🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đài Loan tiến trình hoá rồng
Ebooks
Nhóm Zalo
LỜI GIỚI THIỆU
Đài Loan là một hòn đảo nằm ở phía đông nam Trung Quốc, với tổng diện tích 36 nghìn km2, dân số khoảng 23 triệu người, cùng với Singapore, Hàn Quốc và Hồng Kông được mệnh danh là bốn con rồng châu Á. Tiến trình hóa rồng của Đài Loan phải đi trên một chặng đường dài gian nan, gắn liền với đó là diễn biến chính trị đầy kịch tính, hấp dẫn nhiều học giả quan tâm nghiên cứu. Giáo sư Hoàng Gia Thụ, một chuyên gia về vấn đề Đài Loan, đã dành trọn năm năm biên soạn nên cuốn sách này. Với ngòi bút khách quan, khoa học, ông đã tái hiện một bức tranh toàn cảnh về Tiến trình hóa rồng của Đài Loan trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1988, dưới thời kỳ cầm quyền của một vương triều – “Vương triều Tưởng”.
Từ sau khi Tuyên bố Cairo được ký kết vào ngày 1 tháng 12 năm 1943, phần lãnh thổ của Trung Quốc do Nhật chiếm giữ như Mãn Châu, Đài Loàn, Bành Hồ… được trao trả về cho Trung Quốc. Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Nhật tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, từ đây Đài Loan chính thức chịu sự tiếp quản của Quốc dân đảng, thế nhưng Quốc dâng đảng chuyển từ tiếp thu sang “cướp thu”, gây nên bao nỗi bất mãn cho người dân gốc Đài Loan mà đỉnh điểm là cuộc khởi nghĩa “28 tháng 2”. Để trấn an đồng bào Đài Loan, Quốc dân đảng nêu ra phương châm cai trị: “Mưu cầu phồn vinh trong yên ổn”, Tưởng Giới Thạch đưa Ngụy Đạo Minh lên làm Chủ tịch tỉnh Đài Loan, hàng loạt biện pháp cải cách được đưa ra, từ chính sách giá lương thực hạ cho đến cải cách tiền tệ, tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài, chủ yếu là tư bản Mỹ.
Đài Loan nằm trên tuyến đường giao thông quan trọng của khu vực Đông Á, các tập đoàn tài phiệt Mỹ đầu tư một lượng tiền lớn vào Đài Loan và đi theo đó là được hưởng những lợi ích đặc biệt, nên những nhà tài phiệt này luôn gây sức ép đối với Chính phủ Mỹ, phản đối việc Mỹ bỏ rơi chính quyền Quốc dân đảng. Mỹ giương ô bảo hộ Đài Loan, đây cũng chính là ước mơ tha thiết của Tưởng Giới Thạch, thế nhưng đồng thời với việc giương ô che chở, phía Mỹ đưa ra hai điều kiện kèm theo khiến cho nhà cầm quyền Đài Loan ngậm đắng nuốt cay trả giá cho sự “bảo hộ” đó: điều kiện thứ nhất là “Thuyết địa vị Đài Loan chưa xác định”, chỉ có như vậy Mỹ mới có thể danh ngôn chính thuận phái hạm đội 7 vào eo biển Đài Loan với tính chất không can thiệp vào nội bộ Trung Quốc. Điều kiện kèm theo thứ hai là yêu cầu Đài Loan thừa nhận “trung lập hóa Đài Loan”. Nghĩa là một mặt ngăn cản Trung Quốc dùng vũ lực ở eo biển Đài Loan, mặt khác cũng yêu cầu Đài Loan chấm dứt tập kích Đại Lục, điều này chẳng khác nào đánh cắp giấc mơ “phản công Đại Lục” của cha con Tưởng.
Trong bối cảnh chính trị rối ren, nền kinh tế Đài Loan vẫn có bước chuyển biến to lớn là một phần nhờ vào sự viện trợ ồ ạt của Mỹ, nhưng quan trọng hơn cả chính là hàng loạt cải cách mà Quốc dân đảng và cha con Tưởng Giới Thạch thi hành. Đầu tiên phải nói đến chính là “Cải cách ruộng đất”, chính quyền áp dụng phương thức “phóng lĩnh đất công” về cơ bản giải quyết được vấn đề “người cày có ruộng”, cải thiện đời sống của đại đa số người nông dân, xúc tiến nông nghiệp phát triển, tạo nền móng cho chấn hưng công nghiệp. Tiếp đến là nâng đỡ công thương nghiệp tự doanh, trong đó ngành dệt chiếm địa vị trụ cột, rồi đến chế độ phân phối định mức lương thực, chế độ tiền gửi dự trữ lãi suất ưu đãi khiến cho một bộ phận không nhỏ người dân chuyển sang kinh doanh kiếm lợi bằng tài sản tiền tệ, dẫn đến tiền gửi định kỳ ở ngân hàng tăng mạnh, như vậy vừa giảm nhẹ áp lực thị trường, vừa tích lũy mở rộng tái sản xuất. Thông qua hàng loạt biện pháp này, cộng thêm viện trợ từ Mỹ lên đến hàng trăm
triệu đô-la, cải cách ruộng đất lại kích thích nông nghiệp và các ngành công nghiệp nhẹ liên quan như dệt, phân bón hóa học, máy nông nghiệp… phát triển, làm cho nền kinh tế Đài Loan khôi phục toàn diện, tình trạng lạm phát cơ bản được xóa bỏ. Từ năm 1961 đến 1972, kinh tế Đài Loan phát triển ổn định ở mức cao, giai đoạn này được gọi là “thời đại hoàng kim” của phát triển tư bản tư doanh, làm nên cái gọi là “Thần kỳ Đài Loan”.
Cùng với việc cải cách kinh tế là công cuộc “cải tạo” chính trị. Từ hoàn thiện ba hệ thống lớn cho đến dần giảm bớt các lệnh cấm hà khắc trong thời chiến như cấm đảng, cấm báo, cấm sách; hủy bỏ thể chế giới nghiêm, trẻ hóa bộ máy lãnh đạo đảng; phá bỏ hàng rào gốc gác, quán triệt phương châm “bản thổ hóa” nhằm mở rộng đề bạt nhân sĩ gốc Đài Loan tham gia chính trị. Đài Loan dưới thời Tưởng Kinh Quốc đã có những chuyển biến vô cùng tích cực, “bánh xe đổi mới” bắt đầu chuyển động trên con đường “dân chủ hóa”. Thế lực Ngoài Đảng chính thức đột phá lãnh địa cấm Đảng đã tồn tại hơn 30 năm, buộc Quốc dân đảng phải thừa nhận đảng đối lập và tổ chức hội nghị “bắt tay” với giới nhân sĩ Đài Loan, khiến cho Đài Loan từ thế chính trị một Đảng lũng đoạn tiến tới đa nguyên cạnh tranh nhiều chính Đảng. Có thể nói hai năm cuối “Vương triều Tưởng”, tình hình chính trị Đài Loan xảy ra hàng loạt biến đổi, từ hủy bỏ giới nghiêm, Đảng đối lập được hợp pháp hóa, quan hệ giữa hai bờ eo biển ấm dần lên, vấn đề “Tam thông” (tức thông đường hàng không, đường biển; thông đường bưu điện, thư từ; thông thương buôn bán); “Tứ lưu” (tức thăm viếng người thân; trao đổi về du lịch; trao đổi học thuật và trao đổi văn hóa thể dục thể thao) về cơ bản đã đột phá được phương châm “ba không” – “không tiếp xúc, không đàm phán, không thỏa hiệp” của nhà cầm quyền Đài Loan. Vậy nên năm 1987- 1988, là dấu mốc lịch sử chính trị Đài Loan lật sang một trang mới; lịch sử Quốc dân đảng cũng đang lật sang một trang mới.
Đài Loan – Tiến trình hóa rồng là một bức tranh toàn cảnh về tình hình kinh tế - chính trị - xã hội Đài Loan giai đoạn 1945-1988, hy vọng cuốn sách này sẽ mang lại cho độc giả Việt Nam một góc nhìn chân thực về lịch sử hòn đảo xinh đẹp – một trong bốn con rồng của châu Á.
Tháng 12 năm 2013
ĐẶNG HIỆN
Nguyên chuyên viên Bộ Ngoại giao,
Nguyên chuyên viên Cục Đầu tư nước ngoài,
Bộ Kế hoạch và Đầu tư
1. TRÊN NỀN MÁU
I. MỐI LIÊN HỆ LỊCH SỬ GIỮA QUỐC DÂN ĐẢNG VÀ ĐÀI LOAN
Ở đông nam Trung Quốc có một hòn đảo quý rộng 36 nghìn km2, đây chính là Đài Loan, hiện do chính quyền Quốc dân đảng nắm giữ.
Nhiều văn vật đào được chứng tỏ người bản địa Đài Loan từ xưa đã trực tiếp từ lục địa Trung Hoa di cư ra, rất nhiều điển tích lịch sử ghi chép những sự tích gian khổ của di dân Trung Quốc “Vượt biển rộng đến đảo hoang” hàng ngàn năm nay. Thời Tam Quốc, Tôn Quyền nhà Đông Ngô đã cử đội thuyền hàng chục nghìn người đến Đài Loan. Từ triều Tống, Bành Hồ thuộc Đài Loan đã nhập vào bản đồ Trung Quốc. Hai triều Nguyên, Minh quyền hành chính đã được thực hiện ở Bành Hồ. Cuối Minh đầu Thanh, Đài Loan thành thuộc địa của Hà Lan, sau được người anh hùng dân tộc Trịnh Thành Công đời nhà Thanh giành lại. Đến năm 22 đời Khang Hy (1683), quân Thanh đánh chiếm Đài Loan, năm sau lập phủ Đài Loan, thuộc tỉnh Phúc Kiến. Năm 1885, triều đình nhà Thanh nâng cấp Đài Loan thành tỉnh Đài Loan.
Năm 1895, chiến tranh Giáp Ngọ thất bại, bọn bán nước Lý Hồng Chương, đại diện chính quyền Mãn Thanh đã ký với Nhật Điều ước Mã Quan ô nhục, đem Đài Loan, Bành Hồ nhượng cho Nhật, từ đó Đài Loan thành thuộc địa của Nhật.
Khi đó, Tôn Trung Sơn cũng vừa thành lập ở Đàn Hương Sơn một đoàn thể cách mạng tư sản đầu tiên ở Trung Quốc với tên gọi là Hội Hưng trung, đồng thời thành lập ở Nhật phân hội thứ nhất. Ông cùng với Trần Thiếu Bạch, Dương Hạc Linh và Vưu Liệt khởi xướng cách mạng, bị coi là “Bốn giặc lớn”.
Năm 1887, Trần Thiếu Bạch đến Đài Loan tìm người em ruột của Dương Hạc Linh là Dương Tâm Như – hội viên Hội Hưng trung, thông qua Dương liên lạc với Ngô Văn Tú, Triệu Hải Triều, Dung Kỳ Niên, thành lập phân hội Đài Loan, trụ sở đặt tại nhà Dương Tâm Như. Đây là cứ điểm đầu tiên tại Đài Loan của những người cách mạng do Tôn Trung Sơn đứng đầu, cũng là khởi đầu việc đồng bào Đài Loan trực tiếp tham gia phong trào cách mạng của Tổ quốc.
Tháng 9 năm 1900, Tôn Trung Sơn đến Đài Loan thiết lập sở chỉ huy để lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Huệ Châu, ông ở Đài Loan tất cả 42 ngày.
Tháng 5 năm 1905, hai tổ chức cách mạng Hội Hoa hưng và Hội Quang phục hợp nhất với Hội Hưng trung thành chính đảng cách mạng tư sản đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc là Hội Đồng minh.
Mùa xuân năm 1910, hội viên Hội Đồng minh là Vương Triệu Bồi đến Đài Loan, một mặt học nghề thầy thuốc ở Trường Y Đài Bắc, mặt khác bí mật phát triển tổ chức Hội Đồng minh. Dưới ảnh hưởng của Vương và sức hút từ tôn chỉ cách mạng của Tôn Trung Sơn, Ông Tuấn Minh người Đài Loan tuyên thệ gia nhập Hội Đồng minh, nhận ngay nhiệm vụ làm liên lạc viên tại Chương Châu, phụ trách phát triển công việc của Hội ở Đài Loan. Phân hội Đồng minh Trung Quốc ở Đài Loan cũng tuyên bố thành lập.
Năm 1911, phân hội Đài Loan đã phát triển được hơn 30 người, gồm cả nhà lãnh đạo phong trào dân tộc Tưởng Vị Thủy.
Tháng 10 năm đó, lão hội viên, người từng tham gia cuộc khởi nghĩa Hoàng Hoa Cương, La Phúc Tinh đến Đài Loan theo lệnh của Tôn Trung Sơn để phát triển tổ chức. Ông thành lập chi bộ tại Miêu Lệ và thành lập các phân bộ tại Đài Bắc, Đào Viên, Chương Hóa, Đài Nam, Cơ Long và Nghi Lan. Đồng thời, cắt cử Giang Lượng Năng, Hoàng Quốc Sương, Hoàng Quang Khu, Tạ Đức Hương, Phó Thanh Phong, Hoàng Viên Kính… tất cả 12 người làm mộ tập viên, chiêu mộ chí sĩ tổ chức thành các tổ chức chống Nhật như Hội Hoa dân, Hội Tam điểm... lại lệnh cho Ngô Giác Dân lập tổng trạm liên lạc tại khách sạn Đại Doanh ở Đài Bắc, làm đầu não chỉ huy của Hội Đồng minh.
Trong một năm, La Phúc Tinh bốn lần bí mật mưu đồ khởi nghĩa đều bị lộ. Người lãnh đạo địa phương bị bắt và khởi nghĩa thất bại. Ngày 18 tháng 12 năm 1912, cảnh sát Nhật mở cuộc càn quét, La Phúc Tinh bị bắt, kiên trinh bất khuất anh dũng hy sinh. Vụ này liên quan đến hơn 1.200 người, sử gọi là Sự kiện Miêu Lật.
Tháng 8 năm 1913, Tôn Trung Sơn phát động “Cách mạng thứ hai” thất bại, chạy sang Nhật, tiện đường đến Đài Loan lần thứ hai. Các lão hội viên Hội Đồng minh, Dương Tâm Như, Ông Tuấn Minh, Chu Xích Ngưu kêu gọi làm cuộc “Thảo Viên cách mạng”. Ông Tuấn Minh định đến Bắc Kinh ám sát Viên Thế Khải. Phương pháp là sử dụng vi khuẩn gây bệnh thả vào máng nước cung cấp cho các quan chức cao cấp. Tôn Trung Sơn tuy có khen cái chí, nhưng ngăn cái hành. Tuy nhiên, Ông Tuấn Minh không nghe lời khuyên vẫn hành động. Kết quả vi khuẩn tuy đã thả nhưng không hiệu quả, Ông Tuấn Minh đành quay về Đài Loan.
Tháng 11 năm 1914, Ông Tuấn Minh triệu tập Đại hội Phân hội Đồng minh Đài Loan tại nhà hàng Bình Lạc ở Đài Bắc, đến dự có 76 người. Đại hội đã khiến cảnh sát Nhật chú ý và trong hoàn cảnh chính trị ác liệt, Phân hội Đồng minh Đài Loan bắt buộc phải giải tán.
Tháng 6 năm 1918, Tôn Trung Sơn đến Đài Loan lần thứ ba. Ông muốn nhân dịp này tiếp xúc nhiều hơn với đồng bào Đài Loan, tuyên truyền Chủ nghĩa Tam dân. Nhưng chính quyền Nhật không cho ông ở lại Đài Loan lâu dài, còn tìm mọi cách không cho ông tiếp xúc với dân chúng. Kết quả là ông chỉ ở lại một đêm đã phải rời đi Nhật.
Tháng 1 năm 1920, lưu học sinh Đài Loan ở Nhật, do ảnh hưởng thúc đẩy của Phong trào Ngũ Tứ, đã thành lập Hội Tân dân ở Tokyo, Hội trưởng là Lâm Thiếu Đường, Phó Hội trưởng là Sái Huế Như. Hội viên có hơn một trăm người như các ông Lâm Trình Lộc, La Vạn Xa, Ngô Tam Liên, Quách Quốc Cơ, Sái Bồi Hỏa, Tạ Xuân Mộc... Sau khi thành lập, dưới sự lãnh đạo của Lâm Hiến Đường, Hội phát động phong trào tình nguyện yêu cầu Nhật hủy bỏ Luật 63 – phân biệt đối xử với người Đài Loan; đồng thời, xuất bản Thanh niên Đài Loan ở Tokyo do Sái Bồi Hỏa phụ trách biên tập và cử Hội phó Sái Huệ Như và hội viên Bành Hoa Anh về nước liên lạc chặt chẽ với Quốc dân đảng.
Tháng 10 năm 1921, Lâm Hiếu Đường, Tưởng Vị Thuỷ, Sái Bồi Hoả, Vương Mẫn Xuyên thành lập Hiệp hội Văn hóa Đài Loan. Hội lấy danh nghĩa nghiên cứu học thuật để đề cao văn hóa chói lọi của dân tộc; kích động lòng tự tôn dân tộc và nhiệt tình yêu nước của đồng bào Đài Loan; truyền bá tư tưởng tiến bộ chống sự nô dịch của Nhật.
Năm 1925, tin Tôn Trung Sơn tạ thế truyền đến Đài Loan. Khắp nơi trên đất Đài Bắc, Đài Trung, Chương Hóa đều tổ chức lễ truy điệu với quy mô lớn. Hiệp hội Văn hóa Đài Loan mở diễn đàn văn hóa tổ chức lễ truy điệu, có tới hơn năm nghìn người tham gia dưới trời mưa. Buổi lễ dự định đọc điếu văn và hát vãn ca, nhưng do bị chính quyền Nhật ngăn cấm nên đồng bào chỉ đặt ảnh Tôn Trung Sơn lễ ba lễ để tỏ lòng dân chúng Đài Loan thương tiếc bậc tiền bối cách mạng Trung Quốc dưới tiếng mưa rơi như than như khóc.
Năm 1927, Tưởng Vị Thủy rút khỏi Hiệp hội Văn hoá, lập ra Đảng Dân chúng Đài Loan, có lập trường dân tộc chủ nghĩa tương đối mạnh mẽ. Năm 1929, Đảng cử Tạ Xuân Mộc và Vương Chung Lân làm đại biểu về Nam Kinh tham gia lễ cầu an cho Tôn Trung Sơn, chính quyền Nam Kinh do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo sợ kích động quân Nhật, đã từ chối. Cùng năm đó, chính quyền Nam Kinh đặt Tổng lãnh sự ở Đài Loan, điều này trên thực tế coi như thừa nhận sự chiếm lĩnh Đài Loan của Nhật. Từ đó Quốc dân đảng cắt đứt liên lạc với tổ chức dân tộc chủ nghĩa Đài Loan.
Sau khi chiến tranh chống Nhật bùng nổ, quan hệ giữa chính quyền Nam Kinh với Nhật thay đổi, lập trường đối với vấn đề Đài Loan trở nên căng thẳng. Ngày 1 tháng 4 năm 1938, Tưởng Giới Thạch lên tiếng tuyên bố: “Lấy giải cứu nhân dân Đài Loan làm chí nguyện, tất phải giành lại tự do cho đồng bào Đài Loan mới có thể củng cố quốc phòng của Trung Hoa Dân Quốc, đặt nền móng cho hòa bình ở Đông Nam Á.” Tuyên bố này đã thấp thoáng hiện rõ ý đồ giành lại Đài Loan là mục tiêu quan trọng cho cuộc kháng chiến chống Nhật.
Khi đó, rất nhiều thanh niên yêu nước Đài Loan vượt qua sự phong tỏa của cảnh sát Nhật về nước tham gia kháng chiến. Những thanh niên này về sau gia nhập hai trận tuyến lớn là Quốc dân đảng và Đảng cộng sản. Trong đó bộ phận gia nhập Quốc dân đảng đã tổ chức thành sáu đoàn thể: Tổng Đồng minh Cách mạng Dân tộc Đài Loan, Đảng Cách mạng Đài Loan, Đảng Thanh niên Cách mạng Đài Loan, Đảng Cách mạng Độc lập Đài Loan, Đảng Cách mạng Quốc dân Đài Loan và Đoàn Quang phục Đài Loan.
Năm 1941, do sự vận động của Ban Tổ chức Trung ương Quốc dân đảng, sáu đoàn thể trên hợp nhất thành Hội Đồng minh Cách mạng Đài Loan. Sau khi Hội được thành lập, lần lượt xuất bản các sách báo: Đài Loan mới, Tập sách về vấn đề Đài Loan, Báo dân sinh Đài Loan. Một mặt giới thiệu tình hình Đài Loan cho nhân dân trong nước, mặt khác cổ vũ người Đài Loan ở Đại Lục Trung Hoa đấu tranh giành lại Đài Loan.
Cùng năm, Quốc dân đảng lần đầu tiên thành lập Ban trù bị Đảng bộ Đài Loan tại Hồng Kông do Ông Tuấn Minh làm trưởng ban. Tháng 4 năm 1943, Tỉnh Đảng bộ Quốc dân đảng Đài Loan chính thức thành lập. Ông Tuấn Minh làm Chủ tịch, Tạ Đông Duyệt làm Ủy viên chấp hành kiêm Trưởng phòng Tuyên truyền. Cán bộ chủ yếu còn có Khâu Niệm Đài (Khâu Phong Giáp), Trần Đống…
Tỉnh Đảng bộ Quốc dân đảng Đài Loan lấy Chương Châu làm cứ điểm công tác, xuất bản Tư liệu nghiên cứu Đài Loan để Chính phủ Trùng Khánh tham khảo quyết sách chống Nhật. Tỉnh Đảng bộ còn cử người bí mật về Đài Loan phân phát truyền đơn chống Nhật và phát triển tổ chức.
Tháng 11 năm 1943, Tưởng Giới Thạch hội đàm với Tổng thống Mỹ Roosevelt và Thủ tướng Anh Churchill tại Cairo. Ngày 1 tháng 12, các bên ký Tuyên bố Cairo, trong đó quy định: “Tôn chỉ của ba nước tính từ đầu Đại chiến thế giới thứ I năm 1914, lấy lại tất cả những đảo Nhật cướp được hoặc
chiếm đóng ở Thái Bình Dương, phần lãnh thổ của Trung Quốc do Nhật cướp được như Mãn Châu, Đài Loan, Bành Hồ… đều trả về cho Trung Quốc.”
Sau Hội nghị Cairo, Quốc dân đảng thành lập Ủy ban kiểm tra Đài Loan do Trần Nghị làm Chủ nhiệm; Thẩm Trọng Cửu, Vương Vân Sinh, Tiền Tôn Khởi, Hạ Đào Thanh, Khâu Niệm Đài, Tạ Xuân Mộc làm ủy viên. Nhiệm vụ công tác là vạch kế hoạch tiếp thu Đài Loan về mọi mặt; dịch các pháp lệnh của Nhật ban bố ở Đài Loan, nghiên cứu tất cả các vấn đề cụ thể có liên quan đến tiếp thu. Tóm lại là chuẩn bị tốt về mặt kỹ thuật để giành lại Đài Loan, đồng thời bắt tay vào việc đào tạo cán bộ tiếp thu. Tưởng Giới Thạch chỉ định Trần Nghị, Hùng Thức Huy, Ngô Thiết Thành, Trần Quả Phu, Trương Lệ Sinh, Đoạn Tích Minh sáu người phụ trách công việc đó. Tháng 12 năm 1944, Ban Huấn luyện Trung ương Trùng Khánh thành lập Ban Huấn luyện Cán bộ Hành chính Đài Loan. Đến tháng 4 năm 1945, danh sách cán bộ được huấn luyện hơn 30 người, sau này họ về Đài Loan phần lớn đều thành cán bộ lãnh đạo từ trung cấp trở lên.
Tháng 7 năm 1945, ba nước Trung, Mỹ, Anh (sau thêm Liên Xô) ký Thông cáo Potsdam buộc Nhật phải đầu hàng vô điều kiện. Trong đó, Điều 8 nhắc lại việc phải làm ở Tuyên bố Cairo về chủ quyền của Nhật hạn chế trong Honshū, Hokkaido, Kyushu, Shikoku và Kure.
Ngày 15 tháng 8, Nhật tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Ngày 29 tháng 8, chính quyền Quốc dân đảng tuyên bố cử Trần Nghị làm Tỉnh trưởng Đài Loan kiêm Tư lệnh Cảnh sát. Ngày 1 tháng 9, khánh thành Dinh Tỉnh trưởng; cùng ngày công bố Đại cương pháp lệnh tổ chức Dinh Tỉnh trưởng.
Ngày 2 tháng 9, Nhật ký Điều khoản Nhật đầu hàng trong đó quy định Chính phủ Nhật chịu trách nhiệm thi hành trung thực Thông cáo Potsdam.
Ngày 5 tháng 10, Chánh Văn phòng Dinh Tỉnh trưởng Đài Loan kiêm Chủ nhiệm Sở chỉ huy Bộ Tư lệnh Cảnh sát là Cát Kính Ân dẫn 80 người dưới trướng bay đến Đài Loan tiến hành nghi thức tiếp nhận đầu hàng và phát biểu Thư gửi đồng bào Đài Loan.
Ngày 17 tháng 10, quân đội Quốc dân đảng đổ bộ lên Cơ Long, được dân chúng nhiệt liệt đón tiếp. Tiếp đó, quân đổ bộ đi xe lửa tiến vào Đài Bắc, 300 nghìn dân đứng chật hai bên đường hoan hô và hát vang bài Hoan nghênh Quốc quân ca. Lời bài hát: “Đài Loan từ nay thanh bình, ngẩng trông những ngày nắng, ha ha! Nơi nơi hoan nghênh, nơi nơi ca vang, sáu triệu dân cùng vui bày cỗ để đón mừng.”
Ngày 25 tháng 10, Trung Quốc chiến khu thuộc tỉnh Đài Loan đại diện quân đồng minh làm lễ tiếp nhận đầu hàng tại hội trường thành phố Đài Bắc (sau gọi là Trung Sơn Đường). Sau buổi lễ, Trần Nghị đại diện Chính phủ Trung Quốc tuyên cáo: “Từ hôm nay trở đi, các đảo thuộc Đài Loan và Bành Hồ chính thức tái sáp nhập vào bản đồ Trung Quốc. Tất cả đất đai, nhân dân, chính sự đều nằm dưới chủ quyền của Trung Quốc.”
Hôm sau, hàng nghìn học sinh và nhân dân Đài Bắc mít tinh tuần hành quanh thành phố, chúc mừng Đài Loan về với Tổ quốc. Toàn tỉnh đâu đâu cũng treo đèn kết hoa, đốt pháo rầm trời. Rất nhiều nhà còn làm lễ tổ, cùng nhau rơi lệ báo tin vui với trời đất. Cảnh tượng náo nhiệt xúc động lòng người diễn ra thâu đêm suốt sáng, kéo dài mấy ngày liền.
Hồi đó, vì sự phong tỏa của bọn thống trị Nhật nên tuyệt đại đa số đồng bào Đài Loan không hiểu rõ
cuộc đấu tranh Quốc – Cộng, cũng không biết đến những đóng góp trong chiến tranh chống Nhật của những người Cộng sản. Họ coi Quốc dân đảng là: “Người kế tục Tôn Trung Sơn; là các anh hùng chống Nhật; là công thần giành lại đất đã mất”. Họ đâu biết rằng Quốc dân đảng khi đó đã mất đi tinh thần hy sinh cho cách mạng mà La Phúc Tinh là tiêu biểu. Đảng này sẽ đem đến cho đồng bào Đài Loan không phải cảnh tượng thanh bình “ngẩng trông những ngày nắng”, mà là công khai phân biệt đối xử, cướp bóc tham lam, quản chế một cách tàn khốc với lưỡi đao đồ tể đẫm máu.
II. CHÍNH SÁCH “CƯỚP THU” VÀ CUỘC KHỞI NGHĨA “28-2”
Sau khi Quốc dân đảng đến Đài Loan, họ đã thực hiện hàng loạt “chế độ Nhật không Nhật”.
Trong Đại Lục, các tỉnh thuộc Quốc dân đảng đều đặt chính quyền tỉnh. Về hình thức có phân chia thành quân chính và dân chính. Còn ở Đài Loan không đặt chính quyền tỉnh mà lập Dinh Tỉnh trưởng. Tỉnh trưởng thâu tóm ba quyền: Hành chính, Lập pháp, Tư pháp, lại kiêm Tư lệnh Cảnh sát tỉnh. Có nghĩa là y hệt chế độ Tổng đốc của Nhật cai trị Đài Loan; chẳng qua chỉ thay tên Tổng đốc thành Tỉnh trưởng mà thôi.
Tháng 1 năm 1946, Quốc dân đảng làm lễ tuyên thệ đăng ký công dân ở Đài Loan. Tiếp theo căn cứ trình tự thôn xóm, làng xã, huyện thị, tỉnh lần lượt xây dựng cơ cấu dân ý; đến tháng 5 đã thành lập được Nghị viện lâm thời toàn tỉnh. Các nhân sĩ lớp trên của Đài Loan như Lâm Hiến Đường, Hứa Bính, Cô Chấn Phố đều được mời làm Nghị sĩ. Thành viên các cấp dân ý hầu hết đều do nhà cầm quyền mời hoặc chỉ định, không thông qua tuyển cử. Chức năng chỉ làm tư vấn cho nhà cầm quyền, không hề có quyền lập pháp, quyền chất vấn, quyền tuyển cử như vốn có ở các cơ cấu dân ý thông thường. Tương tự như thời kỳ Nhật chiếm đóng, để lung lạc lòng dân chúng, Quốc dân đảng cũng thành lập “Chế độ tự trị địa phương” và các “Ủy ban bình nghị”, “Ủy ban hiệp nghị”…
Quốc dân đảng cho rằng người Đài Loan bị Nhật nô dịch quá sâu sắc, lại không biết Trung văn nên không được làm quan. Dinh Tỉnh trưởng có chín phòng, trong số 18 chánh, phó trưởng phòng chỉ có hai người là người Đài Loan. Các Thị trưởng, Huyện trưởng phần lớn đều thuộc cái gọi là “Bán sơn”. Người Đài Loan vì thấy Trung Quốc có “Đường Sơn” nên gọi người ở Đại Lục là A Sơn, gọi người gốc Đài Loan là A Hải. Người gốc Đài Loan từng đi học hoặc công tác ở Đại Lục trở về Đài Loan được gọi là “Bán sơn”. Các cơ sở tài chính, tiền tệ, các xí nghiệp lớn và vừa đều do người ở Đại Lục nắm quyền.
Về mặt đãi ngộ kinh tế, nếu người Đại Lục và người gốc Đài Loan cùng làm một loại công việc thì bao giờ người Đại Lục cũng được trả công cao gấp nhiều lần người gốc Đài Loan. Ngoài ra, họ còn được hưởng các khoản phụ cấp khác mà người gốc Đài Loan không được hưởng.
Đồng thời Quốc dân đảng cử nhiều đặc vụ đến Đài Loan, trong đó có nhiều người nguyên gốc Đài Loan thuộc “Quân thống” như Lâm Đỉnh Lập, Hầu Triều Tôn (sau đổi là Lưu Khởi Quang), Vương Dân Ninh, Tô Thiệu Văn… Những đặc vụ này phối hợp với lũ nanh vuốt gốc Đài Loan trước kia được đặc vụ Nhật thuê dùng, tiếp nhận thêm một số mới làm thành một mạng lưới lớn rất nghiêm mật, chụp lên đầu dân Đài Loan.
Với thể chế chính trị phát xít như vậy, tất nhiên khiến cho dân chúng Đài Loan rất bất mãn. Bọn tai to mặt lớn của Quốc dân đảng biến tiếp thu thành “cướp thu”. Ngọn gió độc trong quan trường ngày càng
thổi mạnh và tình hình kinh tế xấu đi càng làm cho dân chúng Đài Loan không thể chịu đựng được nữa.
Từ tháng 10 năm 1945 đến tháng 2 năm 1947. Quốc dân đảng tiếp thu tài sản cơ quan, tài sản xí nghiệp, tài sản cá nhân của Nhật có tới 11 tỷ Đài tệ cũ. Từ tháng 7 năm 1946, bắt đầu tiếp thu các xí nghiệp của Nhật và Nhật – Đài Loan hợp tác bao gồm các công ty lũng đoạn thuộc các ngành mía đường, nhôm, kiềm, điện, dầu mỏ và hóa dược, tổng cộng hơn 860 nhà, chiếm trên 80% tổng kim ngạch công nghiệp toàn tỉnh. Các cơ sở tài chính loại vừa trở lên đều rơi vào tay Quốc dân đảng, như Ngân hàng Đài Loan, Ngân hàng Dự trữ Đài Loan (sau tiếp thu, nhập vào Ngân hàng Đài Loan) Ngân hàng Công thương Đài Loan (sau đổi thành Ngân hàng Thương nghiệp thứ nhất Đài Loan) Ngân hàng Hoa Nam, Ngân hàng Khuyến nghiệp Nhật chi nhánh Đài Loan (sau đổi thành Ngân hàng Ruộng đất Đài Loan), Ngân hàng Tam Hòa chi nhánh Đài Loan (sau đổi thành Kho bạc Hợp tác Đài Loan). Kho bạc sản nghiệp Đài Loan (sau đổi thành Kho bạc hợp tác Đài Loan) Công ty Cổ phần dự trữ Hiệp hội Đài Loan… tất cả đều do các quan chức nắm giữ hoặc lấy danh nghĩa quân dân hợp tác. Ngoài ra Quốc dân đảng còn tiếp thu 30% nhà cửa ở thành phố và chiếm trên 20% diện tích ruộng đất canh tác của toàn tỉnh.
Những xí nghiệp, ngân hàng, nhà cửa và ruộng đất phần lớn do bọn xâm lược Nhật cưỡng đoạt dã man từ tay đồng bào Đài Loan. Nếu Quốc dân đảng trả lại một phần cho chủ cũ, khả dĩ còn có lợi cho việc củng cố nền thống trị của họ. Nhưng bọn tai to mặt lớn đến tiếp thu, kiêu ngạo, điên cuồng, vơ vét không kiêng nể gì hết, đâu có cho nhân dân Đài Loan chia sẻ “thành quả thắng lợi”. Kết quả là Quốc dân đảng cứ theo danh sách mà thu tất, người Đài Loan chẳng tơ hào chút gì. Như vậy là Quốc dân đảng đã thay thế Nhật, nắm lấy yết hầu kinh tế của Đài Loan, làm cho nhân dân Đài Loan bất mãn, gây mầm biến loạn sau này.
Nếu Quốc dân đảng kinh doanh tốt số tài sản tiếp thu của Nhật, khiến nền kinh tế khôi phục và phát triển, sự bất mãn của đồng bào Đài Loan có thể sẽ dần dần nguôi đi. Nhưng, các quan chức của Quốc dân đảng được phái đến Đài Loan, đương nhiên cũng có những người thanh liêm, nhưng lũ tham ô lộng hành dùng quyền mưu tư lợi thì nhiều vô kể. Như Cục trưởng Cục độc quyền Nhiệm Duy Quân, báo chí lên án một cách có căn cứ, đã tham ô hơn năm triệu Đài tệ. Giám đốc Tổng Công ty Hữu hạn ngành Giấy của tỉnh là Lý Trác Chi đã bán rẻ máy móc trị giá đến hàng chục triệu Đài tệ, rồi ngầm cho người nhà mua lại với giá 400 nghìn Đài tệ. Sau Lý Trác Chi được điều về Đài Bắc làm Cục trưởng Cục độc quyền. Người kế nhiệm phát hiện việc đó đã đòi Lý bàn giao, Lý hối lộ 50 nghìn Đài tệ, người này không chịu đã đem tiền hối lộ và đơn tố cáo trình lên cấp trên. Vì bố vợ của Lý Trác Chi là Cát Kinh Ân, Chánh Văn phòng Dinh Tỉnh trưởng, nên kết quả vụ án bị lờ đi.
Cục trưởng Mậu dịch Đài Loan là Vu Văn Khê bị đoàn thanh tra Trung ương Quốc dân đảng kết tội tham ô đưa ra toà, nhưng “có tiền mua tiên cũng được” chẳng bao lâu đã ra khỏi nhà giam. Lại như Huyện trưởng Đài Bắc, Lục Quế Thương, bị tố cáo tham ô 640 nghìn Đài tệ, hai bên đưa ra các chứng cứ trên báo chí gây ầm ĩ trong cả nước. Những vụ trên chỉ là vài ví dụ tương đối lớn, báo chí thời đó tiết lộ những vụ ăn cắp của công và tham ô còn nhiều vô kể. Những vụ không bị tiết lộ còn không biết bao nhiêu.
Vì bọn quan lại ngu dốt, tham ô hoành hành, nên các xí nghiệp “Quốc doanh” hoặc phá sản hoặc giảm sản, không một xí nghiệp nào đạt mức thời kỳ Nhật chiếm đóng. Những xí nghiệp tiếp thu từ Nhật đó đều là xí nghiệp độc quyền, mức sản xuất giảm đã trực tiếp ảnh hưởng xấu đến tình hình kinh tế.
Các xí nghiệp quan doanh đã nát bét, các xí nghiệp dân doanh cũng lâm vào tình thế khốn quẫn, sau khi Quốc dân đảng đến Đài Loan, họ thực hiện chế độ độc quyền. Thuốc lá, rượu, băng phiến, muối, diêm tất cả đều do Cục Độc quyền của Chính phủ bán ra, thậm chí đến cả bút lông, văn phòng phẩm, sách giáo khoa đều do hiệu sách Đài Loan thuộc Sở Giáo dục tỉnh chiếm độc quyền. Các cơ quan đoàn thể, các trường học nếu không mua văn phòng phẩm, sách vở của hiệu sách đó, kế toán tài vụ sẽ không thanh toán.
Đối với ngành in cũng vậy, các cơ quan đoàn thể, trường học muốn in gì nếu không đến in ở Công ty In ấn Đài Loan thuộc Sở Công khoán thì kế toán cũng không thanh toán. Ngoài ra còn có Cục Mậu dịch, Cục Cung tiêu, Ủy ban Tiết kiệm Nhiêu liệu… thu mua mía đường, giấy, xà phòng, than… tất cả các nhu yếu phẩm một cách cưỡng bức, giá chỉ bằng 1/10 so với giá bán ngoài chợ của vật phẩm cùng loại ở Đại Lục. Thí dụ, giá thu mua than 500 Đài tệ/tấn, tương đương 17.500 Pháp tệ (tiền sử dụng ở Đại Lục), trong khi ở Đại Lục giá là 100 nghìn Pháp tệ. Các cơ sở của Cục mậu dịch lợi dụng sự chênh lệch đó, mua rẻ vật tư của Đài Loan ồ ạt chở về Đại Lục kiếm lợi. Để giữ được sự độc quyền, tất cả hàng hóa xuất nhập khẩu vào Đảo đều do các cơ sở trên lũng đoạn, các xí nghiệp dân doanh không được phép kinh doanh.
Chế độ độc quyền như vậy đã bóp nghẹt tự do kinh doanh của các xí nghiệp dân doanh, khiến hàng loạt xí nghiệp phá sản, các cửa hàng đóng cửa, gây ra mâu thuẫn sâu sắc giữa dân chúng Đài Loan và chính quyền Quốc dân đảng.
Đến cuối năm 1946, đã có đến 90% các nhà máy quan doanh và dân doanh đình công. Tính cả năm, lượng điện phát ra chỉ bằng 1/5 thời kỳ Nhật chiếm đóng. Sản lượng đường mía xuống dưới 100 nghìn tấn, thấp hơn 1/16 thời kỳ Nhật chiếm, sản lượng than và các sản phẩm truyền thông như đồ hộp phong lê đều không đạt tỷ lệ 1/6 thời Nhật chiếm đóng.
Do nhà máy đóng cửa hoặc không đủ việc làm, công nhân thất nghiệp hàng loạt. Theo thống kê tháng 11 năm 1956, lao động thất nghiệp ở Đài Loan lên đến 800 nghìn người, chiếm trên 10% nhân khẩu toàn Đảo.
Cùng thời kỳ, do ảnh hưởng của lạm phát trong Đại Lục, Đài Loan cũng phát sinh lạm phát. Khi Nhật đầu hàng tháng 8 năm 1945, lượng Đài tệ phát hành hàng tháng của Ngân hàng Đài Loan là 1,5 tỷ, đến cuối năm 1946, sau tiếp thu, phát hành tới 2,2 tỷ, đến tháng 2 năm 1947 lên tới hơn 64,18 tỷ, hầu như
bằng tổng số phát hành của 50 năm thời Nhật chiếm đóng. Phần lớn tiền mặt được đưa ra thị trường khiến giá cả tăng vọt theo ngày. Theo thống kê, giá bán buôn 50 mặt hàng ở Đài Bắc năm 1946 tăng 260% so với năm 1945; năm 1947 tăng 360% so với năm 1946. Con số này thấp hơn rất nhiều so với thực tế, mà cũng chỉ đối với 50 mặt hàng được thống kê lấy số trung bình. Những mặt hàng thiết yếu đối với cuộc sống như gạo, đường có biên độ tăng còn vượt con số trung bình rất xa. Giá trị trung bình của giá tiêu thụ thực tế cũng cao hơn giá trung bình bán buôn.
Chỉ lấy mức của số thống kê trên đây, đến năm 1947, vật giá cũng đã tăng năm lần. Nhưng so với con số lạm phát trong Đại Lục cũng chỉ là con kiến so với con voi. Khi đó tỷ giá hối đoái cố định giữa Đài tệ và Pháp tệ là 1 Đài tệ ăn 30 Pháp tệ, vì vậy bọn tham quan ô lại, bọn gian thương và bọn chợ đen bằng mọi luồng đem Pháp tệ như vận chuyển giấy lộn đưa vào đổi lấy Đài tệ, mua vét vật tư đem về Đại Lục bán giá cao, khiến cho hàng hóa ở Đài Loan càng khan hiếm đến nỗi Đài Loan vốn sản xuất nhiều gạo, đến lúc đó chợ đen cũng không còn gạo. Nhân dân không có gạo ăn, nhiều nhà đã phải ăn
khoai sắn qua ngày.
Vậy mà nhà cầm quyền Quốc dân đảng vẫn chưa thỏa mãn, còn đánh vào đồng bào Đài Loan đủ loại thuế. Thu thuế lần đầu, số tiền thuế đã vượt quá 88 lần cùng kỳ thời Nhật chiếm đóng. Nhân dân than oán đầy đường.
Một bài ca dao thời đó đã so sánh Đài Loan trước và sau Nhật đầu hàng: “Oanh tạc kinh trời động đất, chính trị đen trời tối đất, nhân dân kêu trời gào đất”. Sự phẫn nộ của đồng bào Đài Loan giống như nham thạch sắp phun trên miệng núi lửa, chỉ hơi chấn động là phụt ra.
Chiều ngày 27 tháng 2 năm 1947, hải quan và cảnh sát vũ trang của Cục Độc quyền Đài Bắc hành hung giữa đường, đánh đập dã man một phụ nữ bán “thuốc lá tư” đến chết, khiến nhân dân phẫn nộ; cảnh sát hải quan lại xả súng bắn vào những người đứng xem khiến nhân dân không thể chịu nổi.
Ngày 28 tháng 2, toàn Đài Bắc bãi công, bãi khóa, bãi thị, dân chúng xuống đường biểu tình thị uy, hô vang: “Đả đảo Cục Độc quyền của thương điếm Trần Nghị”, “Đả đảo Cục Mậu dịch”, “Thực hiện cao độ Đài Loan tự trị”. Dần dần, lòng căm tức không kìm hãm được, đoàn biểu tình chuyển thành hành động bạo lực. Quần chúng xông vào Cục Cảnh sát, cướp súng tự vũ trang, đốt Cục Độc quyền, bao vây Dinh Tỉnh trưởng, Quân cảnh Quốc dân đảng bắn súng trấn áp, tình hình càng ác liệt. Quần chúng căm tức chiếm Đài phát thanh, hô hào nhân dân toàn tỉnh vùng lên chống lại chính quyền tàn bạo của Quốc dân đảng. Quần chúng đông đảo ở mọi nơi trên đảo Đài Loan rầm rộ hưởng ứng. Phong trào đấu tranh nhanh chóng lan rộng toàn tỉnh. Nhiều nơi tổ chức các đội vũ trang lấy công nhân, nông dân, thanh niên và học sinh làm nòng cốt, đánh vào các trại lính, căn cứ quân sự, kho tàng, sân bay của Tưởng; chiếm trụ sở huyện thị, đập phá Đảng bộ Quốc dân đảng, bắt và trừng trị lũ ác ôn đặc vụ. Trong mấy ngày, toàn tỉnh trừ hai căn cứ quan trọng là Cơ Long, Cao Hùng và một vài đơn vị nhỏ lẻ khác, đều do nhân dân khởi nghĩa nắm giữ.
Trong cuộc đấu tranh, nhân dân thành lập các Ủy ban xử lý sự kiện 28-2, nêu ra “42 Điều cải cách”, bao gồm yêu sách tỉnh tự trị, bảo đảm các quyền lợi cơ bản của nhân dân, thủ tiêu Cục Mậu dịch và chế độ độc quyền, phế bỏ các loại thuế vô lý, tài sản tiếp thu của Nhật do chính quyền tỉnh tự xử lý… Những yêu cầu này đều hợp lý, nhưng trà trộn vào đội ngũ quân khởi nghĩa còn có bọn gián điệp Nhật và những nhân sĩ lớp trên của Đài Loan có dụng ý khác xúi giục, nên trong “42 điều” cũng có những nội dung sai lầm, chẳng hạn quá nhấn mạnh tỷ lệ người bản địa trong vấn đề nhân sự, yêu cầu phóng thích vô điều kiện các tội phạm chiến tranh và bọn tình nghi là Hán gian người bản địa… Quần chúng khởi nghĩa cũng biểu hiện mạnh tinh thần bài ngoại, thậm chí không phân biệt trắng đen, đánh đập người từ Đại Lục.
Sau một tuần lễ, viện binh của Quốc dân đảng lần lượt tới, bắt đầu cuộc tàn sát đẫm máu đối với quân khởi nghĩa. Tiếng súng giết người liên tục nổ trong hơn nửa tháng trời. Những người lãnh đạo vốn là Đảng viên Đảng cộng sản Đài Loan rất năng động trong cuộc khởi nghĩa như Tạ Tuyết Hồng, Vương Vạn Đắc... đều buộc phải trốn khỏi Đài Loan. Rất nhiều nhân sĩ dân chủ nổi tiếng như Vương Thiêm Đăng, Lâm Mậu Sinh, Lâm Liên Tôn, Trương Thất Lang, Diệp Thu Mộc đều bị giết hại. Còn nhiều nhân sĩ nổi tiếng khác như Quách Quốc Cơ, Lâm Nhật Cao, Lâm Tôn Hiền đều bị bắt. Số người bị hại lần này đích xác là bao nhiêu không có căn cứ để xác minh, nhưng con số bị bắt cũng phải hàng nghìn, bị giết cũng phải con số mười nghìn, đó là điều không phải nghi ngờ gì.
Qua lần này, thế lực địa phương Đài Loan bị tổn thương nặng, không còn đủ sức khiêu chiến với Quốc dân đảng. Nhưng đối với Quốc dân đảng, dân chúng Đài Loan trước vẫn có ấn tượng tốt đẹp với Hội Trung hưng từ nay trở đi vỡ mộng hoàn toàn. Tận đáy lòng đồng bào Đài Loan ghi sâu mối hận thù, đó là nhân tố bên trong lớn nhất đe dọa nền thống trị của Quốc dân đảng.
