"Dẫn Luận Về Freud - Anthony Storr full mobi pdf epub azw3 [Tâm Lý Học] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Dẫn Luận Về Freud - Anthony Storr full mobi pdf epub azw3 [Tâm Lý Học] Ebooks Nhóm Zalo FREUD - A VERY SHORT INTRODUCTION Copyright © Anthony Storr, 1989 This translation of FREUD - A VERY SHORT INTRODUCTION is published by arrangement with Oxford University Press. All rights reserved. Lời nói đầu Phân tâm học (Psychoanalysis) được sáng lập vào khoảng cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 bởi nhà thần kinh học người Áo Sigmund Freud, đã được đánh giá, mở rộng và phát triển theo nhiều hướng khác nhau, phần lớn nhờ công của một số môn đệ của Freud như Alfred Adler (với tâm lý học cá nhân), Carl Gustav Jung (với tâm lý học phân tích) và sau nữa là những đóng góp từ các nhà phân tâm học mới như Erich Fromm, Karen Horney, Harry Stack Sullivan, Jacques Lacan… Những luận thuyết cơ bản của phân tâm học bao gồm: Hành vi, kinh nghiệm và nhận thức của con người phần lớn được định hình bởi các xung năng bẩm sinh và phi lý. Những xung năng này mang bản chất vô thức. Quá trình cố đưa những xung năng này “trồi” lên bề mặt ý thức sẽ gây ra kháng cự tâm lý, được biểu hiện qua các cơ chế phòng vệ. Bên cạnh những cấu trúc tâm thần bẩm sinh, sự phát triển của một cá nhân còn được định hình bởi những sự kiện thuở ấu thời. Những xung đột giữa ý thức về thực tại với phần vô thức của hệ tâm thần (tạo nên sự dồn nén) có thể là nguồn gốc của những chứng rối loạn tâm thần như nhiễu tâm, lo âu, trầm uất… Phương cách để giải trừ những ảnh hưởng từ nội dung vô thức là đưa các nội dung ấy lên bình diện ý thức. Dưới tầm ảnh hưởng rộng lớn của phân tâm học, đã có hàng chục nhánh lý thuyết nghiên cứu về sự phát triển của tâm trí con người. Phân tâm học cổ điển của Freud là một phương pháp trị liệu đặc thù, mà người được phân tích tâm lý sẽ nói ra các ý nghĩ của mình, qua những liên tưởng tự do, huyễn tưởng và giấc mơ, từ đó nhà trị liệu sẽ rút ra kết luận về những xung đột vô thức là nguồn gốc gây ra các triệu chứng và biểu hiện đặc trưng ở bệnh nhân, rồi diễn giải chúng để có giải pháp cho những vấn nạn tâm lý của họ. Ngày nay, thuật ngữ “phân tâm học” cùng với tên tuổi của người sáng lập là Sigmund Freud đã trở nên quen thuộc trong nhiều lĩnh vực: tâm lý học, giáo dục học, y học, văn học - nghệ thuật, tôn giáo, đạo đức… 40 năm sau ngày mất của ông, tạp chí Newsweek đánh giá rằng tư tưởng của Freud đã đi sâu vào ý thức của chúng ta đến nỗi “khó mà tưởng tượng được thế kỷ XX lại thiếu ông”. Ông thuộc về số ít những nhà tư tưởng đã làm thay đổi căn bản cái nhìn của chúng ta về chính mình. Dẫn luận của Anthony Storr sẽ mang lại những hiểu biết mới mẻ và sâu sắc về con người, lý thuyết và ảnh hưởng thực sự của Sigmund Freud trong thế giới ngày nay. 1 Cuộc đời và tính cách Sigmund Freud sinh ngày 6 tháng 5 năm 1856 tại thị trấn Freiberg ở Moravia, nay là Pribor thuộc Cộng hòa Séc. Mẹ ông là Amalie, người vợ thứ ba của Jacob Freud, một nhà buôn len người Do Thái, bà kém chồng khoảng hai mươi tuổi. Năm 1959, khi Sigmund Freud ba tuổi, gia đình ông chuyển tới Vienna. Trong 79 năm tiếp theo, Freud tiếp tục sống và làm việc ở thành phố này, nơi ông nhiều lần biểu lộ sự không ưa nhưng lại rất ngại rời đi. Năm 1938, ông buộc phải tìm nơi trốn tránh Đức quốc xã, và dành năm cuối của cuộc đời ở Anh. Ông mất ngày 23 tháng 12 năm 1939, chẳng bao lâu sau khi Thế chiến II bùng nổ. Mẹ của Freud, một người đàn bà sôi nổi, quyến rũ và sống đến 95 tuổi, mới 21 tuổi khi Freud được sinh ra. Bà tiếp tục có thêm bảy người con khác, nhưng chỉ Freud - được bà gọi là “mein goldener Sigi” (nghĩa là “Sigi quý như vàng của mẹ”) - mới giữ được vị thế con cưng. Đây là hoàn cảnh được Freud cho là đã dẫn tới sự tự tin của ông. Freud cũng tin rằng thành công sau này của ông có liên quan trực tiếp đến việc ông là người Do Thái. Dù Freud chưa từng thực sự theo Do Thái giáo và cũng bỏ qua mọi niềm tin tôn giáo, coi là không thực tế, ông lại rất ý thức việc mình là người Do Thái. Ông không có nhiều bạn bè không phải là người Do Thái, thường xuyên tham dự những cuộc gặp gỡ của hội Do Thái tại địa phương, và không nhận tiền tác quyền những cuốn sách ông viết được dịch ra tiếng Yiddish và tiếng Hebrew, hai ngôn ngữ của người Do Thái. Ông quy sự tự chủ về tri thức của mình cho việc mình là người Do Thái, và viết rằng khi lần đầu tiếp xúc với chủ nghĩa bài Do Thái tại Đại học Vienna, sự kiện cộng đồng không chấp nhận ông đã khuyến khích khuynh hướng độc lập phê phán của ông. Khi còn nhỏ, Freud sớm phát triển về trí tuệ và là một người học tập hết sức chăm chỉ. Trong nhiều năm liên tiếp, Freud đều đứng đầu lớp. Khi rời nhà trường, ông không chỉ có một kiến thức thấu đáo về tiếng Hy Lạp, Latin, Đức, Hebrew, mà đã học tiếng Anh, tiếng Pháp và cũng tự học những kiến thức cơ bản của các ngôn ngữ Tây Ban Nha và Italia. Ông bắt đầu đọc Shakespeare ở tuổi lên tám. Shakespeare và Goethe luôn là những tác giả yêu thích của ông. Từ những năm học đầu tiên, Freud đã là một học sinh nghiêm túc và chuyên tâm, được gia đình và thầy cô kỳ vọng trở thành người ghi dấu ấn trên thế giới, và bản thân ông cũng tin rằng mình được sinh ra để tạo nên một đóng góp quan trọng cho sự hiểu biết. Đời sống gia đình xoay quanh những nghiên cứu của ông. Ông ăn tối tách biệt với gia đình, và khi ông bị quấy rầy bởi âm thanh từ cây piano mà người em gái Anna đang tập chơi, cha mẹ ông đã đưa cây đàn ra khỏi căn hộ. Hình 1. Freud ghé Paris trên đường đến London năm 1938 cùng Marie Bonaparte và William C. Bullitt. Marie Bonaparte (tức Công nương George của Hy Lạp) đã trả số tiền Đức quốc xã yêu cầu để đưa Freud ra khỏi Áo, bởi khi ấy, tài khoản ngân hàng và tiền mặt của ông đã bị tịch thu. William Bullitt, đại sứ Mỹ tại Paris, là đồng tác giả với Freud của một cuốn sách về tổng thống Mỹ tiền nhiệm Woodrow Wilson. Mùa thu năm 1873, Freud đăng ký học khoa Y tại Đại học Vienna, và mãi đến ngày 30 tháng 3 năm 1881 mới tốt nghiệp. Mối quan tâm ban đầu của ông là nghiên cứu động vật học. Từ năm 1876 đến 1882, ông làm việc tại Viện Sinh lý học của Ernst Brücke, một chuyên gia được ông ngưỡng mộ và đã có ảnh hưởng đáng kể lên cung cách tư duy của ông. Brücke và các đồng nghiệp chuyên tâm hướng tới một ý tưởng khi đó chưa được chấp nhận rộng rãi, đó là mọi tiến trình của sự sống rốt ráo đều có thể được giải thích bằng vật lý và hóa học, qua đó loại trừ những khái niệm tôn giáo khỏi sinh học. Trong suốt cuộc đời, Freud luôn là người theo thuyết tất định, tin rằng mọi hiện tượng của sự sống, kể cả những hiện tượng như ý nghĩ, cảm giác và tưởng tượng đều được quyết định một cách cứng nhắc bởi nguyên lý nhân quả. Hình 2. Một lá thư gửi Martha, viết trong sự bối rối nên có những dấu mực lem nhem. Freud xin cô đừng yêu cầu ông giải thích. Ngày 9 tháng 8 năm 1882. Freud hành nghề y khoa một cách miễn cưỡng, và chỉ mãn nguyện với việc dành cả cuộc đời cho hoạt động nghiên cứu. Nhưng vào năm 1882, ông đính hôn với Martha Bernays. Nếu vẫn làm việc ở phòng thí nghiệm của Brücke, ông sẽ không kiếm đủ tiền để nuôi gia đình, nên Freud miễn cưỡng rời bỏ sự nghiệp nghiên cứu, và dành ba năm tiếp theo tích lũy kinh nghiệm y khoa tại Bệnh viện đa khoa Vienna, sẵn sàng dấn thân vào y khoa. Năm 1885, ông được chỉ định làm giảng viên bệnh học thần kinh tại Đại học Vienna. Từ tháng 10/1885 đến tháng 2/1886, ông làm việc tại Bệnh viện Salpêtrière ở Paris dưới sự chỉ đạo của nhà tâm thần học vĩ đại Charcot, người với học thuyết về rối loạn phân ly (hysteria) đã đánh thức nơi ông sự quan tâm đến các vấn đề liên quan đến chứng nhiễu tâm (loạn thần kinh chức năng), nhằm phân biệt với những bệnh thực thể của hệ thần kinh. Tháng 4/1886, Freud mở phòng khám tư tại Vienna, và ngày 13 tháng 8 năm ấy, ông cưới Martha Bernays. Hình 3. Freud và Martha Bernays khi đính hôn, 1885. Đứa con đầu lòng của họ, Mathilde, sinh ra tháng 10/1887. Thêm năm đứa trẻ khác ra đời, con gái út là Anna Freud, sinh năm 1895, người con duy nhất của Freud sau này trở thành nhà phân tâm học. Vợ ông, Martha, hài lòng với việc dành trọn bản thân cho hạnh phúc của chồng và sáu đứa con trong suốt đời sống hôn nhân dài và bình lặng của họ. Từ những lá thư, chúng ta biết rằng đời sống tình dục của họ tụt dốc khá sớm, nhưng cuộc sống gia đình vẫn hòa hợp. Sau khi ông mất, bà đã viết cho một người bạn. Thật khó khăn khủng khiếp khi không có ông ấy, khi tiếp tục sống mà không có sự nhân hậu và sáng suốt như vậy bên mình. Nhưng có một điều dễ chịu nhỏ, tôi biết rằng trong 53 năm đời sống hôn nhân, đã không có một từ ngữ giận dữ nào thốt ra giữa hai chúng tôi, và tôi luôn bằng mọi cách có thể để con đường của ông không bị chướng ngại bởi những khổ sở của đời sống thường ngày. Từ giữa những năm 1890 trở về sau, cuộc sống của Freud trở thành lịch sử phát triển phân tâm học. Những nghiên cứu về rối loạn phân ly, được ông viết cùng Josef Breuer, đã xuất hiện năm 1895. Nếu xem xét ảnh hưởng của Freud lên tư tưởng đương đại, và nếu biết rằng những đóng góp của ông cho phân tâm học là lớn đến nỗi bộ Toàn tập(1) có đến hai mươi bốn tập, thật ngạc nhiên khi thấy công trình phân tâm học đầu tiên chỉ được công bố khi ông đã 39 tuổi. (1) Xem danh mục tài liệu tham khảo cuối sách. (ND) Kiểu nhân cách nào có khả năng đạt được nhiều thành tựu như vậy chỉ trong quãng thời gian nửa đời người? Hầu hết những người có thành tựu trí tuệ nổi bật đều bộc lộ những nét tính cách mà các nhà tâm thần học gọi là “ám ảnh”. Nói cách khác, họ tỉ mỉ, kỹ càng, chính xác, đáng tin cậy, chân thành, rất quan tâm đến sự sạch sẽ, kiểm soát, thứ tự. Chỉ khi những nét tính cách đáng quý này trở nên bị phóng đại, chúng ta mới gọi là nhiễu tâm ám ảnh, một chứng rối loạn có mức độ trầm trọng trải từ những ước muốn khó chế ngự, đến việc thích kiểm tra và tái kiểm tra, đến một trạng thái hoàn toàn bất lực, sự tồn tại của người bệnh quá bị chi phối bởi những nghi thức đến nỗi cuộc sống bình thường trở thành không thể. Hình 4. Freud và con gái Anna ở Dolomites, 1913. Bản thân Freud cũng nhận ra mình thuộc loại nhân cách ám ảnh, nên nói với Jung rằng nếu ông bị rơi vào chứng nhiễu tâm, nó sẽ là nhiễu tâm ám ảnh. Đặc trưng của ông là sự phát triển sớm về trí tuệ và sự chuyên tâm với công việc - đây luôn là những xu hướng khó cưỡng từ khi còn nhỏ. Ông viết cho bạn là Fliess rằng ông cần “một niềm say mê chi phối”, ông nói không thể hình dung cuộc sống của mình sẽ ra sao nếu không có công việc, và đối với ông, sự tưởng tượng sáng tạo đi liền với công việc. Ông là một người viết rất sung sức. Hầu hết những công trình được ông viết vào các ngày Chủ nhật hoặc vào ban đêm, sau một ngày dành tám hoặc chín giờ căng thẳng gặp gỡ bệnh nhân. Dù cũng có những kỳ nghỉ hè dài ngày, khi ấy ông sẽ tích cực đi bộ, nhưng trong tuần làm việc, ông lại dành cho bản thân rất ít thời gian nghỉ ngơi. Giống như hầu hết những người thuộc nhân cách này, Freud vô cùng cẩn trọng trong ăn mặc và vẻ ngoài, kể cả vào thời kỳ nghèo khó ban đầu. Một lá thư gửi Wilhelm Fliess tiết lộ rằng thợ cắt tóc đến gặp ông hàng ngày. Ông biểu lộ tất cả những nét tính cách đặc trưng và có giá trị nhất ở loại nhân cách này, đó là cực kỳ chu đáo, kiểm soát bản thân, chân thật và say mê theo đuổi chân lý. Bản thân Freud đã mô tả loại nhân cách ám ảnh là “đặc biệt ngăn nắp, chi li và cứng đầu” (Toàn tập, IX.169). Tất nhiên ông là người ngăn nắp và cứng đầu, có thể chi li vào thời trẻ khi còn rất nghèo, phải lệ thuộc vào sự giúp đỡ tài chính của bạn bè. Phong cách của ông trước sau vẫn đơn giản, và Ernest Jones cho chúng ta biết rằng ông không bao giờ có quá ba bộ vest, ba đôi giày, ba bộ quần áo lót. Trong những năm sau này, ông cũng không chịu được việc nợ nần, và rộng rãi giúp đỡ tài chính những người có nhu cầu, kể cả một số bệnh nhân, người thân và sinh viên nghèo. Ông cũng phải chịu một số căng thẳng đi liền với những nét tính cách của loại nhân cách ám ảnh. Ông mê tín những con số. Trong một lá thư gửi Jung (16/4/1909), ông tiết lộ rằng trong nhiều năm, ông đã tin mình sẽ chết ở giữa tuổi 61 và 62. Theo những gì ông viết, ông tới Hy Lạp cùng người em, thấy có một điều “thật sự kỳ lạ” là con số 61 hoặc 60 cứ liên tục xuất hiện một cách bất ngờ liên quan đến số 1 hoặc 2. Căn phòng khách sạn của ông ở Athens là phòng số 31, nghĩa là một nửa của 61. Ông nói với Jung rằng sự ám ảnh này xuất hiện lần đầu năm 1899. Lúc ấy, có hai sự kiện xảy ra. Đầu tiên, tôi viết “Diễn giải giấc mơ” (được công bố với thời gian để lùi thành năm 1900), và thứ hai, tôi nhận được một số điện thoại mà ngày nay vẫn còn: 14362. Dễ thấy có một nhân tố chung ở hai sự việc này. Năm 1899, khi viết “Diễn giải giấc mơ”, tôi 43 tuổi. Vì vậy, có thể cho rằng những con số khác nói lên sự kết thúc của cuộc đời tôi, tức 61 hoặc 62. (Thư từ giữa Freud và Jung, trang 219) Những mê tín như vậy, thường được kết hợp với những nghi thức khó cưỡng và sự ám ảnh về cái chết, là điều hay gặp ở những trường hợp nhiễu tâm ám ảnh. Như Ernest Jones đã chỉ ra, giống như nhiều thiên tài sáng tạo khác, Freud bộc lộ một sự dao động đặc thù giữa thái độ hoài nghi và tính cả tin. Dù Freud không tán thành những niềm tin về đồng cốt và “thuyết duy linh” - những thứ đã lôi kéo rất nhiều nhà khoa học vào cuối thế kỷ 19 - ông vẫn giữ một niềm tin phi lý về ý nghĩa sâu kín của các con số và một niềm tin không hẳn thật tâm vào thần giao cách cảm. Hình 5. Một phần trong bộ sưu tập tượng cổ của Freud. Freud biểu lộ một số thói quen và tính cách ám ảnh khác. Chẳng hạn, ông không thể cưỡng nổi việc hút xì gà. Kể cả trong những năm từ 1893 đến 1896, khi bị một chứng loạn nhịp tim dễ tái phát, có thể phần nào do hút thuốc, ông cũng thấy không thể cai thuốc quá lâu. Ở tuổi 67, ông hình thành khối u vòm miệng, bị tái phát trong suốt phần còn lại của cuộc đời khiến ông phải chịu hơn 30 lần phẫu thuật. Dù biết hút thuốc là một tác nhân khiến tái phát ung thư bằng cách