🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cuộc Kháng Chiến Chống Xâm Lược Mông Nguyên Thế Kỷ XIII - Hà Văn Tấn & Phạm Thị Tâm full mobi pdf epub azw3 [Lịch Sử]
Ebooks
Nhóm Zalo
“ĐCHƯƠNG MỞ ĐẦU: VỀ CÁC NGUỒN SỬ LIỆU
ến nay dân bốn biển
Nhớ mãi năm bắt thù” ( )
Phạm Sư Mạnh
Trong những bản thảo bộ Jami al - Tawàrìkh (Tập sử biên niên) viết bằng chữ Ba Tư của nhà sử học nổi tiếng thế kỷ XIII Ra Sit Ut - Đin (Fazl Alah Radsidud Din, 1247-1318), người ta đọc được những dòng sau đây về một nước Kiafca xa xôi:
“Nước đó có những vùng khó đi lại và nhiều rừng cây, giáp với Karajan ( ), một phần giáp Hindostan và biển.Ở đó có hai thành thị là Lujek(?) và jesam(?). Nước đó có quốc vương riêng, không thần phục hãn (vua Mông Cổ - T.G.) Tugan ( ) con trai của hãn, chỉ huy đội quân của Lukin Fu ( ) để bảo vệ miền Manzi cũng như để ngăn ngừa và chống lại những ai không khuất phục. Một lần, Tugan đem quân vào nước đó, chiếm lấy các thành thị ven biển và thống trị ỏ đấy trong một tuần lễ. Nhưng bỗng nhiên từ biển, từ rừng, từ núi, xuất hiện những đội quân nước đó đánh tan đạo quân của Tugan đang lo cướp bóc. Tugan trốn thoát và lại trở về đóng ở Lukin-fu”
Kifaca, có bản chép là Kiefce - Kue, chính là phiên âm tên Giao Chỉ hay Giao Chỉ quốc. Mặc dầu quá đơn giản và có chỗ sai lầm, nhà sử học Ba Tư đã nói đến cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống quân Nguyên vào thế kỷ XIII. Cuộc chiến đấu anh dũng và thần kỳ diễn ra khắp đất nước, “từ biển, từ rừng, từ núi”, đã đánh tan bọn xâm lược Thoát
Hoan (Tô-gan) hung hãn. Hẳn chiến thắng oanh tiệt của Đại Việt (quốc hiệu Việt Nam bấy giờ) đã có tiếng vang lớn nên Ra Sít Ut - Đin, nhà sử học Thành Ha Ma Đan (Hamadhan) ở tận phía tây của châu Á mới chép vào bộ sử của mình những dòng trên.
Điều đáng tiếc là những dòng như vậy thật quá ít trong các sử liệu thế kỷ XIII của đế quốc Mông Cổ. Muốn nghiên cứu cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của nhân dân Việt Nam thế kỷ XIII, phải dựa vào hai nguồn sử liệu chủ yếu: sử liệu Việt Nam và sử liệu Trung Quốc. Nhưng cả hai nguồn sử liệu này đều kém phong phú.
Bộ Trung hưng thực lục đời Trần chép các chiến công chống Nguyên nay không còn nữa ( ). Các sách binh pháp của nhà quân sự thiên tài Trần Quốc Tuấn như Binh thư yếu lược ( ), Vạn Kiếp tông bí truyền thư đã mất. Quyển Binh thư yếu lược hiện có chỉ là một quyển sách giả do người đời sau soạn. Ngay bộ Đại Việt sử ký tục biên do nhà sử học Phan Phu Tiên soạn năm 1445 chép tiếp Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu giai đoạn đầu từ đầu Trần đến Lê Lợi khởi nghĩa cũng không tìm thấy. Hiện nay, chúng ta chỉ còn đọc được những sử liệu về cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thế kỷ XIII trong bộ Đại Việt sử ký toàn thư của nhà sử học Ngô Sĩ Liên soạn năm 1479. Chúng ta có thể tin chắc là khi chép về giai đoạn lịch sử này Ngô Sĩ Liên còn có trong tay những sử liệu đời Trần và bộ sử của Phan Phu Tiên. Vì thế, những điều ghi chép trong Đại Việt sử ký toàn thư thật đáng quý. Tuy nhiên những tài liệu về cuộc kháng chiến chống Nguyên trong Toàn thư quá sơ sài ít ỏi, nếu chỉ dựa vào đấy thì thật là khó khăn trong việc khôi phục những trang sử vẻ vang của dân tộc thế kỷ XIII. Đấy là chưa kể ở nhiều chỗ Ngô Sĩ
Liên đã lầm lẫn như chép rằng thuyền lương của Trương Văn Hổ bị đắm trong trận Bạch Đằng, Nguyễn Khoái bắt được Áo Lỗ Xích (Ayuruyci) hay Thoát Hoan (Toyan) cũng bị ta bắt ( )... Khâm định Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán đời Nguyễn (hoàn thành năm 1859, hiệu đính năm 1871 - 1878, in năm 1884) đã tham khảo các tài liệu Trung Quốc như Nguyên sử, Nguyên sử loại biên, Thông giám tập lãm để đính chính những sai lầm trên của Toàn thư. Nhưng do thiếu thận trọng trong khi tham khảo tài liệu Trung Quốc, Khâm định Việt sử thông giám cương mục lại mắc những sai lầm khác. Chẳng hạn Cương mục đã chép trận Vân Đồn xảy ra vào tháng giêng, năm Trùng Hưng thứ 4 (3 tháng 2 - 3 tháng 3 năm 1288) lúc Ô Mã Nhi (Omar) đem thuyển đi đón Trương Văn Hổ, kỳ thực thì trận Vân Đồn xảy ra vào tháng 12 năm Trùng Hưng thứ 3 (5 tháng 1 - 2 tháng 2 năm 1288), lúc thủy quân Nguyên tiến vào đất nước chúng ta ( ). Sai lầm đó của Cương mục dẫn tới sai lầm của nhiều tác phẩm hiện nay viết về vấn đề này. Những sử liệu mới rút ra từ sách Trung Quốc do Cương mục bổ sung cũng không được bao nhiêu. Nếu chúng ta có trong tay các thư tịch Trung Quốc và Đại Việt sử ký toàn thư thì có thể không cần dùng đến Cương mục, một bộ sử xuất hiện muộn, để nghiên cứu cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thế kỷ XIII. Trong khi viết quyển sách này, chúng tôi lấy tài liệu ở Toàn thư mà không dựa vào Cương mục, trừ những chỗ cần so sánh.
Hiện nay ở Thư viện Khoa học Trung ương còn có một số sách chép tay bằng chữ Hán có liên quan đến cuộc kháng chiến chống Nguyên như Trần Đại vương bình Nguyên thực lục, Vạn yên thực lục, Trần triều thế phả hành trạng, Trần
gia điển tích thống biên,... Những sách này đểu là được biên soạn về sau, phần lớn là đời Nguyễn, không có giá trị gì mấy, thường là chép lại các tài liệu ở chính sử, hoặc thêm thắt bằng truyền thuyết. Do đó chúng tôi rất ít dùng loại tài liệu này.