Để trấn an đồng bào Đài Loan, Quốc dân đảng cử Bạch Sùng Hi và Tưởng Kinh Quốc đến Đài Loan “vỗ về”. Bạch Sùng Hi tuyên bố bốn nguyên tắc xử lý sự kiện này:
(I) Điều chỉnh chế độ chính trị địa phương. Có hai biện pháp:
1. Thay chế độ Dinh Tỉnh trưởng thành Ủy ban tỉnh. Tổ chức giống các tỉnh, nhưng tùy nhu cầu thực tế mà lập thêm Ty, Vụ hoặc Cục.
2. Tuyển cử cấp huyện, thị trước kỳ hạn. Ngày và phương pháp do Nghị viện Đài Loan đề ra, trình lên Bộ Nội chính duyệt cho thi hành.
(II) Điều chỉnh nhân sự địa phương. Có ba biện pháp:
1. Tư lệnh Cảnh sát không để Chủ tịch tỉnh kiêm nhiệm.
2. Nghị sĩ tỉnh trên nguyên tắc cố gắng bầu người bản địa.
3. Cùng chức vụ hoặc cùng bậc quan chức, không phân biệt người gốc ở đâu đều đãi ngộ như nhau. (III) Chính sách kinh tế. Có hai biện pháp:
1. Hết sức thu hẹp phạm vi công doanh trong công nghiệp dân sinh.
2. Chế độ kinh tế Dinh Tỉnh trưởng và các chính sách hiện hành trái với pháp lệnh Nhà nước ban hành cần phải sửa chữa hoặc bãi bỏ.
(IV) Khôi phục trật tự ở địa phương. Có hai biện pháp:
1. Các cấp “Ủy ban xử lý sự kiện 28-2” và các tổ chức lâm thời tương tự, phải tự động giải tán ngay.
2. Những nhân viên tham dự hoặc có liên quan vào vụ biến lần này trừ Đảng cộng sản xúi giục bạo động ra, nhất loạt đều được khoan hồng miễn tội.
Những biện pháp trên đây đã chứng tỏ trước sự đấu tranh anh hùng của đồng bào Đài Loan, Quốc dân đảng không thể không nhượng bộ. Hơn nữa những nhượng bộ như tuyển cử huyện, thị trước kỳ hạn, thu hẹp phạm vi công doanh trong công nghiệp dân sinh... đã ảnh hưởng sâu xa đến sự phát triển chính trị
và kinh tế của Đài Loan sau này. Từ góc độ này mà xét, máu của những nạn nhân vụ “28-2” đổ ra không phải là vô ích.
Nhưng vì khởi nghĩa “28-2” tạo ra sự đối lập giữ người Đại Lục và người gốc Đài Loan nên những biện pháp an ủi này, không thể thủ tiêu được sự đối lập đó. Sau khi Quốc dân đảng lui về bám giữ Đài Loan, đã tìm mọi cách để xoa dịu vết thương này, nhưng đều không mang lại hiệu quả: 45 năm nay, mâu thuẫn giữa người gốc Đại Lục và người gốc Đài Loan. Những phần tử đòi độc lập cho Đài Loan vẫn luôn muốn lặp lại món nợ “28-2”, kích động nhân dân Đài Loan tâm lý bài ngoại.
III. PHƯƠNG CHÂM CAI TRỊ ĐÀI LOAN “MƯU CẦU PHỒN VINH TRONG YÊN ỔN”
Sau khởi nghĩa “28-2”, Quốc dân đảng nêu phương châm cai trị Đài Loan: “Mưu cầu phồn vinh trong yên ổn”, xóa bỏ Dinh Tỉnh trưởng. Tháng 5 năm 1947, thành lập Ủy ban tỉnh do Ngụy Đạo Minh làm Chủ tịch tỉnh khóa đầu tiên.
Ngày 15 tháng 5, Ngụy Đạo Minh nhậm chức. Ngày 16, ông tuyên bố bãi bỏ Lệnh giới nghiêm, kết thúc tra xét làng xóm, ngừng kiểm tra tin tức sách báo, bưu điện. Ngày 23, đổi Cục Độc quyền vốn bị nhân dân Đài Loan căm ghét thành Cục Công mại. Trừ chính sách độc quyền đối với thuốc lá và rượu, long
não được đưa ra khỏi phạm vi độc quyền. Ngành Diêm cũng cho phép dân doanh. Cùng ngày Ngụy Đạo Minh phát biểu trên Đài phát thanh động viên tự do buôn bán. Hiện tượng độc quyền quái gở đối với văn phòng phẩm và ngành in kết thúc từ ngày đó.
Ngày 30 tháng 5, Ủy ban tỉnh tiếp thu yêu cầu của đồng bào Đài Loan triệt bỏ Cục Mậu dịch, chuyển thành Ủy ban điều tiết vật tư, nhiệm vụ chính là cân đối cung cầu trong tỉnh, không mưu cầu thu lợi về tài chính, có khi Ủy ban điều tiết vật tư còn mua những sản phẩm ở Đại Lục với giá đắt mà ở Đài Loan thiếu hụt, bán với giá thấp hơn cho đồng bào để bảo đảm ổn định kinh tế và cân bằng vật giá. Điều này hoàn toàn khác với Cục Mậu dịch trước kia, chuyên vơ vét sản phẩm của Đài Loan đưa về Đại Lục kiếm lợi một cách tàn bạo.
Tháng 2 năm 1948, Ủy ban tỉnh Đài Loan lại tuyên bố bãi bỏ chế độ bao tiêu trong ngành than, sau đó cho phép dân doanh đối với ngành than.
Vào khoảng thời gian đó, chính quyền không ngừng kiểm tra chứng minh thư công dân trong toàn tỉnh, tăng cường quản lý thị trường, chống buôn lậu ngoài cảng. Từ ngày 1 tháng 3 năm 1948 trở đi, Ủy ban tỉnh ra lệnh “đăng ký khách xuất nhập cảnh” quy định khách ra vào trong một thời hạn nhất định phải đăng ký tại Cục Cảnh sát Đài Loan. Áp dụng biện pháp này, một mặt để lùng bắt những người Cộng sản, ngăn chặn những người Cộng sản lọt vào Đài Loan, mặt khác đánh vào bọn đầu cơ trục lợi, bảo đảm ổn định thị trường Đài Loan.
Để giảm bớt sự căng thẳng về lương thực trong Đảo, Ủy ban tỉnh ban bố “Quy chế giá lương thực hạ” như sau: “Nhà cầm quyền quy định mức tiêu chuẩn lương thực cho mỗi hộ dân. Trong mức đó, các nhà cung ứng phải bán theo giá hạ, nếu có lương thực mà không bán hoặc không bán đủ mức đã nâng giá, đều coi là phạm pháp. Quy chế này, bị địa chủ lớn và các nhà buôn lương thực phản đối kịch liệt.
Đài Loan là nơi sản xuất lương thực nổi tiếng, sở dĩ có hiện tượng thiếu lương thực trên thị trường chủ yếu do bọn gian thương cấu kết với bọn quan lại mua vét, tích trữ, đưa về Đại Lục khiến cho giá lương thực tăng cao quá đáng. Sau khi thực hiện “Quy chế giá lương thực hạ”, nhà cầm quyền càng kiểm tra nghiêm ngặt hơn ở ngoài cảng, khiến cho lương thực không dễ dàng xuất ra khỏi Đảo. Lương thực tích trữ lâu, đọng vốn, lại có thể vào tù, do đó phải tung ra. Lương thực là loại hàng nhu cầu co dãn ít, khi người dân mua đủ tiêu chuẩn, dù không đủ ăn cũng không cố tình mua thêm lương thực ngoài tiêu chuẩn với giá cao, vì vậy giá lương thực ngoài tiêu chuẩn cũng bị ép hạ xuống và tình hình cung ứng lương thực được cải thiện.
Cái gọi là “giá lương thực hạ” không có nghĩa là giá không thay đổi. Sự thực giá lương thực ở Đài Loan từ 1948 đến 1949 tăng gần 40 lần. Điều này không thể tránh được trong tình hình lạm phát khủng
khiếp ở vùng Quốc dân đảng thống trị trong những năm đó. Nhưng nhìn chung, thị trường Đài Loan còn chưa bị thả nổi, chính quyền vẫn còn thông qua biện pháp tăng lương để thu phục lòng dân. Không như ở Đại Lục trong vùng Quốc dân đảng, ví dụ như Thượng Hải, vật giá như ngựa tháo cương, tốc độ tăng vọt theo con số thiên văn, thị trường hoàn toàn thả nổi, toàn bộ nền kinh tế bị tan rã triệt để.
Về mặt chống lạm phát, Ngụy Đạo Minh hơn hẳn Trần Nghị một chủ bài, đó là đặc quyền điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Dưới thời Trần Nghị, tỷ giá giữa Đài tệ và Pháp tệ được giữ cố định, cho đến khi ông ta thôi giữ chức, tỷ giá đó vẫn là 1 Đài tệ ăn 35 Pháp tệ. Ngụy Đạo Minh lên nắm quyền, Viện Hành chính Quốc dân đảng cho phép Ủy ban tỉnh Đài Loan được quyền tự ý điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Tính đến tháng 12 năm 1947, tỉnh đã chín lần điều chỉnh tỷ giá. Từ ngày 13 tháng 1 năm 1948, Đài tệ so với Pháp tệ ngày càng có giá. Đến ngày 18 tháng 8 năm 1948, 1 Đài tệ ăn 1.635 Pháp tệ, tăng gần 47 lần.
Ngày 19 tháng 8 năm 1948, Quốc dân đảng cải cách tiền tệ. Dùng Kim viên khoán thay cho Pháp tệ. Một Kim viên khoán ăn 3 triệu Pháp tệ. Đồng thời tuyên bố Đài tệ vẫn giữ nguyên. Một Kim viên khoán ăn 1.835 Đài tệ (tính theo tỷ giá 1 Đài tệ ăn 1.635 Pháp tệ). Tỷ giá này do Viện Hành chính phê duyệt và không được thay đổi. Có nghĩa là thu hồi quyền điều chỉnh tỷ giá của Ủy ban tỉnh Đài Loan nhằm mục đích thống nhất chế độ tiền tệ.
Khi Kim viên khoán mới phát hành, còn tương đối có uy tín. Tưởng Kinh Quốc trấn giữ Thượng Hải, lấy nghiêm hình cưỡng chế vật giá ở mức ngày 19 tháng 8, khiến cho mọi người nhầm tưởng thị trường ổn định. Theo nhà cầm quyền quy định mọi người nô nức đem vàng, bạc, ngoại tệ đổi lấy Kim viên khoán. Ngân hàng Trung ương Thượng Hải sau cải cách tiền tệ một tháng đã thu đổi được tổng số vàng bạc, ngoại tệ tương đương với 373 triệu đô-la. Đài tệ tạm thời không bị ảnh hưởng.
Nhưng Tưởng Kinh Quốc dựa vào một biện pháp phi kinh tế để quản lý kinh tế, tất nhiên không thể có hiệu quả lâu dài, vì sản xuất sa sút, có xuất không có nhập, hơn nữa vì phát hành tiền mới, tiền trôi nổi tràn ngập, trở thành sức ép cho vật giá và vật giá tăng vọt là điều không thể tránh khỏi, Tưởng Kinh Quốc tử thủ trận tuyến “19-8”, thương nhân lại đầu cơ tích trữ, tạo thành một thị trường vắng ngắt, có giá không có hàng. Đến ngày 3 tháng 10, Thượng Hải xuất hiện ngọn gió tranh mua, chân tường thành của Tưởng Kinh Quốc dần dần sụt lở và ngọn gió tăng giá lại thổi mạnh. Vì Tưởng Kinh Quốc ở Thượng Hải nên phần lớn tiền trôi nổi ập vào Đài Loan khiến cho giá cả tăng vọt. Ngày 23 tháng 10, Ủy ban tỉnh Đài Loan tuyên bố: (1) Ngừng chuyển đổi thương nghiệp Lô – Đài; (2) Cấm xuất khẩu lương thực, đường, dầu ăn, bông vải, bông sợi và các mặt hàng dệt; (3) Tăng cường cảnh sát kinh tế ở cảng, đánh vào bọn đầu cơ trục lợi.
Ba điều trên là biện pháp phòng ngừa của Ngụy Đạo Minh trước tình hình kinh tế không ổn định ở Đại Lục, muốn bảo vệ sự ổn định của thị trường Đài Loan.
Ngày 31 tháng 10, Viện Hành chính Quốc dân đảng quyết định bãi bỏ chính sách hạn chế. Ngày 6 tháng 11, Tưởng Kinh Quốc gạt lệ đọcThư gửi nhân dân Thượng Hải, thừa nhận thất bại. Tưởng Giới Thạch đánh nước cuối cùng để cứu vãn sự tan rã của nền kinh tế thuộc khu vực do Quốc dân đảng cai quản: Cải cách tiền tệ, mới được hai tháng rưỡi đã phá sản.
Ngày 1 tháng 11, Viện Hành chính vừa đưa ra thông báo cải cách kinh tế, tỷ giá Đài tệ tăng vọt trong cùng ngày. Từ 1.835 ăn 1 tăng lên 1.000 ăn 1. Ngày 10 tháng 11, Viện Hành chính lại cho phép Ủy ban tỉnh Đài Loan được tự ý điều chỉ tỷ giá Đài tệ. Tiếp đó tỷ giá Đài tệ so với Kim viên khoán tăng
600:1. Đến cuối năm 1948 lên đến 222:1. Tính theo Kim viên khoán quy đổi ra Pháp tệ, tỷ giá này so với ngày Ngụy Đạo Minh lên nắm quyền đã tăng 386 lần. Nói cách khác, biên độ lạm phát của Đài tệ thấp hơn tiền ở Đại Lục là 386 lần. Điều này chứng tỏ kinh tế Đài Loan đã phải đắp một con đê ngăn làn sóng lạm phát của vùng Quốc dân đảng chiếm đóng trên Đại Lục.
Thời kỳ Ngụy Đạo Minh còn vận dụng một biện pháp quan trọng khác là tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài, chủ yếu là tư bản Mỹ vào Đài Loan.
Tháng 2 năm 1948, Chỉnh phủ Quốc dân đảng ký với Mỹ Hiệp định Trung – Mỹ cùng khai thác Đài Loan quy định hai bên cùng khai thác nguồn khoáng sản của Đài Loan. Tháng 6, đoàn điều tra kỹ thuật của Mỹ đến Đài Loan khảo sát. Cùng tháng, hai bên thỏa thuận Mỹ cung cấp cho Đài Loan 84 nghìn tấn phân hóa học trị giá tám triệu đô-la. Đài Loan trả lại cho Mỹ 5.4 triệu pound5 chè; 60 nghìn hòm phong lê đóng hộp; 2,6 triệu pound long não. Tháng 9, Mỹ tuyên bố viện trợ đợt một, đợt hai cho Trung Hoa Dân Quốc, cấp cho ngành mía đường Đài Loan một triệu đô-la, Cục Đường sắt Đài Loan 1,5 triệu đô-la, Công ty Điện lực Đài Loan 2,5 triệu đô-la. Tháng 10, phía Mỹ lại tuyên bố cấp thêm cho Công ty Điện lực Đài Loan 3,5 triệu đô-la; than đá 750 nghìn đô-la, Công ty Phân bón Ích dân Đài Loan 4 triệu đô-la, Xưởng phân bón thuộc Ủy ban đầu tư Cơ Long 1 triệu đô-la. Tổng cộng trong hai tháng 9 và 10, Mỹ đầu tư vào Đài Loan 14,25 triệu đô-la, chiếm 14,25% tổng kim ngạch viện trợ Mỹ dành cho Trung Hoa Dân Quốc đã được Quốc hội Mỹ phê chuẩn.
Mỹ dự định viện trợ cho Trung Hoa một tỷ đô-la vào việc cải tạo kỹ thuật khai thác than, cải tạo một số tuyến đường sắt Hoa Trung, Hoa Nam; một số xí nghiệp ở Thượng Hải, Quảng Châu… nhưng Đại Lục đang trong cuộc chiến, nhiều vùng giáp ranh bị quân giải phóng đến giải phóng. Nhiều đơn vị được Mỹ đồng ý viện trợ chưa nhận được tiền. Do đó, Đài Loan trở thành tỉnh duy nhất được Mỹ rót tiền vào. Về sau, Mỹ tiếp tục đem số tiền chưa viện trợ cho Đại Lục rót vào Đài Loan.
Đến cuối năm 1948, Mỹ đầu tư chủ yếu vào các ngành điện, mía đường, khoáng sản và hóa chất Đài Loan. Những nhu cầu chủ yếu của Đài Loan về phân bón, bông, ngũ kim, dầu mỏ, máy móc đều do Mỹ cung cấp. Sản phẩm chủ yếu của Đài Loan, như gạo, cũng lấy Mỹ làm thị trường chính.
Sự đầu tư ồ ạt của Mỹ vào Đài Loan đã có tác dụng kích thích nhất định trong việc khôi phục kinh tế Đài Loan. Về mặt khách quan có lợi cho việc tăng cường sản xuất, thêm nhiều ngành nghề. Vì khi ấy, rất nhiều người sùng bái Mỹ cho nên sự đầu tư của Mỹ được coi là một đảm bảo an toàn cho Đài Loan, có lợi cho việc ổn định lòng người của nhà cầm quyền Quốc dân đảng.
Đồng thời, các tập đoàn tài phiệt Mỹ đã đầu tư vào Đài Loan một khoản tiền lớn và được hưởng những lợi ích đặc biệt, nên họ không ngừng gây sức ép đối với Chính phủ Mỹ, phản đối việc Mỹ vứt bỏ chính quyền Quốc dân đảng. Đó cũng là một trong những nhân tố buộc Chính phủ Harry S. Truman phải quyết định “vũ trang ủng hộ Đài Loan”.
Tóm lại, qua vụ tàn sát đẫm máu “28-2”, tiếp theo sự xoay xở khốn khổ của Ngụy Đạo Minh, Quốc dân đảng thống trị Đài Loan tuy chưa đạt mục tiêu “phồn vinh” nhưng cũng có thể nói là đạt được sự ổn định tương đối về mặt chính trị và kinh tế. Đó cũng là điểm nổi bật của Đài Loan so với vùng Quốc dân đảng thống trị ở Đại Lục.
IV. ĐÀI LOAN TRỞ THÀNH NƠI ẨN NÁU CUỐI CÙNG CỦA QUỐC DÂN ĐẢNG
Tháng 12 năm 1948, chính quyền Nam Kinh có thay đổi lớn, phe Lưỡng Quảng nhận sự giúp đỡ của Mỹ diễn vở “hiếp vua” khiến Tưởng Giới Thạch bị ép ra rìa. Trước khi bị hạ bệ, Tưởng đã thấy trước tình hình nguy kịch, ôm hy vọng chạy ra Tây Nam để lấy lại Trung Nguyên, nhưng tự biết khó khăn trùng trùng, vả lại Tây Nam là địa bàn của phe Lưỡng Quảng, dù có giữ được Tây An, chưa chắc khu vực đó đã theo phe Tưởng. Trong khi đó Đài Loan được biển bao quanh, dễ phòng khó đánh, ưu thế hải quân và không quân của Quốc dân đảng có thể phát huy, hơn nữa lại là đường giao thông quan trọng của vùng Đông Á, có thể dễ dàng nhận viện trợ từ Nhật, Indonesia và Mỹ. Mặt khác, Đài Loan tương đối ổn định về chính trị và kinh tế, có lợi cho Quốc dân đảng tích trữ lực lượng “chờ dịp lại ra”. Bởi vậy, khi chọn cứ điểm cuối cùng lẽ đương nhiên Tưởng đã nhằm Đài Loan.
Để nắm chắc Đài Loan, ngày 30 tháng 12 năm 1948 Tưởng Giới Thạch hạ lệnh cho Trần Thành thay Ngụy Đạo Minh làm Chủ tịch tỉnh Đài Loan, Tưởng Kinh Quốc thay Khâu Niệm Đài làm Chủ tịch Đảng bộ Đài Loan. Trần Thành đang dưỡng bệnh ở Đài Loan được lệnh ngay lập tức tiến hành bàn giao với Ngụy Đạo Minh, Tưởng Kinh Quốc còn phải phò tá Tưởng Giới Thạch, chưa đến Đài Loan nhậm chức được.
Ngày 16 tháng 1 năm 1949, Tưởng Giới Thạch phong Trần Thành kiêm giữ chức Tổng tư lệnh Cảnh sát tỉnh Đài Loan. Điều này có nghĩa là thay chế độ quân dân phân ly dưới thời Ngụy Đạo Minh, trở lại chế độ quân dân hợp nhất dưới thời Trần Nghị. Chỉ khác là Trần Nghị vốn không phải là quân nhân, còn Trần Thành vốn xuất thân là lính, ông ta nhận hai nhiệm vụ, lập tức khiến cho màu sắc quân sự ở Đài Loan đậm hơn nhiều.
Cùng ngày, Tưởng Giới Thạch cho gọi Thống đốc Ngân hàng Trung ương Du Hồng Quân và Giám đốc Ngân hàng Trung Quốc Đức Mậu, lệnh cho họ biến chẵn thành lẻ, đem tài khoản ở nước ngoài chuyển hết sang tài khoản tư nhân để đề phòng bị tiếp thu.
Ngày 19 tháng 1, Tưởng Giới Thạch phong cho tay chân của Trần Thành là Phương Thiên làm Chủ tịch Giang Tây. Ngày 21, phát liền bốn lệnh điều chỉnh nhân sự ở bốn tỉnh Phúc Kiến, Quảng Đông, Nam Kinh và Tứ Xuyên giao cho cháu ruột Chu Thiệu Lương làm Chủ nhiệm Văn phòng quân sự Phúc Châu, Tiết Nhạc làm Chủ tịch tỉnh Quảng Đông, Dư Hán Mưu làm Chủ nhiệm Văn phòng quân sự Quảng Châu, Dương Ân Bá làm Tư lệnh Cảnh sát Nam Kinh. Như vậy, Tưởng Giới Thạch đã bố trí ở các tỉnh làm bình phong che chắn cho Đài Loan, đều là thân tín của mình.
Ngày 21 tháng 1, Tưởng Giới Thạch chính thức tuyên bố từ chức. Lý Tôn Nhân lên thay làm “Quyền Tổng thống”. Cùng ngày, Tưởng Giới Thạch đến Hàng Châu. Trần Thành cũng từ Đài Loan về gặp Tưởng Giới Thạch để “nhậm chức” (đáng lý phải “nhậm chức” trước Lý Tôn Nhân) Tưởng Giới Thạch làm lễ phong cho Trần Thành và Tưởng Kinh Quốc xong thì về quê ở Phụng Hóa. Trần Thành và Tưởng Kinh Quốc nhận lệnh xong chia tay nhau hành động.
Tưởng Kinh Quốc chủ yếu làm hai việc: Một là, xây dựng sân bay Định Hải, đề phòng Tùng Lô thất thủ có thể lấy Định Hải làm căn cứ, huy động không quân ứng cứu và yểm hộ cho quân của Dương Ân Bá rút về Đài Loan. Đồng thời cũng để giành thế chủ động đối với phe Lưỡng Quảng, ý đồ chiến lược của phe Lưỡng Quảng là dựa vào thế hiểm của sông Trường Giang đối đầu với Quân giải phóng, thông qua đàm phán hòa bình để tạo ra thế “Nam Bắc Triều”. Nếu hòa đàm thất bại, thế hiểm Trường Giang cũng không giữ được, sẽ vứt bỏ Thượng Hải, đem quân Tùng Lô nhanh chóng theo đường biển rút về phương Nam, dựa vào dải Đại Dữu Lĩnh, Quân Môn Lĩnh của bắc Quảng Đông và nam Giang Tây là
phòng tuyến cố thủ Quảng Đông cùng với Quảng Tây, Tứ Xuyên, Vân Nam tạo thế chia cắt hỗ trợ nhau. Nhưng Tưởng Giới Thạch không đời nào chịu để phe Lưỡng Quảng sử dụng lực lượng của cháu ruột mình. Đồng thời cũng thấy trước nếu Trường Giang thất thủ, quân đội của Quốc dân đảng khó có thể chống đỡ được Quân giải phóng Nhân dân ở Hoa Nam, nên chủ trương cố thủ Thượng Hải mong sẽ có sự can thiệp quốc tế và để có sẵn đường rút nên xây sân bay Định Hải. Về sau, quân của Dương Ân Bá rút khỏi chiến trường Tùng Lô quả nhiên được không quân Định Hải tiếp ứng và yểm hộ, đầu tiên rút về Đôn Sơn, sau đó rút về Kim Môn, Mã Tổ và Đài Loan. Việc thứ hai Tưởng Kinh Quốc phải làm là đốc thúc Thống đốc Ngân hàng Trung ương Du Hồng Quân, chuyển hết vàng, bạc, ngoại tệ về Đài Loan. Về con số của cải này, nhà văn Quốc dân đảng Trần Hiếu Uy nói là “Vàng nửa triệu lượng” người tham gia vận chuyển vàng bạc lúc đó là Chiêm Đắc Phong lại nói “80 triệu đô-la, 924 nghìn lượng vàng, tiền bạc 30 triệu” thư ký của Lý Tôn Nhân là Lương Thăng Tuấn đưa ra con số còn lớn hơn nhiều. Ông viết: Khi Nam Kinh thất thủ “kho bạc nhà nước còn 2,8 triệu lượng vàng, hơn 50 triệu đô-la, số chứng khoán có giá còn rất lớn, tổng cộng ước khoảng 200 triệu đô-la”.
Dù cho con số không thống nhất, nhưng rõ ràng đây là số tiền vàng rất lớn. Nắm được số tiền vàng này là nắm được quyền lực của Quốc dân đảng, đồng thời có ảnh hưởng to lớn đối với sự ổn định kinh tế Đài Loan. Đúng như sau này Tưởng Kinh Quốc nói: “Lúc đầu khi Chính phủ mới về Đài Loan, nếu không có số tiền này bù đắp, tình hình tài chính và kinh tế thực không biết sẽ thảm hại đến đâu”.
Số liệu hiện có cho biết Tưởng Kinh Quốc và Du Hồng Quân chuyển tiền vàng về Đài Loan không chỉ một lần. Tháng 1 năm 1949, khi Du Hồng Quân làm Thống đốc, nghe “mật lệnh” do Tưởng Kinh Quốc truyền đạt, đã chuyển đi một đợt vàng. Lý Tôn Nhân phát hiện đã cách chức Du Hồng Quân, giao cho
Bộ trưởng Tài chính Lưu Công Vân lên thay. Đến tháng 4, Tưởng Kinh Quốc đánh mật điện triệu hồi Du Hồng Quân, lúc đó đang ở Hồng Kông với sự giúp đỡ của Dương Ân Bá, lợi dụng mối quan hệ của Du Hồng Quân với Ngân hàng đem số vàng và đô-la còn trong kho bạc chuyển xuống tàu chiến chở về Đài Loan. Kết hợp với phân tích tài chính ở trên, rất có thể số vàng nửa triệu lượng Trần Hiếu Uy nói là số vàng đợt sau.
Hai hành động này đều căn cứ vào lệnh của Tưởng Giới Thạch với danh nghĩa là Tổng tài Quốc dân đảng, không cho “Quyền Tổng thống” Lý Tôn Nhân biết. Điều này là vi phạm “Hiến pháp”, vì Thống đốc Ngân hàng chỉ nghe lệnh của Tổng thống hoặc Viện trưởng Viện Hành chính, chứ không lý gì lại
nghe lệnh lãnh tụ Đảng tự tiện di chuyển tài sản ở kho bạc nhà nước đi nơi khác. Hành động lần thứ hai đến Thống đốc Ngân hàng Lưu Công Vân cũng không biết thì thật là quá đáng.
Tưởng Giới Thạch quy định: Tất cả số tiền vàng chuyển về Đài Loan đều do ông ta phê duyệt mới được xuất ra. Chẳng hạn, chi cho quân phí, Trưởng phòng Tài vụ trong Tổng bộ Hậu cần là Ngô Tung Khánh chịu trách nhiệm cá nhân trước Tưởng Giới Thạch. Mọi báo cáo chi tiêu, điều vận và phân phối đều do Ngô trực tiếp đưa cho Tưởng Giới Thạch đích thân phê duyệt. Bất kể là ai, khi vận chuyển, xuất tiền đều phải có chữ ký của Tưởng Giới Thạch mới được thi hành. Cách làm này rõ ràng là công nhiên coi thường “Hiến pháp”, khi đó Tưởng Giới Thạch đã từ chức, chỉ là một dân thường, càng không có quyền đụng đến kho bạc nhà nước. Lý Tôn Nhân mấy lần phản đối, yêu cầu Tưởng Giới Thạch trả lại, không được can thiệp vào tài chính nhà nước, nhưng Tưởng Giới Thạch đều bỏ ngoài tai.
Ngoài vàng và đô-la, phần lớn văn vật cố cung của Bảo tàng Nam Kinh cũng được chuyển về Đài Loan. Trong đó có đồ đồng, đồ sứ, đồ ngọc, đồ sơn, pha lê, văn phòng phẩm, họa phẩm... cộng 1.424
hòm. Tranh đồ họa 1.334 hòm, hiện vật lịch sử 204 hòm, tổng cộng 231.910 vật. Những văn vật này, rất nhiều thứ là báu vật vô giá của nhà nước hiếm có trên thế giới.
Cũng trong thời kỳ này. Trần Thành tuân lệnh của Tưởng Giới Thạch ra sức thành lập vương quốc độc lập Đài Loan, không hề đếm xỉa đến mệnh lệnh của Lý Tôn Nhân. Lý Tôn Nhân lấy danh nghĩa là “Quyền Tổng thống” ra lệnh cho Trần Thành phải thả ngay Trương Học Lương và cử Trình Ân Viễn đến Đài Loan thúc giục nhưng Trần Thành lấy lý do không biết trở về không. Khi đó, các báo lớn ở Nam Kinh, Thượng Hải đều đăng Trương Học Lương bị giam ở suối nước nóng Tân Trúc Đài Loan. Nghị sĩ đông bắc Mạc Đức Huệ và Nguyên Chủ tịch tỉnh Tân Cương Trương Trị Trung, đã đến thăm Trương Học Lương. Cho nên việc “Trương bị giam ở đâu” là điều “bí mật” công khai, Trần Thành không thể “không biết”, chẳng qua chỉ là chống lệnh một cách tốt đẹp, chứ căn bản là coi thường Lý Tôn Nhân. Từ đó, Lý Tôn Nhân thấy khó nhằn, không hỏi gì đến công việc của Đài Loan nữa.
Lúc bấy giờ, thu nhập tài chính của Quốc dân đảng chủ yếu dựa vào hai tỉnh Đài Loan vào Quảng Đông. Sau khi Trần Thành nắm quyền ở Đài Loan lập tức giữ lại toàn bộ thu nhập của Đài Loan, không giao nộp một xu nào. Tiếp theo, phát công văn đòi nợ Trung ương, các mục lên tới 500 nghìn lượng vàng, đòi trích trong số vàng của kho bạc chuyển đến Đài Loan. Điều này khổ cho Lý Tôn Nhân và có lợi cho ổn định kinh tế của Đài Loan.
Hôm Trần Thành nhậm chức Chủ tịch tỉnh Đài Loan, tỷ giá giữa Đài tệ vào Kim viên khoán là 222:1; đến ngày 23 tháng 5 năm 1949, trước giải phóng Thượng Hải hai ngày, tỷ giá lên đến 1:400, tăng 88.800 lần; so với ngày cải cách tiền tệ “19-8” đã tăng 734 nghìn lần.
Vì lạm phát ở Đại Lục tăng quá mức, chỉ dựa vào tỷ giá hối đoái không thể nào chống đỡ được nên ngày 4 tháng 2 năm 1949, ngân hàng Đài Loan tuyên bố ngừng chuyển khoản từ Đại Lục đến Đài Loan. Đến ngày 19 tháng 2, lại tuyên bố ngừng chuyển từ Đài Loan vào Đại Lục. Hành động này có nghĩa là cắt đứt quan hệ chuyển đổi giữa Đài tệ và Kim viên khoán, làm cho tuy vẫn có tỷ giá nhưng những người giữ Kim viên khoán không dễ đổi, do đó giữ được giá trị Đài tệ. Ngày 15 tháng 3, Trần Thành bay đến Nam Kinh yêu cầu sửa đổi cách thức ngoại thương, trước kia ngoại thương do Trung ương giữ lại chuyển đổi thành Kim viên khoán rồi mới giao lại cho Đài Loan, nay Đài Loan đòi trực tiếp làm ngoại thương, Đài tệ chuyển đổi ngoại tệ trực tiếp. Ngày 24 tháng 3, Trần Thành và Chu Thiệu Lương cùng đến gặp Tưởng Giới Thạch, được Tưởng Giới Thạch ủng hộ. Ngày 26 tháng 3, Trần Thành họp báo tuyên bố sản phẩm của Đài Loan xuất khẩu được 40 triệu đô-la, yêu cầu Trung ương dùng số tiền đó vào ngành khai khoáng của tỉnh, điều này thực tế là gây dư luận để giữ lại ngoại hối, cũng là bắt bí Lý Tôn Nhân. Dưới áp lực của Trần Thành, ngày 10 tháng 4 Lý Tôn Nhân phải “đồng ý trên nguyên tắc Đài tệ được giao dịch với đô-la”. Ngày 12 tháng 4, Trưởng ty Tài chính Đài Loan, Nghiêm Gia Kiềm, triệu tập hội nghị bí mật, thảo luận vấn đề cắt đứt quan hệ với Kim viên khoán và giao dịch với đô-la. Vì tình hình kinh tế của Đài Loan tương đối tốt so với các tỉnh khác thuộc Quốc dân đảng, lại từ Đại Lục chuyển đến một lượng tiền vàng, ngoại tệ khá lớn, làm cơ sở dự trữ vàng cho cải cách Đài tệ, nên việc giao dịch giữa Đài tệ và đô-la thực hiện được. Qua một thời gian trù bị đến ngày 15 tháng 6 năm 1949, Đài Loan chính thức cải cách tiền tệ. Đài tệ mới cắt đứt với Kim viên khoán và nối thông với đô-la Mỹ: 5 Đài tệ ăn 1 đô-la, cứ 40 nghìn Đài tệ cũ ăn 1 Đài tệ mới. Từ đó Đài Loan ngoài việc tiếp tục vận chuyển vàng bạc, văn vật và vật tư ra, trên hệ thống tiền tệ cắt đứt hắn với Đại Lục thuộc Quốc dân đảng, trở thành “một quốc gia trong quốc gia” về mặt kinh tế.
Ngoài việc đòi độc về lập kinh tế, Trần Thành còn đòi “bế quan tử thủ” về mặt nhân sự. Ông ta vừa
nhậm chức, lập tức chấp hành nghiêm ngặt biện pháp đăng ký khách xuất nhập cảnh được ban bố thời Ngụy Đạo Minh. Ngụy Đạo Minh chỉ yêu cầu khách đến đăng ký tại Cục Cảnh sát Đài Loan, còn Trần Thành cử hẳn đặc vụ đến Thượng Hải, Phúc Châu, Hạ Môn lập trạm kiểm soát ở cảng. Khách đến Đài
Loan sau khi đăng ký, được cơ quan trị an địa phương phê duyệt, còn phải được trạm kiểm soát Đài Loan kiểm tra lại. Ngày 1 tháng 3 năm 1949, Trần Thành tuyên bố thêm: “Công chức, giáo viên ngoại tỉnh và khách thường nếu không có phép của nhà cầm quyền tỉnh đều không được nhập cảnh; những người được phép nhập cảnh, cứ mười ngày phải làm thủ tục đăng ký lại ở Cục Trị an. Quy định mới này không những chỉ đề phòng Đảng cộng sản du nhập và hạn chế bọn gian thương đầu cơ tích trữ mà còn chĩa mũi nhọn vào “những công chức, giáo viên” trong Quốc dân đảng. Vì vậy nó từng bị những người lập pháp công kích mạnh, có người đề nghị Viện Lập pháp quyết nghị bảo vệ tự do đi lại quy định trong “Hiến pháp”, đưa công văn yêu cầu Đài Loan bãi bỏ chính sách vi phạm “Hiến pháp” là cấm nhập cảnh, nhưng Tưởng Giới Thạch can thiệp ở hậu trường khiến cho quyết nghị không được thông qua.
Ngày 14 tháng 3 năm 1949, Trung ương Quốc dân đảng giao quyền chỉ huy công tác chuyển các cơ quan Trung ương ra Đài Loan. Ngày 18 tháng 4, vì Tưởng Kinh Quốc phải theo cha nên không ra nhậm chức ở Đảng bộ tỉnh được, Trung ương Quốc dân đảng lại giao cho Trần Thành kiêm giữ chức Chủ tịch Đảng bộ Đài Loan. Vậy là Trần Thành nắm toàn bộ Quân, Chính, Đảng, thành người đại diện tối cao của Tưởng Giới Thạch trấn giữ Đài Loan. Ông ta tiếp tục đòi thành lập vương quốc độc lập, đối nội không ngừng tăng cường thống trị chuyên chế.
Trong hai ngày 26 và 27 tháng 2 năm 1949, Đài Loan tiến hành tổng kiểm tra hộ khẩu. Để đề phòng dân không hộ khẩu trốn tránh, trong thời gian kiểm tra toàn bộ ngành giao thông đường bộ, đường biển và hàng không, đối nội cũng như đối ngoại, đều tạm ngừng hoạt động.
Ngày 1 tháng 3, Công ty Giấy Đài Loan được lệnh ngừng cung cấp giấy cho các báo. Danh nghĩa là để in sách giáo khoa, nhưng thực tế là khiến cho đa số các tòa báo phải tự động đóng cửa, để Quốc dân đảng phong tỏa tin tức, khống chế dư luận.
Ngày 6 tháng 4, Bộ Tư lệnh Cảnh sát huy động hàng loạt Quân cảnh đột nhiên bao vây Đại học Đài Loan và Học viện Sư phạm Đài Loan, bắt giữ mấy chục học sinh hoạt động tuyên truyền dân chủ và lùng bắt nhiều nhân sĩ tiến bộ. Sử gọi là sự kiện “6-4”.
Sau khởi nghĩa “26-2”, phong trào dân chủ tiến bộ ở Đài Loan dần hồi phục, lấy học sinh Đại học Đài Loan và Học viện Sư phạm Đài Loan làm nòng cốt. Qua sự kiện “6-4”, thế lực chống đối Chính phủ trong trường cũng như ngoài xã hội bị tan rã.
Ngày 30 tháng 4, Bộ Tư lệnh Cảnh sát Đài Loan tuyên bố giới nghiêm trong toàn tỉnh từ 0 giờ ngày 20 tháng 5. Trừ ba cảng Cơ Long, Cao Hùng và Mã Công được mở dưới dự giám sát chặt chẽ của Bộ Tư lệnh Cảnh sát, tất các cảng khác đều cấm các hoạt động xuất nhập khẩu. Lệnh giới nghiêm còn quy định: (1) Hai thành phố Cơ Long và Cao Hùng bắt đầu từ ngày 20 tháng 5, hàng ngày từ 1 giờ đến 5 giờ cấm đi lại. Các thành phố khác trừ khi cần thiết, tạm thời không cấm đi lại; (2) Hai thành phố Cơ Long và Cao Hùng, các cửa hàng và nơi vui chơi giải trí phải ngừng hoạt động trước 12 giờ đêm; (3) Các cửa hàng và hàng rong trong toàn tỉnh không được nâng giá, ngừng kinh doanh tích trữ nhu yếu phẩm làm rối loạn thị trường; (4) Khách xuất nhập cảnh phải làm thủ tục đăng ký đúng quy định và tiếp thu sự kiểm tra; (5) Nghiêm cấm tụ họp mít tinh, bãi công, bãi khoá, biểu tình; (6) Nghiêm cấm tung tin
bằng truyền đơn, biểu ngữ hoặc các hình thức khác; (7) Nghiêm cấm mọi người mang vũ khí hoặc vật nguy hiểm khác; (8) Công dân đi đâu phải mang theo chứng minh thư để phòng khi kiểm tra, nếu không đều bị bắt giữ.
Lệnh giới nghiêm tuyên bố: “Những người có hành động sau đây sẽ bị xử tử hình”: (1) Tung tin bịa đặt; (2) Tụ họp báo động; (3) Gây rối về tiền bạc; (4) Cướp bóc tài sản; (5) Bãi công, bãi thị gây mất trật tự; (6) Cổ động phong trào học sinh, công nhiên xúi giục người khác phạm tội; (7) Phá hoại phương tiện thông tin giao thông; (8) Phá hoại thiết bị điện nước của công chúng; (9) Phóng hỏa, phá vỡ đê đập gây nguy hiểm cho đời sống công cộng; (10) Chưa được phép vẫn mang súng đạn hoặc vật nổ.
Ngày 26 tháng 5, Tưởng Giới Thạch đến Đài Loan. Hành tung của ông đến “Quyền Tổng thống” ở ngay Quảng Châu cũng không hề biết. Sau khi đến Đài Loan, lúc đầu ở tại Thọ Sơn, Cao Hùng, rồi chuyển ngay đến Thảo Sơn cách Đài Bắc mười km về phía Bắc, tại nhà khách Thảo Sơn, do Công ty Mía đường Đài Loan xây dựng, sau trở thành cư xá của Tưởng Giới Thạch. Ông chỉ ở “Phủ Tổng thống” tại Đài Bắc một thời gian, vì Thảo Sơn có nghĩa là “Núi giặc cỏ”, Tưởng đổi thành Núi Dương Minh, để biểu thị quyết tâm theo Vương Dương Minh đời Minh.
Ngày 11 tháng 6, Thường vụ Trung ương Quốc dân đảng quyết định thành lập Ủy ban phi Thường vụ gồm có Tưởng Giới Thạch, Lý Tôn Nhân, Tôn Khoa, Cư Chính, Vu Hữu Nhiệm, Hà Ứng Khâm, Kiên Tích Sơn, Ngô Trung Tín, Trương Quân, Ngô Thiết Thành, Chu Gia Hoa, Trần Lập Phu, tất cả có 12 người. Tưởng Giới Thạch làm Chủ tịch, Lý Tôn Nhân làm Phó Chủ tịch. Tổ chức này thành lập chứng tỏ Tưởng Giới Thạch muốn dùng “đảng quyền” để ép “chính quyền” của Lý Tôn Nhân, mục đích từ hậu trường đi lên sân khấu, nắm toàn quyền lãnh đạo.
Ngày 18 tháng 7, Ủy bản phi Thường vụ quyết định thành lập Dinh Trưởng quan đông nam, giao cho Trần Thành làm Trưởng Quan phụ trách toàn khu Giang Tô, Chiết Giang, Phúc Kiến, Đài Loan và đảo Hải Nam.
Ngày 1 tháng 8, Tưởng Giới Thạch thành lập Văn phòng Tổng tài tại Đài Loan, bên dưới có chín tổ là đảng vụ, kinh tế, quân sự, tuyên truyền, quốc tế, thư ký, tình báo, cảnh vệ, tổng vụ và một Ủy ban chính sách. Danh nghĩa là cơ quan riêng của Tưởng Giới Thạch, thực tế là Đảng bộ Trung ương và “Phủ Tổng thống” không treo biển. Sau này Quốc dân đảng tiến hành “cải tạo” coi Đảng bộ Trung ương là một tổ, chính là xuất phát từ Văn phòng Tổng tài.
Ngày 13 tháng 10, Quân giải phóng Nhân dân giải phóng Quảng Châu. Trước đó các Bộ thuộc Viện Hành chính đặt tại Quảng Châu, một bộ phận rời đến đảo Hải Nam, sau cũng về Đài Loan. Ngày 20 tháng 11, Lý Tôn Nhân vì không chịu làm bù nhìn cho Tưởng Giới Thạch, từ Nam Ninh bay đến Hồng Kông, rồi ngày 5 tháng 12 từ Hồng Kông đến Mỹ chữa bệnh. Trước khi đi, Tưởng Giới Thạch cử Cư Chính, Chu Gia Hoa, Hồng Lan Hữu, Trinh Nhạn Phần đến Hồng Kông khuyên giải và nếu Lý Tôn Nhân quyết chí ra đi thì nên lấy danh nghĩa là “Phó Tổng thống”, thay mặt “Tổng thống” để tranh thủ viện trợ của Mỹ. Nếu thế, mọi chi phí và những khó khăn của Lý sẽ được Chính phủ giải quyết. Lý Tôn Nhân trả lời ông là “Quyền Tổng thống” hợp pháp, còn Tưởng Giới Thạch đã về vườn chỉ là một thường dân. Vì vậy, Lý Tôn Nhân tuy sang Mỹ nhưng vẫn không từ chức và tuyên bố sẽ “lãnh đạo việc nước từ xa”.
Đầu tháng 12, Quân giải phóng Nhân dân tiêu diệt hoàn toàn chủ lực của tập đoàn Lưỡng Quảng. Bạch Sùng Hi, một thân một mình từ đảo Hải Nam về Đài Loan. Đến Đài Loan, Bạch bị đưa vào lãnh cung và chịu sự giám sát nghiêm ngặt. Khi đó Quân Giải phóng từ Quý Châu vào Tứ Xuyên. “Ngày 29 tháng 11, Quốc dân đảng từ Trùng Khánh chuyển về Thành Đô rồi đến ngày 7 tháng 12 từ Thành Đô ra Đài Bắc. Ngày 9 tháng 12, “Viện Hành chính” bắt đầu làm việc tại Đài Bắc. Cùng ngày, Lưu Văn Huy và Đặng Tích Hầu khởi nghĩa tại Tứ Xuyên. Lưu Hán khởi nghĩa tại Vân Nam. Ngày 10 tháng 12, Lưu Hán gọi điện cho Lưu Văn Huy và Đặng Tích Hầu, khuyên họ bắt giữ Tưởng Giới Thạch giành “công đầu đối với chính quyền nhân dân”, nhưng đặc vụ của Tưởng
Giới Thạch biết được, thấy không ổn, ngay 2 giờ chiều hôm đó Tưởng Giới Thạch phải bay ra Đài Bắc. Ngày 11 tháng 12, Trung ương Quốc dân đảng rời đến Đài Bắc làm việc.
Sau khi Tưởng Giới Thạch chạy ra Đài Loan, 300 nghìn quân của Hồ Tôn Nam bị vây ở thung lũng Thành Đô, hàng chục nghìn quân của Tống Hi Liêm bị bắt. Ngày 23 tháng 12, Hồ Tôn Nam đáp máy bay ra đảo Hải Nam. Cùng ngày Quân đoàn số 8 của Lý Dĩ và Binh đoàn 26 của Dư Trình Vạn ở Hải Nam cũng bị Quân Giải phóng tiêu diệt. Lý Dĩ dẫn tàn quân sang Myanmar, Dư Trình Vạn lưu vong sang Hồng Kông. Quân của Hồ Tôn Nam phần lớn nổi dậy hoặc đầu hàng, số nhỏ chạy đến Tây Xương. Ngày 25 tháng 12, Tưởng Giới Thạch viết trong nhất ký: “Đảng vụ, chính trị, ngoại giao, quân sự, kinh tế, giáo dục đã thất bại hoàn toàn rồi!”
Đầu năm 1950, Hồ Tôn Nam lại phụng mệnh bay về Tây Xương thu thập tàn quân. Cố Chúc Đồng và Tưởng Kinh Quốc cũng về Tây Xương để động viên, nhưng khi đó quân Tưởng thua chạy tan tác không còn ra sao nữa. Tháng 3 năm 1950, Quân Giải phóng đến Tây Xương, Hồ Tôn Nam bỏ quân bay về Đài Loan. Hàng nghìn tàn quân bị tiêu diệt hết.
