vẻ, thì được ghi lại; tư tưởng tìm đến nó, nghiền ngẫm nó, suy nghĩ mãi về nó và muốn nó lập lại vào ngày mai. Thế nên tư tưởng đem lại sức sống cho một biến cố đã chấm dứt rồi.
Tiến trình đích thực của ghi lại là kiến thức, nó là quá khứ, và tư tưởng là quá khứ. Thế nên, tư tưởng, như là lạc thú, được giữ gìn. Nếu bạn đã nhận ra, lạc thú luôn luôn là ở trong quá khứ; hay lạc thú được tưởng tượng của ngày mai thì vẫn là sự nhớ lại từ quá khứ được phóng chiếu vào tương lai.
Bạn cũng có thể quan sát rằng nơi nào có lạc thú và sự theo đuổi lạc thú, nơi đó cũng có sự nuôi dưỡng sợ hãi. Bạn có nhận ra điều đó không? Sợ hãi điều tôi đã làm hôm qua, sợ hãi sự đau đớn tôi đã có tuần trước; suy nghĩ về nó làm duy trì sự sợ hãi. Không có sự chấm dứt cho nỗi đau ấy khi nó đã chấm dứt. Nó đã chấm dứt, nhưng tôi cứ tiếp tục mang nó bằng cách suy nghĩ về nó.
Thế nên tư tưởng duy trì và nuôi dưỡng cho lạc thú cũng như cho sợ hãi. Tư tưởng chịu trách nhiệm về việc này. Có sợ hãi về hiện tại, về tương lai, sợ hãi về cái chết, về cái không biết, sợ hãi không hoàn thành, sợ không được thương yêu – có quá nhiều sợ hãi, tất cả đều được tạo ra bởi bộ máy của tư tưởng. Thế nên có sự hợp lý của tư tưởng và sự vô lý của tư tưởng.
Phải có sự tập dợt của tư tưởng trong khi làm việc. Về phương diện kỹ thuật, ở sở làm, khi bạn nấu nướng, khi bạn rửa chén – kiến thức phải vận hành hoàn hảo. Có sự hợp lý, lô gic của tư tưởng trong hành động, trong việc làm. Nhưng cũng có tư tưởng hoàn toàn vô lý khi nó duy trì lạc thú hay sợ hãi. Nhưng tư tưởng nói, “Tôi không thể để cho lạc thú qua mất”; nhưng tư tưởng cũng biết, nếu nó hoàn toàn nhạy cảm hay tỉnh thức, rằng có khổ đau đến cùng với lạc thú.
Thế nên hãy tỉnh giác toàn bộ cơ chế máy móc của tư tưởng, chuyển động vi tế và rắc rối của tư tưởng! Điều này quả thật không hoàn toàn khó khăn khi bạn nói, “Tôi phải tìm ra cách sống hoàn toàn khác, một lối sống không có xung đột.” Nếu đó là đòi hỏi đích thực, kiên quyết và đam mê của bạn – như khi bạn đòi hỏi lạc thú – để sống một đời sống cả bên ngoài lẫn bên trong đều không có xung đột nào cả – bấy giờ bạn sẽ thấy sự có thể của nó. Bởi vì, như chúng ta đã giải thích, xung đột chỉ hiện hữu khi có sự phân chia giữa “tôi” và ”không phải tôi”. Thế thì nếu bạn thấy rằng, không phải bằng lời nói hay bằng trí thức – bởi vì đó không phải là trực tiếp thấy – mà khi bạn thực sự chứng nghiệm rằng không có sự phân chia giữa người quan sát và cái được quan sát, giữa người tư tưởng và tư tưởng, bấy giờ bạn thấy, bấy giờ bạn quan sát thực sự “cái đang là, cái hiện tiền”. Và khi bạn thực sự thấy ”cái đang là”, bạn đã vượt khỏi nó. Bạn không ở lại với ”cái đang là”. Bạn hiểu chứ? Thế nên khi có sự chấm dứt phân chia giữa người quan sát và cái được quan sát, bấy giờ “cái đang là” không còn là cái đang là nữa. Tâm thức đã vượt khỏi nó.
Người hỏi: Làm sao tôi có thể thay đổi sự đồng hóa của người quan sát với cái được quan sát? Tôi chỉ có thể đồng ý với ngài và nói, “Đúng, điều đó đúng”, nhưng chẳng có thể làm gì được cả.
KRISHNAMURTI: Hoàn toàn đúng. Thưa ông, không có sự đồng hóa nào cả. Khi ông tự đồng hóa với cái được quan sát, đó vẫn còn là khuôn khổ của tư tưởng, phải không?
Người hỏi: Chính xác, nhưng làm sao tôi ra khỏi nó?
KRISHNAMURTI: Ông không ra khỏi nó, tôi sẽ chỉ cho ông. Ông có thấy chân lý người quan sát là cái được quan sát không? – sự kiện đó, lô gic đó. Ông có thấy nó không? Hay không thấy?
Người hỏi: Nó vẫn chỉ là một bình giải sanh ra; chân lý không hiệu hữu. KRISHNAMURTI: Sự kiện không hiện hữu?
Người hỏi: Không, một bình giải được chấp nhận sanh ra.
KRISHNAMURTI: Nhưng ông thấy sự kiện đó chứ? Đừng chấp nhận hay không chấp nhận, đây là một sự việc rất nghiêm túc; tôi muốn nói về thiền định, nhưng không phải bây giờ, và thiền định bao gồm trong này. Thưa ông, hãy thấy sự quan trọng của điều này. Chân lý là “tôi là tức giận” – không phải ”tôi” là khác với tức giận. Khi tôi ghen tỵ, tôi là ghen tỵ; không phải “tôi” khác với ghen tỵ. Tôi làm cho tôi khác với ghen tỵ bởi vì tôi muốn làm cái gì về nó, duy trì nó hay thoát khỏi nó hay hợp lý hóa nó, bất kể là cái gì. Nhưng sự kiện là, cái “tôi” là ghen tỵ, phải không?
Bây giờ tôi hành động thế nào khi tôi là ghen tỵ, khi cái “tôi” là ghen tỵ. Trước kia tôi nghĩ “tôi” có thể hành động khi tôi tự tách mình khỏi ghen tỵ, tôi nghĩ tôi có thể làm cái gì đó về nó, đè nén nó, hợp lý hóa nó, hay chạy khỏi nó – làm nhiều việc khác nhau. Tôi nghĩ tôi
làm điều gì. Ở đây, tôi cảm thấy tôi không làm gì cả. Nghĩa là, khi tôi nói, “Tôi là ghen tỵ”, tôi cảm thấy tôi không thể chuyển động gì được. Có đúng không, thưa ông?
Hãy nhìn vào hai cách hoạt động khác nhau, hành động xảy ra khi bạn khác với ghen tỵ, nó là sự không chấm dứt của ghen tỵ. Bạn có thể chạy trốn nó, bạn có thể đè nén nó, bạn có thể thăng hoa nó, bạn có thể trốn tránh, nhưng nó sẽ trở lại, nó sẽ luôn luôn ở đó, bởi vì có sự phân chia giữa bạn và ghen tỵ. Bây giờ có một loại hành động hoàn toàn khác khi không có phân chia, bởi vì trong đó người quan sát là cái được quan sát, anh ta không thể làm gì với nó. Trước đó, anh ta có thể làm điều gì về nó, bây giờ anh cảm thấy anh bất lực, anh bị thất bại, anh không thể làm gì cả. Nếu người quan sát là cái được quan sát, bấy giờ không nói được, “Tôi có thể hay tôi không thể làm điều gì về nó” – anh ta là cái anh ta là. Anh ta là ghen tỵ. Bây giờ, khi anh ta là ghen tỵ, cái gì xảy ra? Hãy tiếp tục, thưa bạn!
Người hỏi: Anh ta hiểu…
KRISHNAMURTI: Hãy nhìn thẳng vào đó. Khi tôi nghĩ tôi khác với sự ghen tỵ, bấy giờ tôi cảm thấy tôi có thể làm điều gì về nó và trong việc làm đó có xung đột. Ở đây ngược lại, khi tôi thể nghiệm chân lý của sự việc, rằng tôi là ghen tỵ, rằng “tôi”, người quan sát, là cái được quan sát, bấy giờ cái gì xảy ra?
Người hỏi: Không có xung đột.
KRISHNAMURTI: Yếu tố xung đột chấm dứt. Ở kia xung đột hiện hữu, ở đây xung đột không hiện hữu. Thế thì xung đột là ghen tỵ. Bạn hiểu chứ? Bèn có hành động trọn vẹn, một hành động trong đó không có chút nỗ lực nào, bởi thế nó trọn vẹn, toàn thể, nó sẽ không bao giờ trở lui.
NEW YORK CITY
18 tháng Tư 1971
2
TƯƠNG QUAN
Tương quan. “Bạn là thế giới.“ Cái ngã tách biệt; bại hoại. Thấy cái thực sự “đang là”. Cái không phải là tình thương. “Chúng ta không có đam mê; chúng ta có tham dục, chúng ta có lạc thú.“ Hiểu cái chết là gì. Tình thương là sự vĩnh cửu của chính nó.
KRISHNAMURTI: Tôi muốn nói về tương quan, về tình thương là gì, về đời sống con người bao gồm cuộc sống hàng ngày, những vấn nạn, những xung đột, những lạc thú và những sợ hãi, và cái phi thường nhất mà người ta gọi là cái chết.
Tôi nghĩ người ta cần hiểu, không phải như một lý thuyết, không phải như một quan niệm suy luận, tiêu khiển, mà đúng ra như một sự kiện thực tế – rằng chúng ta là thế giới và thế giới là chúng ta. Thế giới là mỗi chúng ta; cảm nhận điều đó, thực sự gắn liền với nó và không có gì khác, đem đến một cảm giác trách nhiệm lớn lao và một hành động không phải là manh mún, mà toàn thể.
Tôi nghĩ chúng ta dễ quên rằng xã hội chúng ta, văn hóa trong đó chúng ta đang sống, là kết quả của nỗ lực, xung đột, khốn khổ và khổ đau của con người. Mỗi người chúng ta là văn hóa ấy; cộng đồng là mỗi một chúng ta – chúng ta không tách lìa nó. Cảm nhận điều này, không phải là một ý niệm hay quan niệm trí thức, mà thực sự cảm nhận thực tại của nó, người ta phải đi vào câu hỏi cái gì là tương quan; bởi vì đời sống chúng ta, hiện hữu chúng ta, đặt nền trên tương quan. Đời sống là một chuyển động trong tương quan. Nếu chúng ta không hiểu điều gì hàm ý trong tương quan, chúng ta không tránh khỏi chỉ tự cô lập mình, mà còn tạo một xã hội trong đó những con người bị phân chia, không chỉ là về quốc tịch, tôn giáo, mà còn trong chính họ và do đó họ phóng chiếu cái họ là thành thế giới bên ngoài.
Tôi không biết các bạn có tự mình đi vào câu hỏi này sâu xa không, để tìm ra người ta có thể sống với người khác trong một hòa hợp toàn diện, trong hòa điệu trọn vẹn, để không còn hàng rào, phân biệt, mà là một cảm nhận về nhất thể trọn vẹn. Bởi vì tương quan là liên hệ với – không phải trong hành động, trong dự tính nào đó, trong một ý thức hệ – mà là hợp nhất toàn bộ theo nghĩa sự phân chia, phân mảnh giữa những cá nhân, giữa hai con người, hoàn toàn không có dù ở bất kỳ cấp độ nào.
Trừ phi người ta tìm thấy mối liên hệ này, tôi thấy có vẻ khi chúng ta cố gắng đem lại trật tự trong thế giới, một cách lý thuyết hay kỹ thuật, chúng ta bị bó buộc không chỉ tạo ra sự phân chia sâu xa giữa người với người, mà chúng ta cũng sẽ không thể ngăn chặn sự hư hỏng, bại hoại. Bại hoại bắt đầu trong sự mất tương quan; tôi nghĩ đó là gốc rễ của bại hoại. Tương quan như chúng ta hiểu bây giờ là sự tiếp tục của phân chia giữa những cá nhân. Nghĩa gốc của từ cá nhân là “không thể phân chia”. Một con người trong bản thân nó không có phân chia, không phân thành mảnh, thực sự là một cá nhân. Nhưng hầu hết chúng ta không phải là cá nhân; vậy mà chúng ta lại nghĩ như vậy, và bởi thế có sự đối nghịch của cá nhân với cộng đồng. Người ta cần hiểu không chỉ ý nghĩa của từ cá tính theo tự điển, mà trong nghĩa sâu xa này, trong đó không có chút gì là phân thành phần mảnh. Nó có nghĩa là hòa điệu hoàn hảo giữa tâm trí, trái tim và thân thể. Chỉ bấy giờ một cá tính mới hiện hữu.
Nếu chúng ta khảo sát mối tương giao hiện thời của chúng ta một cách chặt chẽ, dù nó là thân thiết hay cạn cợt, sâu xa hay thoáng qua, chúng ta thấy nó manh mún, phần mảnh. Vợ hay chồng, trai hay gái, mỗi người sống trong tham vọng riêng của mình, trong những theo đuổi cá nhân và ích kỷ, trong cái tổ kén của mình. Tất cả những cái này góp phần đem lại một hình ảnh trong bản thân người đó và bởi thế mối tương quan của nó với người khác phải qua hình ảnh ấy, thế nên không có tương quan thật sự.
Tôi không biết các bạn có ý thức cơ cấu và bản chất của hình ảnh này mà người ta đã tạo dựng quanh chính nó và trong chính nó hay không. Mỗi người làm điều này vào mọi lúc, và làm sao có thể có một tương quan với người khác, nếu mỗi chúng ta theo đuổi thành tựu của cá nhân mình, thành công của cá nhân mình?
Tôi không biết người ta có ý thức chút gì về điều này không. Chúng ta đã quá bị quy định, bị điều kiện hóa đến độ chúng ta chấp nhận nó là tiêu chuẩn, chuẩn mực của đời sống, đến độ mỗi người phải theo đuổi phong cách hay khuynh hướng của riêng mình, và lại cố gắng thiết lập một mối tương quan với người khác. Đó có phải là điều tất cả chúng ta đang làm? Bất cứ điều gì bạn làm trong suốt ngày, bạn theo đuổi chuyện đó. Và vợ bạn trong nhà của cô ta, với những phiền não của riêng cô, với những phù phiếm của riêng cô, với mọi thứ
xảy ra. Đâu là sự liên hệ giữa hai con người? Trong giường ư? Trong tình dục ư? Một tương quan quá cạn cợt, quá giới hạn, quá bao bọc không phải là bại hoại tự chính nó sao?
Người ta có thể hỏi: Vậy thì anh phải sống như thế nào, nếu anh không đến công sở, theo đuổi tham vọng của riêng mình, tham muốn thành tựu và sở đắc của riêng mình? Tôi nghĩ đó là một câu hỏi hoàn toàn sai lầm, có phải không? Bởi vì chúng ta quan tâm đến việc đem lại một thay đổi căn bản trong toàn thể cơ cấu của tâm thức. Sự khủng hoảng không phải ở trong thế giới bên ngoài, mà chính trong ý thức. Và cho đến khi nào chúng ta hiểu sự khủng hoảng này, không phải ở bề mặt, không phải theo triết gia nào đó, mà tự mình hiểu thực sự
sâu xa bằng cách nhìn thẳng vào nó và khảo sát nó, còn không chúng ta sẽ không thể có một thay đổi. Chúng ta quan tâm đến một cuộc cách mạng tâm lý và cuộc cách mạng này chỉ có thể xảy ra khi có loại tương quan đúng đắn giữa những con người.
Làm sao một tương quan như vậy xảy ra? Vấn đề thì rõ ràng, phải thế không? Xin hãy chia xẻ vấn đề này với tôi, các bạn sẵn sàng chứ? Nó là vấn đề của bạn, không phải vấn đề của tôi; nó là cuộc đời của bạn, không phải cuộc đời của tôi, nó là phiền muộn của bạn, rắc rối, lo âu, lỗi lầm của bạn. Trận chiến này là đời con người. Nếu bạn chỉ nghe một diễn tả, bạn sẽ thấy rằng bạn chỉ bơi trên bề mặt và không giải quyết được vấn đề gì. Nó thực sự là vấn đề của bạn, và diễn giả chỉ diễn tả nó – biết rằng sự diễn tả này không phải là cái được diễn tả. Chúng ta hãy chia xẻ với nhau vấn đề này: làm sao con người, bạn và tôi, có thể tìm thấy một tương quan chân chính trong mọi cái ồn ào, thù hận, hủy hoại, ô nhiễm này, và giữa những điều kinh khủng đang diễn ra trong thế giới?
Với tôi hình như để tìm ra người ta phải khảo sát cái đang xảy ra, thấy cái thực sự “đang là”. Không phải cái chúng ta nghĩ nó nên là, hay biến đổi mối tương quan giữa chúng ta thành một quan niệm tương lai, mà thực sự quan sát cái bây giờ đang là. Trong khi quan sát sự kiện, sự thật, thật thể của nó, có khả năng thay đổi nó. Như tôi đã nói hôm trước, khi có khả năng thì có năng lượng lớn lao. Cái làm hao tán năng lượng là ý nghĩ rằng không thể thay đổi.
Thế nên chúng ta phải nhìn vào mối tương quan của chúng ta như nó thực sự là lúc này, mỗi ngày; và khi quan sát cái đang là, chúng ta sẽ khám phá làm sao đem lại một thay đổi trong thực thể đó. Thế nên chúng ta diễn tả cái thực sự đang là, nó như vầy: mỗi người sống trong thế giới riêng của nó, trong thế giới của tham vọng, tham lam, sợ hãi, ham muốn thành công, mọi thứ như vậy, các bạn biết rồi. Nếu tôi đã lập gia đình, tôi có những trách nhiệm, con cái, và mọi thứ của sự việc ấy. Tôi đến chỗ làm, và chúng ta gặp nhau, chồng và vợ, con trai và con gái, trong giường. Và đó là cái chúng ta gọi là tình yêu, sống những cuộc đời tách biệt, cô lập, xây dựng một bức tường kháng cự quanh chúng ta, theo đuổi một hoạt động vị kỷ; mỗi người tìm kiếm an toàn về mặt tâm lý, mỗi người tùy thuộc vào người khác để có tiện nghi, để có lạc thú, để có đồng bạn; bởi vì mỗi người quá cô độc sâu thẳm như vậy, mỗi người đòi hỏi được yêu thương, được chiều chuộng, mỗi người tìm cách thống trị người khác.
Bạn có thể thấy điều này cho chính bạn, nếu bạn quan sát chính bạn. Có loại tương quan nào đâu? Không có tương quan giữa hai người, dù họ có những đứa con, một căn nhà, thực ra họ chẳng liên hệ với nhau. Nếu họ có một dự án chung, dự án đó giữ họ với nhau, nhưng đó không phải là tương quan.
Hiểu tất cả sự việc này, người ta thấy rằng nếu không có tương quan giữa hai người, bấy giờ bại hoại bắt đầu – không phải trong cơ cấu bên ngoài của xã hội, trong hiện tượng nhiễm ô bên ngoài, mà nhiễm ô, hư hỏng, hủy hoại bên trong bắt đầu, khi con người thực sự không có tương giao, như các bạn đang không có. Bạn có thể cầm tay người khác, hôn nhau, ngủ với nhau, nhưng thật ra, khi nhìn cho kỹ, có chút nào tương giao trong đó? Liên hệ
không có nghĩa là nương dựa lẫn nhau, không phải trốn tránh khỏi sự cô đơn của bạn bằng người khác, không phải cố tìm tiện nghi, bầu bạn bằng người khác. Khi bạn tìm kiếm tiện nghi bằng người khác, bạn nương dựa, tùy thuộc và mọi thứ đại loại, làm sao có thể có mối tương giao nào? Hay bấy giờ bạn chỉ lợi dụng lẫn nhau?
Chúng ta không yếm thế, mà thực sự quan sát cái gì đang hiện hữu: đó không phải là chủ nghĩa bi quan. Thế nên để tìm ra liên hệ thực sự với nhau có nghĩa là gì, người ta phải hiểu vấn đề cô đơn, bởi vì phần đông chúng ta đều cô đơn kinh khủng; chúng ta càng lớn lên chúng ta càng trở nên cô đơn hơn, nhất là trong xứ sở này. Bạn có nhận thấy những người già, trông họ giống gì? Bạn có nhận thấy những trốn thoát của họ, những giải trí của họ? Họ
đã làm việc suốt đời và họ muốn trốn vào một loại tiêu khiển nào đó.
Thấy điều đó, chúng ta có thể tìm thấy một cách sống mà không lợi dụng người khác? – về tâm lý, về tình cảm, không nương dựa người khác, không dùng người khác như một phương tiện để trốn thoát khỏi những khổ sở hành hạ của riêng mình, khỏi sự tuyệt vọng, khỏi sự cô đơn của mình.
Hiểu điều này là hiểu cô đơn có nghĩa là gì. Bạn có từng cô đơn? Bạn biết nó có nghĩa là gì chứ? – bạn không có mối tương quan với người khác, hoàn toàn cô lập. Bạn có thể ở với gia đình, trong một đám đông, hay trong chỗ làm việc, bạn ở bất cứ đâu, rồi thình lình cảm thức trọn vẹn của sự cô đơn cực độ với sự tuyệt vọng của nó ập lên bạn. Cho đến khi nào bạn giải quyết nó trọn vẹn, còn không thì tương quan của bạn trở thành một phương cách trốn thoát và bởi thế nó đưa đến bại hoại, đến khốn khổ. Người ta hiểu sự cô đơn này, cảm thức hoàn toàn trơ trọi này thế nào? Để hiểu nó, người ta phải nhìn vào đời sống của chính họ. Có phải mọi hành động của bạn là một hoạt động vị kỷ? Bạn có thể đôi khi từ thiện, rộng lượng, làm cái gì đó mà không có động cơ nào – đấy là những dịp hiếm hoi. Sự thất vọng này không bao giờ có thể tiêu tan nhờ trốn tránh, mà bằng quan sát nó.
Thế nên chúng ta phải trở lại câu hỏi này, đó là: làm sao quan sát? Làm sao quan sát chính các bạn mà trong sự quan sát đó không có xung đột chút nào? Bởi vì xung đột là bại hoại, là hao phí năng lượng, nó là sự chiến đấu của đời sống chúng ta, từ giây phút sanh đến lúc chết. Có thể nào sống mà không có dù chỉ một khoảnh khắc xung đột? Để làm điều đó, để tìm ra cho chính mình, người ta phải học làm thế nào quan sát toàn bộ chuyển động của chúng ta. Có sự quan sát mà trở nên hòa hợp, nó là chân thật, khi ấy người quan sát không hiện hữu, mà thuần túy chỉ có quán sát. Chúng ta đã đi vào đó ngày hôm trước.
Khi không có tương quan thì có thể thương yêu không? Chúng ta nói về nó, và thương yêu, như chúng ta biết, thì liên hệ với tình dục và lạc thú, phải thế không? Một số các bạn nói “Không”. Khi các bạn nói “Không”, bấy giờ các bạn phải không tham vọng, bấy giờ phải không cạnh tranh, không phân chia – bạn và tôi, chúng ta và họ. Phải không có phân chia quốc tịch, hay phân chia do đức tin, do kiến thức. Chỉ bấy giờ bạn mới có thể nói bạn thương yêu. Nhưng với hầu hết, thương yêu liên hệ với tình dục và lạc thú và mọi thứ khác đi theo: ghen tuông, tham lam, xung khắc, bạn biết cái gì xảy ra giữa đàn ông và đàn bà. Khi
tương quan ấy không chân thật, đích thật, sâu xa, hoàn toàn hài hòa, thì làm thế nào bạn có thể có hòa bình trong thế giới? Làm thế nào có sự chấm dứt chiến tranh?