Hiện nay chúng tôi cố tìm các bi ký thời Trần để bổ sung cho nguồn sử liệu Việt Nam nghèo nàn về cuộc kháng chiến oanh liệt này. Nhưng việc tìm kiếm đó chưa có kết quả mấy. Bia công chúa Phụng Dương (vợ Trần Quang Khải) do Lê Củng Viên soạn năm 1293 có những chi tiết liên quan đến việc rút lui của vương triều Trần khỏi Thăng Long năm 1285 ( ). Chúng tôi cũng đọc được ở bài minh khắc trên quả chuông Thông Thánh quán Bạch Hạc năm 1321 những sử liệu về cuộc chiến đấu của Trần Nhật Duật ở Tuyên Quang trong cuộc kháng chiến lần thứ hai (quả chuông này do chính Trần Nhật Duật coi việc đúc). ( )
Một tác phẩm quan trọng mà chúng tôi đã sử dụng là An Nam chí lược của Lê Trắc. Lê Trắc là môn khách của Chương Hiến hầu Trần Kiện, đã cùng chủ đầu hàng quân Nguyên năm 1285. Y soạn bộ sách này ở Trung Quốc vào những năm đầu thế kỷ XIV( ). Với một lập trường rất phản động, Lê Trắc đã để cao kẻ thù, bôi nhọ những trang sử vẻ vang của dân tộc. Về cuộc kháng chiến chống quân Nguyên, Lê Trắc luôn luôn chép kẻ địch thắng, nhưng mặc dầu vậy, y vẫn không che giấu nổi những thất bại nhục nhã của bọn cướp nước và bán nước. Vì đây là tài liệu của một kẻ hàng giặc nên phải vô cùng thận trọng khi sử dụng. Tuy vậy, An Nam chí lược vẫn là một tài liệu rất cần thiết đối với việc nghiên cứu cuộc kháng chiến chống Nguyên. Trong sách này, Lê Trắc đã chép được những thư từ qua lại giữa vua
Trần và vua Nguyên cũng như thư của các sứ thần, quan lại (q.2 Đại Nguyên chiếu chế, q.5, Đại Nguyên chư thần vãng phục thư vấn, q.6 Biểu chương). Đấy là những tài liệu quan trọng để nghiên cứu quan hệ ngoại giao Việt - Nguyên trong giai đoạn đó. Những sứ bộ ngoại giao được chép trong quyển 3 Đại Nguyên phụng sứ và quyển 14 Trần Thị khiển sứ. Chúng ta còn có thể khai thác tài liệu về diễn biến các trận trong quyển 4 Chinh thảo vận hướng. Lê Trắc đã chép các sự kiện với ngày tháng rõ ràng, điều đó giúp chúng ta có thể đối chiếu với các tài liệu khác mà khôi phục được quá trình diễn biến các sự kiện theo trình tự thời gian. Những tiểu truyện, thơ văn của bọn hàng giặc và ngay cả bài Tự sự của Lê Trắc cũng cho chúng ta thấy được tinh thần khiếp nhược, tâm trạng hoang mang của những tên bán nước và sức chiến đấu mãnh liệt của quân dân ta. Chính vì thế, chứng tôi đã sử dụng An Nam chí lược, coi nó là một tài liệu cần thiết trong việc nghiên cứu cuộc kháng chiến chống Nguyên. Tất nhiên chúng tôi không tìm ở đây những trang tràn đầy tinh thần dân tộc như dưới ngòi bút của Ngô Sĩ Liên mà phải tìm lại hình ảnh cuộc chiến đấu của dân tộc qua bức màn đen của Lê Trắc. Những hình ảnh đó có chỗ vẫn hiện lên rõ nét và sinh động. Đó là điều Lê Trắc không muốn và không ngờ tới.
Nếu việc sử dụng An Nam chí lược gặp khó khăn do sự xuyên tạc của Lê Trắc thì việc sử dụng các thư tịch cũ của Trung Quốc có liên quan đến vấn đề này cũng như vậy.
Chính sử Trung Quốc xưa nhất có chép đến vấn đề này là Nguyên sử ( ). Nguyên sử được biên soạn đầu đời Minh, do Tống Liêm, Vương Vĩ và một số người khác (bài biểu dâng Nguyên sử của Lý Thiện Trường đề năm 1369). Các tác giả
đã dựa vào các sử liệu thư tịch đời Nguyên còn lại ở Bắc Kinh để viết bộ sử này. Chúng ta có thể tìm thấy những sử liệu quan trọng liên quan đến cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông rải rác trong phần Bản kỷ Hiến Tông và Thế Tổ, trong một số truyện những viên tướng hay sứ giả ở phần Liệt truyện và tập trung ở An Nam truyện (q.209) và Chiêm Thành truyện (q.210) ( ). Điều đáng chú ý là các tác giả tuy là sử gia đời Minh nhưng khi viết Nguyên sử họ vẫn đứng trên lập trường phong kiến nhà Nguyên. Đứng về mặt phương pháp biên soạn mà nói, Nguyên sử là bộ sử kém nhất, chứa đựng nhiều điều sai lầm và hỗn loạn nhất trong 24 bộ sử Trung Quốc. Một số người nghiên cứu lịch sử sử học Trung Quốc đã cho rằng sở dĩ như vậy là tuy các tác giả có sử dụng các tài liệu đời Nguyên nhưng họ đều không hiểu tiếng Mông Cổ và phải soạn gấp trong một thời gian quá ngắn chưa đầy một năm theo lệnh Minh Thái Tổ. ( )
Chính vì thế mà nhiều sử gia về sau đã cố gắng bổ sung Nguyên sử. Đời Minh đã xuất hiện Nguyên sử tục biên của Hồ Tuý Trung, Nguyên sử bị vong lục của Vương Quang Lỗ, Nguyên sử kỷ sự bản mạt của Trần Bang Chiêm. Đến đời Thanh càng nhiều sử gia viết lại sử Nguyên như Thiệu Viễn Bình viết Nguyên sử loại biên (còn gọi là Tục Hoằng giản lục), Tiên Đại Hân viết Bổ Nguyên sử thị tộc biểu, Bổ Nguyên sử nghệ văn chí, Nguyên sử thập di... Uông Huy Tổ viết Nguyên sử bản chứng, Nguỵ Nguyên viết Nguyên sử tân biên, Hồng Quân viết Nguyên sử dịch văn chứng bổ, Đồ Kỳ viết Mông Ngột Nhi sử, Kha Thiệu Mân viết Tân Nguyên sử... Các sử gia trên đã tìm tòi thêm nhiều tài liệu Trung Quốc và nước ngoài để bổ sung cho lịch sử triều Nguyên ở Trung Quốc hoặc lịch sử đế quốc Mông Cổ nói chung. Nhưng
đối với phần có liên quan đến Việt Nam thế kỷ XIII thì họ tìm được rất ít tài liệu mới, phần lớn là chép lại Nguyên sử. Vì thế đối với loại tài liệu này chúng tôi ít dẫn dụng, trừ những điều không chép trong Nguyên sử. Ngay đối với nhũng điều đó, chúng tôi cũng chỉ dùng sau khi đã phân tích hay đối chiếu với các tài liệu khác vì lý do là các quyển sử trên được biên soạn muộn về sau ( ).