Cho đến khi đó, nội chiến ở Đại Lục Trung Quốc coi như kết thúc. Đảo Đài Loan trở thành nơi quyết chiến sau cùng giữa Quốc – Cộng. Tưởng Giới Thạch đã đón nhận giờ phút nghiêm trọng nhất trong đời mình.
2. CHÍNH QUYỀN TƯỞNG TRONG BẦU TRỜI ẢM ĐẠM
I. CHIẾC Ô BẢO HỘ CỦA MỸ
Đầu năm 1950, Đài Loan bao trùm một bầu không khí căng thẳng tựa như “nước lũ tràn về, gió đầy nhà”.
Lúc đầu hy vọng có thể giữ được nền kinh tế tương đối ổn định, về sau hơn hai triệu dân quân đột nhiên tràn đến, Đài Loan trở nên nguy kịch. Vật tư thiếu thốn, tiền tệ lạm phát, sản xuất mất thăng bằng, tình hình này hầu như không cải thiện được. Quốc dân đảng sẽ không thể tránh khỏi vết xe đổ về kinh tế ở Đại Lục.
Về quân sự, ven biển xây dựng thêm lô cốt và công sự phòng ngự, suốt ngày đêm không ngủ, không nghỉ. Diễn tập phòng không, huấn luyện dân chúng, bài binh bố trận. Khắp nơi phố xá, trường học, nhà máy vang lên tiếng ca “bảo vệ Đài Loan”. Vậy mà mẹo thắng lại có mấy đâu?
Tưởng Giới Thạch đã rõ, lúc này, muốn bảo vệ chắc chắn Đài Loan, việc khẩn cấp trước mắt là tranh thủ sự viện trợ của Mỹ. Có Mỹ viện trợ, các mặt quân sự, kinh tế, ngoại giao đều có biện pháp; không có Mỹ viện trợ, chỉ dựa vào vàng, ngoại tệ Quốc dân đảng chuyển từ Đại Lục ra mà ráng sức chống đỡ, cuối cùng sẽ có ngày lâm vào cảnh tuyệt vọng, bế tắc. Vũ khí kiểu Mỹ mà quân Tưởng được trang bị không được bổ sung, cũng không có cách ứng phó với chiến tranh tương đối lâu dài.
Nhưng, Chính phủ Mỹ do Tổng thống Truman lãnh đạo, có thái độ không rõ ràng đối với chính quyền Đài Loan, làm cho Tưởng Giới Thạch không rét mà run.
Ngay cuối năm 1948, Tổng thống Mỹ Truman và Ngoại trưởng Mỹ Dean Acheson, đã mất lòng tin với chính quyền Tưởng thối nát vô tác dụng. Tháng 1 năm 1949, Lý Tôn Nhân được Mỹ giúp đỡ, buộc Tưởng về vườn. Ngày 27 tháng đó, đoàn cố vấn Mỹ rời Trung Quốc. Lúc này một số chuyên gia về vấn đề Trung Quốc chỉ là “kẻ cách mạng ruộng đất” cũng hy vọng Đảng cộng sản sau khi lên nắm quyền sẽ mưu cầu quan hệ giúp đỡ đôi bên với Liên Xô và Mỹ, đương nhiên càng hy vọng Trung Quốc có thể tiến và chuyển mình theo phương Tây. Vì thế, tháng 4 năm 1949 khi Chính phủ Quốc dân đảng dời đô về Quảng Châu, Đại sứ Mỹ ở Trung Hoa Dân Quốc là ngài John Leighton Stuart vẫn ở lại Nam Kinh chờ quân giải phóng tiến vào thành phố, cố ý tiếp xúc với người của Đảng cộng sản.
Ngày 30 tháng 6 năm 1949, Mao Trạch Đông phát biểu Bàn về chuyên chính dân chủ nhân dân, trong đó nhấn mạnh phương châm “nghiêng hẳn về một bên”, chỉ ra rằng: “Chúng ta phải học Võ Tòng lên đồi Cảnh Dương. Đối với Võ Tòng, con hổ trên đồi Cảnh Dương, kích thích nó cũng thế, không kích thích nó cũng vậy” và coi chuyện “chúng ta cần có sự viện trợ của Chính phủ Anh, Mỹ, ở thời điểm
này cũng chỉ là cách suy nghĩ ấu trĩ”, tỏ rõ “về quốc tế, chúng ta cùng chiến tuyến với phe chống Đế quốc mà đứng đầu là Liên Xô, chỉ có thể tìm sự viện trợ chân chính, hữu nghị ở phía này, chứ không
hòng gì ở phe đế quốc”.
Ngày 5 tháng 8, Quốc hội Mỹ phát hành Sách trắng về quan hệ Trung – Mỹ, đưa ra con số cụ thể về sự nghèo khổ, thối nát, chuyên chế, hồ đồ ngu xuẩn để thuyết minh cho sự thất bại của Quốc dân đảng là tự chuốc vào thân chứ không phải tại Mỹ không giúp. Học giả phía Đài Loan chỉ ra: “Đây là cuộc xét xử vắng mặt rất không công bằng của Chính phủ Truman đối với một nước đồng minh đã từng kề vai trong
cuộc khổ chiến đẫm máu”. “Nói hơi khó nghe, chẳng khác gì cấp giấy chứng tử cho Chính phủ tôi, đồng thời ngầm dặn dò hậu sự.”
Sau khi sách trắng được công bố; Mao Trạch Đông liên tiếp phát biểu hàng loạt văn kiện phê phán: Vứt bỏ ảo tưởng, chuẩn bị đấu tranh, Vĩnh biệt ngài Leighton Stuart, Vì sao phải thảo luận sách trắng, Hữu nghị hay xâm lược, Sự phá sản của quan điểm lịch sử duy tâm. Cùng lúc đó, Tưởng Giới Thạch cũng bị gây áp lực lớn trong nội bộ Đảng, yêu cầu phê phán sách trắng, nhưng ông ta đáp rằng “Khỏi cần!” và trong nhật ký viết: “Khi Giê-su bị xét xử, ông bị oan, nhưng không hề nói một câu.”
Ngày 1 tháng 10 năm 1949, Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập. Mấy ngày sau, các nước Xã hội chủ nghĩa như Liên Xô liên tiếp thừa nhận Trung Quốc.
Từ ngày 6 đến ngày 8 tháng 10, Sở Công vụ Bộ Ngoại giao Mỹ mời các chuyên gia, học giả tiến hành hội nghị bàn tròn về vấn đề Viễn Đông. Người tham gia hội nghị chia thành hai nhóm, thảo luận chính về vấn đề thừa nhận Trung Quốc, kết quả một nhóm tán thành, một nhóm phản đối. Dư luận nước Mỹ
lúc đó chia thành ba phái: Phái A chủ trương lập tức hoặc hẹn ngày thừa nhận Trung Quốc, phái B chủ trương thừa nhận có điều kiện, phái C ngược lại chủ trương tích cực viện trợ hơn nữa cho Chính phủ Quốc Dân của Tưởng Giới Thạch. Do chưa đi đến nhất trí nên Dean Acheson tuyên bố: “Chính phủ Mỹ trước khi có hành động tiếp theo, cần để châu Á hết bực bội đã.” Đây chính là “chính sách khoanh tay” (Offhands policy).
Lúc này, Tống Mỹ Linh thay Tưởng đi Mỹ cầu viện và hoạt động khắp mọi nơi cùng với Khổng Tường Hi, nhờ phái hữu trong Quốc vụ Viện gây áp lực với Truman. Phái Diều hâu trong quân đội mà đại biểu là Tham mưu Trưởng, Chủ tịch Hội nghị Liên tịch Omar Nelson Bradley và Tư lệnh Tối cao Quân Đồng minh Douglas MacArthur, xét Đài Loan là một khâu quan trọng trong phòng tuyến Tây Thái Bình Dương của Mỹ, Chủ lực Mỹ cần nhúng tay vào công việc bảo vệ an ninh quốc gia của Đài Loan để giữ vững chiếc “hàng không mẫu hạm không đắm này ở Viễn Đông”. Hạ tuần tháng 11 năm 1949, Thượng nghị sĩ William Knowland, đại biểu chính yếu của “thân Đài Loan” trong Quốc hội Mỹ đã bay tới Trùng Khánh, bảo Tưởng Giới Thạch chỉ cần kiên trì ở Đại Lục trong nửa năm, thế lực thân Tưởng ở Mỹ nhất định sẽ khiến Truman thay đổi chính sách đối với Trung Hoa, xuất binh viện trợ Chính phủ Quốc dân. Vì vậy, Tưởng Giới Thạch cự tuyệt kiến nghị của Tống Hi Liên và Hồ Tôn Nam đề xuất là tung chủ lực vào Tây Xương và vùng sát biên giới Vân Nam, Myanmar, ông hạ lệnh cho Hồ Tôn Nam cố sống chết giữ lấy Thành Đô, kết quả chưa đầy một tháng đã bị tiêu diệt toàn bộ.
Từ tháng 5 năm 1949, hải, không quân của Quốc dân đảng bắt đầu tiến hành phong tỏa Thượng Hải. Ngày 16 tháng 9, Chính phủ Mỹ báo cho các công ty của mình: “Thuyền của Mỹ chỉ có thể vào Thượng Hải, các cảng khác đã bị phong toả, họ phải tự gánh chịu mọi nguy hiểm.” Ngày 22 tháng 9, Hải quân Quốc dân đảng chặn giữ thuyền Mỹ là “Phi hành độc lập” và “Phi hành thương nhân” – đang trên đường chạy về Thượng Hải – thu toàn bộ hàng hóa trên tàu. Ngày 14 và ngày 25 tháng 11, thuyền buôn “Phi Vân” và “John Franklin” lại tiếp tục bị hải quân Quốc dân đảng đánh bị hư hại. Sau khi xảy ra sự
kiện này, Bộ Ngoại giao Mỹ lập tức kháng nghị kịch liệt, yêu cầu “cấm để xảy ra sự kiện như vậy về sau”. Đồng thời, Bộ Ngoại giao Mỹ cũng thầm khuyên giới thương nhân, nhân sĩ nhất thiết không vào Thượng Hải: “Tuyệt đối không tự tiện vận tải đường thủy ở khu vực nguy hiểm”. Những trường hợp công khai, Mỹ vẫn từ chối thừa nhận việc phong tỏa cửa khẩu ở Thượng Hải của Chính phủ Quốc dân.
Trong tháng 12, Nolan và một Nghị sĩ thân Tưởng khác là Smith kéo nhau bay về Tokyo, gặp MacArthur, Thống soái Quân Đồng minh ở Viễn Đông, đề nghị ra quân giúp Tưởng. MacArthur nóng lòng muốn thử, đưa ra ý kiến năm điểm giúp Trung Hoa Dân Quốc, chủ trương tăng cường giúp chính quyền Tưởng Giới Thạch về quân sự và kinh tế trên quy mô lớn. Mỹ cử đoàn cố vấn quân sự tới Đài Loan, thậm chí không tiếc dùng quân Mỹ hiệp phòng, lấy việc giữ vững chính quyền Tưởng làm “biểu tượng chống đỏ hoá”. Trong bối cảnh đó, ngày 23 tháng 12 Đài Loan chính thức đưa ra đề nghị Chính phủ Mỹ cử cố vấn chính trị, quân sự, kinh tế tới Đài Loan làm công tác phối hợp giúp đỡ phòng vệ.
Nhưng đúng ngày 23 tháng 12, Bộ ngoại giao Mỹ ra Chỉ thị tuyên truyền về chính sách đối với Đài Loan nói: “Về mặt chính trị, địa lý, chiến lược, Đài Loan là một bộ phận của Trung Quốc, nó không có gì là đặc biệt hoặc quan trọng… Về mặt chính trị và quân sự, nó thuộc trách nhiệm của Trung Quốc.” Người ta đều đoán rằng Đảo này sẽ sụt xuống, với nền chính trị của Quốc dân đảng, tình hình dân chính và quân sự nơi đó đã xấu đi, tình hình này càng chứng tỏ thêm dự đoán trên.
Văn kiện này yêu cầu các ngành hữu quan khi tuyên truyền nên lợi dụng mọi tài liệu để đối phó với những ấn tượng sai, nghĩa là: (1) Giữ Đài Loan là để cứu vớt Chính phủ Trung Quốc; (2) Mỹ rất thích hoặc có dã tâm đối với hòn đảo này là Đài Loan giữ căn cứ quân sự nào đó; (3) Mất đảo này sẽ thiệt hại lớn đến lợi ích quốc gia của Mỹ hoặc của các nước chống Cộng; (4) Dù sao, Mỹ cũng phải có trách nhiệm và nghĩa vụ thể hiện hành động cứu Đài Loan.
Văn kiện này còn giải thích tại sao Mỹ không thể lập căn cứ, đưa quân đội, cấp vũ khí, điều quân hạm tới Đài Loan, hoặc có hành động đại loại như vậy, bởi vì: (1) Như vậy thực tế không có lợi cho chính quyền Quốc dân đảng; (2) Khiến cho Mỹ cuốn vào cuộc mạo hiểm lâu dài, không khéo có thể rơi vào cuộc chiến tranh công khai; (3) Như thế Mỹ sẽ bị nhân dân Trung Quốc coi là thù địch; (4) Như thế sẽ chứng thực điều Liên Xô tuyên truyền làm phân tán lực lượng của Mỹ, hóa ra lại phù hợp với lợi ích của Liên Xô.
Cuối cùng, văn kiện này chỉ thị cho các ngành “trong vấn đề tuyên truyền về Trung Quốc, nhấn mạnh tình hình tồi tệ của Đài Loan dưới ách thống trị của Quốc dân đảng” và nhân đây chỉ cho người ta rõ “tại sao Quốc dân đảng dễ bị công phá ở đó cũng như ở các nơi khác”16.
Tóm lại, văn kiện này được gọi là “mệnh lệnh đặc biệt” lộ rõ ý đồ của Mỹ chuẩn bị vứt bỏ chính quyền Đài Loan. Theo định hướng này, ngày 29 tháng 12, Truman triệu tập Hội nghị an ninh quốc gia, thảo luận yêu cầu hiệp đồng phòng thủ của chính quyền Đài Loan, Bradley trình bày ý kiến phái quân đội, chủ trương Mỹ nên tham gia vào việc phòng thủ Đài Loan, Acheson lại phải đối. Cuối cùng, Truman quyết định Mỹ chọn lập trường “khoanh tay đứng nhìn”. Quyết định ngay hôm đó báo cho Cố Duy Quân “Đại sứ” Quốc dân đảng ở Mỹ.
Ngày 5 tháng 1 năm 1950, Truman tuyên bố về vấn đề về Đài Loan rằng: “Mỹ không có dã tâm cướp Đài Loan hoặc bất kỳ vùng lãnh thổ nào của Trung Quốc. Hiện nay Mỹ không có ý thu lại đặc quyền hoặc xây dựng căn cứ quân sự ở Đài Loan. Mỹ cũng không muốn dùng vũ trang can dự vào cục diện
hiện nay của nó, Chính phủ Mỹ không muốn theo bất kỳ cái gì để cuốn nước Mỹ vào con đường tranh chấp nội bộ của Trung Quốc. Như vậy Chính phủ Mỹ cũng không muốn cung cấp viện trợ quân sự và cung cấp ý kiến cho quân đội Trung Quốc ở Đài Loan.” Cùng ngày, Acheson nói với nhà báo: “Chúng tôi không dùng quân đội của chúng tôi dính líu đến tình thế hiện nay của Đài Loan; chúng tôi không có ý chiếm lĩnh đảo này, chúng tôi không can dự vào việc quân sự của Đài Loan.”
Ngày 13 tháng 1, Tống Mỹ Linh cầu viện ở Mỹ bị coi khinh lạnh nhạt, ngán ngẩm trở về Đài Loan. Truman chửi tập đoàn Tưởng – Tống: “Chúng nó là lũ ăn cắp, không một đứa nào không là kẻ cắp.” Sau đó ít lâu, Mỹ bắt đầu giảm kiều dân ở Đài Loan, như thế ngầm hiểu là Mỹ đã nhận định Đài Loan sẽ bị Đảng cộng sản chiếm nhanh chóng.
Ngày 20 tháng 1, Tưởng Giới Thạch tuyên bố các cửa khẩu Thượng Hải, Ninh Ba, Quảng Châu, Thiên Tâm, Thanh Đảo là khu cấm mậu dịch, nếu thuyền nước ngoài vào cửa khẩu nói trên sẽ bị chặn lại và bị công kích. Ngày 28 tháng 1, Quốc hội Mỹ đã ra tuyên bố: “Nước Mỹ không muốn thừa nhận việc phong tỏa này.” Nhân viên ngoại giao Mỹ ở Đài Loan lúc đó chỉ có một lãnh sự và một trung tá, văn thư qua lại đôi bên cũng từ “công hàm” thông thường trở thành “bản ghi nhớ”.
Mặt khác, vì Mỹ đã thu được lợi ích kinh tế và quân sự to lớn ở Đài Loan, vả lại “người bạn đồng minh chống Cộng” Tưởng Giới Thạch này cũng chưa mất hết giá trị sử dụng lại cũng chẳng thấy có biểu hiện gì về sự thay đổi quan hệ với Bắc Kinh, cho nên lúc đó Truman đồng thời tuyên bố không can dự vào vấn đề Đài Loan, lại tự mâu thuẫn, “tiếp tục viện trợ kinh tế cho Trung Hoa Dân Quốc”,
Acheson còn giải thích riêng với giới báo chí rằng: “Quốc dân đảng ở Đài Loan vẫn có thể mua vũ khí của Mỹ theo luật pháp”. Ngày 15 tháng 1, Truman cử Jesup, Đại sứ lưu động, đến Đài Loan. Jesup đã bàn bạc, trao đổi kỹ với Tưởng Giới Thạch về vấn đề phản công và vấn đề viện trợ kinh tế của Mỹ.
Dưới bức màn che “viện trợ kinh tế”, quân Mỹ bán rẻ cho Đài Loan hàng loạt vũ khí. Ví dụ như ngày 12 tháng 1 năm 1950, tàu Thổ Nhĩ Kỳ hiệu “Martin” chuyển từ Philadelphia tới Đài Loan một lượng lớn vũ khí đạn dược, riêng xe tăng đáng lý 580 nghìn đô-la một chiếc, Mỹ chỉ hợp đồng bán với giá một nghìn đô-la. Bằng cách này, Đài Loan vẫn có thể nhận được ít nhiều viện trợ quân sự có giới hạn của Mỹ.
Lúc này, Mỹ cũng chưa có ý đồ diễn lại “vở kịch thay ngựa” ở Đài Loan, vì thế họ vẫn coi Lý Tôn Nhân đang dưỡng bệnh ở Mỹ như một Nguyên thủ quốc gia, Lý Tôn Nhân bấy giờ đang liên lạc với tàn dư của Lưỡng Quảng là Trương Phát Khuê, Cố Mạnh Dư và của hai đảng là Đảng Xã hội Dân chủ và Đảng Thanh niên là Trương Quân Mại, Tả Thuấn Sinh, làm thành cái gọi là “thế lực mới thứ 3” mưu đồ đi theo con đường vừa chống Tưởng vừa chống Cộng. Triết Nhạc, tướng lĩnh quân của Lưỡng Quảng lúc đó dẫn 100 nghìn binh mã phòng thủ đảo Hải Nam; một số đặc vụ và du kích chống Cộng ở Đại Lục cũng nhận lệnh của Lý Tôn Nhân; một số “Đại biểu Quốc hội”, “Ủy viên Lập pháp” và tướng lĩnh thất thế chạy tới Đài Loan cũng ủng hộ Lý Tôn Nhân. Vì thế, Mỹ ôm ấp hy vọng ở Lý.
Tháng 2 năm 1950, Acheson gửi thư cho Lý Tôn Nhân; một là chúc mừng Lý qua khỏi ca mổ dạ dày; hai là đề nghị Lý nếu sức khỏe cho phép nhanh chóng thu xếp gặp Truman, hai bên sẽ hội đàm vấn đề Trung Quốc với tư cách “Nguyên thủ quốc gia”.
Tưởng Giới Thạch sau khi nghe tin, phát ngay mật điện cho Cố Duy Quân “Đại sứ” ở Mỹ, yêu cầu ông ta ra sức gây trở ngại kéo dài ngày hội đàm giữa Truman và Lý Tôn Nhân. Việc này mới chỉ là một
quan chức Bộ ngoại giao Mỹ trực tiếp liên hệ với Cam Giới Hậu, thân tín của Lý Tôn Nhân và chưa qua con đường ngoại giao chính thức. Nhưng Lý Tôn Nhân cho rằng đã là “hội đàm Nguyên thủ”, vẫn phải thông qua con đường chính thức, bèn để Bộ Ngoại giao Mỹ liên hệ với “Sứ quán của Chính phủ Quốc Dân ở Mỹ”. Cố Duy Quân bị kẹt giữa Tưởng và Lý, đằng nào cũng khó, chuồn đi Miami, phía nam nước Mỹ. Thế là nhân vật Tưởng coi là “Đại sứ” không còn ở Sứ quán nữa, trì hoãn không cho phía Mỹ trả lời. Sau khi Lý Tôn Nhân biết, lại cho Cam Giới Hậu liên hệ với Nhà Trắng. Chương trình tháng 2 Truman đã sắp xếp xong, hai bên trao đổi sẽ gặp mặt ngày 2 tháng 3, đó là ngày 3 tháng 3 theo giờ Đài Loan.
Cùng thời kỳ này, Tưởng Giới Thạch tăng cường hoạt động, chuẩn bị tái nhậm chức “Tổng thống”. Ngày 3 tháng 2, liên danh “Đại biểu Quốc hội” chạy ra Đài Loan mời Tưởng Giới Thạch, “nhanh chóng trông coi công việc”. Ngày 12 tháng 2, “Viện Giám sát” thông qua đề án chỉ trích “Quyền Tổng thống” Lý Tôn Nhân ở Mỹ “lãnh đạo việc nước từ xa là sai lầm”, đề nghị “Quốc hội” hỏi tội. Ngày 13 tháng 2, Ủy ban đặc biệt của Quốc dân đảng gửi điện cho Lý Tôn Nhân, nói rằng trước khi đi Mỹ ông ta hứa tháng 1 sẽ về nước, thế mà tới nay đã quá hạn, yêu cầu về ngay. Ngày 21 tháng 2, Ủy ban Đặc biệt lại phát thông điệp tối hậu cho Lý Tôn Nhân, hạn cho Lý trong ba ngày phải trở về Đài Loan, nếu không coi như tự động từ chức “Quyền Tổng thống”, Ủy ban đặc biệt sẽ chân thành mời Tưởng Giới Thạch nhận lại chức “Tổng thống”. Khổng Tường Hi và các quan chức trọng yếu của “Đại sứ quán” đang ở Mỹ, nghĩ rằng trong “Hiến pháp” không ghi “Tổng thống” sau khi thoái vị vẫn có thể phục chức, nên nếu Tưởng phục chức không những sẽ mắc tội chống “Hiến pháp”, mà càng không được Mỹ bỏ qua, vì thế đã gửi điện khuyên Tưởng thận trọng. Họ còn cử “Tham tán” Trần Chi Mại tìm gặp Hồ Thích ở Mỹ, đề nghị Hồ khuyên ngăn. Hồ Thích liền đánh điện cho Tưởng, nói rõ rằng nếu Lý Tôn Nhân chịu nhượng bộ, đề nghị Tưởng phục chức, còn có thể giữ được kín kẽ về mặt pháp luật, nếu không, coi như chống lại “Hiến pháp”, không có cách nào khác. Tưởng Giới Thạch không thèm để ý đến bức điện này.
Sau ba ngày, Lý Tôn Nhân không về Đài Loan. “Viện Lập pháp” Đài Loan họp ngay, thông qua quyết nghị yêu cầu Tưởng Giới Thạch nhậm chức ngày 1 tháng 3. Tưởng Giới Thạch tuyên bố “nhất trí trông coi công việc” tiếp tục làm “Tổng thống”, trước hai ngày Lý Tôn Nhân gặp Truman.
Vì trong “Hiến pháp” không quy định “Tổng thống” sau khi thôi chức có thể được phục chức hay không. Cho nên Tưởng Giới Thạch muốn phục chức phải sửa đổi “Hiến pháp” hoặc được sự ủng hộ của đa số “Đại biểu Dân ý Trung ương” về sửa đổi “Hiến pháp”. Theo quy định, văn bản sửa đổi “Hiến pháp” phải có trên 1/4 “Ủy viên Lập pháp” đề nghị, có mặt đồng ý (nghĩa là hơn 9/16 ủy viên lập pháp) mới được thông qua, văn bản thông qua phải được “Quốc hội” quyết mới có hiệu lực. Tổng số “Ủy viên Lập pháp” được cử ra năm 1948 là 760 người, 3/4 là 570 người, 3/4 của 570 người là 428 người, thế mà quyết nghị của “Viện Lập pháp” để Tưởng Giới Thạch phục chức “Tổng thống” lại chỉ có 331 phiếu tán thành, dù cho nhận định theo pháp lý của Quốc dân đảng thì Tưởng Giới Thạch nhậm chức “Tổng thống” vẫn là phi pháp.
Bởi thế, Tưởng Giới Thạch tuy đã tuyên bố nhận chức, nhưng Truman vẫn hội kiến với Lý Tôn Nhân với lễ nghi “Tổng thống”. Theo thủ tục ngoại giao, lúc Lý Tôn Nhân và Truman gặp nhau, Cố Duy Quân – với tư cách đại sứ, phải giới thiệu. Tưởng Giới Thạch điện lệnh cho Cố Duy Quân khi giới thiệu chỉ giới thiệu Lý Tôn Nhân là “Phó Tổng thống”. Không muốn làm phật ý Lý, Quân đánh liều đưa cho Lý xem trước lệnh của Tưởng Giới Thạch. Lý chỉ cho Cố Duy Quân cùng đi, còn việc giới
thiệu lại do Cam Giới Hậu đảm nhiệm. Kết quả lúc hội kiến họ gạt Cố Duy Quân sang một bên, hai bên xưng hô “Tổng thống”. Sau đó, Acheson dứt khoát tìm cách đưa Cố Duy Quân lánh đi, để cho ba người Truman, Lý Tôn Nhân, Cam Giới Hậu mật đàm trong ba tiếng đồng hồ. Hôm sau, Truman họp báo. Lúc nhà báo hỏi tiếp Lý Tôn Nhân với chức vị gì. Truman đáp: “Tôi mời với cương vị Tổng thống, nên tôi tiếp với chức vụ Quyền Tổng thống.” Nhà báo lại hỏi: “Tưởng Giới Thạch chẳng phải đã phục chức Tổng thống đó sao?” Truman đáp: “Tôi không giao thiệp với ông ấy.” Sau đó, trong khoảng thời gian dài, Mỹ coi Lý Tôn Nhân là “Tổng thống hợp pháp”, lại coi Tưởng Giới Thạch là “Tổng thống trên thực tế”. Quan hệ Mỹ – Tưởng cũng vì thế giảm tới điểm thấp nhất trong lịch sử.
Về ngoại giao, gặp khó khăn ở khắp nơi, bóng tối to lớn bao trùm lên trái tim những người theo Quốc dân đảng trốn chạy sang Đài Loan. Đài Loan lúc này, toàn là “đặt điều nói xấu, lo sợ nghi hoặc, so đo tính toán, tích trữ làm giàu riêng, còn ý chí thì bạc nhược yếu kém, rầm rập chuồn ra hải ngoại, hoặc sắp sẵn bài toán sau cùng”. Để đối phó với một khối lớn bọn đào ngũ, ngày 23 tháng 3 năm 1950, Thường vụ Quốc dân đảng quyết định quản chế Đảng viên rời khỏi Đài Loan. Ngày 13 tháng 4, “Viện Hành chính” Đài Loan lại công bố Biện pháp hạn chế cấp hộ chiếu ra nước ngoài, cấm nhân dân ra nước ngoài du lịch, thăm người nhà; đồng thời, quản lý nghiêm ngặt các quan chức ra nước ngoài làm việc. Thế nhưng, do tâm lý thất bại và “bệnh sợ Cộng sản” nên không biện pháp gì ngăn họ được.
Thực lực quân Tưởng lúc này, lục quân gọi là có 600 nghìn, kỳ thực rất nhiều đơn vị chỉ có hư danh; quan nhiều, lính ít hoặc có lính không có quan; thành phần của bộ đội, phần lớn là những dân phu khi rút lui khỏi Đại Lục đã bị buộc vào lính và những học sinh lưu vong, hầu như chưa qua huấn luyện quân sự; quân nhân chuyên nghiệp thì phần lớn là tàn binh bại tướng. Không quân bấy giờ có 85 nghìn người, 400 phi cơ các loại, nhưng “đều là máy bay kiểu cũ. Hơn nữa lại thiếu linh kiện và xăng dầu, chỉ một bộ phận cực nhỏ có thể sử dụng thường xuyên mà thôi”. Sỹ quan binh lính hải quân có 54 nghìn người, gồm hai đội hải quân lục chiến có 70 chiến hạm, gồm sáu tàu khu trục do Mỹ chế tạo, một tàu khu trục do Nhật chế tạo và một số tàu gỡ mìn, tàu đổ bộ vào Đại Lục, nhưng cũng thiếu linh kiện, thực tế năng lực tác chiến thấp hơn năng lực biên chế. Trong hoàn cảnh Mỹ từ chối viện trợ quân sự, chỉ dựa vào các chính khách cánh hữu và sự cung cấp bổ sung có hạn từ “cửa sau” của quân Mỹ. Hải, lục, không quân của Đài Loan không thể chịu nổi cuộc chiến tranh thời gian tương đối dài.
Quan trọng hơn là đại đa số binh lính, sĩ quan cấp dưới trong quân đội đã trở thành “chim sợ cành cong”, mọi người đều biết rằng cuối cùng thất bại là không thể tránh khỏi, chẳng ai muốn làm lễ vật chôn theo quý nhân đại quân. Một đội quân không hề có ý chí chiến đấu như vậy, không có cách gì chống lại đà thắng lợi của Giải phóng quân Nhân dân.
Ngày 16 tháng 4 năm 1950, Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc mở chiến dịch đảo Hải Nam, quân Tưởng vừa đụng đã tan, phòng tuyến hình khối hơn một năm xây dựng bị phá hủy trong một ngày. Ngày 30 tháng 4, toàn bộ vùng biển đảo Hải Nam được giải phóng, quân Tưởng bị tiêu diệt hơn 30 nghìn tên, hàng chục nghìn tên còn lại lên quân hạm chạy trốn về Đài Loan.
Chiến dịch Đảo Hải Nam đã chứng tỏ Giải phóng quân đã có đủ khả năng tác chiến tương đối mạnh ở Đại Lục cũng như trên mặt nước. Tưởng Giới Thạch làm một cuộc vật lộn cuối cùng, tung hơn 100 nghìn quân Tưởng vào quần đảo Châu Sơn và một số đảo nhỏ khác ở duyên hải Chiết Giang. Ngày 18 tháng 5, Giải phóng quân Nhân dân giải phóng đảo Châu Sơn.
Lúc này, Giải phóng quân đã xây dựng được 30 sân bay quân sự ở khắp Hoa Nam, 400 chiếc máy bay
chiến đấu đã vào sân bay; ở các cảng Phúc Châu, Hạ Môn, Sán Đầu, một lượng lớn tàu thuyền đều sẵn sàng xuất phát. Đến tháng 7, khi eo biển Đài Loan sóng yên biển lặng; hơn 100 nghìn quân tinh nhuệ sẽ vượt qua eo biển. Đúng như “Mệnh lệnh đặc biệt số 28” của Mỹ nói rằng: “Mọi người đều dự đoán đảo này sẽ sụt xuống”, “Quốc dân đảng sẽ bị công phá dễ dàng ở đó cũng như ở các nơi khác”.
Ngày 27 tháng 5, ở Đài Bắc Nhật báo Trung ương đăng bài xã luận, thừa nhận Đài Loan “đã tới thời kỳ nguy hiểm chưa từng thấy”. Nhà văn Đổng Hiển Quang, tay sai của Tưởng Giới Thạch, lại nói: “Trung Quốc đã tới thế này, chỉ có Thánh mới cứu vãn được”. Đến nỗi, chính Tưởng Giới Thạch cũng phải nói với tướng lĩnh dưới quyền: “Nếu không bảo vệ được Đài Loan, tôi quyết không đi.” Theo hồi ức sau này của Tưởng Kinh Quốc, lúc đó cụ Tưởng đã hạ quyết tâm “sát thân thành nhân” và động viên tướng lĩnh “lúc đất nước gian khổ nhất, phải chọn cái chết có ý nghĩa nhất”.
Lúc này nhân dân Đài Loan, trông chờ Giải phóng quân sớm đổ bộ, nhớ tới nhân vật Tưởng, ai cũng mang tâm lý nhớ đến những ngày cuối cùng bi thảm thê lương; tàn binh bại tướng của Quốc dân đảng cũng trong nỗi buồn “biết rõ không làm thế nào khác được”, chuẩn bị đón nhận trận đánh cuối cùng có tính hủy diệt.
II. CÁI GIÁ CỦA “BẢO HỘ” MỸ
Đúng lúc vương triều nhỏ bé của gia đình Tưởng hết đường thoát, chỉ còn hy vọng ở “kỳ tích về ý chí”, thế cục Viễn Đông biến đổi có lợi cho phía Đài Loan.
Tháng 2 năm 1950, Mao Trạch Đông dẫn đoàn đại biểu Đảng, Chính phủ Trung Quốc sang thăm Liên Xô, hai bên ký điều ước đồng minh hữu hảo. Liên kết Trung – Xô là kết quả tất yếu. Liên Xô chi viện lâu dài cho cách mạng Trung Quốc; cũng là sản phẩm của phe Xã hội Chủ nghĩa đối lập với phe Tư bản Chủ nghĩa lúc bấy giờ. Vì thế Mỹ không cảm thấy bất ngờ.
Thế nhưng, liên minh Trung – Xô cuối cùng đã phá bỏ ảo tưởng của phái Bồ câu Mỹ, tiêu biểu là Acheson, Chính quyền Bắc Kinh giữ thái độ trung lập giữa Xô – Mỹ, cũng giúp cho tiếng kêu gào đòi giúp đỡ Tưởng của các Nghị sĩ phái hữu và phái Diều hâu trong quân đội Mỹ thêm mạnh mẽ. Nhưng không khí hội đàm giữa Mao Trạch Đông và Stalin cũng không hoàn toàn hòa hợp như tuyên truyền. Về phía Trung Quốc, để thu hồi Lữ Thuận và Đại Liên, để giữ tư cách một nước độc lập tự chủ, đã thảo luận gay gắt với phía Liên Xô nhưng nội tình này Mỹ không thể biết được.
Sau khi Trung – Xô liên kết đồng minh. Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc lập tức phát động chiến dịch đảo Hải Nam và hàng loạt cuộc chiến đấu về sau. Hai sự kiện này vốn không có mối liên hệ tất nhiên nhưng những phần tử chống Cộng ở phương Tây và Đài Loan tranh nhau đoán mò Liên Xô sẽ giúp đỡ Trung Cộng chiếm đánh Đài Loan và tố lên thành một phần của kế hoạch bành trướng toàn cầu của Liên Xô.
Chính phủ Truman tuy cũng nghi ngờ như vậy, nhưng ngày 5 tháng 1 vừa mới tuyên bố không can dự vào vấn đề Đài Loan, vả lại cuộc chiến Quốc – Cộng suy cho cùng là cuộc nội chiến của nhân dân Trung Quốc, Liên Xô viện trợ Trung Quốc cũng chỉ là viện trợ về đạo nghĩa và vật tư, Mỹ không có lý do gì để phản đối. Vì thế, Mỹ vẫn duy trì không thay đổi “chính sách thọc tay trong áo”.
Tới ngày 25 tháng 6 năm 1950, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ. Lúc này, Trung Quốc đang chuẩn bị
vượt biển đánh Đài Loan. Hai sự kiện này vốn cũng không có liên quan với nhau, Chính phủ Trung Quốc không biết hai bên Nam – Bắc Triều Tiên sẽ có xung đột lớn, nhưng Truman lại bị các chính khách cánh hữu và phái Diều hâu trong quân đội xúi giục nhận định sai lầm là Quân đội nhân dân Triều Tiên vượt vĩ tuyến 38 và Trung Cộng sẽ vượt biển đánh Đài Loan là chấp hành phương án chiến lược của Liên Xô. Nếu Mỹ mất Nam Triều Tiên ở phía Bắc, phía Nam mất Đài Loan, Nhật Bản sẽ kẹp giữa Nam – Bắc, Philippines và các nước chống Cộng ở Đông Nam Á sẽ bị uy hiếp, phòng tuyến Tây Thái Bình Dương của Mỹ sẽ bị chặt thành mấy khúc, bởi vậy quyết tâm phản ứng mạnh mẽ.
Ngày 25 tháng 6, Mỹ thao túng Liên Hợp Quốc cho Bắc Triều Tiên là kẻ xâm lược. Ngày 27 tháng 6, Mỹ thao túng Liên Hợp Quốc thông qua nghị án, yêu cầu các nước thành viên Liên Hợp Quốc ra quân giúp Nam Triều Tiên. Cùng ngày, Truman hạ lệnh cho Hạm đội 7 của Mỹ “chặn bất kỳ cuộc tiến công nào đối với Đài Loan”, phủ định hoàn toàn lời tuyên bố sáu tháng trước của mình.
Ngày 29 tháng 6, sáu tàu khu trục, hai chiếc tuần dương hạm và một tàu vận tải thuộc Hạm đội 7 của Mỹ đã xâm nhập vào eo biển Đài Loan và lập tức bắt đầu tuần tra. Ngày 8 tháng 7, Tư lệnh Hạm đội 7 tới thăm Đài Bắc. Sau đó Mỹ cử Thiếu tướng Ja Nader làm đại biểu quân sự ở Đài Loan. Ngày 30 tháng 7, Mỹ cử Lanchyn sang Đài Loan làm đại biện lâm thời hàm công sứ. Ngày 31, MacArthur dẫn cả bộ sậu đến Đài Loan, hội đàm với Tưởng Giới Thạch, quan hệ Mỹ Tưởng mau chóng được hâm nóng.
Quân Mỹ xâm nhập vào eo biển Đài Loan, giương ô che chở cho vương triều nhà họ Tưởng, đây chính là ước mơ tha thiết của Tưởng Giới Thạch, thế nhưng, đồng thời với giương ô che chở. Mỹ đề xuất hai điều kiện kèm theo, khiến nhà cầm quyền Đài Loan rất không hài lòng.
Điều kiện thứ nhất, là thuyết: “Chưa xác định địa vị của Đài Loan và Bành Hồ” phía Mỹ tuyên truyền lời lẽ sai trái này đã từ rất lâu. Đầu năm 1946, Cardo Trưởng phòng báo chí quân Mỹ đóng ở Đài Loan đã nhiều lần rêu rao luận diệu “chưa xác định của Đài Loan” thậm chí còn phản đối giao Đài Loan cho Trung Quốc, chủ trương giao cho Liên Hợp Quốc quản lý Đài Loan. Tháng 8 năm 1847, Đặc phái viên Mỹ Wedemeyer đến khảo sát Đài Loan. Trong báo cáo gửi Quốc hội Mỹ ngày 16 tháng 8, ông ta nói: “Chúng tôi thấy một số dấu hiệu, đó là: Người Đài Loan mong được Mỹ lãnh đạo và mưu biến Đài Loan thành căn cứ để bảo vệ chính quyền mục nát đang sắp sụp đổ của họ. Tôi cho rằng họ lo sợ là có đầy đủ căn cứ”. Một số tờ báo chủ yếu của Mỹ, cũng sôi nổi đăng bài tìm hiểu Đài Loan, gieo rắc luận điều “người Đài Loan hoan nghênh Liên Hợp Quốc quản lý”. Vì chủ trương “ủy thác quản lý” trực tiếp tổn hại đến lợi ích của chính quyền Quốc dân đảng, cho nên lúc Ngụy Đạo Minh và Trần Thành giữ chính quyền Đài Loan, đều hạn chế nghiêm ngặt nhà báo nước ngoài vào Đài Loan, đề phòng họ xuyên tạc dư luận, quấy rối nghe nhìn.
Tháng 4 năm 1949, McDermott người phát ngôn Bộ ngoại giao Mỹ khi trả lời các nhà báo đã rêu rao: “Việc xử lý cuối cùng với Đài Loan, phải đợi sau khi ký kết hòa ước với Nhật mới định được”. Khi nhà báo hỏi ông ta nhìn nhận ra sao về chủ trương của một nhà văn: “Trong tình huống Đài Loan có thể rơi vào tay Trung Cộng, Mỹ sẽ buộc phải đòi hỏi quyền sở hữu về đảo này”, McDermott nói: “Việc Trung Quốc chiếm Đài Loan, cũng như việc Liên Xô chiếm Thiên đảo, việc xử lý hai khu vực này còn phải chờ ký hòa ước của Nhật” để phối hợp. MacArthur, Thống soái quân Mỹ trú ở Nhật đã kêu gào: “Trước lúc ký hòa ước với Nhật, Đài Loan vẫn thuộc về Tổng bộ Quân Đồng minh.” Tháng 6, MacArthur chính thức thăm đoàn đại biểu “Chính phủ” Quốc dân đảng ở Tokyo, hy vọng giao Đài Loan cho Tổng bộ Quân Đồng minh hoặc Liên Hợp Quốc quản lý, bị nhà đương cục Quốc dân đảng cự
tuyệt. Tháng 10, Quốc hội Mỹ kiến nghị với Truman, Mỹ gây áp lực buộc chính quyền Quốc dân đảng “điều toàn bộ quân về đảo Hải Nam, Đài Loan giao cho Liên Hợp Quốc quản lý”. Đưa ra kiến nghị này chẳng khác gì trở mặt với Tưởng, có thể sẽ buộc Tưởng quay về với Trung Cộng nên Truman chưa chấp nhận. Sau này, Smit, Thượng nghị sĩ phái hữu của Mỹ lại đưa ra chủ trương “chính quyền liên hợp”, nghĩa là tập hợp phía Mỹ, phía Tưởng và “người Đài Loan” thành chính quyền liên hợp, để đạt mục đích “chiếm lĩnh Đài Loan một cách hữu nghị và hòa bình”, lại có thể “tránh cho Mỹ đi vào con đường chống đối quân sự nguy hiểm và không có điểm dừng với Trung Cộng”. Nhưng chủ trương này cũng không có khả năng thực hiện nên Truman không nghe, âm mưu hoạt động nói trên của Mỹ về mức độ nào đó đều có tính chất nhà nước, nhưng do Chính phủ Mỹ đã chính thức tỏ thái độ, như “Mệnh lệnh đặc biệt số 28” ngày 23 tháng 12 năm 1949 và lời tuyên bố của Truman ngày 1 tháng 1 năm 1950, đều thừa nhận “về chính trị, địa lý và chiến lược, Đài Loan là một bộ phận của Trung Quốc”, Mỹ không có dã tâm tước Đài Loan và vùng lãnh thổ khác của Trung Quốc. Bởi thế, Đài Loan cũng không nói thêm, nhưng vẫn ngầm cảnh giác.
Ngày 26 tháng 6 năm 1950, Mỹ đưa ra bản ghi nhớ với phía Đài Loan, đề xuất Mỹ sẽ phái Hạm đội 7 vào eo biển Đài Loan, nhưng không phải theo lời mời của “Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc” hợp sức phòng thủ Đài Loan, Mỹ vẫn coi eo biển Đài Loan là lãnh hải chưa có chủ quyền, do đó Mỹ có “quyền tự vệ đơn độc hoặc tập thể” ở đây. Địa vị của Đài Loan và eo biển trong thời gian tới sẽ được quyết định bởi hòa ước với Nhật. Đài Loan sau khi nhận được bản ghi nhớ, lập tức lệnh cho Cố Duy Quân gấp rút gặp Ngoại trưởng Mỹ Allen Dulles, hy vọng Mỹ sẽ đổi lý do đưa Hạm đội 7 vào Đài Loan thành “theo lời mời hợp lực phòng thủ của Trung Hoa Dân Quốc”, chứ không thể thừa nhận “địa vị chưa xác định” mà Mỹ đặt cho vùng biển này; cũng không thể thừa nhận Mỹ có quyền tự vệ ở vùng biển này. Dulles giải thích cho Cố Duy Quân rằng “Mỹ ra quân với lý do phản đối Bắc Triều Tiên xâm lược”, nếu thừa nhận eo biển Đài Loan là lãnh hải Trung Quốc, chẳng hóa ra khi phản đối xâm lược, Mỹ lại xâm lược Trung Quốc trước, thực tế không có cách nào kín kẽ. Cố Duy Quân nói: “Hiệp lực phòng thủ theo lời mời của Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc cũng không thể gọi là “xâm lược Trung Quốc”. Dulles đáp: Ngày 5 tháng 1 Tổng thống Truman đã từ chối lời mời “hiệp lực phòng thủ” của quý “Chính phủ”, chưa đầy sáu tháng sau đã nuốt lời thì không tiện, cần phải có cớ khác. Vả lại, Mỹ ra quân lần này với tư cách Liên Hợp Quốc chống xâm lược, là phất ngọn cờ quốc tế mà hành động. Chỉ có thể coi eo biển Đài Loan là “chưa xác định” Mỹ mới có danh nghĩa “bảo vệ tuyến cung ứng chiến lược”, đòi quyền tự vệ ở vùng biển này. Nếu là “hiệp lực phòng thủ”, hành động quốc tế sẽ chỉ là hành động của Mỹ và Trung Hoa Dân Quốc, tính chất của việc Hạm đội 7 vào eo biển Đài Loan cũng sẽ thành can thiệp vào nội bộ Trung Quốc. Như vậy là trái với lập trường Mỹ đã tuyên bố, nên khó có thể tiếp thu.
Điều kiện kèm theo thứ hai của Mỹ là yêu cầu Đài Loan thừa nhận “trung lập hóa Đài Loan”. Nghĩa là Mỹ một mặt dùng ưu thế của lực lượng hải quân ngăn cản Trung Quốc dùng vũ lực ở eo biển Đài Loan, nhưng mặt khác cũng yêu cầu Đài Loan chấm dứt tập kích Đại Lục. Cố Duy Quân nhân đó đề nghị với Dulles, Mỹ đã thừa nhận Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc là “Chính phủ hợp pháp duy nhất” của Trung Quốc, còn Trung Cộng đã từ lâu bị Chính phủ Quốc dân gọi là “bọn phản bội”, nay Mỹ lại không cho phép Chính phủ Quốc dân đánh dẹp “bọn phản bội”, như thế chẳng lẽ không phải là can thiệp trắng trợn vào nội chính. Dulles đáp: Hạm đội 7 vào eo biển Đài Loan là để bảo vệ an ninh cho “vùng biển chưa xác định” này, cũng là bảo vệ cho tuyến vận chuyển đường biển của Liên Hợp Quốc ở mặt trận Triều Tiên, đôi bên Chính phủ Quốc Dân và Trung Cộng, bên nào dùng vũ trang ở vùng này đều phá hoại an ninh, vì vậy Mỹ đều phản đối. Thế nhưng, với những đảo nhỏ ở ven biển Đại Lục. Mỹ
không có trách nhiệm phòng vệ, đương nhiên cũng không quản lý bất kỳ hành động nào của Chính phủ Quốc Dân.
Cách giải thích này của Dulles lộ rõ lô-gic kẻ cướp của Chủ nghĩa đế quốc, là điển hình của thói tự vỗ ngực “Tôi là chân lý” nói năng bừa bãi bất chấp sự thực. Nhưng Đài Loan vì cần núp dưới chiếc ô bảo hộ của Mỹ, đành phải ngậm đắng nuốt cay chấp nhận hai điều kiện đó.