Thế nên tương quan, liên hệ là một trong những, hay hơn nữa, là điều quan trọng nhất trong đời. Thế nghĩa là người ta phải hiểu thương yêu là gì. Chắc chắn, người ta gặp nó, thật lạ lùng, mà không tìm kiếm nó. Khi bạn tìm ra cái gì không phải là thương yêu, bấy giờ bạn biết cái gì là thương yêu – không lý thuyết, không ngôn ngữ lý luận – mà khi bạn thấu hiểu thật sự cái gì không phải là nó, đó là: không phải có một tâm thức tranh đua, tham vọng, một tâm thức nỗ lực, so sánh, bắt chước; một tâm thức như vậy không thể thương yêu.
Thế thì bạn có thể, trong thế giới này, sống hoàn toàn không có tham vọng, hoàn toàn không hề tự so sánh mình với người khác chăng? Bởi vì giây phút bạn so sánh, ngay lúc ấy có xung đột, có ghen ghét, có tham muốn hoàn thành, vượt hơn người khác.
Một tâm trí và một tấm lòng nhớ lại những tổn thương, những xúc phạm, những sự việc làm cho nó mất nhạy cảm và đờ đẫn – một tâm trí và một tấm lòng như vậy có thể nào biết được yêu thương là gì? Yêu thương là lạc thú chăng? Vậy mà đó là cái chúng ta đang theo đuổi, một cách ý thức hay không ý thức. Những thần linh của chúng ta là kết quả của lạc thú của chúng ta. Những đức tin, cấu trúc xã hội, đạo đức xã hội – căn bản nó là vô đạo đức – là kết quả của sự theo đuổi lạc thú của chúng ta. Và khi bạn nói, “Tôi yêu người nào”, đó có phải là thương yêu? Đó có nghĩa là không chia tách, không thống trị, không hoạt động vị kỷ. Để tìm ra nó là gì, người ta phải phủ nhận mọi cái ấy – phủ nhận nó theo nghĩa thấy sự giả trá của nó. Một khi bạn thấy cái gì là giả – mà bạn đã chấp nhận là chân thật, là tự nhiên, là nhân bản – bấy giờ bạn không bao giờ có thể trở lại với nó; khi bạn thấy một con rắn độc, một con thú nguy hiểm, bạn không bao giờ chơi với nó, không đến gần nó. Tương tự, khi bạn thực sự thấy rằng yêu thương không phải là cái nào trong những cái đó, cảm nhận điều đó, quan sát nó, nghiền ngẫm nó, sống với nó, hoàn toàn dấn thân với nó, bấy giờ bạn sẽ biết yêu thương là gì, lòng bi (compassion) là cái gì – nó có nghĩa là đam mê (passion) đối với tất cả mọi người.
Chúng ta không có đam mê; chúng ta có tham dục, chúng ta có lạc thú. Nghĩa gốc của từ đam mê (passion) là buồn rầu. Chúng ta đều có buồn rầu theo loại nào đó, mất người nào, buồn rầu của tự thương hại, buồn rầu của loài người, cả tập thể lẫn cá thể. Chúng ta biết buồn rầu là gì, cái chết của một người thân yêu. Khi chúng ta hoàn toàn ở với nỗi buồn rầu đó, không cố gắng hợp lý hóa nó, không cố gắng trốn thoát khỏi nó bằng bất kỳ hình thức nào qua ngôn ngữ hay hành động, khi ấy bạn ở lại với nó một cách trọn vẹn, không có bất kỳ
chuyển động nào của tư tưởng, bấy giờ bạn sẽ thấy, từ nỗi buồn rầu ấy mà đam mê xuất hiện. Đam mê ấy có tính chất yêu thương, và yêu thương thì không có buồn rầu.
Người ta cần hiểu toàn bộ vấn đề này của cuộc đời, những xung đột, những chiến đấu: bạn biết đời sống người ta đang sống thì quá trống rỗng, quá vô nghĩa. Những người trí thức cố gắng đặt cho nó một ý nghĩa và chúng ta cũng muốn tìm ra ý nghĩa cho đời sống, bởi vì đời sống hiện thời chẳng có ý nghĩa. Nó có không? Tranh đấu thường trực, công việc không ngừng, thống khổ, khổ đau, mọi thứ ấy thực sự không có ý nghĩa – chúng ta đi qua cuộc đời như một thói quen. Nhưng để tìm ra ý nghĩa là gì, người ta cũng phải hiểu ý nghĩa của cái chết; bởi vì sống và chết đi chung, chúng không phải là hai vật riêng rẽ.
Thế nên người ta phải hỏi chết có nghĩa là gì, bởi vì nó là phần đời sống của chúng ta. Không phải là cái gì trong tương lai cách xa, để tránh né, chỉ đối mặt khi bệnh hoạn đã đến mức tuyệt vọng, khi tuổi già hay trong một tai nạn hay trên chiến trường. Vì nó là phần của đời sống hàng ngày để sống mà không có một hơi hướng nhỏ của xung đột, thế nên nó là phần của đời sống chúng ta để tìm ra cái gì là thương yêu. Nó cũng là phần của hiện hữu chúng ta, và người ta phải hiểu nó.
Làm thế nào chúng ta hiểu cái chết là gì? Khi bạn chết, vào giây phút cuối cùng, bạn có thể hiểu bạn đã sống theo cách nào? – những căng thẳng, những tình cảm chiến đấu, những tham vọng, ham muốn; chắc bạn không ý thức và điều ấy khiến bạn không thể tri giác rõ ràng. Bấy giờ có sự mất định hướng của tâm thức lúc tuổi già và mọi thứ từ đó. Thế nên người ta phải hiểu cái chết là gì ngay bây giờ, không phải ngày mai. Như bạn quan sát, tư tưởng không muốn nghĩ về chuyện đó. Nó nghĩ về mọi thứ nó sẽ làm ngày mai – làm sao để
tạo ra những sáng chế mới, những phòng tắm tốt hơn, mọi thứ mà tư tưởng có thể nghĩ. Nhưng nó không muốn nghĩ về cái chết, bởi vì nó không biết cái chết có nghĩa gì.
Ý nghĩa của cái chết có thể được tìm thấy qua tư tưởng không? Xin hãy chia xẻ điều này. Khi chúng ta chia xẻ nó, lúc đó chúng ta bắt đầu thấy vẻ đẹp của tất cả điều này, nhưng nếu các bạn ngồi đó và để diễn giả tiến tới, chỉ nghe những lời của ông ta, bấy giờ chúng ta không chia xẻ với nhau. Chia xẻ với nhau bao gồm một tính chất nào đó của chăm chút, chú ý, thương yêu. Chết là một vấn đề lớn lao. Người trẻ có thể nói: tại sao ông bận tâm về nó? Nhưng nó là phần của cuộc sống của họ, như độc thân là phần của cuộc sống của họ. Chớ nói rằng, “Tại sao ông nói về sự độc thân, cái đó để cho những người già thủ cựu, cái đó dành cho những thầy tu.” Độc thân nghĩa là gì cũng là một vấn đề cho con người, nó cũng là phần của đời sống.
Tâm thức có thể hoàn toàn trinh bạch không? Không phải là để có thể tìm ra làm sao để sống một đời trinh bạch, người ta phải thệ nguyện độc thân và trải qua những khổ hình. Đó không phải là độc thân. Độc thân là cái gì hoàn toàn khác. Đó là có một tâm thức thoát khỏi mọi hình ảnh, mọi kiến thức; nó nghĩa là hiểu toàn bộ tiến trình của lạc thú và sợ hãi.
Tương tự, người ta phải hiểu sự việc gọi là chết này. Làm thế nào bạn tiến hành hiểu cái mà bạn sợ hãi khủng khiếp. Chẳng phải chúng ta sợ hãi cái chết sao? Hay chúng ta nói, “Cám ơn Trời tôi sắp chết, tôi đã sống quá đủ cuộc đời này với mọi thứ thống khổ của nó, sự mê lầm, phẩm chất tồi tệ, sự hung bạo, những sự việc máy móc người ta bị vướng mắc vào, cám ơn Trời mọi thứ này sẽ chấm dứt!” Đó không phải là một sự trả lời; cũng không cần hợp lý hóa cái chết, hay cứ tin vào tái sanh, như toàn thể thế giới \ châu đang làm. Để tìm ra tái sanh trong tương lai nghĩa là gì, bạn phải tìm ra bạn là gì bây giờ đã. Nếu bạn tin vào tái sanh, thì bây giờ bạn là cái gì? – một số ngôn từ, một số kinh nghiệm, kiến thức; bạn đã bị điều kiện hóa bởi những văn hóa khác nhau, các bạn là tất cả những đồng hóa của cuộc đời các bạn, đồ đạc, nhà cửa, ngân khoản, những kinh nghiệm lạc thú và khổ đau. Đó là cái bạn hiện là, phải thế không? Sự nhớ lại những thất bại, những hy vọng, những tuyệt vọng, bạn là tất cả những cái ấy, và những cái ấy sắp tái sanh vào cuộc đời sắp tới – một ý tưởng đáng yêu, phải không?
Hay bạn nghĩ có một linh hồn trường cửu, một thực thể thường còn. Có cái gì là thường còn trong bạn? Khoảnh khắc bạn nói có một linh hồn trường cửu, một thực thể thường hằng, thì thực thể đó là kết quả của suy nghĩ của bạn, hay kết quả của những hy vọng của
bạn, bởi vì có quá nhiều không an toàn, mọi sự thì thoáng qua, trong một cao trào, trong một chuyển động. Thế nên khi bạn nói có cái gì thường còn, sự thường còn đó là kết quả của suy nghĩ của bạn. Và tư tưởng thì thuộc về quá khứ, tư tưởng không bao giờ tự do – nó có thể sáng chế mọi thứ nó thích!
Thế nên nếu bạn tin vào một sự sanh ra trong tương lai, bạn phải biết rằng tương lai bị quy định bởi cách bạn đang sống bây giờ, cái bạn làm bây giờ, cái bạn nghĩ, cái bạn hành động, những đạo đức của bạn. Thế nên cái bạn là bây giờ, cái bạn làm bây giờ, thì hệ trọng kinh khủng. Nhưng những người ấy tin vào một sự sanh ra trong tương lai thì không chú ý chút nào cái đang xảy ra bây giờ, đó chỉ là chuyện để tin.
Thế thì, làm sao bạn tìm ra chết nghĩa là gì, khi bạn đang sống với sinh khí, với năng lực, đầy sức khỏe? Không phải khi bạn mất quân bình hay bệnh tật, không phải đến giây phút cuối cùng, nhưng bây giờ, khi biết rằng cơ thể không tránh khỏi phải hao mòn, như mọi thứ máy móc. Không may chúng ta đã dùng bộ máy của chúng ta quá coi thường, phải thế
không? Biết cơ thể đang đi đến chỗ dừng, bạn có bao giờ nghĩ đến chết có nghĩa là gì? Bạn không thể nghĩ về nó. Bạn có bao giờ thử tìm ra chết có nghĩa là gì về mặt tâm lý, mặt bên trong? – không phải làm sao tìm kiếm bất tử, bởi vì vĩnh cửu, cái không có thời gian, là bây giờ, không ở tương lai cách xa nào cả. Để dò hỏi vào đó, người ta phải hiểu toàn bộ vấn đề thời gian; không phải thời gian theo niên đại bởi đồng hồ, mà thời gian do tư tưởng đã sáng chế ra như một tiến trình thay đổi dần dà.
Làm sao người ta tìm ra sự việc lạ lùng này mà tất cả chúng ta đều phải gặp một ngày nào đó? Bạn có thể chết một cách tâm lý vào hôm nay, chết với mọi sự bạn đã biết hay không? Chẳng hạn: chết đối với lạc thú của bạn, với sự bám luyến của bạn, sự lệ thuộc của bạn, chấm dứt nó mà không biện luận, không hợp lý hóa, không cố gắng tìm cách tránh nó. Bạn có biết chết nghĩa là gì, không phải về thể chất, mà về tâm lý, về bên trong? Nó có nghĩa là chấm dứt cái có tương tục; chấm dứt cho tham vọng của bạn, bởi vì đó là cái xảy ra khi bạn chết, có phải không? Bạn không thể trì hỗn nó và ngồi bên cạnh Thượng Đế! (Cười) Khi bạn thực sự chết, bạn phải chấm dứt nhiều cái mà không biện luận gì. Bạn không thể nói với cái chết, “Hãy để tôi làm xong công việc của tôi, để tôi hoàn thành cuốn sách của tôi, mọi cái tôi chưa làm xong, hãy để tôi chữa lành những tổn thương tôi đã làm cho những người khác” – bạn không có thì giờ.
Thế nên bạn có thể tìm ra làm sao sống một đời sống bây giờ, hôm nay, trong đó luôn luôn có một chấm dứt cho mọi sự bạn đã bắt đầu? Dĩ nhiên không phải với công sở của bạn, mà chấm dứt bên trong mọi kiến thức bạn đã gom nhặt – kiến thức là những kinh nghiệm của bạn, những trí nhớ của bạn, những tổn thương, cách sống so đo, luôn luôn so sánh mình với người khác. Chấm dứt tất cả các thứ đó mỗi ngày, để cho ngày hôm sau tâm thức bạn tươi mới và trẻ trung. Một tâm thức như vậy không bao giờ có thể bị làm thương tổn, và đó là sự vô tội, ngây thơ.
Người ta phải tìm ra cho chính mình chết nghĩa là sao; bấy giờ không có sợ hãi, bởi thế mỗi ngày là một ngày mới – và tôi thực sự muốn nói điều này, người ta có thể làm điều này – để cho tâm thức bạn và đôi mắt bạn thấy đời sống là cái gì hoàn toàn mới. Đó là vĩnh cửu. Đó là tính chất của tâm thức khi tâm thức bắt gặp trạng thái không có thời gian này, bởi vì nó đã biết cái có nghĩa là chết mỗi ngày với mọi sự nó đã tích tập suốt ngày. Chắc hẳn, trong đó có tình yêu thương. Yêu thương là cái gì hoàn toàn mới mỗi ngày, nhưng lạc thú thì
không, lạc thú thì có tương tục. Yêu thương thì luôn luôn mới và bởi thế nó là sự vĩnh cửu của chính nó.
Người hỏi: Vừa rồi ngài đã nói cho chúng tôi rằng nếu người nào có một kinh nghiệm khổ đau và y không đối diện với nó toàn triệt, nó sẽ vào trong vô thức như một phần mảnh. Chúng ta làm thế nào tự giải thoát khỏi những phần mảnh của những kinh nghiệm khổ đau và sợ hãi này, để cho quá khứ không giam cầm chúng ta?
KRISHNAMURTI: Vâng, thưa ông, đó là điều kiện hóa, bị quy định. Làm sao người ta thoát khỏi sự quy định này? Trước hết, tôi phải ý thức tôi đang bị quy định – không phải ai khác nói cho tôi rằng tôi đang bị quy định. Ông hiểu sự khác biệt chứ? Nếu có ai nói với tôi tôi đang đói, điều đó khác với việc tôi đang đói. Thế nên tôi phải ý thức sự bị điều kiện hóa của tôi, nghĩa là không phải chỉ ở bên ngoài mà tận sâu thẳm. Tôi phải ý thức toàn vẹn. Ý thức như vậy, nghĩa là tôi không cố gắng vượt khỏi sự bị điều kiện hóa, không cố gắng thoát khỏi sự bị điều kiện hóa. Tôi phải thấy nó như nó thực sự là, không đưa vào một yếu tố khác, như: muốn thoát khỏi nó, vì như vậy là trốn thoát khỏi cái thực. Tôi phải ý thức. Thế nghĩa là sao? Ý thức tình trạng bị điều kiện hóa của tôi một cách hoàn toàn, không từng phần, nghĩa là tâm thức tôi phải nhạy cảm tột độ, phải không? Nếu không tôi không thể tỉnh giác. Nhạy cảm nghĩa là quan sát mọi sự rất, rất kỹ càng, mọi sự vật quanh tôi. Tôi cũng phải ý thức cái thực sự không có một chọn lựa nào. Ông có thể làm điều đó không? – không cố gắng giải thích nó, không cố gắng biến đổi nó, không cố gắng vượt khỏi nó hay thoát khỏi nó – chỉ ý thức trọn vẹn nó.
Khi ông quan sát một cái cây, giữa ông và cái cây có thời gian và không gian, phải thế không? Và cũng có kiến thức thực vật về nó, khoảng cách giữa ông và cái cây – nó là thời gian – và sự phân cách xảy ra qua kiến thức về cái cây. Nhìn cái cây mà không có kiến thức, không có tính chất thời gian, không có nghĩa là ông tự đồng hóa với cái cây, mà là quan sát cái cây rất mực chăm chú, đến độ những biên giới của thời gian không len vào nó; những biên giới của thời gian chỉ len vào khi ông có kiến thức về cái cây. Ông có thể nhìn thẳng vào vợ ông, bạn ông, hay bất cứ hình ảnh nào chứ? Hình ảnh là quá khứ, nó được lắp ghép bởi tư tưởng, như nghiền ngẫm, bắt ép, chế ngự, như lạc thú, kết bạn bè và mọi thứ ấy. Chính hình ảnh làm phân cách, chia rẽ; chính hình ảnh tạo khoảng cách và thời gian. Hãy nhìn cái cây này, hay hoa, mây, hay người vợ hoặc người chồng, mà không có hình ảnh!
Nếu ông có thể làm thế, bấy giờ ông có thể quan sát sự bị điều kiện hóa của ông một cách toàn triệt; bấy giờ ông có thể nhìn nó với một tâm thức không bị lốm đốm bởi quá khứ, và do đó bản thân tâm thức thoát khỏi điều kiện hóa. Nhìn chính tôi – như chúng ta thường làm – tôi nhìn như một người quan sát nhìn cái được quan sát: chính tôi là cái được quan sát và cũng là người quan sát nhìn nó. Người quan sát là kiến thức, là quá khứ, là thời gian, những kinh nghiệm đã tích tập – nó tự tách lìa với vật được quan sát.
Bây giờ, nhìn mà không có người quan sát! Ông làm điều này khi ông chú ý trọn vẹn. Ông có biết chú ý là gì không? Chớ đến trường học để học chú ý! Chú ý là nghe mà không diễn giải, không phê phán – chỉ thuần túy nghe. Khi ông đang lắng nghe như vậy, không có biên giới, không có “ông” đang nghe. Chỉ có trạng thái lắng nghe. Thế thì khi ông quan sát sự bị điều kiện hóa của ông, sự bị điều kiện hóa chỉ hiện hữu trong người quan sát, không phải trong cái được quan sát. Khi ông nhìn mà không có người quan sát, không có cái “tôi” –
những sợ hãi, những lo âu và mọi thứ đó – bấy giờ ông sẽ thấy, ông đi vào một chiều kích hoàn toàn khác.
NEW YORK CITY
24 tháng Tư 1971
3
KINH NGHIỆM TÔN GIÁO. THIỀN ĐỊNH
Có một kinh nghiệm tôn giáo không? Tìm cầu chân lý; ý nghĩa của sự tìm cầu. “Cái gì là một tâm tôn giáo?“ “Cái gì là tính chất của tâm không kinh nghiệm nữa?” Kỷ luật; đức hạnh; trật tự. Thiền định không phải là trốn thoát. Chức năng của kiến thức và tự do khỏi cái biết. “Thiền định là tìm ra liệu có một trường xứ đã không nhiễm ô bởi cái biết.” “Bước đầu tiên là bước cuối cùng.”
KRISHNAMURTI: Chúng ta đã nói rằng chúng ta sẽ bàn với nhau một vấn đề rất phức tạp, đó là: có một kinh nghiệm tôn giáo không, và cái gì là những hàm ý của thiền định? Nếu người ta quan sát thì sẽ thấy rằng trên khắp thế giới con người luôn luôn tìm kiếm cái gì vượt khỏi cái chết của nó, vượt khỏi những vấn nạn của nó, cái gì thường còn, chân thật và không có thời gian. Nó gọi đó là Thượng Đế, đặt cho nhiều tên; và hầu hết chúng ta tin vào cái gì loại đó, mà không bao giờ thực sự kinh nghiệm nó.
Những tôn giáo khác nhau đã hứa hẹn rằng nếu các bạn tin vào một số hình thức những nghi thức, giáo điều, những bậc cứu thế, sống theo một cách nào đó, các bạn sẽ gặp sự thể lạ lùng này, dù bất cứ tên nào người ta muốn gán cho nó. Và những người trực tiếp kinh nghiệm nó, đã hoàn thành nó theo sự quy định của họ, theo đức tin, theo những ảnh hưởng môi trường và văn hóa của họ.
Rõ ràng tôn giáo đã mất đi ý nghĩa của nó, vì có những chiến tranh tôn giáo; tôn giáo không trả lời cho tất cả những vấn nạn của chúng ta, những tôn giáo chia lìa con người. Chúng đã đem lại loại ảnh hưởng văn minh nào đó, nhưng chúng không thay đổi tận gốc con người. Khi người ta bắt đầu hỏi liệu có hay không một sự việc là kinh nghiệm tôn giáo và kinh nghiệm ấy là gì, tại sao người ta gọi nó là “tôn giáo”, rõ ràng trước hết người ta phải rất thành thật. Không phải thành thật theo một nguyên lý hay đức tin, hay hình thức cam kết nào đó, mà thành thật thấy những sự việc đúng như chúng là, không méo mó, không chỉ bên ngoài mà còn bên trong: không bao giờ tự lừa dối mình. Vì lừa dối thì khá dễ dàng nếu người ta khao khát loại kinh nghiệm nào đó, gọi là tôn giáo hay cái gì khác – nếu người ta dùng thuốc gợi ảo giác và vân vân. Bấy giờ bạn vướng mắc vào một loại ảo tưởng.
Người ta phải tìm ra cho chính mình kinh nghiệm tôn giáo là cái gì. Người ta cần một cảm thức khiêm hạ và thành thật lớn lao, nghĩa là không bao giờ đòi có kinh nghiệm, không bao giờ yêu cầu cho mình một thực tại hay một thành tựu. Thế nên người ta phải nhìn kỹ càng vào những tham muốn, những bám luyến và những sợ hãi của chính mình và hiểu chúng một cách toàn bộ, để cho tâm thức không bị méo mó, để cho không còn ảo tưởng, không còn lừa gạt. Và người ta cũng phải hỏi: cái gì nghĩa là kinh nghiệm?
Tôi không biết các bạn đã từng đi vào câu hỏi này phần nào chưa. Phần đông chúng ta chán ngán những kinh nghiệm thường có hàng ngày. Chúng ta mệt mỏi về chúng, và người
ta càng tế nhị, trí thức, người ta càng muốn sống chỉ trong hiện tại – dù nó có nghĩa là gì – và sáng chế ra một triết lý của hiện tại. Danh từ kinh nghiệm nghĩa là đi xuyên qua, đi đến tới cùng và chấm dứt với nó. Nhưng không may với phần đông chúng ta, mỗi kinh nghiệm để lại một vết sẹo, một kỷ niệm, vui thích hay không vui thích, và chúng ta chỉ muốn giữ lại những cái vui thích. Khi chúng ta đòi có loại kinh nghiệm tâm linh, tôn giáo hay siêu việt nào, chúng ta phải tìm ra trước hết có một kinh nghiệm như vậy không, và hơn nữa bản thân kinh nghiệm có nghĩa là gì. Nếu bạn kinh nghiệm điều gì và bạn không thể nhận biết nó, bấy giờ kinh nghiệm ấy thôi hiện hữu. Một trong những ý nghĩa căn bản của kinh nghiệm là nhận biết. Và khi có nhận biết, nó đã được biết, đã được kinh nghiệm, nếu khác đi thì bạn không thể nhận biết nó.