gây ra sưng tấy, ông vẫn không bỏ được thói quen ấy. Những nhân cách ám ảnh thường biểu lộ sự tự kiểm soát đến mức có vẻ bị ức chế, thiếu tự nhiên, và Freud không phải là ngoại lệ. Nhưng hút thuốc là gót chân Achilles của ông, một thành phần cưỡng bức trong hành vi mà ông không làm chủ được. Thói quen sưu tập cũng là điểm đặc trưng của Freud. Ông say mê với đồ cổ, được khơi gợi bởi những nghiên cứu kinh điển, sự khát khao lãng mạn dành cho Rome và mối quan tâm đến những khía cạnh xa xôi của lịch sử loài người. Những bức hình chụp căn hộ của ông ở Vienna và việc tái xây dựng căn hộ đó tại văn phòng ở 20 Maresfield Gardens, Hampstead - hiện là Bảo tàng Freud - cho chúng ta thấy bộ sưu tập những bức tượng cổ nhỏ của ông. Những bức tượng này choán đầy kệ và đứng sát nhau trên mặt bàn làm việc đến nỗi không một bức tượng nào có thể được chiêm ngưỡng như một đối tượng thẩm mỹ độc lập. Kiểu trưng bày này không phải của một người am hiểu, mà của một nhà sưu tập ám ảnh, quan tâm đến tích lũy hơn là vẻ đẹp. Bản thân Freud thừa nhận sự quan tâm của ông đến những đối tượng ấy giống như sự quan tâm tới tác phẩm điêu khắc, phụ thuộc vào những liên tưởng lịch sử, ý nghĩa cảm xúc và trí tuệ hơn là vào hình thức mỹ thuật của nó. Ông thẳng thắn thừa nhận như vậy trong tiểu luận “Bức tượng Moses của Michelangelo”, một công trình cũng biểu lộ sự chú ý tỉ mỉ của Freud đến những chi tiết nhỏ mà hầu hết các nhà quan sát khi nhìn chăm chú vẫn có thể bỏ qua. Sự sát sao đến các chi tiết cũng lộ ra trong những diễn giải lâm sàng của ông về triệu chứng, giấc mơ hay những yếu tố tâm lý khác của bệnh nhân. Freud có thị hiếu thưởng thức sắc sảo đối với văn học. Sự xuất sắc trong phong cách văn chương của bản thân Freud đã được nhận ra khi ông còn là học sinh. Năm 1930, ông trở thành người thứ tư nhận giải thưởng văn học Goethe do thành phố Frankfurt trao tặng. Trong tuyển tập của Freud, có nhiều trích dẫn Goethe và Shakespeare hơn công trình của bất kỳ nhà tâm thần học nào. Khả năng thưởng thức âm nhạc của ông giới hạn trong opera - loại hình biểu diễn âm nhạc có sức thu hút nhất với những người ít khả năng thưởng thức âm nhạc. Một người cháu trai mô tả Freud như một người coi thường âm nhạc. Hình 6. Lối vào ngôi nhà cuối cùng của Freud ở 20 Maresfield Gardens, London, NW3, hiện là Bảo tàng Freud. Bản chất kìm nén và kiểm soát của Freud còn lan sang tự truyện, trong đó ông tập trung gần như toàn bộ vào sự phát triển của phân tâm học và hầu như không nói điều gì về đời sống riêng. Ngay từ năm 1885, ông viết cho hôn thê rằng ông đã tiêu hủy những ghi chép, thư từ và bản viết tay của 14 năm qua, và nói thêm như thể biết trước rằng ông không muốn tạo điều kiện dễ dàng cho những người viết tiểu sử tương lai của mình. Freud, người đã dành cả đời khám phá những bí mật sâu kín mà mọi người cố gắng che giấu khỏi bản thân cũng như khỏi người khác, lại vô cùng miễn cưỡng tiết lộ những bí mật của chính mình. Trong công tác lâm sàng, Freud lại nhân hậu và khoan dung đúng như những nhà phân tâm học phải làm vậy. Tuy nhiên, sự nhân hậu của ông không dựa trên bất kỳ mong đợi lớn lao nào về loài người - giống loài bị ông nhìn nhận với sự chán ghét hoặc xa rời thay vì với tình yêu. Ông viết trong một bức thư: Xét tổng thể, tôi chẳng thấy nhiều những điều “tốt” ở con người. Theo kinh nghiệm của tôi, đa phần họ là đồ rác rưởi. (“Phân tâm học và sự tin cậy”, trang 61-62) Một người thực hiện phân tích tâm lý kể lại rằng mối quan tâm của ông là… khách quan một cách tò mò… Ông quá tập trung vào việc tìm hiểu mà ông đang theo đuổi đến nỗi bản thân ông vận hành như một công cụ. Những người gần gũi ngưỡng mộ ông không chỉ vì sự thông minh và uyên bác, mà còn vì sự chính trực và dũng cảm. Có lẽ ông thiếu một thứ gì đó để khiến người khác cảm nhận được ngay sự ấm áp. Trong một lá thư gửi Jung (2/12/1907), Freud viết: Tôi luôn cảm thấy một điều gì đó trong nhân cách, suy nghĩ và lời nói của tôi khiến mọi người thấy lạ và có ý khước từ, trong khi mọi tấm lòng lại mở ra với anh. Nếu một người khỏe mạnh như anh xem bản thân là kiểu rối loạn phân ly, tôi chỉ có thể nói tôi là kiểu “ám ảnh”, và mỗi loại người của hai kiểu nhân cách này đều sống đơn điệu trong thế giới khép kín của riêng mình. (Thư từ giữa Freud và Jung, trang 82) Sự trung thực của Freud đã buộc ông điều chỉnh hoặc sửa đổi đáng kể ý tưởng của mình ở một số lần trong suốt cuộc đời, nhưng điều này có vẻ luôn xảy ra do những hiểu biết sâu xa mới của chính ông thay vì nhằm đáp lại những phê phán của người khác. Khi Freud đã đạt tới một kết luận nhất định, ông sẽ không chịu được sự bất đồng, và sự cứng nhắc này dẫn tới việc một loạt những người cộng tác và học trò rời bỏ ông - điều vô cùng đáng tiếc trong lịch sử phân tâm học. Freud xem những rời bỏ ấy như sự phản bội thay vì như sự bất đồng quan điểm. Breuer, người cộng tác đầu tiên xa rời Freud, đã viết cho Forel: Freud là người thuộc về những phát biểu tuyệt đối và không ai được xen vào… Đây là một nhu cầu tinh thần, theo tôi dẫn tới sự khái quát hóa quá mức. Breuer đúng ở cả hai điểm. Trong những trường hợp liên quan đến tình trạng dễ bị thương tổn của loài người, Freud biểu lộ sự khoan dung phi thường. Điều này dã dẫn tới một quan điểm văn minh hơn về nhiễu tâm, lệch lạc tính dục và những hình thức thích ứng sai lạc khác về cảm xúc, nên nó là một trong những di sản giá trị nhất Freud để lại. Nhưng trong thời kỳ đầu của phân tâm học, ông không thể cho phép những người gần gũi với ông tranh luận về những gì ông đã tuyên bố là nguyên lý nền tảng, tuyệt đối của môn khoa học mới về tâm trí mà ông khơi xướng. Điều này không chỉ dẫn tới những cắt đứt với Breuer và Fliess mà cả sự ra đi của Adler, Stekel, Jung, Rank và nhiều người khác của trào lưu phân tâm học. Nhận xét của Breuer về “sự khái quát hóa quá mức” cũng rất có cơ sở. Freud là một nhà tư tưởng táo bạo và độc đáo, nhưng tính chất và độ dài của tiến trình phân tích tâm lý mà ông phát minh cho thấy những kết luận của ông về bản chất con người được dựa trên một mẫu rất nhỏ của loài người. Những bệnh nhân của Freud chủ yếu thuộc tầng lớp cao hoặc trung cao. Hơn nữa, loại bệnh trạng được lý thuyết phân tâm học thời đầu dựa vào - chứng rối loạn phân ly trầm trọng đã biến đổi(2) ở phụ nữ - lại hiếm thấy ngày nay. (2) Đã chuyển thành một triệu chứng trên cơ thể. (ND) Sự khái quát hóa quá mức là một cám dỗ đối với tất cả những nhà tư tưởng khởi xướng, những người thường yêu thích ý tưởng của chính mình nên đánh giá chúng quá cao. Có lẽ những ý tưởng mới mẻ và không phổ biến sẽ không bao giờ được người ta để ý đến trừ phi những người khởi xướng hoàn toàn tin rằng chúng là đúng. Freud không chỉ chắc chắn mình đã khám phá những khía cạnh mới của sự thật về loài người, mà còn là một tác giả có sức thuyết phục, người cố gắng đương đầu với mọi phê bình mà độc giả có thể đưa ra trong quá trình phát biểu lý thuyết của ông - một kỹ thuật cố tình có tính chất “làm nguôi giận”. Ông trông đợi sự chống đối và hoài nghi, và thường gặp cả hai. Nhưng kỹ năng văn chương và sự tin tưởng tuyệt đối của ông vào tính đúng đắn của mình cuối cùng đã biến phân tâm học thành một thế lực phải được tính đến trong khắp thế giới phương Tây. Còn có một lý do khác cho sự khái quát hóa quá mức, không phải bắt nguồn từ sự đánh giá quá cao những ý tưởng mới, mà từ một ham muốn hoặc nhu cầu đặc trưng cho những nhà tư tưởng có kiểu nhân cách ám ảnh. Do tâm lý của họ dựa trên nhu cầu về trật tự và kiểm soát, họ có khuynh hướng tìm kiếm và bị thu hút tới những hệ tư tưởng bao quát toàn diện, hứa hẹn những giải thích gần như trọn vẹn về sự tồn tại của con người, do vậy cũng là những hệ tư tưởng đem lại hy vọng rằng cá nhân có thể làm chủ cả bản chất của mình lẫn thực tại bên ngoài thông qua những hiểu biết mới. Nhiều triết gia vĩ đại, kể cả Kant và Wittgenstein đều là loại người này, những người tạo ra hệ tư tưởng của riêng họ mà những suy nghĩ của người khác không thể xâm nhập, và họ thường không thể đọc công trình của các triết gia khác mà tìm được sự hữu ích hay niềm vui. Freud tuyên bố mình là một nhà khoa học, và đương nhiên không phải là một triết gia theo ý nghĩa chặt chẽ của từ này, cũng không đặc biệt quan tâm đến triết học, dù hồi trẻ ông đã dịch một cuốn sách của John Stuart Mill. Tuy nhiên, ông giống một triết gia ở chỗ là người tạo nên một hệ tư tưởng. Từ rất sớm trong lịch sử của phân tâm học, bộ môn này đã rời bỏ những bức tường hạn hẹp của phòng khám để xâm nhập vào nhân loại học, xã hội học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật và huyền học. Nếu không phải là một hệ thống triết lý, ít nhất nó đã trở thành một Weltanschauung, “thế giới quan”, và sự mở rộng phi thường này từ một phương pháp điều trị chứng nhiễu tâm thành cách nhìn mới về bản chất loài người đã bắt nguồn từ những nhu cầu tâm lý của người sáng lập nó. Freud phản bác tôn giáo, xem như điều không thật, nhưng lại cần một cách tiếp cận có hệ thống nào đó để tạo ra một ý nghĩa mạch lạc về thế giới. Ông gọi hệ tư tưởng mà ông phát minh ra là một khoa học, nhưng phân tâm học không phải và chưa bao giờ có thể là một khoa học giống như khi người ta nói vật lý hay hóa học là khoa học, bởi lẽ những giả thuyết của nó có tính chất hồi tưởng quá khứ và không thể được sử dụng cho dự báo, và hầu hết không dễ có được bằng chứng rốt ráo. Quan điểm theo thuyết tất định và sự khẳng định phân tâm học là khoa học đã làm những khám phá của ông mất đi giá trị dưới con mắt các triết gia như Popper hay những khoa học gia như Medawar, hệ quả là họ không thể nhận thức đúng tầm quan trọng của phân tâm học như một phương thức diễn giải về tôn giáo và một cách nhìn vào bản chất con người. Một cuốn sách dẫn luận không thể nói hết mọi điều về Freud. Những chương tiếp theo là một nỗ lực nhằm đánh giá những lý thuyết quan trọng hơn cả của ông dưới ánh sáng của tri thức hiện đại. 2 Từ chấn thương đến huyễn tưởng Thời gian Freud lưu lại ngắn ngủi ở Paris trong mùa đông 1885- 1886 đã có một tác động sâu xa tới tư duy của ông. Trong một vài năm, Charcot đã nghiên cứu về thôi miên với mục đích khám phá một kỹ thuật chẩn đoán, giúp phân biệt giữa những tê liệt do bệnh thực thể của hệ thần kinh trung ương và những tê liệt của chứng rối loạn phân ly, nghĩa là những gì có nguồn gốc “loạn thần kinh chức năng”. Charcot cho Freud thấy rằng tư tưởng dù vô hình nhưng lại có thể là những tác nhân gây bệnh trong chứng nhiễu tâm. Khi một bệnh nhân hình thành sự tê liệt của chứng rối loạn phân ly, biểu hiện của sự tê liệt không phải được quyết định bởi những sự thật về cơ thể học, mà bởi tư tưởng sai lầm của bệnh nhân về cơ thể học. Thay vì hình thành một loại liệt có thể được giải thích bởi một thương tổn ở dây thần kinh ngoại vi cụ thể nào đó, người ấy lại biểu lộ một loại liệt chi, tương ứng với ý tưởng của người ấy về việc chân hoặc tay mình bắt đầu và kết thúc ở đâu. Charcot đã chứng minh rằng những loại liệt ấy có thể chữa được, và có thể nhất thời phục hồi tình trạng liệt thông qua thôi miên. Freud học được từ Charcot rằng để hiểu chứng rối loạn phân ly, phải hướng đến tâm lý học thay vì thần kinh học. Những bệnh nhân sau khi ra khỏi các trạng thái thôi miên đều không thể nhớ lại những điều đã được gợi ra trong tâm trí họ khi họ bị thôi miên, bởi vậy các thí nghiệm thôi miên cũng dạy cho Freud rằng những diễn biến vô thức trong tâm trí có thể có một tác động lớn lên hành vi. Hình 7. J. M. Charcot cho thấy những triệu chứng rối loạn phân ly của một bệnh nhân đang bị thôi miên, 1887. Tranh khắc của A. Lurat dựa trên một bức họa của Andre Brouillet. Hình 8. Freud thời trẻ, khoảng năm 1885. Do vậy, Freud đã sử dụng thôi miên trong điều trị chứng nhiễu tâm, và tiếp tục làm vậy cho mãi đến năm 1896. Nhưng ông không sử dụng thôi miên chỉ như một phương tiện để khắc sâu vào tâm trí bệnh nhân những gợi ý về sức khỏe tích cực. Một khía cạnh thứ hai và quan trọng hơn bắt nguồn từ những quan sát của người bạn và là đồng nghiệp của Freud, Josef Breuer. Khi dùng thôi miên để điều trị bệnh nhân nổi tiếng của mình, Anna O. (tức Bertha Pappenheim), Breuer phát hiện thấy nếu cô có thể nhớ được khoảnh khắc đầu tiên khi một triệu chứng rối loạn phân ly cụ thể xuất hiện, triệu chứng sẽ biến mất. Breuer gọi phương pháp điều trị này là “sự thanh tẩy” (catharsis). Vì vậy, thôi miên đã được sử dụng như một phương pháp giúp bệnh nhân nhớ được những nguồn gốc bị quên mất của các triệu chứng cụ thể. Thay vì được sử dụng như một tấn công trực tiếp vào triệu chứng thông qua công cụ ám thị, nó trở thành một phương pháp khám phá. Freud và Breuer đã hy vọng những triệu chứng nhiễu tâm có thể được triệt tiêu bằng phương thức khó nhọc nhưng về cơ bản lại đơn giản này. Trong công trình đầu tiên của hai người đăng trên Những nghiên cứu về chứng rối loạn phân ly, họ viết: Thoạt đầu, chúng tôi đã hết sức ngạc nhiên khi phát hiện ra, nếu có thể làm sáng tỏ sự kiện đã kích động một triệu chứng rối loạn phân ly cụ thể, nếu có thể khuấy động xúc cảm đi liền với nó, và nếu bệnh nhân đã mô tả sự kiện ấy càng chi tiết càng tốt cũng như đã diễn đạt xúc cảm thành lời, triệu chứng rối loạn phân ly đó biến mất ngay lập tức và mãi mãi. Trong một câu nói nổi tiếng, Breuer và Freud tuyên bố: Những người mắc chứng rối loạn phân ly chủ yếu khổ sở vì sự hồi tưởng. (Toàn tập, 11.6, 7) Những hồi tưởng này có một số tính chất đặc biệt. Thứ nhất, không dễ gì tiếp cận chúng bằng cách dùng ý thức để nhớ lại. Bệnh nhân chỉ có thể khám phá chúng nếu bị thôi miên, hoặc như Freud sau này phát hiện, nếu bệnh nhân được nói cho biết một cách chắc chắn rằng những ký ức ấy có ở đó, chắc chắn có thể được khôi phục, và chúng sẽ trở lại vào khoảnh khắc bác sĩ nhấn ngón tay vào trán bệnh nhân. Thứ hai, những hồi tưởng luôn luôn là đau thương, hổ thẹn hoặc gây hoảng sợ. Kết quả, phải có một cơ chế tâm trí nào đó có khuynh hướng trục xuất những ký ức không dễ chịu khỏi ý thức, làm chúng trở nên tương đối khó tiếp