Vì vậy, ngày 27 tháng 6 Truman ra lệnh cho Hạm đội 7 Mỹ chặn Trung Cộng tấn công Đài Loan; lý do là “bộ đội cộng sản chiếm lĩnh Đài Loan, sẽ uy hiếp trực tiếp đến an toàn của khu vực Thái Bình Dương và quân đội Mỹ có trách nhiệm thi hành chức vụ hợp pháp và cần thiết ở khu vực này”. Đồng thời, Truman tuyên bố: “Tôi đã yêu cầu Chính phủ Trung Quốc chấm dứt mọi cuộc tấn công trên không, dưới biển đối với Đại Lục. Hạm đội 7 sẽ giám sát và đốc thúc việc chấp hành này”. Ông ta tuyến bố: “Quyết định địa vị tương lai của Đài Loan phải đợi khôi phục an toàn Thái Bình Dương, phải ký hòa ước với Nhật hoặc để cho Liên Hợp Quốc xem xét”. Đây chính là nguyên tắc cơ bản cho “Thuyết địa vị Đài Loan chưa xác định” và “trung lập hóa Đài Loan” trở thành nguyên tắc cơ bản của Mỹ đối với Đài Loan.
Ngày 28 tháng 6, Diệp Công Siêu, “Bộ trưởng Ngoại giao” Đài Loan phát biểu, kiến nghị Mỹ “tiếp thu nguyên tắc trên” nhưng bảo lưu hai điểm: (1) “Đài Loan là một bộ phận của lãnh thổ Trung Quốc, các nước đã công nhận, Chính phủ Mỹ đưa ra bàn bạc giải quyết với Trung Quốc trong bản ghi nhớ, cũng không ảnh hưởng đến quyết định mở hội nghị về địa vị sau này của Đài Loan, cũng không ảnh hưởng gì đến chủ quyền của Trung Quốc đối với Đài Loan”; (2) “Trung Hoa Dân Quốc” quyết không từ bỏ nguyên tắc chung là phản công Đại Lục, tuy tạm thời đồng ý “trung lập Đài Loan”, vẫn bảo lưu quyền lực “chọn các bước tiến hành khác chống sự uy hiếp của Đảng cộng sản”.
Ngày 29 tháng 6, Đài Loan đề nghị Mỹ cho mình phái 33 nghìn quân sang Triều Tiên tham chiến, Mỹ sợ việc này sẽ dẫn tới đối kháng toàn diện về quân sự với Trung Quốc, vả lại cho rằng tàn binh bại tướng Quốc dân “chẳng có tác dụng gì”, liền cự tuyệt đề nghị của Đài Loan.
Ngày 29 tháng 8, Truman phát biểu chính sách của Mỹ về vấn đề Đài Loan, ngoài những điều cũ “địa vị Đài Loan chưa xác định” và “trung lập hóa Đài Loan” ra, còn muốn giao cho Liên Hợp Quốc thảo luận vấn đề Đài Loan. Ngày 20 tháng 9, Liên Xô đề nghị Liên Hợp Quốc thảo luận vấn đề Mỹ xâm lược Trung Hoa, Mỹ đã chính thức yêu cầu Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thảo luận vấn đề Đài Loan. Vì Đài Loan không thể thuộc về Trung Quốc bằng tranh luận, vấn đề này căn bản không có chỗ để thảo luận, cho nên đề nghị này của Mỹ rõ ràng là sỉ nhục Trung Quốc, cũng giống như có người thảo luận New York thuộc về nước nào, là sỉ nhục Mỹ.
Vì thế, phía Đài Loan thương lượng với Mỹ, hy vọng Mỹ tự động thu lại đề nghị và tỏ ra không ngại sử dụng quyền phủ quyết để ngăn Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thảo luận cái gọi là “địa vị Đài Loan”. Trong lúc đôi bên đàm phán, Dulles cảnh cáo Cố Duy Quân “nếu Chính phủ Trung Quốc phản đối mạnh mẽ lập trường của Mỹ đối với Đài Loan lại có ý muốn tranh luận với Mỹ sẽ càng thêm khó khăn cho Mỹ trong việc Mỹ bảo vệ Đài Loan khỏi Trung Quốc (chỉ nhà cầm quyền Đài Loan – dẫn giả ghi)”. Lời “xiết kim cô vừa niệm xong” Đài Loan đành nhượng bộ, ngầm đồng ý để Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thảo luận vấn đề về địa vị Đài Loan.
Trong lúc Đài Loan thỏa hiệp với Mỹ để mong được bảo hộ, Chính phủ hợp pháp chân chính của
Trung Quốc – Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, nghiêm chỉnh biểu thị, Hạm đội 7 của Mỹ xâm nhập eo biển Đài Loan là xâm lược lãnh thổ thiêng liêng của Trung Quốc, giải phóng Đài Loan là việc nội bộ của Trung Quốc, nước Mỹ trước sau không có quyền can thiệp. Đài Loan từ xưa đã là cơ hữu của Trung Quốc, trong Tuyên bố Cairo và Thông cáo Potsdam Mỹ tham gia ký kết đều viết rõ lãnh thổ Đài Loan, Bành Hồ do Nhật cưỡng chiếm của Trung Quốc, sau chiến tranh phải trả về Trung Quốc. Vì vậy, cái gọi là “vấn đề địa vị Đài Loan, Bành Hồ” tuyệt nhiên không thể có, nếu Mỹ tự làm theo ý mình, kết quả thảo luận sẽ không hề trói buộc Trung Quốc. Với sự phản đối mãnh liệt của Chính phủ Trung Quốc và chủ trương công bằng của các nước như Liên Xô, “văn bản thảo luận địa vị Đài Loan đình lại không kỳ hạn”, do Anh đề nghị được thông qua ở Đại hội đồng Liên Hợp Quốc. Khi đó, Anh đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc từ ngày 8 tháng 1 năm 1950, Đài Loan cũng được thở phào, nếu không, Đài Loan danh nghĩa gọi là đại biểu Trung Quốc ngồi ôm lấy quyền phủ quyết ở Đại hội đồng Liên Hợp Quốc lại nghe người ta thảo luận lãnh thổ Trung Quốc thuộc về ai, đây sẽ là một cảnh biết bao nhục nhã.
Do Hạm đội 7 ngang nhiên xâm nhập lãnh thổ Đài Loan, lãnh thổ Trung Quốc, cũng do quân xâm lược Mỹ – Triều không ngừng oanh tạc các thành phố và thị trấn nông thôn phía Trung Quốc ở vùng biên giới Trung – Triều, nhân dân Trung Quốc muốn nhịn mà không được. Ngày 8 tháng 10, Trung ương chính Đảng cộng sản Trung Quốc quyết định phái Quân tình nguyện nhân dân Trung Quốc vào chiến đấu ở Triều Tiên. Ngày 19 tháng 10, Quân tình nguyện nhân dân Trung Quốc tới tuyến trước Triều Tiên. Ngày 25, đội quân Trung – Triều bắt đầu phản công. Ngày 6 tháng 12, lấy lại Bình Nhưỡng, cục diện cuộc chiến Triều Tiên thay đổi hẳn bộ mặt.
Từ đó, Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc liên tiếp tấn công quân Tưởng ở bờ biển Đông Nam. Ngày 8 tháng 7 năm 1950, giải phóng các đảo Thặng Sái ở cửa sông Trường Giang; ngày 15 tháng 7, giải phóng đảo Bắc Lô Sơn ven biển phía nam Chiết Giang; ngày 16 tháng 7, giải phóng đảo Phệ Sơn, duyên hải phía đông Chiết Giang; ngày 4 tháng 8, giải phóng toàn bộ đảo nhỏ ngoại khẩu Châu Giang; ngày 7 tháng 11, giải phóng đảo Lai Dư phía đông đảo Đông Sơn. Lúc này trọng tâm chiến lược của Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc đã chuyển sang chiến trường Triều Tiên, thực sự không có đủ lực lượng chống chọi với Hạm đội 7 ở trên biển, cho nên phải hủy bỏ kế hoạch vượt biển đánh Đài Loan như đã định trước. Cuộc chiến đấu giành giật đảo nhỏ ở ven biển Đông Nam tạm thời kết thúc.
Vì Quân tình nguyện nhân dân Trung Quốc tham chiến ở Triều Tiên, ngày 16 tháng 12 năm 1950, Mỹ ra lệnh cấm vận toàn diện đối với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và quản chế tài sản của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ở Mỹ. Ngày 28 tháng 12, Chính phủ Trung Quốc ra lệnh quản chế tài sản của Mỹ ở Trung Quốc, ngừng các hoạt động tiền gửi của Mỹ ở Trung Quốc. Tình hình đối địch giữa hai nước lớn Trung – Mỹ ngày càng diễn ra ác liệt, còn quan hệ giữa Đài Loan và Mỹ thì ngày càng gắn bó.
Cuối năm 1950, Đài Loan nhìn chung cũng tạm thời an toàn, khu vực họ khống chế lúc đó, ngoài Đài Loan và Bành Hồ, còn có những đảo nhỏ như Kim Môn ven biển Phúc Kiến, Đại Trần, Nhất Giang Sơn, Ngư Sơn, Nam Kỷ Sơn ở duyên hải Chiết Giang.
III. GIAO HẢO VỚI NHẬT VÀ QUAN HỆ CHIẾN LƯỢC MỸ - TƯỞNG
Chiến tranh Triều Tiên nổ ra, làm cho Mỹ nhanh chóng thoát khỏi Nhật Bản, khiến nó thành lô cốt trung tâm bao vây chống Cộng ở Đông Á. Vì thế, tháng 10 năm 1950, Mỹ bắt đầu tích cực hoạt động, chuẩn
bị tập hợp các nước đánh nhau với Nhật ở San Francisco để ký hòa ước Nhật, tiếp theo là xóa bỏ quản chế quân sự với Nhật, để Nhật hòa nhập với Quốc tế.
Ngày 20 tháng 10, Dulles hội kiến với Cố Duy Quân, cho biết Mỹ đưa ra bảy nguyên tắc hòa ước với Nhật, trong đó liên quan đến vấn đề địa vị của Đài Loan và các đảo Bành Hồ, quy định sau này sẽ do “bốn nước Anh, Liên Xô, Trung Quốc, Mỹ quyết định”. Đây rõ ràng là phủ nhận hiệu lực Tuyên bố Cairo và Thông cáo Potsdam, vì thế Cố Duy Quân nghiêm túc chất vấn.
Dulles giải thích rằng, hạm đội Mỹ vào eo biển Đài Loan chính là vì “địa vị chưa xác định” của khu vực này, nếu hòa ước với Nhật quy định Đài Loan, Bành Hồ thuộc về Trung Quốc, Mỹ sẽ mất đi một vùng căn cứ quân sự. Ông nói không hề che đậy rằng Mỹ “không muốn Đài Loan rơi vào tay người coi Mỹ là kẻ thù, càng không muốn bị Liên Xô lợi dụng”, “dụng ý của Mỹ là tạm thời làm đông lạnh địa vị của Đài Loan… làm đông lạnh địa vị của Đài Loan, Bành Hồ, nghĩa là duy trì địa vị của Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc”.
Thái độ này của Mỹ, không những đi ngược lại lập trường của Tuyên bố Cairo và Thông cáo Potsdam, thậm chí còn mâu thuẫn với lời nói của Truman tháng trước.
Ngày 27 tháng 6, trong lời tuyên bố “Can thiệp quân sự ở Triều Tiên và Đài Loan” Truman đã nêu quyết định địa vị tương lai của Đài Loan “cần phải đợi lập lại an toàn ở Thái Bình Dương”, “ký hòa ước với Nhật hoặc Quảng Đông của Liên Hợp Quốc”. Ngày 31 tháng 8, khi trả lời nhà báo, Truman nói: “Vấn đề này sẽ được giải quyết trong hòa ước với Nhật của các nước đồng minh đã tham gia đánh Nhật và các nước hiện đang có quân Nhật chiếm đóng”. Vậy mà, đến tháng 10, lúc chính thức hòa giải với Nhật, lại muốn bắt đầu “làm đông lạnh” “vấn đề Đài Loan”, như thế chứng tỏ Mỹ vốn không muốn giải quyết vấn đề này. Nói chuẩn xác hơn, cái gọi là “địa vị Đài Loan chưa xác định” do Mỹ can thiệp vào nội bộ Trung Quốc, đương nhiên không thể dễ dàng vứt bỏ.
Đài Loan biết rõ “làm đông lạnh” là xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền Trung Quốc, nhưng để Hạm đội 7 có lý do “hợp tác phòng thủ”, nên họ phải cúi đầu trước Mỹ. Ngày 19 tháng 12, Cố Duy Quân nhận lệnh chuyển tới Dulles, Đài Loan đã đồng ý trong hòa ước không viết rõ Nhật đã trao trả Đài Loan cho Trung Quốc, chỉ viết Nhật Bản từ bỏ quyền lực đối với Đài Loan, Bành Hồ là được. Ngày 22 tháng 1 năm 1951, chính thức thông báo với Mỹ bằng văn bản đồng ý ký hòa ước với Nhật.
Tháng 3, Mỹ gửi riêng cho 53 nước hữu quan bản dự thảo hòa ước, Đài Loan được Mỹ coi là đại biểu Trung Quốc dĩ nhiên cũng được một bản.
Qua nghiên cứu kỹ, Đài Loan phát hiện bản dự thảo hòa ước có vấn đề “phân biệt đối xử”, đó là vấn đề địa vị của Đài Loan và Bành Hồ, chỉ viết Nhật Bản từ bỏ mọi quyền lực, mà chưa viết rõ Nhật Bản giao quyền cho Trung Quốc; còn những đảo nhỏ như đảo Nam Khố Diệp, quần đảo Thiên Đảo, trái lại không những viết Nhật từ bỏ mọi quyền lực, mà còn viết rõ Nhật giao quyền cho Liên Xô. Như vậy, đã thể hiện rõ khuynh hướng phân biệt đối xử với Trung Hoa Dân Quốc.
Trước đây, Mỹ đã thảo luận với Đài Loan cách viết về địa vị Đài Loan, Bành Hồ trong bản dự thảo; Đài Loan cho đó là cách chọn từ trong giao dịch, còn trong Tuyên bố Cairo và Thông cáo Potsdam đã viết rõ Nhật phải trao mọi quyền lực cho Trung Quốc. Vậy trong hòa ước với Nhật chẳng cần viết lại: Nếu không có Liên Xô đối chiếu thì lô-gic lừa người dối mình này của Đài Loan chắc là có thể che
giấu cho qua. Nay có Liên Xô đối chiếu, lô-gic của Đài Loan không còn đứng vững. Vì thế, Đài Loan đề xuất với Mỹ hoặc thêm vào bản dự thảo điều “Nhật giao mọi quyền lực của Đài Loan, Bành Hồ cho Trung Quốc”, hoặc xóa “Nhật giao quyền ở đảo Nam Khố Diệp và quần đảo Thiên Đảo cho Liên Xô”, nếu không, phía Đài Loan sẽ không ký vào hòa ước.
Mỹ đã lấy “thuyết địa vị của Đài Loan chưa xác định” làm át chủ bài, can thiệp vào nội bộ Trung Quốc, nên đương nhiên không chịu viết: “Nhật trao mọi quyền lực ở Đài Loan, Bành Hồ cho Trung Quốc.” Nhưng Mỹ cũng không thể thuyết phục Liên Xô nhượng bộ, vì Liên Xô yêu cầu viết: “Nhật trao mọi quyền lực ở đảo Nam Khố Diệp và quần đảo Thiên Đảo cho Liên Xô”, là đòi hỏi chính đáng theo luật quốc tế, Chính phủ Liên Xô không có bất kỳ lý do nào để chiếu cố Đài Loan mà thu hồi yêu cầu chính đáng. Vì thế, phía Mỹ trả lời Đài Loan, bản dự thảo hòa ước không thể thay đổi theo ý ông; phía Đài Loan lại trả lời Mỹ, như vậy “Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc” không thể đồng ý ký hòa ước với Nhật.
Trong hoàn cảnh hai bên giằng co nhau kéo dài, nước Anh đã xây dựng quan hệ ngoại giao với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Trung tuần tháng 4 năm 1951, Anh đề nghị nên để đại biểu Bắc Kinh chứ không phải đại biểu Đài Bắc tham gia ký hòa ước với Nhật. Tháng 5 và tháng 6, Liên Xô hai lần đề nghị tiến hành Hội nghị Ngoại trưởng và nước Mỹ, Anh, Liên Xô, Trung Quốc (Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa), chuẩn bị ký hòa ước Nhật, nhưng Mỹ lại phản đối mạnh mẽ đại biểu Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tham gia ký kết hòa ước với Nhật.
Trung tuần tháng 6, Dulles bay đến London, thỏa hiệp được với Anh. Ngày 15 tháng 6, Mỹ thông báo cho Đài Loan biết phương án thỏa hiệp đó, điểm quan trọng là hai chính quyền của Trung Quốc đều không tham gia ký hòa ước lần này, Nhật sẽ tự quyết định ký với chính quyền nào của Trung Quốc. Đồng thời, Dulles, bí mật nói với Cố Duy Quân “thừa biết Chính phủ Nhật có thái độ lập quan hệ với Trung Cộng”. Vì lúc đó, Nhật hoàn toàn nằm dưới sự quản chế quân sự của Mỹ, cho nên Dulles nói vậy, thực tế đã nhận trách nhiệm ép Nhật ký với Đài Bắc.
Trung Quốc là nước chống Nhật lâu nhất, bị tổn thất nặng nề nhất, nhưng Mỹ lại gạt Trung Quốc ra ngoài hòa ước với Nhật, thậm chí còn để cho Nhật – nước bại trận, chọn một trong hai chính quyền Trung Quốc làm đối thủ giảng hòa, đây là sự nhục mạ thô bạo dân tộc Trung Hoa, vì thế đã bị nhân dân Trung Quốc (kể cả Đài Loan) cùng lên tiếng phản đối.
Ngay ngày 4 tháng 12 năm 1950, Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa công bố rõ ràng, mọi hòa ước với Nhật không có Trung Quốc đều là “phi pháp, vô hiệu”, không hề ràng buộc nhân dân Trung Quốc. Đài Loan không có quyền đại diện cho Trung Quốc, Chính phủ Trung Quốc không công nhận tất cả những gì Đài Loan ký với Nhật.
Mỹ vốn bài xích nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tham gia hòa ước với Nhật, muốn Đài Loan đại diện Trung Quốc, vì thế khi quyết định hai chính quyền của Trung Quốc đều không tham gia hội nghị hòa bình, bên bị tổn hại nhất dĩ nhiên là Đài Loan. Nói cách khác, Trung Quốc tuy bị Mỹ gây khó dễ chưa thể tham gia hội nghị hòa bình San Francisco, nhưng đã buộc Mỹ phải bỏ ý định để Đài Loan đại diện Trung Quốc.
Ngày 18 tháng 6, tức ba ngày sau khi Mỹ báo cho Đài Loan, Tưởng Giới Thạch biết không thể tham gia hội nghị hòa bình đã tỏ lập trường cứng rắn, tuyên bố: “Quyền tham gia ký kết hòa ước với Nhật
của Trung Hoa Dân Quốc là không còn nghi ngờ gì nữa, Chính phủ Trung Hoa Dân quốc có quyền bình đẳng tham gia ký kết hòa ước với Nhật. Bất kỳ điều kiện nào có tính chất phân biệt đối xử sẽ không được chấp nhận. Bất kỳ hòa ước nào ký với Nhật vi phạm lập trường nghiêm chỉnh trên đây của Chính phủ Dân quốc, không những mất hiệu lực pháp lý và đạo lý, mà còn không bao giờ rửa sạch sai lầm trong lịch sử cùng nhau sát cánh chiến đấu của các nước đồng minh. Trách nhiệm quan trọng, ảnh hưởng to lớn của nó không thể không nói ra – vì thế hòa ước với Nhật mất tính chân thực này, không những làm Đại chiến thế giới thứ II không thể thực sự kết thúc, mà sẽ làm hỗn loạn thêm thời cục ở khu vực Viễn Đông, càng gây tai họa khôn cùng cho thế giới sau này”. Diệp Công Siêu “Bộ trưởng Ngoại giao” Đài Loan, cũng tuyên bố: “Trung Hoa Dân Quốc bị gạt bỏ khỏi hội nghị hòa bình San Francisco đã khích lệ kẻ xâm lược, hành động này, thật không có ngôn từ nào che đậy được. Chính phủ Mỹ đang lãnh đạo thế giới tự do đấu tranh chống sự xâm lược của cộng sản. Vậy mà trong vấn đề quan trọng này, lại nhất trí với một số ít nước công nhận cộng sản xâm lược, mâu thuẫn này thật khó giải thích.”
Đài Loan bất mãn, Mỹ không thèm để ý, Đài Loan cũng không dám kháng nghị mạnh hơn. Ngày 4 tháng 9, 51 trong số 55 nước đánh nhau với Nhật ký hòa ước với đại biểu Nhật ở San Francisco, bốn nước tham chiến không tham gia là Trung Quốc, Ấn Độ, Myanmar, Tiệp Khắc. Vì nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa bị gạt ra, nên trong hòa ước chỉ nêu Nhật từ bỏ mọi quyền lực ở Đài Loan, Bành Hồ và các đảo, mà chưa quy định Đài Loan thuộc về bên nào, cho nên Liên Xô, Ba Lan và Tiệp Khắc cự tuyệt Hòa ước. Sau khi Mỹ biết Liên Xô dứt khoát sẽ không ký, đã gạch bỏ dòng chữ “Nhật giao trả Liên Xô đảo Nam Khố Diệp và quần đảo Thiên Đảo” trong bản dự thảo. Nhờ đó, Đài Loan được thuận nước gióng thuyền. Đến ngày 8 tháng 9, trừ Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc, 48 nước tham gia hội nghị đã ký với Nhật Hòa ước tháng 9. Sau khi ký Hòa ước, Mỹ tăng cường ép Nhật ký với Đài Loan, Nhật muốn quan sát một thời gian rồi mới quyết định. Ngày 25 tháng 10 năm 1951, phía Nhật hẹn gặp Đổng Hiển Quang của phía Đài Loan, tỏ rằng Nhật tuy rất “kính trọng Chính phủ Quốc dân đảng”, “tiếc rằng lãnh thổ hiện nay mới chỉ có Đài Loan” và tỏ rằng Nhật “rất sợ” khi ký hòa ước song phương với Đài Loan sẽ khiến cho Trung Quốc Đại Lục coi họ là kẻ thù. Ngày 29 tháng 10, Shigeru Yoshida, Thủ tướng Nhật phát biểu: “Nhật đang có quyền chọn giảng hòa, sử dụng quyền này như thế nào không thể quyết định vội vàng…” Yoshida còn nói: “Nếu Trung Cộng muốn nước tôi lập Phòng Ngoại vụ ở Thượng Hải để qua lại buôn bán, chúng tôi sẽ lập.”
Lời nói của Yoshida khiến Đài Loan lo sợ. Ngày 31 tháng 10, “Bộ trưởng Ngoại giao” Đài Loan là Diệp Công Siêu hẹn gặp Lanchyn, Đại sứ Mỹ ở Đài Loan, cho biết phía Tưởng thấy: “Lời nói của Yoshida đã tạo ra hành vi khiêu khích thế giới, Hòa ước San Francisco coi như thất bại hoàn toàn.” Lanchyn đáp: “Chính phủ Washington không có ai cố ý lừa dối đối phương” đồng thời điện gấp về Washington báo cáo với Quốc hội Mỹ về sự bất mãn của Đài Loan.
Mỹ cũng sợ Nhật ký với Bắc Kinh. Ngày 10 tháng 12, Mỹ phái Đại sứ Dulles bay sang Tokyo gây áp lực với Yoshida hiện đang nương nhờ Mỹ về mặt chính trị, quân sự, kinh tế, ngay cả Hòa ước San Francisco cũng phải đợi Quốc hội Mỹ phê chuẩn sau cùng, nên Yoshida đành nhượng bộ. Ngày 24 tháng 12, Nhật gửi công hàm cho Dulles thông báo Nhật sẽ ký với “Trung Hoa Dân Quốc”.
Ngày 20 tháng 2 năm 1952, đại biểu đôi bên Nhật – Đài bắt đầu đàm phán ký kết ở Đài Bắc, đại biểu Đài Loan đưa ra yêu cầu tám điểm, phía Nhật nêu ý kiến khác với ba điểm trong đó. Ba điểm này trở thành tiêu điểm tranh luận:
Điểm thứ nhất, đòi điều ước phải thích hợp đối với toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc. Phải là hòa ước
hoàn chỉnh chứ không phải hòa ước giới hạn. Nhật giữ ý kiến cho rằng điều ước chỉ nên thích hợp với vùng đất Trung Hoa Dân Quốc đang khống chế, hoặc toàn bộ lãnh thổ do họ khống chế sau này. Đài Loan cho rằng chữ “hoặc” trong câu này có ý “hai chọn một”, yêu cầu đổi thành chữ “và”, phía Nhật phản đối. Cuối cùng, trong phụ lục văn kiện ghi rõ hai bên cho rằng chữ “hoặc” trong chính văn có nghĩa là “và”, Đài Loan cho rằng như vậy là Nhật đã thừa nhận chủ quyền của “Trung Hoa Dân Quốc” đối với Trung Quốc Đại Lục, không đưa ý kiến khác nữa.
Điểm thứ hai, Đài Loan yêu cầu Nhật viết rõ giao mọi quyền lực ở Đài Loan, Bành Hồ cho “Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc”. Phía Nhật chỉ đồng ý ghi “từ bỏ chủ quyền” chứ không muốn viết “giao trả Trung Quốc” vì Mỹ đã thỏa thuận ngầm với Đài Loan về vấn đề này. Với sự can thiệp của Lanchyn, Đài Loan bỏ qua đề nghị đó.
Điểm thứ ba, Đài Loan nêu phải quy định trong văn kiện “Trung Hoa Dân Quốc” có quyền nhận bồi thường từ Nhật. Phía Nhật trả lời: “Đúng là Nhật phải bồi thường tổn thất chiến tranh cho Trung Quốc, nhưng người bị thiệt hại là nhân dân Trung Quốc Đại Lục – hiện do Đảng cộng sản khống chế – nên Nhật không chuẩn bị thảo luận vấn đề này với phía Đài Loan.” Cuối cùng, Đài Loan xuống nước, tự động từ bỏ bồi thường.
Sau một cuộc tranh chấp như vậy, ngày 28 tháng 4, Nhật đã ký với Đài Loan cái gọi là “Điều ước hòa bình”. Cùng ngày, Quốc hội Mỹ chính thức phê chuẩn Hòa ước San Francisco, Nhật chính thức được phép trở về với cộng đồng quốc tế.
Việc ký kết “Hòa ước Nhật – Tưởng” hoàn toàn do Mỹ giật dây từ đầu chí cuối. Văn bản sau cùng ba phía cho là được, “đại ý là vẫn giữ lại vấn đề địa vị Đài Loan” nghĩa là không để cho Nhật ghi trả lại mọi quyền lực ở đảo Bành Hồ cho Trung Quốc và chữ gọi Đài Loan là “lãnh thổ Trung Hoa Dân Quốc
đang khống chế”, mà trong luật pháp quốc tế, “khống chế” và “có chủ quyền” là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Nhật thừa nhận sự thực Trung Hoa Dân Quốc đang “khống chế” Đài Loan, Bành Hồ không có nghĩa là thừa nhận Trung Quốc “có chủ quyền” ở khu vực này. Do đó, cái gọi là “Thuyết địa vị khu Đài Loan, Bành Hồ chưa xác định” vẫn tồn tại.
Đồng thời, trong quá trình đàm phán hòa ước Nhật – Tưởng, cũng lộ ra khuynh hướng Mỹ – Nhật âm mưu tạo ra “hai nước Trung Quốc”. Nhật từ chối thảo luận vấn đề bồi thường với phía Đài Loan và kiên trì muốn hạn chế phạm vi thích hợp của điều ước trong khu vực Quốc dân đảng thực tế khống chế, điều này có nghĩa là không thừa nhận Đài Loan có chủ quyền ở Đại Lục. Ngày 26 tháng 6, trước khi ký hòa ước Nhật – Mỹ chưa đầy hai tháng, Yoshida đã tuyên bố: “Tương lai chúng tôi phải có quan hệ mọi mặt với Trung Quốc, trong đó bước thứ nhất ký điều ước mới với Trung Hoa Dân Quốc, có nghĩa điều ước này là điều ước giữa các Chính phủ hiện đang cai trị Đài Loan, tương lai chúng tôi phải ký kết một điều ước toàn diện với Trung Quốc.”
Có người hỏi: “Ý ông không thừa nhận Trung Hoa Dân Quốc là Chính phủ đại diện cho Trung Quốc” “Yoshida đáp: “Vâng”. Điều này có ngụ ý, chỉ chính quyền Bắc Kinh là Chính phủ Trung Quốc, chính quyền Đài Loan là “Chính phủ” Đài Loan. Nói cách khác, một mặt phủ nhận chính quyền Bắc Kinh có
chủ quyền đối với Đài Loan, đồng thời cũng phủ nhận chính quyền Đài Bắc có chủ quyền đối với Trung Quốc Đại Lục.
Lời nói này của Yoshida ngoài lợi ích riêng của Nhật ra, cũng còn phải thăm do phía Mỹ nữa. Lúc này,
Mỹ tuy thừa nhận Đài Loan là “Chính phủ hợp pháp duy nhất của Trung Quốc”, nhưng cũng biết rõ Quốc dân đảng không thể đánh lại Đại Lục, sớm muộn cũng phải giao thiệp với Trung Quốc Cộng sản. Vì thế, Mỹ ủng hộ Nhật hạn chế phạm vi thích hợp của Hòa ước trong khu vực Quốc dân đảng khống chế. Thực tế, khi Mỹ tuyên bố “trung lập hóa Đài Loan”, đã ngầm chứa đựng âm mưu “hai nước Trung Quốc” vì cái gọi là “trung lập” có nghĩa là thừa nhận tính hợp lý và hợp pháp của hai chính quyền cùng tồn tại.
Tóm lại, Mỹ tính toán vứt bỏ trước “Thuyết địa vị Đài Loan chưa xác định” bấy lâu vẫn lấy làm căn cứ lý luận để nói Đài Loan độc lập. Đồng thời, chuẩn bị tốt phương án “hai nước Trung Quốc”, nghĩa là trong trường hợp không có cách gì phủ nhận Đài Loan là lãnh thổ của Trung Quốc, sẽ cố gắng giữ vững địa vị chia cắt của chính quyền Quốc dân đảng, khiến Trung Quốc bị chia cắt lâu dài và cố định, có lợi cho Mỹ.
Âm mưu bắt cá hai tay này của Mỹ, hai bên Quốc – Cộng đều thấy rõ. Đảng cộng sản kiên quyết phê phán, ngăn chặn, còn Quốc dân đảng lại chọn cách “anh nói anh nghe, tôi nói tôi nghe” cho câu văn trong Hòa ước là lời giải thích phù hợp với ý mình. Lập trường “Đài Loan là lãnh thổ thiêng liêng của Trung Quốc” và phản đối “Đài Loan độc lập” cả hai phái Quốc – Cộng đều nhất trí, nhưng rốt cuộc Quốc dân đảng đồng ý với Nhật không viết rõ giao Đài Loan, Bành Hồ cho Trung Quốc, rõ ràng lập trường dân tộc của họ kém xa Đảng cộng sản.
Hòa ước Nhật – Đài chứng tỏ Mỹ đã xây dựng được một vòng phòng ngự Thái Bình Dương, suốt từ Nam Triều Tiên, Nhật Bản, Đài Loan xuống đến Philippines, Đài Loan là khâu trung tâm của vòng phòng ngự này, địa vị của nó được nâng lên trong chiến lược toàn cầu của Mỹ. Sau khi trả giá ngầm – cho phép Mỹ tuyên truyền “địa vị Đài Loan, Bành Hồ chưa xác định” và “trung lập hóa Đài Loan”, Đài Loan được chính thức thừa nhận là thuộc phe tư bản. Nhờ thế, Mỹ đảm bảo chiếc ghế của họ ở Liên Hợp Quốc và có quan hệ ngoại giao với nhiều nước tư bản, nhờ đó có thêm sức lực để chỉnh đốn nội bộ.
3. THỂ CHẾ NƯỚC ĐÔI
I. HIẾN PHÁP VÀ GIỚI NGHIÊM
Dưới chiếc ô bảo hộ của Mỹ, Quốc dân đảng bắt đầu viết một trang sử mới chia cắt thống trị Đài Loan.
Lúc này, vấn đề đặt ra trước Tưởng Giới Thạch là chọn chính thể nào cho nền thống trị. Ông Giang Nam từng nêu vấn đề này: “Ông Tưởng nếu có tinh thần dũng cảm, sau chiến tranh Triều Tiên, ông ta phải nắm chắc cơ hội, tuyên bố ngay giải tán “Quốc hội”, giải tán hai “Viện Lập pháp và Giám sát, làm tê liệt ‘Hiến pháp’.” Nếu Tưởng Giới Thạch làm đúng như thế, rõ ràng có thể làm cho địa vị thống trị mạnh thêm mau chóng, nâng cao hiệu suất của “Chính phủ”, tránh được rắc rối xảy ra trong quá trình thực hiện thể chế chính trị dân chủ, chính là điều Tưởng Giới Thạch cầu mong.
Thế nhưng, chính trị không đơn giản như “một cộng một bằng hai”, thay đổi thể chế tuy có giúp cho nền chuyên chế độc tài của Tưởng Giới Thạch mạnh lên, nhưng không tránh khỏi sinh ra những ảnh hưởng không lợi cho sự thống trị của Quốc dân đảng:
1. Với sự kiên quyết của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, địa vị quốc tế của Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đã gặp phải thách thức nghiêm trọng. Bất kỳ hành động thay đổi chính thể nào đều sẽ trực tiếp làm tổn thương đến “tính chính thống và tính hợp pháp” của Đài Loan, họ sẽ khó thu xếp kín kẽ cái điều “Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc là Chính phủ hợp pháp duy nhất vẫn được Mỹ và các nước khác tiếp tục công nhận”.
2. Lúc đó Tưởng Giới Thạch vẫn ôm hy vọng “Phản công Đại Lục”, họ gọi Đảng cộng sản là “bọn phỉ phản bội”, nếu Quốc dân đảng tự thay đổi chính thể, khó tránh khỏi làm cho người ta nghĩ rằng đây là một hiện tượng của việc thừa nhận chính quyền Bắc Kinh.
Trong cuộc chống chọi với Đảng cộng sản, Quốc dân đảng lấy “Chính trị dân chủ” để đối lập với cái gọi là “bức màn sắt chuyên chế” của Đảng cộng sản. Nếu vứt bỏ nốt chiếc khăn che thẹn này, họ sẽ mất hết lòng dân, cũng mất hết vốn liếng chính trị cuối cùng trong cuộc cạnh tranh với Đảng cộng sản.
3. Lúc này Mỹ tuy đã đổi “thọc tay trong túi” thành “chủ nghĩa bao che”, nhưng những tiếng phê bình “Chính phủ” Quốc dân đảng không dân chủ từ trước tới nay chưa dừng lại. Nếu Quốc dân đảng công khai thực hiện quân sự độc tài, nhất định sẽ ảnh hưởng đến quan hệ Mỹ – Đài vừa mới được cải thiện, làm cho Chính phủ Truman có thể giảm, thậm chí đình chỉ viện trợ cho Đài Loan. Bất kể như thế nào, Tưởng Giới Thạch cũng không thể chịu nổi mối hiểm nghèo này.
4. Căn cứ pháp lý để Quốc dân đảng thống trị Đài Loan là ở chỗ: “Chính phủ Quốc dân” là “Chính phủ Trung ương” của Trung Quốc, mà Đài Loan là một tỉnh của Trung Quốc. Theo nguyên tắc địa phương phục tùng Trung ương, nhân dân Đài Loan đương nhiên có nghĩa vụ theo “Chính phủ Trung ương” lãnh đạo. Nhưng nếu thay đổi chính thể, “hệ thống pháp luật” coi như bỏ. Chính phủ mới vẫn có thể tự cho là “Chính phủ Trung ương” nhưng tính thuyết phục sẽ rất kém. Điều này chẳng khác gì giao
vũ khí cho người Đài Loan chống lại sự thống trị của Quốc dân đảng.
5. Tôn Trung Sơn, người sáng lập Quốc dân đảng, suốt đời phấn đấu thực hiện nền dân chủ chân chính ở Trung Quốc, Chủ nghĩa Tam dân của ông là ngọn cờ lý luận của Quốc dân đảng, là tiêu chuẩn ý thức hệ cho toàn thể Đảng viên Quốc dân đảng, kể cả Tưởng Giới Thạch đều phải hết lòng tin phục.
Nếu Tưởng Giới Thạch không kiêng nể, bỏ dân chủ thực hiện độc tài quân sự, ông ta không chỉ là kẻ phản bội lý luận của Tôn Trung Sơn, mà còn dễ dẫn đến sự chống đối trong nội bộ Đảng.
Vả lại, thay đổi chính thể, tất nhiên sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của hàng loạt người trong Đảng. Hàng ngàn “Đại biểu Quốc hội”, “Ủy viên Lập pháp”, “Ủy viên Giám sát” theo Tưởng về Đài Loan sẽ khó sắp xếp dưới chế độ quân quản; nếu thu hẹp các ngành trong “Chính phủ Trung ương”, tất làm cho hàng loạt người mất chức. Điều này sẽ khuấy động mâu thuẫn tiềm tàng trong Đảng, gieo mầm mống hỗn loạn lâu dài.
Do những nguyên nhân trên, cuối cùng Tưởng Giới Thạch cũng không dám vận dụng phương thức “Chính phủ trong thời kỳ đặc biệt” để thực hiện chế độ quân sự độc tài một cách trắng trợn, ông đã không ngại chuyển về Đài Loan “Cơ cấu Trung ương Dân ý” và cơ cấu chính trị đồ sộ có ở Đại Lục, rêu rao “thể chế Hiến pháp quyết không thay đổi”.
Thế nhưng, không dám vứt bỏ không có nghĩa là thật lòng thực hiện “Hiến pháp”. Tưởng Giới Thạch đã không có gan “độc tài”, lại “không có tim dân chủ”, lại thiếu niềm tin và quyết tâm thực hiện. Trong tiềm thức của ông, ngoài triết học chăn dắt dân đen của các vua chúa Trung Quốc ra, là chủ nghĩa chuyên chế của bọn phát xít. Bởi thế, “Hiến pháp” của Quốc dân đảng ngay từ khi trù bị, đã bị bóp méo thành một quái thai đầu Ngô mình Sở.
Cuối năm 1946, Tưởng Giới Thạch chọn ngày “Quốc quân” đánh hạ Trương Gia Khẩu, triệu tập “Quốc hội bàn Hiến pháp” có nghĩa là “Hiến pháp” vừa ra lò đã coi Đảng cộng sản và đông đảo nhân dân là kẻ thù. Lúc này, dân số Trung Quốc khoảng 450 triệu. Khu giải phóng có 120 triệu, mà không kể đến thái độ của nhân dân trong khu Quốc dân đảng thống trị, chỉ riêng sự phản đối của nhân dân khu giải phóng, cũng không thể triệu tập được “Quốc hội bàn Hiến pháp” này. Trong số hơn hai nghìn “đại biểu bàn Hiến pháp” có mặt, chỉ hơn 800 người được qua “dân bầu”, hơn 1.200 người khác đều do Quốc dân đảng “tự chọn”. “Hiến pháp” do “Quốc hội” đặt ra như vậy, căn bản không thể đại biểu cho ý chí của toàn thể quốc dân, nó bị Đảng cộng sản và các đảng phải dân chủ khác chống lại, gọi là Hiến pháp ngụy.
Căn cứ vào quy định hữu quan của Hiến pháp ngụy, Quốc dân đảng tự chọn “Đại biểu Quốc hội”, “Ủy viên Lập pháp” và “Ủy viên Giám sát” trong khu vực họ thống trị. Báo chí bấy giờ đưa công khai đưa tin gian lận phiếu bầu. “Quốc hội” đó đã ra đời như vậy. Ngày 29 tháng 3 năm 1948, tiến hành “họp Quốc hội” lần thứ nhất; ngày 19 tháng 4, cử Tưởng Giới Thạch làm “Tổng thống”; ngày 20 tháng 5, Tưởng Giới Thạch tuyên bố nhậm chức, bắt đầu thực hiện “Hiến pháp”.
Do “Thể chế Hiến pháp” này xây dựng trên cơ sở Hiến pháp ngụy, cái gọi là “Đại biểu Dân ý Trung ương” lại toàn do Quốc dân đảng tự chọn ra, vì thế không có đầy đủ cơ sở dân ý, về căn bản là bất hợp pháp.
Tuy vậy, nếu Quốc dân đảng thực sự làm việc theo Hiến pháp ngụy, cũng vẫn có thể tiến mạnh theo hướng dân chủ hóa. Vì bộ “Hiến pháp” này xuất phát từ Hiến chương hội nghị hiệp thương chính trị do Hội nghị hiệp chương chính trị trước đây vạch ra. Khi đó, có người của Đảng cộng sản và người phụ trách liên minh dân chủ tham gia soạn thảo, bao gồm rất nhiều điều dân chủ. Đến khi Quốc dân đảng lạm dụng triệu tập “Quốc hội bàn Hiến pháp”, muốn tranh thủ sự giúp đỡ của các giới, giới hạn trong khuôn khổ lý luận dân chủ của Tôn Trung Sơn, không thể không bảo lưu những điều này.
Ví dụ về một số quyền lợi cơ bản của nhân dân, Hiến pháp ngụy quy định: “Người dân được đảm bảo tự do thân thể. Trừ việc bắt bớ tội phạm hiện hành do luật pháp quy định riêng, cơ quan Tư pháp hoặc giám sát, không theo đúng trình tự pháp luật quy định, không được bắt bớ, giam cầm, xét hỏi, xử phạt. Công dân có quyền cự tuyệt những việc trên nếu khi thực hiện không dựa vào trình tự luật pháp quy
định. Và quy định, người bị tình nghi bị bắt bớ, giam giữ, “cơ quan bắt bớ giam giữ họ phải báo cho người đó và người thân của họ về nguyên nhân bắt bớ, giam giữ bằng văn bản, sau 24 tiếng đồng hồ đưa lên tòa án xét hỏi.” “Khi công dân bị cơ quan nào bắt bớ, giam giữ phi pháp, chính người đó hoặc người nhà họ phải đề nghị tòa án truy cứu, tòa án không được cự tuyệt và trong 24 tiếng phải truy cứu cơ quan bắt bớ giam giữ, xử lý theo pháp luật.”
Còn quy định: “Công dân ngoài những quân nhân tại ngũ ra, không bị quân sự xét hỏi. Người dân có quyền tự do cư trú và di chuyển; tự do ngôn luận, dạy học, sáng tác và xuất bản; có quyền bí mật thư tín, tự do hội họp và lập hội; có quyền thỉnh nguyện và tố tụng… quyền sống, làm việc và tài sản của
nhân dân được bảo đảm. Các quyền tự do trong ví dụ trên đây khi cần ngăn ngừa tránh gây trở ngại đến tự do của người khác, tránh tai họa căng thẳng, duy trì trật tự xã hội hoặc nhằm mục đích tăng thêm lợi ích chung, bất đắc dĩ phải hạn chế bằng pháp luật. Nhân viên cộng vụ làm trái với luật pháp, hại đến tự
do của nhân dân hoặc người có quyền lợi sẽ bị trừng trị theo pháp luật, ngoài ra còn phải chịu trách nhiệm hình sự hoặc dân sự. Những thiệt hại của người bị hại được đề nghị nhà nước bồi thường theo pháp luật.”
Những quy định nói trên, so với quy định có liên quan của Hiến pháp nhiều nước thiếu một điều “nhân dân có tự do biểu tình thị uy và bãi công”, nhưng nhìn chung, nếu bản “Hiến pháp” này được thực hiện đúng đắn thì những quyền lợi dân chủ cơ bản của nhân dân cũng đã được bảo đảm.
Quyền lợi dân chủ của người dân, theo lý luận Hiến pháp của nhà nước dân chủ có truyền thống, không ai được xâm phạm. Nhưng trong hoàn cảnh đặc biệt, nếu có thiên tai, nổi loạn hoặc ngoại xâm… để ứng biến kịp thời bảo vệ an ninh quốc gia và quyền lợi nhân dân, Nguyên thủ quốc gia hoặc Thủ tướng nội các cần có nhiều quyền lực hơn để tự do hoạt động và ban bố lệnh khẩn cấp, tức là đòi hỏi làm yếu quyền lực của cơ quan dân ý, giảm việc bảo đảm quyền lợi nhân dân, có học giả đã gọi đây là: “Độc tài Hiến pháp”. Nhưng loại độc tài này được cơ quan dân ý trao quyền tạm thời, một khi tình thế nguy hiểm đã qua thì lập lại ngay thể chế bình thường của Hiến pháp, để nhân dân lại hưởng các quyền lợi do Hiến pháp quy định. Do đó, độc tài Hiến pháp chỉ là biện pháp ứng phó nhất thời, chứ về lâu dài không làm hại đến Hiến pháp dân chủ, cho nên cũng gọi là “độc tài tốt lành”.
Điều 43 của “Hiến pháp” Quốc dân đảng cũng quy định “Tổng thống” thực hiện biện pháp khẩn cấp, trong đó chỉ quy định khi “có thiên tai, dịch bệnh hoặc có biến cố lớn về kinh tế, tài chính”, cho phép “Tổng thống” ban bố lệnh khẩn cấp, nhưng một tháng sau phải giao cho “Viện Lập pháp” truy nhận, nếu “Viện Lập pháp” không đồng ý, lệnh khẩn cấp lập tức mất hiệu lực. Điều 39 trong Hiến pháp ngụy còn quy định: “Tổng thống” căn cứ vào pháp luật tuyên bố giới nghiêm, nhưng phải được “Viện Lập
pháp” thông qua hoặc truy nhận. Khi “Viện Lập pháp” thấy cần thiết, có thể quyết nghị “Tổng thống” hủy bỏ giới nghiêm. Hai điều quy định này có ý nghĩa là quyền độc tài đã trao cho “Tổng thống” trong tình huống đặc biệt, nhưng lại phải nghiêm ngặt hạn định độc tài, đó là thể hiện sự kiềm chế của cơ quan dân ý đối với “Tổng thống”.
Khi bản “Hiến pháp” này được ban hành, Tưởng Giới Thạch đang “tiễu Cộng”, nhiều biện pháp “thời chiến” của ông vào cả hệ thống chính trị thám báo của Quốc dân đảng đều trực tiếp “làm trái Hiến pháp”, theo “Hiến pháp” quy định “cần phải chịu trách nhiệm hình sự và dân sự”. Vì “Hiến pháp” chưa quy định “Tổng thống” được hưởng quyền ra lệnh khẩn cấp “trong thời kỳ động viên thời chiến” cho nên Tưởng Giới Thạch ngay cả “độc tài tốt đẹp” cũng chưa được phép làm. Như vậy, Hiến pháp ngụy được Quốc dân đảng dùng làm vũ khí chống Cộng, chưa đối đầu với Đảng cộng sản, đã làm tổn thương đến chính Tưởng Giới Thạch.