Thế thì khi người ta nói về kinh nghiệm tôn giáo, tâm linh hay siêu việt – từ này khá bị lạm dụng – bạn phải đã biết nó, có thể biết rằng bạn đang kinh nghiệm cái gì khác với một kinh nghiệm bình thường. Có vẻ hợp lý và đúng thật rằng tâm thức có thể nhận biết kinh nghiệm, và sự nhận biết bao hàm cái gì bạn đã biết, bởi thế nó không mới.
Khi bạn muốn kinh nghiệm trong lãnh vực tôn giáo, bạn muốn nó bởi vì bạn đã không giải quyết những vấn nạn của bạn, những lo âu, thất vọng, sợ hãi và buồn phiền của bạn, thế nên bạn muốn cái gì hơn nữa. Trong đòi hỏi hơn nữa ấy có sự lừa dối. Điều ấy khá hợp lý và đúng thật, tôi nghĩ thế. Không phải lý luận luôn luôn đúng, nhưng khi người ta dùng lý luận và lý trí một cách lành mạnh, người ta biết những giới hạn của lý trí. Đòi hỏi những kinh nghiệm lớn hơn, sâu hơn, nền tảng hơn chỉ dẫn đến một mở rộng thêm nữa đường lối của cái biết. Tôi nghĩ điều này thì rõ ràng, và tôi hy vọng chúng ta giao thông, chia xẻ với nhau.
Rồi cũng trong tra hỏi tôn giáo này người ta tìm kiếm khám phá chân lý là gì, có chăng một thực tại, có chăng một sự vật gì như là một trạng thái của tâm thức vượt khỏi thời gian. Tìm kiếm lại bao hàm một người tìm kiếm, phải thế không? Và người đang tìm kiếm là cái gì? Làm thế nào nó sẽ biết cái nó tìm ra là thật? Lại nữa, nếu nó tìm thấy cái thật – ít ra cái nó nghĩ là thật – điều đó tùy thuộc vào sự bị điều kiện hóa của nó, vào kiến thức của nó, những kinh nghiệm quá khứ của nó; bấy giờ tìm kiếm chỉ trở thành một phóng chiếu thêm nữa những hy vọng, sợ hãi và mong ước quá khứ của chính nó.
Một tâm thức tra hỏi – không tìm kiếm – phải hoàn toàn thoát khỏi hai cái này, đó là đòi hỏi kinh nghiệm và tìm kiếm chân lý. Người ta có thể thấy tại sao, bởi vì bạn tìm kiếm, bạn đến những vị thầy khác nhau, đọc nhiều sách khác nhau, chấp nhận nhiều thờ phụng khác nhau, theo những guru khác nhau, và mọi thể cách như vậy, như ô kính bày hàng. Một tìm kiếm như vậy chẳng có ý nghĩa gì cả.
Thế nên khi bạn tra hỏi, “Cái gì là tâm thức tôn giáo, và cái gì là tính chất của tâm thức không kinh nghiệm bất cứ điều gì nữa?” – bạn phải tìm ra liệu tâm thức có thể giải thoát khỏi đòi hỏi kinh nghiệm và hoàn toàn có thể chấm dứt mọi tìm cầu. Người ta phải tra cứu mà không có động cơ, không có ý định, đấy là những yếu tố của thời gian và có hay không một trạng thái không có thời gian. Tra hỏi điều đó nghĩa là phải không có tín điều, không cam kết với tôn giáo nào, với tổ chức gọi là tâm linh nào, không theo vị guru nào, và bởi thế phải không có thẩm quyền nào – nhất là thẩm quyền của diễn giả nữa. Bởi vì bạn rất dễ bị ảnh hưởng, bạn cả tin kinh khủng, dù bạn có thể tinh tế, có thể biết nhiều; nhưng bạn luôn luôn hăm hở, luôn luôn tham muốn, và bởi thế cả tin.
Vậy thì một tâm thức đi vào câu hỏi tôn giáo là gì, phải hoàn toàn thoát khỏi bất cứ hình thức đức tin nào, bất cứ hình thức sợ hãi nào; bởi vì sợ hãi, như chúng ta đã giải thích hôm trước, là một yếu tố làm méo mó, đem đến bạo động và hiếu chiến. Bởi thế tâm thức tra hỏi tính chất của trạng thái và chuyển động tôn giáo, phải thoát khỏi điều này. Việc ấy đòi hỏi thành thật lớn lao và một cảm thức khiêm hạ bao la.
Với phần đông chúng ta, tự phụ là một trong những chướng ngại chính. Vì chúng ta nghĩ mình biết, vì chúng ta đã đọc nhiều, vì chúng ta dấn thân cam kết, đã thực hành hệ thống này nọ, theo guru nào rao giảng triết học của ông, chúng ta nghĩ mình biết, ít nhất là một chút gì, và đó là bắt đầu của tự phụ kiêu căng. Khi bạn tra hỏi vào một vấn đề phi thường như vậy, phải có sự tự do của việc thực sự không biết một điều gì về nó. Bạn thực sự không biết, phải không? Bạn không biết chân lý là gì, Thượng Đế là gì – nếu có một sự như vậy – hay một tâm thức thực sự tôn giáo là gì. Bạn đã đọc về nó, người ta đã nói về nó hàng ngàn năm nay, đã xây những tu viện, nhưng thật ra họ đã sống trên kiến thức, kinh nghiệm và tuyên truyền của người khác. Để tìm ra, chắc chắn người ta phải bỏ qua một bên mọi cái ấy, và do đó sự tra hỏi vào mọi cái này là một việc rất trọng đại. Nếu bạn muốn chơi với nó, có đủ loại tiêu khiển gọi là tâm linh, tôn giáo, nhưng chúng không có giá trị bao nhiêu với một tâm thức nghiêm cẩn.
Tra hỏi vào một tâm thức tôn giáo là gì, chúng ta phải thoát khỏi sự bị điều kiện hóa của chúng ta, khỏi Thiên Chúa giáo Phật giáo của chúng ta, với sự tuyên truyền của hàng ngàn năm, để cho tâm thức thực sự tự do mà quan sát. Điều đó rất khó bởi vì chúng ta sợ một mình, đứng một mình. Chúng ta muốn an toàn, cả bên trong và bên ngoài; thế nên chúng ta dựa vào người khác, họ nói: “Tôi đã kinh nghiệm, vì thế tôi biết.” Người ta phải đứng hoàn toàn một mình – không phải là tách biệt. Có sự khác biệt bao la giữa tách biệt và hoàn toàn một mình. Tách biệt là một trạng thái tâm thức trong đó liên hệ chấm dứt, khi trong đời sống và hoạt động hàng ngày bạn đã xây dựng một bức tường quanh bạn để không bị tổn thương. Sự tách biệt rõ ràng ngăn cản mọi hình thức tương giao. Một mình hàm ý một tâm thức không nương dựa người khác về mặt tâm lý, không dính dáng với người nào; nó không có nghĩa là không có thương yêu – thương yêu thì không bám dính. Một mình hàm ý một tâm thức không có cảm thức sợ hãi nào trong sâu xa và do đó không có xung đột.
Nếu bạn đi xa như vậy, bấy giờ bạn có thể tiến hành tìm ra kỷ luật có nghĩa là gì. Với phần đông chúng ta kỷ luật là một hình thức rèn luyện, lập lại; hoặc thắng một trở ngại, hay cưỡng chống hay đè nén, kiểm soát, định hình, tuân thủ… Nghĩa gốc của từ ấy là học; một tâm sẵn sàng học – không phải tuân thủ – phải tò mò, quan tâm lớn lao, và một tâm đã biết thì không thể học. Thế nên kỷ luật nghĩa là học tại sao người ta kiểm soát, tại sao người ta trừ dẹp, tại sao có sợ hãi, tại sao người ta tuân thủ, so sánh, và bởi thế nằm trong xung đột. Chính sự học sâu xa này đem lại trật tự; không phải trật tự theo một phác họa hay khuôn khổ, nhưng trong sự tra hỏi sâu xa vào cái mơ hồ, rối rắm, vào sự không trật tự, chính trong đó có cái trật tự. Hầu hết chúng ta mù mờ vì cả tá lý do, chúng ta không cần đi sâu vào những điều đó vào lúc này. Người ta phải học về sự mơ hồ rối rắm, về đời sống không trật tự mình đang sống; không phải cố gắng đem đến trật tự vào sự mờ rối, hay vào sự không trật tự, mà học về nó. Bấy giờ, khi bạn học, trật tự bèn có mặt.
Trật tự là một vật sống động, không máy móc, và trật tự chắc chắn là đức hạnh. Một tâm thức mờ rối, tuân thủ, bắt chước thì không trật tự – nó đang ở trong xung đột. Và một tâm
thức ở trong xung đột thì không trật tự và bởi thế một tâm thức như vậy không có đức hạnh. Từ tra hỏi, từ học hỏi, bèn có trật tự, và trật tự là đức hạnh. Xin hãy quan sát nó nơi chính bạn, hãy thấy sự không trật tự trong đời sống của mình như thế nào, quá mờ rối, quá máy móc. Trong trạng thái này người ta cố gắng tìm thấy một cách sống đạo đức, có trật tự và lành mạnh. Làm sao một tâm thức mê mờ rối loạn, tuân thủ, bắt chước, có thể có loại trật tự nào, loại đức hạnh nào? Đạo đức xã hội, như bạn thấy, thì hoàn toàn vô đạo đức; nó có thể ra vẻ đứng đắn, nhưng cái làm vẻ đứng đắn thì thường không trật tự.
Trật tự là cần thiết, bởi vì từ trật tự có thể có một hành động toàn bộ và hành động là đời sống. Nhưng hành động của chúng ta đem đến không trật tự; có hành động chính trị, hành động tôn giáo, hành động kinh doanh, hành động gia đình – chúng là những hành động manh mún. Và đương nhiên hành động như vậy là mâu thuẫn. Bạn là một người kinh doanh và ở nhà bạn là một người tốt – ít nhất bạn cho là như vậy; có sự mâu thuẫn và bởi thế không có trật tự. Một tâm thức lộn xộn không thể hiểu đức hạnh là cái gì. Và ngày nay, khi có sự bi quan đủ mọi loại, đức hạnh và trật tự đã bị phủ nhận. Tâm thức tôn giáo phải có trật tự này, không phải trật tự theo một khuôn khổ nào do bạn hay người khác đặt ra. Nhưng sự trật tự đó, cảm thức về chính trực đạo đức, chỉ đến khi bạn hiểu sự không trật tự, sự mê mờ rối loạn, tình trạng lộn xộn dơ bẩn trong đó người ta đang sống.
Bây giờ mọi điều này là để đặt nền móng cho thiền định. Nếu bạn không đặt những nền móng, thiền định trở thành một trốn thoát. Bạn có thể chơi đùa với loại thiền định đó một cách không cùng. Và đây là điều hầu hết người đang làm – sống một đời sống tầm thường, mờ rối, lộn xộn và tìm một góc để có một tâm bình lặng. Và có những người hứa hẹn cho bạn một tâm bình lặng, dù nó có nghĩa ra sao.
Thế nên với một tâm thức nghiêm cẩn, người ta phải có sự tự do này thoát khỏi mọi đức tin, mọi cam kết, bởi vì người ta cam kết với toàn bộ đời sống, không phải với một phần mảnh của nó. Phần đông chúng ta cam kết với một cuộc đổi mới chính trị hay vật chất, hay với một hoạt động tôn giáo, một đời sống tu viện vân vân. Những cái ấy đều là những cam kết phần mảnh. Chúng ta đang nói về tự do, để cho bạn có thể cam kết toàn bộ hiện thể bạn, toàn bộ năng lượng, sức sống và đam mê của bạn với toàn bộ đời sống, chứ không phải một phần của nó. Bấy giờ chúng ta có thể tiến hành tìm ra thiền định có nghĩa là gì.
Tôi không biết các bạn đã đi vào điều này thực sự chưa. Hẳn là một số các bạn đã chơi với nó, đã cố gắng kiểm soát những tư tưởng của các bạn, theo những hệ thống khác nhau, nhưng đó không phải là thiền định. Người ta phải đi vào vấn đề những hệ thống, những phương pháp này, và tôi hy vọng các bạn sẽ làm việc đó; chúng ta đang chia xẻ cùng nhau vấn đề này.
Khi bạn có một hệ thống để theo, cái gì xảy ra với tâm thức? Những hệ thống và phương pháp hàm ý cái gì – một guru? Tôi không biết tại sao họ tự gọi mình là guru – tôi không thể tìm ra một từ đủ mạnh để phủ nhận toàn bộ thế giới những guru ấy, thẩm quyền của họ, bởi vì họ nghĩ rằng họ biết. Một người nói, “Tôi biết”, một người như vậy thì không biết. Hay nếu một người nói, “Tôi đã kinh nghiệm chân lý”, hãy ngờ vực nó. Đấy là những người ban cho những hệ thống. Một hệ thống bao hàm thực hành, đi theo, lập lại, biến đổi “cái thực sự
đang là” và bởi thế làm tăng thêm xung đột của bạn. Những hệ thống khiến tâm thức máy móc, chúng không cho bạn tự do, chúng hứa hẹn tự do ở lúc sau chót, nhưng tự do thì ở lúc bắt đầu, không ở lúc sau chót. Tra hỏi vào sự thật của bất kỳ hệ thống nào, nếu bạn không
có tự do vào lúc bắt đầu, bấy giờ bạn buộc phải chết cứng trong một hệ thống và bởi thế trong một tâm thức không thể nhạy cảm, nhẹ nhàng và tinh tế. Thế nên người ta có thể bỏ đi hoàn toàn mọi hệ thống.
Điều quan trọng là không kiểm soát tư tưởng, mà hiểu nó, hiểu nguồn gốc, sự bắt đầu của tư tưởng trong bản thân bạn. Nghĩa là, bộ óc chứa những trí nhớ – bạn có thể tự mình quan sát điều này, không cần phải đọc sách về nó. Nếu nó không cất chứa những trí nhớ nó không thể tư tưởng gì cả. Trí nhớ này là kết quả của kinh nghiệm, của kiến thức – của bạn, của cộng đồng, của gia đình, giòng giống vân vân. Tư tưởng nảy sinh từ kho chứa trí nhớ này. Thế nên tư tưởng không bao giờ tự do, nó luôn luôn cũ, không có cái gì gọi là tự do của tư tưởng. Tư tưởng không bao giờ có thể tự do trong chính nó, nó có thể nói về tự do, nhưng bản thân nó là kết quả của những trí nhớ, kinh nghiệm và kiến thức quá khứ; thế nên nó già cũ. Tuy nhiên người ta phải có sự tích tập này, nếu không người ta không thể làm việc, nói đến người khác, đi về nhà… Kiến thức là cần thiết.
Trong thiền định người ta phải tìm ra liệu có chăng một chấm dứt cho kiến thức và như vậy thoát khỏi, tự do với cái biết. Nếu thiền định là một sự tiếp tục của kiến thức, là sự tiếp tục của mọi cái người ta đã tích tập, bấy giờ không có tự do. Chỉ có tự do khi có một thấu hiểu chức năng của kiến thức và do đó thoát khỏi cái biết.
Chúng ta đang tra hỏi vào lãnh vực của kiến thức, trong đó nó có sự vận hành và nó trở thành một chướng ngại cho sự tra hỏi sâu hơn. Khi bộ óc tiếp tục vận động, nó chỉ vận động trong lãnh vực của kiến thức. Đó chỉ là việc duy nhất trí óc có thể làm, vận hành trong trường kinh nghiệm, kiến thức, trong trường của thời gian – nó là quá khứ. Thiền định là tìm ra có chăng một trường xứ không hề bị nhiễm ô bởi cái biết.
Nếu tôi thiền định và tiếp tục với cái tôi đã học, với cái tôi đã biết, bấy giờ tôi vẫn sống trong quá khứ, trong lãnh vực của sự bị điều kiện hóa của tôi. Trong đó không có tự do. Tôi có thể trang hoàng cho ngục tù trong đó tôi đang sống, tôi có thể làm đủ thứ trong ngục tù ấy, nhưng vẫn có một giới hạn, một hàng rào. Thế thì tâm thức phải tìm ra liệu những tế bào óc đã phát triển qua hàng ngàn năm có thể nào hoàn toàn bình lặng và đáp ứng với một chiều kích chúng chưa từng biết? Như vậy có nghĩa là, tâm thức có thể hoàn toàn bình lặng không?
Điều này đã là một vấn nạn của mọi người tôn giáo qua hàng thế kỷ; họ hiểu rằng bạn phải có một tâm thức hoàn toàn bình lặng, bởi vì chỉ lúc ấy bạn mới có thể thấy. Nếu bạn cứ huyên thuyên, nếu tâm thức bạn thường xuyên động, chạy khắp mọi nơi, rõ ràng nó không thể nhìn không thể nghe trọn vẹn. Thế nên họ nói, “Hãy kiểm soát nó, nắm giữ nó, nhốt nó vào một nhà tù”; họ không tìm ra cách để có một tâm thức bình lặng và rốt ráo. Họ nói, “Chớ
chạy theo tham muốn nào, chớ nhìn vào một phụ nữ, chớ nhìn những ngọn đồi đẹp, những cây cối và vẻ đẹp của trái đất, bởi vì nếu anh làm thế, nó sẽ làm anh nhớ lại một người đàn bà hay một người đàn ông. Bởi thế hãy kiểm soát, nắm giữ và tập trung.” Khi bạn làm tất cả điều đó, bạn ở trong xung đột, bởi thế phải có thêm kiểm soát, thêm chế ngự. Điều này đã tiếp tục hàng ngàn năm, bởi vì họ thấy họ phải có một tâm thức bình lặng. Bây giờ, làm sao tâm thức trở nên bình lặng? – không có nỗ lực, không có kiểm soát, không tạo cho nó một biên giới? Giây phút bạn hỏi “làm sao, thế nào” là bạn đang đi vào một hệ thống. Bởi thế không có “thế nào” cả.
Tâm thức có thể trở nên bình lặng? Tôi không biết bạn đang làm gì về việc này khi bạn thấy vấn đề, khi bạn thấy sự cần thiết, sự thật của sự kiện có cái tâm thức tinh tế tuyệt đối bình lặng này. Điều đó xảy ra thế nào? Đây là vấn đề thiền định, bởi vì chỉ có một tâm thức như vậy mới là một tâm thức tôn giáo. Chỉ một tâm thức như vậy mới thấy toàn bộ đời sống như một đơn vị, như một chuyển động nhất thể, không phân mảnh. Bởi thế một tâm thức như vậy hành động một cách toàn thể, không phân mảnh, bởi vì nó hành động từ tĩnh lặng hoàn toàn.
Nền tảng là một đời sống tương quan trọn vẹn, một đời sống giản dị phi thường ở bên trong, và bởi thế khổ hạnh hoàn toàn – sự khổ hạnh của giản dị sâu xa, nó có nghĩa là tâm thức không xung đột. Khi bạn đặt nền tảng này, dễ dàng không nỗ lực – bởi vì khoảnh khắc đem nỗ lực vào là có xung đột – bạn thấy chân lý của nó. Thế nên nó là tri giác, nhận thức “cái đang là”. Và chính tri giác hay nhận thức này đem lại một thay đổi từ gốc rễ.
Chỉ tâm thức tĩnh lặng mới hiểu rằng trong một tâm thức bình lặng có một chuyển động hoàn toàn khác, nó thuộc về một chiều kích khác, một tính chất khác. Điều đó có thể không bao giờ nói được thành lời, bởi vì nó không thể diễn tả được. Cái có thể diễn tả được chỉ có thể đạt đến điểm này, tức là điểm khi bạn đặt nền móng và thấy sự cần thiết, sự thật và cái đẹp của một tâm thức tĩnh lặng.
Với hầu hết chúng ta, đẹp thì ở trong cái gì đó, trong một buyn đinh, trong một đám mây, trong hình dáng một cái cây, trong một khuôn mặt đẹp. Có phải cái đẹp ở ngoài kia hay nó là một tính chất của tâm, mà tâm này không có hoạt động vị kỷ? Bởi vì như niềm vui, sự thấu hiểu cái đẹp thì thiết yếu trong thiền định. Đẹp là thực sự buông bỏ hoàn toàn cái tôi, và những con mắt đã buông bỏ cái tôi thì có thể thấy cái cây, vẻ đẹp của tất cả cái đó, và sự
đáng yêu của đám mây; điều đó xảy ra khi không có trung tâm là cái tôi. Nó xảy ra cho mỗi người chúng ta, phải không? – khi bạn thấy một ngọn núi đáng yêu, khi bạn gặp nó một cách thình lình, nó ở đó! Mọi sự bị dạt qua một bên chỉ trừ sự uy nghiêm của ngọn đồi ấy. Ngọn núi đó, cái cây đó thu hút bạn trọn vẹn.
Thế nên đẹp nghĩa là nhạy cảm – một thân thể nhạy cảm nghĩa là chế độ ăn uống đúng đắn, sống đúng đắn, và bạn có tất cả điều này, nếu bạn có đời sống đúng đắn. Tôi hy vọng bạn sẽ, hay đang như vậy lúc này; bấy giờ tâm sẽ trở nên bình lặng một cách tự nhiên, không tránh khỏi. Bạn không thể làm cho tâm thức bình lặng, bởi vì bạn là người tạo ra lộn xộn, quấy nhiễu, lo âu – làm thế nào bạn có thể khiến tâm thức bình lặng? Nhưng khi bạn thấu hiểu bình lặng là gì, khi bạn hiểu mù mờ rối rắm là gì, phiền muộn là gì và phiền muộn có thể chấm dứt chăng, và khi bạn hiểu lạc thú, bấy giờ từ đó xảy đến một tâm thức bình lặng phi thường; bạn không phải tìm kiếm nó. Bạn phải bắt đầu ở chỗ bắt đầu và bước đầu tiên chính là bước cuối cùng, và đây là thiền định.
Người hỏi: Khi ngài lấy thí dụ giống nhau ngọn núi, những ngọn đồi, bầu trời đẹp đẽ – điều đó là sai lầm đối với những người này, nó không phải là sự giống nhau đối với họ – sự giống nhau là thứ dơ bẩn.
KRISHNAMURTI: Đúng, hãy xem – sự giống nhau của những đường phố của New York, sự giống nhau của tình trạng bẩn thỉu, nghèo nàn, những khu nhà ổ chuột, những cuộc chiến tranh mà mỗi chúng ta đã góp phần. Bạn không cảm thấy cách ấy, bởi vì bạn tự tách biệt, bạn tự cô lập; bởi thế, không có tương quan với người khác, bạn trở nên bại hoại và để cho
bại hoại lan tràn trên thế giới. Đó là tại sao sự bại hoại này, sự ô nhiễm này, những cuộc chiến tranh này, không thể nhờ một hệ thống chính trị hay tôn giáo hay bởi bất cứ tổ chức nào mà ngưng được. Bạn phải thay đổi. Bạn không thấy điều này sao? Bạn phải chấm dứt hoàn toàn cái mà bạn đang là. Không phải bằng ý chí – thiền định là làm trống không cái tâm thức của ý chí; bấy giờ một hành động hoàn toàn khác xảy ra.
Người hỏi: Nếu người ta có đặc ân trở nên hoàn toàn tỉnh giác, bấy giờ chúng ta làm sao có thể giúp đỡ những người bị quy định, bị điều kiện hóa, họ đang có sự oán hận sâu xa trong lòng?