Trong khi đó, chúng tôi chú trọng hơn đến các tài liệu khác tuy không phải là chính sử nhưng được biên soạn vào đời Nguyên. Một tác phẩm quan trọng là Hoàng triều kinh thế đại điển do Triệu Thế Diên và Ngu Tập soạn năm 1330-1331 dưới sự giám sát của viên quan Mông Cổ, Đác Khan Khác Kha Xun (Darqan Qarqasun). Đáng tiếc là bộ sách đã mất, nay chỉ còn lại vài phần trong bộ Vĩnh Lạc đại điển. Những sử liệu liên quan đến Việt Nam ở đây chỉ còn có đôi điều. May mắn là bài tựa, hay nói đúng hơn là đề cương chi tiết của bộ sách đó, với cái tên Kinh thế đại điển tự lục đã được một tác gia đời Nguyên là Tô Thiên Tước (1294-1352) chép lại trong bộ văn tuyển Quốc triều văn loại (còn gọi là Nguyên văn loại) của ông. Trong mục Chinh phạt của Kinh thế đại điển tự lục có các đoạn An Nam và Chiêm Thành. Đoạn An Nam tuy sơ lược nhưng bổ sung thêm một số tài liệu về cuộc kháng chiến chống Nguyên của nhân dân Việt không có trong Nguyên sử. Đoạn Chiêm Thành có nhiều tài liệu tốt, đặc biệt là chép rõ ngày tháng quá trình diễn biến cuộc kháng chiến của nhân dân Chàm, bổ sung được nhiều điểm cho Nguyên sử Chiêm Thành truyện.
Các sách do sứ Nguyên đã đến Việt Nam soạn là những tài liệu tốt để nghiên cứu tình hình Việt Nam và quan hệ ngoại giao lúc bấy giờ. Trong số các tác phẩm đó, chứng ta phải
kể đến Thiên Nam hành ký (hay An Nam hành ký) của Từ Minh Thiện( ). Từ Minh Thiện đến Thăng Long năm 1289. Trong Thiên Nam hành ký, Từ Minh Thiện đã chép được một số thư từ trao đổi giữa vua Việt và vua Nguyên mà An Nam chí lược chép không đầy đủ hay không chép. Một tài liệu quý nữa là Trần Cương - trung thi tập của Trần Phu. Trần Phu đi sứ năm 1291, đến Việt Nam năm 1292( ). Tất cả những bài thơ viết về Việt Nam đều được chép trong Giao châu cảo tức tập 2 của Trần Cương -Trung thi ( ). Trong tập thơ đó có những bài có chú thích cẩn thận (như bài An Nam tức sự) là những tài liệu hiếm dùng để nghiên cứu kinh tế xã hội Việt Nam thế kỷ XIII, một số bài khác nói lên sự hoảng sợ lo lắng của bọn sứ Nguyên ở Việt Nam (như bài Giao châu sứ hoàn cảm sự), một số bài có thể dùng làm tài liệu để xét một số địa danh hay ngày tháng (như bài Tư Minh cháu nguyên nhật, bài Ngày mồng 3 tháng 2 trú ở trạm Khâu Ôn thấy trăng mới giữa trời...). Cuối Trần Cương Trung thi tập còn có một phần phụ lục Nguyên phụng sứ dữ An Nam quốc vãng phục thư chép lại 8 bức thư trao đổi giữa Lương Tằng, Trần Phu và vua Trần Nhân Tông.
Ngoài những thư tịch trên, chúng tôi đặc biệt chú ý đến các bi ký soạn đòi Nguyên có liên quan đến vấn đề đang nghiên cứu. Một số bi ký đà được các tác giả đưa vào trong các tập văn thơ của mình. Trước hết chúng tôi muốn nói đến Mục Am tập của Diêu Toại (1238-1314). Chúng ta có thể đọc. trong đó những bi ký do ông soạn về những nhân vật có liên quan đến cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam như mộ chí Trương Đình Trân, tên sứ giả đến Việt Nam năm 1269, miếu bi Lý Hằng, tên tướng đánh Việt Nam năm 1285, bia A Lý Hải Nha (Ariq - Qaya), tên tướng chỉ huy đội quân xâm
lược Việt Nam năm 1285... Một số bi ký khác như Dĩnh châu vạn hộ Đê công thần đạo bi (Diêu Toại soạn năm 1304) cũng có những sử liệu về việc quân Nguyên chuẩn bị xâm lược Chiêm Thành và Việt Nam( ).
Tô Thiên Tước (1294 - 1352) khi soạn quyển Nguyên triều danh thần sự lược cũng đã dựa vào nhiều bi ký của các tác giả đương thời. Trong Nguyên triều danh thần sự lược, ngoài những tài liệu liên quan đến vấn đề đang nghiên cứu, chúng ta còn có thể đọc được một số bi ký khác như bài miếu bi A Truật (Aju), viên tướng đã đánh vào Việt Nam năm 1258, do Vương Vận (chết năm 1304) tác giả Thu giản văn tập soạn, và bài bia nói về viên quan Mông Cổ là Khác Kha Xun (Qarqasun) do Lưu Mẫn Trung (1242 - 1318) soạn. Trong bài bia Khác Kha Xun có những sử liệu liên quan đến âm mưu xâm lược Việt Nam của bọn phong kiến Nguyên sau năm 1288.
Trong Từ Khê văn cảo của Tô Thiên Tước có bài bia Cô thừa sự lang Tương Sơn huyện doãn Lý hầu mộ bi do chính Tô Thiên Tước soạn, chép về Lý Thiên Hựu, viên quan đi theo thuỷ quân Nguyên vào Việt Nam năm 1288, bị ta bắt ở trận Bạch Đằng nhưng sau đó trốn thoát được. Trong bài bia đó có những sử liệu liên quan đến các trận Tháp Sơn (Đồ Sơn), Bạch Đằng.
Tài liệu tìm được trong các bi ký đời Nguyên tuy không phải là phong phú lắm nhưng chúng tôi cố gắng khai thác vì chúng được chép vào thời gian gần cuộc kháng chiến chống Nguyên hơn là Nguyên sử. Có những bi ký tuy không thêm
được điều gì mới nhưng có thể dùng nó để xác minh những điểu chép trong các sách khác. Ví dụ theo Nguyên sử Tín
Thư Nhật truyện thì tên vua nước Đại Lý (Vân Nam) Đoàn Hưng Trí sau khi đầu hàng quân Mông Cổ đã đem hai vạn quân người Thoán Bặc Vân Nam đưa quân Mông Cổ tiến vào Việt Nam năm 1258. Điều này được chứng thực trong bài bia chùa Đại Sùng Thánh ỏ Vân Nam do Lý Nguyên Đạo soạn năm 1325, bia này do viên tổng quản Vân Nam là Đoàn Long (thay Tín Thư Long), cháu Đoàn Hưng Trí dựng ( ).
Trên đây là những nguồn sử liệu chủ yếu mà chúng tôi dựa vào để nghiên cứu cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của nhân dân Việt Nam thế kỷ XIII. Việc sử dụng các tài liệu đó không phải là dễ dàng vì nhiều chỗ mâu thuẫn với nhau và có những sai lầm cần phân tích phê phán. Điều khó khăn lớn là nguồn tài liệu Việt Nam quá ít, vì thế chúng tôi khó mà trình bày các cuộc hành quân, các trận đánh... của quân dân ta một cách cụ thể. Dầu hết sức cố gắng, chúng tôi biết rằng tập sách này vẫn còn nhiều thiếu sót vì trình độ của các tác giả và vì tài liệu chưa thu thập được đầy đủ.