Vì thế, tháng 3 năm 1948, khi triệu tập “Quốc hội” hành hiến lần thứ nhất, đại biểu Quốc dân đảng sồn sồn đòi sửa “Hiến pháp”, nội dung chủ yếu là: (1) Trong điều kiện tiên quyết “Tổng thống” ban lệnh khẩn cấp, thêm một dòng “động viên thời chiến” chứ không chỉ giới hạn ở thiên tai, dịch bệnh và những biến cố to lớn về kinh tế, tài chính quốc gia”; (2) “Tổng thống” thực hiện Lệnh khẩn cấp và Lệnh giới nghiêm thì không bị trình tự Hiến pháp hạn chế. Rõ ràng là, yêu cầu sửa đổi hiến pháp này muốn mượn tiếng “độc tài tốt đẹp” để hợp pháp hóa những hành vi làm trái “Hiến pháp” của Quốc dân đảng.
Nhưng Tưởng Giới Thạch nghĩ rằng bộ “Hiến pháp” này vừa mới tung ra đã gặp ngay sự chống đối của Đảng cộng sản và các Đảng phái dân chủ, đến nay vẫn chưa thi hành chính thức, Quốc dân đảng lại muốn sửa đổi, càng làm cho “Hiến pháp” bị người ta nắm đằng chuôi đã mất hết tôn nghiêm, phá vỡ nền tảng thống trị của nó. Ông ta một mặt muốn đạt mục đích sửa đổi hiến pháp, mặt khác lại phản đối hình thức sửa đổi hiến pháp. Vì thế, bọn tay chân của Đảng đưa ra “Điều khoản lâm thời”, ý nghĩa của nó tương tự như “phần ngoại lệ” có trong văn kiện pháp luật, tức là những chữ sau “nhưng…” có hiệu lực hơn là nguyên văn. Vì “Quốc hội” vốn do Quốc dân đảng một mình làm tất, đại biểu là người của Quốc dân đảng hoặc đại biểu không đảng phái chiếm tuyệt đại đa số, thế là ngày 18 tháng 4 năm 1968 đã thông qua một cách thuận lợi đề án Chế định Điều khoản lâm thời động viên thời chiến do hơn 700 đại biểu của nhóm Mạc Đức Huệ, Vương Thế Kiệt nêu ra. Lúc đó, có 1.624 đại biểu tán thành trong 2.045 đại biểu có mặt, hợp với quy định theo đa số pháp định. Vì thế, “Điều khoản lâm thời” tuy không thuộc phạm vi sửa đổi hiến pháp, nhưng lại có hiệu lực như sửa đổi hiến pháp.
Nội dung then chốt của “Điều khoản lâm thời” được thông qua lúc đó đã ghi rõ: “Tổng thống xử lý khẩn cấp trong động viên thời chiến… không bị hạn chế theo trình tự quy định ở Điều 39 hoặc Điều 43 trong Hiến pháp.” “Điều khoản lâm thời” còn quy định, việc xử lý tạm thời này được chấm dứt, do “Tổng thống” tuyên bố, hoặc “Viện Lập pháp” căn cứ vào quy định của khoản 2 Điều 57 trong “Hiến pháp” để sửa đổi trình tự hoặc chấm dứt, trình tự này phải được 2/3 số “Ủy viên Lập pháp” trở lên thông qua hai lần, điều này là không thể khi đa số “Ủy viên Lập pháp” là Đảng viên Quốc dân đảng, việc xử lý khẩn cấp được thi hành hoặc hủy bỏ, hoàn toàn do “Tổng thống” quyết định.
“Điều khoản lâm thời” đã là “tạm thời” tất phải hạn chế thời gian có hiệu lực. Trong mục 4 “Điều khoản lâm thời” quy định đến trước ngày 25 tháng 12 năm 1950 triệu tập Hội nghị lâm thời Đại hội đại biểu quốc dân, thảo luận vấn đề sửa đổi hiến pháp hoặc có hủy bỏ “Điều khoản lâm thời” hay không. Điều này có nghĩa là Đại biểu Dân ý không muốn hoàn toàn vứt bỏ quyền lực nên đã hạn chế
thời gian để tránh cho “độc tài tốt đẹp” thành độc tài thực sự.
“Điều khoản Hiến pháp tạm thời” thông qua mới được nửa tháng, Tưởng Giới Thạch đã ra Văn bản động viên thời chiến toàn quốc. Ngày 19 tháng 5, công bố Luật Giới nghiêm, hợp pháp hóa hàng loạt hoạt động phát xít chống Cộng, chống nhân dân của chúng. Ngày 19 tháng 8, Tưởng Giới Thạch lại ban bố Lệnh xử lý khẩn cấp về kinh tế – tài chính, phát hành giấy bạc mới, bắt buộc nhân dân đổi. Ngày 10 tháng 12, trước lúc về vườn, Tưởng Giới Thạch ban bố Lệnh giới nghiêm toàn quốc, quy định giới nghiêm mọi khu vực, trừ năm tỉnh Đài Loan, Tân Cương, Thanh Hải, Tây Tạng, Tây Khang, những người cầm đầu quân đội và chính quyền ở năm tỉnh như Đài Loan có thể quan sát nhu cầu tình hình, tùy cơ tuyên bố giới nghiêm.
Lệnh giới nghiêm này, ngày 23 tháng 1 năm 1949, bị “Quyền Tổng thống” là Lý Tôn Nhân hạ lệnh đình chỉ thi hành, nhưng chính quyền các nơi trung thành với Tưởng Giới Thạch đều bỏ qua. Ngày 20 tháng 5, giới nghiêm toàn bộ tỉnh Đài Loan. Ngày 27 tháng 5, Bộ Tư lệnh Cảnh bị tỉnh Đài Loan ban bố Biện
pháp thi hành ngăn ngừa hội họp phi pháp, tổ chức đoàn thể, diễu hành, nêu yêu sách, bãi khoá, bãi công, bãi thị, bãi nghiệp trong thời kỳ giới nghiêm và Biện pháp quản lý tin tức, báo chí sách vở trong thời kỳ giới nghiêm, từ đó bắt đầu thực sự quản chế quân sự.
Sau khi Tưởng Giới Thạch lại lên làm “Tổng thống”, căn cứ vào mục trao quyền của “Điều khoản lâm thời”, tiếp tục thi hành “Luật Giới nghiêm”; về sau lại mượn cớ “thời kỳ giới nghiêm” ban bố hàng loạt biện pháp bảo vệ an ninh như Kiểm tra điều lệ, kiểm tra thanh lọc gián điệp, khiến Đài Loan trở thành thế giới khủng bố trắng.
Tháng 8 năm 1950, thời gian triệu tập Hội nghị về việc hủy bỏ “Điều khoản lâm thời” hay không chỉ còn có bốn tháng. Nếu điều khoản này bị hủy bỏ thật thì lệnh khẩn cấp và tình trạng giới nghiêm cũng theo đó mà chấm dứt. Vì thế, Tưởng Giới Thạch họp “Viện trưởng” của “Viện Hành chính”, “Viện Lập pháp”, “Viện Tư pháp”, “Viện Kiểm sát”, “Viện Khảo thí”, nêu ý kiến trì hoãn họp Hội nghị này. Chủ quan mà nói, ông ta không muốn vứt bỏ “Điều khoản lâm thời”, vì thế ra sức ngăn cản; khách quan mà nói, “Đại biểu Quốc đại” ở Đài Loan bấy giờ chỉ có 1/3 tổng số, không đủ số phiếu để sửa đổi hiến pháp. Ý kiến này của Tưởng Giới Thạch được thông qua vô điều kiện.
Đến tháng 3 năm 1954, Quốc dân đảng tổ chức “Đại hội quốc dân” lần thứ 2 ở Đài Bắc. Đại hội lần này cố gắng lắm mới tạm đủ số người họp, chứ chưa đạt tới số người để sửa đổi hiến pháp, Đại hội vẫn quyết nghị: “Điều khoản lâm thời về động viên thời chiến vẫn có hiệu lực khi nó chưa bị vứt bỏ”. “Điều khoản lâm thời” từ đó trở thành “Điều khoản vĩnh viễn”, “Tổng thống” vĩnh viễn có đặc quyền ban lệnh khẩn cấp, tình trạng giới nghiêm được “Điều khoản lâm thời” bảo đảm trong suốt 38 năm.
Theo “Pháp Lệnh giới nghiêm” quy định, quyền lợi dân chủ cơ bản nhất mà nhân dân đáng được hưởng như: các quyền tự do thân thể, tự do cư trú và đi lại, tự do ngôn luận, dạy học, sáng tác và xuất bản, tự do thông tin và cả quyền sống, quyền làm việc, quyền sở hữu tài sản, nêu yêu sách, tố cáo và kiện tụng
của nhân dân, quân nhân không tại ngũ không bị quân đội xét xử... đều bị mất hết. Còn như Hiến pháp ngụy quy định người dân có quyền đề nghị Chính phủ bồi thường khi bị xâm phạm phi pháp thì chỉ là chuyện nghìn lẻ một đêm.
Mặt khác, dân quyền khô héo đã phình to cao độ quyền lực của cơ quan cảnh sát đặc biệt. Đặc vụ không chỉ đảm nhiệm xét xử “chính trị phạm” bao gồm tổ chức bí mật của Đảng cộng sản, “phần tử
thân Cộng”, “phần tử Đài độc”, mà còn đảm nhiệm kiểm tra xét hỏi văn hoá, có quyền kiểm tra và cấm sách báo. Trong lĩnh vực kinh tế, đặc vụ có quyền lớn quản chế kinh tế, thường đối với những người buôn bán vàng bạc, ngoại tệ hoặc lén lút cho vay, muốn bắt chỉ việc gán cho “tội làm rối loạn tiền tệ” là xong.
Đặc vụ lúc này, phần nhiều là người Sơn Tây. Nguyên do là khi Đài Loan thiết lập trạm “Trung thống” và “Quân thống”, đã huy động toàn bộ lực lượng này đến. Lúc đầu, họ chỉ đảm nhiệm công việc của Phòng nhì (tức là Sở Tình báo) của các binh chủng, quân chủng, tình báo quân sự, sau đó thọc tay vào trị an xã hội; lại tăng thêm “Bộ Tư lệnh Bảo an”, Đội Hiến binh, Cục Cảnh sát... thậm chí Tổng đội Kỹ thuật thuộc Bộ Quốc phòng cũng bắt người, trị tội người, gây ra hàng loạt vụ án oan uổng, giả dối, sai trái
Càng ác liệt hơn là vì bọn cầm đầu Đài Loan có trọng thưởng cho đặc vụ phá án nguy hiểm, một số đặc vụ liền cố ý đẩy người vào tội, chúng vừa là kẻ xúi bẩy phạm tội vừa là kẻ thi hành pháp luật, biến thành việc kinh doanh phát tài không mất vốn. Như nhà cầm quyền Đài Loan quy định, nói chung phá án kinh tế, người tố giác được 30% tang vật, phá một án được hưởng 35%. Vì thế, rất nhiều đặc vụ bèn đóng giả làm phần tử phạm tội, như mở hàng buôn tiền bí mật, mở sòng bạc, hoặc giả cách có ngoại hối cần bán đổ bán tháo, dẫn người đến móc nối, có người vừa vào tròng thì đặc vụ ở cửa lập tức bắt ngay. Vì kẻ tố giác và người phá án là một, “tiền ăn cắp” của người sa lưới rơi ngay vào tay bọn đặc vụ là 65%.
Trong Truyện Tưởng Kinh Quốc, Giang Nam viết về Đài Loan đầu thập kỷ 1950 như sau: “Mở trang Nhật báo Trung ương từ nửa đầu năm 1950, một tuần có đến mấy tiêu đề ‘hôm qua xử bắn tội phạm hoạt động điệp báo phỉ’, ‘khẩu hiệu bảo mật phòng chống gián điệp thấm vào phương tiện truyền bá, tới mọi xó xỉnh của toàn Đảo’, ‘ghép tội gián điệp giao cho quân Đông lộ Thanh đảo, Lục đảo Đài Loan, giam giữ hoặc cho vào bao tải, vứt ra biển làm mồi cho cá, không hề thông qua trình tự Tư pháp’”.
Tháng 5 năm 1953, Tưởng Kinh Quốc tuyên bố phá được hơn 80 vụ “hoạt động điệp báo ngụy”, trong đó riêng vụ án Tô Nghệ Lâm đã bắt giam hơn 100 người. Tháng 6, Trần Nghị người đã từng làm Tỉnh trưởng ở Đài Loan và Chủ tịch ở Chiết Giang, Trung tướng Ngộ Thạch (thời kháng chiến đã từng giữ chức Tham mưu trưởng của Trương Phát Khuê), Trung tướng Trần Bảo Thương, Tổng Giám binh, trạm thứ 4, Thượng úy Lục quân Nhiếp Hi... vì liên quan đến các vụ án “thông đồng với Cộng sản” lần lượt đều bị xử tử.
Để khống chế mạnh hơn đối với đông đảo nhân dân, Quốc dân đảng rập khuôn cho Đài Loan theo chế độ “liên gia liên đới” đã áp dụng thời kỳ ở Đại Lục. Tháng 8 năm 1953, ban bố Biện pháp kiểm tra chặt chẽ hoạt động điệp báo phỉ thời chiến, buộc nhân dân giám sát nhau, tố giác nhau, như phát hiện người nào là “gián điệp” thế là liên gia phải quên hết tình nghĩa, lập tức đi tố giác để tránh liên lụy.
Từ tháng 6 đến tháng 8 năm 1955, Quốc dân đảng lại đặt ra ở Đài Loan cái gọi là “phong trào tổng đăng ký bị buộc theo phỉ ở Đại Lục trước đây”, yêu cầu những người đã tham gia đoàn thể, đảng, chính quyền, quân sự, kinh tế, văn giáo, xã hội của Đảng cộng sản và các đoàn thể công tư; những người đã làm việc ở các cơ quan công thương, tổ chức tay sai tôn giáo của Đảng cộng sản; những người đã tham gia huấn luyện của Đảng cộng sản về các công tác quân sự, chính trị đoàn thể xã hội, văn hóa giáo dục, vận động nhân dân và công tác địa phương; những người từng bị Đảng cộng sản lợi
dụng trực tiếp hoặc “phần tử thân phỉ” gián tiếp lợi dụng; những người đã làm thủ tục đầu thú ở Đại Lục, nhưng hiện chưa có chứng minh hữu hiệu đều phải đến “Bộ Tư lệnh Bảo an” làm thủ tục đăng ký. Theo Nghiêm Gia Kiềm, Chủ tịch tỉnh Đài Loan, nói lúc đó: “Thường là những người hoạt động điệp báo phỉ và người có thái độ mờ ám không rõ ràng, ba phải, đều là những kẻ nguy hiểm, phải trừ bỏ.”
Vì ngay tiêu chuẩn đăng ký do Quốc dân đảng ban hành đã “mông lung không rõ, thế nào cũng được” cho nên ai “tình nghi” đều bị đặc vụ xét hỏi bừa bãi. Ông Đồng Hiên Tôn, người lập ra Tạp chí thời sự bị bắt cùng với tất cả giám đốc, kế toán, nhân viên của công ty ông. Hỏi nguyên do, té ra vì đặc vụ tìm thấy nhà ông có cuốn Chuyến phiêu lưu của Tom Swaye của Mark Twain, bọn đặc vụ nhầm cho là Karl Marx. Còn bà Trương Minh Chương, mẹ ông Lý Chính Đạo – người sau này được nhận giải thưởng Nobel, vì cho một người bạn học cùng trong Đại học Quảng Tây ngủ trọ đã bị chụp mũ “che giấu gián điệp” và vào tù. Những ví dụ trên, thực tế nhiều vô cùng, không sao kể hết.
Để tăng cường khống chế, cơ quan đặc vụ cho quân chui vào khắp các tầng lớp, các ngành, các đoàn thể; xây dựng phổ biến “phòng an toàn” trong các phòng ban Chính phủ và trong trường học. Theo tài liệu liên quan được công bố, năm 1958 riêng trong cơ quan Chính phủ đã có 755 “phòng an toàn”, sẽ còn lập thêm 209 phòng nữa. Đến mùa xuân năm 1958, chính thức công bố đã có tới 311.320 “án lật
đổ”. Số người bị bắt, bị gọi đến xét hỏi, bị điều tra trên 1,3 triệu người, trong khi toàn bộ nhân khẩu ở Đài Loan lúc đó chưa tới 10 triệu.
Quốc dân đảng chơi nước đôi giữa Chính trị dân chủ và “Điều khoản lâm thời” đan xen nhau, là nguồn gốc sự bất ổn trong nội bộ Đài Loan sau này. Mấy chục năm nay, thế lực chính trị của các phái chống Quốc dân đảng và những phần tử tiến bộ trong Quốc dân đảng đều nắm chắc vấn đề đặc vụ, vấn đề giới nghiêm, vấn đề nhân quyền, vấn đề dân chủ để viết, đòi Quốc dân đảng phục hồi triệt để “Hiến pháp” tôn nghiêm, thực hiện hiến pháp chân chính. Với dòng nhạc chủ yếu này, trên vũ đài chính trị Đài Loan đã diễn ra đủ loại màu sắc chính kịch, hài kịch, bi kịch và hoạt náo kịch.
II. “QUỐC HỘI MUÔN ĐỜI” LẬP KỶ LỤC THẾ GIỚI
“Hiến pháp” của Đài Loan không những mắc bệnh bẩm sinh, phát dục không tốt – “Đại biểu Quốc hội”, lập hiến, hành hiến đều do Quốc dân đảng cử ra và nuôi dưỡng, không chỉ khống chế ở “Điều khoản lâm thời” “liệt nặng nửa người”, mà còn mắc bệnh “ung thư máu” nguy hiểm – Không có cách nào thay cũ đổi mới cho Đại biểu Dân ý Trung ương được.
Tháng 5 năm 1951, bệnh “ung thư máu” phát chứng rõ rệt lần đầu.
Lúc này, theo Hiến pháp ngụy quy định, “nhiệm kỳ của “Ủy viên Lập pháp” là ba năm”, “Đại biểu Quốc đại” và “Ủy viên Giám sát” là sáu năm, “Ủy viên Lập pháp” ở khóa I đã hết nhiệm kỳ, theo pháp luật cần phải tuyên bố giải tán “Viện Lập pháp” khóa này, trong ba tháng trước khi giải tán phải cử ra các “Ủy viên Lập pháp” cho khóa II.
Nhưng nếu làm đúng như thế, “Ủy viên Lập pháp” khoá II chỉ có thể được cử ở Đài Loan, chứ không mang tính đại biểu toàn quốc, truyền thống pháp luật và “Hiến pháp” của Quốc dân đảng đã đứt gánh giữa đường, “Chính phủ Trung ương” lại không “Trung ương”, con đường cùng này đương nhiên là tắc nghẽn.
Cuối cùng quyết định chọn cách “giữ lại chữa”, do “Viện Hành chính” thông qua quyết nghị, đề nghị Tưởng Giới Thạch lấy danh nghĩa “Tổng thống” phê chuẩn. Tưởng lại đích thân thương lượng với “Viện Lập pháp”, xin cho Ủy viên khóa I được tiếp tục quyền lập pháp thêm một năm. Các “Ủy viên Lập pháp” vui vẻ đồng ý.
Giải quyết vấn đề như vậy là ngang nhiên giễu cợt hai chữ “dân chủ”. Đấy là chưa nói Tưởng Giới Thạch “lại làm Tổng thống” là không hợp pháp, cho dù là “Tổng thống hợp pháp” cũng không có quyền can thiệp vào việc đi hay ở của Đại biểu Dân ý. Vì “Ủy viên Lập pháp” chỉ chịu trách nhiệm trước cử tri, hết nhiệm kỳ phải thôi, việc này không hề liên quan đến “Tổng thống”, “Tổng thống” đích thân “níu giữ” thì đã là một trò hề, các “Ủy viên Lập pháp” cũng chịu để làm thêm một năm nữa lại càng bừa bãi. Còn như “Viện Hành chính” thông qua quyết định đề nghị “Tổng thống” níu giữ, không những trực tiếp vi phạm nguyên tắc “Ngũ quyền phân lập”, mà còn làm đảo lộn quan hệ của hai Viện. Theo “Hiến pháp”, “Viện Hành chính” phải chịu trách nhiệm trước “Viện Lập pháp”, lẽ nào lại đi quyết định vận mệnh của “Viện Lập pháp”?
Trò hề “vừa đá bóng vừa thổi còi” năm 1952 và năm 1953 đều đã diễn lại y như thế. Nhưng tới tháng 5 năm 1954, nhiệm kỳ của các “Đại biểu Quốc hội” và “Ủy viên Giám sát” đã hết. Nếu dùng cách “xin thông qua”, có phần quá phiền phức, cũng rất nực cười, hơn nữa nhiệm kỳ “Tổng thống” lúc này cũng tới hạn, muốn giữ một nhiệm kỳ nữa bắt buộc phải được “Đại biểu Quốc hội” bầu. Nếu để ông ta xin “Đại biểu Quốc hội” bầu thêm một nhiệm kỳ nữa, chẳng khác gì mình tự bầu cho mình, thật quá chướng. Vì thế, chính quyền Đài Loan quyết tâm tìm một biện pháp giải quyết dứt điểm, để sau này đỡ vất vả.
Các học giả về bệnh lý chính trị Đài Loan suy nghĩ nát óc, đề ra các phương án, nhưng vẫn không trị nổi căn bệnh khó chữa “Đại biểu Dân ý không qua bầu cử này”. Cuối cùng, không biết ai đó đã nhạy cảm, nghĩ ra cần chú ý đến từng chữ trong Hiến pháp ngụy. Điều 28 trong Hiến pháp ngụy quy định: “Đại biểu Đại hội quốc dân cứ sáu năm cử một lần. Nhiệm kỳ của Đại biểu Đại hội quốc dân từ đại hội khóa này tới ngày khai mạc Đại hội quốc dân khóa sau.” Hai chữ “khóa sau” này, chính là “chữ”
có thể gọt giũa được. Nói cách khác, nếu “khóa sau” không họp được thì đại biểu khóa này sẽ giữ nhiệm vụ mãi mãi. Phương án này được báo cáo tổng kết và được Tưởng Giới Thạch chọn dùng. Ngày 23 tháng 9 năm 1853, Tưởng đích thân truyền đạt ý này cho Hồng Lan Hữu, “Thư ký trưởng Quốc hội”; đã nói chuyện với nhà báo rằng nhiệm kỳ “Đại biểu Quốc hội” khóa I phải tới khi họp hội nghị đại biểu khóa sau mới hết, vì “Đại biểu Quốc hội” khóa II không có cách nào ra đời được thì “Đại biểu Quốc hội” khóa I tự kéo dài nhiệm kỳ là không hề gì. Như vậy, “Đại biểu Quốc hội” trở thành “đại biểu suốt đời”.
Vấn đề nhiệm kỳ của “Đại biểu Quốc hội” đã được giải quyết, vấn đề nhiệm kỳ của “Ủy viên Lập pháp và Giám sát” cũng vận dụng nguyên tắc này, nhưng vì trong Hiến pháp ngụy chỉ quy định “Ủy viên Lập pháp nhiệm kỳ ba năm”, “Ủy viên Giám sát nhiệm kỳ sáu năm” mà không có dòng “nhiệm kỳ tới ngày họp khóa sau”, cho nên còn mất nhiều mưu mẹo, do “Viện Hành chính” đề nghị “Viện Tư pháp” giải thích vấn đề này. Ngày 29 tháng 1 năm 1954, Hội nghị Viện Tư pháp Đài Loan đã lập “Bản giải thích Hiến pháp số 31”, tuyên bố “trước khi Ủy viên khóa II chưa họp hội nghị tuyển chọn và triệu tập theo ‘Hiến pháp’, ‘Ủy viên Lập pháp’, ‘Ủy viên Giám sát’ khóa I vẫn cần được tiếp tục sử dụng chức quyền của mình”. Qua lần giải thích này, “Ủy viên Lập pháp” “Ủy viên Giám sát” cũng thành Ủy viên suốt đời.
Chỉ giải quyết vấn đề nhiệm kỳ của “Đại biểu Dân ý Trung ương” chưa đủ, còn phải giải quyết vấn đề “đa số pháp định” mới có thể bảo đảm đúng “hệ thống pháp luật”. Theo “Hiến pháp” quy định số người cho “Đại hội quốc dân” là 3.045; “Viện Lập pháp” là 773; và “Viện Giám sát” là 223 người. Các cơ quan này muốn họp, số người có mặt phải quá bán mới hợp lệ. Nếu “Đại hội quốc dân” muốn sửa đổi hiến pháp, số đại biểu có mặt phải đạt 2/3 trở lên, có 3/4 đại biểu có mặt quyết nghị mới có hiệu quả. Nghĩa là con số đưa ra phải có là 2.030 người mới có thể thảo luận vấn đề sửa đổi hiến pháp. “Quốc hội” bầu “Tổng thống”, phải vượt số quá bán nghĩa là 1.523 người thì mới có hiệu quả. “Viện Lập pháp” họp đại hội cũng có những quy định như vậy, phải đạt tới 579 người mới có thể thảo luận vấn đề sửa đổi hiến pháp. “Đại biểu Quốc hội” cử ra năm 1948 thực tế là 180 người, đương nhiên là đủ số theo “Hiến pháp” quy định. Nhưng năm 1949, “Đại biểu Quốc hội” theo Quốc dân đảng chạy tới Đài Loan chỉ có 1.980 người, “Ủy viên Lập pháp” chỉ có hơn 300 người, “Ủy viên Giám sát” chỉ 104 người, con số này không ảnh hưởng nhiều đến cuộc họp “Viện Lập pháp” về mặt hợp pháp. Vì thế, sau khi Quốc dân đảng chạy tới Đài Loan, trước tháng 5 năm 1951 trong số các “Ủy viên Lập pháp” dự khuyết từ đầu đã bổ sung dần là 112 người, lôi thêm một số Ủy viên trung kiên từ các nơi như Hồng Kông, Áo Môn, Âu Mỹ về làm tăng số “Ủy viên Lập pháp” lên tới 345 người. Năm 1953, lại lôi 314 “Đại biểu Quốc hội” ở nước ngoài về, tới tháng 11 năm 1953 làm thủ tục bổ sung dần số bị khuyết. Đại biểu dự khuyết của “Quốc hội” khóa trước được bổ sung dần thêm 230 người nữa. Tổng cộng đủ 1.624 đại biểu, nhưng người có mặt thực tế chỉ có khoảng 1.580 người, miễn cưỡng vượt số phiếu thấp nhất (1.523 phiếu) quy định trong Luật Tổ chức Đại hội Quốc dân đề cử “Tổng thống”.
Tháng 12 năm 1953, Quốc dân đảng lại sửa đổi Luật Tổ chức Đại hội Quốc dân. Câu 9: “Đại biểu có mặt không quá bán không được họp” sửa thành “đại biểu có mặt không đủ 1/3 trở lên không được họp”. Kê kích xong, đến tháng 12 năm 1954 triệu tập “Đại hội Quốc dân” khóa I lần 2. “Đại hội Quốc dân” lần này cục diện do một mình Tưởng Giới Thạch “không cạnh tranh và chọn ra”, Mạc Đức Huệ và Từ Truyền Lâm là hai người bạn tranh cử được hai Đảng Nhân dân và Đảng Thanh niên đề cử, nhưng vì đại biểu có mặt ở hội nghị lần này cả thảy mới có 1.578 người, trong đó bao gồm nhiều “Đại biểu Quốc hội” của hai Đảng Dân chủ và Thanh niên, “Đại biểu Quốc hội” đăng ký thuộc Quốc dân đảng cũng không phải là của Đảng Thanh niên theo phái Tưởng. Cho nên, Tưởng Giới Thạch và Trần Thành – người được đề cử “Phó Tổng thống” thay mặt ông ta, trong cuộc bỏ phiếu vòng một đều không đạt số phiếu quá bán. Qua trao đổi ở hậu trường, bỏ phiếu lần hai mới trúng. Tới năm 1960, “Quốc hội” giảm 95 người vì số đại biểu qua đời, không thể vượt con số 1.523, nếu muốn để “Quốc hội” sửa đổi hiến pháp hoặc thông qua “Điều khoản lâm thời” còn lâu mới đạt được đa số pháp định. Do đó, Quốc dân đảng họp mưu gì để thảo luận vấn đề nan giải này. Lúc đó, có người chủ trương để nguyên hiện trạng, có người chủ trương lấy số người có thể đến họp làm chuẩn, có người chủ trương lấy số người thực tế được bầu ở đại hội khóa I làm chuẩn, ý kiến khác nhau, không được nhất trí. Cuối cùng “Văn bản giải thích Hiến pháp số 85” do Hội đồng Tư pháp lập ngày 12 tháng 2 năm 1960, tuyên bố: “Tổng số đại biểu quốc dân được Hiến pháp tăng lên, trong tình hình hiện nay, phải tính theo tiêu chuẩn số “Đại biểu Quốc hội” được bầu, nhưng có thể về họp được”. Điều này đã giải quyết căn bản vấn đề “đa số pháp định”. Thôi thì, có bao nhiêu tính bấy nhiêu là được.
Dựa theo pháp lý như thế, tổng số đại biểu của “Viện Lập pháp” và “Viện Giám sát” cũng tính theo số người có thể triệu tập được. Nhờ đó, số phiếu giới hạn 1/2 trở lên, 2/3 trở lên, 3/4 trở lên... đều được giải quyết ổn thoả, ứng cử viên “Tổng thống” do Quốc dân đảng đề cử đều có thể bầu một lần đã trúng cử với số phiếu cao nhất.
Giải quyết vấn đề nhiệm kỳ và “Đa số pháp định” như vậy đối với Đại biểu Dân ý Trung ương khóa I khiến tính mệnh của loạt người này trở thành “giá đỡ” của hệ thống luật pháp của Quốc dân đảng. Chỉ cần họ sống, hệ thống luật pháp cũng sẽ tồn tại. Cho nên họ trở thành “Quốc bảo” của chính quyền Đài Loan.
Cho đến nay, “Quốc hội”, “Viện Lập pháp” và “Viện Giám sát” của Đài Loan vẫn là: “Khóa I được bầu năm 1948”. Cơ quan “dân ý” sống lâu như thế, có một không hai trên toàn thế giới, đó là một kỷ lục thế giới của Đài Loan trong “thể chế Hiến pháp”.
Ba bộ máy gồm “Quốc hội”, “Viện Lập pháp” và “Viện Giám sát” này hợp lại tương đương với Quốc hội của các nước phương Tây. “Văn bản giải thích Hiến pháp số 76” do Hội đồng Tư pháp Đài Loan thảo ra ngày 3 tháng 5 năm 1957 đã xác nhận thêm điều đó. Như vậy, Đài Loan với diện tích hơn 30 nghìn km2 và chưa đầy mười triệu nhân khẩu lại có một “Quốc hội” đồ sộ nhất thế giới, tổng số đại biểu trên 2.200 người. Đây là kỷ lục thế giới thứ hai của Đài Loan.
“Quốc hội” sống lâu nhất, đồ sộ nhất này, cũng là “Quốc hội” bất hợp pháp nhất thế giới. Vì bất kỳ cuộc tuyển cử nào cũng đều mang tính hữu hiệu nhất thời, theo nguyên tắc “chủ quyền ở dân”, quyền lực trong tay Nghị sĩ, thực tế là quyền lực do dân ủy thác cho họ trong một thời gian, hết nhiệm kỳ, quyền đó phải trả lại dân, để dân bầu lại, kể cả việc bầu lại các Nghị sĩ này. Dù sao chăng nữa, cũng không lý gì được tín nhiệm một lần là được tín nhiệm mãi mãi. Hơn nữa, bộ máy dân cử cũng luôn biến đổi. Người bỏ phiếu lúc ban đầu, sau vài năm có thể đã chết rồi, người chưa có quyền bầu cử khi đó đến nay có thể đã có quyền bầu cử. Vì thế, định kỳ bầu lại là lệ chung của mọi cuộc bầu cử, cũng là thủ tục tối thiểu trong chế độ dân chủ.
“Đại hội Quốc dân”, “Viện Lập pháp” và “Viện Giám sát” khóa I bầu năm 1948, tỉnh Đài Loan bầu đại biểu theo tỷ lệ nhân khẩu lúc đó, nhưng những đại biểu này chiếm tỷ lệ quá ít trong ba tổ chức này, hoàn toàn không có khả năng chi phối việc thông qua hoặc phán quyết đề án. Hơn nữa, sau khi hết nhiệm kỳ họ cũng mất hết tính chất đại biểu.
Vì thế, cái gọi là “Quốc hội” của Đài Loan không tiêu biểu cho ý chí của nhân dân Đại Lục, cũng không thể tiêu biểu cho ý chí của dân Đài Loan. “Tổng thống” do “Quốc hội” này bầu ra, luật pháp do “Quốc hội” này thông qua đương nhiên đều không hợp pháp.
Trong nội bộ “Đại hội Quốc dân” cũng có một số đại biểu của hai Đảng Dân chủ và Thanh niên hoặc các đại biểu không thuộc đảng phái nào, đã mâu thuẫn với chính quyền trong việc ngăn trở thông qua một số dự án chà đạp lên quyền lợi của nhân dân; hoặc trong việc sử dụng quyền của “Đại biểu Dân
ý” theo “Hiến pháp”. Về chủ quan, có thể đúng là họ muốn bảo vệ “Hiến pháp”, nhưng chính họ lại là những đại biểu “suốt đời” không có cơ sở dân ý. Họ có được tư cách phát ngôn là thông qua con đường không dân chủ, dĩ nhiên cũng khó đấu tranh đến cùng với chính quyền. Dù xung đột sâu sắc đến mấy, cuối cùng họ vẫn cúi đầu thỏa hiệp.
Mấy chục năm nay, chính quyền Quốc dân đảng muốn thông qua dự luật gì đều thông qua được dự luật ấy. “Đại biểu Dân ý Trung ương” với “chế độ suốt đời” đó, thực tế đã đủ là một cỗ máy thuần phục, có hiệu lực lâu dài của Quốc dân đảng.
Những điều trên đây chứng tỏ cái gọi là “Bộ máy Dân ý Trung ương” của Đài Loan tức “Quốc hội”,
căn bản không được dân bầu, rõ ràng là không hợp pháp. Tác dụng chủ yếu của nó chỉ là bức bình phong chính trị và là con dấu cao su với nền chuyên chính một đảng của Quốc dân đảng. Nhưng mặt khác “Quốc hội” này – dù sao cũng có một số quyền phê chuẩn dự luật – có quyền xem xét, bàn bạc về dự toán của “Chính phủ” và có quyền chất vấn “Viện trưởng Hành chính” và “Viện Giám sát”, có quyền theo dõi quan chức các cấp. Điều này khiến các “Ủy viên Lập pháp” và “Ủy viên Giám sát” trong một chừng mực nhất định vẫn có khả năng kiềm chế đối với những người đứng đầu Đảng và chính quyền. Theo đà phát triển kinh tế, phổ cập giáo dục ở Đài Loan, với ý thức tham gia chính trị của nhân dân được nâng cao, sự kiềm chế của “Quốc hội” càng được thể hiện rõ. “Quốc hội” vốn bị coi chỉ là “quán tán gẫu”, ngày càng trở thành đấu trường và là nơi xung đột chính trị của các chính khách.
III. TỈNH, HUYỆN TỰ TRỊ, MẠNH AI NẤY LÀM
Cái gọi là “Chính trị dân chủ”, ngoài Cơ quan Dân ý Trung ương ra, còn lấy tự trị tỉnh, huyện làm nội dung quan trọng.
Tự trị tỉnh, huyện là một trong những chủ trương chính của Tôn Trung Sơn. Để mở rộng phạm vi quyền dân chủ trực tiếp và xét đặc điểm đất đai rộng lớn của Trung Quốc, Tôn Trung Sơn chủ trương xây dựng chính thể phân quyền giữa Trung ương và địa phương, nhấn mạnh khâu tỉnh, huyện tự trị nhằm đạt được mục đích tỉnh nào dân bầu Tỉnh trưởng và Nghị sĩ tỉnh của tỉnh ấy; huyện nào dân bầu Huyện trưởng và Nghị sĩ huyện của huyện ấy; tỉnh, huyện tự xây dựng và thực hiện các chính sách về giáo dục, y tế, công thương nghiệp, giao thông, nông lâm, thủy lợi, tài chính, ngân hàng. Nhưng các chính sách của tỉnh không được trái với hiến pháp và luật pháp Trung ương, vừa để các nơi phát huy tính tích cực trên cơ sở thực tế của mình. Tư tưởng nói trên của Tôn Trung Sơn đã bao gồm cả trong “Hiến pháp” của Quốc dân đảng và thành văn bản cụ thể.
Nhưng Quốc dân đảng chưa thực hiện tỉnh, huyện tự trị ở Đại Lục, họ nói là không kịp thực hiện vì còn phải dẹp phỉ Cộng.
Nhân dân Đài Loan trong cuộc khởi nghĩa ngày 28 tháng 2, đề nghị Quốc dân đảng “tôn trọng di chúc của Quốc phụ”, nhanh chóng thi hành tỉnh, huyện tự trị. Sau khi trấn áp cuộc khởi nghĩa, Quốc dân đảng cử Bạch Sùng Hi và Tưởng Kinh Quốc tới “vỗ về” Đài Loan, hứa cho Đài Loan được bầu Tỉnh trưởng, Huyện trưởng trước thời hạn, cái gọi là “trước thời hạn” này, là so với Đại Lục. Tại sao Đài Loan có thể làm trước thời hạn? Một là để dẹp nỗi phẫn nộ của nhân dân Đài Loan. Hai là vì Đài Loan chưa có “phiến loạn” Cộng sản, vì thế không có lý do kéo dài việc thực hiện tỉnh, huyện tự trị.
Thời gian Trần Thành cai trị Đài Loan, lớn tiếng nhấn mạnh tỉnh, huyện tự trị và ủng hộ các thân sĩ nổi tiếng thành lập “Hội nghiên cứu tỉnh tự trị”. Trần Thành cho biết, ông muốn thực hiện lời dặn của Tôn Trung Sơn và những quy định trong “Hiến pháp” chứ không phải là núp dưới lá cờ “tỉnh huyện tự trị” để lập quốc vương độc lập, chống lại “Quyền Tổng thống” Lý Tôn Nhân.
Nào ngờ Lý Tôn Nhân nắm quyền chưa được một năm đã chạy sang Mỹ, quân Quốc dân đảng tan rã, trong vòng một năm đã mất toàn bộ Đại Lục. Đài Loan trở thành nơi ẩn náu cuối cùng. Vì thế, tỉnh, huyện tự trị trở thành gánh nặng chính trị. Nếu làm đúng phép, “Chính phủ Trung ương” của Quốc dân đảng sẽ đặt ở chỗ nào. Nếu không làm, đã trót hứa nhiều lần rồi, không tiện nuốt lời. Hơn nữa, đây là chủ trương quan trọng của Tôn Trung Sơn, lại đã ghi trong “Hiến pháp”, cứ phải làm như vậy mới
xong.
Vì thế Quốc dân đảng chỉ quyết định huyện, thị xã tự trị chứ không mở rộng ra chính quyền cấp tỉnh, Nghị sĩ tỉnh vẫn để dân bầu, nhưng Chủ tịch tỉnh và Ủy viên chính quyền tỉnh đều do Trung ương phái tới. Vì chính quyền tỉnh chịu trách nhiệm với Trung ương mà không chịu trách nhiệm với “Nghị viện tỉnh”, nên Nghị sĩ tỉnh quá lắm chỉ có thể chất vấn hoặc phê bình ở hội nghị. Chủ tịch tỉnh có sai, các Nghị sĩ cũng không làm gì được.
Khi mới chạy ra Đài Loan, Tưởng Giới Thạch đã có ý muốn cải cách tổ chức hành chính để “Viện trưởng Hành chính” kiêm nhiệm chức vụ “Chủ tịch tỉnh Đài Loan”, Bộ trưởng các Bộ Nội chính, Tài chính, Giáo dục, Kinh tế, kiêm luôn trưởng các ty của chính quyền tỉnh Đài Loan là “cách nghĩ trực giác”. Trong cái mà Tưởng tự xưng này, có thể thấy ông ta chưa hề nghĩ đến vấn đề tỉnh tự trị. Ngược lại, thiên về thủ tiêu chính quyền cấp tỉnh, tập trung mọi quyền lực về Trung ương. Nếu làm theo “cách nghĩ trực giác” này của Tưởng, Đài Loan sẽ lại lập một kỷ lục thế giới mới, vì hiện nay trên thế giới chưa có chính quyền nào tồn tại với Thủ tướng kiêm Tỉnh trưởng, Bộ trưởng kiêm Trưởng ty. Chắc là cũng nghĩ đến điều quá lộn xộn này, cho nên chính quyền Đài Loan vẫn giữ như cũ.
Nhưng giữ như cũ vẫn có vấn đề, “Chính phủ Trung ương” và chính quyền tỉnh cùng quản một khu, cùng làm một việc, mỗi bên đều có một ban bệ riêng phạm vi nghiệp vụ hầu như giống nhau. Theo thể chế, công văn của “Chính phủ Trung ương” đều phải qua chính quyền tỉnh, lãng phí thời gian và công sức. Mọi việc lớn trong tỉnh, Trung ương đều trực tiếp quản lý, Tỉnh muốn cũng không thể chủ động được. Lâu dần, bộ máy Tỉnh teo đi, hiệu suất làm việc của “Chính phủ Trung ương” cũng khó nâng cao.
Từ khi trù bị địa phương tự trị tới nay, Đài Loan vẫn không theo yêu cầu trong Hiến pháp ngụy, đặt ra quy tắc và luật tỉnh, huyện tự trị, quyền hạn của các Nghị sĩ tỉnh, huyện, thị và người đứng đầu huyện thị do dân bầu ra, đều được quy định bởi “Viện Hành chính” Đài Loan theo phương thức mệnh lệnh hành chính, bất kỳ lúc nào cũng có thể sửa đổi hoặc cắt giảm.
Do chưa ban bố Luật tự trị nên những chính sách về các mặt giáo dục, vệ sinh, công thương nghiệp, giao thông, cảnh giới, nông lâm, tài chính... không có hiệu lực pháp lý. Cái gọi là “tự trị” cũng sẽ chỉ còn lại trong nội dung Huyện trưởng, Thị trưởng do dân bầu. Nhưng Huyện trưởng, Thị trưởng do dân bầu tất nhiên chỉ có thể bị động chấp hành chính sách về pháp lệnh của Trung ương, thực tế cũng không thể gọi là tự trị.
Ngày 5 tháng 4 năm 1950, “Viện Hành chính” Đài Loan thông qua Đề cương huyện thị tự trị của tỉnh Đài Loan. Ngày 24 tháng đó “Chính phủ tỉnh” công bố thi hành. Ngày 7 tháng 6, “Viện Hành chính” thông qua: Pháp quy tuyển cử của tỉnh Đài Loan, tháng 7 bắt đầu bầu Nghị viện huyện, thị. Tháng 10 bầu Huyện trưởng, Thị trưởng khóa I. Cùng lúc đó, quần chúng nhân dân bầu các cấp cơ sở.
Nhiệm kỳ Ủy viên huyện, thị đầu tiên là hai năm. Từ khóa III (1954) đổi là ba năm, từ khóa VI (1964) đổi là bốn năm.
Huyện, Thị trưởng lúc đầu nhiệm kỳ ba năm, từ khóa IV (năm 1960) trở đi, đổi là bốn năm. Tháng 12 năm 1951, lại bầu “Nghị viện tỉnh” lâm thời khóa I, nhiệm kỳ của Nghị sĩ là ba năm. Tháng
6 năm 1959, “Nghị viện tỉnh” lâm thời khóa III, đổi lại là “Nghị viện tỉnh” khóa I. Từ năm 1960 trở đi, nhiệm kỳ mỗi khóa của Nghị sĩ là bốn năm. Quốc dân đảng
Quốc dân đảng đã thay đổi ranh giới hành chính của Đài Loan, nhưng tất cả vẫn có 20-22 khu vực dân bầu Huyện trưởng, Thị trưởng. Cái gọi là “tham chính” huyện, Thị trưởng cũng chỉ có thực quyền trong những khu vực này mà thôi. Còn Nghị sĩ tỉnh, huyện, thị hầu như không có quyền lập pháp, quyền chất vấn, thuần túy là Nghị sĩ nghĩa là chỉ được bàn luận ở hội nghị mà thôi.
Từ năm 1959 trở đi, Đài Loan lấy cớ “không có tư cách pháp nhân tự trị” các quan chức từ Khu trưởng trở xuống ở năm thị trấn Đài Bắc, Cao Hùng, Cơ Long, Đài Trung, Đài Nam, đều dân cử đổi thành quan cử. Sau này, Tân Trúc và Gia nghĩa được lên cấp là thành phố trực thuộc tỉnh, cũng làm như vậy.
Các thành phố nói trên, công nghiệp chiếm trên 90%, dân số chiếm trên 1/3 toàn Đài Loan. Sau khi chủ trương ở đây do quan cử những ai được dân bầu nếu hợp tác tốt với chính quyền còn được làm, nếu không, sẽ bị cả dân lẫn quan công kích. Như năm 1954 và 1964, Cao Ngọc Thụ, nhân vật chống đối, hai lần được bầu làm Thị trưởng Đài Bắc, trong nhiệm kỳ của mình đã nhiều lần phải chịu đắng cay.
Năm 1967 và năm 1979, Quốc dân đảng lại khoanh thị trấn Đài Bắc và thị trấn Cao Hùng thành thị trấn trực thuộc “Viện Hành chính”, ngang cấp tỉnh và Thị trưởng do dân cử trước đây nay do quan cử. Thị trấn Đài Bắc là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa giáo dục của Đài Loan. Thị trấn Cao Hùng là một cảng lớn số 1 và là trung tâm công nghiệp nặng, công nghiệp hóa chất, công nghiệp gia công xuất khẩu của Đài Loan. Nhân khẩu của hai thị trấn này gộp lại bằng 1/5 nhân khẩu toàn Đài Loan, thay đổi chế độ xong là ra khỏi phạm vi “tự trị”.
Quốc dân đảng một mặt dùng thủ đoạn khấu đầu trừ đuôi này, ra sức hạn chế chức quyền của các quan chức do dân bầu và các Nghị sĩ ra sức thu hẹp phạm vi “tự trị”, mặt khác, lại hăng hái đưa người được đề cử của đảng mình ra ứng cử, những người được đề cử này hoặc là Đảng viên được bồi dưỡng hoặc là những người nổi tiếng gốc Đài Loan và do Trung ương Quốc dân đảng đưa vào. Do đó, làm tăng tỷ lệ người gốc Đài Loan tham gia chính quyền, giải quyết được mâu thuẫn về gốc gác, vẫn có thể phất ngọn cờ “tự trị”, để tiếp tục quán triệt “Đảng trị”.
Để đảm bảo chắc chắn cho người của mình được trúng cử, Quốc dân đảng giở hàng loạt thủ đoạn như:
1. Chính phủ kiên quyết bao chọn việc tuyển cử. Ở các nước tư bản, để ngăn chặn đảng cầm quyền lợi dụng “hợp pháp hóa các hành vi phi pháp”, thường dùng hai biện pháp hoặc là do một bộ máy “siêu Chính phủ” đứng ra tổ chức tuyển cử; hoặc xây dựng riêng một bộ máy giám sát tuyển cử độc lập. Dù chọn cách nào, thành viên đều phải là người của các đảng cử ra gánh vác chung, để đảm bảo bầu cử được công bằng, chính trực.
Nhưng chính quyền Đài Loan lại tự mình khai phá con đường riêng. Từ năm 1950, bắt đầu cho “địa phương tự trị”, nhưng họ lại từ chối lời kêu gọi của Đảng Xã hội Dân chủ, Đảng Thanh niên và thế lực địa phương Đài Loan, không cho những người của ba đảng và địa phương cùng làm công việc tuyển chọn, vẫn nhất quyết Chính phủ nắm trọn việc tuyển cử. Nhân viên làm công tác bầu cử mỗi khóa đều do “Chính phủ” chỉ định, từ việc sắp xếp, bỏ phiếu, kiểm tra phiếu, cử người vào ban bầu cử, kiểm tra
tư cách ứng cử viên, xem xét kết quả bầu cử, xử lý các khiếu nại đều do “Chính phủ” mà thực tế là Quốc dân đảng khống chế.