KRISHNAMURTI: Tại sao, nếu tôi có thể hỏi, bạn dùng từ đặc ân? Có cái gì thiêng liêng hay đặc ân trong tỉnh giác chứ? Nếu bạn tỉnh giác về sự bị điều kiện hóa của chính bạn, về sự ồn ào, dơ bẩn, chiến tranh, hận thù, nếu bạn tỉnh giác về mọi cái đó, bạn sẽ thiết lập một tương quan với người khác rất trọn vẹn, đến độ bạn liên quan, liên hệ với mỗi người khác trong thế giới. Bạn hiểu điều này không? Nếu tôi liên hệ với người nào một cách trọn vẹn, hoàn toàn – không phải như một ý niệm hoặc hình ảnh – bấy giờ tôi liên hệ với mọi người trong thế giới. Bấy giờ tôi sẽ thấy tôi không làm thương tổn người khác – họ đang làm thương tổn chính họ. Bấy giờ hãy đi, hãy thuyết pháp, hãy nói về nó – không phải với ước muốn giúp đỡ người khác, bạn hiểu chứ? – thật là điều kinh khủng nhất khi nói, “Tôi muốn giúp đỡ người khác.” Bạn là ai để giúp đỡ người khác? – kể cả diễn giả.
Thưa bạn, hãy nhìn, cái đẹp của cây hay hoa không muốn giúp đỡ bạn, nó ở đó; nó để cho bạn nhìn vào sự bẩn thỉu hay vào cái đẹp, và nếu bạn không thể nhìn vào nó, thì hãy tìm ra tại sao bạn đã trở nên quá thờ ơ, quá chai cứng, quá nông cạn và trống rỗng. Nếu bạn tìm ra điều đó, bấy giờ bạn ở trong một trạng thái nơi đó những dòng nước của đời sống chảy trôi, bạn không phải làm gì cả.
Người hỏi: Đâu là mối liên hệ giữa thấy những sự vật đúng như chúng là và ý thức?
KRISHNAMURTI: Bạn chỉ biết ý thức qua nội dung của nó và nội dung của nó là cái đang xảy ra trong thế giới và bạn là một phần của nó. Làm trống không tất cả những cái này không phải là không có ý thức, mà là một chiều kích hoàn toàn khác. Bạn không thể suy luận về chiều kích này – hãy để việc đó cho những nhà khoa học, những triết gia. Điều chúng ta có thể làm là tìm ra liệu có thể vô điều kiện hóa tâm thức bằng cách trở nên tỉnh giác, trở nên hoàn toàn chú ý hay không.
Người hỏi: Tôi không biết yêu thương là gì hay chân lý là gì, ngài có thể giải nghĩa?
KRISHNAMURTI: Bạn chỉ có thể tìm ra yêu thương là gì bằng cách biết nó không phải là cái gì. Không phải biết một cách trí thức, mà thực sự trong đời sống khi bỏ qua một bên cái gì không phải là nó – ghen ghét, tham vọng, mọi thứ phân chia đang tiếp diễn trong đời sống, cái tôi và cái anh, chúng ta và họ, đen và trắng. Không may, bạn không tìm biết vì nó cần năng lượng, và năng lượng chỉ đến khi bạn thực sự quan sát cái đang là, bấy giờ trong sự quan sát nó, bạn có năng lượng để vượt khỏi nó. Bạn không thể vượt khỏi nó nếu bạn cố gắng trốn tránh nó, diễn dịch nó hay chiến thắng nó. Chỉ thực sự quan sát cái đang là, bấy giờ bạn có dồi dào năng lượng, bấy giờ bạn có thể tìm ra yêu thương là gì. Yêu thương không có nghĩa là lạc thú, và thực sự tìm ra nó, ở bên trong, cho chính bạn, bạn có biết điều đó có nghĩa gì không? Nó có nghĩa không có sợ hãi, không có bám luyến, lệ thuộc mà là một tương quan trong đó không có phân chia.
Người hỏi: Thưa ông, ông có thể đi vào thời gian tâm lý?
KRISHNAMURTI: Thời gian là tuổi già, thời gian là buồn phiền, thời gian không lưu ý đến ai. Có thời gian đồng hồ, nó phải có, để bạn lên xe buýt. Để bạn nấu ăn và mọi thứ đại loại. Nhưng có thời gian khác mà chúng ta đã chấp nhận. Đó là, “Ngày mai tôi sẽ là, ngày mai tôi sẽ thay đổi, ngày mai tôi sẽ trở thành”; một cách tâm lý, chúng ta đã tạo ra thời gian – ngày mai. Có ngày mai không, về mặt tâm lý? Câu hỏi nghiêm trọng này phủ lên chúng ta nỗi sợ hãi. Bởi vì chúng ta muốn ngày mai: “Tôi sẽ thích thú gặp bạn ngày mai, tôi sẽ hiểu vào ngày mai; cuộc đời tôi sẽ khác vào ngày mai, tôi sẽ giác ngộ vào ngày mai.” Thế nên ngày mai trở thành sự quan trọng nhất trong đời chúng ta. Bạn đã có tình dục hôm qua, mọi lạc thú, mọi đau đớn và bạn muốn nó vào ngày mai, bởi vì bạn muốn cũng lạc thú đó lập lại.
Hãy đặt câu hỏi này cho chính bạn và tìm ra sự thật của nó. “Có một ngày mai chút nào không?“ – trừ trong tư tưởng phóng chiếu ra ngày mai. Thế nên ngày mai là sự sáng chế của tư tưởng như là thời gian, và nếu không có ngày mai một cách tâm lý, điều gì xảy ra trong đời sống hôm nay? Bấy giờ có một cuộc cách mạng lớn lao, phải không? Bấy giờ toàn bộ hành động của bạn trải qua một thay đổi tận gốc, phải không? Bấy giờ bạn là trọn vẹn toàn thể bây giờ, không phóng chiếu từ quá khứ, qua hiện tại, vào tương lai.
Thế nghĩa là sống, đồng thời chết mỗi ngày. Hãy làm đi, và bạn sẽ khám phá sống trọn vẹn hôm nay là thế nào. Đó không phải là yêu thương sao? Bạn không nói, “Ngày mai tôi sẽ yêu thương”, phải không? Bạn yêu thương hay bạn không yêu thương. Yêu thương nào có thời gian, chỉ buồn phiền có thời gian – buồn phiền là tư tưởng, như trong lạc thú. Thế nên người ta phải tìm ra cho mình thời gian là gì, và tìm ra liệu có một cái “không thời gian” chăng. Đó là sống, bấy giờ có một đời sống nó là vĩnh cửu, bởi vì vĩnh cửu thì không có thời gian.
NEW YORK CITY
25 tháng Tư 1971
MỸ
III
Hai Cuộc Trò Chuyện:
J. Krishnamurti và Alain Naudé
1
RẠP XIẾC TRANH ĐẤU CỦA CON NGƯỜI
Trò Chuyện giữa J. Krishnamurti
và Alain Naudé
Naudé:[02] Ngài nói về sự toàn bộ của đời sống. Khi chúng tôi nhìn về chính mình, có quá nhiều vô trật tự ở khắp nơi; có vẻ người ta rất mê lầm, rối loạn. Trong thế giới chúng ta thấy có chiến tranh, mất trật tự sinh thái, chính trị và xã hội, tội phạm, và mọi thứ xấu của kỹ nghệ hóa và nhân mãn. Và có vẻ người ta càng cố gắng giải quyết những vấn nạn đó thì chúng càng tăng thêm. Bấy giờ có bản thân con người, đầy ắp những vấn nạn. Nó không chỉ
có những vấn nạn của thế giới đè lên nó, mà chính bên trong nó đầy những vấn nạn – cô đơn, tuyệt vọng, ghen ghét, giận dữ – mọi cái này chúng ta có thể gọi là mê rối. Và giờ đây nó đang chết. Bây giờ chúng ta luôn luôn nghe nói rằng có cái gì khác, gọi là thượng đế, vĩnh cửu, sáng tạo. Và về cái đó con người chẳng biết gì cả. Nó cố gắng sống vì cái đó, nhưng nó lại gây ra những vấn nạn. Hình như ngài đã nhiều lần nói người ta phải tìm thấy một cách xử sự với ba bộ vấn đề này, ba phương diện này của đời sống một cách đồng thời, bởi vì chúng là những vấn nạn đối mặt với con người. Có một cách hỏi thích đáng để cho ba bộ vấn nạn ấy được trả lời đồng thời?
KRISHNAMURTI: Trước hết, thưa ông, tại sao phân chia như thế? Hay chỉ có một chuyển động phải xảy ra trên chính bản thân làn sóng? Thế nên trước hết chúng ta hãy tìm ra tại sao chúng ta đã phân chia toàn bộ hiện hữu này thành thế giới ở ngoài tôi, thế giới ở trong tôi, và cái gì ở trên tôi. Có phải sự phân chia này có bởi vì sự hỗn độn ở bên ngoài và chúng ta chỉ quan tâm đến sự hỗn độn bên ngoài, và hoàn toàn lơ là với sự hỗn loạn bên trong? Không tìm thấy một giải pháp cho cái bên ngoài hay cho cái bên trong, bấy giờ chúng ta cố gắng tìm ra một giải pháp trong một đức tin, trong cái thiêng liêng.
Naudé: Vâng.
KRISHNAMURTI: Thế nên khi hỏi một câu hỏi loại này, chúng ta có xử sự với ba việc một cách riêng rẽ, hay như một chuyển động toàn thể?
Naudé: Làm sao chúng ta biến chúng thành một chuyển động thống nhất? Chúng liên hệ như thế nào? Cái gì là hành động trong con người sẽ khiến chúng như nhau?
KRISHNAMURTI: Tôi chưa đến chỗ đó. Tôi muốn hỏi: tại sao con người đã phân chia thế giới, hiện hữu toàn bộ của nó, thành ba phạm trù này? Tại sao? – và từ đó nó chuyển động. Bây giờ tại sao tôi, một con người, đã phân chia thế giới bên ngoài tôi khỏi thế giới bên trong tôi và khỏi thế giới mà tôi đang cố gắng nắm lấy – cái mà tôi không hiểu gì cả – và tôi đặt mọi hy vọng héo tàn vào đó?
Naudé: Đúng.
KRISHNAMURTI: Bây giờ tại sao tôi làm điều đó? Chúng ta thử hỏi: có phải chúng ta không có thể giải quyết cái bên ngoài với sự hỗn loạn, mê lầm, hủy diệt, hung hãn, bạo lực đang tiếp diễn của nó, và bởi thế chúng ta xoay về cái bên trong và hy vọng do đó giải quyết được cái bên ngoài? Và không thể giải quyết sự hỗn loạn bên trong, sự thiếu thốn bên trong, hung hãn, bạo lực bên trong và mọi thứ đó, không thể giải quyết cái gì nơi hai cái đó, bấy giờ chúng ta lìa bỏ cả hai, bên ngoài lẫn bên trong, để đến chiều kích nào khác?
Naudé: Vâng, giống như vậy. Đó là điều chúng ta làm.
KRISHNAMURTI: Đó là điều đang xảy ra mọi lúc quanh ta và trong ta.
Naudé: Vâng. Có những vấn nạn ở ngoài làm nảy sinh những vấn nạn ở trong. Không thể xử sự với cái nào hoặc cả hai, chúng ta tạo ra hy vọng về cái nào khác, trạng thái thứ ba nào khác, mà chúng ta gọi là Thượng Đế.
KRISHNAMURTI: Vâng, một tác nhân bên ngoài.
Naudé: Một tác nhân bên ngoài sẽ là sự an ủi, giải pháp tối hậu. Nhưng cũng là một sự kiện rằng có những sự vật thực sự là những vấn nạn bên ngoài của chúng ta: lỗ thủng trên vòm trời, bầu trời đầy ô nhiễm, sông hồ khô cạn, có những vấn nạn như vậy. Và có những cuộc chiến tranh – chúng là những vấn nạn bên ngoài có thể thấy được. Cũng có những vấn nạn chúng ta nghĩ là những vấn nạn bên trong, những mong mỏi, những sợ hãi và âu lo thầm kín của chúng ta.
KRISHNAMURTI: Vâng.
Naudé: Có thế giới, và có phản ứng của con người với nó, con người sống trong đó. Như vậy có hai thực thể này – ít ra trong một chừng mực thực tiễn chúng ta có thể nói chúng có. Và như vậy chắc hẳn sự cố gắng giải quyết những vấn nạn thực tiễn tràn ra trạng thái bên trong của con người và gây ra những vấn nạn ở đó.
KRISHNAMURTI: Nghĩa là chúng ta vẫn cho cái bên ngoài và cái bên trong là hai chuyển động tách biệt.
Naudé: Vâng, chúng ta như vậy. Chúng ta làm vậy.
KRISHNAMURTI: Và tôi cảm thấy đó là một lối tiếp cận hoàn toàn sai. Vòm trời thủng và thế giới nhân mãn, có ô nhiễm, có chiến tranh, đủ mọi tai họa. Và không giải quyết được chúng ta quay vào trong; không giải quyết được ở trong chúng ta quay ra cái gì ở ngoài, rồi còn tìm cách thoát khỏi mọi cái này. Trong khi nếu chúng ta có thể xử sự với toàn bộ hiện hữu như một chuyển động thống nhất, bấy giờ có lẽ chúng ta có thể giải quyết mọi vấn nạn ấy một cách thông minh, hợp lý và trật tự.
Naudé: Vâng. Đó hình như là điều ngài đang nói. Ngài nói với chúng tôi ba vấn nạn này thực sự là một sự việc như thế nào?
KRISHNAMURTI: Tôi sắp đến đó, tôi đang đến đó. Thế giới bên ngoài của tôi thì do tôi tạo ra – không phải cây cối, mây trời, những con ong và vẻ đẹp cảnh vật – mà hiện hữu con người trong tương quan, nó được gọi là xã hội, cái đó được bạn và tôi tạo ra. Thế nên thế giới là tôi và tôi là thế giới. Tôi nghĩ đó là điều trước nhất phải thiết lập: không phải như một sự kiện trí thức hay trừu tượng, mà trong cảm nhận thực sự, trong thấu hiểu cụ thể.
Đây là một sự kiện, không phải một giả định, không phải một quan niệm trí thức, mà sự kiện là thế giới là tôi và tôi là thế giới. Thế giới là xã hội tôi đang sống trong đó, với văn hóa, đạo đức, bất bình đẳng, mọi hỗn loạn tiếp diễn, trong xã hội, đó là chính tôi đang hành động. Và văn hóa là cái tôi đã tạo ra và cái tôi bị mắc vào. Tôi nghĩ đấy là một sự kiện không thể phản bác, một sự kiện tuyệt đối.
Naudé: Vâng. Nhưng tại sao người ta không thấy ra điều này? Chúng ta có những nhà chính trị, những nhà sinh thái, những nhà kinh tế, chúng ta chuẩn bị những người lính, tất cả đều cố gắng giải quyết những vấn nạn bên ngoài chỉ đơn giản là những vấn nạn bên ngoài.
KRISHNAMURTI: Chắc chắn bởi vì thiếu một loại giáo dục đúng: chuyên môn hóa, tham muốn chinh phục và đến mặt trăng và chơi gôn ở đó, vân vân và vân vân! Chúng ta luôn luôn muốn thay đổi cái bên ngoài, mong nhờ đó mà thay đổi cái bên trong. “Hãy tạo ra môi trường chánh đúng, rồi tâm thức con người sẽ thay đổi theo đó“, những người duy vật đã nói thế.
Naudé: Đó là điều họ nói. Thật ra, mỗi đại học với mọi phân khoa, với mọi chuyên gia của nó, người ta có thể nói rằng những đại học vĩ đại ấy được đặt nền và xây dựng trên niềm tin rằng thế giới có thể được thay đổi bằng một tri thức tổng hợp chuyên môn nào đó trong những phân khoa khác nhau.
KRISHNAMURTI: Vâng. Tôi nghĩ chúng ta quên mất điều căn bản này, thế giới là tôi và tôi là thế giới. Tôi nghĩ đây là một cảm nhận, không phải một ý niệm, đem đến một cái nhìn hoàn toàn khác vào toàn bộ vấn đề này.
Naudé: Nó là một cuộc cách mạng lớn lao. Thấy vấn nạn là vấn nạn của con người mà không phải vấn nạn của môi trường của nó, đó là một bước khổng lồ con người chưa có.
KRISHNAMURTI: Người ta không muốn đi bước nào. Họ quen với cái tổ chức bên ngoài này và hoàn toàn lơ là với cái gì xảy ra bên trong. Thế nên khi người ta thấu hiểu rằng thế giới là tôi và tôi là thế giới, bấy giờ hành động của tôi không tách biệt, không phải là cá nhân đối nghịch với cộng đồng; cũng không phải sự quan trọng của cá nhân và sự cứu thoát cho nó. Khi người ta thấu hiểu rằng thế giới là tôi và tôi là thế giới, bấy giờ bất cứ hành động nào xảy ra, bất cứ thay đổi nào xảy ra, nó sẽ thay đổi toàn bộ ý thức con người.
Naudé: Ngài muốn giải thích điều đó chứ?
KRISHNAMURTI: Tôi, một con người, tôi thấu hiểu rằng thế giới là tôi và tôi là thế giới: chứng nghiệm, cảm thấy kết nối sâu xa, ý thức say mê sự kiện này.
Naudé: Vâng, hành động của tôi thực ra là thế giới; cách ứng xử của tôi là thế giới duy nhất, bởi vì những biến cố trong thế giới là ứng xử. Và ứng xử là cái bên trong. Thế nên cái bên trong và cái bên ngoài là một bởi vì những sự kiện lịch sử, những sự kiện của đời sống, thật ra là điểm tiếp xúc này giữa cái bên trong và cái bên ngoài. Đây thực sự là cách ứng xử của con người.
KRISHNAMURTI: Thế nên ý thức của thế giới là ý thức của tôi.
Naudé: Vâng.
KRISHNAMURTI: Ý thức của tôi là thế giới. Bây giờ sự khủng hoảng thì ở trong ý thức này, không ở trong tổ chức, không ở trong sự cải thiện những đại lộ – giật đổ những ngọn đồi để xây thêm nhiều đại lộ hơn.
Naudé: Những xe tăng lớn hơn, những hỏa tiễn liên lục địa.
KRISHNAMURTI: Ý thức tôi là thế giới và ý thức của thế giới là tôi. Khi có một thay đổi trong ý thức này, nó ảnh hưởng toàn bộ ý thức của thế giới. Tôi không biết ông có thấy điều ấy không.
Naudé: Đó là một sự kiện phi thường.
KRISHNAMURTI: Đó là một sự kiện.
Naudé: Chính ý thức ở trong vô trật tự; không có vô trật tự ở đâu khác. KRISHNAMURTI: Rõ ràng!
Naudé: Bởi thế những bệnh tật của thế giới là những bệnh tật của ý thức con người, và những bệnh tật của ý thức con người là những bệnh tật của tôi, sự vô trật tự của tôi.
KRISHNAMURTI: Bây giờ khi tôi thấu hiểu rằng ý thức của tôi là ý thức của thế giới, và ý thức của thế giới là tôi, bất cứ thay đổi nào xảy ra trong tôi đều ảnh hưởng toàn bộ ý thức.
Naudé: Người ta luôn luôn nói về điều này: thật tốt, tôi có thể thay đổi, những vẫn còn một cuộc chiến tranh ở Đông Dương!
KRISHNAMURTI: Rất đúng. Vẫn còn.
Naudé: Và những khu nhà ổ chuột và nạn nhân mãn.
KRISHNAMURTI: Dĩ nhiên, sẽ còn. Nhưng nếu mỗi người chúng ta thấy sự thật của điều này, rằng ý thức của thế giới là của tôi, và ý thức của tôi là ý thức của thế giới; và nếu mỗi chúng ta nhận thấy trách nhiệm về điều đó, mọi người thấy trách nhiệm về điều đó, thì sẽ sao? Và chính công việc của chúng ta là làm cho họ cảm nhận điều này; đó là phần hành của con người tôn giáo, hẳn chứ?
Naudé: Đây là một điều lớn lao.
KRISHNAMURTI: Đợi đã, hãy để tôi tiếp tục. Thế nên bấy giờ nó là một chuyển động. Nó không phải là một chuyển động cá nhân và sự cứu độ của nó. Nó là sự cứu độ, nếu ông thích dùng từ này, của toàn bộ ý thức của con người.
Naudé: Toàn thể, và sức khỏe của chính ý thức, nó là một cái trong đó chứa cái có vẻ ở ngoài và cái có vẻ ở trong.
KRISHNAMURTI: Đúng vậy. Chúng ta hãy nhớ điểm đó.
Naudé: Thế nên điều ngài đang nói chính là sức khỏe này, sự minh mẫn này và cái toàn thể ý thức này, nó luôn luôn thật ra là một thực thể không phân chia.
KRISHNAMURTI: Vâng, đúng vậy. Bây giờ khi người ta muốn tạo ra một thế giới khác, những nhà giáo dục, những nhà văn, những nhà tổ chức, khi họ thấu hiểu thế giới như nó đang là bây giờ là trách nhiệm của họ, khi ấy toàn bộ ý thức con người bắt đầu thay đổi. Cái đang là đó đang xảy ra trong một chiều hướng khác, họ chỉ nhấn mạnh tổ chức, phân chia; họ đang làm điều như vậy.
Naudé: Theo một cách tiêu cực.
KRISHNAMURTI: Theo một cách hủy hoại. Thế nên từ đó câu hỏi khởi lên: ý thức con người này, nó là tôi – nó là cộng đồng, xã hội, văn hóa, nó là mọi sự khủng khiếp do tôi sản xuất ra – ý thức này có thể trải qua một thay đổi tận gốc? Đó là vấn đề. Không phải chạy trốn vào cái thiêng liêng giả định, không trốn thoát. Bởi vì khi trong tâm thức chúng ta hiểu sự thay đổi này thì cái thiêng liêng ở đó, bạn khỏi phải tìm nó.
Naudé: Xin ngài giải thích sự thay đổi trong cái thức này cốt ở cái gì?
KRISHNAMURTI: Đó là điều chúng ta sắp nói bây giờ.
Naudé: Và rồi chúng ta có thể hỏi về cái thiêng liêng nếu nó khởi lên.
KRISHNAMURTI: (Dừng nghỉ) Trước hết, có khả năng nào cho sự thay đổi trong ý thức không? Hay bất kỳ thay đổi nào được làm một cách có ý thức thì không có thay đổi gì cả? Nói về một thay đổi trong ý thức hàm ý thay đổi từ cái này qua cái kia.
Naudé: Và cả hai cái này và cái kia đều ở trong ý thức.
KRISHNAMURTI: Đó là điều tôi muốn xác định trước tiên. Rằng khi chúng ta nói phải có một thay đổi trong ý thức, nó vẫn nằm trong lãnh vực ý thức.
Naudé: Cách chúng ta thấy sự trục trặc, và cách chúng ta thấy giải pháp, mà chúng ta gọi là thay đổi – đều nằm trong cùng một lãnh địa.
KRISHNAMURTI: Tất cả trong lãnh địa này và do đó không có thay đổi gì. Nghĩa là, nội dung của ý thức là ý thức và cả hai không tách lìa. Chúng ta hãy làm rõ điểm này. Ý thức được thành lập bằng mọi sự con người đã tích tập như kinh nghiệm, kiến thức, như khốn khổ, mê lầm, hủy hoại, bạo lực – tất cả cái này là ý thức.
Naudé: Cộng thêm những cái gọi là những giải pháp.