****
Khi sử dụng các nguồn tài liệu Việt Nam và Trung Quốc nói trên, chúng tôi gặp rất nhiều tên nhân vật Mông Cổ và các dân tộc khác như người A-rập, người Ui-gua (Uigur), người Khíp Trắc (Qỹbcak), người Khang Lư (Qangli)... cũng như tên người Hồi giáo, Cơ Đốc giáo... Những người này có liên quan đến cuộc chiến tranh (hay ngoại giao) ỏ Việt Nam thế kỷ XIII. Các tác phẩm nghiên cứu về cuộc kháng chiến này trước đây thường chép tên người theo cách phiên âm Trung Quốc (đọc bằng âm Hán Việt) như Ngột Lương Hợp Thai, A Lý Hải Nha, Bột La Hợp Đáp Nhi,... Chúng tôi cho rằng cách
phiên âm đó dễ gây lầm lần vì trong thư tịch cũ của Trung Quốc, một nhân vật Mông Cổ hay tộc khác được phiên âm bằng nhiều tên khác nhau. Chẳng hạn như Nguyên sử chép là Ngột Lương Hợp Thai, Ngột Lương Cáp Thai, Toàn thư chép là Ngột Lương Hợp Đải, An Nam chí lược chép là Ngột Lương Cáp Đải, Thông giám tập lãm chép là Ô Đặc Lý Cáp Đạt, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn lại chép là Cốt Đải Ngột Lang... Ngay trong Nguyên sử, A Lý Hải Nha còn được chép là A Lạt Hải Nha, A Lỗ Hải Nha, A Lễ Hải Nha..., còn bi ký của Diêu Toại chép là A Lực Hải Nha. Nguyên sử cũng chép Bột La Hợp Đáp Nhi là Bột Lỗ Hợp Đáp Nhi, trong khi An Nam chí lược lại chép nhầm thành Lý La Hợp Đáp Nhi, Sách La Cáp Đáp Nhi,... Cách phiên âm đời Nguyên, Minh đã hỗn loạn, đến đời Thanh lại càng hỗn loạn hơn. Theo lệnh của Càn Long, năm 1781, một ủy ban được thành lập để soạn quyển Liêu Kim Nguyên tam sử ngữ giải, đem đổi tất cả những tên phiên âm vốn có trong Liêu sử, Kim sử và Nguyên sử thành những tên phiên âm mới.. Vì không hiểu quy luật phiên âm đời Nguyên Minh, các tác giả quyển sách đó đã thay đổi một cách tùy tiện và sai lầm. Ngột Lương Hợp Thai lại được đổi thành Ô Lan Cáp Đạt, A Lý Hải Nha đổi thành A Nhĩ Cáp Nhã,... Các bản in Nguyên sử hay các thư tịch khác nói trên vào sau đòi Càn Long thường bị sửa lại theo cách phiên âm mới (bộ Nguyên sử mà Khâm định Việt sử thông giám cương mục tham khảo cũng là bộ sách đã bị chữa theo cách phiên âm đời Thanh). Một số bộ sử soạn đồi Thanh như Tục tư trị thông giám của Tất Nguyên cũng theo cách phiên âm này. Do đó, việc phiên âm ngày càng gây ra nhiều lầm lẫn. Khi đọc những tài liệu trên, chúng ta có thể lầm một người thành hai hoặc nhiều người
khác nhau. Chẳng hạn ông Hoàng Thúc Trâm trong Trần Hưng Đạo (Sài Gòn, 1950) ở trang 67, đã nói về A Truật, lại nói về một người khác là A Châu, kỳ thực A Châu chỉ là tên phiên âm đời Càn Long của A Truật (Aju).
Chúng tôi thấy rằng nếu theo cách phiên âm Trung Quốc tất phải chọn lấy một tên trong nhiều tên khác nhau, nhưng như vậy sẽ gây khó khăn cho người muốn tìm hiểu các sử liệu khác nhau. Vì các lý do trên, trong quyển sách này, chúng tôi quyết định không theo bất kỳ cách phiên âm Trung Quốc nào mà phiên âm theo đúng tiếng Mông Cổ trung đại (hoặc tiếng các dân tộc khác) ví dụ A Lý Hải Nha sẽ phiên âm là A Ríc Kha Y A (Ariq - Qaya), Ngột Lương Hợp Thai là Ư Ri Ang Kha Đai (Uriyangqadai), Bột La Hợp Đáp Nhi và Bôn Kha Đa (Bol-qadar),... Việc khôi phục lại tên người Mông Cổ và các tộc khác còn giúp chúng ta tránh được các sai lầm tách tên một ngưòi thành hai người hoặc nhập hai tên lại làm một. Chẳng hạn như Trần Trọng Kim tách Tích Lệ Cơ Ngọc thành Tích Lệ và Cơ Ngọc( ), nhà sử học Nhật Bản Yamamoto Tatsuro coi Hòa Lễ Hoắc Tôn là Hoà Lễ và Hoắc Tôn ( ), các dịch giả Việt sử thông giám cương mục đọc I Lặc Cát Đại thành I Lặc, Cát Đại ( ),... Thực ra Tích Lệ Cơ Ngọc trong Toàn thư là chép nhầm từ Tích Lệ Cơ Vương (theo Thiên Nam hành ký) và Tích Lệ Cơ là Sirăgi (Si-rê-ghi), Hoà Lễ Hoắc Tôn chỉ là Qorqao-sun (Khoóc-khô-xun), còn I Lặc Cát Đại là Ikiradai (I-ki-rê-đai), v.v...
Việc khôi phục lại các tên Mông Cổ và các tộc khác từ những tên phiên âm Trung Quốc không phải là dễ dàng, nhất là cho đến nay chưa ai chuyên nghiên cứu khôi phục toàn bộ những tên nhân vật có liên quan đến lịch sử Việt Nam. Tuy
vậy, dựa vào tính chất trùng tên nhiều của người Mông Cổ trong các thư tịch cũ (xem Tam sử đồng danh lạc của Uông Huy Tổ), dựa vào Hoa di dịch ngữ (1389), Nguyên sử ngữ giải (1781), cũng như dựa vào các công trình của các nhà Mông Cổ học thế giới như P.Pelliot (Pháp), P.Poucha (Tiệp), M.Lewicki (Ba Lan) ( )..., chúng tôi cố gắng khôi phục lại tên tất cả các nhân vật Mông Cổ và các tộc khác có liên quan đến cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam thế kỷ XIII đã nhắc đến trong quyển sách này. Những tên đó được khôi phục lại bằng tiếng Mông Cổ trung đại theo cách ghi âm của các nhà Mông Cổ học thế giới và sau đó phiên âm ra chữ Việt. Đối với từng tên người, chúng tôi đều chú thích rõ các cách phiên âm Trung Quốc ở dưới trang. Tuy vậy, có một số tên như Hốt Tất Liệt (Qubilai), Toa Đô (Sogãtũ),Ô Mã Nhi (`Omar), Thoát Hoan (Toyan hay Toyon), vì đã quen với chúng ta, trong sách này chúng tôi không phiên âm thành Xô-ghê-tu, Ô-ma hay Tô-gan nữa mà chỉ chú thích để người đọc nắm được tên Mông Cổ của các tên tướng đó.
Một vấn đề khác được đặt ra khi nghiên cứu hai nguồn tài liệu Việt Nam và Trung Quốc là vấn đề lịch pháp. Có tìm hiểu và đối chiếu được lịch pháp của Việt Nam và Trung Quốc thế kỷ XIII mới xác định được thời gian xảy ra các sự kiện khi so sánh hai nguồn tài liệu.
Trong Bàn châu văn tập (quyển 16) của Hồng Quát đời Tống có chép bài “Sắc thư ban lịch cho Nam Bình vương Lý Thiên Tộ (tức Lý Anh Tông 1138 - 1175)”. Nguyên sử Bản kỷ chép rằng ngày Giáp Tý tháng 7 năm Chí Nguyên 2 (9-9-1265) “chiếu ban cho Quang Bính (tức Trần Thái Tông) lịch năm Chí Nguyên thứ 3”. Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng năm Khai Thái thứ 1 (1324), “vua Nguyên sai Mã Hợp Mưu
(Mahmùd), Dương Tông Thụy sang báo việc lên ngôi và cho một quyển lịch Thụ Thì” (q.6, t.42b). Đến năm Khai Hựu thứ 11 (1339), Đặng Lộ mới xin đổi lịch Thụ Thì trước đó thành lịch Hiệp Kỷ (q.7, t.9b).