Nếu có một bộ máy giám sát bầu cử độc lập giao việc tuyển cử cho “Chính phủ” cũng được. Nhưng Quốc dân đảng cũng không chịu nhường. Tháng 6 năm 1950, Đài Loan thành lập Ủy ban giám sát bầu cử, mỗi đảng phái, đoàn thể tham gia bầu cử được cử một Ủy viên. Trên thực tế, ngoài hai Ủy viên của Đảng Xã hội Dân chủ và Đảng Thanh niên, đại biểu của các đoàn thể còn lại đều là Đảng viên Quốc dân đảng. Tháng 12 năm 1953, tổng số Ủy viên Ủy ban giám sát bầu cử nhiều nhất là 15-17 người, nhưng vẫn chỉ có hai Ủy viên của hai Đảng Dân chủ và Thanh niên là không thuộc Quốc dân đảng. Năm 1957, Đài Loan tiến hành bầu Nghị sĩ tỉnh và Huyện trưởng, Thị trưởng khóa III. Quốc dân đảng vốn đã đồng ý lần này “giám sát viên bỏ phiếu và mở phiếu cho ba đảng cùng cử ra”, nhưng trước hôm bầu cử lại nuốt lời, vẫn một mình ôm lấy công việc giám sát bầu cử, kết quả là hai đảng Xã hội Dân chủ và Thanh niên tuyên bố từ nay không đưa ứng cử viên tham gia tranh cử nữa.
Năm 1967, số Ủy viên của Ủy ban giám sát bầu cử lại tăng từ 17-21 người, nhưng vẫn chỉ có hai chỗ như năm 1950 cho đảng phái khác. Tới năm 1980, Đài Loan thông qua Luật Bãi miễn, càng thủ tiêu bớt số đại biểu của đảng khác. Luật quy định chung chung: “Nhân viên giám sát các cấp là những người chân chính, có quyền bầu cử và được Ủy ban bầu cử chọn lựa”, có nghĩa là bộ máy giám sát bầu cử rơi vào tay Quốc dân đảng. “Từ đấy, việc Quốc dân đảng thề thốt về việc làm tốt bầu cử không còn gì để bảo đảm nữa.”
2. Hạn chế quyền ứng cử của công dân. Đại đa số các nước quy định quyền bầu cử và quyền ứng cử của công dân, đều chỉ hạn chế về tuổi. Một số nước còn quy định thêm những người bị tịch thu tài sản, chịu hình phạt, vi phạm Luật Bầu cử đều không được ứng cử. Những quy định này gọi là hạn chế tư cách tiêu cực.
Cũng có một số nước lại căn cứ vào giới tính, chủng tộc, xuất thân, trình độ giáo dục, tình hình tài sản mà hạn chế thậm chí tước bỏ quyền ứng cử. Những quy định này gọi là hạn chế tư cách thử loại, đã bị tuyệt đại đa số nước trên thế giới bác bỏ.
Tại sao hạn chế tư cách thử loại cần phải vứt bỏ? Vì nó trái với nguyên tắc “bầu cử bình đẳng” và “chủ quyền ở dân”, xâm phạm quyền ứng cử của nhiều người, không tin vào sự xét đoán của nhân dân.
Trong Hiến pháp ngụy, quy định công dân đủ 20 tuổi có quyền bầu cử, đủ 23 tuổi có quyền ứng cử, ngoài ra không quy định những hạn chế khác. Năm 1950, Quốc dân đảng tiến hành bầu cử địa phương Đài Loan khóa đầu, cũng chưa hạn chế.
Nhưng từ năm 1953 trở đi, Quốc dân đảng quy định ứng cử viên Huyện trưởng, Thị trưởng phải thi đạt tư cách Huyện trưởng hoặc phải tốt nghiệp trường cao đẳng chuyên nghiệp trở lên. Năm 1967, lại quy định ứng cử viên Nghị sĩ tỉnh, Nghị sĩ thành phố trực thuộc “Viện Hành chính” phải tốt nghiệp trung học hoặc có học lực đạt tiêu chuẩn trong kỳ thi phổ thông; ứng cử viên huyện thị phải tốt nghiệp tiểu học hoặc qua kỳ thi đặc biệt; ứng cử viên thuộc huyện, thị đều phải tốt nghiệp “trường quốc lập”. Những tiêu chuẩn học lực và hạn chế tư cách tiêu cực này vẫn tiếp diễn cho tới nay.
Xem qua, có vẻ như những hạn chế này chỉ để bảo đảm trình độ hiểu biết và năng lực làm việc hành chính của các quan chức địa phương và của các Nghị sĩ, đạt tiêu chuẩn này cũng không khó khăn gì.
Thực tế, giáo dục ở Đài Loan lúc đó còn chưa phổ cập, những người có học lực từ trung cấp trở lên, phần nhiều là địa chủ, tài phiệt, làm quan to thời Nhật chiếm đóng hoặc là nhân viên ở Đại Lục chạy trốn ra Đài Loan. Thực hiện hạn chế học lực là làm mất cơ hội ứng cử của tuyệt đại đa số quần chúng. Ghế của các huyện Thị trưởng, Nghị sĩ tỉnh, Nghị sĩ huyện thị thực tế đã trở thành thứ độc quyền của các thân sĩ cường hào. Cho tới ngày nay, loại chính trị môn phiệt này vẫn là đặc điểm của tuyển cử địa phương Đài Loan.
3. Trói buộc và thắt chặt hoạt động tuyển cử. Theo quan niệm dân chủ được công nhận, tuyển cử là hình thức chủ yếu để người dân sử dụng quyền lực. Vì thế, cần tìm mọi cách khuyến khích đông đảo nhân dân tham gia hoạt động bầu cử. Để thể hiện tính chất thiêng liêng và chính trực của bầu cử, các nước đều đặt ra Luật xử tội cản trở bầu cử. Trọng điểm của luật này là đánh vào người tranh cử bằng hối lộ, gian lận, vơ vét phiếu bầu phi pháp và những người phục vụ bầu cử lạm dụng chức quyền để làm lợi riêng cho đảng phái. Ngay cả việc gây nhộn nhạo trong bầu cử cũng bị coi là phạm tội phá hoại nói chung, không tránh khỏi bị hình phạt.
Quốc dân đảng, ngược lại, nhìn bầu cử với con mắt khác. Khi lần đầu tổ chức bầu cử địa phương, “Bộ Nội chính” chủ trì công việc phục vụ dân cử ra tuyên bố: “Đúng giai đoạn chống Cộng chống Nga quan trọng, dùng mọi biện pháp hành chính để tăng cường ổn định xã hội, thích hợp với nhu cầu quân sự. Việc thực hiện quyền tự trị cũng phải xử lý thận trọng.”45 Có nghĩa là về mặt lập pháp, bỏ qua việc gây rối của nhân viên bầu cử, quay mũi nhọn chống phá về phía cử tri. Quy định trong thời gian bầu cử, quần chúng cử tri gây ồn ào hoặc phá trật tự xã hội, người chủ mưu bị phạt tù từ mười năm đến chung thân; kẻ tòng phạm phạt tù từ bảy năm trở lên; còn trong thời gian không bầu cử mà phạm tội này thì tù nặng nhất là năm năm. Quốc dân đảng cho bầu cử là thời kỳ đặc biệt “có ý định làm hại đến Chính phủ”, cho nên ngoài hình pháp ra, không ngại đưa ra các luật đặc biệt để xử tội nặng thêm.
Với cách nhìn khác lạ như vậy, Quốc dân đảng dần thắt chặt các quy định. Bầu cử lần đầu tiên năm 1950 chưa có hạn chế nhiều đối với ứng cử viên. Đến tháng 12 năm 1953, bắt đầu hạn định mỗi ứng cử viên chỉ được 15 người cổ động, nhưng lại không quy định rõ hoạt động của người cổ động, do đó trói chặt cuộc tranh cử.
Năm 1963, chính quyền Đài Loan sửa lại lần thứ tư Biện pháp hạn chế những trở ngại bầu cử, quy định (1) Công khai diễn giảng hoặc hô hào tuyên truyền cho người ứng cử; (2) phân phát hoặc dán các tài liệu tuyên truyền cho người ứng cử; (3) những hành vi khác nhằm mục đích cổ động ứng cử viên. Ba điều trên là hoạt động của cổ động viên. Cổ động viên vượt quá 15 người cho một ứng cử viên nào thì người đó mất tư cách trúng cử. Đồng thời còn quy định “Năm điều cấm” trong khi phát biểu chính kiến: (1) Không được trái “Hiến pháp”; (2) Không được làm tổn hại lợi ích quốc gia; (3) Không được trái với “quốc sách” chống Cộng; (4) Không được đặt điều bôi nhọ Chính phủ hoặc công kích đoàn thể khác; (5) Không được phỉ báng những các ứng cử viên khác. Vì “Năm điều cấm” chẳng qua chỉ cốt để không đụng đến Quốc dân đảng nên những người tranh cử câm như hến, còn cổ động viên lại bị hạn chế về số người cũng khó gây tiếng vang lớn. Do đó, “bầu cử trong im lặng” đã thành đặc trưng của chính trị Đài Loan hơn mười năm sau.
Thời kỳ những năm 1970, thế lực ngoại Đảng phá vỡ dây trói của Quốc dân đảng, bầu cử mới dần dần có sức sống. Năm 1980, Quốc dân đảng đặt ra Luật bầu cử và bãi miễn quan chức trong thời chiến, trong Bản dự thảo luật đã định sao nguyên văn “Năm điều cấm” và hạn chế đối với cổ động viên, nhưng bị các chuyên gia và đông đảo nhân dân phản đối mạnh mẽ, đã buộc phải hủy bỏ, thay bằng quy
định tương đối hợp lý hơn. Tuyển cử cũng vì thế mà được khuấy động lên, có sức sống hơn.
Năm 1983, Quốc dân đảng lại sửa đổi Luật bầu cử và bãi miễn, quan trọng nhất là thêm một quy định về cấm hoạt động bầu cử: Khi chưa được nhà đương cục cho phép, bất cứ ai cũng không được phép công khai diễn giảng, phân phát truyền đơn, treo, dựng, dán biểu ngữ, bích báo, dùng xe tuyên truyền hoặc hô hào tuyên truyền tranh cử. Đây là sau khi buông lỏng những hạn chế đối với cổ động viên nay lại hạn chế về thời gian tranh cử.
Hạn chế cổ động hoặc hạn chế thời gian hoạt động, bề ngoài cũng không loại trừ Quốc dân đảng, nhưng họ lợi dụng địa vị Đảng cầm quyền, thông qua mọi cách hàng ngày tuyên truyền cho mình. Đoàn Cứu quốc và nhiều đoàn thể xã hội của họ có thể trong nội bộ tổ chức trước khâu chuẩn bị bầu cử. Trong khi đó, ứng cử viên của các đảng phái khác, trước tiên bị hạn chế về số cổ động viên 15 người, sau khi không bị hạn chế về các hoạt động họ lại phải đợi nhà đương cục ra lệnh mới được bắt đầu hoạt động tranh cử, như vậy đương nhiên là khó thắng được người của Quốc dân đảng.
4. Kinh phí bầu cử theo chủ nghĩa buông trôi. Kiện tụng bầu cử theo chủ nghĩa bừa bãi. Các nước phương Tây tổ chức bầu cử, tuy về bản chất là “chính trị tiền bạc”, nhưng về hình thức vẫn chọn các biện pháp hạn chế các tập đoàn tư bản lớn dùng tiền bạc tác động đến ứng cử viên. Mỹ, Nhật đều quy định nghiêm ngặt mức độ quyên góp giúp ứng cử viên và khích lệ nhân dân quyên góp chút ít cho chính trị – khoản quyên góp nhỏ này có thể bù đắp phần thuế. Hiện nay ở Mỹ vẫn dùng hình thức “tuyển cử công phí”, yêu cầu ứng cử viên công bố tình hình quyên góp và báo cáo các khoản quyên góp. Nhật cũng có những biện pháp tương tự. Thường những biện pháp này đều để làm giảm ảnh hưởng của các nhà buôn lớn, giàu có và của các đoàn thể có lợi ích đối với cuộc bầu cử, bảo đảm tuyển cử có tính dân chủ và chính đáng.
Năm 1954, nhà cầm quyền Đài Loan cũng quy định mức kinh phí cao nhất cho các ứng cử viên tranh cử và có sổ theo dõi các khoản chi tiêu. Nhưng đến năm 1959 lại vứt bỏ những quy định này. Từ đó về sau không đề cập đến nguồn gốc các khoản chi và kiểm tra chi tiêu trong kinh phí tranh cử, che dấu bằng “chính sách bừa bãi”, khiến cho đút lót để trúng cử diễn ra ngày càng ác liệt. Năm 1980 khi thảo luận Bản dự luật bầu cử và bãi miễn, Phí Hy Bình, Hoàng Thuận Hưng, Khang Ninh Tường thuộc phái chống đối địa phương đã nêu chủ trương “mức chi dùng cao nhất cho tranh cử tính theo số cử tri trong khu vực bầu cử là ba Đài tệ với mỗi cử tri” và “ứng cử viên phải công bố các khoản chi trong mười ngày”, nhưng đều bị bác bỏ. Nguyên nhân đâu phải tại họ mà vì Quốc dân đảng là đảng nắm chính quyền, có quan hệ mật thiết với tập đoàn tư bản lũng đoạn lớn, “vũ khí tiền bạc” là vũ khí sắc bén để họ chiến thắng phe đối lập, tất nhiên họ không đời nào “tự nộp súng”46.
Chính vì thế, với việc kiện tụng – bầu cử, Quốc dân đảng luôn theo “chủ trương lơi là”. Quy trình bầu cử được công bố năm 1950, đã có quy định kiện tụng bầu cử có thể được xem xét lại, nhưng lại vội đổi thành “chỉ xét một lần, không phúc thẩm”, lại quy định kiện tụng phải làm trong bảy ngày sau khi công bố kết thúc bầu cử, nếu không sẽ không thụ lý. Hai điều quy định này rõ ràng có lợi cho Quốc dân đảng chứ không lợi cho phái chống đối, vì Quốc dân đảng nắm chính quyền, có cả một hệ thống đặc vụ to lớn, nếu người thuộc phái chống đối có đút lót tuyển cử, Quốc dân đảng có thể dễ dàng kiện trong bảy ngày và được xử như mong muốn. Nghĩa là bị cáo không chịu “cũng không được phúc thẩm”. Ngược lại, nếu phái chống đối kiện Quốc dân đảng đút lót bầu cử hoặc kiểm phiếu man trá, nói chung trong bảy ngày rất khó tìm đủ chứng cứ, dễ bị bác bỏ. Đến năm 1980 trong hoàn cảnh các nơi đòi hỏi mạnh mẽ, Luật bầu cử và bãi miễn mới quy định kéo dài 15 ngày, đổi “không được phúc thẩm” thành
“phúc thẩm có điều kiện”. Nhưng trình độ ăn gian trong tuyển cử của Quốc dân đảng cũng đã nâng cao rồi, trong 15 ngày nói chung không đến nỗi bị thò đuôi ra, có người phát hiện vấn đề vì sợ báo thù, không dám làm, thêm vào đó tòa án thực tế xử theo ý của Quốc dân đảng, cho nên “ngoài Đảng vĩnh viễn không thắng nổi trong kiện tụng bầu cử”.
Bốn điều nói trên vẫn thuộc thủ đoạn hợp pháp. Những thủ đoạn hợp pháp này đã che đậy khéo léo cho vô số việc làm phi pháp. Như trong hòm phiếu giấu sẵn phiếu bầu cho “người nhằm trước”; cho quân nhân và “công dân ưu tú” luân phiên bầu phiếu ở các nơi; bỏ sẵn phiếu trắng trong hòm, khi mở hòm phiếu, vứt bỏ phiếu của đối thủ thay bằng đủ số phiếu của mình; điền tên “người mình” vào phiếu trắng; làm bẩn những phiếu trúng cử của đối thủ, sau đó tuyên bố không tính; hay một người bỏ nhiều phiếu, cho “Đảng viên trung kiên” phát đếm phiếu, làm cho một người bầu nhiều phiếu... Những mẹo như thế trong những năm 1950-1960 sử dụng nhiều lần nhất, sau những năm 1970 dần giảm xuống, nhưng đến nay vẫn chưa hoàn toàn mất hẳn.
Tóm lại, thông qua các thủ đoạn nói trên, Quốc dân đảng đã xây dựng được một trận tuyến bầu cử có hỏa lực mạnh, vì thế mà mấy chục năm nay, bầu cử ở địa phương phần nhiều giữ được tỷ lệ 80% trở lên, năm gần đây giảm xuống khoảng 70%. Nhiều nhân vật của phái chống đối đã phá vỡ trận tuyến này và trúng cử. Nhưng để thực hiện mưu đồ chính trị của mình, để lần sau vẫn trúng cử, không ít người sau khi lên võ đài lại phải dựa vào Quốc dân đảng.
Mặc dù địa phương tự trị tồn tại hàng loạt những tệ nạn nói trên, nhưng nó vẫn làm một biện pháp chính trị giàu ý nghĩa tích cực nhất mà Quốc dân đảng đã làm khi thất bại chạy ra Đài Loan. Vì địa phương tự trị, dù sao cũng làm cho nhân dân có cơ hội tự chọn người lãnh đạo cơ sở. Tỉnh trưởng, Thị trưởng muốn tranh cử thắng lợi thì phải nâng cao đạo đức tu dưỡng của bản thân, phát huy thành tích công tác của bản thân; đảng bộ địa phương của Quốc dân đảng muốn bảo đảm chắc chắn cho ứng cử viên của Đảng mình được trúng cử, cũng phải đi sâu nghiên cứu nguyện vọng và lợi ích của cử tri. Như vậy, sự đối lập và ngăn cách giữa “quan” và “dân”, thiện ý và hiệu suất làm việc vì dân của cơ quan huyện đã có thay đổi tương đối lớn so với thời kỳ họ thống trị trong Đại Lục.
Có địa phương tự trị, phe chống đối Quốc dân đảng sẽ có một diễn đàn trực tiếp với nhân dân, thậm chí có thể tranh cử thắng lợi trong các chức vụ Thị trưởng, Nghị sĩ huyện, thị, cả đến Nghị sĩ tỉnh hoặc “Đại biểu Dân ý Trung ương”. Địa phương tự trị đã mở ra một con đường tham gia chính trị cho phái chống đối, cho dù con đường này vô cùng chật hẹp, nhưng dù sao có vẫn hơn không. Thực tế trong 40 năm Quốc dân đảng thất bại chạy ra Đài Loan, hoạt động bầu cử địa phương như sóng sông Trường Giang, hết đợt này đến đợt khác, đã đưa hàng loạt nhân sĩ của phái chống đối lên diễn đàn chính trị.
Bầu cử cứ cách vài năm một lần, đã không ngừng kêu gọi nhân dân nâng cao tinh thần tham gia chính trị và khả năng nhận thức chính trị, không ngừng thu hút mọi người tham dự vào việc thực hiện quyền dân chủ, phổ cập quan niệm dân chủ này; đã hình thành lực lượng dân chủ và xác lập được hướng dân chủ hóa chính trị.
4. HAI CHÍNH SÁCH LỚN
I. PHÂN TÍCH GIAI CẤP – NGUYÊN NHÂN CỦA HAI CHÍNH SÁCH LỚN
Đồng thời với thể chế giới nghiêm, tăng cường trấn áp và khống chế quần chúng nhân dân, rút ra bài học thất bại ở Đại Lục, nhà cầm quyền Đài Loan cũng áp dụng các biện pháp có lợi cho phát triển sản xuất, cải thiện dân sinh, xoa dịu mâu thuẫn giai cấp.
Ở nông thôn, cần bắt tay vào giải quyết ngay mâu thuẫn giữa địa chủ và nông dân.
Vì Nhật chủ trương “Công nghiệp Nhật Bản, Nông nghiệp Đài Loan”, tuyệt đại đa số nhân khẩu ở Đài Loan là nông dân, sức lao động cung vượt cầu, nên địa chủ Đài Loan ra sức chèn ép nông dân. Cường độ bóc lột của địa chủ Đài Loan và mâu thuẫn giai cấp sâu sắc hơn nhiều so với các tỉnh trong Đại Lục.
Địa chủ Đài Loan bóc lột theo phương thức “lột bốn lớp da”. Một là địa tô cao: Theo Kỷ yếu của Ủy ban tỉnh Đài Loan năm 1949, địa tô ở Đài Loan thường ở mức 6:4 (địa chủ 6, nông dân thuê ruộng 4), thậm chí 7:3. Hai là thực hiện “thiết tô” nghĩa là không kể được mùa hay mất trắng, nông dân vẫn phải nộp ít nhất 60% địa tô của năm được mùa nhất. Ba là “áp tô” thu một lần hai năm địa tô. Bốn là “tô phụ thẩm” nghĩa là ngoài địa tô ra, nông dân còn phải nộp một phần, thậm chí có khi toàn bộ số sản phẩm cây vườn hoặc chăn nuôi, mặc dù sản phẩm đó không do đất thuê sản xuất ra.
Để duy trì phương thức “bóc bốn lớp da”, địa chủ Đài Loan áp dụng phổ biến hợp đồng thuê ngắn hạn và hợp đồng thuê miệng. Hạn dài nhất là một năm và phần lớn chỉ thỏa thuận miệng. Hợp đồng bằng văn bản chỉ chiếm khoảng 1/10.
Vì không có căn cứ văn bản, địa chủ hễ không thích là có thể thu hồi ruộng đất, nông dân không được bảo đảm về quyền thuê ruộng.
Với áp bức nặng nề như vậy, nông dân Đài Loan phải chịu đói rét cơ cực, kêu khổ khắp nơi, có nơi đã tự nổ ra các hành động chống tô chống tức. Khi đó, Trần Thành đang là Chủ tịch tỉnh Đài Loan chỉ ra rằng: “Mâu thuẫn giữa phát canh và lĩnh canh không có cách gì hòa giải, gây mất ổn định ở nông thôn, rất dễ bị bên ngoài xúi giục, Đảng cộng sản sẽ lợi dụng kẽ hở đó mà lọt vào.” Nếu “không tăng cường cải thiện, nguồn bạo loạn sẽ phát sinh từ đó”, “bởi vậy Đài Loan phải thực hiện cải cách ruộng đất, đó là một đòi hỏi khách quan, tuy khó khăn nhưng không thể bỏ qua”.
Lúc này, quan hệ giữa nhà cầm quyền Đài Loan và địa chủ không còn như thời kỳ ở Đại Lục. Khi ở Đại Lục, địa chủ là chỗ dựa của Quốc dân đảng. Các quan chức cao cấp Quốc dân đảng phần lớn đều có quan hệ chằng chịt với địa chủ phong kiến ở nông thôn, thậm chí bản thân có rất nhiều tài sản ở nông thôn. Vì vậy, trong năm 1930, Quốc dân đảng có ban hành Luật ruộng đất, quy định phải thực hành “người cày có ruộng của họ” và “quyền chia đều ruộng đất”; về sau cũng nhiều lần nhắc lại chủ trương này, ghi cả vào trong Hiến pháp ngụy, nhưng bất kỳ biện pháp cải cách nào động chạm đến giai cấp địa chủ, ngay cả chiêu bài của Quốc dân đảng “giảm tô 25” cũng không được giải quyết ngay trong
vùng thuộc Quốc dân đảng. Còn ở Đài Loan thì ngược lại, Quốc dân đảng dù có đả kích địa chủ thế nào chẳng qua cũng chỉ có đôi chút xúc cảm, chứ bản thân Quốc dân đảng không hề thiệt thòi ảnh hưởng gì.
Hơn nữa, đối với sự thống trị của Quốc dân đảng, địa chủ Đài Loan còn là một đe dọa ngầm. Ruộng đất có thể canh tác được ở Đài Loan là 816 nghìn ha. Địa chủ chiếm 457 nghìn ha, tương đương 56% tổng diện tích canh tác. Nhân khẩu nông dân chịu sự khống chế của địa chủ là già nửa số nhân khẩu Đài Loan. Rất nhiều địa chủ dựa vào thực lực kinh tế của mình ủng hộ và giúp đỡ các phần tử “Đài độc” và các chính khách người gốc Đài Loan chống Quốc dân đảng.
Vì thế, thực hiện cải cách ruộng đất đối với nhà cầm quyền Đài Loan là một tên trúng hai đích: Vừa có thể gia ân cho dân chúng – giúp củng cố cơ sở thống trị của mình, lại có thể giảm bớt địa vị kinh tế của địa chủ – gián tiếp đánh vào các phần tử “Đài độc” và thế lực địa chủ Đài Loan. Về mặt ổn định trật tự nông thôn, phát triển sản xuất nông nghiệp, cải cách ruộng đất là lựa chọn duy nhất.
So với nông thôn, mâu thuẫn xã hội ở khu vực thành thị Đài Loan lúc đó, như công nhân với tư sản, trong nội bộ tư sản, tư sản với tiểu tư sản... đều không sâu sắc như mâu thuẫn giữa địa chủ và nông dân. Quốc dân đảng thống trị khu vực thành phố, thị trấn tương đối ổn định, tạm thời chưa gặp đối thủ.
Giai cấp công nhân Đài Loan, dưới chính sách “Phòng Cộng, chống Cộng” trong thời Nhật chiếm trước kia cũng như Quốc dân đảng sau này, trước sau không thể từ “giai cấp tự thân” thành “giai cấp vì mình”. Tháng 4 năm 1928, các nhà chí sĩ cách mạng Đài Loan Tạ Tuyết Hồng, Ông Trạch Sinh dưới sự chỉ đạo và giúp đỡ của Đảng cộng sản Trung Quốc đã thành lập Đảng cộng sản Đài Loan. Nhưng vừa tuyên bố thành lập đã gây chia rẽ trong nội bộ các đoàn thể dân chủ tư sản về vấn đề sách lược. Đến tháng 1 năm 1931, Phan Khâm Tín, Vương Vạn Đắc, Tô Tân thành lập “Đồng minh cải cách Đảng cộng sản Đài Loan” tuyên bố khai trừ phe Tạ Tuyết Hồng. Còn Tạ Tuyết Hồng vẫn tiếp tục duy trì tổ chức Đảng cộng sản Đài Loan như cũ, gọi những hoạt động của phe Phan Khâm Tín là “bọn bè phái âm mưu chống Đảng”. Giữa lúc hai phe phái chỉ trích nhau, nhà cầm quyền Nhật ngày 26 tháng 6 bất ngờ lùng sục, bắt bỏ tù các lãnh tụ của cả hai phe, mãi đến năm 1945, sau khi giành lại Đài Loan, những người này mới được trả tự do. Trong khởi nghĩa “28-2”: Những người lãnh đạo vốn là Đảng viên Đảng cộng sản Đài Loan như Tạ Tuyết Hồng đã phát huy tác dụng to lớn. Về sau bị Quốc dân đảng lùng sục bắt bớ dữ dội, họ buộc phải rời Đài Loan về Đại Lục. Tháng 11 năm đó, Tạ Tuyết Hồng, Vương Vạn Đắc và Tô Tân lại bắt tay hợp tác thành lập “Đồng Minh Dân chủ tự trị Đài Loan”, chính là “Đài minh” một trong tám Đảng phái dân chủ tham gia Hội nghị chính trị hiệp thương ngày nay.
Vì Đảng cộng sản Đài Loan thực sự triển khai công tác chỉ có ba năm hai tháng (từ ngày 15 tháng 4 năm 1928 đến ngày 26 tháng 6 năm 1931), thành viên cũng phần lớn là trí thức không có bộ rễ thực sự là công nhân, vì vậy có thể nói Đài Loan không có phong trào công nhân.
Từ sau khi Quốc dân đảng thống trị Đài Loan, một mặt dùng khủng bố trắng “Chẳng thà giết oan một nghìn người còn hơn để lọt một người” tiêu diệt tổ chức bí mật của Đảng cộng sản chỉ còn sót vài người; mặt khác thành lập công đoàn màu vàng ở các nhà máy và thực hiện các biện pháp thay đổi tích cực như “bảo hiểm lao động”, “thưởng công”... đồng thời tích cực phát triển Đảng trong hàng ngũ công nhân. Hai mặt đó khiến cho mâu thuẫn giữa công nhân và giai cấp thống trị không thể đạt đến mức độ
nổ ra cách mạng. Công nhân Đài Loan cũng không giống như công nhân ở Đại Lục, trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng và là người đào huyệt chôn vùi chính quyền Quốc dân đảng.
Nói chung, giai cấp tiểu tư sản ở thành thị là giai cấp trung gian, hoặc đi theo giai cấp công nhân, hoặc xu phụ giai cấp tư sản. Khi giai cấp công nhân còn ở trạng thái “tư nhân”, giai cấp tư sản trở thành giai cấp lãnh đạo ở thành thị. Đối với nhà cầm quyền Đài Loan, chỉ cần xử lý tốt quan hệ với giai cấp tư sản, ổn định ở thành thị sẽ được bảo đảm.
Giai cấp tư sản nói ở đây là các nhà tư bản tư doanh chứ không phải giai cấp tư sản quan liêu. Thời kỳ ở Đại Lục, tư bản tư doanh bị tư sản quan liêu chèn ép, khinh thường, bài xích và thôn tính do đó giai cấp tư sản dân tộc trở thành lực lượng xã hội lật đổ chính quyền Tưởng. Nhưng ở Đài Loan, quan hệ giữa các nhà tư bản tư doanh có thay đổi lớn.
Tư bản tư doanh chia ra làm hai bộ phận: tư bản đến từ Đại Lục và tư bản gốc Đài Loan. Tư bản từ Đại Lục theo Tưởng đến Đài Loan ít nhất cũng thân Tưởng, chống Cộng; trong đó, rất nhiều người là thân thích của quan chức cao cấp trong Quốc dân đảng hoặc có quan hệ gắn bó lâu dài với Quốc dân đảng. Những người này đi theo Tưởng rút lui ra Đài Loan, theo cách nói của Quốc dân đảng là “đã qua thử thách của cuộc thất bại” tất nhiên phải xem xét riêng. Bấy giờ Quốc dân đảng và các nhà tư bản Đại Lục ra đi là “cùng hội cùng thuyền” không những phải hợp sức chống Cộng mà còn phải đối phó với tâm lý bài ngoại của người Đài Loan. Nếu thực lực kinh tế của các nhà tư sản gốc Đại Lục mạnh lên nhanh chóng, cơ sở thống trị của Quốc dân đảng sẽ càng vững chắc.
Nhà tư sản gốc Đài Loan phần lớn là các nhân vật lớp trên đối với Quốc dân đảng, họ có hai tính cách. Một mặt cũng giống địa chủ, họ cũng có thể là các phần tử “Đài độc” hoặc người ủng hộ hậu trường của các chính khách địa phương, là mối đe dọa ngầm của Quốc dân đảng. Một mặt họ có chung quan điểm chống Cộng với Quốc dân đảng, về mặt kinh tế lại không bị thiệt thòi trực tiếp như địa chủ, vì thế họ vui lòng đứng trong đám quần chúng chịu sự thống trị của Quốc dân đảng.
Khi ấy, mọi nguồn lợi chính trị đều do người Đại Lục lũng đoạn. Lớp nhân sĩ của Đài Loan không có hy vọng thăng quan trên lĩnh vực chính trị, nếu về mặt kinh tế lại bị cắt nốt hoặc về mặt kinh doanh công thương có sự phân biệt đãi ngộ giữa họ với tư sản Đại Lục thì bắt buộc họ phải mạo hiểm xúi giục quần chúng phản kháng, tái diễn lịch sử “28-2”, đó là điều Quốc dân đảng không mong muốn.
Xét theo nhu cầu thực tế về phát triển kinh tế, đầu năm 1950 viện trợ từ bên ngoài vào Đài Loan bị cắt đứt, không thể không “tự lực cánh sinh”. Lúc này chỉ dựa vào lực lượng tư bản quan doanh, rõ ràng không đủ để phục hưng kinh tế, duy chỉ có phát động lực lượng dân gian, động viên sức người, sức của và tài năng, nhanh chóng chấn hưng công nghiệp, ổn định tình hình. Điều đó buộc nhà cầm quyền Đài Loan phải tìm biện pháp, điều chỉnh chính xác, sao cho các nhà tư bản tư doanh – bao gồm cả tư sản Đại Lục và tư bản gốc Đài Loan – vì lợi mà làm, nhờ đó phát huy tình tích cực của nó.
Sau khi bùng nổ chiến tranh Triều Tiên, nhà cầm quyền Đài Loan được Mỹ bảo hộ. Mỹ xưa nay vẫn chủ trương tự do Chủ nghĩa tư bản, nhà cầm quyền Đài Loan, trên hình thái kinh tế, tất phải dựa vào mô thức Chủ nghĩa tư bản mới được Mỹ viện trợ. Và cũng chỉ như thế, Đài Loan mới có tư cách là một thành viên của thế giới phương Tây. Nhân tố này cải thiện thêm một bước tính tự giác trong quan hệ giữa chính quyền Đài Loan với tư bản tư doanh.
Dựa vào nguyên nhân trên, nhà cầm quyền Đài Loan thay đổi cách làm trước đây ở Đại Lục, từ chỗ coi thường, bài xích, chèn ép và thôn tính giai cấp tư sản dân tộc, thành ra không những chỉ trên lời nói mà cả trong hành động, nâng đỡ cho tư sản tư doanh phát triển. Đây là một chuyển biến có tính chiến lược to lớn của Quốc dân đảng ở Đài Loan, cũng là một biện pháp cơ bản để điều hòa mâu thuẫn giai cấp trong khu vực thành thị.
Quốc dân đảng vốn là một chính đảng cách mạng, người sáng lập ra nó, ngài Tôn Trung Sơn, ngay từ ngày đầu thành lập Hội Đồng minh đã chủ trương “quyền chia đều ruộng đất”. Sau đó, ông còn đề ra một hệ thống lý luận về chủ nghĩa dân sinh và kế hoạch xây dựng kinh tế to lớn, bao gồm việc thực hiện “người cày có ruộng của mình” để giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân và thi hành “quân dân cùng kinh doanh” nhằm phát huy tính tích cực của xí nghiệp quốc doanh và tư doanh. Còn Tưởng Giới Thạch và đồng bọn, tuy bản chất đã phản bội đường lối cách mạng “liên Nga, liên Cộng, ủng hộ công nông” của ngài Tôn Trung Sơn nhưng họ vẫn phải giương ngọn cờ Tôn Trung Sơn; vẫn phải lấy học thuyết của Tôn Trung Sơn làm tư tưởng chỉ đạo của Đảng, chính là phải làm rõ vấn đề này.
Khi ở Đại Lục, Chính phủ Quốc dân đảng không phải là không ban hành các đạo luật và các chính sách tốt. Để giương ngọn cờ Tôn Trung Sơn ít nhất cũng phải có vẻ bề ngoài. Nhưng thời đó, phụ trách vấn đề kinh tế trong Trung ương là Khổng Tường Hy, Tống Tử Văn. Họ treo đầu dê bán thịt chó, lộng quyền, tham ô, nhận hối lộ vơ vét vào túi riêng. Họ chuyển trọng tâm tư bản nhà nước sang kinh doanh tiền tệ vàng bạc và đầu cơ. Thông qua lạm phát công trái, phối hợp vật giá tăng vọt với tốc độ cao để cưỡng chế mậu dịch và thực thi chế độ độc quyền; vay nợ nước ngoài một số tiền lớn để ăn chiết khấu; trưng thu đủ các loại thuế; cưỡng bức, vơ vét tài sản của dân. Chủ quyền địa phương phần lớn nằm trong tay bọn quân phiệt phong kiến. Bọn họ, trên thì cấu kết với bọn tham quan ô lại Khổng, Tống; dưới thì ức hiếp cướp bóc nhân dân, bao gồm cả giai cấp tư sản dân tộc. Như vậy, chính sách và đạo luật dù tốt đến đâu trên thực tế đều trở thành trò cười.
Mãi đến khi Quốc dân đảng lui về Đài Loan, tình hình mới có thay đổi. Khổng Tường Hy và Tống Tử Văn đều chuồn sang Mỹ. Rất nhiều quân phiệt phong kiến đến Đài Loan đều trở thành Tư lệnh suông. Nắm thực quyền là các “quan thanh liêm” Trần Thành, Tưởng Kinh Quốc. Về tư cách cá nhân, họ không đến nỗi phi nghĩa như bọn Khổng – Tống, nhiệt tình kiếm chác cũng không quá ầm ĩ như bọn Khổng – Tống. Ngược lại một số chủ trương của Tôn Trung Sơn, họ thực tâm tuân thủ.
Chẳng hạn, thực hiện “người cày có ruộng của mình”, Trần Thành là người trước sau vẫn ủng hộ tích cực. Năm 1933, Trần Thành “tiễu Cộng” ở Giang Tây, đã từng đưa ra phương án “Hạn điền”, định hạn số ruộng của địa chủ, số ruộng dôi ra nhà nước sẽ mua lại của địa chủ, sau đó bán chịu cho nông dân để thực hiện “người cày có ruộng của mình”. Ông yêu cầu Ủy ban tỉnh Giang Tây dẫn đầu làm thí điểm, nhưng bị Chủ tịch Giang Tây hồi đó là Hùng Thức Huy từ chối. Năm 1940, Trần Thành làm Chủ tịch tỉnh Hồ Bắc kiêm Tư lệnh Chiến khu, đã tự vạch ra “Đề cương kế hoạch xây dựng Hồ Bắc mới”; và đến năm 1941, tiến hành “giảm tô 25”, nâng đỡ nông dân, ý định tiến sâu vào kế hoạch “người cày có ruộng của mình”, nhưng sau thay đổi chức vụ và chiến cục biến động, lần cố gắng này không thành công. Năm 1949, sau khi tiếp nhận chức Chủ tịch Đài Loan, lại chuẩn bị ngay cho cải cách ruộng đất. Lòng nhiệt tình với vấn đề giải quyết ruộng đất cho nông dân của ông là không thể phủ nhận được.
Còn Tưởng Kinh Quốc, khi học tập ở Liên Xô, đã từng làm Chủ tịch Xô Viết của Nông trang tập thể Skhanôp ở ngoại ô Moscow. Ông có nhận thức cả về lý luận lẫn cảm tính rất sâu sắc đối với vấn đề quan hệ giữa giải quyết ruộng đất cho nông dân và củng cố chính quyền, phát triển kinh tế. Sau khi về
Trung Quốc, từ năm 1939 đến 1943, làm chuyên viên hành chính Khu IV Giang Tây kiêm Huyện trưởng Càn Châu, đã đề ra khẩu hiệu “xây dựng Càn Nam mới”, hô to “Chúng ta không thương tiếc, dùng những thủ đoạn nghiêm khắc nhất đối với lực lượng quá phong kiến của Càn Nam, kiên quyết dùng thủ đoạn cách mạng để đánh chúng”. Ông ban hành Chính sách ruộng đất ở Càn Nam mới, quy định phân phối ruộng đất theo nhân khẩu, phần dôi ra do Ngân hàng Nông dân Trung Quốc mua lại, bán chịu cho nông dân. Giá đất do nông dân họp lại quyết định, trả dần trong năm năm”. Đây là một chính sách ruộng đất ôn hòa nhưng vẫn bị phe cực hữu của Quốc dân đảng đả kích la ó là: “Trung Quốc kiểu xã hội chủ nghĩa Liên Xô”. Bấy giờ lông cánh của Tưởng Kinh Quốc còn chưa đầy đủ, không thể không cụp vòi lại. Sau đó, do được Tưởng Giới Thạch điều động về Trùng Khánh nên mọi kế hoạch cải cách đều đổ ra sông ra biển. Sau khi ra Đài Loan, Tưởng Kinh Quốc vẫn là một trong những nhân vật kiên quyết ủng hộ cải cách ruộng đất.
Phái kiên quyết chống Cộng là phái CC, khi còn ở Đại Lục cũng là phái chủ trương cải cách ruộng đất mạnh nhất trong Quốc dân đảng. Đại tướng của phái CC là Tiêu Tranh, trước sau vẫn hô hào cải cách ruộng đất. Quốc dân đảng làm thí điểm mấy lần ở Đại Lục chính là nhờ phái CC thúc ép.
Xuất phát từ lợi ích lâu dài của giai cấp phe Trần Thành, Tưởng Kinh Quốc đều tích cực chủ trương nâng đỡ “tư bản tư doanh”. Đối với hướng kinh doanh tư bản nhà nước, họ phản đối cái lối “tát kiệt bắt cá” lấy đầu cơ tiền bạc làm trọng tâm của phe Khổng – Tống; phản đối dựa vào vơ vét tài sản của dân để mở rộng tư bản nhà nước. Họ chủ trương dựa vào phát triển sản xuất và không ngừng mở rộng tài sản, khiến tư bản nhà nước tự thân tăng trưởng. Họ còn cố gắng thành lập chế độ Hội đồng tài chính một cách nghiêm khắc, tách rời quyền quản lý và quyền sở hữu ra, để tránh tái diễn hiện tượng sự nghiệp nhà nước thành tư hữu hóa. Thậm chí, Tưởng Giới Thạch sau khi lui về Đài Loan rút ra bài học thất bại ở Đại Lục cũng có thái độ tích cực đối với vấn đề giải quyết ruộng đất cho nông dân và nâng đỡ tư bản tư doanh. Người ta gọi Tưởng là kẻ phản bội Tôn Trung Sơn thật không oan, nhưng nếu cho rằng Tưởng đã vứt bỏ toàn bộ học thuyết của Tôn Trung Sơn thì cũng không đúng sự thực.
Tóm lại, vì kết cấu giai cấp, tương quan giai cấp và quan hệ giữa các giai cấp với chính quyền Quốc dân đảng đều đã thay đổi, cũng vì thế lực các phái trong nội bộ Đảng đã thay đổi, khiến cho số cán bộ có tố chất tốt nắm quyền lợi, cho nên Quốc dân đảng đã thực hiện được ở Đài Loan hai chính sách lớn là cải cách ruộng đất và nâng đỡ tư bản tư doanh. Họ đã có ảnh hưởng sâu rộng to lớn đối với sự ổn định chính trị và phát triển kinh tế với tốc độ cao ở Đài Loan.
II. CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT
Ngày 15 tháng 1 năm 1949, Trần Thành lên làm Chủ tịch tỉnh Đài Loan, việc đầu tiên ông làm là bắt tay ngay vào chuẩn bị cải cách ruộng đất, trước hết thực hiện “giảm tô 375”.
Ngày 1 tháng 3, trong lễ khai mạc Hội nghị Ủy ban tỉnh Đài Loan, Trần Thành tuyên bố cần thiết thực thực “giảm tô 375”. Ông cảnh cáo các địa chủ lớn: “Chỉ thấy lợi ích bản thân, bóc lột nông dân, sẽ phải chịu hậu quả”. Ông tuyên bố: “Cơ quan dân ý là đại biểu của ý dân. Huyện trưởng, Thị trưởng có phải là Huyện trưởng, Thị trưởng cách mạng hay không đều được thử thách bằng thái độ đối với giảm tô 375.”
Ngày 14 tháng 4, ban hành Biện pháp thuê dùng ruộng cày tư hữu tỉnh Đài Loan, bắt đầu thi hành “giảm tô 375”, mở màn cho cải cách ruộng đất ở Đài Loan.
Cái gọi là “giảm tô 375” thực ra không mới, chính là “giảm tô 25” mà Quốc dân đảng vẫn tuyên truyền ở Đại Lục, mà vẫn chưa làm được. “Giảm tô 25” là mức địa tô nông dân nộp cho địa chủ tính theo 50% thu nhập cả năm trên ruộng thuế, trên cơ sở đó lại giảm đi 25%. Công thức tính là 50/100 nhân với (1 – 25/100) bằng 37,5% sản phẩm chính của cả năm trên đất thuế. Cho nên gọi “giảm tô 25” cũng là “giảm tô 375”.
Về mặt lý luận, vì thu hoạch hàng năm không giống nhau, nên lấy lượng thu hoạch thực tế nhân với 37,5% mới tính ra được mức tô phải nộp. Do Quốc dân đảng chưa thực sự tiến hành “giảm tô 25” ở Đại Lục, cá biệt có nơi làm nhưng thời gian không bao lâu, vì thế mức tô cao nhất 37,5% chỉ là nguyên tắc.
Khi Trần Thành thực sự tiến hành “giảm tô 375” ở Đài Loan, đã tăng thêm một quy định, đó là khi tính tổng sản lượng của một mảnh đất canh tác nào đó chỉ lấy sản lượng của năm 1948 làm mốc, tham khảo tình hình cả tỉnh, “Ủy ban thi hành địa tô 375” của huyện, thị phụ trách định mức. Sau khi định mức, mức tô sẽ không thay đổi nữa. Nếu gặp năm thiên tai mất mùa, nông dân có thể thỉnh cầu Chính phủ và Chính phủ sẽ đốc thúc địa chủ giảm tô. Nếu được mùa, vẫn chỉ phải nộp 37,5% mức của năm 1948. Như vậy “địa tô 375”, bề ngoài tính theo tỷ lệ, nhưng thực chất vẫn là địa tô định lượng.
Do công nghệ sản xuất luôn cải tiến, sản lượng nông nghiệp không ngừng nâng cao, mà mức tô vẫn theo mốc 1948, khẳng định là thấp hơn 37,5%. Chẳng hạn, năm 1948 sản lượng lúa hai vụ của Đài Loan là 3.894 kg/ha địa tô 37,5% là 1.460 kg. Đến năm 1980 sản lượng tăng 9.277 kg, vẫn nộp 1.460 kg thì mức tô phải nộp chỉ chiếm 7% tổng sản lượng.
Trước khi thực hiện “giảm tô 375”, mức tô địa chủ chiếm sáu đến bảy phần tổng sản lượng. Sau giảm tô, ngược lại, nông dân chiếm 62,5%. Nếu sản lượng tăng, tỷ lệ này càng cao. Do đó địa chủ không chấp nhận. Khi đó, rất nhiều địa chủ đòi ruộng, bắt bí nông dân, ngầm đòi mức tô cao hơn 37,5%. Nông dân thuê ruộng cãi lý, bao vây ruộng đất bị đòi, gây rối loạn “tình hình tương đối nghiêm trọng”. Tuy rằng trong Biện pháp thuê dùng ruộng cày tư hữu có điều khoản hạn chế địa chủ tùy ý đòi ruộng, nhưng văn kiện này chỉ là mệnh lệnh hành chính của Trần Thành với danh nghĩa là Chủ tịch tỉnh, trái với pháp lệnh có liên quan của nhà cầm quyền Quốc dân đảng. Cho nên khi địa chủ đòi ruộng, nông dân tuy có kiện lên tòa án “nhưng cơ quan Tư pháp theo căn cứ pháp lý hiện hành… địa chủ vẫn thắng kiện, đạt được mục đích đòi ruộng của họ”. Cuối năm 1950, nông thôn Đài Loan xuất hiện “phong trào đòi ruộng”, chỉ riêng ở Đài Loan đã hơn hai nghìn vụ…
Nắm bắt được vấn đề này, tháng 6 năm 1951, chính quyền Đài Loan ban hành Điều lệ giảm tô 375 đối với đất canh tác, làm cơ sở pháp lý cho “giảm tô 375”. Điều lệ quy định: Phế bỏ địa tô trả bằng tiền và địa tô dự thu, hợp đồng thuê phải làm bằng văn bản, thời hạn thuê không được dưới sáu năm. Địa chủ muốn đòi ruộng cần có ba điều kiện dưới đây: (1) Bên đòi ruộng và bên thuê ruộng đều cùng phải làm đơn đăng ký mới hợp lệ; (2) trước khi hết hạn hợp đồng thuê ruộng, trừ khi người thuê chết, không có người thừa kế, hoặc đã thay đổi nghề nghiệp, từ bỏ quyền canh tác, hoặc thiếu nợ địa tô mức hai năm, không được phép đòi ruộng. Dù có tình hình trên đây, cũng phải đợi hết vụ thu hoạch, trước khi bắt đầu vụ sau; (3) sau khi hết hạn hợp đồng thuê, người cho thuê muốn lấy lại ruộng đất nhưng phải không làm mất chỗ dựa sinh sống của người thuê. Người cho thuê không tự canh tác hoặc nguồn thu nhập đã đủ cho cuộc sống gia đình, không được phép thu hồi ruộng đất. Ai vi phạm quy định trên, cố tình đòi ruộng đều bị xử là phạm pháp.