cận. Cơ chế này được Freud gọi là dồn nén. Sự dồn nén, trên hết là một “cơ chế tự vệ”, đã trở thành cơ sở cho lý thuyết phân tâm học về chứng nhiễu tâm. Như vậy, ông đã mặc nhiên công nhận sự tồn tại của mâu thuẫn trong tâm trí, giữa một bên là một xúc cảm nào đó đang tìm cách nổi lên ý thức và bộc phát ra ngoài, và một bên là một phần khác của tâm trí, từ chối thừa nhận hoặc đối mặt với sự tồn tại của một cảm xúc mà nó thấy là đáng ghê tởm. Freud cho rằng chính cảm xúc không được thừa nhận, giờ đây bị dồn nén và không thể tìm được cách biểu lộ hay giải tỏa trực tiếp, đã sinh ra các triệu chứng nhiễu tâm. Trạng thái tinh thần mà Freud đề xướng tương tự như trạng thái vật lý của một ung nhọt hay một áp-xe (abscess) “không có lối ra”, không thể tìm được đường nổi lên bề mặt, không thể tuôn ra chất độc mà nó chứa đựng. Cách nhìn “phẫu thuật” này về chứng nhiễu tâm hẳn đã thu hút Freud trong vai trò một nhà nghiên cứu y học. Nó ám chỉ rằng cảm xúc không được thừa nhận và đang gây ra các triệu chứng nhiễu tâm có thể được cắt bỏ như thể nó là một thực thể bên ngoài, một kẻ xâm nhập, không phải là một phần trong nhân cách bệnh nhân nói chung. Trong một trường hợp rối loạn phân ly, Freud quả quyết cảm xúc đã được chuyển thành một triệu chứng trên cơ thể, từ đây sinh ra thuật ngữ “rối loạn phân ly biến đổi”. Ở nhiều bệnh nhân, triệu chứng cơ thể nói lên cảm xúc của bệnh nhân một cách tượng trưng. Chẳng hạn, sự co thắt ở cổ họng có thể cho thấy người đó không có khả năng chịu đựng (nuốt trôi) một lời lăng mạ, hoặc một cơn đau ở vùng tim nói lên một cách ẩn dụ rằng trái tim bệnh nhân đã tan vỡ hoặc bị hủy hoại. Trong những dạng nhiễu tâm khác, nhiều triệu chứng rối loạn như ám ảnh hay sợ hãi là kết quả của việc dồn nén những cảm xúc đang vật lộn để tìm cách bộc lộ gián tiếp. Ban đầu, Freud nghĩ cảm xúc bị dồn nén luôn gắn liền với những chấn thương tâm lý, hay nói cách khác, với một sự kiện không dễ chịu nào đó mà bệnh nhân muốn quên đi. Quan sát này vẫn có giá trị ngày nay trong những trường hợp được gọi là “rối loạn căng thẳng sau chấn thương”, trong đó một bệnh nhân hình thành những triệu chứng nhiễu tâm sau một lần thoát chết, một tai nạn, hoặc một kinh nghiệm khủng khiếp nào đó. Nếu tạo cho bệnh nhân khả năng khôi phục ký ức về điều đã trải qua, kể chi tiết về nó, để những cảm xúc sợ hãi và kinh hoàng gắn liền với trải nghiệm ấy được tuôn ra hay “giải tỏa”, điều đó thật sự đem lại kết quả hữu ích như đã nhiều lần được chứng minh bởi những người điều trị nhiễu tâm do chiến tranh. Sau này, Freud mở rộng quan điểm của ông, bao hàm cả những thôi thúc bản năng muốn được bộc phát, có thể bị khuấy động bởi một tác nhân kích thích bên ngoài nào đó hoặc cứ vậy khơi lên một cách tự phát bên trong con người. Một ví dụ có từ sớm về trường hợp này là một cô gái thấy mình không thể rời khỏi phòng hoặc tiếp khách mà không đi tiểu một vài lần. Freud truy xét và thấy nguồn gốc của triệu chứng này là từ một lần cô gái ở trong rạp hát, thấy bị hấp dẫn quá mạnh bởi một người đàn ông nào đó đến nỗi có những cảm giác ở bộ phận sinh dục, khiến cô muốn đi tiểu và buộc phải rời nhà hát. Từ lần đó về sau, cô sợ lặp lại cảm giác ấy nên đã thay thế nỗi sợ bị kích thích sinh lý bằng nỗi sợ không thể kiểm soát bàng quang. Việc khôi phục ký ức về nguồn gốc của triệu chứng, và như chúng ta có thể hình dung, việc kết hợp nó với sự hiểu biết và chấp nhận tính dục của mình đã giúp cô được chữa lành. Thời điểm ấy, Freud cũng đề xướng rằng có một nhóm nhiễu tâm đặc biệt, trực tiếp bị gây ra bởi những xung năng tính dục không được giải tỏa một cách thỏa mãn hoặc trọn vẹn. Sự giải tỏa không trọn vẹn thường thông qua những hành động như thủ dâm hay giao hợp xuất tinh ra ngoài (coitus interruptus), hoặc đơn giản là tiết dục. Freud gọi những trạng thái ấy là “những nhiễu tâm hiện thời”, dịch từ thuật ngữ tiếng Đức aktuelle nghĩa là “đang có”. Chỉ cần dùng hoạt động tính dục thực tế thay cho những hành động kể trên là đủ để chữa lành những trường hợp như vậy. Ngay từ giai đoạn rất sớm này trong sự phát triển của phân tâm học, chúng ta đã có thể nhận ra những tư tưởng chi phối Freud trong suốt phần còn lại của cuộc đời ông. Tư tưởng đầu tiên là, ngoại trừ trường hợp “nhiễu tâm hiện thời”, các cảm xúc quá khứ đều là nguyên nhân của những vấn đề hiện tại. Thứ hai, những cảm xúc ấy luôn là sự hổ thẹn, đau thương hoặc đáng sợ, do vậy bị khước từ hoặc dồn nén. Freud luôn tin rằng có một nguyên lý chi phối trong đời sống tinh thần, đó là các cơ quan trong cơ thể có nhu cầu đạt đến trạng thái bình lặng bằng cách giải tỏa hoàn toàn mọi sức căng (nguyên lý này về sau được gọi là nguyên lý Niết bàn, Nirvana principle). Nhận định căn bản này có khuynh hướng nhìn nhận mọi cảm xúc mãnh liệt một cách tiêu cực, xem chúng như những phiền toái phải bị từ bỏ thay vì như những vui thú để theo đuổi. Theo học thuyết Freud, hạnh phúc có được khi những nhu cầu đã được đáp ứng và những say mê đã nguôi đi. Không còn chỗ cho “cơn thèm muốn tác nhân kích thích”, hay nhu cầu đi tìm những tác nhân kích thích về cảm xúc và trí tuệ của con người khi họ bị đặt trong một môi trường đơn điệu với quá ít những gì từ thế giới bên ngoài, hay khi họ đã ở trong một trạng thái bình lặng quá lâu đến nỗi rơi vào sự buồn chán (ennui). Bước tiếp theo, Freud khẳng định trong nhiều trường hợp rối loạn phân ly, chấn thương tâm lý tưởng như là nguyên nhân gây ra các triệu chứng lại thường quá nhỏ bé để có thể là một nhân tố quyết định. Trong những trường hợp ấy, Freud cho rằng chấn thương có vẻ đóng vai trò kích động ấy đã đánh thúc ký ức về một chấn thương trước đó, và sự kết hợp giữa chấn thương hiện tại với chấn thương quá khứ tạo thành sự kích động đích thực. Trong một công trình thời đầu dựa trên một bài giảng, được thực hiện ở Vienna năm 1896, Freud quả quyết: Không một triệu chứng rối loạn phân ly nào có thể nổi lên chỉ từ một trải nghiệm thực tế, mà trong mọi trường hợp, ký ức về những gì trải qua trước đó được đánh thức bởi những gì mới trải qua đã đóng vai trò gây ra triệu chứng. (Toàn tập, 111.197) Sau đó, Freud đưa ra một tuyên bố trọng yếu. Trên cơ sở 18 trường hợp rối loạn phân ly, ông khẳng định: Bất kỳ trường hợp nào và bất kỳ triệu chứng nào được lấy làm điểm khởi đầu, cuối cùng chúng ta luôn đi tới lĩnh vực trải nghiệm tính dục. (Toàn tập, 111.199) Cũng trong công trình trên, Freud tiếp tục: Do vậy, tôi đưa ra luận đề rằng ở gốc gác của mỗi trường hợp rối loạn phân ly, có một hoặc nhiều lần xuất hiện trải nghiệm tính dục sớm, thuộc về những năm đầu tiên của tuổi thơ nhưng có thể được tái tạo thông qua tác động của nhà phân tâm học bất chấp nhiều thập kỷ gián đoạn. Tôi tin rằng đây là một khám phá quan trọng, sự khám phá một caput Nili [cội nguồn sông Nile] trong bệnh học thần kinh. (Toàn tập, 111.203) Roger Brown, giáo sư tâm lý học ở Harvard, đã chỉ ra đây là nỗ lực cuối cùng của Freud nhằm trình bày những giả thiết liên quan đến thuyết nguyên nhân bệnh, và ngay cả trong ví dụ trên cũng không hề có nhóm đối chứng. Bất chấp điều ấy, Freud tiếp tục tuyên bố mình là một nhà khoa học thực nghiệm. Những khám phá của Freud biến cảm xúc tính dục thành cảm xúc chủ chốt, nếu bị dồn nén sẽ gây ra những triệu chứng nhiễu tâm. Dù ông thừa nhận những cảm xúc khác cũng có thể liên quan đến các triệu chứng rối loạn phân ly, chẳng hạn sự oán giận không thể “nuốt trôi” khi bị lăng mạ khiến gây ra sự cơ thắt ở cổ họng, nhưng chính tính dục chứ không phải sự công kích mới trở thành mối bận tâm chủ yếu của Freud, và nó vẫn giữ được vị thế ấy trong nhiều năm. Dễ hiểu tại sao có cảm nhận phổ biến rằng phân tâm học chủ yếu liên quan đến tính dục, dù phân tâm học có rất nhiều thứ khác hơn là những gì đại chúng thừa nhận. Đối với Freud, tính dục đặc biệt thích hợp với vai trò một cái chốt để lý thuyết phân tâm học có thể xoay quanh và kết lại với nhau. Bởi lẽ, tính dục không chỉ dẫn tới những cảm xúc mạnh mẽ, thường bị khước từ hoặc dồn nén, mà còn khắc phục khoảng cách giữa tinh thần và thể xác ở chỗ nó chịu trách nhiệm cho rất nhiều biểu hiện thuần về tâm lý như ý nghĩ, tưởng tượng, mơ mộng, nhưng rõ ràng lại thuộc về thể xác cả ở nguồn gốc hormon lẫn biểu hiện cuối cùng của nó. Freud, với sự tin tưởng vào quá trình đào tạo của mình ở phòng thí nghiệm của Brücke, tiếp tục hy vọng chứng nhiễu tâm rốt cục có thể được chứng minh là có nguồn gốc thể xác, mặc dù vậy năm 1897 ông đã từ bỏ nỗ lực của chính mình trong việc liên kết những cơ chế nhiễu tâm với giải phẫu não và sinh lý học (cái gọi là “Dự án vì một tâm lý học khoa học”). Trong một lá thư gửi Jung đề ngày 19 tháng 4 năm 1908, ông viết: Chúng ta có “nền tảng hữu cơ” không thể thiếu trong những quá trình phát triển tính dục. Không có nó, người thực hành y khoa sẽ chỉ loay hoay trong những phạm trù của đời sống tinh thần. (Thư từ giữa Freud và Jung, 140-141) Freud ngày càng tin rằng đặc điểm chủ yếu của chứng nhiễu tâm là thiếu một đời sống tình dục bình thường, và sự thỏa mãn về tình dục là chìa khóa của hạnh phúc. Điều này ám chỉ người khỏe mạnh hoàn toàn có khả năng giải tỏa những căng thẳng do xung năng tính dục của người đó gây ra thông qua sự cực khoái lặp đi lặp lại và thỏa mãn, từ đó trải nghiệm nhiều lần trạng thái Nirvana không có căng thẳng như được nói tới ở trên. Ban đầu, Freud kết luận trong các trường hợp rối loạn phân ly, trải nghiệm tính dục sớm ở giai đoạn ấu thơ(3)là việc đứa bé bị quyến rũ bởi một người lớn, và điều này tạo thành gốc gác của chứng nhiễu tâm. Đây thường là sự quyến rũ của cha đối với con gái như trường hợp của Katharina, được Freud miêu tả trong Những nghiên cứu về chứng rối loạn phân ly, dù ban đầu cô che giấu không nói “cha” mà là “chú”. Freud nhận ra không phải tất cả những người đã bị quyến rũ khi còn nhỏ đều trở nên mắc chứng nhiễu tâm, nhưng ông vẫn xem điều này là do họ đã giữ được sự tiếp cận bằng ý thức đến kinh nghiệm tổn thương ấy, trong khi những người về sau mắc chứng nhiễu tâm là những người đã dồn nén nó. Khuynh hướng khái quát hóa khiến ông kết luận rằng tất cả những bệnh nhân của ông đã chịu sự quyến rũ từ khi còn ấu thơ - một kết luận được bệnh nhân hăm hở xác nhận trong một số trường hợp, nhưng như bản thân Freud cũng nhận ra, có thể do ông đã ép buộc họ thừa nhận thông qua sức mạnh của niềm tin nơi ông. (3) Từ lúc sinh ra đến khoảng tám tuổi. (ND) Có ba lý do khiến sau này Freud từ bỏ lý thuyết về sự quyến rũ. Thứ nhất, dù sự quyến rũ của người lớn đối với đứa trẻ chắc chắn có xảy ra, Freud cũng không thể tin nó xảy ra quá thường xuyên như công việc nghề nghiệp ngày càng tiến triển của ông cho thấy. Thứ hai, nếu sự quyến rũ thực tế có xảy ra là một điềm báo bất biến đối với việc hình thành những triệu chứng rối loạn phân ly, Freud sẽ buộc phải kết luận rằng chính cha ông đã có những hành động ấy, bởi ông để ý thấy một số dấu hiệu rối loạn phân ly ở những em trai và em gái của mình. Lý do thứ ba là, trong quá trình tự phân tích bản thân, Freud ngày càng trở nên ấn tượng với tầm quan trọng của huyễn tưởng tính dục. Chẳng hạn, ông nhận ra trong chính tuổi thơ của mình, ông từng rơi vào cảm giác kích thích đối với mẹ. Ông kết luận nhiều bệnh nhân của ông đang kể ra những huyễn tưởng tính dục về việc bị quyến rũ bởi cha hoặc mẹ thay vì nhớ lại những sự kiện thực tế. Đây là sự thay đổi quan trọng trong tư tưởng của Freud. Như ông diễn tả, nó dẫn tới kết luận: Những triệu chứng nhiễu tâm không liên quan trực tiếp đến sự kiện thực tế mà đến những huyễn tưởng mong muốn, và khi nói tới chứng nhiễu tâm, thực tại tinh thần có tầm quan trọng hơn thực tại vật chất. (Toàn tập, XX.34) Từ thời điểm này trở đi, phân tâm học đã thay đổi từ chỗ là một nỗ lực nhằm hé lộ loạt sự kiện gây ra sự bùng phát cơn nhiễu tâm, đến chỗ trở thành một khám phá về thế giới tưởng tượng của bệnh nhân, đặc biệt khi thế giới ấy biểu lộ trong những năm đầu tiên của giai đoạn ấu thơ. Mô hình xem xét chứng nhiễu tâm về mặt y khoa đã gần như biến mất, dù Freud vẫn tin rằng các triệu chứng có liên quan đến sự “dồn nén” những căng thẳng tính dục không được giải tỏa hợp lý. Đối mặt với sự sụp đổ một giả thuyết mất bao công sức gây dựng như vậy là điều khiến Freud nản lòng, và việc ông từ bỏ lý thuyết về sự quyến rũ lúc đầu cũng được hoan nghênh như một minh chứng cho sự chính trực và trung thành không khoan nhượng với sự thật của ông. J. M. Masson, người biên tập và dịch những lá thư của Freud gửi cho Fliess, đã chất vấn sự thành thật của Freud trong một cuốn sách, trong đó ông tuyên bố Freud cố tình giữ kín những khám phá về sự quyến rũ ở trẻ em nhằm không xúc phạm cộng đồng tâm thần học nhiều hơn những gì ông đã làm. Điều này quả khác với những gì chúng ta biết về tính cách của Freud thông qua những người gần gũi với ông, nên những cáo buộc của Masson có thể được bỏ qua. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, các nhà tâm thần học và những người khác đã nhận ra sự quyến rũ ở trẻ em là phổ biến hơn nhiều so với những gì họ đã phỏng đoán đến lúc ấy; và dù sự quyến rũ không nhất thiết dẫn tới hình thành những triệu chứng rối loạn phân ly giống như Freud mặc nhiên công nhận lúc đầu, nó thực sự có những hậu quả trực tiếp đối với việc điều chỉnh cảm xúc sau này của cá nhân liên quan. Rất có thể các nhà phân tâm học đã đánh giá không đúng mức độ xuất hiện của sự quyến rũ trong thực tế, và khi bệnh nhân nhớ lại những ký ức về các sự kiện có thật, họ đã xem những ký ức ấy là huyễn tưởng. Không ai biết mức độ phổ biến thực tế của sự quyến rũ ở trẻ em, nhưng chắc chắn rằng khi công chúng ngày càng chấp nhận bàn luận về những chủ đề như vậy, và khi có những cơ chế thuận tiện để trẻ em kể lại một cách riêng tư những xâm hại chúng gặp phải cho những người lớn thấu hiểu bên ngoài gia đình, điều ấy đã làm sáng tỏ rất nhiều trường hợp trước đây không được biết tới. Việc tập trung vào thế giới huyễn tưởng bên trong của bệnh nhân đôi lúc khiến nhà phân tích tâm lý bỏ qua không chỉ sự quyến rũ mà cả những sự kiện và hoàn cảnh có thật khác ảnh hưởng lên đời sống mọi người. Như chúng ta sẽ thấy, đây là một trong những phê phán nhắm vào phân tâm học “cổ điển” của những nhà phê bình như John Bowlby. Nhưng thừa nhận của Freud về tầm quan trọng của huyễn tưởng là nền tảng cho việc xây dựng lý thuyết phân tâm học. Ông đã thấy những gì bị dồn nén thường không phải là những ký ức về các sự kiện đau thương đã thật sự xảy ra (tất nhiên những trường hợp này là có), mà là những thôi thúc bản năng biểu hiện thành các huyễn tưởng. Đây là cơ sở cho học thuyết Freud về tính dục trẻ em và sự phát triển dục năng, cũng như cho quan điểm của ông về diễn giải giấc mơ. 3 Khám phá quá khứ Sự phát triển tính dục ở trẻ em Việc Freud từ bỏ lý thuyết về quyến rũ không làm lay chuyển sự tin chắc của ông rằng chứng nhiễu tâm có liên quan đến những rối loạn chức năng tính dục, cũng như niềm tin rằng chứng nhiễu tâm bắt nguồn từ những năm đầu tiên của tuổi ấu thơ. Nhưng thay vì tiếp tục hướng sự chú ý vào những sự kiện đau thương, ông quay sang nghiên cứu sự phát triển tính dục và cảm xúc ở trẻ em, và nêu ra quan điểm cho rằng chứng nhiễu tâm xảy ra ở cuộc sống sau này là do sự phát triển tính dục của trẻ em đã phần nào bị gián đoạn ở một giai đoạn non nớt nào đó. Như ông diễn tả: Một công thức bắt đầu định hình, nó khẳng định bản năng tính dục của người nhiễu tâm đã ở yên hoặc được đưa lùi về một trạng thái ấu thơ. (Toàn tập, VII.172) Nhất quán với đòi hỏi của ông rằng trong mọi trường hợp có thể, các quá trình tâm lý nên được trình bày dựa trên “nền tảng hữu cơ không thể thiếu” của chúng, Freud diễn đạt các giai đoạn phát triển tính dục ở trẻ em dựa vào những phần của cơ thể thay vì vào sự lĩnh hội, nhận thức, học hỏi hay gắn bó. Trong năm đầu tiên của cuộc đời, năng lực thỏa mãn về mặt thể xác của đứa bé được tập trung ở miệng, đây là giai đoạn “miệng”. Từ khoảng một đến ba tuổi, vùng hậu môn sẽ thay thế. Tiếp theo là giai đoạn “dương vật”, khi ấy dương vật hoặc âm vật trở thành tâm điểm của sự phát triển dục năng và hoạt động thủ dâm, nhưng ở giai đoạn này, đứa trẻ vẫn chưa có khả năng đạt khoái cảm tính dục với người khác. Cuối cùng là giai đoạn “sinh dục”, khi ấy cá nhân có thể có những quan hệ tính dục hoàn toàn thỏa mãn với người thuộc giới tính đối lập, và giai đoạn này chỉ bắt đầu từ tuổi dậy thì. Nhưng ngay cả ở những tính cách phát triển chín chắn nhất, vẫn luôn có thể phát hiện những dấu vết về các giai đoạn phát triển tính dục trước đó. Trong giải thích ban đầu của Freud về sự phát triển tính dục ở trẻ em, sự nhấn mạnh là tự nhục cảm (auto-erotism), nghĩa là những thay đổi diễn ra trong chính cơ thể của đứa trẻ thay vì trong những mối quan hệ của nó. Freud cho rằng đứa bé gắn bó nhất thời với bầu vú người mẹ trong giai đoạn miệng, nhưng bản năng liên quan đến miệng sau đó tự tách ra và tìm được sự thỏa mãn trong những hành động như mút ngón tay cái. Dù Freud vẫn tiếp tục nhìn nhận chấn thương tâm lý như một nguyên nhân gây rối loạn, ông lại phác họa sự phát triển của trẻ em như một quá trình bên trong, chỉ liên quan một cách hời hợt đến sự tương tác với mẹ hoặc người chăm sóc khác. Phải đến gần cuối đời, Freud mới bắt đầu nhận thức đúng tầm quan trọng đáng chú ý của mối quan hệ giữa đứa trẻ với người mẹ. Trước đó, người mẹ chủ yếu được xem như tác nhân đáp ứng những nhu cầu của đứa trẻ bằng cách tháo gỡ những căng thẳng tích tụ mà đứa trẻ lo ngại là nguy hiểm. Người mẹ không được xem như một người mà đứa trẻ tương tác về mặt cảm xúc, đem lại sự kích thích và cơ hội học hỏi bên cạnh việc giải tỏa sự căng thẳng. Freud hình dung tính dục trẻ em là “oái ăm theo kiểu đa hình”, hay nói cách khác, như thể được tạo nên một cách luộm thuộm từ những bản năng cấu thành, lúc đầu là những khuynh hướng tách rời nhưng cuối cùng lại hợp nhất ở một giai đoạn sau để hình thành nên những xung năng tính dục ở người lớn. Trong những bản năng cấu thành này có các xung năng bạo dâm và khổ dâm, những quan tâm đến tính dục đồng giới, thiên hướng phô bày bộ phận sinh dục hoặc nhìn ngó người khác và những bận tâm quá mức đến hình ảnh tục tĩu. Có thể phát hiện dấu vết của tất cả những cấu thành này ở người bình thường, nhưng chúng đặc biệt được cường điệu ở người nhiễu tâm. Giờ đây, Freud đề ra quan điểm những triệu chứng nhiễu tâm là hệ quả của sự dồn nén các xung năng tính dục ngoan cố bắt nguồn từ những năm đầu đời. Do sự dồn nén từ thuở ấu thơ này, tính dục của người nhiễu tâm vẫn phần nào chưa phát triển. Khi một bản năng cấu thành nào đó bị cường điệu nhưng không bị dồn nén, người ấy trở thành một người đồi trụy, nghĩa là bộc lộ khuynh hướng đồi trụy trong cuộc sống. Do vậy, cả người nhiễu tâm lẫn người đồi trụy đều bị gắn chặt vào những giai đoạn phát triển tính dục đầu đời, nhưng đã xử lý theo cách khác nhau với sự gắn chặt ấy. Chính từ quan sát này dẫn tới phát biểu nổi tiếng của Freud: Có thể nói nhiễu tâm là lời khước từ sự đồi trụy. (Toàn tập, VII.165) Cuối thế kỷ 19, nhiều nhà nghiên cứu đã quan tâm đến những thay đổi thất thường trong tính dục của con người, nhưng Freud là người có ảnh hưởng nhất trong việc thuyết phục cả y sĩ lẫn công chúng rằng sự đồi trụy là những rối loạn về phát triển tâm sinh dục, không phải là “những suy đồi do di truyền” hay những biểu hiện của sự “thoái hóa”. Ông đặc biệt nhấn mạnh tình trạng lưỡng tính ở cả nam và nữ. Ở một số người, dấu vết của những giai đoạn phát triển tính dục ban đầu tồn tại dai dẳng đến mức đã hình thành tập quán gọi là những tính cách “miệng” hoặc “hậu môn”. Các nét tính cách “miệng” phần lớn được làm sáng tỏ bởi môn đệ của Freud là Karl Abraham. Như chúng ta có thể hình dung từ sự phác họa con người Freud ở đầu cuốn sách, bản thân ông tập trung vào những nét tính cách “hậu môn”. Không dành nhiều chú tâm cho việc mô tả những nét tính cách “dương vật”, nhưng trong từ điển phân tâm học của Rycroft, ông định nghĩa tính cách “dương vật” là: Một người quan niệm về hành vi tính dục như sự phô bày khả năng giao cấu; đối ngược với họ là tính cách “sinh dục”, loại người quan niệm về hành vi tính dục như sự tham gia vào một mối quan hệ. Trong số nhiều đặc điểm được mô tả về tính cách “hậu môn”, sự thụ động, phụ thuộc và nghi ngờ về năng lực của chính mình là những điều thường được nói đến nhất. Những nét tính cách này thường xuất hiện cùng nhau ở những người có khuynh hướng rơi vào trầm cảm hay tái phát. Một số người biểu lộ những đặc điểm nhân cách này cũng thường được gán cho các thói quen “đường miệng” như mút ngón tay cái, ăn quá nhiều, chìm đắm vào rượu và thuốc - đây là những hình thái biểu hiện được các nhà phân tâm học cho là bù đắp cho một cảm giác bị cướp mất bầu vú mẹ thuở xưa. Trong trường hợp những người đồi trụy, mối quan tâm quá mức đến sự kích dục bằng cách dùng miệng, thậm chí hôn, khiến phương hại đến hành vi giao hợp sẽ được cho là bằng chứng về sự tồn tại dai dẳng của tâm bệnh học giai đoạn miệng. Nhưng chúng ta thiếu những chứng cứ khoa học đủ sức thuyết phục về sự liên quan giữa việc bị tước mất bầu vú mẹ và sự phát triển tính cách hoặc hành vi đường miệng sau này. Tốt nhất nên xem tính cách “miệng” như một thông tin hữu ích của quan sát lâm sàng thay vì tìm hiểu cụ thể nguyên nhân của nó. Điều tương tự cũng đúng với tính cách “hậu môn”. Sự quan tâm quá mức đến trật tự và sạch sẽ được xem là một kiểu “hình thành phản ứng”(4) chống lại mối quan tâm rõ rệt đến những bừa bãi và bẩn thỉu của việc đại tiện. Sự bướng bỉnh được giải thích là bắt nguồn từ những nổi loạn chống lại lời nhắc nhở của cha mẹ rằng việc bài tiết chỉ nên diễn ra trong những hoàn cảnh cụ thể. Sự chi li có liên quan đến ham muốn có được vui thú của đứa trẻ bằng cách giữ phân càng lâu càng tốt, bởi như Freud đã chỉ ra từ thần thoại, chuyện cổ tích và ngôn ngữ bình dân, tiền và phân thường được gắn với nhau trong những cụm từ như “tiền bẩn” (thứ của cải bất nhân) và “đít chặt” (đồ keo kiệt). Khác với người nhiễu tâm, ở những người đồi trụy có thể dễ dàng chỉ ra sự quan tâm quá mức đến việc bài tiết và miệng, chẳng hạn như trong tiểu thuyết 120 ngày của Sodom của tác giả Marquis de Sade. (4) Cơ chế tự vệ chống lại những cảm xúc gây ra sự lo âu hoặc bị xem là khó chấp nhận bằng cách cường điệu những khuynh hướng đối lập trực tiếp với chúng. (ND) Trong những nghiên cứu được thiết kế để tìm hiểu xem những nét tính cách “hậu môn” hoặc chứng nhiễu tâm ám ảnh có phải là hệ quả của các phương pháp rèn luyện đi đại tiện quá khắt khe hoặc lập dị không, người ta không phát hiện thấy bất kỳ mối quan hệ nhân quả nào. Nhưng những nét tính cách ấy trên thực tế được thấy là xuất hiện cùng nhau khá thường xuyên, và được Freud mô tả là có liên quan với nhau. Dù lời giải thích của Freud về quan hệ nhân quả đó ít nhận được sự tán đồng, quan sát lâm sàng và những mô tả của ông lại chính xác. Phức cảm Oedipus Bây giờ chúng ta đi đến câu hỏi gây nhiều tranh cãi về phức cảm Oedipus, chứng quên ở trẻ em và cái gọi là thời kỳ tiềm ẩn, được xem là theo sau giai đoạn Oedipus. Phát biểu của Freud về phức cảm Oedipus bắt nguồn từ sự phân tích bản thân của ông. Trong một lá thư gửi Fliess đề ngày 15 tháng 10 năm 1897, ông viết: Việc tự phân tích bản thân trên thực tế là điều cốt yếu nhất tôi có lúc này, hứa hẹn đem lại giá trị lớn nhất cho tôi nếu đạt được mục đích… Nhưng việc đó không hề dễ. Trở nên hoàn toàn chân thật với chính mình là một bài tập bổ ích. Trong tôi đã lóe ra một ý tưởng có giá trị chung. Tôi cũng phát hiện trong trường hợp của mình hiện tượng yêu mẹ và ghen tị với cha, và giờ đây tôi xem đó là một sự việc ai cũng gặp trong giai đoạn ấu thơ (tương tự như sự bịa đặt về cha mẹ hay thêu dệt về gia đình, xem họ là những anh hùng hay người sáng lập tôn giáo), dù không hẳn “ấu thơ” ở những trẻ em sau này rơi vào chứng rối loạn phân ly. Nếu đúng vậy, chúng ta có thể hiểu sức mạnh kìm kẹp của Oedipus Rex(5) bất chấp tất cả những phản đối mà lý lẽ đưa ra nhằm chống lại sự tiên đoán của số phận, và chúng ta có thể hiểu tại sao “vở kịch số phận” sau này chắc chắn sẽ thất bại một cách khốn khổ. (5) Vở kịch về Oedipus - vị vua giết cha, cưới mẹ trong thần thoại Hy Lạp. (ND) (Những lá thư của Freud gửi Fliess, trang 271-272) Freud đi đến nhận định rằng tại thời điểm ông đạt giai đoạn “dương vật” lúc khoảng bốn hoặc năm tuổi, cậu bé Freud khi ấy đã có mối quan tâm tính dục với mẹ, muốn toàn quyền chiếm hữu bà, do vậy nuôi dưỡng những xung năng thù địch đối với cha. Tuy nhiên, sự thù địch đánh động nỗi sợ cha sẽ trừng phạt, và hình thức của sự trừng phạt này nhiều khả năng là “đem mình đi thiến”. “Phức cảm thiến hoạn” (castration complex) được kích hoạt một phần bởi sự đe dọa đem đi thiến của những người lớn đã quan sát thấy cậu bé thủ dâm, và một phần bởi nhận định của cậu bé rằng các cô bé không có dương vật chắc chắn là do đã bị thiến. Đứng trước một điều được xem như mối đe dọa khủng khiếp với bộ phận quý giá nhất của cơ thể, cậu bé đã vô tình từ bỏ những hy vọng về sự hợp nhất tính dục với mẹ, đồng nhất bản thân với người cha tiềm ẩn sự gây hấn, và cuối cùng hướng sự chú ý tới việc đạt được sự thỏa mãn tính dục bằng những nguồn khác. Ở nữ, phức cảm Oedipus ít được làm rõ hơn. Điều này nhất quán với thực tế rằng trong suốt cuộc đời Freud, ông luôn thấy phụ nữ là một sự đánh đố. Tuy nhiên, như Freud kết luận, dù bé gái ban đầu cũng gắn bó cảm xúc với cha mình, việc cô bé phát hiện thấy mình không có dương vật - do vậy là một sinh thể kém cỏi - đã khiến cô trở nên vỡ mộng với mẹ và đổ lỗi cho bà về hoàn cảnh của bản thân. Điều này khiến cô bé quay sang cha như một đối tượng của tình yêu, và bắt đầu tưởng tượng cha sẽ làm cô có thai. Freud cho rằng em bé được sinh ra từ sự tưởng tượng ấy sẽ bù đắp cho bé gái về việc không có dương vật, nên có thể nói đó là một thay thế cho cơ quan bị thiếu. Giai đoạn phát triển cảm xúc này sẽ kết thúc khi cô bé ngày càng nhận thức rằng những người đàn ông khác có khả năng làm cô có thai, khiến cô có thể sinh con, do vậy cô vượt qua cảm giác không dứt về việc là một dạng kém cỏi của loài người. Với lối phát biểu không che đậy, cho rằng phức cảm Oedipus tạo thành giai đoạn phát triển cảm xúc trung tâm mà mọi con người phải trải qua để đạt sự ổn định và hạnh phúc của người lớn, những lời của Freud quả thực thô thiển. Chúng ta đã thấy Freud luôn tìm cách quy tâm lý và cảm xúc về phương diện thể xác. Việc mọi bé trai đều sợ cha mình đem đi thiến nghe thật nực cười nếu hiểu theo nghĩa đen. Nhưng nếu chúng ta diễn đạt khác đi, quả quyết rằng các bé trai rất quan tâm đến việc xác lập nhân dạng của mình như những cá thể giống đực, cảm thấy có sự cạnh tranh với cha, và dễ bị làm mất mặt hoặc cảm thấy bị đe dọa với những lời nhận xét chế giễu về kích cỡ, sự yếu ớt, thiếu năng lực hoặc thiếu kinh nghiệm, hầu hết mọi người sẽ đồng ý. Bên cạnh đó, cả bé trai và đàn ông đều cảm thấy bộ phận sinh dục là một phần đặc biệt dễ bị tổn thương trong cơ thể của họ. Freud cho rằng nỗi lo thiến hoạn lớn hơn ở đàn ông, trong khi nỗi sợ mất tình yêu lớn hơn ở phụ nữ, và luận điểm này đã được củng cố bởi nghiên cứu. Người nữ sợ sự xâm nhập, nhưng do cơ quan sinh dục của họ ít bị phơi bày hơn nên ít có khuynh hướng sợ tổn thương thực tế. Cơ quan sinh dục nam không chỉ không được bảo vệ, mà còn hết sức nhạy cảm với sự đau đớn - điều này từ lâu đã được những kẻ tra tấn trên thế gian hiểu rõ. Khảo sát ở những đứa trẻ đi khám nhi khoa đã cho thấy một bộ phận thiểu số đáng kể nghĩ rằng bé gái ban đầu có một dương vật, nhưng bị mất đi theo cách này hay cách khác. Nỗi lo thiến hoạn đã trở thành một phần trong ngôn ngữ hàng ngày. Những người quen thuộc với biệt ngữ phân tâm học thường sử dụng nó như một kiểu tốc ký. Vì vậy, một người có thể nói “Tôi cảm thấy bị thiến” nếu vì một lý do nào đó không thể lái xe hoặc tiếp tục công việc. Sự khăng khăng muốn phá bỏ ý nghĩa ẩn dụ để đề cao nghĩa đen của Freud đã góp phần dẫn tới việc rất nhiều người hiểu sai những gì