KRISHNAMURTI: Thượng Đế, không Thượng Đế, nhiều lý thuyết khác nhau về Thượng Đế, tất cả cái này là ý thức. Khi chúng ta nói về thay đổi trong ý thức chúng ta vẫn chỉ thay đổi những mảnh từ góc này qua góc khác.
Naudé: Vâng.
KRISHNAMURTI: Chuyển một tính chất thành một góc khác của mảnh đất.
Naudé: Thu xếp lại nội dung của cái hộp khổng lồ này. Chúng ta đang thay đổi những cái thay đổi được trong cùng một dãy những sự vật.
KRISHNAMURTI: Đúng. Bạn trình bày nó hoàn hảo hơn tôi. Khi chúng ta nói về thay đổi chúng ta nghĩ đến thu xếp những nội dung – đúng chứ? Điều đó hàm ý một người thu xếp và sự vật được thu xếp. Nhưng đấy vẫn là trong lãnh vực của ý thức.
Naudé: Có hai vấn đề. Ngài nói rằng không có ý thức nào ngoài nội dung của ý thức? Và thứ hai, không có thực thể nào để thu xếp, không có thực thể nào gọi là ‘tôi’ ngoài nội dung này của ý thức?
KRISHNAMURTI: Rõ ràng là không.
Naudé: Điều thứ nhất ngài nói, nếu tôi hiểu đúng, thì: ý thức này là tất cả cái chúng ta là và tất cả cái chúng ta có, và chính nó là vấn nạn như chúng ta đã thấy, ngài nói rằng ý thức
ấy là chính nội dung của nó, và không có cái gì được gọi là tâm thức ngoài nội dung của tâm thức?
KRISHNAMURTI: Tuyệt đối đúng.
Naudé: Ngài nói, ngoài những vấn nạn của con người, ngoài sự khốn khổ của nó, ngoài sự suy nghĩ của nó, ngoài những công thức của tâm thức của nó, hoàn toàn không có cái gì để chúng ta có thể gọi là tâm thức?
KRISHNAMURTI: Tuyệt đối đúng.
Naudé: Đây là một nhận định lớn. Ngài giải thích điều này chứ? Chúng tôi đều nghĩ – và điều đó đã được tôn giáo Ấn Độ chấp nhận từ ban sơ – rằng có một siêu thức ngoài cái vỏ ý thức này.
KRISHNAMURTI: Để tìm ra liệu có hay không cái gì vượt khỏi ý thức, tôi phải hiểu nội dung của ý thức này. Tâm thức phải vượt khỏi chính nó. Bấy giờ tôi sẽ tìm ra có cái gì khác nó hay không. Nhưng quy định có thì vô nghĩa, đó chỉ là một suy luận.
Naudé: Thế thì ngài nói rằng cái chúng ta thường gọi là ý thức chính là nội dung của ý thức này? Cái chứa đựng và cái được chứa đựng là một vật không thể phân chia?
KRISHNAMURTI: Đúng vậy.
Naudé: Và điểm thứ hai ngài nói là: không có thực thể nào để quyết định, muốn, và để thu xếp, khi những nội dung để thu xếp không có mặt.
KRISHNAMURTI: Nghĩa là, ý thức của tôi là ý thức của thế giới, và ý thức của thế giới là tôi. Đây là một chân lý, không phải là sáng chế của tôi hay dựa vào sự chấp nhận của bạn. Nó là một chân lý tuyệt đối. Cũng vậy, nội dung là ý thức: không có nội dung không có ý thức. Bây giờ khi chúng ta muốn thay đổi nội dung chúng ta thu xếp.
Naudé: Nội dung là bản thân việc thu xếp, bởi vì ngài có một điểm thứ ba, đó là không có người nào ngoài nội dung này để làm việc thu xếp nào.
KRISHNAMURTI: Hoàn toàn đúng.
Naudé: Thế nên người thu xếp và nội dung là một, và cái chứa đựng và nội dung là một.
KRISHNAMURTI: Người tư tưởng ở trong ý thức này nói rằng nó phải thay đổi, chính là ý thức đang cố gắng thay đổi. Tôi nghĩ rằng điều đó khá rõ ràng.
Naudé: Thế thì thế giới, ý thức và thực thể muốn thay đổi nó đều là một thực thể, chỉ giả dạng làm ba vai trò khác nhau.
KRISHNAMURTI: Nếu như vậy, thì cái gì là một con người muốn làm trống không hoàn toàn nội dung của ý thức? Thế nào là ý thức riêng biệt này, nó là tôi và thế giới với mọi khốn khổ, nó là thế nào để trải qua một thay đổi trọn vẹn. Thế nào là tâm thức – nó là ý thức, với tất cả nội dung của nó, với kiến thức tích tập của nó về quá khứ – tâm thức đó là thế nào để tự làm trống không tất cả nội dung của nó?
Naudé: Nhưng nghe ngài nói, người ta sẽ cho rằng: ý thức đó có thể trống không chăng, và khi nó trống không, việc này có giản lược người ta thành một trạng thái mông lung và bất động?
KRISHNAMURTI: Ngược lại. Để đến đó đòi hỏi sự tra hỏi lớn lao, lý trí và lý luận lớn lao, và nơi đó thông minh xuất hiện.
Naudé: Bởi vì một số người nghĩ rằng ý thức trống không thì giống như đứa trẻ mới sanh.
KRISHNAMURTI: Không, hoàn toàn không, thưa bạn. Chúng ta hãy đi chậm chậm từng bước ở điều này. Hãy bắt đầu lại. Ý thức tôi là ý thức của thế giới. Thế giới là tôi và nội dung của ý thức tôi là nội dung của thế giới. Nội dung của ý thức chính là ý thức.
Naudé: Và đó cũng là thực thể nói rằng nó ý thức.
KRISHNAMURTI: Bây giờ tôi tự hỏi, thấu hiểu tôi là cái đó, bấy giờ cái gì thay đổi? Naudé: Cái được thay đổi sẽ giải quyết ba bộ vấn nạn này mà thực ra chúng chỉ là một?
KRISHNAMURTI: Thay đổi hàm ý cái gì? Cách mạng hàm ý cái gì? – không phải cách mạng nơi bình diện vật chất.
Naudé: Chúng ta vượt khỏi nó.
KRISHNAMURTI: Cách mạng vật chất là sự hủy hoại phi lý nhất, sơ đẳng, kém thông minh nhất.
Naudé: Nó là phân mảnh trong ý thức này.
KRISHNAMURTI: Vâng.
Naudé: Ngài đang hỏi cái gì sẽ lập lại trật tự cho ý thức này – một trật tự toàn thể. KRISHNAMURTI: Có thể có trật tự trong ý thức này không?
Naudé: Đó là bước kế tiếp.
KRISHNAMURTI: Đó là điều bạn đang hỏi.
Naudé: Vì chúng ta thấy sự vô trật tự này, nó là buồn phiền và đau khổ, là sự vô trật tự trong ý thức toàn khối này, câu hỏi kế tiếp phải là: chúng ta làm gì về nó?
KRISHNAMURTI: Vâng.
Naudé: Và bởi vì không có thực thể để làm điều gì về nó…
KRISHNAMURTI: Chờ đã, chớ nhảy ngay vào đó.
Naudé: Bởi vì chúng ta đã thấy rằng không trật tự là thực thể.
KRISHNAMURTI: Chúng ta có thấu hiểu điều đó? Không. Chúng ta có thấu hiểu rằng người tư tưởng là phần của ý thức này và không phải là một thực thể tách lìa ngoài ý thức này? Chúng ta có thấu hiểu rằng người quan sát, thấy nội dung, khảo sát, phân tích, nhìn vào tất cả cái đó, chính là bản thân nội dung? Rằng người quan sát là nội dung?
Naudé: Vâng.
KRISHNAMURTI: Nhưng nêu chân lý là một việc, thấu hiểu, chứng ngộ nó là một việc khác.
Naudé: Đúng vậy. Tôi nghĩ chúng ta chưa hiểu đầy đủ rằng không có thực thể tách lìa khỏi cái mà chúng ta đang cố gắng thay đổi.
KRISHNAMURTI: Khi chúng ta nói về thay đổi thì có vẻ như là có một thực thể tách biệt bên trong ý thức, cái đó có thể đem lại một chuyển hóa.
Naudé: Chúng ta nghĩ chúng ta có thể bằng cách nào đó bước ra khỏi sự lộn xộn bẩn thỉu và nhìn vào nó rồi thu xếp. Chúng ta luôn tự nhủ, “Tốt, ta vẫn còn ở đây để làm về nó.” Và như vậy chúng ta cứ xếp đặt, thu xếp thêm nữa.
KRISHNAMURTI: Thêm lộn xộn, thêm mờ rối.
Naudé: Một thay đổi cách trang trí và sự việc xấu thêm.
KRISHNAMURTI: Ý thức của thế giới là ý thức của tôi. Trong ý thức đó tất cả nội dung nỗ lực, khốn khổ, ác độc, phiền lụy, tất cả hoạt động con người ở trong ý thức đó. Trong ý thức đó, con người tạo ra thực thể này, cái thực thể nói rằng, “Tôi tách biệt với ý thức của tôi.” Người quan sát ở đó nói, “Tôi khác với sự vật được quan sát.” Người tư tưởng nói, “Những tư tưởng của tôi thì khác với tôi.” Trước hết, đó là gì?
Naudé: Tất cả đều tin rằng hai thực thể khác nhau. Chúng ta tự nhủ, “Tôi phải không tức giận, tôi phải không buồn phiền, tôi phải cải thiện, tôi phải thay đổi chính mình.” Chúng ta nói như vậy trong mọi lúc, ngấm ngầm hay có ý thức.
KRISHNAMURTI: Bởi vì chúng ta nghĩ hai cái đó tách biệt. Bây giờ chúng ta đang cố gắng chỉ ra chúng không tách biệt, chúng là một, bởi vì nếu không có tư tưởng nào cả thì không có người tư tưởng.
Naudé: Đúng vậy.
KRISHNAMURTI: Nếu không có gì được quan sát thì không có người quan sát. Naudé: Có một trăm người quan sát và một trăm người tư tưởng suốt một ngày.
KRISHNAMURTI: Tôi chỉ nói: đó là sao? Tôi quan sát con diều hâu đuôi đỏ này bay qua. Tôi thấy nó. Khi tôi quan sát con chim ấy, tôi quan sát với hình ảnh tôi có về nó hay tôi chỉ đơn thuần quan sát? Có sự đơn thuần quan sát không? Nếu có một hình ảnh, nó là lời chữ, trí nhớ và mọi thứ ấy, bấy giờ có một người quan sát xem con chim bay qua. Nếu chỉ có sự quan sát đơn thuần, bấy giờ không có người quan sát.
Naudé: Xin ngài giải thích tại sao có một người quan sát khi nhìn con chim với một hình ảnh?
KRISHNAMURTI: Bởi vì người quan sát là quá khứ. Người quan sát là người kiểm duyệt, là kiến thức kinh nghiệm, trí nhớ tích tập; đó là người quan sát, với nó anh ta quan sát thế giới. Kiến thức tích tập của anh ta thì khác với kiến thức tích tập của bạn.
Naudé: Có phải ngài nói rằng toàn bộ ý thức này, nó là vấn nạn, thì không khác với người quan sát đang xử lý nó, và điều này có vẻ đưa chúng ta đến một bế tắc bởi vì sự vật chúng ta đang cố gắng thay đổi lại là người đang cố gắng thay đổi sự vật đó? Và câu hỏi là: rồi thì sao?
KRISHNAMURTI: Đúng như vậy. Nếu người quan sát là cái được quan sát, cái gì là bản chất của thay đổi trong ý thức? Đó là điều chúng ta cố gắng tìm ra. Chúng ta thấu hiểu rằng phải có một cách mạng tận gốc trong ý thức. Làm sao điều này xảy ra? Nó có xảy ra qua người quan sát? Khi người quan sát tách biệt với cái được quan sát, bấy giờ sự thay đổi chỉ
là thu xếp với những nội dung khác nhau của ý thức.
Naudé: Điều đó đúng.
KRISHNAMURTI: Bây giờ chúng ta hãy đi từ từ. Người ta thấu hiểu rằng người quan sát là cái được quan sát, người tư tưởng chính là tư tưởng, đó là một sự kiện. Chúng ta hãy ngừng ở đây một phút.
Naudé: Có phải ngài nói rằng người tư tưởng là toàn thể tất cả những tư tưởng tạo ra mê lầm rối rắm này?
KRISHNAMURTI: Người tư tưởng là tư tưởng, dù nhiều hay chỉ một.
Naudé: Nhưng có một khác biệt, bởi vì người tư tưởng nghĩ đến chính nó như là một thực thể kết tinh cụ thể. Dù qua sự bàn luận này, người tư tưởng vẫn thấy chính nó như là thực thể cụ thể mà mọi tư tưởng, mọi mê lầm này thuộc về.
KRISHNAMURTI: Thực thể cụ thể này, như bạn nói, là kết quả của tư tưởng. Naudé: Thực thể cụ thể này là…
KRISHNAMURTI: … Lắp ghép bởi tư tưởng.
Naudé: Lắp ghép bởi những tư tưởng của nó.
KRISHNAMURTI: Bởi tư tưởng, không phải “của nó”, bởi tư tưởng.
Naudé: Vâng.
KRISHNAMURTI: Và tư tưởng thấy rằng phải có một thay đổi. Cái thực thể cụ thể này, nó là kết quả của tư tưởng, hy vọng thay đổi nội dung.
Naudé: Chính nó.
KRISHNAMURTI: Và bởi thế có một trận chiến giữa người quan sát và cái được quan sát. Trận chiến nhằm cố gắng kiểm soát, thay đổi, uốn nắn, đè nén, tạo hình dáng mới, đó là trận chiến tiếp diễn mọi lúc trong cuộc đời chúng ta. Nhưng khi tâm thức thấu hiểu chân lý người quan sát, người kinh nghiệm, người tư tưởng chính là tư tưởng, là kinh nghiệm, là cái được quan sát, bấy giờ cái gì xảy ra? – thấy rằng phải có một thay đổi tận gốc.
Naudé: Đó là một sự kiện.
KRISHNAMURTI: Và khi người quan sát, muốn thay đổi, thấu hiểu rằng nó là phần của cái cần thay đổi?
Naudé: Rằng nó thật ra là một tên trộm giả vờ làm cảnh sát để bắt chính nó. KRISHNAMURTI: Đúng. Thế thì cái gì xảy ra?
Naudé: Ngài thấy đó, người ta không tin vào điều này; họ nói, “Do thực tập tôi đã ngưng hút thuốc, do tập luyện tôi đã dậy sớm hơn, tôi đã bớt nặng cân và tôi đã học những ngoại ngữ”; họ nói, “Tôi là ông chủ của số phận tôi, tôi có thể thay đổi” – mọi người thực sự tin điều này. Mọi người tin rằng họ có thể bằng cách nào đó rèn luyện cuộc đời họ, cách xử sự của họ, suy nghĩ của họ.
KRISHNAMURTI: Nghĩa là, người ta phải hiểu ý nghĩa của nỗ lực, tại sao có nỗ lực. Đó có phải là cách đem lại một chuyển hóa trong ý thức? Qua nỗ lực, qua ý chí.
Naudé: Vâng.
KRISHNAMURTI: Thế là gì? Thay đổi qua xung đột. Khi nào có ý chí tác động, bèn có một hình thức chống cự, chiến thắng, đàn áp, bác bỏ, trốn thoát – mọi cái này là ý chí trong hành động. Lúc đó đời sống là một trận chiến thường trực.
Naudé: Ngài nói rằng đơn giản là một yếu tố trong ý thức này thống trị yếu tố khác? KRISHNAMURTI: Hiển nhiên. Một phần mảnh thống trị phần mảnh khác. Naudé: Và vẫn có xung đột? Vẫn có vô trật tự do sự việc đó. Vâng, điều này rõ ràng.
KRISHNAMURTI: Thế nên yếu tố trung tâm vẫn tồn tại. Phải có một chuyển hóa tận gốc trong ý thức và của ý thức. Bây giờ, điều này xảy ra thế nào? Đó là câu hỏi đích thực.
Naudé: Vâng.
KRISHNAMURTI: Chúng ta đã tiếp cận nó bằng cách nghĩ rằng một phần mảnh thắng thế đối với phần mảnh còn lại, đối với những phần mảnh khác trong lãnh vực của ý thức.
Naudé: Quả vậy.
KRISHNAMURTI: Bây giờ phần mảnh này chúng ta gọi là cao cấp, trí thông minh, trí năng, luận lý, là sản phẩm của nhiều phần mảnh khác. Một phần mảnh đã có quyền trên những phần mảnh khác. Nhưng nó vẫn là một phần mảnh và do đó có một trận chiến giữa nó và nhiều phần mảnh khác. Thế thì có thể thấy sự phân mảnh này không thể giải quyết những vấn nạn của chúng ta không?
Naudé: Bởi vì nó gây ra phân chia và xung đột, ngay từ đầu nó đã là vấn nạn của chúng ta.
KRISHNAMURTI: Nghĩa là, khi có phân chia giữa đàn ông và đàn bà bèn có xung đột. Khi có sự phân chia giữa Đức hay Anh hay Nga, bèn có xung đột.
Naudé: Và tất cả mọi cái ấy là sự phân chia trong bản thân ý thức. Cũng thế, sự tập luyện của ý chí trên ý thức lại là một phân chia trong ý thức.
KRISHNAMURTI: Thế nên người ta phải thoát khỏi ý niệm rằng bằng ý muốn người ta có thể thay đổi nội dung. Hiểu điều này rất quan trọng.
Naudé: Vâng, sự thi hành ý muốn chỉ là sự chuyên chế của một phần mảnh trên phần mảnh khác.
KRISHNAMURTI: Điều đó đơn giản. Người ta cũng thấu hiểu rằng thoát khỏi ý muốn là thoát khỏi sự phân mảnh này. Thế thì một tâm thức phải làm gì hay không làm gì, khi nó thấy ý muốn không phải là cách thức, khi nó thấy rằng một phân mảnh cai trị phần mảnh khác thì vẫn là một phân mảnh và bởi thế đó là xung đột? – và bởi thế vẫn ở trong trường xứ của khốn khổ. Bấy giờ một tâm thức như thế làm gì?
Naudé: Vâng, đây thực sự là câu hỏi.
KRISHNAMURTI: Bây giờ, đối với một tâm thức như thế có điều gì để làm?
Naudé: Khi ngài nói thế, người ta sẽ nói, “Nếu không có điều gì để làm bấy giờ gánh xiếc tiếp tục.”
KRISHNAMURTI: Không, thưa bạn. Nào! Gánh xiếc chỉ tiếp tục khi có sự thi hành ý muốn.
Naudé: Ngài đang nói rằng gánh xiếc mà chúng ta đang bàn luận và cố gắng thay đổi, thực ra làm bằng ý muốn chứ?
KRISHNAMURTI: Ý muốn tôi chống lại ý muốn bạn, vân vân.
Naudé: Ý muốn tôi chống lại phần khác của tôi.
KRISHNAMURTI: Và vân vân. Một tâm thức bắt đầu bằng cách nói, “Tôi phải thay đổi”, thấu hiểu rằng một phần mảnh xác nhận nó phải thay đổi thì vẫn còn trong xung đột với phần mảnh khác, nó là phần của ý thức. Nó thấu hiểu điều đó. Bởi thế nó cũng thấu hiểu rằng ý muốn, đã trở nên quen thuộc với con người, được cho là cách duy nhất để đem lại thay đổi…
Naudé: … thì không phải là yếu tố cho sự thay đổi.
KRISHNAMURTI: Không phải là yếu tố cho sự thay đổi. Bởi thế một tâm thức như vậy đã đến một tầm cao khác.
Naudé: Nó đã quét sạch một phần lớn.
KRISHNAMURTI: Một lượng rác rưởi mênh mông.
Naudé: Nó đã sạch sẽ sự phân chia giữa trong và ngoài, sự phân chia giữa ý thức và nội dung của ý thức. Nó cũng sạch sự phân chia giữa chủ thể ý thức và ý thức thuộc về nó và những phần mảnh khác nhau. Và nó cũng sạch sự phân chia giữa những phần mảnh khác trong ý thức ấy.
KRISHNAMURTI: Thế thì cái gì đã xảy ra? Cái gì đã xảy ra cho tâm thức đã thấy tất cả điều này? Không lý thuyết mà thực tế nó cảm thấy và nói, “Không có ý muốn nữa trong đời tôi.” Nghĩa là không có sự kháng cự, chống trả nữa trong đời tôi.
Naudé: Điều này thật phi thường như một hôm tìm thấy bầu trời nơi đáy tối. Nó là một thay đổi lớn lao, khó mà nói sự thay đổi đó lớn đến mức độ nào.
KRISHNAMURTI: Nó đã xảy ra! Đó là quan điểm của tôi.
Naudé: Ngài nói rằng không còn ý muốn, không còn cố gắng, không còn phân chia trong ngoài…
KRISHNAMURTI: … không còn phân mảnh trong ý thức.
Naudé: Không còn phân mảnh.
KRISHNAMURTI: Đây là điều rất quan trọng cần hiểu, thưa bạn.
Naudé: Không còn người quan sát tách khỏi cái mà nó quan sát.
KRISHNAMURTI: Nghĩa là gì? Không có phân mảnh trong ý thức. Nghĩa là ý thức chỉ hiện hữu khi có xung đột giữa những phần mảnh.
Naudé: Tôi không chắc tôi đã hiểu điều đó. Ý thức là những phần mảnh của nó?
KRISHNAMURTI: Ý thức là những phần mảnh của nó và ý thức là những trận chiến giữa những phần mảnh.
Naudé: Ngài nói chỉ có những phần mảnh vì chúng xung đột, chiến đấu với nhau? Khi chúng không chiến đấu với nhau chúng không phải là những phần mảnh, bởi vì chúng
không hành động như những phần tử. Hành động của một phần trên phần khác chấm dứt. Đó là điều ngài nói là phân mảnh. Phân mảnh là như vậy.
KRISHNAMURTI: Hãy thấy cái gì xảy ra!
Naudé: Những phần mảnh biến mất khi chúng không hành động chống trái nhau. KRISHNAMURTI: Dĩ nhiên như vậy! Khi Pakistan và Ấn Độ…
Naudé: … không đánh nhau nữa, thì không còn Pakistan và Ấn Độ.
KRISHNAMURTI: Dĩ nhiên như vậy.
Naudé: Ngài nói rằng đó là sự thay đổi?
KRISHNAMURTI: Hãy chờ, tôi chưa biết. Chúng ta sẽ thâm nhập việc này. Một tâm thức con người đã thấu hiểu, thể nghiệm rằng thế giới là “tôi” và tôi là thế giới, ý thức của tôi là ý thức của thế giới, và ý thức của thế giới là tôi. Nội dung của ý thức với mọi khốn khổ vân vân của nó là ý thức. Và trong ý thức ấy có hàng ngàn phần mảnh. Một phần mảnh trong số đó trở nên chủ quyền, người kiểm duyệt, người quan sát, người khảo sát, người tư tưởng.
Naudé: Ông trùm.
KRISHNAMURTI: Ông trùm. Và như vậy nó duy trì sự phân mảnh. Hãy thấy sự quan trọng của điều này! Khoảnh khắc nó đảm đương chủ quyền, nó phải duy trì phân mảnh.
Naudé: Vâng, rõ ràng. Bởi vì đó là một phần của ý thức tác động lên phần còn lại của ý thức.
KRISHNAMURTI: Thế nên nó phải duy trì xung đột. Và xung đột là ý thức.
Naudé: Ngài đã nói những phần mảnh là ý thức; và bây giờ ngài nói những phần mảnh thật ra là nội dung, phải không?