Chúng tôi cho rằng như vậy ít ra từ cuối thế kỷ XII đến nửa đầu thế kỷ XIV, Việt Nam dùng lịch Trung Quốc. Để kiểm tra điều này, chúng tôi ghi lại tất cả những ngày âm lịch có ghi can chi được chép trong Đại Việt sử ký toàn thư (thường là ngày có nhật thực, ngày xảy ra các sự kiện khác thi thường không được Toàn thư ghi rõ can chi) trong khoảng 50 năm cuối thế kỷ XIII (tức giai đoạn cần nghiên cứu( ) rồi đem so sánh với lịch Trung Quốc thì thấy hoàn toàn phù hợp ( ). Chỉ có một trường hợp duy nhất sai biệt với lịch Trung Quốc là chỗ Toàn thư (q.5, t.52b) chép tháng chạp năm Trùng Hưng 3 (Chí Nguyên 24) có ngày 30. Theo lịch Trung Quốc thì tháng này thiếu, chỉ có 29 ngày. Nhưng khi xét nội dung câu ở trong Toàn thư, chúng tôi thấy rằng ở đây đã chép nhầm sự kiện của tháng 11 ra tháng 12( ) chứ không phải là lịch Việt Nam khác lịch Trung Quốc. Do chỗ thống nhất lịch pháp giữa Việt Nam và Trung Quốc ở thế kỷ XIII như vậy, chúng tôi thấy có thể xác định các sử kiện rút ra ở hai nguồn tài liệu theo trình tự thời gian chung. Mặt khác, có thể đổi các ngày âm lịch chép trong hai nguồn sử liệu ra ngày dương lịch theo một phương pháp chung. Chúng tôi đã dựa vào các sách Lưỡng Thiên Niên Trung Tây lịch đối chiếu biểu, Trung Tây Hồi sử nhật lịch để đổi các ngày âm lịch (hoặc ghi bằng can chi) ra dương lịch. Việc đổi ngày âm lịch ra dương lịch có thể đính chính lại một số điểm không chính xác trong các sách trước đây như cuộc kháng chiến chông xâm lược Mông Cổ lần thứ nhất xảy ra vào năm 1258 chứ không phải năm
1257... Trong sách này, chúng tôi ghi cả ngày dương lịch và âm lịch để người đọc có thể kiểm tra lại sử liệu cũng như cách đổi ngày. Đối với những tháng âm lịch không ghi rõ ngày, chúng tôi ghi tháng đó bắt đầu từ ngày nào đến ngày nào của dương lịch.
*
* *
Trong sử liệu Việt Nam và Trung Quốc, các vua Trần được gọi bằng những tên khác nhau, dễ gây ra nhầm lẫn. Nhà sử học Nhật Bản Yamamoto Tatsuro đã khảo chứng khá công phu về vấn đề này trong chương Chinchò no omei ni kansuru kenkyũ (Nghiên cứu về tên vua triều Trần) ở đầu quyển An Nam Shikenkyũ (An Nam sử nghiên cứu) tập I của ông. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với Yamamoto. Ở đây chúng tôi không lặp lại các chứng minh mà chỉ nêu ra những tên vua trong giai đoạn đang nghiên cứu:
Trần Thái Tông tên là Cảnh, tức Nhật Cảnh và Quang Bính trong sử liệu Trung Quốc, Trần Thánh Tông tên là Hoảng, tức Nhật Huyên trong sử liệu Trung Quốc. Trần Nhân Tông tên là Khâm, tức Nhật Tôn trong sử liệu Trung Quốc.
*
* *
Trong khi sưu tầm sử liệu để soạn tập sách, này, chúng tôi được đồng chí Sa Kính Phạm ở Trường đại học Bắc Kinh gửi cho những tài liệu Trung Quốc không có trong các thư viện trong nước, ở đây, chúng tôi xin chân thành cảm ơn.
NCHƯƠNG 1: ĐẠI VIỆT TRƯỚC CUỘC KHÁNG CHIẾN
ới sức dân, làm kế rễ sâu gốc vững,
ấy là thượng sách giữ nước...”.
Trần Quốc Tuấn
Trong phần tư đầu tiên của thế kỷ XIII, Đại Việt đang lâm vào tình trạng nội chiến giữa các thế lực phong kiến cát cứ. Vương triều Lý chỉ còn là một hơi thở thoi thóp. Chính quyền trung ương suy yếu, lúc thì dựa vào tập đoàn phong kiến địa phương này, lúc thì dựa vào tập đoàn phong kiến địa phường khác. Thăng Long mấy lần bị đốt phá, vua Lý phải trốn khỏi kinh thành.
Đời sống nhân dân vô cùng cực khổ. Người chết đói nhiều, người sống sót phá sản, lưu vong. Bọn phong kiến cát cứ lại bắt nhân dân làm phu dịch, đào hào, đắp luỹ và xua họ vào cuộc nội chiến đẫm máu. Thời kỳ đen tối đó kéo dài dằng dặc trong suốt mười mấy năm trời. Thế rồi, một thế lực phong kiến mạnh nhất, họ Trần, đã dần dần chiếm được ưu thế, khống chế được chính quyền trung ương đang tàn tạ, chiến thắng được các tập đoàn phong kiến cát cứ khác, thống nhất đất nước. Quyền lực họ Trần ngày càng lớn. Huệ Tông nhà Lý phát điên, trao ngai vàng cho Chiêu Hoàng, một cô gái lên bảy. Điều đó càng tạo điều kiện thuận lợi cho sự biến ngày 11 tháng chạp năm Ất Dậu (10-1-1226), ngôi vua về tay Trần Cảnh. Thế là vương triều Lý đổ, vương triểu Trần thành lập.
Hoà bình đã trở lại trên đất nước, nhân dân được yên ổn làm ăn. Họ Trần khôi phục được chính quyền thống nhất,
chấm dứt cuộc nội chiến phong kiến, về khách quan đã đáp ứng được đòi hỏi của nhân dân. Nền kinh tế đầu đời Trần lại bắt đầu phát triển.
Để khôi phục lại sức sản xuất bị đình đốn cuối thòi Lý, nhà Trần đã chú trọng tổ chức khai khẩn đất hoang, mở rộng diện tích sản xuất nông nghiệp. Ở mỗi lộ, có hai viên đồn điền chánh sứ và phó sứ đôn đốc việc khai khẩn đồn điền của quân dân. Năm 1266, vương hầu, công chúa, phò mã, cung phi chiêu mộ những người dân nghèo đói phiêu tán làm nô tỳ, khai khẩn ruộng hoang, lập thành các điền trang. Bọn quý tộc lại sai nô tỳ đến những vùng ven biển, đắp đê ngăn nước mặn, qua hai ba năm, đất khai phá trỏ thành đồng ruộng, đó là những tư trang của quý tộc. Nô tỳ được phép lấy vợ lấy chồng, cư trú và canh tác ở đấy.