ông đã nói. Điều tương tự cũng đúng với ý niệm “ghen tị về dương vật”. Ở thời Freud, ưu thế áp đảo của nam thậm chí còn rõ hơn ngày nay. Do đàn ông nắm hầu hết quyền lực nên nhiều phụ nữ thấy bản thân mình yếu thế hơn, không được trân trọng, bị xem thường hoặc yếu ớt. Sinh con là một cách để phụ nữ cảm thấy ngang bằng hoặc trội hơn đàn ông. Nếu chúng ta diễn đạt ý tưởng của Freud trong ngôn ngữ tâm lý học thay vì cơ thể học, sẽ có rất ít người phản đối. Như Jung được cho là đã từng bình luận: “Xét cho cùng, dương vật chỉ là một biểu tượng cho sức sinh sản”. Bằng việc đề xuất những ý tưởng về bản năng giới tính ở trẻ em và phức cảm Oedipus, Freud chính là người nhấn mạnh quan điểm trẻ em là cha đẻ của loài người cả về cảm xúc, tính dục lẫn những phương diện khác. Freud đã viết từ trước khi các nhà động vật học thực hiện những thí nghiệm với các loài động vật linh trưởng thấp hơn con người, cho thấy sự cô lập trong thời gian dài khi chúng còn nhỏ dẫn tới tình trạng con vật trưởng thành không có khả năng giao phối hay hình thành những mối quan hệ xã hội bình thường. Ngày nay, chúng ta mặc nhiên cho rằng mối quan hệ gần gũi của đứa trẻ với cả cha lẫn mẹ, kể cả sự gần gũi về thể xác, đều có khả năng ảnh hưởng đến năng lực tương lai của nó trong việc tạo ra những quan hệ ấm áp, tình cảm với người ngang hàng khi nó lớn lên. Nhưng những nhận định mặc nhiên ấy của chúng ta phần lớn là do Freud, dù thời nay chúng ta có thể không đồng ý với mọi điều ông đã nói về giai đoạn tuổi thơ. Freud nghĩ phức cảm Oedipus là điều ai cũng có, nhưng người ta có thể lập luận rằng nó chủ yếu là một khái niệm của phương Tây, chỉ áp dụng với gia đình “hạt nhân” nhỏ. Liệu trẻ em lớn lên ở những gia đình mở rộng với chế độ đa thê có trải qua sự ghen tị, chiếm hữu, sợ hãi như Freud thấy ở các bệnh nhân của mình không? Chúng ta không biết, nhưng những bằng chứng mang tính giai thoại gợi lên điều ngược lại. Một nhà phân tâm học người Nigeria kể với tôi rằng trong thời kỳ thực hành, ông phải mất cả năm mới làm nhà phân tích hiểu bối cảnh cảm xúc hoàn toàn khác của mình, hình thành từ một gia đình trong đó người cha có nhiều vợ. Chúng ta đã quan sát thấy Freud quan tâm nhiều hơn - ít nhất trong những tư tưởng ban đầu - đến mối quan hệ của đứa bé với cha thay vì mối quan hệ với mẹ nó. Hơn nữa, người cha cũng được phác họa như một người độc đoán và khắt khe, đưa ra những cấm đoán và đe dọa, và là nguồn gốc của điều sau này được gọi là “siêu ngã”. Những nghiên cứu hiện đại củng cố tư tưởng của Freud về một giai đoạn phát triển ở nam khi bé trai cảm thấy có sự cạnh tranh với cha mình, nhưng chỉ ra rằng sự đồng nhất sau đó của bé trai với người cha không phải là “sự đồng nhất với kẻ gây hấn”, mà vì người cha có sự thân mật và yêu thương dành cho nó. Như Fisher và Greenberg diễn tả: Có vẻ nó [bé trai] từ bỏ quan điểm cạnh tranh gay gắt đối với cha vì người cha truyền đạt những thông điệp tích cực và thân thiện, mời gọi nó kết hợp thay vì chống đối… ông mời gọi con trai mình lại gần, hình thành một liên minh, nhận lấy cá tính của ông, chấp nhận những giá trị của ông. (trang 222) Chứng quên ở trẻ em Hầu hết loài người nhớ được rất ít những năm tháng đầu tiên của giai đoạn ấu thơ. Khảo sát cho thấy “những ký ức đầu tiên” bắt đầu có từ khoảng 3,2 năm. Freud quy chứng quên ở trẻ em cho sự dồn nén, ông nhận định rằng mọi người thích đẩy những xung năng và trải nghiệm tính dục đầu đời vào vô thức. Điều này có vẻ không phải thế, nhất là trong những nền văn hóa mà trò chơi tính dục(6) giữa trẻ em gợi ra sự thích thú thay vì sợ hãi. Có những lý do khác có vẻ đúng hơn. Nghiên cứu cho thấy sự trưởng thành của ký ức là một quá trình tiệm tiến. Sự ghi nhận, giữ và nhớ lại đều thiếu hiệu quả trước khi có sự phát triển ngôn ngữ. Không ai biết liệu trẻ em, chẳng hạn ba đến bốn tuổi, nhớ lại những thời kỳ trước đó tốt đến mức nào trong khi ký ức về những thời kỳ ấy đã biến mất. Nhưng ngay cả ở người lớn, ký ức về những sự kiện xảy ra gần đây cũng thất thường trừ phi nó được làm mới bằng sự nhắc lại. Thiếu năng lực ngôn ngữ, sự nhắc lại không xảy ra, vì vậy không có gì đáng ngạc nhiên nếu trước khi ngôn ngữ được phát triển tương đối tốt, ký ức không được giữ lại đầy đủ. (6) Trò chơi phô bày hoặc khám phá cơ quan sinh dục, thường giữa anh chị em ruột hoặc bạn bè. (ND) Thời kỳ tiềm ẩn Freud tin rằng sau giai đoạn phức cảm Oedipus là một “thời kỳ tiềm ẩn”, kéo dài từ khoảng 5 tuổi đến lúc dậy thì. Trong thời kỳ này, những ham muốn và hành vi tính dục dù không bị triệt tiêu nhưng ít lộ liễu hơn hẳn. Nghiên cứu không củng cố giả định thứ hai này. Trong những nền văn hóa thoải mái về tình dục, trò chơi tính dục là điều phổ biến trong suốt những năm của tuổi thiếu nhi. Ngay cả trong những nền văn hóa không đồng thuận với trò chơi tính dục khiến nó bị giấu giếm, bằng chứng cũng cho thấy thủ dâm, trò chơi tính dục khác giới và quan hệ tình dục khác giới đều tăng theo mỗi năm tuổi trôi qua. Tuy nhiên, Freud đúng khi nhận thấy sự trưởng thành và phát triển của con người có tính chất hai pha. Từ lúc sinh ra đến 5 tuổi, tốc độ phát triển khá nhanh. Sau đó đến một giai đoạn đường cong tăng trưởng ít dốc hơn, rồi đến một sự bộc phát khác ngay trước dậy thì. Sự thích ứng của con người phần lớn dựa vào học hỏi và giáo dục. Để những điều này diễn ra có hiệu quả, thời kỳ phụ thuộc cha mẹ ở trẻ em phải được kéo dài, và có lẽ vì lý do này nên một giai đoạn phát triển chậm hơn gọi là thời kỳ tiềm ẩn đã được chen vào giữa hai thời kỳ phát triển nhanh. Nhiều vấn đề thường gặp của con người có thể được chứng tỏ là liên quan đến sự kéo dài của thời kỳ non trẻ và phụ thuộc vào cha mẹ. Cảm nhận của Freud về việc bậc cha mẹ của giới tính đối lập đã tạo thành đối tượng tính dục đầu tiên của đứa trẻ là nhằm giải thích phần nào một số những khó khăn về tình dục mà người trưởng thành gặp phải. Một người đàn ông hoặc phụ nữ chưa thoát khỏi những trói buộc cảm xúc với bậc cha mẹ sẽ có khuynh hướng nhìn nhận người bạn tình tiềm năng như thể họ là cha hoặc mẹ mình. Điều này làm mối quan hệ trở nên phức tạp cả về tình dục lẫn những phương diện khác. Theo Freud, sự gắn bó với bậc cha mẹ thuộc giới tính đối lập (ít nhất ở bé trai) trong thời kỳ phức cảm Oedipus đi liền với nỗi sợ thiến hoạn. Do vậy, những người đàn ông nào tiếp tục cảm nhận phụ nữ gần như hoặc phần nào như mẹ mình sẽ xem họ vừa có khả năng gây nguy hiểm lại vừa hấp dẫn, và cảm nhận này có khuynh hướng gây ra một loạt những khó khăn khác nhau về tình dục, kể cả hoàn toàn khước từ phụ nữ, sự bất lực một phần hoặc toàn bộ, hoặc nhu cầu có những phương tiện trấn an, chẳng hạn những nghi thức hoặc vật thờ cúng liên quan đến khổ dâm hoặc bạo dâm, sau đó hành vi giao hợp mới có thể xảy ra. Nhiều chi tiết của lý thuyết Oedipus vẫn cần phải chất vấn, nhưng nội dung khái quát của nó là lời giải thích có hiệu lực về một loạt những khó khăn liên quan đến tính dục và những cách ứng xử mà trước đó có vẻ không giải nghĩa được. Freud sai ở chỗ trao cho sự phát triển tâm sinh dục một vai trò quá trung tâm đến nỗi mọi hình thức phát triển xã hội và cảm xúc khác được quan niệm là bắt nguồn từ nó. Trong tiểu luận của ông về Leonardo da Vinci, Freud thậm chí cho rằng sự tò mò và ham muốn hiểu biết cũng xuất phát từ tính dục. Hẳn ông đã phải biết rằng nhiều loài vật biểu lộ những hành vi khám phá rõ ràng có tính chất thích nghi ở chỗ cung cấp thông tin về môi trường. Những hành vi ấy có vẻ gần gũi hơn với óc tò mò của con người. Nhưng Freud lại khăng khăng xem tính dục là động cơ chủ yếu đến nỗi ông cho rằng sự thăng hoa của những khám phá tính dục ấu thơ đã tạo động lực cho say mê hiểu biết sau này. Ngày nay, hầu hết sinh viên nghiên cứu về sự phát triển của trẻ em sẽ xem sự phát triển tính dục chỉ như một liên kết trong chuỗi, không phải là nguyên nhân chủ đạo. Những khó khăn trong các mối quan hệ cá nhân với nhau có thể bắt nguồn từ những bất an thuở ấu thơ, không liên quan gì đến tính dục, nhưng có thể gây ra những vấn đề của đời sống tình dục sau này. Tương tự, những khó khăn trong sự phát triển tính dục có thể gây ra các vấn đề xã hội về sau. 4 Liên tưởng tự do, giấc mơ và chuyển di Liên tưởng tự do Thuận theo sự phát triển lý thuyết về chứng nhiễu tâm, Freud đã thay đổi kỹ thuật điều trị. Từ năm 1892 trở đi, ông dần dần từ bỏ thôi miên, thay vào đó chú trọng đến liên tưởng tự do. Bệnh nhân vẫn được yêu cầu nằm trên divan, Freud ngồi khuất tầm mắt ở phía đầu divan, nhưng ông không còn tìm cách thúc giục bệnh nhân nhớ lại ký ức thông qua thôi miên hoặc ấn ngón tay vào trán. Thay vì vậy, bệnh nhân được yêu cầu diễn đạt thành lời bất kỳ ý nghĩ hay tưởng tượng tự phát nào, không kiềm chế hay sàng lọc chúng. Sự thay đổi này trong kỹ thuật dẫn tới những kết quả có ảnh hưởng lâu dài, không chỉ trên phân tâm học mà còn trên hầu hết những hình thức tâm lý trị liệu sau này, cũng như trong nhiều tình huống khác khi một người đang cố gắng giúp đỡ một người khác. Việc sử dụng liên tưởng tự do buộc bệnh nhân có sự chủ động, khiến nhà phân tích tâm lý nhận lấy một vai trò thụ động hơn những gì thường được trông đợi ở một bác sĩ. Thôi miên là cách điều trị chủ yếu dựa vào sự tuân thủ của bệnh nhân và uy quyền của bác sĩ. Liên tưởng tự do lại đòi hỏi bệnh nhân giữ sự tự chủ lớn hơn. Do vậy, phân tâm học trở thành một kỹ thuật giúp bệnh nhân tự giúp chính mình. Thay vì hướng đến nhà phân tích tâm lý để tìm lời khuyên trực tiếp, những gợi ý tích cực hay những hướng dẫn cụ thể, bệnh nhân phải học cách sử dụng phân tích tâm lý như một phương tiện để hiểu rõ hơn về bản thân. Người ta hy vọng với sự thấu hiểu mới này, bệnh nhân sẽ có khả năng giải quyết những vấn để của chính mình. Giấc mơ Nếu một bệnh nhân nằm trên divan và thực hiện liên tưởng tự do, rất có thể đôi khi người ấy sẽ kể cho nhà phân tích tâm lý nghe về các giấc mơ của mình, bởi lẽ giấc mơ thường là những hiện tượng tâm trí ấn tượng hoặc gây phiền muộn. Dù đã có rất nhiều tư liệu về đề tài giấc mơ trước khi Freud chú ý đến nó, ông lại nổi tiếng một cách xứng đáng ở chỗ đã kết hợp các mạch tư tưởng lại với nhau, biến giấc mơ thành một đối tượng hợp lý để khảo sát kỹ lưỡng, tạo ra một lý thuyết về giấc mơ và một kỹ thuật diễn giải chúng. Cuốn Diễn giải giấc mơ được xuất bản lần đầu vào tháng 11 năm 1899. Khi đang ở Schloss Bellevue, ngoại ô Vienna vào tháng 7 năm 1895, Freud đã mơ giấc mơ nổi tiếng, được ông đặt tên là “Mũi tiêm cho Irma”. Chúng ta không cần quan tâm tới những chi tiết của giấc mơ đã được bàn luận quá nhiều này. Theo diễn giải của Freud về giấc mơ, nó là một nỗ lực nhằm miễn cho ông khỏi trách nhiệm xử lý sai trong công việc điều trị một bệnh nhân cụ thể, vì vậy nó miêu tả sự đáp ứng một mong muốn. Năm 1900, ông lại ở đó, và ngày 12 tháng 6, ông viết cho Fliess: Anh có cho rằng một ngày nào đó, trên một phiến đá cẩm thạch trong ngôi nhà này, người ta sẽ đọc được: “Ở đây, ngày 24 tháng 7 năm 1895, bí mật của giấc mơ đã tự tiết lộ với bác sĩ Sigmund Freud”. (Những lá thư của Freud gửi Fliess, trang 447) Tưởng tượng của Freud đã trở thành sự thật vào ngày 6 tháng 5 năm 1977, khi một bản khắc như vậy đã được đặt ở nơi ấy. Hình 9. Trang bìa ấn bản lần thứ nhất cuốn “Diễn giải giấc mơ”. Hình 10. Schloss Bellevue, 1895. Năm 1931, Freud viết lời giới thiệu cho ấn bản lần thứ ba của cuốn Diễn giải giấc mơ, trong đó có đoạn: Cuốn sách này là một đóng góp mới vào lĩnh vực tâm lý học, đã khiến thế giới ngạc nhiên khi nó được xuất bản (năm 1900), và cơ bản vẫn giữ nguyên nội dung. Ngay cả theo nhận xét của tôi ngày nay, nó chứa đựng khám phá giá trị nhất trong tất cả những khám phá mà tôi đã may mắn có được. Một sự thấu tỏ như thế là do số mệnh đưa lại, và chỉ xảy ra một lần trong đời. (Toàn tập, IV.xxxii) Những nhà cách tân sáng tạo không phải lúc nào cũng là người phán xét tốt nhất về các công trình của chính mình. Lý thuyết về giấc mơ của Freud dù vẫn có sức ảnh hưởng, nhưng qua sự kiểm chứng của thời gian đã không thể không bị điều chỉnh như Freud từng tin. Lý thuyết sau cùng của ông đã được ấp ủ trong thời gian dài, bởi Freud quan tâm đến giấc mơ từ khi còn là sinh viên y khoa, nghĩa là nhiều năm trước sự ra đời của phân tâm học. Chúng ta không cần ghi nhận những giai đoạn khác nhau mà lý thuyết đã trải qua, chỉ cần phát biểu dạng thức cuối cùng của nó. Với rất ít ngoại lệ, Freud quả quyết rằng giấc mơ là sự đáp ứng trá hình và bằng ảo giác những ước muốn bị đè nén. Ông cũng khẳng định giấc mơ không chỉ nói lên những ước muốn hiện thời, mà luôn bày tỏ sự đáp ứng những ước muốn từ giai đoạn ấu thơ. Lý thuyết này rõ ràng bắt nguồn hoặc có thể so sánh với tuyên bố trước đây của Freud về chứng rối loạn phân ly, được trích dẫn ở chương 2, trong đó ông đưa ra giả thuyết sở dĩ chấn thương tâm lý gây ra những triệu chứng hiện thời chẳng qua là vì nó đánh thức những ký ức đau thương thời nhỏ. Freud nhìn nhận giấc mơ như thể chúng là các triệu chứng nhiễu tâm. Vì người bình thường cũng mơ nên lý thuyết của Freud ủng hộ ý tưởng rằng không thể phân biệt rạch ròi giữa người nhiễu tâm và người bình thường. Nó cũng mở đường cho sự hình thành phân tâm học như một lý thuyết chung về tâm trí, áp dụng được cho tất cả mọi người. Nó cũng khéo léo củng cố niềm tin căn bản của ông, đó là hầu hết các vấn đề của chứng nhiễu tâm đều bắt nguồn từ tuổi ấu thơ. Ông tin giấc mơ là sự bày tỏ gián tiếp những xung năng tính dục đã bị dồn nén ở trẻ em, và nếu được phô bày trần trụi sẽ khuấy động người mơ đến mức khiến người đó thức giấc. Lý thuyết của chúng tôi về giấc mơ xem mọi ước muốn bắt nguồn từ giai đoạn ấu thơ là động lực không thể thiếu để hình thành các giấc mơ. (Toàn tập, V.589) Những ước muốn này là không thể chấp nhận và có khả năng gây phiền toái, nên chúng bị sàng lọc và che đậy. Như một triệu chứng nhiễu tâm, giấc mơ nổi lên là sự thỏa hiệp giữa sàng lọc và diễn đạt trực tiếp. Những sự kiện của ngày hôm trước thường đi vào giấc mơ chẳng qua vì chúng đồng điệu với