Tuy nhiên, chủ đề của điều lệ trên là thừa nhận quyền tư hữu ruộng đất của địa chủ, dùng chính quyền cưỡng chế, chia thành quyền sở hữu và quyền sử dụng ruộng đất, để bảo đảm lợi ích của người thuê ruộng. Sau khi ban hành điều lệ này, nông dân thuê ruộng chỉ cần ký hợp đồng với địa chủ là được quyền sử dụng ruộng đất ít nhất trong sáu năm. Trong thời gian đó, chỉ phải giao nộp cho địa chủ mức địa tô 37,5% tổng sản lượng của năm 1948 trên đất thuê, sản lượng tăng cũng không đổi, năm mất mùa lại được châm trước giảm miễn. Vì vậy, tính tích cực của nông dân tăng lên rất nhiều, họ nhiệt tình tăng cường chăm sóc đồng ruộng và xây dựng thủy lợi, thu nhập nhờ đó tăng theo. Nông thôn Đài Loan xuất hiện phổ biến nào là “lực điền 375”, “nông dân 375”, nào là “học sinh 375”, “xe đạp nước 375”... Điều đó nói lên rằng giảm tô đã khiến cho nông dân có thể lấy vợ lấy chồng, có thể cho con đi học, mua sắm thiết bị sản xuất và đồ dùng gia đình. Cải cách ruộng đất đã có hiệu quả bước đầu.
Nhưng giảm tô chỉ là giảm bớt gánh nặng của nông dân, quan hệ thuê mướn vẫn tồn tại, địa chủ vẫn ngồi không ăn bám, trong khi tư tưởng “người cày có ruộng của mình” của Tôn Trung Sơn muốn triệt để xóa bỏ quan hệ thuê mướn, làm cho ruộng đất được chia đều cho nông dân sở hữu, nông dân thuê ruộng trở thành nông dân có ruộng, thu hoạch hết cái mà họ làm ra. Nếu chỉ giảm tô, sau sáu năm địa chủ vẫn có thể lấy danh nghĩa “tự cày” để thu hồi ruộng đất khiến nông dân mất chỗ sinh sống, nông dân kém phấn khởi trong xây dựng cơ bản về ruộng đất; lâu dài có nông dân thậm chí sử dụng ruộng đất quá mức trong thời gian thuê, làm ảnh hưởng đến sản xuất về sau.
Vì thế, Cầm quyền Đài Loan tiếp theo “giảm tô 375” lại nhanh chóng triển khai với quy mô lớn “phóng lĩnh đất công”, nghĩa là đem đất công do nhà nước sở hữu bán cho nông dân, để nông dân thành nông dân tự canh tác trên đất của mình. Thực tế là “Chính phủ” làm gương cho các địa chủ để thực hiện “người cày có ruộng của mình” trong một phạm vi nhất định.
Quan hệ chiếm hữu ruộng đất ở Đài Loan là một hiện tượng độc đáo, tồn tại rất nhiều “đất công”. Chủ yếu do Đài Loan vốn là thuộc địa của Nhật. Nhật đã chiếm đoạt hàng loạt ruộng tốt làm chỗ di dân. Nhật lại lũng đoạn các ngành công thương nghiệp, tài chính quan trọng của Đài Loan, trong đó có Công ty Mía đường, Công ty Chè Đài Loan... đều kèm theo các nông trại lớn hàng chục nghìn héc ta. Sau khi Nhật đầu hàng, sản nghiệp công, tư của Nhật đều do chính quyền Quốc dân đảng tiếp thu, trong đó số “đất công” là rất đáng kể, khoảng 180 nghìn ha, chiếm 21,6% tổng diện tích canh tác của Đài Loan lúc đó là 816 nghìn ha. Chính quyền Đài Loan có thể “phóng lĩnh đất công” là nhờ ở số ruộng đất này.
Tháng 4 năm 1948, Quốc dân đảng ban hành Những điểm quan trọng trong công tác phóng lĩnh đất công giúp nông dân tự canh của tỉnh Đài Loan, đem đất của Hội khai thác Đài Loan (tức là đất Nhật dùng để chuẩn bị di dân) và những vạt đầu thừa đuôi thẹo của nông trường Công ty Mía đường và Công ty Chè Đài Loan tiếp quản được làm thí điểm “phóng lĩnh đất công”. Lần này có ý nghĩa tuyên truyền nhiều hơn là ý nghĩa thực tế, chỉ phóng lĩnh 3.883 giáp. Khoảng 2.287 ha chỉ chiếm 1,8% đất canh tác công do Quốc dân đảng nắm giữ.
Ngày 4 tháng 6 năm 1951, chính quyền Đài Loan ban hành Biện pháp thi hành phóng lĩnh đất công giúp nông dân tự canh của tỉnh Đài Loan, từ đó triển khai toàn diện công tác “phóng lĩnh đất công”. Biện pháp thi hành là lấy 2,5 lần thu hoạch cả năm sản phẩm chính của đất phóng lĩnh làm giá đất, người được nhận đất sắp xếp theo trình tự sau: Nông dân đang canh tác, cố nông, nông dân thiếu ruộng, nông dân bán tự canh không đủ ruộng, người có quan hệ cũ với mảnh ruộng đất cần đất canh tác, người chuyển sang nghề nông. Người nhận đất phải trả dần nhà nước theo giá đất trong mười năm. Sau khi trả đủ sẽ thành đất của người đó. Đất được nhận tùy chất lượng được chia làm ba hạng. Tùy theo số nhân
khẩu trong gia đình và khả năng canh tác của người nhận đất mà giao diện tích. Nói chung nhiều nhất mỗi hộ cũng chỉ được lĩnh 0,5 giáp ruộng nước hạng nhất hoặc một giáp ruộng nước hạng vừa hoặc hai giáp ruộng nước hạng xấu. Nếu nhận ruộng cạn thì được gấp đôi so với ruộng nước.
Năm đó, phóng lĩnh được 28.447 giáp, khoảng 27.685 ha. Năm 1952, tiếp tục phóng lĩnh 17.872 giáp, khoảng 17.351 ha. Cộng với năm 1948 phóng lĩnh hơn 3.800 giáp, tổng cộng là 49.702 giáp khoảng 45.036 ha, chiếm hơn 1/4 tổng số “đất công” của Quốc dân đảng lúc bấy giờ. Số hộ nông dân lĩnh đất là 96.906 hộ. Bình quân mỗi hộ nhận 4.600 m2, ví dụ mỗi hộ năm người nghĩa là có 500 nghìn người được hưởng lợi. Đến đây coi như hết một giai đoạn “phóng lĩnh đất công”.
Sau đó, Quốc dân đảng tiếp tục làm mấy đợt “phóng lĩnh đất công” nữa. Tính đến năm 1976 được chín đợt, khoảng 139 nghìn ha chia cho 286 nghìn hộ. Diện tích phóng lĩnh vượt 15% tổng diện tích canh tác. Nông dân có ruộng tự canh nhờ phóng lĩnh chiếm 40% tổng số nông dân tự canh. Đài Loan hiện vẫn còn khoảng 50 nghìn ha “đất công”, chủ yếu dùng làm nông trường “quốc doanh”, số đất công này chiếm 5% tổng diện tích canh tác Đài Loan.
Chỉ “phóng lĩnh đất công” không thể giải quyết được vấn đề ruộng đất cho nông dân, vì 56% tổng số đất canh tác ở trong tay địa chủ. Năm tiếp theo “giảm tô 375”, “phóng lĩnh đất công”, chính quyền Đài Loan bước tiếp bước thứ ba thực hiện triệt để “người cày có ruộng của mình”.
Ngày 24 tháng 7 năm 1952, Ủy ban cải tạo của Trung ương Quốc dân đảng triệu tập Hội nghị lần thứ 371, xác định chính sách trọng tâm của năm sau là thực hiện “người cày có ruộng của mình” và nêu ra ba nguyên tắc cơ bản: (1) Chọn phương thức ôn hòa; (2) trên cơ sở không tăng gánh nặng cho nông dân khiến họ vẫn có ruộng, chiếu cố lợi ích của địa chủ; (3) Giá trị đất bán của địa chủ sẽ do nhà nước hướng dẫn để chuyển sang công nghiệp.
Ngày 12 tháng 11, Trần Thành chủ trì cuộc họp của “Viện Hành chính” thông qua Điều lệ thực hiện người cày có ruộng, trình lên “Viện Lập pháp”, gặp sức chống đối của lực lượng bảo thủ trong “Viện Lập pháp”. Ngày 2 tháng 1 năm sau, Trần Thành gửi công văn cho “Viện Lập pháp”, bằng khẩu khí cứng rắn tuyên bố bảy nguyên tắc trong đề án của “Viện Hành chính” không cho phép thay đổi. “Đề án này cương quyết phải thi hành, không một khó khăn trở ngại nào ngăn cản nổi”. Lập trường cứng rắn này của Trần Thành được Tưởng Giới Thạch ủng hộ. Đến ngày 20 tháng 1, “Viện Lập pháp” cuối cùng phải thông qua Điều lệ thực hiện người cày có ruộng và quy định thi hành từ ngày 1 tháng 5 năm 1953.
Điều lệ thực hiện người cày có ruộng chia ruộng đất của Đài Loan thành 26 hạng. Hạng nhất là ruộng đất tốt nhất. Hạng 26 là ruộng nghèo kiệt nhất. Quy định mức có ruộng tối đa của địa chủ là ba giáp, tức 43,5 mẫu Trung Quốc (tương đương 28.700 m2); ruộng nước hạng vừa (hạng 7-12), hoặc sáu giáp tức 87 mẫu Trung Quốc (57.420 m2) ruộng cạn hạng vừa. Nếu địa chủ muốn giữ ruộng tốt từ hạng 1-6 thì hạn mức sẽ được tính hạ xuống. Tất cả ruộng quá định mức của địa chủ đều do nhà nước trưng mua sau đó nhượng lại cho nông dân. Giá đất bằng giá của đất phóng lĩnh, nghĩa là bằng 2,5 lần tổng sản lượng sản phẩm chính cả năm trên đất đó, không phải là năm nhượng đất, mà lấy mốc là sản lượng năm thi hành “giảm tô 375”, đó là năm 1948. Nông dân mua đất trả dần nhà nước trong mười năm, trả hết nợ sẽ thành chủ nhân của mảnh đất đó. Chính quyền Đài Loan cũng sẽ trả dần cho địa chủ trong mười năm. Phương thức thanh toán kết hợp cả trái khoán và cổ phiếu. 70% là trái khoán do Ngân hàng Đài Loan phát hành, tính theo nông sản như ngũ cốc, mía... lãi suất hàng năm là 4%, tổng số vốn và lãi thanh toán đều trong mười năm. Có nghĩa là trong mười năm, mỗi năm địa chủ đều nhận được của nhà
nước một sản lượng nông phẩm cố định (hoặc tính ra thành tiền theo thời giá năm đó), như vậy tránh được lạm phát. Đồng thời, nhà nước cũng giảm đến mức tối đa chi tiền mặt, giảm được gánh nặng về tài chính, quan trọng nhất là tránh được phát hành số tiền mặt lớn để trả tiền ruộng đất, sẽ dẫn đến lạm phát. Ngoài ra 30% là cổ phiếu. Chính quyền Đài Loan, đồng thời với việc trưng mua ruộng đất của địa chủ, đã ban hành Điều lệ chuyển sự nghiệp công doanh sang dân doanh. Chính quyền đem cổ phiếu của một số xí nghiệp quốc doanh bán cho tư nhân, trong đó có Công ty hữu hạn Cổ phần Xi măng, Công ty hữu hạn Cổ phần Ngành giấy, Công ty hữu hạn Cổ phần Ngành mỏ và Công ty hữu hạn Cổ phần Nông Lâm nghiệp. Lấy cổ phiếu này gán cho địa chủ. Như vậy, bắt buộc địa chủ dùng tiền bán ruộng đất đầu tư vào ngành công nghiệp.
Đến cuối năm 1953, chính quyền Đài Loan trưng mua của địa chủ 143.568 giáp, tức là hơn 80.254 ha, chiếm 56% toàn bộ ruộng phát canh. Số hộ địa chủ trưng mua là 106.041 hộ, chiếm 59,3% tổng số hộ địa chủ. Số hộ nông dân được mua đất là 194.823 hộ, chiếm 64% tổng số hộ nông dân.
Đối với vấn đề cho phép địa chủ giữ đất. Chính quyền Đài Loan trên nguyên tắc khuyến khích tự canh, nếu địa chủ vẫn phát canh thì mức tô chỉ được tính là 37,5% sản lượng năm 1948. Thu nhập như vậy cộng thêm các khoản chi về thuế má, địa chủ tính không lợi lắm. Chính quyền Đài Loan còn quy định: Nếu đất địa chủ giữ lại không tự canh mà vẫn phát canh, chính quyền sẽ giúp đỡ nông dân mua lại bằng cách chỉ cần nông dân canh tác trên mảnh đất đó đủ tám năm trở lên là có thể nhờ chính quyền mua hộ, địa chủ không được quyền từ chối. Vì “giảm tô 375” bắt đầu từ năm 1948 đến năm 1953 đã được sáu năm, cộng với thời gian trước giảm tô, phần lớn nông dân đã canh tác đủ tám năm, lúc nào cũng có thể xin chính quyền “mua hộ theo giá quy định”.
Tóm lại, chính sách của chính quyền Đài Loan là “người cày có ruộng của mình, người có ruộng tự mình cày”. Nếu chiếm ruộng nhiều lại không đủ sức cày, chứng tỏ anh không cần chiếm nhiều ruộng đến thế, chính sách buộc anh phải nhượng lại, để người có khả năng canh tác sở hữu.
Địa chủ bắt buộc phải theo những quy định đó, đành phải bán dần phần ruộng giữ lại, chỉ giữ phần tự mình “tự doanh”, “tự canh”. Cho đến 1977, địa chủ trực tiếp bán “đất giảm tô 375” tất cả là hơn 73 nghìn ha chiếm 5,3% tổng diện tích canh tác của Đài Loan.
Tuy “phóng lĩnh đất công” và địa chủ tự bán ruộng còn kéo dài đến những năm 1970, nhưng nhìn chung, đến cuối năm 1953, cải cách ruộng đất với nội dung cơ bản là “người cày có ruộng của mình” coi như đã xong.
Sau cải cách ruộng đất, kết cấu giai cấp nông dân Đài Loan có thay đổi rõ rệt.
Năm 1948, Đài Loan có 691 nghìn hộ nông dân, trong đó nông dân tự canh là 181 nghìn hộ, chiếm 26,3% tổng số hộ nông dân. Thời gian cải cách ruộng đất (từ tháng 4 năm 1949 đến tháng 12 năm 1953), nông dân tự canh tăng lên 383.104 hộ, chiếm 54% tổng số hộ nông dân cùng kỳ. Sau đó, vì nhà nước tiếp tục “phóng lĩnh đất công”, địa chủ tiếp tục tự bán đất, cộng với các gia đình chia hộ tăng lên, đến cuối năm 1977 nông dân tự canh có 715 nghìn hộ trong số 873 nghìn hộ nông dân năm đó, chiếm 81,9%.
Địa chủ xưng hùng xưng bá trước kia, bị đánh mạnh trong cải cách ruộng đất. Chính quyền Đài Loan quy định giá đất là 2,5 lần tổng sản lượng sản phẩm chính của năm 1948, thấp hơn giá thực tế. Năm
1937, giá ruộng ở Đài Loan đã đạt 4,5-8 lần sản lượng năm trên ruộng canh tác. Theo tính toán của nhóm Lý Đăng Huy, giá nông sản chính – tức sản lượng lúa năm. Vậy thì giá đất của những năm 1950 chí ít cũng phải tăng đến năm lần sản lượng năm, thế mà Quốc dân đảng chỉ quy định 2,5 lần cũng có nghĩa là địa chủ bị ép phải bán cho nông dân với giá chỉ bằng một nửa.
Hơn nữa, tiền bán đất lại không được trả một lần, chỉ được trả dần trong mười năm. Khi đó lãi suất trên thị trường Đài Loan hàng năm là 30% – 50%, Quốc dân đảng quy định lãi suất của trái khoán bán đất chỉ là 4%. Như vậy có nghĩa là chính quyền cưỡng bức địa chủ đem một khoản tiền lớn cho Chính phủ “vay” lâu dài với lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường rất nhiều, điều đó dĩ nhiên không có lợi cho địa chủ. Còn về cổ phiếu, phần lớn địa chủ đều cho là loại tài sản ít giá trị, họ nhanh chóng đem bán và chuyển nhượng, một số người đã điều tra, có đến 98% trong số 500 nhà địa chủ thường, 91% trong số 75 nhà địa chủ lớn, bán ngay cổ phiếu của mình. Vì cung vượt quá cầu, nên giá cổ phiếu đều thấp hơn giá ghi trong cổ phiếu, thấp nhất có khi chỉ đạt 36%. Phần lớn địa chủ đem bán cổ phiếu, đời sống kinh tế đều kém trước, ít nhất cũng không ổn định, hầu hết họ đều trở thành nông dân tự canh, một phần chuyển sang lĩnh vực công thương, ai khấm khá được là nhờ may mắn hoặc nhờ khả năng của họ.
Cũng có một số địa chủ thực lực dồi dào, họ không những không bán cổ phiếu, ngược lại còn nhân cơ hội giá cổ phiếu hạ mua vào, kết quả là trở thành các nhà công
nghiệp lớn.
Chẳng hạn “tứ đại hào chủ” (bốn nhà giàu) mà nhân dân Đài Loan vẫn gọi như Cố Chấn Phố, Lâm Do Long, Lâm Bá Thọ, Trần Khởi Thanh, nắm phần lớn cổ phiếu của bốn công ty Đài Loan: Xi măng, giấy, mỏ và nông lâm. Số cổ phiếu này trị giá hơn 660 triệu Đài tệ mới, tương đương hơn 35 triệu đô la lúc đó. Ngày nay, những công ty này đều trở thành những tập đoàn có vốn lên đến hàng tỷ đô-la.
Nhưng cải cách ruộng đất của Đài Loan cũng có mặt trái của nó. Trước hết là sự chiếu cố lợi ích của địa chủ. Về mặt kinh tế, địa chủ Đài Loan cũng như địa chủ Đại Lục, vẫn là kiêm buôn bán và cho vay nặng lãi. Cải cách ruộng đất ở Đài Loan chỉ đánh vào sự bóc lột tô tức của địa chủ, còn sự bóc lột về buôn bán và cho vay nặng lãi vẫn giữ nguyên, hơn nữa có tiền vốn bán đất, hai loại bóc lột này càng nặng thêm. Chính quyền Đài Loan cho phép địa chủ giữ đất lại với mức hạn chế, mức này dù sao vẫn cao hơn nhiều mức nông dân có ruộng, nên sau cải cách ruộng đất, đời sống của địa chủ vẫn giàu có hơn nông dân rất nhiều. Về mặt chính trị, địa chủ trước kia vẫn luôn là “tai to mặt lớn” trong thôn xã đều hơn hẳn nông dân về mọi mặt: Trình độ văn hóa, thực lực kinh tế, khả năng giao tiếp, ảnh hưởng xã hội... Cải cách ruộng đất Đài Loan chưa hề động chạm đến mặt chính trị của địa chủ. Trong sinh hoạt chính trị ở nông thôn, “quyền uy” của họ vẫn tồn tại. Các tổ chức hạ tầng ở nông thôn như nông hội, thủy lợi... phần lớn vẫn do địa chủ hoặc con em địa chủ nắm giữ. Tuyển cử các cấp huyện, thị, phần lớn vẫn do các nhà giàu lũng đoạn, khiến cho sinh hoạt chính trị ở địa phương Đài Loan vẫn mang tác phong môn phiệt và màu sắc gia tộc.
Cải cách ruộng đất Đài Loan thực chất là thay thế chế độ tư hữu ruộng đất lớn của địa chủ bằng chế độ tư hữu ruộng đất nhỏ của nông dân tự canh. Để bảo vệ thành quả “người cày có ruộng của mình” chính quyền Đài Loan nghiêm khắc thi hành hạn mức có ruộng của tư nhân và hạn chế mọi mặt về phương diện thuê người canh tác. Điều này cốt để tránh tái diễn việc thôn tính ruộng đất. Nhưng, cùng với việc nối dõi và phân chia gia đình, số hộ tăng lên, đất ruộng càng chia càng vụn, diện tích canh tác tính theo nông hộ ngày càng nhỏ, gây trở ngại cho việc thực hiện cơ giới hóa và xây dựng thủy lợi với quy mô lớn, khó hiện đại hóa sản xuất nông nghiệp.
Mặc dù có những “di chứng sau cải cách ruộng đất”, nhưng ý nghĩa tích cực của họ hơn hẳn mặt tiêu cực. Cải cách ruộng đất đã khiến cho giai cấp địa chủ suy yếu và nông dân tự canh vươn lên, thực hiện việc bình quân chiếm hữu ruộng đất, cải thiện đời sống của đại đa số nông dân, xúc tiến nông nghiệp phát triển nhanh, tạo nền móng cho chấn hưng công nghiệp. Mâu thuẫn giai cấp dịu đi, mức độ công bằng xã hội được nâng cao, sức sản xuất bị trói buộc được giải phóng, nhờ đó chính quyền Quốc dân đảng có được sự ổn định tương đối.
III. NÂNG ĐỠ CÔNG THƯƠNG NGHIỆP TƯ DOANH
Trong thời gian cải cách ruộng đất, tư bản dân doanh phát triển nhanh chóng dưới sự nâng đỡ của chính quyền bằng nhiều biện pháp.
Bắt đầu từ 1948, Tư bản tư doanh từ Đại Lục tràn vào Đài Loan nhất là thời gian Tưởng Kinh Quốc “bắt cọp” ở Thượng Hải. Tiền trôi nổi ở Thượng Hải không có chỗ thoát, đều dồn dập đổ vào Đài Loan. Chỉ từ tháng 9 đến tháng 12 năm 1948, tiền từ Đại Lục tràn vào Đài Loan lên tới 294,7 tỷ Đài tệ cũ, so với tổng số Đài tệ phát hành năm 1948 còn vượt 74 tỷ. Số tiền này tất nhiên không phải tất cả là của tư nhân, nhưng ít nhất tư nhân cũng chiếm hơn một nửa.
Tư bản từ Đại Lục tràn vào Đài Loan tạo thành một bộ phận quan trọng của tư bản tư doanh Đài Loan. Lấy ngành dệt chiếm địa vị trụ cột trong các xí nghiệp tư doanh những năm 1950 làm ví dụ: Năm 1952 Đài Loan có tám xưởng dệt tư doanh, giá trị sản lượng chiếm 67,6% giá trị sản lượng của toàn ngành dệt, 33,6% giá trị sản lượng của toàn bộ công nghiệp tư doanh. Trong tám xưởng thì có bảy xưởng chuyển từ Đại Lục đến. Số thoi của bảy xưởng này chiếm 54% số thoi trong toàn bộ ngành dệt Đài Loan lúc đó.
Song song với việc thi hành “người cày có ruộng đất của mình”, Quốc dân đảng ban hành Điều lệ chuyển sự nghiệp công doanh sang tư doanh, đem bán cổ phiếu của bốn ngành xi măng, giấy, mỏ và nông lâm để trả tiền trưng mua ruộng đất. Điều này trực tiếp thúc đẩy địa chủ bỏ tiền bán ruộng đất chuyển sang công nghiệp, đặt cơ sở cho sự phát triển tư bản tư nhân gốc Đài Loan.
Cũng vào khoảng thời gian đó, chính quyền Đài Loan cũng đem bán cho tư nhân 376 xí nghiệp của Nhật và 85 xí nghiệp hợp tác Đức – Nhật đã tiếp thu được, đều là các xí nghiệp vừa và nhỏ.
Đến 1954, xí nghiệp tư doanh Đài Loan đã có hơn 127 nghìn cái, chiếm 96% tổng số xí nghiệp công thương Đài Loan, số vốn đạt 49,7% tổng số vốn của các xí nghiệp công thương.
Khi còn ở Đại Lục, bọn tư bản quan liêu Quốc dân đảng cứ có lợi là không đâu không chui vào, tư bản tư doanh bị đẩy lùi, dần dần thu hẹp lại. Dưới thời Trần Nghị, vẫn chơi con bài đó, đến sách vở, văn phòng phẩm, in ấn đều kinh doanh theo lối độc quyền do nhà nước nắm giữ. Sau khởi nghĩa “28-2”, “hết sức thu hẹp phạm vi quốc doanh trong công nghiệp dân sinh”. Từ thời kỳ Ngụy Đạo Minh trở đi, ngành diêm, long não, than mới mở ra cho dân doanh.
Sau năm 1950, “hết sức thu hẹp phạm vi quốc doanh trong công nghiệp dân sinh” trở thành nguyên tắc chỉ đạo của chính quyền trong các chính sách kinh tế, phân rõ “phương hướng kinh doanh khác nhau giữa nhà nước và nhân dân.” Xí nghiệp quốc doanh chủ yếu là kinh doanh ngành năng lượng, giao thông, công nghiệp quốc phòng, công nghiệp chế tạo quy mô lớn, những ngành nhân dân không tiện kinh
doanh. Còn những mặt hàng dân dụng trực tiếp quan hệ đến đời sống của nhân dân như dệt, giấy, xi măng, đồ dùng sinh hoạt hàng ngày chủ yếu giao cho tư bản tư nhân kinh doanh.
Sau khi vạch rõ phương hướng kinh doanh, các xí nghiệp quốc doanh và dân doanh ai yên phận nấy. Xí nghiệp dân doanh tuy vẫn lệ thuộc vào các xí nghiệp quốc doanh về năng lượng, nguyên liệu, tài khoản, nhưng sản phẩm của xí nghiệp quốc doanh, nếu không dựa vào sự tiêu thụ của các xí nghiệp tư doanh cũng không có giá trị. Thí dụ, bã của xí nghiệp mía đường quốc doanh, chính là nguyên liệu cho xí nghiệp giấy tư doanh. Nếu xí nghiệp quốc doanh giữ lại bã mía không bán cho xí nghiệp tư doanh, không những mất đi một khoản thu lớn mà còn phải giải quyết đống rác không kém phần chi phí. Thiệt người, lại hại cả mình.
Vấn đề tiền tệ do quốc doanh nắm, nếu không quan hệ với xí nghiệp tư doanh chiếm 95% tổng số xí nghiệp, một là ứ đọng vốn, hai là cắt đứt nguồn vốn, tự mình cũng không thể phát triển được.
Vì thế, ngân hàng quốc doanh không những để các xí nghiệp tư doanh mở tài khoản, coi đó là sự nghiệp chính của mình mà còn phải nâng cao mức tài khoản vượt xí nghiệp quốc doanh. Từ năm 1953 đến 1959, tài khoản của các xí nghiệp dân doanh chiếm 37,4% tổng số tài khoản ở ngân hàng; quốc doanh chỉ chiếm 35,2%. Từ 1960 đến 1969 dân doanh là 60,4%; quốc doanh chiếm 22,1%. Giai đoạn 1970-1978; dân doanh là 77,2%; quốc doanh là 15,9%.
Tóm lại, khi phân công giữa dân doanh và quốc doanh đã xác định tất nhiên quan hệ hợp tác giữa hai loại xí nghiệp đó sẽ dựa vào nhau cùng có lợi. Nếu xí nghiệp quốc doanh sử dụng ưu thế nắm vận mệnh kinh tế để cưỡng ép các xí nghiệp tư doanh như trước 1949, tất nhiên cả hai sẽ cùng bị thất bại, điều này chính quyền Đài Loan đã nhận thức rất rõ.
Đương nhiên, mâu thuẫn và va chạm giữa hai loại xí nghiệp này là không tránh khỏi. Việc trả đũa lẫn nhau vẫn thường xảy ra. Nhưng nhìn chung, do xác định được phạm vi kinh doanh, đã tránh được sự cạnh tranh trực tiếp, khiến cho xí nghiệp tư doanh đỡ lo bị xí nghiệp quốc doanh thôn tính, đó là bảo đảm cho xí nghiệp tư doanh sinh tồn và phát triển. Trên thực tế, chính quyền Đài Loan cố gắng thu hẹp phạm vi kinh doanh của phía quốc doanh. Chẳng hạn như công nghiệp quốc phòng, công nghiệp chế tạo lớn trước kia vẫn thuộc quốc doanh dần dần được mở ra cho dân doanh. Tỷ trọng trong giá trị tổng sản lượng quốc dân của xí nghiệp quốc doanh cũng dần giảm đi.
Bất kể là quốc doanh hoặc dân doanh, muốn phát triển đều phải có một nền kinh tế ổn định. Như ở Thượng Hải trước giải phóng, giá cả tăng vọt, vật giá leo thang, nhiều xí nghiệp phải đóng cửa, nhất là những xí nghiệp ít vốn, quy mô nhỏ càng không vượt qua được cơn bão tố đó.
Khoảng năm 1949-1951, ở Đài Loan vật giá không đến nỗi tăng vọt như ở Đại Lục, nhưng hàng năm trung bình vẫn tăng hơn mười lần. Đối với Quốc dân đảng, có kìm hãm được vật giá hay không là cuộc chiến một mất một còn.
Từ khi Ngụy Đạo Minh lên nắm quyền, bắt đầu thi hành chế độ phân phối định mức lương thực. Đầu những năm 1950, chính quyền Đài Loan lại phân phối cả các nhu yếu phẩm như dầu, vải, đường... Không cho phép tăng giá trong phạm vi định mức. Đồng thời chính quyền Đài Loan tích cực chống lại bọn đầu cơ tích trữ, nâng giá hàng và buôn bán ngoại hối phi pháp, để giữ gìn trật tự thị trường, hãm giá tăng lên.
Để tránh tăng giá, chính quyền Đài Loan khuyến khích dự trữ. Ngày 21 tháng 5 năm 1949, Ngân hàng Đài Loan thi hành “biện pháp dự trữ vàng” (trong quần chúng) lấy vàng chi trả tiền gửi định kỳ ngắn hạn, giá vàng thấp hơn giá vàng thị trường. Từ tháng 6 đến tháng 10 dùng “biện pháp dự trữ vàng” phối hợp với “công trái tiết kiệm cứu nước” và “công trái yêu nước”. Đến ngày 27 tháng 12 năm 1950, tạm ngừng thi hành biện pháp dự trữ vàng. Ngày 14 tháng 8 năm sau chính thức bãi bỏ. Tính ra trong thời kỳ thi hành, số vàng bán ra là 1,54 triệu lượng thu về hơn 440 triệu Đài tệ.
Chính quyền Đài Loan còn áp dụng mọi thủ đoạn chính trị và kinh tế, cưỡng ép và khuyến khích mọi người mua “công trái yêu nước”. Ngân hàng tìm mọi cách để thu hút tiền gửi.
Từ ngày 25 tháng 3 năm 1950, Đài Loan tiến hành “Tiền gửi dự trữ lãi suất ưu đãi”. Trước kia, lãi suất định kỳ hàng năm của tiền gửi là 20%, bây giờ tăng “tiền gửi dự trữ lãi suất ưu đãi” thành 125% cộng thêm phần miễn thuế lợi tức, khiến người ta bỏ kiếm lời ở thương phẩm chuyển sang kiếm lợi bằng tài sản, tiền tệ. Do đó, tiền gửi định kỳ ở ngân hàng tăng mạnh. Tháng 3 năm 1950, tổng số tiền gửi định kỳ ở ngân hàng Đài Loan là 2,3 triệu (Thống kê tiền tệ Đài Loan do Ngân hàng Đài Loan phát tháng 12 năm 1954). Như vậy, vừa giảm nhẹ áp lực thị trường, vừa tích lũy vốn mở rộng tái sản xuất.
Những năm 1950, chính quyền Đài Loan thu không đủ chi, bất đắc dĩ phải phát hành tiền để bù đắp. Nhưng khi tình thế chuyển biến tốt họ lập tức hạn chế phát hành về mức bình thường. Nhìn chung, chính sách tiền tệ của Quốc dân đảng sau khi đến Đài Loan là hết sức thận trọng và có khuynh hướng “thà thiếu hơn lạm”, có nghĩa là chịu phát hành ít gây tình trạng căng thẳng ở ngân hàng, đầu tư không đủ, cũng không phát hành lượng tiền mặt quá lớn, dễ khiến vật giá tăng vọt.
Thông qua hàng loạt biện pháp này, cộng thêm viện trợ từ Mỹ hàng năm lên đến hàng trăm triệu đô-la, cải cách ruộng đất lại kích thích nông nghiệp và các ngành công nghiệp nhẹ có liên quan đến nông nghiệp như dệt, phân hóa học, máy nông nghiệp... phát triển, đã làm cho kinh tế khôi phục toàn diện. Năm 1952, tỷ lệ lạm phát ở Đài Loan xuống đến 23% sau đó tiếp tục xuống đến năm 1960, trong tám năm chỉ số giá tiêu dùng trung bình tăng 11,2%. Nỗi đe dọa của lạm phát cơ bản được xóa bỏ. Từ 1961 đến 1972 nhờ kinh tế phát triển, lượng cung tăng lên, vật giá Đài Loan rất ổn định. Trong 12 năm, chỉ số giá tiêu dùng trung bình hàng năm chỉ tăng 3,3%, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế đạt trên 10%. Giai đoạn này được gọi là “thời đại hoàng kim” của phát triển tư bản tư doanh.
Tư bản tư doanh Đài Loan sở dĩ phát triển mạnh, ngoài những nguyên nhân kể trên, còn do chính sách bảo hộ thị trường và thuế của chính quyền Đài Loan khác hẳn thời kỳ còn ở
Đại Lục.
Khi còn ở Đại Lục, thị trường vùng Quốc dân đảng thống trị không có điều kiện mở ra quốc tế. Chính quyền Nam Kinh tuy có ký với Mỹ, Nhật Hiệp định thuế quan năm 1928-1930, ra điều “tự chủ về thuế quan”, nhưng thực tế là áp dụng thuế suất năm 1925 do 12 nước phương Tây quyết định coi khinh Trung Quốc, nghĩa là Hải quan Trung Quốc chỉ được tùy theo tính chất chủng loại hàng hóa trừ 5% giá gốc ra không được thu quá 5%-30% thuế phụ. Như vậy, tránh sao được việc hàng nước ngoài ào ào đổ vào, tư bản dân tộc của Trung Quốc không có cách gì chống đỡ, chỉ còn nước phá sản.
Sau khi đến Đài Loan, do nhiều nguyên nhân quyết định chính quyền Đài Loan phải “quốc doanh và dân doanh” cùng đi một đường. Hơn nữa lúc đó ngoại hối rất hiếm, không thể nhập khẩu số lượng lớn,
chính quyền Quốc dân đảng phải tăng cường hàng rào thuế quan, bảo hộ thị trường Đài Loan.
Từ 1950, chính quyền Đài Loan thực hành nghiêm ngặt chế độ quản lý nhập khẩu. Muốn nhập khẩu phải xin giấy phép và nộp tiền bảo đảm bằng Đài tệ mới, tượng trưng với số ngoại tệ cần thiết. Điều này khiến cho nhiều người muốn nhập khẩu phải rút lui, tìm cách dùng hàng nội địa để thay thế. Hàng nhập được chia thành 4 loại: được phép, hạn chế, tạm ngừng và cấm. Hàng được phép là loại nguyên liệu, thiết bị không thể thiếu được và hàng tiêu dùng thiết yếu nhưng hạn chế về số lượng. Hàng xa xỉ nhất loạt đều cấm. Cùng với sự phát triển công nghiệp, một số hàng được phép dần chuyển sang tạm ngừng hoặc hạn chế. Đầu những năm 1950, những mặt hàng khuyến khích nhập như sợi bông và hàng bông vải, len và hàng len, vải lụa nhân tạo, màng giấy, gỗ dán, hàng nhuộm, máy khâu, xe đạp và phụ tùng, xà phòng và bột giặt... do trong nội địa dần tự sản xuất được, nên đến giữa năm 1950 chuyển sang loại hàng tạm ngừng và hạn chế.
Để hạn chế nhập, chính quyền đánh thuế ở mức cao. Khoảng những năm 1948-1950 chỉ miễn thuế hàng viện trợ Mỹ và vật tư của xí nghiệp quốc doanh, thuế suất danh nghĩa trung bình tăng hơn gấp đôi, từ 20% lên 45%.
Ngoài ra, chính quyền Đài Loan còn áp dụng các phương pháp để giảm sức cạnh tranh ngoại thương và bảo hộ thị trường nội địa. Chẳng hạn, ngành điện ảnh, ngoài việc phân phối hạn chế phim nhập, thu thuế giải trí đến 35%, còn quy định phim nhập không được chiếu đồng thời trên bốn rạp trong một thành phố. Mặt khác, chính quyền còn hỗ trợ vốn cho dự án điện ảnh do nội địa sản xuất.
Do hàng loạt các chính sách hạn chế nhập khẩu, chính quyền Quốc dân đảng trong những năm 1950 đã thực hiện nhiều chế độ hối đoái đối với nguyên liệu hoặc thiết bị tỷ lệ thấp hơn hàng thành phẩm. Như vậy, dùng ngoại hối quý báu có hạn vào phát triển sản xuất chứ không giúp nước ngoài tiêu thụ sản phẩm. Chính quyền khuyến khích công nghiệp dùng hàng thay thế nhập khẩu cũng bằng tỷ suất hối đoái thấp để thu ngoại tệ. Thí dụ, ngành dệt chiếm tỷ trọng lớn trong các xí nghiệp tư doanh, lúc đó tỷ suất hối đoái nhập nguyên liệu và thiết bị thấp hơn các ngành khác 30%.
Hạn chế nhập khẩu, thuế quan mức cao, nhiều loại tỷ suất hối đoái đều thuộc phạm trù bảo hộ mậu dịch, cơ sở công nghiệp của Đài Loan rất yếu khả năng cạnh tranh ngoại thương còn phải có thời gian rèn luyện, nên việc áp dụng những biện pháp đó là cần thiết. Không làm thế, không thể chấn hưng công nghiệp địa phương.
Cuối những năm 1950, do công nghiệp dân doanh phát triển mạnh, thị trường bão hòa, cơ cấu kinh tế của Đài Loan chuyển từ “thay thế nhập khẩu” sang “mở rộng xuất khẩu”. Khi đó công nghiệp tư doanh đã có một cơ sở nhất định, chính quyền Đài Loan khuyến khích họ cạnh tranh ngoại thương, xâm nhập thị trường quốc tế, lại tiến hành hàng loạt cải cách kinh tế, thống nhất từ nhiều mức hối đoái thành một mức hối đoái, dẫn đến nới lỏng việc hạn chế nhập và phê duyệt các mặt hàng nhập khẩu. Năm 1965, Đài Loan chỉ mở “khu gia công xuất khẩu” (khu chế xuất) đối với châu Á, lĩnh vực ngoại thương được hưởng rất nhiều ưu đãi. Đồng thời với tăng cường thực lực kinh tế và khả năng cạnh tranh, chính sách bảo hộ mậu dịch cũng dần dần được thay thế bằng chính sách tự do mậu dịch.
Nhưng cho đến nay, chính quyền Đài Loan vẫn chưa bỏ chính sách bảo hộ mậu dịch, chính vì vậy, những va chạm về mậu dịch với Mỹ trở nên gay gắt. Trên quan điểm kinh tế, chính sách bảo hộ mậu dịch có cả mặt lợi, mặt hại, hại lớn hơn lợi hay ngược lại còn phải tùy tình hình. Chính quyền Đài
Loan trước sau vẫn kiên trì chính sách bảo hộ mậu dịch đối với thị trường của mình, riêng về mặt này đủ để không nên nói kinh tế Đài Loan là “kinh tế thuộc địa” hay “bán thuộc địa”.
Khi ở Đại Lục, Quốc dân đảng áp dụng đủ loại thuế khóa, đây là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho tư sản dân tộc tan tác. Sau khi đến Đài Loan, để tăng thêm thu nhập tài chính, chính quyền cũng dùng biện pháp tăng thuế. Những năm 1950, các cấp chính quyền thu nhập về thuế chiếm 52%. Năm 1955 tăng lên 82%, đến 1960 vẫn đạt 73%.
Nhưng, chính trong giai đoạn này, tỷ lệ thu thuế của chính quyền tính theo tổng giá trị sản lượng quốc dân không cao lắm. Từ năm 1952 đến 1961, tỷ lệ đó chỉ trên dưới 14%, thấp hơn nhiều so với các nước phát triển và so với mức trung bình của khu vực.
Đến cuối thập kỷ 1950, chính quyền Đài Loan chính thức áp dụng phương châm “Hy sinh thuế cao, đẩy mạnh kinh tế, bồi dưỡng nguồn thuế”, liên tục ban hành các pháp lệnh Điều lệ khuyến khích đầu tư, Điều lệ Hoa kiều đầu tư, Điều lệ người nước ngoài đầu tư, Điều lệ hợp tác kỹ thuật, có chính sách ưu đãi đối với các xí nghiệp tư doanh tái sản xuất mở rộng và đổi mới thiết bị. Chẳng hạn, miễn thuế năm năm đối với xí nghiệp mới xây dựng, bốn năm đối với xí nghiệp đổi mới thiết bị tính từ lúc bắt đầu bán sản phẩm. Tổng mức thuế không được vượt quá 25% mức doanh thu cả năm. Năm 1977, nhằm khuyến khích công nghiệp nặng tư doanh phát triển, chính quyền Đài Loan lại đặc biệt quy định thuế đánh vào các ngành công nghiệp chế tạo kim loại, cơ giới nặng, mỏ, hóa chất không quá 22% tổng mức doanh thu cả năm. Năm 1980, giảm thuế ưu đãi thêm một bước. Nếu trong sản xuất có nhu cầu đặc biệt phải đầu tư kim ngạch trong phạm vi 15% sẽ được giảm thuế, bộ phận sản xuất sẽ chuyển doanh thu sang sự nghiệp khuyến khích đầu tư của “Chính phủ”. Bộ phận doanh thu này không phải nộp thuế. Đầu tư khai thác ở nước ngoài đem sản phẩm về Đài Loan có thể được hưởng năm năm ưu đãi miễn thuế đối với lợi tức tiền gửi ở dưới một mức nhất định, lãi cổ phiếu ghi tên, miễn thuế nhập khẩu đối với sự nghiệp đổi mới thiết bị, khấu hao rút xuống 1/2 niên hạn, nguyên vật liệu và linh kiện chế tạo cơ khí phù hợp với các quy định...
Để khuyến khích tư bản tư nhân hợp doanh với ngoại thương mở rộng xuất khẩu, chính quyền Đài Loan cũng ban hành hàng loạt các quy định ưu đãi miễn thuế, không thể kể hết.
Cục bộ mà nói, miễn giảm thuế có nghĩa là chính quyền “hy sinh”. Như trong giai đoạn 1964-1969, chính quyền Đài Loan miễn giảm đến 15,6% tổng mức thuế. Giai đoạn 1970-1977, tăng đến 28,1%. Trung bình trong 14 năm, mỗi năm giảm 22%. Nhưng giảm thuế kích thích đầu tư, xí nghiệp mới không ngừng tăng lên, xí nghiệp cũ không ngừng đổi mới tăng sản lượng, khiến cho thuế cơ bản không ngừng tăng lên, giá trị tuyệt đối của thuế cũng không ngừng tăng lên, tình trạng tài chính của chính quyền từ con số âm đã tương đối dư thừa, rồi dư thừa nhiều, tạo thành một vòng quan dân đều vui vẻ.
Hai mặt cơ bản điều chỉnh quan hệ quốc doanh và tư doanh và tạo ra một hoàn cảnh kinh tế mới trên đây đã nói rõ thái độ mới, chính sách mới của chính quyền Quốc dân đảng đối với tư bản tư doanh sau khi họ đến Đài Loan. Một mặt, trực tiếp bán lại xí nghiệp quốc doanh cho tư nhân, vạch rõ phạm vi kinh doanh của hai loại này và xây dựng mối quan hệ dựa vào nhau cùng tồn tại cùng phát triển về năng lượng, tiền vốn và nguyên liệu... Mặt khác, ngăn chặn lạm phát, bảo hộ thị trường nội địa, giảm gánh nặng về thuế. Đó là những điều khác hẳn với thời kỳ Quốc dân đảng còn ở Đại Lục.
Ngoài ra, các mặt khai thác thăm dò tài nguyên, cung ứng nguyên liệu, mở rộng thị trường, chuyển giao
công nghệ, chính quyền Đài Loan đều căn cứ vào nhu cầu của từng giai đoạn phát triển kinh tế trực tiếp tham gia kinh doanh dù ít hay nhiều để dẫn dắt, nâng đỡ sự nghiệp tư doanh.
Thí dụ, đầu thập kỷ 1950, để nâng đỡ ngành dệt, chính quyền Đài Loan thực hiện chính sách “bao cấp”, nghĩa là các xưởng chỉ gia công theo định mức phân công, còn cung cấp nguyên liệu và bao tiêu sản phẩm do nhà nước chịu trách nhiệm. Sau khi bỏ chế độ “bao cấp”, chính quyền Đài Loan lại cho ngành dệt hưởng hối suất ưu đãi, bảo đảm cung ứng nguyên liệu. Kết quả ngành dệt trở thành đầu rồng cho kinh tế Đài Loan bay lên. Ở thập kỷ 1969 và 1970, giá trị sản lượng và kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt luôn dẫn đầu các ngành khác.
Những năm 1950 và 1960, chính quyền Đài Loan thực hiện trọng điểm biện pháp “hạn chế lập xưởng”, nghĩa là trên cơ sở đánh giá thị trường, chính quyền hạn chế đầu tư nhiều đối với một ngành nào đó; để đảm bảo thị trường của xí nghiệp trọng điểm có tỷ lệ nhất định, tránh tình trạng mọi người cùng sản xuất một loại sản phẩm, gây lãng phí tài nguyên lao động và tiền vốn.
Đến những năm 1970, chính quyền Đài Loan lại xúc tiến quá trình liên hợp của các xưởng cùng sản xuất một mặt hàng, tổ chức các công ty mậu dịch lớn có một mạng lưới cơ sở sản xuất và bán sản phẩm. Như vậy, vừa thống nhất được quy cách, chất lượng của các sản phẩm cùng loại, vừa mở rộng được quy mô sản xuất, lại tránh được tình trạng tàn sát nhau để người nước ngoài hưởng lợi.