Thời Trần sơ, nhà nước rất chú ý việc đắp đê phòng lụt. Năm 1248, Thái Tông hạ lệnh cho các lộ đắp đê từ đầu nguồn đến bãi biển để đề phòng nước sông dâng to, gọi là đê “đỉnh nhĩ” (quai vạc), đặt chức hà đê chánh sứ và phó sứ để trông coi việc đắp đê. Năm 1255, vua Trần sai Lưu Miễn đắp các đê ở Thanh Hóa. Cũng năm này, nhiệm vụ của các hà đê sứ được quy định rõ ràng hơn: “Tuyến tản quan làm hà đê chánh phó sứ ở các lộ, khi việc cày cấy rỗi thì đốc quân lính đắp đê đập, đào khe ngòi để phòng lụt hạn” ( ). Sách An Nam chí cho chúng ta biết khá rõ về tình hình đê điều thời Trần: “Xứ Giao Chỉ, dân cư trù mật, đất không đủ cày, cho nên người trước đắp đê cao ở hai bên bờ sông ngòi đề phòng nước lụt; đất làm muối ở ven biển, bị nước mặn lấn vào, bọn quý tộc thế gian muốn chiếm riêng đất đó, để tự ý đắp đê ngăn nước mặn rồi gieo giống cày cấy ở bên trong, như thế là để yên dân và khai thác hết mối lợi của
đất đai. Lại như sông Phú Lương (tức sông Hồng - T.G.), phát nguyên ở trong vùng núi Tây Bắc, chảy quanh co về phía Đông Nam, tràn trề mênh mông, khoảng mùa hạ, mùa thu, trời mưa dầm dề, thuỷ hoạn xảy ra, cho nên hai bên bờ sông đều đắp đê để phòng bị. Một con đê từ sông Đáy đến sông Hải Triều (tức sông Luộc - T.G.), sông Phù Vạn thì dứt. Một con đê từ bến sông Bạch Hạc đến các vùng sông Lỗ, sông Đại Lũng, cửa Mãnh, cửa Ninh thì dứt. Đê đều cao ba thước, rộng năm trượng, đặt hà đê [chánh] phó sứ để trông nom. Mỗi năm vào tháng giêng, quan coi đê đốc thúc nhân dân phụ cận, không phân sang hèn già trẻ đều đi đắp đê. Chỗ nào thấp trũng thì đắp cao thêm, chỗ nào lở thì bồi đắp vào.Đến đầu mùa hạ thì xong việc.
Ấy là lệ thường hằng năm. Vào khoảng tháng sáu, tháng bảy, nước sông dâng to, đê sứ phải tự mình ra sức tuần hành xem xét, gặp chỗ bị lở thì sửa chữa ngay, nếu lười biếng thì mất chức. Nếu để cư dân trôi đắm, lúa má chìm hại thì lượng theo nặng nhẹ mà trách phạt. Từ đó, thủy tai không còn nữa mà đời sông của dân được sung sướng, đất không bỏ sót nguồn lợi nao" ( ).
Nhà Trần cũng đã đào thêm một số kênh và sông, có tác dụng về mặt giao thông cũng như về mặt thủy lợi. Năm 1231, vua Trần sai nội minh tự Nguyễn Bang Cốc đem phủ quân đào kênh Trầm và kênh Hào từ phủ Thanh Hóa (thuộc huyện Tĩnh Gia) đến địa giới phía nam Diễn Châu. Sông Tô Lịch được khơi sâu thêm nhiều lần, lần đầu tiên vào năm 1256.
Do điều kiện thiên nhiên cũng như do sức lao động của nhân dân và chính sách bảo vệ sản xuất nông nghiệp, châu
thổ các sông Hồng, sông Mã... đã trở thành vùng sản xuất nhiều lúa. Uông Đại Uyên, người Trung Quốc đời Nguyên, tác giả sách Đảo di chí lược, đã chép rằng: “Nước Đại Việt... đất rộng người đông, khí hậu thường nóng, ruộng đất phần lớn phì nhiêu” ( ). Trần Phu, sứ nhà Nguyên đến nước ta, đã ghi lại rằng: “Lúa mỗi năm chín bôn lân, tuy vào giữa mùa đông mà mạ vẫn mườn mượt "( ). Đấy là tình hình sau chiến tranh nhưng ít nhiều cũng cho chúng ta hình dung được vẻ phong thịnh của nông nghiệp trong những ngày hòa bình trước cuộc kháng chiến chống xâm lược Mông Cổ.
Từ buổi đầu đời Trần, bên cạnh ruộng đất làng xã và ruộng đất phong cấp của quý tộc thuộc sở hữu nhà nước, bộ phận ruộng đất tư hữu đã phát triển mạnh mẽ( ). Năm 1237, Trần Thái Tông đã xuống chiếu định thể lệ làm chúc thư, văn khế ruộng đất và vay mượn tiền. Năm 1254, Thái Tông cho phép bán quan điền, tức ruộng công, cho dân mua làm ruộng tư, cứ mỗi “diện” (bây giờ gọi mẫu là diện) giá 5 quan tiền ( ).
Chế độ thuế khóa được quy định trên cơ sở chế độ sở hữu ruộng đất. Thuế ruộng tư thời Trần mỗi mẫu 3 thăng thóc. Nông dân cày ruộng công mỗi mẫu phải nộp 100 thăng. Năm 1242, Trần Thái Tông quy định thuế nhân đinh nộp bằng tiền và đánh lũy tiến theo ruộng đất. Người nào có ruộng từ một đến hai mẫu, phải nộp một quan tiền, có từ ba đến bốn mẫu nộp hai quan, và từ năm mẫu trở lên nộp ba quan. Ai không có ruộng đất thì được miễn. Thuế ruộng bãi dâu và ruộng muối đều nộp bằng tiền. Ngoài ra, nhà Trần còn đánh thuê nhiều loại thổ sản bằng tiền.
Bên cạnh sự phát triển của nông nghiệp, công thương nghiệp cũng được phục hồi và phát triển sau một thời kỳ đình đồn vì nội chiến cuối Lý. Những công nghiệp phụ thuộc công trình kiến trúc như làm gạch ngói, làm đá, sơn then... tiếp tục phát triển. Việc khai thác các khoáng sản kim loại như vàng, bạc, sắt, đồng, chì thiếc đã có từ dưới thời Lý, có men rất đẹp. Nghề khắc bản in có từ thời Lý nay được tiến hành tiếp tục. Nghề đúc đồng phát triển nhanh chóng. Nghề dệt thời Trần đã đạt đến một trình độ kỹ thuật khá cao. Những người thợ thủ công bấy giờ đã dệt được the, đoạn, gấm màu, lụa năm màu, lĩnh năm màu... đồ gốm thời Trần cũng như thời Lý, có men rất đẹp. Nghề khắc bản in có từ thời Lý đến thời Trần vẫn tiếp tục phát triển. Nhà Trần đã cho in kinh Đại tạng và các sách Phật phổ biến trong toàn quốc. Đồ mỹ nghệ, nhất là các sản phẩm xa xỉ bằng vàng bạc ngọc ngà, đã được chế tạo rất tinh xảo.
Thủ công nghiệp ỏ nông thôn tuy gắn liền với nông nghiệp nhưng bấy giờ cũng đã xuất hiện các làng chuyên môn sản xuất một thứ sản phẩm thủ công nghiệp nhất định. Giữa các vùng có sự trao đổi rộng rãi với nhau. Kinh tế hàng hoá đã phát triển từ thời Lý, nay vẫn tiếp tục phát triển. Sách Đảo di chí lược chép rằng: “Đất Giao Chỉ sản vàng, bạc, đồng,thép,thiếc, chì, ngà voi, lông chim trả, nhục quế, cau. Hàng trao đổi thì dùng các thứ như the, lĩnh các màu, lụa, vải thanh bố, lược ngà, giấy đồng, thau, sắt... Lưu thông sử dụng tiền đồng” ( ). Năm 1226, Trần Thái Tông đã định quy chế về tiền tệ. Tiền lưu hành trong nhân dân,tức là tiền Tỉnh mạch, thì mỗi tiền có 69 đồng, tiền nộp cho nhà nước, tức là tiền Thượng cung, thì mỗi tiền có 70 đồng. An Nam chí
lược chép rằng thời Trần có tiêu dùng tiền Trung Quốc thời Đường và thời Tống.