KRISHNAMURTI: Dĩ nhiên.
Naudé: Những phần mảnh là xung đột. Không có phần mảnh nào mà không xung đột? KRISHNAMURTI: Khi nào thì ý thức hoạt động?
Naudé: Khi nó ở trong xung đột.
KRISHNAMURTI: Hiển nhiên. Ngược lại là tự do, tự do để quan sát. Thế nên cách mạng tận gốc trong ý thức, và của ý thức, xảy ra khi không có xung đột gì cả.
MALIBU, CALIFORNIA
27 tháng Ba 1971
2
VỀ TỐT VÀ XẤU
Trò Chuyện giữa J. Krishnamurti
và Alain Naudé
Naudé: Tốt và xấu, thiện và ác có hiện hữu không, hay chúng chỉ là những quan điểm bị điều kiện hóa? Có một sự gì là xấu như vậy không và vậy thì nó là gì? Có một sự gì như là tội
lỗi không? Và có một sự gì như là thánh thiện, tánh tốt không? Và cái gì là tốt thực sự và sâu xa?
KRISHNAMURTI: Sáng nay tôi đang suy nghĩ về cùng chủ đề với những câu hỏi của bạn, có một cái thiện tuyệt đối và một cái ác tuyệt đối không. Tôi nghĩ về chuyện này ngày hôm trước, khi tôi thấy trên truyền hình những người giết những con chó biển còn nhỏ. Đó là một điều khủng khiếp, tôi quay mặt đi ngay. Giết luôn luôn là sai lầm, không chỉ người mà cả thú vật. Và người tôn giáo, không phải là người tin vào tôn giáo, mà thực sự tâm thức tôn giáo, thì luôn luôn tránh mọi hình thức giết hại. Dĩ nhiên, khi bạn ăn thực vật, bạn cũng giết – thực vật – nhưng đó là hình thức nhẹ nhất của sự giết chết và hình thức giản dị nhất để sống còn: tôi không muốn gọi đó là giết chết. Người ta đã thấy ở Ấn Độ, ở châu Âu và châu Mỹ sự chấp nhận giết chết trong chiến tranh, trong thảm sát có tổ chức là chiến tranh. Cũng có người “giết” bằng lời nói, bằng cử chỉ, bằng một cái nhìn, bằng khinh miệt: loại giết này người tôn giáo cũng không ưa. Nhưng mặc dầu thế, giết hại vẫn tiếp tục – giết chết, bạo lực, hung dữ, kiêu căng, hiếu chiến – mọi thứ dẫn đến làm tổn thương, tàn bạo với những người khác bằng hành động hay tư tưởng. Hay chiến đấu là một hình thức giải trí, để giết cái gì, để chiến thắng? Thế nên khi người ta nhìn tất cả sự việc này, người ta hỏi liệu có một cái gì khác như là cái ác, cái xấu tự bản thân, hoàn toàn không có cái tốt; và đâu là khoảng cách giữa xấu và tốt. Xấu có phải là sự giảm dần của tốt, từ từ thành xấu? Hay tốt là sự giảm dần của xấu, dần dần thành tốt? Nghĩa là, qua thời gian trung gian, chuyển động từ tốt đến xấu, và từ xấu đến tốt?
Bây giờ có một cái gì như là tuyệt đối tốt, và tuyệt đối xấu? Hay nó là một tiệm tiến: tốt tương đối và xấu tương đối?
Naudé: Và chúng hiện hữu như là những sự kiện ngoài những quan điểm bị điều kiện hóa? Chẳng hạn, với người Pháp trong chiến tranh thì người Đức xâm lăng là xấu; và tương tự với người Đức, lính Đức thì tốt, tượng trưng sự che chở. Cái gì là cái tốt và cái xấu, một cách tuyệt đối? Hay đó chỉ kết quả của một quan điểm bị điều kiện hóa?
KRISHNAMURTI: Cái tốt có tùy thuộc những điều kiện môi trường, văn hóa, kinh tế không? Và nếu có, nó là tốt không? Cái tốt có thể nở hoa như sự điều kiện hóa của môi trường và văn hóa? Và xấu cũng là kết quả của văn hóa chung quanh? Nó vận hành trong khuôn khổ này hay vận hành ngoài đó? Mọi câu hỏi này được bao gồm khi chúng ta hỏi: có chăng một cái tốt tuyệt đối và một cái xấu tuyệt đối?
Naudé: Xấu như một sự kiện, một sự vật.
KRISHNAMURTI: Bởi thế trước hết chúng ta hãy khảo sát có chăng cái tốt tuyệt đối. Không phải theo nghĩa cái tốt liên hệ với Thượng Đế hay gần gần với ý niệm Thượng Đế, bởi vì bấy giờ cái tốt ấy trở nên thuần túy suy luận. Bởi vì Thượng Đế với hầu hết người ta thực sự là một sự giả vờ của đức tin vào cái gì đó – cái gì tuyệt hảo, cao cả.
Naudé: An lạc?
KRISHNAMURTI: An lạc và vân vân. Bây giờ cái gì là tốt? Tôi cảm thấy cái tốt là trật tự toàn vẹn. Không chỉ bên ngoài, mà nhất là bên trong. Tôi nghĩ rằng trật tự ấy có thể tuyệt đối, như trong toán học tôi tin ở đó có trật tự trọn vẹn. Và chính không trật tự dẫn đến hỗn độn, đến hủy diệt, đến vô chính phủ, đến cái gọi là xấu.
Naudé: Vâng.
KRISHNAMURTI: Trong khi trật tự toàn vẹn trong con người, trật tự trong tâm trí, trật tự trong trái tim, trật tự trong những hoạt động thân thể – hòa điệu giữa ba cái là cái tốt.
Naudé: Những người Hy Lạp thường nói rằng con người hoàn hảo đã hòa hợp toàn vẹn với tâm trí, trái tim và thân thể.
KRISHNAMURTI: Đúng. Thế nên chúng ta sẽ nói trong lúc này rằng cái tốt, lòng tốt là trật tự tuyệt đối. Và vì hầu hết con người sống trong vô trật tự, họ góp phần vào mọi hình thức phiền lụy, chúng cuối cùng đưa đến hủy hoại, hung dữ, bạo động, những tổn hại khác nhau, cả tinh thần và vật chất. Đối với tất cả cái đó một từ có thể được dùng: “xấu, ác”. Nhưng tôi không thích từ “xấu, ác” ấy bởi vì nó tải nặng ý nghĩa Thiên Chúa giáo, với sự kết tội và thành kiến.
Naudé: Điều kiện hóa.
KRISHNAMURTI: Đúng vậy. Ở Ấn Độ và châu Á những từ “xấu, ác”, “tội lỗi”, luôn luôn chất nặng, cũng như “tốt, thiện”. Thế nên chúng ta gạt đi mọi tích tập quanh những từ ấy và nhìn vào đó như mới. Đó là: có trật tự tuyệt đối trong chính mình không? Cái trật tự tuyệt đối này có thể xảy ra trong chính mình và do đó trong thế giới bên ngoài? Bởi vì thế giới là tôi, và tôi là thế giới; ý thức của tôi là ý thức của thế giới, và ý thức của thế giới là tôi. Thế nên khi có trật tự trong con người bấy giờ có trật tự trong thế giới. Bây giờ trật tự này có thể nào tuyệt đối không? Nghĩa là: trật tự trong tâm trí, trong lòng và trong những hoạt động thân thể. Nghĩa là, hài hòa trọn vẹn. Làm sao điều này có thể xảy ra? Đó là một điểm.
Điểm khác là: trật tự có phải là cái gì được sao chép theo một bản vẽ? Trật tự có được tiền chế bởi tư tưởng, bởi trí năng, và sao chép trong hành động bằng trái tim? Hay trong tương quan? Thế thì trật tự là một bản thiết kế? Như thế nào trật tự này có mặt?
Naudé: Đúng.
KRISHNAMURTI: Trật tự là đức hạnh. Và vô trật tự là không đức hạnh, là tai hại, là hủy hoại, là không trong sạch – nếu chúng ta có thể dùng từ này.
Naudé: Người ta nghĩ đến từ Sanskrit “Adharma”, phi pháp.
KRISHNAMURTI: Adharma, vâng. Thế thì trật tự là cái gì lắp ghép theo một bản vẽ của kiến thức, tư tưởng? Hay trật tự nằm ngoài lãnh vực của tư tưởng và kiến thức? Người ta cảm thấy có cái tốt tuyệt đối, không phải như một quan niệm cảm xúc, nhưng người ta biết, nếu người ta đi vào chính mình một cách sâu xa, rằng có một cái như vầy: trọn vẹn, tuyệt đối, cái tốt không thể hủy bỏ, hay trật tự. Và trật tự này không phải là cái gì do tư tưởng lắp ghép; nếu như vậy, thì nó tuân theo một bản thiết kế, mà nếu nó do bắt chước thì sự bắt chước sẽ dẫn đến vô trật tự, hay đến sự o ép. O ép, bắt chước, và sự từ chối cái đang là, là sự bắt đầu của vô trật tự, cuối cùng đưa đến cái gọi là xấu, ác. Thế nên chúng ta hỏi: cái tốt, lòng tốt, nó là trật tự và đức hạnh, có là sản phẩm của tư tưởng? Nghĩa là nó có thể được trau dồi bởi tư tưởng không? Có khi nào đức hạnh được trau dồi không? Trau dồi, bồi dưỡng hàm ý từ từ mà có, nghĩa là thời gian.
Naudé: Tổng hợp của trí óc.
KRISHNAMURTI: Vâng. Bây giờ đức hạnh có phải là kết quả của thời gian? Và như vậy trật tự là việc tiến hóa? Và trật tự tuyệt đối, cái tốt, lòng tốt tuyệt đối là một chuyện tăng trưởng, trau dồi từ từ, tất cả đều hàm ý thời gian? Như chúng ta nói hôm trước, tư tưởng là sự đáp ứng của trí nhớ, kiến thức và kinh nghiệm, nó là quá khứ, nó được chứa giữ trong óc. Trong chính những tế bào óc, quá khứ hiện diện. Thế thì đức hạnh nằm trong quá khứ và do đó có thể trau dồi, thúc đẩy? Hay đức hạnh, trật tự, chỉ ở trong cái bây giờ? Cái bây giờ thì không liên hệ đến quá khứ.
Naudé: Ngài đang nói cái tốt, lòng tốt là trật tự và trật tự này không phải là sản phẩm của tư tưởng; nhưng trật tự, nếu có, phải hiện hữu trong xử sự, xử sự trong thế giới và trong tương quan. Người ta luôn nghĩ rằng sự xử sự đó phải được đặt kế hoạch, trật tự đó là kết quả của đặt kế hoạch. Rồi khi họ nghe ngài, rằng tỉnh giác, trạng thái của hiện thể ngài nói đến, thì không có chỗ cho hành động của tư tưởng, họ có cảm giác rằng đây là một loại năng lượng không hiện thực, nó không thể có hành động và tương quan với thế giới con người, những biến cố và xử sự. Bởi thế họ nghĩ nó không có giá trị thực, không phải là cái có thể gọi là một ý nghĩa có tính thời gian và lịch sử.
KRISHNAMURTI: Đúng vậy, thưa bạn.
Naudé: Ngài đang nói rằng cái tốt là trật tự và trật tự không thể lập kế hoạch.
KRISHNAMURTI: Khi chúng ta nói đến trật tự, chúng ta không phải nói đến trật tự trong cư xử, trong tương quan, cũng không phải là một trật tự trừu tượng, không phải là một cái tốt, lòng tốt ở thiên đường, mà trật tự, cái tốt, lòng tốt trong tương quan và hành động ngay trong bây giờ. Khi chúng ta nói về lập kế hoạch, rõ ràng ở đó phải có sự lập kế hoạch nào đó.
Naudé: Kiến trúc.
KRISHNAMURTI: Kiến trúc, làm đường sắt, lên mặt trăng và vân vân, phải có một bản vẽ, một kế hoạch, một hoạt động rất phối hợp và thông minh. Nhưng chúng ta đang nói đến một điều hoàn toàn khác. Chúng ta đang hỏi liệu có trật tự tuyệt đối trong xử sự của con người, có cái tốt tuyệt đối, như là trật tự, trong chính mình và do đó trong thế giới không. Và chúng ta nói trật tự không thể lập kế hoạch, không bao giờ có thể lập kế hoạch. Nếu nó được lập kế hoạch, bấy giờ tâm thức tìm kiếm an toàn, bởi vì trí óc đòi hỏi an toàn; khi tìm kiếm an toàn nó sẽ đè nén, hay hủy diệt hay làm méo mó cái đang là và cố gắng tuân thủ, bắt chước. Chính sự bắt chước và tuân theo này là vô trật tự, từ đó mọi phiền lụy bắt đầu, những loạn thần và những méo mó đủ loại của tâm thức và trái tim. Lập kế hoạch hàm ý kiến thức.
Naudé: Suy nghĩ.
KRISHNAMURTI: Kiến thức, suy nghĩ và làm cho tư tưởng thành trật tự là những ý tưởng. Thế nên chúng ta hỏi: đức hạnh có phải là kết quả của lập kế hoạch? Rõ ràng là không. Khoảnh khắc cuộc đời chúng ta được kế hoạch hóa theo một tiêu chuẩn, khi đó bạn không sống, bạn chỉ tuân thủ theo một kiểu mẫu nào đó và do đó sự tuân theo này dẫn đến mâu thuẫn trong chính nó. “Cái đang là“ và “cái nên là” nuôi dưỡng mâu thuẫn và xung đột. Chính xung đột này là nguồn gốc của vô trật tự. Thế thì trật tự, đức hạnh, cái tốt, lòng tốt là trong khoảnh khắc này của cái hiện tại. Và bởi thế nó thoát khỏi quá khứ. Tự do này có thể tương đối.
Naudé: Ý ngài là sao?
KRISHNAMURTI: Người ta có thể bị điều kiện hóa do văn hóa, môi trường… Người ta hoặc là tự giải thoát hoàn toàn khỏi mọi điều kiện hóa và bởi thế tuyệt đối tự do; hay đó có thể là sự giải điều kiện hóa một phần.
Naudé: Vâng, thoát khỏi một số những điều kiện…
KRISHNAMURTI: … và phát triển thành cái khác.
Naudé: Hay chỉ thải bỏ một phần như Thiên Chúa giáo và những cấm kỵ của nó.
KRISHNAMURTI: Thế nên thải bỏ từ từ có vẻ có trật tự, nhưng không phải; bởi vì sự bóc vỏ từ từ sự điều kiện hóa tạm thời làm xuất hiện vẻ bề ngoài của tự do, nhưng đó không phải là tự do tuyệt đối.
Naudé: Ngài đã nói tự do là lúc bắt đầu chứ không phải lúc cuối cùng. Thế nghĩa là gì?
KRISHNAMURTI: Nó là thế này: Tự do là bây giờ, không phải tương lai. Tự do, trật tự, hay cái tốt, lòng tốt là bây giờ, nó tự biểu hiện trong cư xử.
Naudé: Vâng, nếu khác thì không có ý nghĩa.
KRISHNAMURTI: Nếu khác thì không có ý nghĩa gì. Xử sự trong tương quan không phải là chỉ với một cá nhân đặc biệt, thân thiết với bạn, mà xử sự với mọi người.
Naudé: Không có những yếu tố của quá khứ khiến người ta xử sự, vậy cái gì làm chúng ta xử sự? Với rất nhiều người, sự tự do này có vẻ là một sự vật không hiện thực, như một bầu trời u ám, một vật không có vật chất như vậy. Cái gì trong tự do này khiến chúng ta xử sự trong thế giới với trật tự?
KRISHNAMURTI: Thưa bạn, hãy xem. Chúng ta đã nói trong buổi chuyện trò vừa rồi rằng tôi là thế giới và thế giới là tôi. Chúng ta nói ý thức của thế giới là ý thức của tôi. Ý thức của tôi là ý thức của thế giới. Khi bạn có một nhận xét như vậy, hoặc nó chỉ là ngôn ngữ và bởi thế chẳng có nghĩa gì, hay nó là cái gì thật sự, sống động, trọng yếu. Khi người ta thấu hiểu nó là trọng yếu, trong sự thấu hiểu này là lòng bi – lòng bi đích thực, không phải cho một hay hai, mà lòng bi cho mọi người, mọi sự. Tự do là lòng bi này, nó không phải không hiện thực như một ý tưởng.
Naudé: Như một trạng thái thu rút.
KRISHNAMURTI: Tương quan của tôi chỉ là trong cái bây giờ, không trong quá khứ, bởi vì tương quan của tôi cắm rễ trong quá khứ thì bây giờ tôi không liên hệ. Thế nên tự do là lòng bi, và nó đến khi có sự thấu hiểu sâu xa và thật thực sự rằng tôi là thế giới, thế giới là tôi. Tự do, lòng bi, trật tự, đức hạnh, cái tốt là một; và đó là tuyệt đối. Bây giờ tương quan nào có sự không tốt, bất thiện – được gọi là xấu, ác, tội lỗi, tội lỗi nguyên thủy – tương quan nào có sự bất thiện với cái trật tự kỳ diệu này?
Naudé: Nó không phải là sản phẩm của suy nghĩ, văn minh, văn hóa.
KRISHNAMURTI: Cái gì là tương quan giữa hai cái đó? Không có. Thế nên khi chúng ta lìa khỏi trật tự này – lìa khỏi theo nghĩa xử sự sai lầm – người ta có đi vào lãnh vực của cái xấu, ác nếu chúng ta có thể dùng từ ấy? Hay cái xấu là cái gì hoàn toàn tách lìa cái tốt?
Naudé: Hoặc lệch ra khỏi trật tự của cái tốt đã là một lối vào trường sở của cái xấu, hay hai cái này không thể tiếp xúc với nhau?
KRISHNAMURTI: Đúng vậy. Tôi xử sự sai lầm. Tôi nói một lời dối trá. Tôi tổn thương người khác một cách có ý thức hay vô ý thức, nhưng tôi có thể xóa sạch nó. Tôi có thể xóa nó bằng ca ngợi, bằng cách nói, “tha thứ cho tôi”. Điều đó có thể được làm ngay.
Naudé: Nó có thể chấm dứt.
KRISHNAMURTI: Thế thì tôi tìm ra điều này: sự không chấm dứt của điều đó, mang nó theo trong tâm thức mình ngày qua ngày, như hận thù, như một phẫn uất…
Naudé: … tội lỗi, sợ hãi…
KRISHNAMURTI: … nó có nuôi dưỡng cái xấu không? Bạn theo dõi chứ? Naudé: Vâng.
KRISHNAMURTI: Nếu tôi tiếp tục với nó, giữ trong tâm thức mối phẫn uất đối với bạn, mang nó ngày này sang ngày khác, sự phẫn uất bao gồm thù ghét, ghen tỵ, xung khắc – tất cả cái này là bạo lực. Thế thì cái gì là tương quan của bạo lực với cái tốt và cái xấu? Cái gì là tương quan giữa bạo lực và cái tốt? Rõ ràng không có chút nào cả! Nhưng bạo lực tôi đã nuôi dưỡng – dù là sản phẩm của xã hội, của văn hóa, môi trường hay thừa kế từ thú vật – bạo lực ấy, bằng cách trở nên tỉnh giác về nó, có thể được xóa tan.
Naudé: Vâng.
KRISHNAMURTI: Không phải một sự xóa sạch dần dần; xóa sạch nó như bạn lau chùi một vật sạch…
Naudé: … chẳng hạn một vết trên bức tường.
KRISHNAMURTI: Bấy giờ bạn luôn luôn ở trong cái tốt, lòng tốt ấy.
Naudé: Ngài nói rằng cái tốt đó là một chuyện hoàn toàn phủ định?
KRISHNAMURTI: Vâng, nó phải như vậy.
Naudé: Và theo cách đó cái phủ định chẳng liên quan gì đến cái khẳng định, bởi vì nó không phải là kết quả của một sự giảm sút hay tích lũy của cái khẳng định. Cái phủ định hiện hữu khi cái khẳng định hoàn toàn vắng mặt.
KRISHNAMURTI: Vâng; hãy tiếp cận nó theo cách khác. Sự phủ định của phẫn uất, sự phủ định của bạo lực và sự phủ định của tiếp tục bạo lực, sự phủ định này là cái tốt.
Naudé: Là sự làm trống không.
KRISHNAMURTI: Sự làm trống không bạo lực là sự giàu có của cái tốt. Naudé: Bởi thế cái tốt thì luôn luôn nguyên vẹn.
KRISHNAMURTI: Vâng, nó không bao giờ suy sụp, không phân mảnh. Nào, bạn! Thế thì có một cái gì như là xấu tuyệt đối? Tôi không biết bạn có bao giờ xem điều này: Ở Ấn Độ tôi đã thấy những tượng nhỏ bằng đất sét với những cây kim, hay gai chích vào, tôi đã thấy rất thường. Hình ảnh để tượng trưng một người mà bạn muốn làm tổn thương. Ở Ấn Độ có những cây gai rất dài và chúng được cắm trong những bức tượng đất sét ấy.
Naudé: Tôi không biết họ làm điều ấy ở Ấn Độ.
KRISHNAMURTI: Tôi đã thấy điều đó. Bây giờ có một hành động quyết tâm làm nảy sanh cái xấu trong người khác, để làm tổn thương người khác.
Naudé: Cố ý. Đây phải là xấu ác, thưa ngài.
KRISHNAMURTI: Tương quan của nó với tốt là gì – tốt như tất cả điều chúng ta đã nói? Đây là một ý định thực sự làm tổn thương người khác.
Naudé: Vô trật tự được tổ chức, người ta có thể nói thế.
KRISHNAMURTI: Vô trật tự được tổ chức, nó là sự vô trật tự được tổ chức của một xã hội từ chối cái tốt. Bởi vì xã hội là tôi, tôi là xã hội. Nếu tôi không thay đổi, xã hội không thể thay đổi. Và đây là ý định cố ý làm tổn thương người khác, dù nó được tổ chức như chiến tranh hay không.
Naudé: Thật ra chiến tranh được tổ chức là sự biểu lộ tập thể của hiện tượng ngài nói ở Ấn Độ, đâm những cây gai vào những tượng nhỏ.
KRISHNAMURTI: Thế nên tôi nói ước muốn làm tổn thương này, có ý thức hay không có ý thức, và chịu thua nó, nuôi dưỡng nó, là gì? Có thể gọi là cái xấu chăng?
Naudé: Dĩ nhiên.
KRISHNAMURTI: Chúng ta phải nói ý muốn ấy là xấu.
Naudé: Hiếu chiến là xấu. Bạo lực là xấu.
KRISHNAMURTI: Nào hãy thấy nó! Ý muốn là xấu, vì tôi muốn làm thương tổn bạn.
Naudé: Người nào đó có thể nói: ý muốn làm tốt cho người khác – ý muốn đó cũng xấu sao?
KRISHNAMURTI: Bạn không thể muốn làm tốt. Hoặc bạn tốt hay không tốt, bạn không thể muốn cái tốt. Ý muốn là sự tập trung của tư tưởng như là kháng cự.
Naudé: Vâng, ngài đã nói rằng cái tốt là sự vắng mặt của một bản thiết kế.
KRISHNAMURTI: Thế nên tôi hỏi: cái xấu có liên hệ với cái tốt, hay đó là hai cái hoàn toàn tách biệt? Và có cái gì là xấu tuyệt đối không? Có tốt tuyệt đối, nhưng xấu tuyệt đối thì không thể hiện hữu. Đúng chứ?
Naudé: Vâng, bởi vì xấu luôn luôn là tom góp, nó luôn luôn từ mức độ nào đó đến mức độ khác.