Để khuyến khích sự hợp tác kỹ thuật giữa các hãng tư doanh với ngoại thương, chính quyền Đài Loan có đãi ngộ thích đáng đối với ngoại thương cung cấp kỹ thuật tiên tiến và cấp phép cho Đài Loan. Đồng thời, cấp những khoản tiền lớn cho các hãng học tập và mua kỹ thuật mới. Thí dụ, để dẫn dắt sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu, chính quyền trước hết đầu tư cho cơ cấu nông nghiệp trồng thử ngô đường, thử nuôi cá quả Mỹ, thử chế biến bột tảo Chlorena và tinh tảo Chlorena... có hiệu quả rồi mới mở rộng. Để phát triển hàng cơ khí và đồ điện, chính quyền bỏ ra 200 nghìn Đài tệ mới để thu nhập mẫu đồ chơi ở các nơi trên thế giới, cung cấp cho các nhà sản xuất quan sát và mô phỏng.
Về mặt xuất khẩu, chính quyền Đài Loan đặt trụ sở và mạng lưới mậu dịch ở hơn 80 quốc gia và khu vực trên thế giới, tham gia các triển lãm, hội chợ quốc tế; thường xuyên mời khách nước ngoài và các nhà kinh doanh đến Đài Loan thăm quan và đồng thời cũng thường xuyên cử người đi chào hàng ở nước ngoài. Để mở rộng mạng lưới mậu dịch quốc tế, Đài Loan đã xây dựng các “Trạm phục vụ mậu dịch quốc tế”, cung cấp cho ngoại thương các đường dây điện thoại và khuyến khích ngoại thương đặt các đại lý ở nước ngoài. Chính quyền còn treo các “phần thưởng ngoại thương” trao cho hãng nào xuất khẩu được nhiều.
Các biện pháp nâng đỡ kể trên, cộng với viện trợ Mỹ, hoàn cảnh quốc tế thuận lợi, kết hợp với tố chất bản thân xí nghiệp tư doanh không ngừng nâng cao đã khiến cho sự nghiệp tư doanh của Đài Loan trong 25 năm từ 1953 đến 1977, tỷ lệ tăng trưởng sản xuất hàng năm trung bình là 18,1%. Tốc độ mạnh mẽ này có thể nói là ít có trong lịch sử phát triển kinh tế của các quốc gia trên thế giới và khu vực.
Những năm gần đây, tư bản nhà nước cũng không ngừng phát triển, tốc độ dù sao cũng vẫn chậm hơn tư bản tư doanh. Từ năm 1953 đến 1962, xí nghiệp quốc doanh có mức tăng trưởng hàng năm là 8,9%, dân doanh là 15,6%; 1963-1972 quốc doanh là 10,9% dân doanh 23,3%; 1973-1977 quốc doanh 9,9%, dân doanh 11,2%. Cuối những năm 1950, giá trị sản lượng dân doanh vượt quốc doanh, đến 1978 vượt đến bốn lần. Đến 1985, tỷ trọng giá trị sản lượng các xí nghiệp dân doanh đạt 86% giá trị
tổng sản lượng ngành công thương nghiệp trong khi đó quốc doanh chỉ chiếm 14%. Điều đó nói lên chính quyền Quốc dân đảng tiếp thu bài học thất bại về kinh tế ở Đại Lục đã thực sự cố gắng nâng đỡ cho tư bản tư doanh phát triển.
Sự phồn vinh của tư bản tư doanh đã cung cấp sức sống mạnh mẽ cho việc chấn hưng kinh tế Đài Loan. Tiếp theo là mở rộng sự nghiệp, cung cấp tăng lên, cải thiện dân chủ, giai cấp trung sản bật lên. Về mặt chính trị, vừa xúc tiến xã hội đa nguyên hóa, khiến cho khẩu hiệu dân sinh có cơ sở nở rộ; vừa xoa dịu sự bất mãn của quần chúng đối với chính quyền Quốc dân đảng, có lợi cho sự thống trị của Quốc dân đảng.
5. CUỘC “CẢI TẠO” CỦA QUỐC DÂN ĐẢNG
I. MẦM MỐNG “CẢI TẠO” VÀ SỰ THAY ĐỔI TƯ TƯỞNG CỦA TƯỞNG GIỚI THẠCH
Xác lập thể chế giới nghiêm và thực hiện hai chính sách lớn là phương sách chiến lược của Quốc dân đảng để củng cố sự thống trị của họ đối với Đài Loan. Đồng thời, hiểu rõ các phe phái nội bộ trong tình trạng chiến bại, chính quyền Đài Loan đã tiến hành chỉnh đốn hàng loạt, trước hết là cuộc “cải tạo” Đảng, cái mà Tưởng Giới Thạch mưu đồ từ lâu.
Người sáng lập Quốc dân đảng, Ngài Tôn Trung Sơn, mỗi lần vấp váp đều tiến hành cải tạo. Trước thảm bại vừa qua, Tưởng Giới Thạch cũng nghĩ đến tiền lệ của Tôn Trung Sơn; Ông nói với các Đảng viên: “Mỗi lần gặp bước nước nhà mất còn, cách mạng thành bại (Thủ tướng) đều cố gắng cải tạo Đảng, đích thân Thủ tướng đã năm lần đổi tên Đảng, tổ chức Đảng cũng năm lần cải cách”. Vì vậy Tưởng cũng muốn cải tạo Đảng một lần.
Về phương diện lịch sử, có hai phương thức cải tạo Quốc dân đảng. Một là, xây dựng một Đảng mới, như Quốc dân đảng đổi thành Đảng Cách mạng Trung Hoa; hai là, trên cơ sở Đảng cũ, tiến hành chỉnh đốn theo kiểu đại phẫu thuật, như cải tổ năm 1924.
Tưởng Giới Thạch khi tính phương án cải tạo cũng đã nghĩ đến phương thức thành lập Đảng mới. Trước khi tạm bị gạt ra khỏi chính quyền, ngày 13 tháng 12 năm 1948 ông đã chỉ thị cho Hồ Quỹ, Diệp Thanh, Từ Phúc Quan chính thức thành lập một tổ chức gọi là “Đại đồng minh nhân dân cứu quốc Trung Quốc”. Tổ chức này có đầy đủ cả chương trình hành động, cương lĩnh, ban cán sự Trung ương và Tuyên ngôn đối với thời cục. Thực tế, đó chỉ là ném đá dò đường mà thôi. Nghĩ đi nghĩ lại, Tưởng cảm thấy không thể vứt bỏ chiêu bài Quốc dân đảng được, cuối cùng quyết định dùng phương thức đại cải tổ trên cơ sở Đảng cũ. “Đại đồng minh” cũng không ai nhắc đến nữa.
Tháng 1 năm 1949, Tưởng Giới Thạch về vườn đến ở Khê Khẩu, Phụng Hóa, bắt đầu vạch kế hoạch “cải tạo” Quốc dân đảng. Tháng 6, Tưởng Giới Thạch chỉ định Trần Lập Phu, Trần Thành, Tưởng Kinh Quốc thiết kế phương án “cải tạo”. Ngày 14 tháng 7, Tưởng Giới Thạch đem Phương án cải tạo Đảng ta đến Quảng Châu cho Ban Thường vụ Trung ương thảo luận. Ngày 18 tháng 7, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương lần thứ 204 thông qua Cương yếu cải tạo và trình tự thi hành. Ngày 20 tháng 9, Tưởng Giới Thạch đọc Thư gửi các đồng chí trong toàn Đảng tại Trùng Khánh, kêu gọi Đảng viên tham gia “cải tạo”. Nhưng lúc đó quân đội Quốc dân đảng đã tan rã, còn đang vội chạy ra Đài Loan, giữ thân chưa xong, ai nghĩ đến cải tạo làm gì. Mãi đến sau tháng 6 năm 1950, Mỹ giương ô bảo vệ Đài Loan, vấn đề “cải tạo” mới lại được nhắc đến trong chương trình nghị sự.
Nói đến “cải tạo” trước hết cần phải xem cải cái gì, cải thế nào, điều này quyết định bởi Tưởng Giới Thạch tổng kết bài học thất bại như thế nào. Nói cách khác Tưởng Giới Thạch rút ra nguyên nhân thất bại như thế nào, cũng có nghĩa là “cải tạo” để thay đổi tư tưởng chuẩn bị dư luận.
Sau khi về vườn, Tưởng đã tập trung tinh lực vào tìm nguyên nhân thất bại. Đến Đài Loan, càng suy nghĩ nhiều về vấn đề này và đem nhận thức của mình đi giảng giải ở khắp nơi. Một lần, ở hội nghị có đến hơn hai nghìn cán bộ trung, cao cấp, Tưởng Giới Thạch biểu thị “cần phải” thành khẩn tiếp nhận bài học thất bại ở Đại Lục, không tiếc hy sinh tình cảm và thể diện triệt để cải tạo.
Tưởng Giới Thạch tổng kết nguyên nhân thất bại bao gồm năm điểm cơ bản sau đây:
1. Ngoại giao quốc tế: Ông tuyên bố: nói Quốc dân đảng thất bại đối với Trung Cộng, chẳng thà nói thẳng ra là thất bại đối với Nga Xô. Ông công kích chủ nghĩa xã hội là sản phẩm nhập của phương Tây. Trung Cộng là đội biệt động xâm nhập Trung Quốc của Nga Xô. Thắng lợi của Trung Cộng chủ yếu là nhờ Nga Xô giúp khống chế Đông Bắc. Còn đồng minh Mỹ của Quốc dân đảng lại ngầm ký Mật ước Yalta với Liên Xô, đem Đông Bắc Trung Quốc làm quà cho Liên Xô, tiếp theo đến mùa xuân 1948, ngừng toàn bộ viện trợ quân sự, kinh tế đối với Chính phủ Nam Kinh. “Mua rẻ Trung Hoa Dân Quốc chính là đỉnh cao âm mưu từ lâu của Liên Xô đối với ngoại giao Mỹ, là mục đích trước sau như một của hàng trăm năm nay, nhằm xâm lược Trung Hoa. Họ đã đạt được mục đích.”71
Qua “tổng kết” đổi trắng thay đen này, thất bại của Quốc dân đảng được mô tả thành thất bại “chống xâm lược của Đế quốc Nga” có chút màu sắc bi kịch “chống ngoại bang, tuy thua nhưng vinh dự”. Thành công của Cách mạng Nhân dân Trung Quốc lại bị bôi nhọ thành công cụ trong âm mưu xâm lược của Nga Xô.
Đảng cộng sản lãnh đạo nhân dân lật đổ ba ngọn núi lớn: Chủ nghĩa đế quốc, Chủ nghĩa phong kiến, Chủ nghĩa tư bản quan liêu lại bị coi là tội phạm dân tộc “mười ác không thể tha”. Còn Tưởng Giới Thạch hành động ngang ngược bị nhân dân ghét bỏ lại thành anh hùng, lãnh đạo quân đội đơn thương độc mã chống lại nước Nga hùng mạnh.
Tưởng Giới Thạch công kích Đảng cộng sản, căn bản không bõ thảo luận. Cái mà ông gọi là “Đế quốc Nga xâm lược Trung Quốc” đúng ra chỉ cóp nhặt miệng lưỡi các chính khách phe hữu của Mỹ, ông cường điệu Mỹ cắt viện trợ Đài Loan là giúp đế quốc Nga thực hiện được “âm mưu xâm lược Trung Quốc có từ hàng trăm năm nay”, chẳng khác gì các chính khách phe hữu của Mỹ chỉ trích Chính phủ Truman “vứt bỏ Trung Quốc”. Tưởng Giới Thạch thừa biết là chống Nga càng mạnh càng được nhiều viện trợ của Mỹ. Ông cố chứng minh rằng khi đó Mỹ “bàng quan” là đã phạm sai lầm lớn như thế nào.
Đồng thời sau khi nếm mùi bị đồng minh bỏ rơi, Tưởng Giới Thạch cũng nhận thức: “Tin dựa vào Mỹ, tôi cho rằng không sai, nhưng ỷ lại vào bạn, thiếu quyết tâm tự lực cánh sinh, đó là điều sai lầm to lớn đã mang lại cho chúng ta bi kịch của ngày hôm nay.” Điều này có thể nói là đáng giá nhất trong tổng kết nguyên nhân thất bại về mặt ngoại giao quốc tế của Tưởng Giới Thạch.
2. Kinh tế: Tưởng Giới Thạch khẳng định sự tan rã về mặt kinh tế là nguyên nhân quan trọng nhất làm cho Quốc dân đảng sụp đổ. Kinh tế tan rã có ba nguyên nhân: (1) Chiến đấu lâu dài không khôi phục được các vết thương; (2) Đảng cộng sản “gây rối” cản trở tiến trình xây dựng đất nước; (3) Tống Tử Văn tự động lấy ngân hàng Trung ương để cải cách tiền tệ “phá vỡ chính sách cải cách tiền tệ của Chính phủ, khiến cho kinh tế lâm vào tình trạng lạm phát ác tính, đầu cơ, lũng đoạn các xí nghiệp chính đáng không thể tồn tại, giai cấp trung sản bị mai một, tâm lý xã hội dao động, sự tan ra của nền kinh tế không có cách gì cứu vãn, đây là khâu then chốt trong sự tan rã chung của nền kinh tế ở Đại Lục và cũng là bài học quan trọng nhất trong sự nghiệp kinh tế từ nay về sau”.
Tổng kết này của Tưởng chẳng qua chỉ là “gãi ngứa ngoài giầy” trút sạch mọi trách nhiệm của mình, càng khó thuyết phục mọi người. Nhưng Tưởng đưa “Quốc cữu Tống Tử Văn” ra làm vật hy sinh cũng có thể nói là bạo dạn. Sở dĩ phải làm như vậy vì:
1. Quan hệ Tưởng – Tống chỉ bằng mặt, không bằng lòng. Khi Quốc dân đảng thảm bại ở Đại Lục, Tống Tử Văn mang một khoảng tiền lớn chuồn sang Mỹ ẩn dật, chính quyền Đài Loan càng mời càng xa, mấy lần từ chối “trở về”. Thậm chí, Quốc dân đảng tung tin khai trừ đảng cũng không hề lay động ông ta.
2. Có tin nói Tống Tử Văn có ý định làm đảo chính, đã từng yêu cầu Mỹ giúp đưa vũ khí vào Đài Loan. Tất nhiên tính chính xác của tin tức cũng còn có vấn đề, nhưng Tưởng Giới Thạch như con chim sợ cành cong, không thể không đề phòng.
3. Phái Trần Thành, phe Tưởng Kinh Quốc và phái CC theo Tưởng Giới Thạch đến Đài Loan đều bất mãn đối với Tống Tử Văn. Tưởng Giới Thạch “vì đại nghĩa diệt thân”, có lợi cho đoàn kết nội bộ, cũng để chứng tỏ ông ta trong Tổng kết thất bại, dám “hy sinh tình cảm và thể diện”.
Khi tổng kết bài học về kinh tế, toàn thể Đảng viên Quốc dân đảng đều nhận rõ một điểm, theo cách nói của Tưởng Giới Thạch, là: “Mọi đồng chí chúng ta đều thấy rằng bốn năm chiến tranh chống Cộng, Chính phủ đã không thực hiện chủ nghĩa dân sinh.” Nhận thức này đã giúp sức về mặt tư tưởng cho Đài Loan tiến hành cải cách ruộng đất và nâng đỡ tư bản tư doanh.
3. Quân sự: Tưởng Giới Thạch ba hoa về chiến tranh tiễu Cộng, nào là lúc đầu từng “thắng lợi áp đảo”, “có thể nói là vô địch”. Tiêu diệt Đảng cộng sản “là điều chắc chắn, không có vần đề gì” “chỉ vì Mỹ tham gia điều quân, mỗi khi Quốc quân tiến một bước lại bị ban điều quân chống lại, làm cho Quốc quân bó tay chịu đòn, lòng người càng chán ngán, ngày một nghiêm trọng càng ngày càng xuống dốc”. Còn Đảng cộng sản “không những có dịp nghỉ sức, lại được ung dung chỉnh đốn bổ sung ngày càng mạnh, cuối cùng Quốc quân đành chịu tan rã”. “Do đó, sự thất bại quân sự của ta có thể nói vẫn là thất bại về ngoại giao.”
Nhưng lời lẽ trên đây chẳng qua là Tưởng Giới Thạch muốn rũ sạch trách nhiệm của mình. Những tướng lĩnh Quốc dân đảng có lương tri cũng đều biết đó không phải là sự thật, nhưng đành là “Thánh ý chỉ biết nghe” mà thôi.
Nhưng về mặt này, Tưởng Giới Thạch cũng thấy được một số tệ hại của quân đội Quốc dân đảng. Ông chỉ rõ: “Một số tướng lĩnh của Quốc quân vô học, ngu xuẩn, bị trong ngoài chế giễu, bị xã hội khinh bỉ, tu dưỡng về chiến lược chiến thuật không những rỗng tuếch lại không chịu nghiên cứu, thậm chí một ít tri thức học được ở trường quân sự cũng vứt sạch”. Ông thừa nhận: “Từ cuối cuộc chiến đến nay, tệ tham ô, hối lộ biểu hiện trong nội bộ Đảng, đó cũng là một nguyên nhân quan trọng trong thất bại quân sự.”
Thông qua nhiều năm đối đầu với Đảng cộng sản, Tưởng Giới Thạch cũng cảm nhận được uy lực của chiến tranh nhân dân, nhưng ông không công nhận Đảng cộng sản đại biểu cho nhân dân, nên ông gọi chiến tranh nhân dân là “chiến tranh tổng thể”. Tưởng Giới Thạch cũng không thừa nhận mình đối lập với nhân dân, vì thế ông cho nguyên nhân Quốc dân đảng không làm nổi “chiến tranh tổng thể” là chịu “sức ép của Đảng cộng sản quốc tế,” thế lực tuyên truyền của những người cùng đường lối với họ, tình
hình chính trị quốc tế và chịu “sự hạn chế của Hiến pháp”. Ông nói, từ nay về sau Quốc dân đảng cũng phải tổ chức quần chúng nhân dân thành lực lượng kết hợp quân với chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, “lấy chiến tranh tổng thể đối đầu với chiến tranh tổng thể”.
4. Giáo dục: Tưởng Giới Thạch nhận thức rằng dư luận tiến bộ, khuynh hướng dân chủ của thanh niên, phong trào học sinh đều phát huy tác dụng quan trọng trong việc làm tan rã sự thống trị của Quốc dân đảng. Ông nhớ lại tình hình khi còn ở Đại Lục, nói: “Phát thanh, điện ảnh và tuyên truyền có ý nghĩa giáo dục đối với quần chúng không phải là văn bản của chủ nghĩa quốc tế thì cũng là tuyên truyền cho tổ chức đó, đều sát thương quần chúng, kích động tâm lý quần chúng”. Trong trường học chỉ hạn chế giảng dạy và học về khoa học, các đạo lý tu thân trị quốc “mặc cho các giáo sư tùy ý nói nhảm, nhất là trong các trường chuyên nghiệp đầy rẫy tư tưởng quốc tế của chủ nghĩa Cộng sản, nếu không thì cũng là tư tưởng cá nhân của chủ nghĩa tự do… không những họ chế giễu Chủ nghĩa Tam dân, triết học dân sinh mà còn phá hoại và chống đối. Do đó, những người theo chủ nghĩa tự do cá nhân đều muốn rằng chính quyền bớt can thiệp tý nào, tư tưởng học thuật sẽ được tự do thêm tý nấy, càng cho rằng Đảng ta rút khỏi trường học, tư tưởng học thuật mới được tự do. Kết quả là: “Trường học trở thành Đại bản doanh của thành lũy Đảng cộng sản”, “(khoa học) trở thành khẩu hiệu chống văn hóa dân tộc, (Dân chủ) trở thành thủ đoạn của Nga Xô và phỉ Cộng cướp đi thành quả chiến tranh của ta, tiêu diệt tinh thần dân tộc của ta”.
Từ nhận thức này, Tưởng Giới Thạch đề nghị đưa tất cả học sinh trung, cao học trở lên vào tổ chức; tăng cường công tác tuyên truyền của Quốc dân đảng; khống chế nghiêm ngặt các xuất bản phẩm. Đồng thời, đề nghị cái gọi là nhiệm vụ “chiến đấu trên hai mặt trận tư tưởng”, một mặt khống chế chủ nghĩa Cộng sản, một mặt chống chủ nghĩa tự do cá nhân. Đây chính là luận điệu cơ bản của chủ nghĩa chuyên chế văn hóa trong suốt hơn 30 năm về sau.
5. Chính trị: Tưởng Giới Thạch đã nêu những thất bại ngoại giao, kinh tế, quân sự, giáo dục, nhưng thất bại lớn nhất phải nói là thất bại chính trị, mà nguyên nhân quan trọng nhất là thất bại trong xây dựng Đảng.
Tưởng Giới Thạch chẩn đoán ba triệu chứng:
Đầu tiên, sự dao động lòng tin vào Chủ nghĩa Tam dân. Tưởng Giới Thạch nói: “Tôi đau lòng vì nhiều đồng chí, trong đó một số đồng chí có học vấn hẳn hoi, cố gắng để khẳng định Chủ nghĩa Tam dân, ấy thế mà khi đứng trước chủ nghĩa Cộng sản Marx lại bị lạc hướng, đem chủ nghĩa Cộng sản để giải thích Chủ nghĩa Tam dân. Thậm chí, lấy Chủ nghĩa Tam dân làm chiêu bài để tuyên truyền cho chủ nghĩa Cộng sản… Một số Đảng viên lấy câu nói của Thủ tướng (Tôn Trung Sơn): “Chủ nghĩa Tam dân chính là chủ nghĩa Cộng sản” để giải thích vòng vèo về Chủ nghĩa Tam dân, đi dựa vào phỉ Cộng, đổ trách nhiệm lên Thủ tướng”.
Vấn đề Tưởng Giới Thạch nói ở đây là vấn đề căn bản của Quốc dân đảng. Trong Đảng cũng có khá nhiều phần tử phái tả kiên trì Chủ nghĩa Tam dân mới của Tôn Trung Sơn, đi theo con đường liên Nga, liên Cộng, nâng đỡ công nông. Lòng tin và đường lối chính trị của họ là nhất trí, không hề có cái gọi là “giải thích vòng vèo” và “lạc hướng”. Chỉ những Đảng viên theo Tưởng Giới Thạch, về mặt lý luận, mượn ngọn cờ của Tôn Trung Sơn để hành động ngược với Chủ nghĩa Tam dân mới, tạo nên mâu thuẫn sâu sắc giữa lòng tin và thực tiễn. Một số thực sự tin vào Tôn tiên sinh không khỏi có những nghi vấn, theo cách nói của Tưởng Giới Thạch gọi họ là “dao động lòng tin vào Chủ nghĩa Tam dân”. Một số
kiên trì con đường chống Cộng, tuy miệng vẫn tôn sùng Tôn Trung Sơn là “Quốc phụ” nhưng hễ nói đến Chủ nghĩa Tam dân lại như gà mắc tóc, không khỏi đổ trách nhiệm cho Thủ tướng. Cả hai loại này đều cảm thấy “lạc hướng”, khủng hoảng lòng tin.
Trước tác của Tôn Trung Sơn còn đó, quan điểm quan trọng về liên Nga, liên Cộng nói rất rõ ràng, đây không giống như Kinh Thánhcủa Cơ đốc giáo, hoặc Đạo đức kinh của đạo giáo để người đời sau tha hồ giải nghĩa. Vì vậy, bọn nhà văn phản động cho dù cố vắt óc cũng không thể đặt dấu bằng giữa “tín đồ Trung Sơn” và “phản Nga, phá Cộng” được. Điều này quyết định sự khủng hoảng lòng tin của Quốc dân đảng là không thể khắc phục được, nó cũng quyết định Tưởng Giới Thạch chỉ còn trông mong vào sự sùng bái cá nhân và tư tưởng trung quân phong kiến một cách ngu xuẩn lấy sự trung thành với lãnh tụ để làm sợi dây tinh thần trói buộc toàn Đảng.
Xuất phát từ lô-gic này, Tưởng Giới Thạch đem triệu chứng thứ hai của “thất bại về đảng” quy cho “dao động về sự trung thành đối với trung tâm lãnh đạo cách mạng”. Cái gọi là “Trung tâm lãnh đạo cách mạng” chẳng qua là một cách gọi khác của ba chữ “Tưởng Trung Chính” mà thôi.
Theo cách nói của Tưởng Giới Thạch, sự sụp đổ của Quốc dân đảng không phải do chính sách phản động của họ mà do “mắc mưu Đảng cộng sản”, làm tổn thương uy tín người lãnh đạo cách mạng, phá tan lực lượng của dân tộc, dẫn đến kết quả là xa rời ông. Ông chửi rủa Trương Trị Trung, Thiệu Lực Tử, những người theo phái dân chủ trong Đảng đã yêu cầu ông về vườn là “mất hết Đảng đức”. Ông chỉ trích Lý Tôn Nhân, Bạch Sùng Hi diễn trò ăn hiếp vua là “đối với cá nhân tôi không những không coi là lãnh tụ, là đồng chí, thậm chí họ coi tôi là tội phạm, ra sức bôi nhọ”. Ông cao giọng tuyên bố: “Chúng ta sở dĩ kiên trì đến cùng cuộc kháng chiến chống Nhật chính vì cả nước nhất trí kiên định tin tưởng vào tôi. Đế quốc Nga thấy rõ điểm này nên ra một đòn cuối cùng để tiêu diệt Đảng Trung Hoa Dân Quốc là tập trung nói xấu Trung Chính này.”
Trên cơ sở nhận thức đó, Tưởng Giới Thạch coi xây dựng lại uy quyền tinh thần của ông đối với Đảng viên là nội dung quan trọng trong “cải tạo” Quốc dân đảng. Cố tình chế ra một sự sùng bái cá nhân ở Đài Loan đối với “nửa người nửa thần” Tưởng Giới Thạch. Những người theo ông, thổi phồng là “Người thầy của cách mạng dân tộc Trung Hoa” “Tiên tri chống Cộng toàn nhân loại” “Người khổng lồ thời đại của thế kỷ XX”, “Điển hình về đạo đức cao đẹp nhất, tinh hoa của văn hóa Trung Hoa và tinh thần vương đạo phương Đông”, thôi thì đủ loại mỹ từ xu nịnh, đến tận ngày nay vẫn chưa dứt.
Trong tình trạng lòng tin bị tan rã, Đảng viên hoài nghi đối với “Trung tâm lãnh đạo cách mạng” tất nhiên sinh ra kỷ luật lỏng lẻo, tổ chức rã rời.
Cuối năm 1948, Quốc dân đảng hoàn toàn sụp đổ. Lý Tế Thâm, Bằng Ngọc Tường thành lập “Dân cách” ở mặt trước, Lý Tôn Nhân, Bạch Sùng Hi “ăn hiếp vua” ở mặt sau. Phó Tác Nghĩa, Trường Trị Trung, Thiệu Lực Tử, Trình Tiềm lần lượt quay giáo. Tống Tử Văn, Khổng Tường Hi, Tôn Khoa, Ngụy Đạo Minh, Lưu Trĩ mỗi người một nơi. Quốc dân đảng với hơn bốn triệu Đảng viên, ra Đài Loan chỉ còn hơn 70 nghìn. Trong tổng số 2.961 “Đại biểu Quốc hội”, ra đảo chỉ còn 1.080 người. Trong số những người ra đảo, rất nhiều người lấy đó làm cầu nhảy, lấy Đài Loan làm trạm trung chuyển, sau đó sang Âu, Mỹ. Bọn chống Cộng, tuy miệng hô “cùng sống chết với Đài Loan” nhưng thực ra chỉ là chỉ trích lẫn nhau, tranh giành quyền lợi. Tình trạng “tan đàn xẻ nghé” diễn ra hỗn loạn. Tưởng Giới Thạch gọi là “có bí mật bán bí mật, có công văn bán công văn”; “bọn táng tận lương tâm thì đầu hàng, bọn vô liêm sỉ thì phản Đảng, bọn thất vọng thì trốn tránh, bọn buồn chán thì oán than. Trung Chính này tự
kiểm điểm không làm sao giữ cho họ khỏi sợ hãi, hoang mang”. Tưởng Giới Thạch còn chỉ ra rằng: “Tổ chức Đảng không được kiên cường, kỷ luật Đảng không nghiêm túc, đó thực sự là nỗi nhục lớn của Đảng ta.”
Ba điểm trên đây là tổng kết của Tưởng Giới Thạch về “thất bại của Đảng”, cũng có thể nói là nguyên nhân chủ quan của thất bại chính trị mà ông kiểm điểm trên lập trường “Đảng trị”. Ngoài ra, ông còn xuyên tạc sự thực khách quan, biện hộ hai điểm cho thất bại chính trị của mình.
Một là, “Nhược điểm của chính trị dân chủ”. Tưởng Giới Thạch tung ra luận điệu “Chủ chủ nghĩa Cộng sản sinh ra và lớn lên trên nhược điểm của chính trị dân chủ”, thất bại của Quốc dân đảng là thực hành “Hiến pháp dân chủ” kết quả để cho Đảng cộng sản “có cơ hội gây chia rẽ, có lỗ hổng để chui vào”, làm yếu đi sức khống chế của Chính phủ. Do đó, Tưởng chỉ ra rằng: “Thể chế muốn tôn trọng Hiến pháp dân chủ, càng cần phải tăng cường sức mạnh của tổ chức, phát huy hiệu suất của chính trị dân chủ.”
Hai là, chế độ không được kiện toàn về mọi mặt. Tưởng Giới Thạch chỉ ra rằng: Quân sự sở dĩ tan rã, các mặt khác như công tác Đảng chính trị, kinh tế, xã hội sở dĩ hỗn loạn như ngày hôm nay nguyên nhân chủ yếu cũng vì chưa xây dựng được các chế độ. Điều này, Tưởng nói rất đúng. Nhưng vừa chuyển giọng, Tưởng lại quy cho “Hiến pháp”. Ông nói: Chúng ta đều rõ rằng huấn luyện viên chính trị chưa hoàn thành, nhân dân còn chưa đạt trình độ hiểu biết về thực hiện dân chủ, nhưng vì quan hệ trong ngoài và yêu cầu của thời đại không thể không kết thúc sớm việc huấn luyện chính trị, thực hiện “Hiến pháp”, thế là xóa sạch chế độ cũ. Trong khi chế độ mới chưa có thì đã phá tan chế độ cũ, nên mới hình thành cảnh tượng hỗn loạn như thế này, đó là thất bại của toàn bộ chính sách dẫn đến sự sụp đổ toàn bộ về chính trị.
Thất bại của Quốc dân đảng chính là do không dân chủ, nhưng Tưởng lại nói ngược, coi thực hiện “Hiến pháp” là nguyên nhân thất bại. Tổng kết bài học kinh nghiệm như vậy khiến cho con đường độc tài chuyên chế của Tưởng Giới Thạch càng đi càng xa.
Căn cứ vào tổng kết năm nguyên nhân thất bại về ngoại giao kinh tế, quân sự, giáo dục và chính trị kể trên, Tưởng Giới Thạch xác định: Trong cải tạo “về mặt tiêu thụ phải thanh toán chủ nghĩa thất bại, phải hối cải thống thiết thói quen kéo bè kéo Đảng, phải quét sạch tác phong quan liêu” và “phải xác định lại đường lối chính sách và cơ sở xã hội của Đảng, căn cứ vào đó để quyết định nguyên tắc tổ chức và phương hướng công tác của Đảng. Đồng thời xác định ba mục lớn: Một là xây dựng các chế độ, yêu cầu các mặt công tác Đảng, chính trị, quân sự, kinh tế, giáo dục, xã hội đều phải kiện toàn các chế độ, nhất thiết phải chế độ hóa; hai là phải chú trọng tổ chức, yêu cầu ai cũng phải đứng trong tổ chức; ba là cải tạo tư cách, trừ bốn mục thất bại chủ nghĩa kể trên, yêu cầu đả phá “trạng thái vô kỷ luật, vô tổ chức, vô Chính phủ” và “tác phong xa hoa lãng phí”.
Trên đây là các nguyên tắc chỉ đạo phong trào “cải tạo”. Sau khi đã xác định xong các nguyên tắc, vở kịch lớn “cải tạo” mới được đưa lên sân khấu chính trị.
II. PHÁI CC TRỞ THÀNH MỤC TIÊU ĐẢ KÍCH TRONG PHONG TRÀO “CẢI TẠO”
Tưởng Giới Thạch “cải tạo” Quốc dân đảng, không chỉ đơn thuần là một cuộc chỉnh phong tư tưởng, mà là một cuộc chỉnh đốn lớn về nhân sự và phân phối quyền lực. Vì vậy, thể nào cũng phải có kẻ
thành vật hy sinh của cuộc vận động lần này.
Trước hết, Tưởng chọn mục tiêu đả kích là phe Lưỡng Quảng. Ý đồ “cải tạo” chủ yếu là lấy “Đảng quyền” của “Tưởng Tống Tài” đè bẹp “Chính quyền” của “Quyền Tống thống” Lý Tôn Nhân, dọn đường vùng lên. Trong Thư gửi toàn thể các đồng chí trong Đảng của Tưởng Giới Thạch tháng 9 năm 1944, có câu: “Phải triệt để thanh toán chủ nghĩa thất bại, phải hối cải thống thiết thói quen kéo bè kéo đảng” chính là nhằm vào phe Lưỡng Quảng, kẻ đã ép Tưởng phải về vườn và đình chiến cầu hòa.
Khi đó, Tưởng Giới Thạch cũng muốn nhân dịp “cải tạo” tước quyền lực của phái CC, họ lâu nay vẫn nắm giữ hệ thống công tác Đảng, đặt cơ sở cho việc “truyền ngôi” sau này. Nhưng trước mặt phải đối phó với phe Lưỡng Quảng đang gây sức ép với mình. Ông phải tìm sự ủng hộ của nhiều phía, cho nên phương án cải tạo đầu tiên vẫn phải triệu đến người đứng đầu phái CC là Trần Lập Phu.
Đến tháng 6 năm 1950, tình hình có biến đổi. Mục tiêu chủ yếu định nhằm vào phe Lưỡng Quảng không còn nữa, nên phái CC trở thành đối tượng “cải tạo” số một.
Tên gọi của phái CC có hai cách giải thích. Một là viết tắt của hai anh em họ Trần (viết theo âm Trung Quốc là Chén), hai là viết tắt của Central Club (Câu lạc bộ Trung ương). Tháng 8 năm 1927, phe Lưỡng Quảng liên kết với Hà Ứng Khâm gạt Tưởng Giới Thạch ra rìa. Anh em họ Trần thu thập người của Tưởng thành lập Câu lạc bộ Trung ương, làm trung tâm hoạt động của phe Tưởng. Đó là nguồn gốc của phái CC.
Sau khi Tưởng Giới Thạch trở lại võ đài, anh em họ Trần đều được trọng dụng, lần lượt đảm nhiệm Trưởng ban tổ chức Trung ương Quốc dân đảng và các chức vụ quan trọng khác. Họ đã cố công chắp lông cánh cho Đảng, chiếm đa số trong Đảng bộ tỉnh, có thời người ta đã nói: “Đảng họ Trần, Dân họ Tưởng”. Đại tướng của phái CC có Trương Đạo Phiên, Cốc Chính Cương, Cốc Chính Đỉnh, Dư Tỉnh Đường, Hồng Lan Hữu, Phương Trị, Phan Công Triển, Từ Ân Bằng, Diệp Tú Phong, Quý Nguyên Bạc, Tiêu Tranh, Thiệu Hoa... Phái CC thao túng Cục Thống kê Điều tra Đảng bộ Trung ương (Trung thống). Tổ chức đặc vụ này nắm cơ quan kiểm tra bưu điện các cấp và lợi dụng thế lực đảng bộ các tỉnh, bao biện công việc tuyển cử “Đại biểu Quốc hội”, “Ủy viên Lập pháp” và “Ủy viên Giám sát”. Do đó, họ tương đối có thực lực trong “Quốc hội”. Ngoài ra, Trần Lập Phu còn đảm nhiệm chức Giám đốc Kim khố Hợp tác Trung ương, Chánh Văn phòng Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc, Chánh Văn phòng Công ty Bảo hiểm Nông nghiệp Trung Quốc, Chủ nhiệm Ủy ban Tài vụ Trung ương trở thành một trong số ít người có thế lực kinh tế trong Quốc dân đảng.
Phái CC là phái theo Tưởng cho đến chết, nhưng có thời vì khuếch trương thanh thế hơi quá đà, khiến cho Tưởng Giới Thạch ghét. Sau thời kỳ chiến tranh chống Nhật, vì phái CC quá thối tha trước mắt nhân dân toàn quốc, Tưởng Giới Thạch bắt Trần Quả Phu nhường chức Trưởng ban tổ chức Trung ương cho Chu Gia Hoa. Chu được Đới Quý Đào nâng đỡ, thường xuyên đào khoét chân tường của phái CC. Để giành lại tổ chức, cuối năm 1944 phái CC tổ chức “Câu lạc bộ Đổi mới” tập trung hỏa lực công kích Chu Gia Hoa và Khổng Tường Hi, cuối cùng ép Chu Gia Hoa trao trả quyền lực, Khổng Tường Hi phải ra nước ngoài. Trần Quả Phu lại nắm chức Trưởng Ban tổ chức Trung ương. Năm 1945, phái CC tổ chức các cuộc tọa đàm, thành viên của phái này khẳng khái trình bày quan điểm, vạch ra những thủ đoạn chính trị xấu xa, thậm chí chỉ trích Tưởng Giới Thạch không dân chủ. Tháng 5, Quốc dân đảng triệu tập Đại hội VI. Phái CC lấy bộ mặt đổi mới, chế giễu phê bình chính cuộc ngay trên hội nghị và nhân đó chiếm gần nửa số ghế Ủy viên Trung ương. Những điều này khiến cho Tưởng
Giới Thạch cảm thấy cần phải hạn chế phái CC.
Tiêu điểm mâu thuẫn giữa phái CC và Tưởng Giới Thạch ở chỗ Tưởng muốn từng bước đưa Tưởng Kinh Quốc tiếp quản hệ thống công tác Đảng, trong khi phái CC quyết không chịu nhường trận địa đã giành được. Tháng 3 năm 1946, Tưởng Giới Thạch định đưa Trần Quả Phu ra làm Tỉnh trưởng Chiết Giang và nói thẳng với Trần: “Ông làm việc tốt đấy, nhưng ở Trung ương không tốt.” Trần đáp lại: “Hiện nay ở Trung ương, ai làm tốt” và từ chối đề nghị của Tưởng, nắm chặt quyền tổ chức không chịu dời.
Tháng 5 năm 1946, phái CC đề nghị hợp nhất Trường Cán bộ Trung ương Đoàn Tam Thanh do Tưởng Kinh Quốc làm Giảng viên chính với Trường Đảng Trung ương do phái CC nắm, thành Đại học Chính trị Quốc lập ý đồ muốn nuốt trường Đoàn của Tưởng Kinh Quốc. Cha con Tưởng tương kế tựu kế đồng ý hợp nhất và đề xuất để Tưởng Giới Thạch kiêm luôn chức Hiệu trưởng Đại học chính trị Quốc lập và Tưởng Kinh Quốc làm Giảng viên chính. Hóa ra là Tưởng Kinh Quốc “xơi phái CC”. Phái CC nghe tin làm ầm lên, ngầm sai học sinh trường Đại học Chính trị sinh sự, hô khẩu hiệu “không làm học sinh con cháu”, chống lại Tưởng Kinh Quốc. Tưởng Giới Thạch gọi Trần Lập Phu đến mắng chửi mới dẹp yên được sóng gió. Nhưng Tưởng Kinh Quốc cũng mất mặt, phải thôi chức Giảng viên chính.
Tháng 7 năm 1947, cha con Tưởng lại phản kích triệu tập Hội nghị Liên tịch toàn Trung ương Đảng và Đoàn lần thứ VI, xúc tiến hợp nhất giữa Quốc dân đảng và Đoàn Tam Thanh. Sau khi hợp nhất, cán sự Trung ương Quốc dân đảng. Giám sự Trung ương Đoàn Tam Thanh nghiễm nhiên thành “Ủy viên Giám sát” Trung ương Quốc dân đảng. Do đó, Tưởng Kinh Quốc mới được kết nạp Đảng năm 1940 dẫn hàng loạt thân tín của mình trong mạng lưới Đoàn Tam Thanh, đường hoàng tiến vào Trung ương Quốc dân đảng. Rõ ràng đây là bước đánh mạnh vào phạm vi thế lực của CC.
Nhưng hai anh em họ Trần đấu tranh bè phái trong Đảng đã lâu, nhiều kinh nghiệm. Ngoài mặt họ thuận theo Tưởng Giới Thạch, bên trong họ gây muôn vàn khó khăn cho Tưởng con, khiến cho người của Tưởng con không có cách gì cắm chân vào các Đảng bộ tỉnh, thành phố. Cuối cùng đúng như Tưởng Giới Thạch nói “tổ chức thống nhất Đảng và Đoàn lần này, cố gắng để cải tạo Đảng ta một cách triệt để có thể nói không một chút thành công.”
Từ tháng 8 đến tháng 10, Tưởng Kinh Quốc “bắt cọp” ở Thượng Hải, phái CC ngầm gây rối khiến cho mẫu thuẫn giữa hai bên càng sâu sắc thêm.
Tháng 1 năm 1949, trước khi Tưởng Giới Thạch về vườn, triệu tập thân tín tức giận nói: “Đảng cộng sản không đánh bại tôi, đánh bại tôi chính là Quốc dân đảng nhà mình”. Sau đó chỉ mặt Trần Lập Phu nói: “Chính là bọn các anh”. Khi đó Tưởng cáu giận đến nỗi thề rằng từ nay về sau vĩnh viễn không thèm vào cửa Đảng bộ Trung ương. Có thể thấy là ông ta oán giận phái CC đến thế nào.
Sau khi đến Đài Loan, có ba nhân tố khiến Tưởng Giới Thạch hạ quyết tâm thanh toán phái CC.
Thứ nhất là phe Lưỡng Quảng mà Tưởng coi là cái họa tâm phúc đã giải thể, các phe khác hoặc có tướng không có quân, hoặc có quân không có tướng, đều không có thực lực tranh quyền đoạt lợi với Tưởng. Do đó, phái CC vốn được Tưởng lợi dụng trở nên mất giá, không những thế lại là trở ngại cho việc Tưởng Kinh Quốc mở rộng thanh thế, nhất là ở Đài Loan đột nhiên các bộ ở Trung ương, các ban ở tỉnh rầm rộ mọc lên, mật ít ruồi nhiều, vội vàng phân phối lại quyền lực. Để đảm bảo Tưởng con thu
được nhiều quyền lực trong cuộc này tất phải loại bỏ đối thủ già dặn có thực lực và đang muốn tranh quyền là phái CC.
Nhân tố thứ hai: Khi đó mấu chốt mất còn của chính quyền Tưởng là lôi kéo Mỹ. Nhưng Mỹ vốn ghét phái CC. Một trong những nội dung quan trọng mà Mỹ phê bình Tưởng Giới Thạch chính là trọng dụng phái CC. Mùa đông năm 1948, trong cuộc tranh cử Tổng thống ở Mỹ, Trần Lập Phu đã mang một khoản tiền lớn tuyên tuyền cho Thomas Dewey. Ai ngờ đối thủ của Dewey là Truman lại trúng cử, khiến cho Truman rất giận Tưởng Giới Thạch. Tưởng muốn quăng Trần Lập Phu ra làm vật hy sinh, hòng mong Truman nguôi giận, cải thiện quan hệ với Mỹ.
Nhân tố thứ ba là: Khi đó một thực lực khác ở Đài Loan là Trần Thành có quan hệ rất căng thẳng với phái CC. Khi còn ở Đại Lục, Trần Thành thường bị phái CC chỉ trích. Đài Loan muốn áp dụng một số biện pháp thường bị “Viện Lập pháp” do phái CC thao túng gây khó khăn. Trong điều chỉnh quyền lực sau khi ra Đài Loan, phe Trần Thành và phái CC đều muốn mở rộng quyền thế, mâu thuẫn giữa hai bên ngày càng gay gắt. Để đảm bảo đoàn kết nội bộ, Tưởng Giới Thạch cũng muốn chế ngự phái CC.
Do đó, Tưởng Giới Thạch đến đâu cũng nói tính quan trọng và bức thiết của “cải tạo”; định mượn “cải tạo” đẩy phái CC ra khỏi hệ thống công tác Đảng. Mặt khác, không ngừng gây sức ép với Trung ương đang do phái CC nắm.
Từ tháng 6 năm 1950, văn kiện Đảng bộ Trung ương đưa trình Tưởng Giới Thạch, Tưởng đều trả lại không duyệt. Thường vụ Trung ương mấy lần họp, Tưởng cũng từ chối không tham gia. Đến ngày 22 tháng 6, Đại tướng phái CC, Ủy viên chấp hành Trung ương, toàn thể Ban Thường vụ sẽ tự giác từ chức, để mặc “Tổng tài” tự ý thực hiện “cải tạo”. Hôm đó Thường vụ đồng ý kiến nghị của Tiêu Tranh, toàn thể Ban Thường vụ tổ chức và cử Tả Nhiêm, Cư Chính, Châu Lỗ ba vị nguyên lão đến gặp Tưởng mời Tưởng dự họp và chỉ thị phương châm “cải tạo”. Tiếp theo, Tưởng Giới Thạch triệu Trần Lập Phu đến hỏi ông suy nghĩ gì về “cải tạo”. Trần Lập Phu sau khi xem ý tứ xong chủ động đề xuất. Thất bại về ba mặt Đảng, Chính, Quân ở Đại Lục cần có người đứng ra chịu trách nhiệm. Về Đảng do ông và Trần Quả Phu chịu. Vì thế, hai anh em ông không nên tham gia “cải tạo”. Cách nói đó vốn là lui để tiến, ném đá dò đường. Nhưng Tưởng nghe xong lặng im không nói. Do đó Trần Lập Phu biết là thế đứng đã mất, không còn gì để nói nữa.
Cũng thời gian đó, vấn đề giành quyền ở “Viện Hành chính” giữa Trần Thành và phái CC cũng xảy ra ác liệt. Theo “Hiến pháp” quy định, “Viện Hành chính” chịu trách nhiệm trước “Viện Lập pháp”. Các mệnh lệnh hành chính phải được “Viện Lập pháp” phê chuẩn mới có giá trị pháp luật. Nhưng khi Lý Tôn Nhân làm “Quyền Tổng thống”, muốn cho Hà Ứng Khâm thân Tưởng đang làm “Viện trưởng Viện Hành chính” có thể chống lại Lý Tôn Nhân, Tưởng đã bảo “Viện Lập pháp” do phái CC nắm, trao đặc quyền cho “Viện Hành chính”, lấy mệnh lệnh hành chính thay cho pháp luật. Đặc quyền đó sau khi Lý Tôn Nhân đi Mỹ, “Viện Lập pháp” thu hồi lại. Tháng 3 năm 1950, Trần Thành từ Chủ tịch tỉnh Đài Loan lên làm “Viện trưởng Hành chính”, sau khi lập nội các không bao lâu đã muốn “Viện Lập pháp” lại trao đặc quyền cho “Viện Hành chính” để mệnh lệnh hành chính có giá trị pháp luật. Khi đó, Viện trưởng Lập pháp là Tôn Khoa không chịu ra Đài Loan, công tác của “Viện Lập pháp” do Phó Viện trưởng Trần Lập Phu nắm. Có hôm, Trần Thành trước mặt Tưởng Giới Thạch đã đề cập đến chuyện đó bị Trần Lập Phu phản đối. Trần Thành không chịu để yên, lấy danh nghĩa “Viện Hành chính” gửi công văn đến “Viện Lập pháp”, yêu cầu làm thay một số việc thuộc quyền “Viện Lập pháp”. Sau khi nhận được công văn, “Viện Lập pháp” đưa ra cho các “Ủy viên Lập pháp” thảo luận, mọi người nhao nhao