Giao thông phát triển thúc đẩy việc buôn bán trong nước phát đạt, thị trường trong nước mở rộng. Các đường giao thông bộ được sửa đắp, dọc các đường đều dựng trạm cho hành khách nghỉ ngơi. Nhà trạm quét vôi trắng. Suốt thời Trần, các sông ngòi được đào vét luôn luôn. Bấy giờ đã có những thuyền đi sông và đi biển lớn. Có những chiếc thuyền đến ba mươi người chèo hay hơn trăm người chèo.
Do nhu cầu trao đổi buôn bán, các đơn vị đo lường dần dần được thông nhất. An Nam chí lược chép: “Đồ đo lường và cân giống như Trung Quốc, duy có các hàng vàng bạc, vải vóc, tơ gai và thuốc là tự tính lấy mà thôi” ( ). Trước cuộc chiến tranh lần thứ hai, năm 1280, vua Trần đã ban hành thước mộc và thước đo vải cùng một kích thước thống nhất.
Ngoài các chợ lớn ở kinh thành, nông thôn có nhiều chợ. Những dòng ghi chép sau đây của Trần Phu sau chiến tranh cũng cho ta biết được tình hình chợ búa nông thôn: “Chợ ở thôn xóm hai tháng họp một lần, trăm thứ hàng hóa tụ tập lại ở đấy, cứ năm dặm thì dựng một ngôi nhà, bốn mặt đều đặt chông, để làm nơi họp chợ” ( ).
Ngoại thương thời Trần cũng khá phát đạt. Thương nhân đến nước ta nhiều nhất là người Trung Quốc. Trong số lái buôn nước ngoài đến ta, còn có những lái buôn người Hồi Hột (Uigụr) ( ). Có lẽ họ đã vượt qua vùng cao nguyên tây nam Trung Quốc, đến Vân Nam và vào nước ta theo sông Hồng.
Vân Đồn vẫn là một địa điểm hải thương quan trọng, đón thương thuyền của các nước đến Đại Việt. Ở Vân Đồn, có
một dòng nước chảy giữa hai dãy núi. Người ta đã dựng lên các rào chắn bằng gỗ, tạo thành một cảng biển để thuyền bè ra vào. Nhân dân ở dọc hai bên bờ ( ). Từ khi các cửa biển ở vùng Diễn Châu (Nghệ An) bị cạn, thuyền buôn nước ngoài đổ về Vân Đồn càng đông hơn. Trong số thuyền buôn cập bến Vân Đồn, có thuyền Trung Quốc, thuyền Java, thuyền Xiêm và thuyền một số nước khác vùng Nam Dương hay Ân Độ Dương.... Ngoài Vân Đồn ra, thuyền buôn nước ngoài còn cập bến ỏ nhiều cửa biển khác. An Nam tức sự chép: “Phủ Thanh Hóa... cách thành Giao Châu hơn hai trăm dặm. Các phiên thuyền ở hải ngoại tụ tập ở đấy, họp chợ ngay trên thuyền, rất đông... Thật là một trấn lớn” ( ).
Như vậy, chúng ta đã thấy rằng sau khi họ Trần nắm chính quyền, kết thúc cuộc nội chiến cuối Lý, nền kinh tế của Đại Việt lại tiếp tục hưng vượng lên, cả nông nghiệp lẫn công thương nghiệp.
Về mặt tổ chức chính trị, họ Trần ra sức củng cố và phát triển nhà nước phong kiến tập quyền. Tất cả những chức vị quan trọng trong bộ máy nhà nước đều do tôn thất họ Trần nắm giữ.
Các vương hầu họ Trần, ngoài việc nắm giữ những chức vị trọng yếu ở triều đình, còn được phân phong đi trấn trị các nơi. Vương hầu có quyền lực lớn ở vùng mình trấn trị. Các vương hầu còn được phong thái ấp và có phủ đệ riêng. Ngô Sĩ Liên chép: “Chế độ nhà Trần, vương hầu đều ở phủ đệ riêng ở các hương, khi có triều yết thì về kinh, xong việc lại trở về phủ đệ như Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp (Hải Dương), Thủ Độ ở Quắc Hương (Mỹ Lộc, Nam Định), Quốc Trấn ở Chí Linh (Hải Dương), đến lúc vào triều làm tể tướng, mới thống lĩnh
tất cả việc thiên hạ..." ( ). Một đặc quyền khác của vương hầu quý tộc là được chiêu mộ quân đội riêng.
Quý tộc được quyền trấn trị các nơi, có thái ấp và quân đội riêng, tất cả những điều đó biểu hiện rằng nhà nước phong kiến thời Trần vẫn còn mang những yếu tố phân tán. Tuy nhiên, những yếu tố này hoàn toàn bị hạn chế. Vương hầu có quyền thừa ấm - tức là kế tiếp được phong tước nhưng không phải là được tập chức. Vương hầu không phải bao giờ cũng có quyền thừa kế thái ấp. Vì ruộng đất là quốc hữu, nhà vua có thể lấy lại ruộng đất của người này ban cho người khác. Hơn nữa, bộ phận ruộng đất chủ yếu là ruộng đất công làng xã, quan hệ giữa nông dân cày cấy ruộng công làng xã nộp tô thuế với nhà nước là cơ sở chính của nhà nước tập quyền trong giai đoạn này. Kinh tế hàng hóa phát triển, góp phần đẩy lùi yếu tố kinh tế phân tán. Do những điều kiện đó, tuy còn mang trong mình những yếu tố phân tán, nhà nước phong kiến thời Trần vẫn là một nhà nước tập quyền mạnh mẽ. Giữa quý tộc và nhà vua không có mâu thuẫn sâu sắc, trái lại, thế lực của tập đoàn quý tộc Trần càng làm tăng cường thêm sức mạnh của vương triều Trần. Nhà nước có thể huy động quân đội vương hầu lúc cần thiết. Ngô Sĩ Liên đã từng nhận xét: “Năm Nguyên Phong (niên hiệu đời Trần Thái Tông -T.G.), giặc Nguyên sang cướp, vương hầu đều đem gia đồng và hương binh, thổ hào sung vào đội quân cần vương; việc biến năm Đạo Định ( ), vương hầu lại đem dân thôn trang sắm sửa nghi trượng để đón vua mới. Như thế thì chế độ nhà Trần cũng làm tăng thêm được sức mạnh của cái thế “duy thành” ( ). Đúng như lời Ngô Sĩ Liên, tập đoàn quý tộc tôn thất họ Trần quả là bức tường thành bảo vệ ngai vàng vua Trần.