KRISHNAMURTI: Vâng. Thế nên một người với ý định sâu xa làm tổn thương người khác – một việc gì xảy ra, tai nạn nào đó, thương yêu hoặc chăm sóc nào đó, có thể thay đổi toàn bộ sự việc. Nhưng nói rằng có một tội lỗi tuyệt đối, cái xấu tuyệt đối, là nói điều kinh khủng nhất. Đó là xấu.
Naudé: Những người Thiên Chúa giáo đã nhân cách hóa cái xấu là Satan và như một sức mạnh không hề xê xích, hầu như ngang với cái tốt, ngang với Thượng Đế. Những người Thiên Chúa giáo đã đặt lên ngôi cái xấu như là vĩnh cửu.
KRISHNAMURTI: Nào, thưa bạn. Bạn đã thấy những bụi cây ở Ấn Độ, chúng có những cây gai dài, gần cả nửa tấc.
Naudé: Vâng.
KRISHNAMURTI: Có những con rắn độc, độc chết người, có những vật hung dữ đáng sợ trong thiên nhiên, như cá mập trắng, vật kinh khủng chúng ta mới thấy hôm kia. Đó là xấu chăng?
Naudé: Không.
KRISHNAMURTI: Không ư?
Naudé: Không, thưa ngài.
KRISHNAMURTI: Nó tự bảo vệ mình: gai tự bảo vệ khiến những con vật khỏi ăn lá. Naudé: Rắn cũng thế, và cá mập thì theo bản tính của nó.
KRISHNAMURTI: Cái gì tự bảo vệ theo nghĩa vật lý thì không xấu. Nhưng tự bảo vệ một cách tâm lý, kháng cự bất kỳ chuyển động nào, thì dẫn đến vô trật tự.
Naudé: Tôi xin được ngắt ở đây. Đây là lý lẽ nhiều người dùng về chiến tranh. Họ nói rằng xây dựng quân đội và sử dụng nó là loại bảo vệ vật lý mà cá mập…
KRISHNAMURTI: Đó là một lý lẽ rất vô lý. Toàn thể thế giới bị phân chia vì những lý do tâm lý như “nước tôi” và “nước anh”, “Thượng Đế của tôi” và “Thượng Đế của anh” – điều đó và những lý do kinh tế là nguyên nhân của chiến tranh, phải không?
Nhưng tôi đang nhắm một điều khác. Thiên nhiên là khủng khiếp theo cách nào đó. Những cuộc động đất hủy diệt cả ngàn người trong vài phút. Thế nên khi chúng ta xác nhận có cái xấu tuyệt đối, chính sự xác nhận này là sự bác bỏ cái tốt. Cái tốt hàm ý từ bỏ hoàn toàn tự ngã. Bởi vì cái “tôi” luôn luôn chia tách. Cái “tôi”, “gia đình tôi”, tự ngã, nhân cách, bản ngã, là trung tâm của vô trật tự, bởi vì nó là một yếu tố phân chia. Cái “tôi” là tâm thức, là tư tưởng. Và chúng ta đã không bao giờ lìa khỏi được hoạt động vị kỷ này. Hoàn toàn lìa khỏi bèn là trật tự, tự do, cái tốt, lòng tốt trọn vẹn. Và ở lại trong vòng của chuyển động tự quy về mình làm nuôi dưỡng vô trật tự; luôn luôn có xung đột ở đó. Và chúng ta góp thêm xung đột này vào cái xấu, vào cái “ma quỷ”, vào nghiệp xấu, vào môi trường và xã hội; nhưng xã hội là tôi và tôi đã xây dựng nên xã hội này. Thế nên trừ phi cái “tôi” này được hoàn toàn chuyển hóa, tôi luôn luôn góp phần, nhiều hoặc ít, cho vô trật tự.
Trật tự nghĩa là xử sự trong tự do. Và tự do nghĩa là yêu thương và không phải lạc thú. Khi người ta quan sát tất cả điều này người ta thấy rất rõ ràng rằng có một cảm thức kỳ diệu về trật tự tuyệt đối.
MALIBU, CALIFORNIA
28 tháng Ba 1971
ẤN ĐỘ
IV
Ba cuộc Nói Chuyện ở Madras
1
NGHỆ THUẬT THẤY
Thấy, không phải từng phần mà toàn phần. “Hành động thấy là chân lý duy nhất.“ Chỉ một phần mảnh của tâm bao la được dùng. Ảnh hưởng phần mảnh của văn hóa, truyền thống. “Sống trong một góc nhỏ của một trường méo mó.“ “Bạn không thể thấu hiểu qua một phần mảnh.“
Giải thoát khỏi “góc nhỏ”. Cái đẹp của thấy.
Hôm trước chúng ta nói đến quan sát là rất quan trọng như thế nào. Đó hoàn toàn là một nghệ thuật mà người ta phải đặt nhiều chú ý. Chúng ta chỉ thấy rất từng phần, thiên lệch, chúng ta không bao giờ thấy cái gì trọn vẹn, với toàn thể tâm chúng ta, hay với sự đầy đủ lòng chúng ta. Và trừ phi chúng ta học nghệ thuật phi thường này, tôi thấy hình như chúng ta sẽ hoạt động, sống, bằng một phần rất nhỏ của tâm thức, bằng một mảng nhỏ của bộ óc. Chúng ta chưa hề thấy cái gì trọn vẹn, vì nhiều lý do, bởi vì chúng ta quá quan tâm đến những vấn đề của chúng ta, hay chúng ta quá bị quy định, quá chất nặng đức tin, truyền thống, quá khứ, đến độ những cái ấy ngăn cản chúng ta thấy hay nghe. Chúng ta không bao giờ thấy một cái cây, chúng ta thấy cái cây qua hình ảnh chúng ta có về nó, quan niệm về nó; nhưng quan niệm, kiến thức, kinh nghiệm, thì hoàn toàn khác với cái cây thực. Ở đây những cây lớn bao quanh, và nếu các bạn nhìn quanh, khi diễn giả nói về chủ đề thấy, nếu các bạn thực sự nhìn, các bạn sẽ thấy khó khăn cực kỳ như thế nào để thấy nó trọn vẹn, mà không có hình ảnh, không màn ảnh, chặn giữa sự thấy và sự kiện thực sự. Xin hãy làm điều này, chớ nhìn tôi – hãy nhìn vào cái cây, tìm ra liệu bạn có nhìn nó trọn vẹn hay không. Trọn vẹn tôi hiểu là với toàn thể tâm thức và lòng mình, không phải một phần mảnh của nó, bởi vì điều chúng ta thâm nhập chiều nay đòi hỏi quan sát như vậy, thấy như vậy. Trừ phi bạn thực sự làm điều này (không lý thuyết hóa, trí thức hóa hay nêu lên những giải pháp không phù hợp), tôi e rằng bạn sẽ không thể theo sát điều chúng ta sắp cùng nhau thâm nhập.
Chúng ta không bao giờ thấy, hay thực sự nghe, điều người khác đang nói; chúng ta hoặc xúc cảm, tình cảm hay quá trí thức – điều này rõ ràng ngăn chúng ta thực sự thấy màu sắc, cái đẹp của ánh sáng, những cái cây, chim chóc và nghe những con quạ kia; chúng ta không hề tương quan trực tiếp với bất kỳ cái nào trong những cái ấy. Và tôi rất nghi ngờ hình như chúng ta không tương quan với bất cứ cái gì, thậm chí với chính những ý nghĩ, tư tưởng, động cơ, cảm tưởng của chúng ta; luôn luôn có hình ảnh nó đang quan sát, dù khi chúng ta tự quan sát mình.
Thế nên rất quan trọng cần hiểu rằng hành động thấy là chân lý duy nhất; không có cái gì khác. Nếu tôi biết làm sao để thấy một cái cây, một con chim, một khuôn mặt thân mến, hay một nụ cười của trẻ nhỏ – nó ở đây, tôi không phải làm điều gì nữa. Nhưng sự thấy con chim, cái lá, nghe tiến ồn ào của những con chim, trở nên hầu như không thể bởi vì hình ảnh người ta xây dựng nên, không chỉ về thiên nhiên mà còn về những người khác. Và quả thật,
những hình ảnh này đã ngăn cản chúng ta thấy và cảm nhận; cảm nhận hoàn toàn khác với tính tình cảm và xúc cảm.
Và như chúng ta đã nói, chúng ta thấy mọi sự một cách manh mún và chúng ta từ nhỏ đã được huấn luyện để nhìn, quan sát, học, sống trong một phần mảnh. Và có một khoảng bao la của tâm thức chúng ta chưa từng tiếp xúc hay biết; tâm ấy thì bao la, vô lượng, nhưng chúng ta chưa bao giờ tiếp xúc với nó, chúng ta không biết tính chất của nó bởi vì chúng ta chưa bao giờ nhìn một cái gì trọn vẹn, với toàn thể tâm thức chúng ta, lòng chúng ta, hệ thống thần kinh, mắt, tai của chúng ta. Với chúng ta, lời chữ, quan niệm là cực kỳ quan trọng, chứ không phải việc thấy và làm. Nhưng có quan niệm, nó là một đức tin, một ý niệm, sống theo quan niệm như vậy sẽ ngăn cản chúng ta thực sự thấy, thực sự làm; và do đó chúng ta nói chúng ta có những vấn nạn rắc rối trong hành động, làm cái gì hay không làm cái gì, và xung đột sanh khởi giữa hành vi và quan niệm.
Xin hãy quan sát điều tôi đang nói, không chỉ nghe những lời của diễn giả, mà tự quan sát các bạn, dùng diễn giả như một tấm kiếng trong đó các bạn có thể thấy chính mình. Điều diễn giả nói rất ít quan trọng, và chính diễn giả thì chẳng quan trọng gì cả, nhưng cái gì bạn thu thập từ tự quan sát mình thì quan trọng. Sở dĩ như vậy bởi vì phải có một cuộc cách mạng toàn triệt, một thay đổi trọn vẹn trong tâm thức chúng ta, trong cách sống, cảm nhận, trong những hoạt động của đời sống hàng ngày của chúng ta. Và một cuộc cách mạng căn cơ, sâu xa như vậy chỉ có thể được khi chúng ta biết cách nhìn; bởi vì khi bạn nhìn, bạn không chỉ nhìn bằng hai mắt mà còn nhìn với tâm bạn. Tôi không biết bạn có lái xe bao giờ chưa; nếu có, bạn không chỉ tỉnh giác bằng mắt chiếc xe đang tiến gần, mà tâm bạn còn xem chừng xe đến khúc quanh, con đường bên, những chiếc xe đến và đi. Và sự thấy này không chỉ là thấy qua mắt và thần kinh, mà còn thấy với lòng bạn, với tâm thức bạn, và bạn không thể thấy trọn vẹn như thế này nếu bạn đang sống, vận hành, suy nghĩ, hành động trong một phần mảnh của tâm thức toàn diện.
Hãy nhìn điều gì đang xảy ra trong thế giới – chúng ta bị quy định bởi xã hội, bởi văn hóa chung quanh, và văn hóa ấy là sản phẩm của con người – không có cái gì thiêng liêng và vĩnh cửu về văn hóa. Văn hóa, xã hội, sách, ra đi ô, mọi cái chúng ta nghe và thấy, nhiều ảnh hưởng chúng ta ý thức được hay không, tất cả những cái đó khuyến khích chúng ta sống trong một phần mảnh rất nhỏ của trường bao la của tâm. Bạn đến trường và học một kỹ thuật để kiếm sống; trong bốn hay năm mươi năm bạn tiêu dùng cuộc đời bạn, thời gian, năng lượng, tư tưởng của bạn trong mảnh đất nhỏ bé của sự chuyên môn hóa ấy. Và có trường bao la, vũ trụ bao la của tâm thức. Trừ phi chúng ta đem lại một thay đổi tận gốc trong sự phân mảnh này, còn không thì chẳng có cách mạng nào cả; sẽ chỉ có những đổi dạng về kinh tế, xã hội, và cái gọi là văn hóa nhưng con người tiếp tục khổ đau, tiếp tục xung đột, chiến tranh, thống khổ, phiền não và thất vọng.
Bị thôi miên là tuân thủ trọn vẹn, làm việc theo tư tưởng của người khác, mất hết tự chủ. Ngày nay văn hóa và xã hội đang làm đúng điều đó với mỗi chúng ta. Văn hóa và xã hội đã thôi miên chúng ta. Xin hãy nghe rất cẩn thận, sự thôi miên không chỉ ở những nơi đặc biệt, mà được làm trên toàn thế giới. Khi bạn đọc kinh Gita không ngừng hay kinh Koran, hay lập lại những lời nào đó, bạn đang làm đúng điều đó. Khi bạn nói, “Tôi là một người Ấn giáo”, “Tôi là một người Phật giáo”, “Tôi là một người Hồi giáo”, “Tôi là một người Thiên Chúa giáo”, cùng cái khuôn khổ ấy được lập lại, bạn bị đánh hơi mê, bị thôi miên; và kỹ thuật đang
làm đúng cùng một điều đó. Bạn có thể là một luật sư sáng trí, một kỹ sư hạng nhất, hay một nghệ sĩ, hay một nhà khoa học vĩ đại, nhưng luôn luôn ở trong một phần mảnh của cái toàn thể. Tôi không biết bạn có thấy điều này không, không phải bởi vì tôi diễn tả nó, mà thực sự thấy cái đang xảy ra. Những người Cộng sản đang làm điều ấy, những người Tư bản đang làm điều ấy, mọi người, cha mẹ, trường học, giáo dục, họ đều đang thành hình cho tâm thức để vận hành trong một khuôn khổ nào đó. Và chúng ta luôn luôn quan tâm đến việc đem lại thay đổi trong khuôn khổ, trong phần mảnh.
Thế thì, thực hiện điều này thế nào, không phải về mặt lý thuyết, không phải như một ý tưởng, mà thấy sự thực của nó – bạn có thấu hiểu, có thấy cái hiện thực? Cái hiện thực là cái xảy ra mỗi ngày và được nói đến trong báo chí, bởi những nhà chính trị, qua văn hóa và truyền thống, trong gia đình, làm cho bạn tự gọi mình là người Ấn, hay bất cứ cái gì bạn nghĩ rằng bạn là. Bấy giờ khi bạn thấy, bạn phải tự hỏi chính bạn (tôi chắc bạn sẽ tự hỏi nếu bạn thấy điều đó) và đó là tại sao rất quan trọng cần hiểu bạn thấy như thế nào. Nếu bạn thực sự thấy nó, bấy giờ câu hỏi sẽ là, “Làm sao toàn bộ tâm thức có thể hoạt động?” (Tôi không nói đến cái phần mảnh, không phải cái tâm thức bị điều kiện hóa, cũng không phải cái tâm thức được giáo dục, tinh tế, cái tâm thức sợ hãi nói, “có Thượng Đế” hay “không có Thượng Đế”, “có gia đình tôi, gia đình bạn, quốc gia tôi, quốc gia bạn.”) Bấy giờ bạn sẽ hỏi, “Toàn thể tâm thức này là thế nào, làm sao nó có thể vận hành toàn bộ, dù khi đang học một kỹ thuật?” Dù phải học một kỹ thuật và sống trong một liên hệ với những người khác, trong xã hội vô trật tự hiện thời – khi mang điều này trong tâm thức, người ta phải hỏi câu hỏi này, một câu hỏi nền tảng: “Làm sao toàn thể tâm thức này được hoàn toàn nhạy cảm, để cho thậm chí phần mảnh cũng trở nên nhạy cảm?” Tôi không biết bạn có hiểu câu hỏi của tôi không, chúng ta sẽ đi đến theo một cách khác.
Vào lúc này chúng ta không nhạy cảm; có những điểm trong trường tâm thức này là nhạy cảm, nhạy cảm khi nhân cách, phong cách riêng của chúng ta, hay những lạc thú riêng của chúng ta bị bác bỏ – bấy giờ có một cuộc chiến. Chúng ta nhạy cảm trong từng phần mảnh, trong những điểm, nhưng chúng ta không nhạy cảm trọn vẹn; thế thì câu hỏi là, “Làm sao cái phần mảnh, nó là phần của cái toàn thể, nó đang cùn lụt bằng sự lặp lại mỗi ngày, làm sao cái phần mảnh ấy cũng được nhạy cảm như cái toàn thể?” Câu hỏi này khá rõ chứ?
Có lẽ đây là một câu hỏi mới với bạn, hầu như bạn chưa bao giờ tự hỏi mình câu đó. Bởi vì chúng ta đều hài lòng sống với ít rắc rối và xung đột càng tốt, trong phần nhỏ ấy của trường đời sống chúng ta, đánh giá văn hóa hay lạ của phần nhỏ ấy đối nghịch với những văn hóa khác, Tây phương hay cái nào khác. Thậm chí chúng ta không biết hàm ý của sự việc ấy là gì – sống trong một phần mảnh nhỏ, một góc của trường rất bao la này. Chúng ta không thấy chúng ta quan tâm sâu xa đến cái phần nhỏ như thế nào, và chúng ta cứ cố gắng tìm ra những câu trả lời cho vấn nạn cuộc đời bên trong phần mảnh ấy, bên trong góc nhỏ
của đời sống bao la này. Chúng ta tự hỏi, làm sao tâm thức (nó hiện đang một nửa ngủ trong trường bao la này, bởi vì chúng ta chỉ quan tâm vào phần nhỏ), làm sao chúng ta trở nên tỉnh thức toàn bộ với cái toàn bộ này, trở nên nhạy cảm trọn vẹn?
Bây giờ, trước hết, không có phương pháp nào cả. Bởi vì phương pháp nào, hệ thống nào, sự lập lại thói quen nào, cũng vốn là phần của góc nhỏ của trường bao la đó. (Chúng ta có cùng nhau hành trình, có cùng nhau trong một chuyến đi, hay bạn rớt lại đàng sau?) Điều đầu tiên là thấy sự kiện thực tế của góc nhỏ và những đòi hỏi của nó là gì. Rồi chúng ta có
thể đặt câu hỏi, “Làm sao chúng ta có thể làm cho toàn bộ trường trọn vẹn nhạy cảm?”, bởi vì trong đó có cuộc cách mạng độc nhất chân thật. Khi có nhạy cảm toàn bộ của toàn bộ tâm thức, bấy giờ chúng ta sẽ hành động khác; suy nghĩ, cảm nhận của chúng ta sẽ hoàn toàn ở một chiều kích khác. Nhưng không có phương pháp. Chớ nói, “Làm sao tôi đi đến, thành tựu, trở nên nhạy cảm?” – bạn không thể đến lớp để thành nhạy cảm, bạn không thể đọc sách hay nghe nói phải làm gì để được nhạy cảm. Đó chỉ là điều bạn đang làm trong góc của trường, và nó khiến bạn càng vô cảm hơn, sự kiện này có thể nhìn thấy trong cuộc sống hàng ngày của bạn, với những nhẫn tâm chai sạn của nó, hung dữ, bạo lực của nó. (Tôi không biết bạn có thấy những bức ảnh trên báo về những người lính Việt Nam và Hoa Kỳ bị thương. Bạn có thể thấy rồi và nói, “Tôi rất buồn”, nhưng nó không xảy ra với bạn, với gia đình bạn, với con bạn). Thế nên chúng ta trở nên nhẫn tâm chai sạn bởi vì chúng ta vận hành, sống, hành động, trong góc nhỏ vụn vằn của một trường méo mó.
Không có phương pháp. Xin thấu hiểu điều này, bởi vì khi bạn thấu hiểu nó, bạn thoát khỏi sức nặng khổng lồ của mọi quyền hành, và như thế thoát khỏi quá khứ. Tôi không biết bạn có thấy điều này không. Quá khứ nằm trong văn hóa của chúng ta, mà chúng ta nghĩ là rất diệu kỳ, và tất cả cái đó được bỏ qua một bên, mãi mãi, khi bạn thấu hiểu rằng không có bất cứ loại phương pháp nào để đem đến tự do, giải thoát khỏi “cái góc nhỏ” ấy. Nhưng bạn phải học tất cả về cái góc nhỏ. Bấy giờ bạn thoát khỏi gánh nặng làm bạn vô cảm. Những người lính được huấn luyện để giết, thực hành ngày này sang ngày khác, tháng này qua tháng khác, một cách nhẫn tâm, khiến họ không còn cảm nhận của con người. Và đó là loại được làm ra cho chúng ta mỗi ngày, mọi lúc, bằng báo chí, bởi các nhà chính trị, bởi những guru, bởi những giám mục, khắp nơi trên thế giới.
Bây giờ, không có phương pháp, người ta phải làm gì? Phương pháp bao hàm thực hành, lệ thuộc, phương pháp của anh, phương pháp của tôi, con đường của nó và con đường của người khác, guru của tôi biết nhiều hơn một tí, guru này thì dỏm, guru đó thì không, – tất cả những cái đó đều hoạt động trong một góc rất nhỏ của một trường thối nát và hư hỏng.
Người ta phải làm gì? Bạn có hiểu câu hỏi của tôi bây giờ không? Vấn đề là thế này: chúng ta không biết chiều sâu và sự bao la của tâm. Bạn có thể đọc về nó, bạn có thể đọc những tâm lý gia hiện đại, hay những vị thầy ngày xưa đã nói về nó – hãy nghi ngờ cái hiểu từ chỗ nào khác bởi vì chính bạn phải tìm ra, chứ không phải theo ý kiến của ai. Chúng ta không biết nó – cái tâm – bạn không biết nó, thế nên bạn không thể có quan niệm nào về nó. Bạn có hiểu chúng ta đang nói gì không? Bạn không thể có những ý niệm, ý kiến, kiến thức nào về nó. Thế nên bạn thoát khỏi mọi giả thiết, mọi thần học.
Vậy thì một lần nữa, phải làm gì? Tất cả cái người ta phải làm là thấy. Thấy cái góc hẹp, cái nhà nhỏ người ta đã xây nên trong một góc của một trường bao la, vô lượng; và sống ở đó, chiến đấu, cãi cọ, cải thiện (hay biết mọi cái đang tiếp diễn ở đó), hãy thấy nó. Và đó là tại sao rất quan trọng cần hiểu thấy có nghĩa là gì, bởi vì khoảnh khắc có xung đột bạn liền thuộc về góc cô lập đó. Nơi nào có thấy, nơi đó không có xung đột. Đó là tại sao người ta phải học ngay từ bắt đầu – không, không phải bắt đầu, mà bây giờ – học thấy. Không phải ngày mai, vì làm gì có ngày mai – chỉ sự tìm kiếm lạc thú, hay sợ hãi hay đau khổ sáng chế ra cái “ngày mai” ấy. Thực ra không có ngày mai về mặt tâm lý, mà trí óc, tâm thức đã tạo ra thời gian; nhưng chúng ta sẽ thâm nhập điều này ở sau.
Thế nên điều người ta phải làm là thấy. Bạn không thể thấy nếu bạn không nhạy cảm, và bạn không nhạy cảm nếu bạn có một hình ảnh giữa bạn và vật được thấy. Bạn hiểu chứ? Thế nên thấy là hành động của thương yêu. Bạn biết cái gì làm cho toàn bộ tâm thức nhạy cảm? – chỉ là thương yêu. Bạn có thể học một kỹ thuật và cả thương yêu; nhưng nếu bạn có kỹ thuật và không có thương yêu bạn sẽ hủy hoại thế giới. Hãy xem nó trong chính bạn, hãy đi vào nó trong tâm thức và tấm lòng các bạn và các bạn sẽ thấy nó cho chính các bạn. Thấy, quan sát, nghe, đấy là những hành vi vĩ đại nhất, bởi vì bạn không thể thấy nếu bạn nhìn ra từ cái góc nhỏ bé đó, bạn không thể thấy cái gì đang xảy ra trong thế giới, sự tuyệt vọng, lo âu, sự cô độc làm đau nhức, những giọt nước mắt của những bà mẹ, người vợ, người tình, của những người đã bị giết chết. Nhưng bạn phải thấy tất cả điều này, không theo cách xúc cảm, tình cảm, không nói, “Nào, tôi chống chiến tranh” hay, “Tôi ủng hộ chiến tranh”, vì tính tình cảm và chủ nghĩa xúc động ấy là những thứ hủy diệt nhất – chúng không có những sự kiện và như vậy không có cái đang là. Thế nên, thấy là hoàn toàn quan trọng. Sự thấy là sự hiểu; bạn không thể hiểu qua tâm thức, qua trí năng, hay hiểu qua một phần mảnh. Chỉ có hiểu khi tâm thức bình lặng trọn vẹn, nghĩa là khi không có hình ảnh.