ham muốn bị dồn nén thuở ấu thơ, do vậy kích hoạt ham muốn ấy. Freud mô tả những tiến trình tâm trí được ông gọi là quá trình hình thành giấc mơ (dream-work), thông qua đó, giấc mơ được điều chỉnh và biểu lộ ra ít phiền toái hơn. Những tiến trình này bao gồm sự cô đọng, sự hợp nhất các tư tưởng và hình ảnh khác nhau thành một hình ảnh đơn nhất, sự thay thế một hình ảnh hoặc ý tưởng có khả năng gây lo âu bằng một thứ liên quan nhưng ít gây lo âu hơn, sự trình hiện các ý nghĩ dưới dạng hình ảnh thị giác, sự tượng trưng trong đó một đối tượng trung tính tượng trưng hoặc ám chỉ một khía cạnh nào đó của đời sống tình dục hoặc những người liên quan đến nó mà người mơ không muốn thừa nhận. Bên cạnh đó, Freud nói tới sự xem lại lần thứ hai - một quá trình cố gắng làm giấc mơ trở nên dễ hiểu bằng cách biến nó thành một câu chuyện mạch lạc, do vậy có thể làm nó sai lạc nhiều hơn nữa. Quan điểm này ngụ ý rằng giấc mơ như được nhớ lại bởi người mơ đã phải trải qua một quá trình che giấu phức tạp, khiến ý nghĩa đích thực của nó bị ẩn đi. Freud đề xuất thuật ngữ “nội dung biểu lộ” để mô tả những gì người mơ nhớ lại. Đối lập với nó là “nội dung tiềm ẩn”, nội dung bị ẩn giấu, ý nghĩa đích thực của giấc mơ, chỉ có thể được thấy rõ khi những liên tưởng của người mơ đến các hình ảnh trong mơ được đưa vào sự khảo sát và diễn giải của phân tâm học. Lý thuyết của Freud về giấc mơ phản ánh cả sự chuyên tâm lẫn khuynh hướng khái quát hóa của ông. Ông chắc chắn mình đã đúng khi khẳng định rằng các xung năng tính dục ấu thơ là nguyên nhân cốt lõi của chứng nhiễu tâm. Dưới góc nhìn của Freud, giấc mơ là những hiện tượng tâm trí cổ xưa, phi lý, phớt lờ logic, cú pháp hay những tiêu chí được ý thức chấp nhận trong việc định nghĩa thời gian và không gian. Nhưng: Sự diễn giải giấc mơ là con đường vương giả để đi tới một hiểu biết về những hoạt động vô thức của tâm trí. (Toàn tập, V.608) Bởi vậy, giấc mơ phải liên quan chủ yếu đến tính dục trẻ em, tức “nền tảng hữu cơ không thể thiếu” duy nhất của lý thuyết phân tâm học, mặc dù thoạt đầu nhiều giấc mơ có vẻ liên quan đến những vấn đề hoàn toàn khác. Kỹ thuật diễn giải giấc mơ của Freud đặc biệt khéo léo, nhưng bản thân ông phải thừa nhận một số kiểu giấc mơ nhất định không phù hợp với lý thuyết của ông. Thứ nhất, có những giấc mơ không đòi hỏi sự diễn giải. Một người đói mơ về thức ăn, một người khát mơ về uống nước. Những giấc mơ gọi là “thuận tiện” này đương nhiên bày tỏ các ước muốn, nhưng chỉ nói tới trạng thái hiện thời của người mơ, không phải tới tuổi thơ của họ. Thứ hai, có những giấc mơ “gây chấn thương”, lặp đi lặp lại dưới dạng trần trụi một sự kiện không mong muốn và gây sốc nào đó, như một tai nạn xe hơi, vụ ném bom thành phố, một vụ tấn công vô cớ như cưỡng hiếp hay các bạo hành về thân thể. Freud cuối cùng đã thừa nhận những giấc mơ như vậy không thể được xem là đáp ứng các ước muốn. Ông tin rằng chúng xảy ra khi chấn thương trước đó là đột ngột đến nỗi tâm trí của cá nhân không có cơ hội chuẩn bị bằng cách thiết lập trạng thái âu lo để che chắn trước cú sốc. Ông viết: Những giấc mơ này đang cố gắng làm chủ tác nhân kích thích theo cách hồi tưởng lại quá khứ, hình thành sự lo âu. Chính do thiếu sự lo âu nên mới gây ra chứng nhiễu tâm do chấn thương. (Toàn tập, XVIII.32) Dù trong tác phẩm này, Freud đề cập đến “sự buộc phải lặp lại”, ông lại không nói tới thực tế rằng những cá nhân đã bị rơi vào chấn thương sẽ cố ý hành xử giống như cách những giấc mơ bày ra cho họ, nghĩa là họ cố gắng chấp nhận hoặc làm chủ cú sốc bằng cách kể đi kể lại câu chuyện chấn thương của họ cho bất kỳ ai chịu lắng nghe. Chẳng hạn, “những câu chuyện về ném bom” sau các cuộc không kích ở Thế chiến II thường trở thành những câu chuyện dài dòng tẻ nhạt. Thứ ba, giấc mơ lo âu, đôi lúc lên đến mức ác mộng, có vẻ mâu thuẫn với lý thuyết của Freud về sự đáp ứng ước muốn. Freud giải thích những giấc mơ như vậy theo hai cách. Đầu tiên, có thể sự lo âu chỉ thuộc về nội dung biểu hiện. Quá trình phân tích tâm lý chắc chắn sẽ cho thấy nội dung tiềm ẩn chứa đựng một sự đáp ứng ước muốn. Hoặc có thể sự dồn nén và quá trình hình thành giấc mơ đã thất bại phần nào, nên một phần trong sự lo âu gắn liền với những ham muốn bị cấm đoán đã có cơ hội tự biểu lộ. Trong trường hợp này, người mơ thường tỉnh dậy, vì những giấc mơ như vậy cũng không hoàn thành chức năng canh giữ cho giấc ngủ. Cần phải nói thêm rằng tại thời điểm Freud phát biểu lý thuyết về giấc mơ, ông nghĩ sự lo âu chỉ đơn giản là một biểu hiện của năng lượng tính dục không được giải tỏa. Sau này, trong cuốn sách Ức chế, triệu chứng và lo âu, ông đã xem sự lo âu như một dấu hiệu nói lên một nguy hiểm có thể đe dọa bản ngã, khiến người ta cảm thấy bất lực. Chẳng hạn, một đứa trẻ có thể cảm thấy không có khả năng giải tỏa hoặc đối mặt với những xung năng gây hấn hay xung năng tính dục nổi lên từ bên trong. Hoặc nó có thể cảm thấy bị đe dọa từ bên ngoài khi mất đi người cha hoặc người mẹ yêu thương bao bọc nó. Freud không điều chỉnh lý thuyết về giấc mơ của ông để bao hàm những diễn giải mới này về sự lo âu. Thứ tư, cả đàn ông và phụ nữ đều không hiếm những lần có giấc mơ tình dục dẫn tới cực khoái. Hình ảnh trong những giấc mơ như vậy có thể mang tính tượng trưng hoặc phô bày. Những người theo học thuyết Freud đã tìm cách giải thích điều này, họ đưa ra luận cứ rằng những ước muốn tình dục xuất hiện công khai là những ước muốn chấp nhận được đối với người mơ, còn những ước muốn xuất hiện dưới dạng tượng trưng là những điều không thể chấp nhận. Nhưng lý lẽ này không giải thích được những giấc mơ có các xung năng tính dục vừa được diễn đạt công khai lại vừa gây khổ sở cho người mơ. Ý tưởng xem giấc mơ luôn che giấu các ước muốn bị dồn nén là không hợp logic. Dù Freud kiên quyết cho rằng những ước muốn bị dồn nén thuở ấu thơ là nguyên do chủ yếu thúc đẩy các giấc mơ, hầu hết những ví dụ lâm sàng mà ông cung cấp lại liên quan đến các cảm xúc của đời sống trưởng thành, như sự cạnh tranh, các ham muốn tình dục không thích hợp, hoặc mong muốn thoát khỏi sự đổ lỗi như trong trường hợp giấc mơ của chính ông về Irma. Ngày nay, rất ít nhà phân tâm học ủng hộ lý thuyết của Freud dưới dạng phát biểu ban đầu. Chắc chắn một số giấc mơ có liên quan đến những ước muốn không được đáp ứng hoặc bị xem là xấu, nhưng điều này không đúng với mọi giấc mơ. Hơn nữa, nếu giấc mơ đều là những diễn đạt của các xung năng bị dồn nén ở tuổi thơ, và các xung năng ấy đã tìm được một cách gián tiếp để đi qua sự kiểm duyệt, đáng ra phải cho rằng tỉ lệ giấc ngủ được dành cho mơ sẽ tăng theo tuổi tác. Nhưng trong thực tế, các nghiên cứu điện não cho thấy trẻ em dành nhiều thời gian mơ hơn người lớn - thông tin này khi ấy chưa có sẵn với Freud. Giấc mơ không được diễn đạt trong ngôn từ của lời nói hàng ngày, nhưng như thế không có nghĩa là chúng nhất thiết đang che giấu một điều gì đó khó chấp nhận. Thơ ca là một kiểu bày tỏ của con người, trong đó biểu tượng và ẩn dụ đóng một vai trò chủ đạo. Thơ ca thường có vẻ khó hiểu, nhưng không vì vậy chúng ta xem nó là cố tình tối nghĩa. Một biểu tượng có thể được định nghĩa là “bất kỳ thứ gì đại diện cho điều gì đó, hoặc mang chức năng miêu tả”. Nhiều người cho rằng “các biểu tượng Freud” là những đối tượng xuất hiện trong giấc mơ hay sự tưởng tượng, và nhằm tượng trưng cho bộ phận sinh dục. Vì vậy, những không gian rỗng có thể chứa đựng vật khác như cái hang hay túi xách có thể tượng trưng cho cơ quan sinh dục của phụ nữ. Kiếm, ô hay bút chì có thể được xem là nói tới dương vật. Như Rycroft đã chỉ ra trong tiểu luận “Chủ nghĩa biểu tượng Freud có phải là một sự hoang đường?”, ban đầu Freud không gán cho chủ nghĩa biểu tượng tính dục một tầm quan trọng lớn, và chỉ làm vậy sau công trình của Wilhelm Stekel. Khi đã nhận thấy tầm quan trọng của sự tượng trưng, Freud nhìn nhận nó với một phong cách rút gọn điển hình. Chẳng hạn, ông tuyên bố: Phần lớn những biểu tượng trong giấc mơ là biểu tượng tính dục. (Toàn tập, XV. 153) và tiếp tục liệt kê một số lớn những đối tượng thuộc loại được đề cập ở trên. Nói cách khác, biểu tượng được Freud xem là chủ yếu phục vụ chức năng che giấu, hoặc khiến cho những khía cạnh cơ thể học của tính dục trở nên dễ chấp nhận hơn. Như chúng ta sẽ thấy trong chương 8 liên quan đến quan điểm của Freud về nghệ thuật và văn học, Freud có cái nhìn tiêu cực tương tự về huyễn tưởng. Ông xem huyễn tưởng chủ yếu có tính chất thoát ly thực tế. Nếu từ một quan điểm khác với Freud, chúng ta cho rằng sự phát triển của thế giới tưởng tượng bên trong và sự phát triển của năng lực hình thành biểu tượng là những chức năng thích ứng, song hành với nhau và đặc biệt phát triển cao ở con người, có thể thấy biểu tượng có chức năng tích cực là khỏa lấp khoảng cách giữa thế giới bên trong và thế giới bên ngoài, và cho đối tượng của thế giới bên ngoài một ý nghĩa về cảm xúc. Ví dụ điển hình là “những đối tượng chuyển tiếp”, được Winnicott mô tả trong công trình của ông năm 1954, đăng trong Từ nhi khoa đến phân tâm học (1975). Trẻ nhỏ hình thành những gắn bó với các đối tượng vô tri vô giác mà chúng khó lòng rời xa, như gấu bông hoặc những tấm mền. Những đối tượng như vậy ban đầu tượng trưng cho người mẹ. Nhưng vì những đối tượng biểu tượng này thực sự tồn tại, nên chúng không thể bị gạt bỏ như sự tưởng tượng đơn thuần. Quá trình hình thành biểu tượng khiến những đối tượng này mang một ý nghĩa nào đó cũng không thể được xem như sự thoát ly thực tế, bởi lẽ một đối tượng chuyển tiếp đóng vai trò như một nguồn an ủi đích thực. Như chúng ta sẽ thấy trong các chương sau, việc Freud cứng nhắc phân chia các hoạt động tâm trí thành hợp lý và phi lý, hay “tiến trình thứ yếu” và “tiến trình chủ đạo”, đã gây ra những khó khăn không bao giờ kết thúc. Lý thuyết về giấc mơ của Freud có vẻ được dựa trên giả thiết rằng, do sự dồn nén là cơ chế nhằm tống khứ những gì không được chấp nhận vào vô thức, nên mọi thứ trong vô thức chứa đựng một ý nghĩa tiêu cực. Trong một công trình về “Vô thức” viết năm 1915, Freud tuyên bố “những gì bị dồn nén không phải là tất cả những gì có trong vô thức” (Toàn tập, XIV. 166), nhưng có rất ít chỗ nói tới điểm này trong lý thuyết ban đầu của ông về giấc mơ. Có nhiều lý do để cho rằng vô thức không hoàn toàn, hay thậm chí không chủ yếu là kết quả của sự dồn nén, chẳng hạn như thực tế có những giấc mơ rõ ràng mang tính sáng tạo hoặc cung cấp câu trả lời cho các vấn đề. Những nhà lý luận hiện đại có khuynh hướng xem giấc mơ như quá trình xử lý thông tin, có lẽ liên quan đến việc so sánh những điều xảy ra của ngày hôm đó với những trải nghiệm tương tự được lưu giữ trong ký ức lâu dài. Nhưng, bất chấp những khiếm khuyết trong lý thuyết của Freud về giấc mơ, điều quan trọng là chúng ta thừa nhận rằng chính Freud đã sắp đặt lại giấc mơ, biến nó thành một hiện tượng đáng nghiên cứu. Hình 11. Freud ở số 19 Berggasse, Vienna, 1914. Hình do một trong những người con của ông chụp. Chuyển di Một kết quả đáng chú ý khác sau khi Freud chú trọng đến liên tưởng tự do là sự khám phá về chuyển di (transference). Chuyển di ban đầu được định nghĩa là quá trình một bệnh nhân gán cho nhà phân tích tâm lý những thái độ và suy nghĩ bắt nguồn từ các nhân vật trước đó trong đời sống của mình, đặc biệt từ cha mẹ mình. Thuật ngữ này giờ đây được mở rộng, bao hàm toàn bộ thái độ cảm xúc của bệnh nhân đối với nhà phân tích tâm lý. Nếu một bệnh nhân được khích lệ nói ra mọi điều xảy đến trong tâm trí mà không sàng lọc chúng, người đó sẽ không chỉ nói về những những triệu chứng nhiễu tâm và ký ức tuổi thơ của bản thân, mà cả về những hy vọng và sợ hãi, thành công và thất bại, những mối quan hệ hiện thời, kể cả mối quan hệ với nhà phân tích tâm lý hay việc không có mối quan hệ ấy. Là một nhà khoa học và người thực hành y khoa, ban đầu Freud hy vọng mình đã phát hiện ra nguyên nhân của những triệu chứng nhiễu tâm và cách điều trị để trừ bỏ chúng. Bằng cách giúp bệnh nhân phá vỡ sự dồn nén và nhớ lại những thăng trầm trong sự phát triển của mình thời thơ ấu, bệnh nhân sẽ vượt qua những chướng ngại đang ngăn trở sự giải tỏa thích đáng các thôi thúc bản năng, và những triệu chứng xảy ra do sự thỏa hiệp giữa dồn nén và giải tỏa sẽ biến mất. Theo quan điểm này, điều trị chứng nhiễu tâm được so sánh với điều trị bệnh tật cơ thể. Giống như vi khuẩn lao được xem là nguyên nhân gây bệnh lao phổi và có thể bị tiêu diệt bởi một cơ chế điều trị nghiêm ngặt, chứng nhiễu tâm cũng do những xung năng bị dồn nén thuở ấu thơ gây ra, và bị tiêu diệt bằng việc nhớ lại các xung năng ấy và giải tỏa mặc cảm, từ đó vượt qua những chướng ngại đã ngăn trở sự tiến triển của bệnh nhân đến sự chín chắn về tính dục. Phân tâm học do vậy được xem là một kỹ thuật có thể học được giống như bất kỳ kỹ thuật điều trị y khoa nào khác, và nhà phân tích tâm lý có thể nhận lấy vai trò truyền thông của một người thực hành y khoa có kỹ năng, một người nhân từ, ân cần, nhưng căn bản là không thiên kiến. Đây chắc chắn là mô hình Freud đã cố gắng làm theo lúc đầu, một mô hình trong đó mối quan hệ giữa bệnh nhân và bác sĩ có tính chất chuyên nghiệp, khách quan thay vì riêng tư, dù các yếu tố riêng tư như sự biết ơn có thể biểu lộ đến một mức độ nhất định. Bản thân Freud đã so sánh vai trò này với vai trò của người hướng dẫn leo núi. Như chúng ta đã thấy trong chương 1, Freud là một cá thể đặc biệt tách rời khỏi bệnh nhân, ít nhất đã được xem là “khách quan một cách tò mò”. Khi Freud từ bỏ thôi miên hay việc sử dụng ngón tay nhấn vào trán bệnh nhân và chú trọng hơn đến liên tưởng tự do, bệnh nhân không còn bắt buộc phải nằm trên divan nữa. Nhưng Freud vẫn giữ cái divan và vị trí ngồi của ông khuất tầm mắt bệnh nhân, một phần nhằm hỗ trợ dòng chảy liên tưởng của bệnh nhân, nhưng phần khác - như ông thừa nhận - là vì ông không muốn bị nhìn chằm chằm vào mình nhiều giờ mỗi ngày. Sự khăng khăng duy trì trạng thái khuất mặt và việc từ chối trả lời những câu hỏi về bản