Thấy hủy diệt mọi hàng rào. Nào, thưa các bạn, bao giờ có sự phân chia giữa bạn và cái cây, giữa bạn và tôi, và giữa bạn và hàng xóm (“hàng xóm” này có thể cách ngàn dặm hoặc ở cạnh nhà), thì phải có xung đột. Phân chia nghĩa là xung đột, thật giản dị. Và chúng ta đã sống trong xung đột, chúng ta quen xung đột và phân chia. Mọi phân chia này phải nuôi dưỡng chiến tranh. Điều này không có nghĩa chúng ta phải đồng ý hoàn toàn với nhau, hay nếu tôi không đồng ý thì tôi phải có chiến tranh với anh; không có đồng ý hay không đồng ý gì cả khi bạn thấy cái gì đúng như nó là. Chỉ khi các bạn có những ý kiến về cái bạn thấy, mới có không đồng ý và bèn có phân chia. Khi bạn và tôi thấy đó là mặt trăng, bấy giờ không có sự không đồng ý, đó là mặt trăng. Nhưng nếu bạn nghĩ nó là cái gì khác, và tôi nghĩ nó là cái gì khác, bấy giờ phải có phân chia và từ đó xung đột. Thế nên khi thấy một cái cây, khi bạn thực sự thấy nó, thì không có phân chia giữa bạn và cái cây, không có người quan sát đang thấy cái cây.
Chúng ta nghe một hôm nọ một bác sĩ rất uyên bác, ông đã dùng một chất kích thích gọi là L.S.D., một liều nhỏ thôi, và có hai bác sĩ bên cạnh ông với một máy thu âm ghi những gì ông nói. Sau vài phút ông thấy những bông hoa trên bàn trước mặt ông, và giữa những hoa ấy và ông không có không gian. Không phải là ông tự đồng hóa với những hoa ấy, mà không có không gian, nghĩa là không người quan sát. Chúng ta không khuyến khích các bạn nên dùng L.S.D., bởi vì nó có những hậu quả tai hại của nó; và khi bạn dùng những thứ như vậy bạn sẽ nô lệ cho chúng. Nhưng có một cách đơn giản, trực tiếp, tự nhiên hơn nhiều, đó là quan sát một cái cây, một đóa hoa, khuôn mặt của một người; nhìn vào bất cứ cái gì, và nhìn đến độ không gian giữa bạn và chúng không còn hiện hữu. Và bạn chỉ có thể nhìn cách ấy khi có thương yêu – từ này đã bị lạm dụng quá đỗi.
Chúng ta sẽ không đi vào vấn đề thương yêu lúc này, nhưng khi bạn có sự nhận biết quan sát thực sự, thấy thực sự này, bấy giờ sự thấy ấy mang theo với nó sự loại bỏ phi thường cả thời gian và không gian và khi ấy có thương yêu. Và bạn không thể có thương yêu mà không nhận ra cái đẹp. Bạn có thể nói về cái đẹp, viết, vẽ, nhưng nếu bạn không có thương yêu thì không có cái gì đẹp cả. Không có thương yêu nghĩa là bạn hoàn toàn không nhạy cảm. Và bởi vì bạn hoàn toàn không nhạy cảm bạn bèn thoái hóa. Đất nước này đang
thoái hóa. Chớ nói, “Những xứ sở khác cũng không thoái hóa đấy sao?” – dĩ nhiên chúng cũng vậy, nhưng các bạn đang thoái hóa, dù về kỹ thuật bạn có thể là một kỹ sư giỏi phi thường, một luật gia kỳ lạ, một kỹ thuật gia biết điều hành dàn máy tính điện tử; nhưng bạn thoái hóa bởi vì bạn không nhạy cảm với toàn bộ tiến trình sống.
Vấn nạn nền tảng của chúng ta bấy giờ là – không phải làm sao ngừng những cuộc chiến tranh, không phải vị thần linh nào, không phải hệ thống chính trị hay kinh tế nào tốt hơn, không phải đảng nào xứng đáng để bầu hơn, mà vấn nạn căn bản cho con người, dù nó ở Mỹ, Ấn Độ, Nga hay nơi nào khác, là vấn đề thoát khỏi “góc nhỏ” này. Và cái góc nhỏ ấy chính là chúng ta, cái góc nhỏ ấy là cái tâm thức nhỏ hẹp kém phẩm chất của bạn. Chúng ta đã làm ra cái góc nhỏ này, bởi vì tâm thức nhỏ và riêng của chúng ta đã phân mảnh và bởi thế không có khả năng nhạy cảm với cái toàn thể; chúng ta muốn cái phần nhỏ này được làm cho an toàn, bình an, bình lặng, thỏa mãn, lạc thú, nhờ đó không có mọi đau đớn, bởi vì tự căn bản, chúng ta đang tìm kiếm lạc thú. Và nếu bạn đã khảo sát lạc thú, lạc thú của riêng bạn, quan sát nó, xem xét nó, đi vào nó, bạn sẽ thấy rằng nơi nào có lạc thú nơi đó có khổ đau. Bạn không thể có cái này mà không có cái kia; và chúng ta luôn luôn đòi hỏi lạc thú nhiều hơn và do đó mời mọc khổ đau nhiều hơn. Và trên đó chúng ta đã xây dựng phần tử này, mà chúng ta gọi là đời người. Thấy là tiếp xúc thân mật với nó và bạn không thể tiếp xúc thân mật, thực sự với nó nếu bạn có những quan niệm, đức tin, giáo điều hay ý kiến.
Thế nên cái quan trọng là không phải học mà là thấy và nghe. Hãy nghe những con chim, nghe tiếng nói của vợ bạn, dù bực tức, đẹp hay xấu, hãy nghe nó và nghe tiếng nói của chính bạn dù đẹp, xấu hay gấp gáp. Rồi từ sự nghe này bạn sẽ thấy rằng mọi chia cách giữa người quan sát và cái được quan sát bèn chấm dứt. Thế nên không có xung đột nữa, và bạn quan sát cẩn thận đến độ chính sự quan sát là kỷ luật; bạn không phải áp đặt kỷ luật. Và đó là cái đẹp, đó là cái đẹp của thấy. Nếu bạn có thể thấy, bạn không có gì khác để làm, bởi vì trong cái thấy này có tất cả kỷ luật, tất cả đức hạnh, nó là sự chú ý. Và trong cái thấy này có tất cả cái đẹp, và với cái đẹp bèn có thương yêu. Bấy giờ khi có thương yêu bạn không còn gì để làm nữa. Bấy giờ bạn hiện diện ở đâu, bạn có thiên đường chỗ đó; bấy giờ tất cả cái thấy đến điểm chấm dứt.
MADRAS
3 tháng Giêng 1968
2
TỰ DO
Chia xẻ một tâm tự do. “Nếu chúng ta gặp gỡ cái này, đó thực sự là một đóa hoa huyền nhiệm.“ Tại sao con người không có cái này? Sợ hãi. “Sống” là không sống. Những lời chữ được cho là bản chất. Hao phí năng lượng. “Tâm trưởng thành thì không có so sánh… không có đo đạc.“ Hiệu lực của “đời sống bạn sống mỗi ngày… không hiểu nó bạn sẽ chẳng bao giờ hiểu thương yêu, cái đẹp hay cái chết.” Qua phủ định, cái độc nhất vốn là khẳng định hiện bày.
Thật thích thú và đáng bỏ công nếu chúng ta có thể cùng nhau chia xẻ một tâm không khốn khổ, nó vốn tự do, không có những hàng rào, nó thấy những sự vật như chúng là, nó thấy rằng có một khoảnh cách của thời gian chia tách con người với thiên nhiên và với đồng loại, nó thấy ý nghĩa của thời gian và không gian khủng khiếp, đáng sợ, nó biết cái gì thực sự
là tính chất của thương yêu. Nếu chúng ta có thể chia xẻ cái này – không phải một cách trí thức, khôn khéo, triết lý, mà thực sự chia xẻ nó, nếu chúng ta có thể làm điều đó thì tôi nghĩ mọi vấn đề của chúng ta sẽ chấm dứt. Nhưng sự chia xẻ này không phải với người khác trước, mà người ta phải trước tiên tự mình có nó. Bấy giờ khi bạn có nó bạn sẽ có nó dồi dào. Và khi có sự dồi dào này, cái một và cái nhiều là như nhau, như một cái cây đầy lá, trong đó một lá thì hoàn hảo và là phần của toàn thể cái cây.
Nếu chúng ta có thể, buổi chiều nay, chia xẻ tính chất này, không phải với diễn giả, mà bằng cách có nó rồi chia xẻ nó. Bấy giờ vấn đề chia xẻ không sanh khởi nữa. Nó giống như một đóa hoa đầy hương chẳng biết gì đến chia xẻ, nhưng luôn luôn có ở đó cho bất kỳ người nào đi qua cũng được thưởng thức. Và dù người rất gần trong vườn hay rất xa, tất cả đều như nhau đối với đóa hoa, bởi vì nó tràn đầy hương, thế nên nó chia xẻ với mọi sự. Nếu người ta gặp gỡ cái này, đó thực sự là đóa hoa huyền nhiệm. Nó chỉ có vẻ huyền nhiệm bởi vì chúng ta thì quá đầy xúc cảm và tình cảm, các thứ này thì có rất ít ý nghĩa; người ta có thể thương cảm, rộng lượng, rất tốt, dịu dàng và cực kỳ lịch sự nhưng tính chất của nó, như tôi đã nói, thì hoàn toàn khác với mọi cái này. Và không ngạc nhiên tự hỏi tại sao những con người không có cái này. Họ sinh con, họ hưởng thụ tình dục, sự âu yếm, một tính chất cùng nhau chia xẻ cái gì đó với đồng bạn, bè bạn, nhưng cái này – tại sao họ không có nó? Bởi vì khi nó hiện diện, bấy giờ mọi vấn nạn nào có thể có đều chấm dứt. Và bạn có tự hỏi một cách ơ thờ, vào dịp nào đó, khi bạn đi bộ trong một đường phố bẩn thỉu, hay ngồi trên một chiếc xe buýt, hay khi bạn bên bờ biển trong một kỳ nghỉ, hay trong rừng với chim, cây, suối và thú hoang, có bao giờ bạn hỏi – tại sao con người này, đã từng sống hàng triệu năm, tại sao nó không có cái này, đóa hoa không phai màu phi thường này?
Chúng ta sống một cuộc đời đơn điệu, cùn lụt trong môi trường của những rắc rối và lo âu của chúng ta đến độ chúng ta không hề hỏi câu này. Và nếu chúng ta tự hỏi câu hỏi này (như chúng ta đang làm, dưới tán cây này trong một buổi chiều bình lặng, với tiếng ồn của những con quạ), tôi tự hỏi cái gì là sự trả lời của chúng ta. Câu trả của các bạn thì theo sự căng thẳng của chính các bạn trong khi hỏi, và sự khẩn cấp của nó. Nhưng chúng ta không căng thẳng cũng không khẩn cấp, và chúng ta không khẩn cấp hay căng thẳng bởi vì chúng ta không có năng lượng. Nhìn bất cứ cái gì, một con chim, một con quạ trên cành tự trang điểm bộ lông, nhìn vào đó với tất cả con người của bạn, với mọi tai, mắt, dây thần kinh, tâm thức và lòng, nhìn vào nó một cách trọn vẹn, đòi hỏi năng lượng, không phải năng lượng kém cỏi của một tâm thức phân tán vì chiến đấu, tự hành hạ, đầy những gánh nặng. Và như vậy nó không có năng lượng, năng lượng là đam mê.
Và nếu chúng ta hỏi, không phải với sự tò mò mà với tất cả đam mê chúng ta có, bấy giờ câu trả lời là gì? Nhưng chắc các bạn sợ đam mê, vì đối với phần lớn con người đam mê là tham dục, đam mê phát nguồn từ dục tình và mọi cái đó. Hay đam mê có thể được cảm nhận qua sự đồng hóa với đất nước chúng ta thuộc về, hay đam mê đối với thần linh nhỏ nào đó, do bàn tay và trí óc làm ra; và như vậy với chúng ta, đam mê đúng ra là một cái gì đáng sợ
bởi vì nếu chúng ta có một đam mê như vậy chúng ta không biết nó sẽ đem chúng ta đi đâu. Và thế nên chúng ta rất cẩn thận đưa nó vào kênh, xây dựng hàng rào quanh nó bằng những quan niệm, lý tưởng triết học, vậy mà năng lượng ấy được yêu cầu để giải quyết câu hỏi phi thường này (và nó hoàn toàn phi thường nếu bạn đặt nó cho chính bạn một cách thành thật và trực tiếp), tại sao những con người chúng ta, sống trong những gia đình với con cái, bao
quanh bởi mọi ồn ào và bạo lực của thế giới, tại sao, khi có một cái bao trùm tất cả mọi cái này, tại sao chúng ta không có nó? Tôi tự hỏi, có phải bởi vì chúng ta thực sự không muốn tìm ra nó? Bởi vì để tìm ra cái gì, phải có tự do, tìm ra cái tôi nghĩ, cái tôi cảm nhận, cái gì là những động cơ của tôi, tìm ra, không phải chỉ phân tích trí thức, mà để tìm ra, phải có tự do để nhìn. Nhìn cái cây đó bạn phải tự do khỏi kiến thức; tự do là một tính chất của tâm, nó không thể có được bằng từ bỏ hay hy sinh. Bạn có theo dõi mọi điều này, hay tôi đang nói với những ngọn gió và lá? Tự do là một tính cách của tâm, nó thiết yếu cho cái thấy. Nó không phải giải thoát khỏi cái gì, đó không phải là tự do, đó chỉ là một phản ứng. Nếu bạn hút thuốc và bạn bỏ thuốc, rồi bạn nói, “Tôi tự do”, bạn không thực sự tự do, giải thoát dù bạn có thể tự do khỏi, giải thoát khỏi thói quen riêng biệt ấy. Tự do liên quan đến toàn thể bộ máy tạo thói quen, và để hiểu toàn bộ vấn đề thói quen này người ta phải tự do nhìn vào cơ cấu của nó. Có lẽ chúng ta cũng sợ sự tự do đó; và bởi thế chúng ta đặt tự do đó thật xa chúng ta, nơi một thiên đường hay cõi trời nào đó.
Thế nên có lẽ lý do chúng ta không có năng lượng của sự đam mê này để tìm ra tại sao tính cách thương yêu thì thiếu vắng trong chúng ta. Chúng ta có mọi thứ khác, tham lam, ghen tỵ, mê tín, sợ hãi, sự xấu xí của cuộc sống nhỏ hẹp bẩn thỉu, tất cả tiếp diễn bốn, năm mươi năm và chúng trở thành một lề thói tạo hình cho tâm thức, làm nó cùn lụt, nặng nề, hay chỉ thông thái trong một chiều hướng.
Có thể, mà chắc chắn như vậy, mỗi chúng ta quá sợ đời sống, bởi vì không hiểu toàn bộ tiến trình sống này, chúng ta không bao giờ có thể hiểu đó không phải là sống. Các bạn hiểu chứ? Cái chúng ta gọi là sống, sự chán mệt mỗi ngày, cuộc chiến đấu mỗi ngày, xung đột mỗi ngày trong và ngoài bạn, những đòi hỏi dấu kín, những mong muốn dấu kín, những tham vọng, những tàn bạo, và gánh nặng khổng lồ của phiền não có ý thức hay không ý thức – cái đó chúng ta gọi là sống, không phải sao? Chúng ta có thể cố gắng trốn thoát nó, đi đến chùa, đến câu lạc bộ, theo một guru mới, hay trở nên một híp py hay uống rượu hay vào một nhóm nào hứa hẹn với chúng ta điều gì đó – mọi cách để trốn thoát. Trong sợ hãi ẩn tàng vấn nạn chính của cái chúng ta gọi là sống (sợ không hiện hữu, sợ bị vướng mắc, với mọi khổ đau lớn lao nó mang theo – làm sao để không dính mắc – sợ hãi cái không biết, sợ hãi ngày mai, sợ vợ bạn bỏ bạn, sợ không có đức tin và bị cô lập, đơn độc, thất vọng luôn luôn), cái này chúng ta gọi là sống, một trận chiến, một hiện hữu bị hành hạ với những tư tưởng rào chắn. Chúng ta sống như vậy bởi vì đó là cuộc đời của chúng ta, với những khoảnh khắc sáng suốt đôi khi, mà chúng ta bám níu một cách điên cuồng.
Xin các bạn chớ chỉ nghe những lời nói và chớ để chúng đưa đi xa; những giải thích, định nghĩa, diễn tả, thì không phải là sự kiện. Sự kiện ấy là đời sống của bạn, sự kiện là bạn có ý thức rõ nó hay không, và bạn không thể biết rõ nó qua những lời của diễn giả; nếu bạn kẹt trong những lời diễn tả hiện trạng của các bạn, chắc chắn bạn sẽ lạc mất. Và đó là hiện trạng của chúng ta – chúng ta lạc lõng, bị bỏ rơi bởi vì chúng ta đã chấp nhận những lời chữ, lời chữ, lời chữ. Thế nên xin các bạn, chớ bị nhốt giữ trong lời chữ, mà xem chính các bạn, xem trông đời sống của các bạn, cuộc sống hàng ngày mà bạn gọi là sống, gồm đến chỗ làm, thi cử, có một công việc làm hay không có, sợ hãi, áp lực gia đình và xã hội, truyền thống, sự hành hạ của cái không xảy đến, sự bất trắc của cuộc sống, sự buồn chán của đời sống chẳng có nghĩa gì. Bạn có thể cho đời sống ý nghĩa nào đó, bạn có thể sáng chế ra như những triết gia và những nhà thần học đã làm, như người có tôn giáo đã làm. Nhưng ý nghĩa đó chỉ
được nuôi dưỡng bằng lời chữ trong khi bạn cần thực chất; bạn được nuôi dưỡng bằng những lời chữ, bạn thỏa mãn với những lời chữ. Thế nên để hiểu cuộc sống này chúng ta phải nhìn nó: tiếp xúc thân mật với nó, không có không gian và thời gian khoảng giữa bạn và nó. Bạn không có khoảng giữa thời gian-không gian này khi bạn có sự đau đớn sâu xa về thân thể, khi bạn hành động, khi bạn không lý thuyết hóa, bạn không cãi cọ về có hay không có Atman (Chân ngã), linh hồn hay không có linh hồn, bạn không bắt đầu trích dẫn Gita, Upanishad, kinh Koran, hay Kinh thánh hay vị thánh nào đó. Bấy giờ bạn mặt đối mặt với đời sống hiện thực. Đời sống là chuyển động kia, nó là hoạt động, cái đang làm, cái đang suy nghĩ, cái đang cảm nhận, những sợ hãi, tội lỗi, sự thất vọng – đó là đời sống. Và người ta phải tiếp xúc sâu sắc với nó. Và người ta không thể tiếp xúc sống động, đam mê, mãnh liệt, nếu có sợ hãi.
Sợ hãi là cái khiến chúng ta tin, dù tin một ý thức hệ hay ý niệm thần quyền. Mọi thứ này đều sanh từ sợ hãi; rõ ràng mọi thần linh là kết quả của sự đau khổ của chúng ta; và khi chúng ta tôn thờ họ chúng ta đang tôn thờ sự đau khổ của chúng ta, sự cô đơn, tuyệt vọng, khốn khổ và phiền não của chúng ta. Chớ nghe những lời này – nó là đời sống bạn, không phải là đời sống của tôi. Bạn phải đối mặt với cái này thế nên bạn phải hiểu sợ hãi. Và bạn không thể hiểu sợ hãi nếu bạn không hiểu đời sống. Bạn phải hiểu sự ghen tỵ của bạn, sự tham lam của bạn – chúng chỉ là những biểu hiện của sợ hãi. Và bạn có thể hiểu một cách toàn bộ (không phải chỉ trí thức, vì nếu như thế thì không toàn bộ), bạn có thể hiểu toàn bộ và việc đó giống như nhìn mặt trời lặn với tâm, với lòng, với mắt và với hệ thần kinh của bạn; bấy giờ bạn hiểu. Và hiểu ghen tỵ, tham lam, tàn ác, bạo lực (hiểu chúng và chú ý trọn vẹn ngay khoảnh khắc cái gì xảy ra, ngay khoảnh khắc bạn cảm nhận chúng), bấy giờ, nếu bạn hiểu nó, bạn sẽ hiểu sợ hãi. Nhưng bạn chớ xem sợ hãi là cái gì trừu tượng. Rốt rồi sợ hãi cũng hiện hữu trong liên hệ với cái gì đó. Bạn không sợ người hàng xóm, chính phủ, vợ bạn hay chồng bạn, sợ cái chết và vân vân? Bạn phải quan sát, không phải sợ hãi, mà tra hỏi cái gì đem sợ hãi đến.
Bây giờ chúng ta sẽ khảo sát sống là gì, cái mà chúng ta bám vào một cách quá tuyệt vọng, sự sống của đời sống hàng ngày, đơn điệu, bi thảm – đời sống của người trưởng giả, của hạng trung bình, hạng bị áp bức – bởi vì tất cả chúng ta đều bị áp bức bởi xã hội, bởi văn hóa, bởi tôn giáo, bởi những tu sĩ, bởi những lãnh đạo, bởi những vị thánh, và trừ phi bạn hiểu điều này, còn không bạn sẽ không bao giờ hiểu sợ hãi; thế nên chúng ta đang hiểu sự sống này và cũng hiểu cội nguồn lớn lao của sợ hãi, nó được gọi là cái chết. Và để hiểu nó bạn phải có năng lượng, đam mê lớn lao. Bạn biết như thế nào chúng ta hao phí năng lượng của chúng ta (tôi không nói là bằng tình dục, nó là một việc rất nhỏ, chớ cho đó là cái gì lớn lao một cách không cần thiết), mà người ta phải tra hỏi trực tiếp, không phải theo Shankara hay người nào khác, họ đã sáng chế cách trốn thoát khỏi đời sống riêng biệt của họ.
Để tìm ra sống là gì, chúng ta không chỉ phải có năng lượng mà còn tính chất đam mê được duy trì, và trí năng không thể duy trì đam mê. Và để có đam mê này người ta phải tra hỏi sự hao phí năng lượng. Người ta có thể thấy rằng có sự hao phí năng lượng trong việc theo người nào đó – bạn hiểu chứ? – có một người lãnh đạo, có một guru, bởi vì khi bạn theo thì bạn bắt chước, sao chép, phục tùng, bạn thiết lập thẩm quyền và do đó năng lượng của bạn hao tán. Hãy quan sát điều này; xin hãy làm việc này. Bạn cũng thấy bạn hao phí năng lượng như thế nào khi có sự thỏa hiệp. Bạn có biết thỏa hiệp là gì? Chỉ có thỏa hiệp khi