thân cũng có thể có những lý do cá nhân. Chúng ta đã nói trong chương 1 rằng Freud vô cùng miễn cưỡng tiết lộ bất kỳ điều gì về bản thân. Tuy nhiên, sự miễn cưỡng này cuối cùng đã chứng tỏ là một khía cạnh quan trọng trong những kỹ thuật phân tâm học đương đại. Chính sự tách rời khỏi bệnh nhân và không nói những chuyện đời tư của mình ở Freud đã thúc đẩy hiện tượng chuyển di, làm những hiện tượng ấy trở nên rõ rệt. Khi Freud nhận thấy ông đã trở nên quan trọng với bệnh nhân trên phương diện cảm xúc, phản ứng ban đầu của ông là sự cự tuyệt, nhưng ông nhanh chóng nhận ra chuyển di là một phần cốt yếu và không thể tránh được của tiến trình phân tích tâm lý. Ban đầu, Freud nghĩ chuyển di là một gắn bó tình ái với nhà phân tâm học, và quả thật điều đó là có thể. Nhưng dù điều đó có đáng trách, Freud lại tin rằng nó là một cách hữu ích để vượt qua những kháng cự ở bệnh nhân. Sau này, Freud đi đến chỗ xem chuyển di là một dạng nhiễu tâm, bị tạo ra một cách gượng gạo, trong đó bệnh nhân lặp lại tất cả những thái độ người ấy đã có đối với cha mẹ mình. Thông qua diễn giải, Freud tìm cách biến sự lặp lại này thành sự hồi tưởng, từ đó làm giảm mức độ mãnh liệt trong cảm xúc hiện tại của bệnh nhân bằng cách xác quyết rằng chúng thực sự thuộc về quá khứ. Cho đến ngày 5 tháng 6 năm 1910, Freud vẫn biểu lộ sự chán ghét đối với hiện tượng chuyển di bất kể việc ông thừa nhận tầm quan trọng của nó. Trong một lá thư gửi Pfister, ông viết: Về phần chuyển di, nó đúng là một của nợ. Những xung năng ngoan cố và mãnh liệt mà vì chúng, tôi đã từ bỏ cả ám thị lẫn thôi miên lại không thể được triệt tiêu hoàn toàn kể cả thông qua phân tích tâm lý. Chúng chỉ có thể được kiềm chế, những gì còn lại sẽ tự biểu lộ trong sự chuyển di. Và thường ở một mức độ đáng kể. Chúng ta có thể hiểu cảm giác của Freud. Ông đã hy vọng bệnh nhân sẽ chấp nhận ông chỉ như một bác sĩ lành nghề, có thể dùng kỹ năng để phơi bày và triệt tiêu những triệu chứng nhiễu tâm của họ. Nhưng thay vì vậy, họ biến ông thành một người tình lý tưởng, một nhân vật như cha, hay một vị cứu tinh. Điều họ muốn không phải là khoa học của ông, mà là tình yêu của ông. Chắc chắn vì bản chất của Freud là một nhà khảo sát tách rời khỏi bệnh nhân nên ông đã diễn giải những xung năng cảm xúc của bệnh nhân đối với mình như thể hoàn toàn là sự lặp lại từ quá khứ, không xét đến khả năng họ có thể đang trải qua những cảm xúc chân thực ở khoảnh khắc hiện tại. Nói cách khác, bệnh nhân hướng về phía bác sĩ một mức độ tình cảm nhất định (thường pha trộn với sự thù địch), nhưng tình cảm ấy không dựa trên một quan hệ thật sự nào giữa họ, và như được phô bày trong từng chi tiết xuất hiện, nguồn gốc của nó chỉ là những ước muốn tưởng tượng xa xưa của bệnh nhân, giờ đây đã trở thành vô thức. (Toàn tập, XI.51) Trên thực tế, nếu bệnh nhân thật lòng xem trọng nhà phân tích tâm lý cũng là điều hoàn toàn tự nhiên, dù hình ảnh của họ về người ấy có bị méo mó ra sao bởi kinh nghiệm quá khứ. Nhiều bệnh nhân đến với phân tích tâm lý là những người chưa từng cảm nhận từ bất kỳ ai một kiểu quan tâm lâu dài giống như họ nhận được trong tâm lý trị liệu. Trong đời thường, không có trường hợp nào mà người ta có thể trông cậy vào một người nghe chuyên tâm trong nhiều giờ như vậy. Những gì nhiều bệnh nhân cảm thấy là sự đánh thức những cảm xúc họ chưa từng có thay vì sự lặp lại những tưởng tượng của quá khứ. Đại bộ phận các nhà phân tâm học đương đại tin rằng nhiễu tâm không hẳn là vấn đề tính dục bị kiềm chế hay không phát triển đầy đủ, mà là một thất bại bao trùm hơn trong việc tạo ra những mối quan hệ bình đẳng giữa con người với nhau và đem lại sự thỏa mãn. Bởi vậy, sự diễn giải chuyển di phụ thuộc vào việc nhà phân tích tâm lý phát hiện và bình luận về cách thức bệnh nhân đang biểu lộ với người ấy ở hiện tại: người ấy đang sợ hãi, tuân thủ, gây hấn, hay cạnh tranh… Những thái độ này có lịch sử của chúng và cần được khám phá, nhưng sự nhấn mạnh là hiểu xem thái độ của bệnh nhân đối với người khác bị méo mó như thế nào thông qua việc tìm hiểu sự méo mó trong thái độ của bệnh nhân đối với nhà phân tích tâm lý. Để thực hiện điều này một cách hiệu quả, nhà phân tích tâm lý không những phải quan tâm đến các sự kiện của thời thơ ấu, mà còn phải nhận ra có một mối quan hệ thật sự ở khoảnh khắc hiện tại giữa mình và bệnh nhân. Chẳng bao lâu sau, Freud đã thấy rõ nhà phân tích tâm lý không phải và không thể là kiểu người quan sát bàng quan, không bị ảnh hưởng bởi bệnh nhân giống như trong trường hợp bác sĩ kê đơn thuốc. Năm 1910, Freud viết: Những cải tiến khác trong kỹ thuật có liên quan đến bản thân bác sĩ. Chúng tôi đã nhận thức tình trạng “chuyển di ngược”, xảy ra do sự tác động của bệnh nhân lên những cảm xúc vô thức của bác sĩ, và chúng tôi gần như có khuynh hướng khẳng định rằng bác sĩ sẽ nhận ra chuyển di ngược ở bản thân và vượt qua nó. (Toàn tập, XI. 144-5) Ban đầu, Freud hy vọng điều này có thể đạt được thông qua sự tự phân tích bản thân, giống như chính ông từng thực hiện. Về sau, ông nhận ra sự tự phân tích bản thân nên được thay thế bằng một phân tích thực hành do một nhà phân tâm học khác thực hiện. Jung chính là người đầu tiên trong số những nhà phân tâm học thời kỳ đầu khẳng định bản thân nhà phân tích tâm lý phải được phân tích. Nhà phân tích tâm lý phải giám sát những đáp ứng cảm xúc của chính mình thông qua sự quan sát nội tâm, bởi lẽ sự đáp ứng chủ quan của chính ông ta đối với tiến trình bày tỏ của bệnh nhân là một phần không tránh khỏi trong việc hiểu người ấy. Đây là khác biệt khá xa đối với trạng thái tâm lý được đòi hỏi ở một nhà khoa học, người không được phép vì bất cứ lý do gì để cảm xúc của mình tác động đến bất kỳ thí nghiệm nào mà mình đang tiến hành. Dù nhà phân tích tâm lý phải xử sự khách quan đến một mức độ nào đó với bệnh nhân, ông ta chỉ có thể hiểu bệnh nhân như một con người nếu ông ta cũng có khả năng khảo sát những phản ứng chủ quan của chính mình. Freud nhắm tới sự tách rời hoàn toàn khỏi bệnh nhân, nhưng từ những miêu tả của người đương thời về hành vi của ông, chúng ta biết rằng ông chưa từng đạt được điều đó, và nếu có, sự tách rời ấy sẽ chia cắt ông khỏi những nguồn thông tin mà chúng ta đều cần nếu muốn hiểu con người theo cách khác với việc hiểu thế giới bên ngoài. Bất chấp việc thừa nhận chuyển di và chuyển di ngược, đến tận trước khi mất, Freud vẫn khăng khăng rằng ông là một nhà khoa học thực nghiệm. Có lẽ sẽ thích hợp hơn nếu so sánh những nỗ lực phân tâm học của ông với nỗ lực của một nhà sử học. Các sử gia cũng cố gắng tái tạo quá khứ, nhưng không ai cho rằng có thể đạt được một tầm nhìn hoàn toàn khách quan về quá khứ, hay một ghi chép lịch sử nào thử làm như vậy có thể đáng đọc. Hiểu biết của một sử gia về quá khứ và động cơ của những con người tạo nên lịch sử tất yếu bị tác động bởi kinh nghiệm riêng của sử gia, bởi năng lực hiểu loài người của sử gia. Đây là lý do tại sao cả lịch sử lẫn phân tâm học đều không thể được cho là khoa học chính xác. 5 Bản ngã, siêu ngã và cái ấy Dù Freud nhìn chung không điều chỉnh những tư tưởng của mình theo gợi ý của người khác, bản thân ông vẫn liên tục xem lại chúng, và ông giữ được năng lực đối mới sáng tạo đến tận cuối cuộc sống thọ của mình. Trong nửa sau của Thế chiến I và đầu những năm 1920, Freud đã có rất nhiều bổ sung và điều chỉnh đối với lý thuyết phân tâm học. Quan trọng nhất trong số này là bổ sung liên quan đến chứng tự yêu mình (narcissism), cấu trúc của bộ máy tâm thần và sự thừa nhận tầm quan trọng của các xung năng gây hấn bên cạnh các xung năng tính dục. Tự yêu mình Đây là thuật ngữ ban đầu được sử dụng để mô tả một lệch lạc tính dục, trong đó chủ thể yêu chính mình thay vì yêu một người khác. Về sau, nó được mở rộng để bao hàm mọi hình thức tự yêu mình. Vì sự tự tôn là điều cần thiết đối với sức khỏe tinh thần, nên một mức độ tự yêu mình nào đó được xem là điều bình thường. Freud cho rằng tất cả mọi người đều hướng dục năng (libido) đến chính mình (dục năng hướng bản ngã) lẫn người khác (dục năng hướng đối tượng). Khi một người đang yêu, phần lớn dục năng của người đó được dành cho người yêu. Khi một người bị bệnh dù về thể chất hay tinh thần, người đó trở nên chìm đắm hơn vào bản thân, ít có khả năng gắn bó cảm xúc với người khác. Những hình thức tự yêu mình thái quá được biểu lộ trong một dạng tâm thần phân liệt (schizophrenia) khi người bệnh xem mọi thứ xảy ra trên đời như thể nhắm vào mình, trong những trạng thái hưng cảm khi chủ thể tự xem mình là bậc toàn năng, và trong những trạng thái trầm cảm khi chủ thể bị ám ảnh dạng bệnh tưởng với trạng thái thể xác và tinh thần của chính mình đến mức không để ý đến mọi điều khác. Freud mặc nhiên công nhận một giai đoạn tự yêu mình trong quá trình phát triển cảm xúc, được gọi là tự yêu mình nguyên căn, trước khi chủ thể dành dục năng cho bất kỳ đối tượng nào khác ngoài cái tôi. Ông mô tả đây là giai đoạn các bản năng tính dục tìm được sự thỏa mãn bằng tự nhục cảm. Bởi vậy, bệnh tật tinh thần hoặc thể chất có thể được xem là tạo thành sự thoái triển về một giai đoạn phát triển trước đó của thời ấu thơ. Cho đến lúc này, Freud cho rằng có hai nhóm bản năng: những bản năng duy trì cái tôi, đi liền với bản ngã; và những bản năng tính dục, đi liền với đối tượng. Giờ đây, ông kết luận sự duy trì cái tôi và chứng tự yêu mình thật ra là cùng một thứ, và điều đáng nói là dục năng được hướng tới đối tượng ở mức độ nào so với hướng tới cái tôi. Như Ernest Jones bình luận trong tiểu sử về Freud, công trình “Về chứng tự yêu mình: Một dẫn luận” (Toàn tập, XIV.73-102) của Freud giống như dọn cỗ cho những nhà phê bình trước đó đã nói rằng Freud quy mọi thứ về tính dục. Ban đầu, Freud nhận thấy các bản năng duy trì cái tôi khác với các bản năng tính dục, và có thể mâu thuẫn với chúng. Khi khẳng định tình yêu dành cho người khác là sự tự yêu mình hướng ra bên ngoài, Freud có vẻ đang tuyên bố xung năng tính dục thật sự là nguồn gốc duy nhất của năng lượng tâm thần. Quan điểm này chẳng bao lâu đã phải điều chỉnh. Về cơ bản, Freud là người theo thuyết nhị nguyên, có thói quen giải thích các hiện tượng tinh thần dựa trên sự tương tác hoặc mâu thuẫn giữa các cặp đối lập. Có lẽ ông cũng là người đầu tiên nhận ra khuynh hướng suy nghĩ này là đặc trưng của những nhân cách ám ảnh, loại người đặc biệt “mâu thuẫn trong tư tưởng”, vừa yêu vừa ghét những ai được họ quan tâm, và thường gặp khó khăn khi ra quyết định vì không thể dung hòa những cân nhắc trái ngược. Yêu và ghét là một cặp đối lập, có thể được thấy rõ trong bất kỳ mối quan hệ sâu sắc nào giữa con người, và khi một mối quan hệ như vậy bị đoạn tuyệt, tình yêu thương có vẻ bị biến đổi thành sự căm ghét. Freud đi tới kết luận sự căm ghét có liên quan chặt chẽ đến nỗ lực của bản ngã nhằm duy trì cái tôi. Ông tuyên bố tiếp: Sự căm ghét là một cách nhìn nhận đối tượng, và nó xưa cũ hơn tình yêu. Nó bắt nguồn từ việc bản ngã tự yêu mình thuở ấu thơ khước từ thế giới bên ngoài với những tác nhân kích thích từ đó tràn đến. Là một biểu đạt của phản ứng không vui do đối tượng gợi lên, sự căm ghét luôn nằm trong mối quan hệ mật thiết với những bản năng duy trì cái tôi, qua đó bản năng tính dục và bản năng duy trì cái tôi có thể dễ dàng tạo nên sự tương phản giống như sự tương phản giữa yêu và ghét. (Toàn tập, XIV.139) Việc nói tới “thế giới bên ngoài với những tác nhân kích thích từ đó tràn đến” có vẻ tối nghĩa, trừ phi chúng ta nhớ lại rằng một trong những tư tưởng căn bản của Freud là cơ thể luôn tìm cách tống khứ những tác nhân kích thích gây phiền toái, dù những tác nhân này ảnh hưởng đến nó từ thế giới bên ngoài hay phát ra như những thôi thúc bản năng bên trong. Trong chương 2, chúng ta đã đề cập tới “nhu cầu của cơ thể nhằm đạt trạng thái bình lặng bằng cách giải tỏa hoàn toàn mọi căng thẳng”. Freud tiếp tục khẳng định: Hệ thần kinh là một cơ chế có chức năng trừ bỏ những tác nhân kích thích đến với nó, hoặc giảm thiểu chúng xuống mức thấp nhất có thể, hoặc nếu khả thi, sẽ tự duy trì trong một trạng thái hoàn toàn không có kích thích. (Toàn tập, XIV. 120) Những nghiên cứu ban đầu của Freud về chứng rối loạn phân ly và nhiễu tâm ám ảnh đòi hỏi chia tâm trí thành ý thức và vô thức. Mô hình đơn giản này cho rằng vô thức chủ yếu - nếu không nói là hoàn toàn - có nguồn gốc từ sự dồn nén, do vậy chứa đựng những ham muốn, ý nghĩ và cảm giác không thể chấp nhận đối với bản ngã ý thức. Trong 20 năm đầu tiên của thế kỷ 20, Freud cuối cùng đã nhận ra mô hình này không phù hợp. Chẳng hạn, lực tạo thành sự dồn nén phải đến từ bản ngã, nghĩa là phần ý thức. Nhưng bệnh nhân nằm trên divan trị liệu lại ứng xử như thể lực này là vô thức, cụ thể là họ biểu lộ sự kháng cự. Nói cách khác, khi những chủ đề nguy hiểm hoặc khó chịu bắt đầu nổi lên trong liên tưởng tự do, bệnh nhân sẽ chấm dứt trò chuyện thoải mái, tuyên bố rằng không có ý nghĩ nào xảy ra với mình, hoặc nói đã quên mất điều đang được bàn luận, hoặc trở nên lảng tránh theo những cách khác. Freud nói: Lực tạo thành sự dồn nén và duy trì nó được quan niệm như sự kháng cự trong quá trình thực hiện phân tích tâm lý. (Toàn tập, XIX.14) Nhưng điều này ngụ ý phần bản ngã cho đến lúc đó chỉ được gán cho ý thức lại có thể là vô thức. Freud nhận ra thuật ngữ “vô thức” tốt hơn hết nên được sử dụng như một tính từ mô tả thay vì như một danh từ địa hình học. Dù mọi thứ bị dồn nén rơi vào vô thức, không phải mọi thứ trong vô thức là những gì bị dồn nén. Cấu trúc của bộ máy tâm trí Mô hình mới của Freud về tâm trí là kết quả của những suy nghĩ trên cũng như nhiều suy ngẫm khác, và bao gồm ba phần: bản ngã, cái ấy (xung động bản năng), siêu ngã. Cái ấy (Id) được định nghĩa là phần cổ xưa nhất của tâm trí, từ đó mọi cấu trúc phát ra. Nó chứa đựng tất cả những gì được thừa hưởng, nghĩa là đã hiện diện từ lúc sinh ra, được quy định trong thể tạng hay tính khí. Do vậy, nó trước hết là những bản năng bắt nguồn từ tổ chức cơ thể và tìm được một diễn đạt dưới dạng tâm trí trong những hình thức mà chúng ta không biết. (Toàn tập, XXIII.145) Cái ấy có tính chất nguyên sơ, không được tổ chức, thuộc về cảm xúc, “lãnh địa của phi logic”. Nó là phần tối, không thể tiếp cận trong nhân cách của chúng ta. Những điều ít ỏi mà chúng ta biết về nó đã được biết thông qua nghiên cứu quá trình tạo thành giấc mơ và sự hình thành những triệu chứng nhiễu tâm, và phần lớn những điều ấy đều có tính chất phủ nhận, chỉ có thể được mô tả như một sự tương phản với bản ngã. Chúng ta tiếp cận cái ấy bằng những ví von: chúng ta gọi nó là một hỗn độn, một cái vạc chứa đầy những kích thích sôi sục… Trong nó chứa đầy năng lượng đến từ các bản năng, nhưng nó lại không có sự tổ chức nào, không tạo ra một ý muốn tập thể nào, chỉ là một nỗ lực nhằm đem lại sự thỏa mãn những nhu cầu bản năng, tuân theo nguyên lý khoái lạc. (Toàn tập, XXII.73) Freud đặt ra sự phân biệt rõ ràng giữa hai loại chức năng tinh thần, được ông gọi là tiến trình sơ cấp và tiến trình thứ cấp. Cái ấy sử dụng tiến trình sơ cấp, nghĩa là tiến trình dùng những cơ chế như cô đọng, thay thế, biểu tượng và đáp ứng ước muốn bằng ảo giác mà chúng ta nói tới ở chương 4 khi bàn về giấc mơ. Nó cũng bỏ qua những phạm trù thời gian và không gian, và xem mọi cặp đối lập như tối/sáng, cao/thấp như thể chúng giống hệt nhau. Như được chỉ ra trong mô tả của Freud, cái ấy chỉ bị chi phối bởi nguyên lý căn bản, nguyên sơ nhất của động lực học tinh thần: sự tránh né trạng thái “không vui” do những thôi thúc bản năng gây ra, và điều này chỉ có thể đạt được bằng cách thỏa mãn những nhu cầu bản năng gắn liền với sự vui thú. Điểm đặc trưng trong quan điểm đa phần mang tính bi quan của Freud về bản chất con người là, cái gọi là “nguyên lý khoái lạc” - nền tảng cho rất nhiều tư tưởng của ông - thiên về sự tránh né đau khổ hơn là sự theo đuổi vui thú. Trong chương 2, chúng ta đã lưu ý rằng những cảm xúc mãnh liệt bị Freud xem như những phiền toái phải bị trừ bỏ, không phải như những vui thú để được theo đuổi. Bản ngã là phần tâm trí diễn đạt ý thức. Nó sử dụng tiến trình thứ yếu, nghĩa là sự lập luận, lý lẽ, khả năng trì hoãn những đáp ứng tức thời với tác nhân kích thích bên ngoài hoặc thôi thúc bản năng bên trong. Nó bắt nguồn từ cái ấy. Freud hình dung bản ngã như “một tổ chức đặc biệt”, gắn kết mật thiết với những cơ quan tri giác, bởi lẽ bản ngã ban đầu hình thành như kết quả của quá trình tác nhân kích thích từ thế giới bên ngoài tác động lên các giác quan. Bản ngã, trước tiên và trên hết, là một bản ngã về thể xác. (Toàn tập, XIX.26) Qua đây, Freud muốn nói bản ngã - ban đầu bắt nguồn từ những cảm giác nổi lên từ bề mặt của cơ thể - là một phóng chiếu của bề mặt cơ thể. Cảm giác về “tôi” phụ thuộc vào sự cảm nhận cơ thể như một thực thể tách rời. Một khi đã tồn tại, bản ngã “hành xử như một trung gian giữa cái ấy và thế giới bên ngoài”. Do sự liên kết thần kinh giữa tri giác và hoạt động của cơ vận động, bản ngã kiểm soát những vận động có chủ ý. Chức năng chủ yếu của bản ngã là duy trì cái tôi. Đối với những sự việc bên ngoài, nó thực hiện nhiệm vụ đó bằng cách trở nên nhận biết các tác nhân kích thích, lưu trữ kinh nghiệm về chúng (trong ký ức), tránh những tác nhân kích thích quá mạnh (thông qua trốn chạy), xử lý những tác nhân kích thích vừa phải (thông qua thích ứng), và cuối cùng biến những thay đổi có lợi ở thế giới bên ngoài trở thành lợi thế cho nó (thông qua hành động). Đối với những sự việc bên trong liên quan đến cái ấy, nó thực hiện nhiệm vụ đó bằng cách kiểm soát các đòi hỏi của bản năng, quyết định xem có cho chúng sự đáp ứng không, trì hoãn sự đáp ứng đến những thời điểm và hoàn cảnh thuận lợi với thế giới bên ngoài, hoặc đè nén hoàn toàn những kích thích của chúng. (Toàn tập, XXIII.145-146) Yếu tố thứ ba trong sự phân chia tâm trí của Freud được ông mô tả như sau: Tuổi thơ kéo dài là thời kỳ đứa trẻ đang lớn sống phụ thuộc vào cha mẹ, và khi kết thúc, thời kỳ ấy để lại trong bản ngã sự hình thành dưới dạng tích tụ một lực tác động đặc biệt, trong đó ảnh hưởng của cha mẹ được kéo dài. Nó được gọi là siêu ngã. Chừng nào còn được nhìn nhận là khác biệt hoặc đối lập với bản ngã, siêu ngã còn tạo thành một lực thứ ba mà bản ngã phải tính tới. (Toàn tập, XXIII.146) Khái niệm của Freud về siêu ngã có thể được truy xét nguồn gốc đến công trình về chứng tự yêu mình mà chúng ta đã nói tới. Freud cho rằng trong quá trình đứa trẻ phát triển, chứng tự yêu mình nguyên căn có tính chất hoang tưởng tự đại của nó dần dần bị lu mờ. Nói cách khác, nó không còn xem bản thân như “em bé vua” toàn năng, trung tâm của vũ trụ nữa. Khi đứa trẻ dần có được những suy nghĩ về văn hóa và đạo đức, những xung năng tính dục phải chịu sự dồn nén. Do sự phân chia này trong tâm trí, đứa trẻ đi đến chỗ nhận ra nó không thể lý tưởng hóa bản thân nữa, và có một lý tưởng của bản ngã mà bản ngã của nó không phải lúc nào cũng tuân thủ. Freud mặc nhiên cho rằng có một lực trong tâm trí, chuyên tâm với việc quan sát cái tôi: nó quan sát bản ngã, quyết định xem bản ngã đang tuân theo hay không đáp ứng được lý tưởng của bản ngã. Lực này về sau được Freud đặt tên là siêu ngã. Như được chỉ ra trong trích dẫn ở trên, siêu ngã ban đầu bắt nguồn từ những ngăn cấm và phê bình của cha mẹ. Do sự phụ thuộc trong thời kỳ tuổi thơ kéo dài, những chuẩn mực của cha mẹ và sau đó là những chuẩn mực của xã hội được tiếp nhận, hay nói cách khác, được tích hợp như một phần trong tâm trí của chủ thể, kết quả là tiếng nói của lương tâm vang lên mỗi khi bản ngã không đáp ứng được lý tưởng của bản ngã. Freud hoàn toàn có thể sử dụng hệ thuật ngữ Pavlov. Siêu ngã có thể được xem là sản phẩm của sự ấn định lặp đi lặp lại bằng những huấn thị và phê bình của cha mẹ. Chẳng hạn, “con phải đánh răng sau khi ăn sáng” có thể trở thành một mệnh lệnh cắm rễ sâu đến nỗi khi đứa trẻ đã lớn, đã thoát ly gia đình một thời gian dài, nó vẫn cảm thấy không thoải mái nếu không tuân thủ. Do vậy, bản ngã bị đặt không thoải mái giữa ba lực tác động: thế giới bên ngoài, cái ấy và siêu ngã. Mỗi thứ lại thúc đẩy một tiến trình khác nhau. Nên không có gì ngạc nhiên khi hành động của con người đôi lúc chập chờn hoặc lưỡng lự. Gây hấn Ở đầu chương, chúng ta đã trích dẫn kết luận của Freud rằng “Sự căm ghét là một cách nhìn nhận đối tượng, và nó cổ xưa hơn tình yêu”. Câu này đến từ một công trình về “Các loại bản năng và những thất thường của chúng”, được viết năm 1915. Đây là lần đầu tiên Freud thừa nhận một “bản năng gây hấn”, xem nó như một cấu thành của bản ngã, tách rời với bản năng tính dục. Trước thời kỳ này, Freud đã xem sự gây hấn như thể tạo thành khía cạnh bạo dâm của bản năng tính dục, như một “ham muốn làm chủ”, một hình thức nguyên sơ của sự cố gắng và chế ngự đối tượng tính dục. Tình yêu ở dạng này và ở giai đoạn sơ khởi của nó khó có thể được phân biệt với sự căm ghét trong thái độ dành cho đối tượng. Chỉ khi đã hình thành sự tổ chức cơ quan sinh dục, tình yêu mới trở thành sự đối lập của căm ghét. (Toàn tập, XIV. 139) Rất chậm rãi, theo kiểu quanh co, Freud đi đến chỗ chấp nhận có một “bản năng gây hấn”, hoàn toàn độc lập với bất cứ thứ gì liên quan đến tính dục. Tôi nhớ mình đã có thái độ phòng thủ khi ý tưởng về một bản năng hủy hoại lần đầu xuất hiện trong các bài viết phân tâm học, và phải mất khá lâu tôi mới có thể đón nhận ý tưởng ấy. (Toàn tập, XXI. 120) Việc Freud thường xuyên sử dụng từ “bản năng” có một âm hưởng không hợp thời, bởi lẽ các nhà tâm lý học hiện đại và các nhà nghiên cứu bộ môn hành vi động vật phần lớn đã từ bỏ thuật ngữ này. Bản năng ban đầu được sử dụng để mô tả những khía cạnh của hành vi được cho là bẩm sinh, phát triển độc lập với những tác động của môi trường. Ngày nay, nhìn chung người ta tin rằng mọi hành vi bị tác động cả bởi tổ chức di truyền lẫn những điều kiện môi trường xuất hiện trong quá trình phát triển. Ngay cả những hình thức ứng xử tương đối rập khuôn như tiếng hót của chim cũng chưa chắc đã biểu lộ nếu những tác nhân kích thích phù hợp của môi trường không xuất hiện ở một giai đoạn phù hợp. Freud đã đi trước thời đại của ông khi mặc nhiên cho rằng môi trường đóng một vai trò lớn trong việc ảnh hưởng lên những hình thái ứng xử về tình dục. Nhưng không có lý do hiển nhiên nào khác ngoài việc ông thích giới hạn “bản năng” vào hai loại. Chẳng hạn, cả ngủ và ăn đều chủ yếu được quyết định bởi những nhu cầu bẩm sinh. Freud lần đầu tiên thừa nhận đầy đủ về bản năng gây hấn trong “Vượt trên nguyên lý khoái lạc”, một công trình mang tính suy đoán lần đầu được công bố năm 1920 (Toàn tập, XVIII.7-64). Dù Freud tiếp tục khẳng định con người chủ yếu bị chi phối bởi nguyên lý khoái lạc, và nguyên lý ấy bị điều chỉnh nhưng không bị hủy bỏ bởi việc bản ngã chấp nhận nguyên lý thực tại, ông lại kết luận rằng một nguyên lý khác cũng phải đang vận hành. Như chúng ta thấy trong chương trước, khi nghiên cứu trên những bệnh nhân bị “rối loạn căng thẳng hậu chấn thương”, tức những nhiễu tâm do tai nạn hay cú sốc bất ngờ gây ra, kết quả cho thấy những giấc mơ của họ thường lặp lại sự việc hầu như không điều chỉnh. Do sự kiện chấn thương đương nhiên là những sự việc không vui, nên việc lặp lại nó có vẻ mâu thuẫn với nguyên lý khoái lạc. Freud cũng lưu ý trẻ nhỏ có khuynh hướng lặp lại những kinh nghiệm không vui, chẳng hạn sự ra đi của cha hoặc mẹ. Chúng đưa những sự việc ấy vào một trò chơi lặp lại, trong đó bằng sự tưởng tượng chúng có được chút kiểm soát nào đó đối với sự việc. Freud kết luận cả người nhiễu tâm từng rơi vào cú sốc lẫn trẻ em từng đau khổ đều cố gắng làm chủ những kinh nghiệm không vui của họ bằng cách lặp lại những kinh nghiệm ấy trong giấc mơ và trò chơi. Cũng trong chương này trước đây, chúng ta đã trích quan điểm của Freud rằng sự căm ghét lâu đời hơn tình yêu, và nó gắn liền với việc bản ngã ấu thơ chối bỏ những đối tượng bị xem là nguồn gốc của những tác nhân kích thích gây phiền toái. Nhớ lại như vậy, chúng ta có thể hiểu tại sao Freud lại gắn sự gây hấn với việc làm chủ cú sốc và đau khổ được nói tới ở trên, cũng như với khuynh hướng buộc phải lặp lại những kinh nghiệm không dễ chịu. Những biểu hiện của sự ép buộc phải lặp lại… cho thấy rất rõ tính chất bản năng, và khi những biểu hiện ấy hoạt động ngược với nguyên lý khoái lạc, chúng cho thấy có vẻ một lực “ma quỷ” nào đó đang vận hành. (Toàn tập, XVIII.35) Nhưng Freud còn tiến xa hơn. Vẫn duy trì quan niệm xem chức năng của bộ máy tâm trí là dứt bỏ những tác nhân kích thích đến với nó, ông kết luận sự ép buộc phải lặp lại có tính chất “ma quỷ” và bản năng này là một thuộc tính phổ quát của các loại bản năng. Ông viết: Như vậy, có vẻ bản năng là một thôi thúc nội tại trong đời sống hữu cơ nhằm phục hồi một trạng thái trước đó của sự vật mà thực thể sống ấy đã bị buộc phải từ bỏ dưới áp lực của những sức mạnh quấy rầy bên ngoài… (Toàn tập, XVIII.36) Và cái gì là trạng thái đầu tiên của sự vật mà bản năng đang cố gắng phục hồi? Trong lịch sử hành tinh của chúng ta, vô cơ có trước hữu cơ, nên nó chỉ có thể là một cố gắng hướng tới trạng thái trước khi cuộc sống hiện diện. Nếu chúng ta chấp nhận một sự thật không có ngoại lệ rằng mọi thể sống sẽ chết vì những lý do bên trong - nghĩa là một lần nữa lại trở thành vô cơ - chúng ta buộc phải nói rằng “mục đích của mọi đời sống là cái chết”, và khi nhìn lại đằng sau, “những thứ vô tri vô giác đã tồn tại trước những thể sống”. (Toàn tập, XVIII.38) Bản năng hủy hoại Đây là lời khẳng định của Freud về điều sau đó được ông gọi là “bản năng hủy hoại” hay “bản năng chết” (death instinct) - sự diễn đạt rốt ráo về nguyên lý Nirvana, về nỗ lực của cơ thể nhằm đạt tới “Khu vườn của bà chúa địa ngục” mà nhà thơ Swinburne nói tới, nơi không có tác nhân kích thích nào phá vỡ sự an bình vĩnh cửu của nó, dù từ bên ngoài hay bên trong. Khi ấy, mặt trời hay các vì sao sẽ không thức dậy, Chẳng có sự biến đổi của ánh sáng; Chẳng có âm thanh rung động của dòng nước, Chẳng có âm thanh hay hình ảnh nào; Chẳng có những chiếc lá vàng úa của mùa đông hay xanh mướt của mùa xuân, Chẳng có ngày hay đêm; Chỉ có giấc ngủ vĩnh hằng Trong đêm vĩnh hằng. Những suy nghĩ hết sức trừu tượng này đã cho Freud điều ông muốn, đó là một sự sắp xếp có tính nhị nguyên, trong đó mọi hiện tượng của đời sống tinh thần có thể được quy về sự tương tác hoặc mâu thuẫn giữa hai xung năng. Sau thời gian dài ngập ngừng và do dự, chúng ta đã quyết định nhìn nhận rằng chỉ có hai bản năng căn bản, bản năng tính dục (Eros) và bản năng hủy hoại… Mục đích của bản năng thứ nhất trong hai bản năng căn bản này là hình thành những hợp nhất ngày càng lớn hơn và duy trì chúng như vậy - hay nói ngắn gọn, nhằm trói buộc vào nhau; ngược lại, mục đích của bản năng thứ hai là phá vỡ những gắn kết, qua đó hủy hoại sự vật. Trong trường hợp bản năng hủy hoại, chúng ta có thể giả định rằng mục đích cuối cùng của nó là đưa những gì đang sống về một trạng thái vô tri. Vì lý do này, chúng ta gọi nó là bản năng chết. (Toàn tập, XXIII.148) Freud cho rằng sự gây hấn bắt nguồn từ việc bản năng hủy hoại đang được tái định hướng tới thế giới bên ngoài. Ông viết: Bản năng hủy hoại, nếu được thuần hóa và điều phục, nếu mục đích của nó có thể bị kiềm chế, thì khi được hướng tới các đối tượng, nó sẽ đem lại cho bản ngã sự đáp ứng những nhu cầu sống còn và sự kiểm soát đối với tự nhiên. (Toàn tập, XXI.121) Freud tiến tới, kết luận rằng khuynh hướng gây hấn “tạo thành trở ngại lớn nhất đối với sự văn minh”. Ông hình dung sự văn minh là: Một quá trình nhằm phục vụ Eros, vị thần ái tình với mục đích kết hợp mọi cá nhân riêng lẻ, cho đến mọi gia đình, giống nòi, dân tộc và quốc gia vào một sự hợp nhất lớn lao, sự hợp nhất của loài người. Nhưng bản năng gây hấn tự nhiên của con người, sự thù địch của một người chống lại tất cả và tất cả chống lại một người, lại đối lập với tiến trình văn minh này. Bản năng gây hấn là sản phẩm phái sinh và đại diện chính của bản năng hủy hoại mà như chúng ta đã """