Tầng lớp nắm địa vị cao nhất trong bộ máy nhà nước là quý tộc Trần. Nhưng bên dưới là cả một bộ máy quan liêu phức tạp từ trung ương đến các địa phương. Nhà Trần đã chia lại các đơn vị hành chính. Năm 1242, đổi 24 lộ thời Lý làm 12 lộ. Ở trung ương, ngoài những chức vụ quan trọng trong cơ quan tối cao do tôn thất họ Trần nắm giữ, bên dưới còn có một tập đoàn quan liêu đông đảo chia làm hai ban văn - võ, làm việc trong các cơ quan có nhiệm vụ khác nhau. Theo Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú thì các cơ quan trung ương thời Trần gồm có các quán, các sảnh, cục, đài, viện. Cơ quan hành chính và tư pháp ỏ kinh đô Thăng Long là Bình bạc ty. Năm 1265, Bình bạc ty đổi thành Đại an phủ sứ, về sau lại đổi ra Kinh sư đại doãn. Ở lộ thì có an phủ sứ, trấn thủ, thông phán... Ngoài ra còn có hà đê sứ coi về đê điều,, đồn điền sứ coi về đồn điển. Phủ thì có tri phủ, châu thì có tri châu, tào vận sứ... ở xã thì đặt chức đại tư xã và tiểu tư xã, còn gọi là đại toát và tiểu toát. Các chức quan chỉ huy quân đội ở địa phương thì có kinh lược, phòng ngự, sát thủ ngự...
Tổ chức bộ máy nhà nước đã được quy định ngay từ buổi đầu thời Trần. Năm 1230, đã biên soạn sách Thông chế, khảo xét các luật lệ thời trước, sửa đổi hình luật và lễ nghi, tất cả gồm 20 quyển. Cùng năm đó, biên soạn sách Quốc triều thường lễ, ghi chép các việc của triều đình. Quan lại thời Trần đểu có lương bổng, đó là một điểm khác với thời Lý. Năm 1236, nhà Trần đã quy định lương bổng cho các quan văn võ trung ương và địa phương. Tiền lương đó lấy vào tiền thuế. Năm 1244, nhà nước lại quy định lương bổng một lần nữa.
Thời Trần, việc tuyển dụng quan lại bằng khoa cử phát triển hơn thời Lý. Năm 1232, mở khoa thi Thái học sinh đầu tiên. Từ đó về sau, trong vòng mười năm lại mở một khoa. Ngoài ra, để tuyển nhân viên tuỳ thuộc trong các cơ quan, nhà Trần còn mở các kỳ thi lại viên. Những người dự thi phải thảo các giấy tờ hành chính, gọi là bạ đầu. Cũng có khi thi bằng phép viết, phép tính.
Nhà sử học Phan Huy Chú đã nhận xét về bộ máy quan liêu thời Trần là “các chức quan trong (ở trung ương -T.G.), quan ngoài (ở địa phương - T.G.) lớn nhỏ đều có hệ thống ( ). Việc tổ chức bộ máy chính quyền chặt chẽ từ trung ương đến tận đơn vị xã như vậy cho chúng ta thấy được nhà nước thời Trần tập trung hơn một bước so với thời Lý.
Thời Lý đã có Hình thư, thời Trần san định lại các luật lệ thời trước. Từ năm 1226, ngay sau khi Trần Cảnh lên ngôi, đã định các điểu luật lệnh. Bốn năm sau, định hình luật. Năm 1244, lại định hình luật một lần nữa.
Hiện nay, chúng ta không có đầy đủ tài liệu về nội dung pháp luật thời Trần nhưng qua một vài điều luật ghi chép rải rác trong sử cũ và An Nam chí lược, chúng ta cũng thấy được rằng pháp luật thời Trần bảo vệ chính quyền chuyên chế phong kiến, bảo vệ đặc quyền đặc lợi của quý tộc, bảo vệ trật tự đẳng cấp phong kiến, phân biệt rõ rệt quý tộc quan liêu với nhân dân, phân biệt dân tự do với tâng lớp cuối cùng cùa xã hội là nô tỳ. Pháp luật thời Trần còn phản ánh sự phát triển của tư hữu ruộng đất và bảo vệ quyền lợi vay lãi ( ).
Ngoài việc tổ chức bộ máy nhà nước chặt chẽ để củng cố chính quyền phong kiến tập trung, nhà Trần ngay từ buổi
đầu, đã ra sức xây dựng một đội quân hùng mạnh. Năm 1239, Trần Thái Tông đã hạ chiếu tuyển trai tráng sung vào quân đội, chia làm ba bậc thượng trung và hạ. Năm 1241, lại tuyển những người có sức mạnh, am hiểu võ nghệ sung làm thượng đô túc vệ. Nhưng đến năm 1246 thì quân đội nhà Trần mới được tổ chức thật chu đáo. Mùa xuân năm đó, tuyển những người khỏe mạnh sung vào quân Tứ Thiên, Tứ Thánh, Tứ Thần. Mỗi quân hiệu túc vệ được tuyển trong dân đinh một số lộ nhất định. Đinh tráng ở lộ Thiên Trường (Nam Định) và lộ Long Hưng (Thái Bình) sung vào các quân hiệu Thiên Thuộc, Thiên Cương, Chương Thánh và Củng Thần, lộ Hồng (vùng tây Hải Dương) và lộ Khoái (vùng nam Hưng Yên) sung quân hiệu Tả Thánh Dực và Hữu Thánh Dực, lộ Trường Yên (Ninh Bình) và lộ Kiến Xương (nam Thái Bình) sung vào quân hiệu Thánh Dực và Thần Sách. Còn một số khác sung vào cấm quân trong cấm vệ. Hạng thứ ba gọi là đoàn đội trạo nhi, tức là đội chèo thuyền, thủy thủ của thuyền trận.
Chúng ta chưa có đầy đủ tài liệu để biết chắc chắn về quân số thường trực thời Trần. Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì năm 1267, quy định quân ngũ, mỗi quân gồm có 30 đô, đô có 80 người ( ). Có lẽ do đó mà Phan Huy Chú đã chép: “Số quân triều nhà Trần lúc trước, mỗi đội quân hai ngàn bốn trăm người, quân ở trong cấm vệ và quân ở các lộ không đầy mười vạn người” ( ). Theo An Nam chí lược thì mỗi đô có 50 người. Chúng ta không biết được tất cả tên của các đô. An Nam chí lược chép rằng quân đội thời Trần gồm có thân quân và du quân. Thân quân (chắc là quân túc vệ) gồm có đô Thánh Dực, đô Thần Dực, đô Long Dực, đô Hổ Dực và Phụng nha quan chức lang. Du quân (có lẽ là quân
điều động đi các nơi) gồm có đô Thiết Lâm, đô Thiết Hạm, đô Hùng Hổ, đô Vũ Ân. Ngoài quân túc vệ ở kinh đô và quân các lộ do nhà nước tổ chức, quý tộc tôn thất họ Trần còn được phép thành lập những đội quân riêng. Thành phần chủ yếu của lực lượng này là gia nô nô tỳ. Quân đội này thường được gọi là quân vương hầu gia đồng. Theo An Nam chí lược thì quân vương hầu gia đồng cũng đặt thành các đô như đô Toàn Hầu, đô Dược Đồng, đô Sơn Lão,... Lực lượng này cũng có một số quân đáng kể. Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản tuy còn bé mà đã có một đội quân gia nô và thân thuộc đông đến hơn nghìn người. Khi có chiến tranh, nhà nước có thể điều động được lực lượng quân đội này. Khi có chiến tranh, vương hầu cũng có quyền được mộ đinh tráng ở các lộ làm lính.
Sở dĩ trong cuộc chiến tranh vệ quốc chống quân xâm lược Mông Cổ, nhà Trần đã có một lực lượng quân đội đông đảo là vì “lúc có việc thì toàn dân là lính” ( ). Theo An Nam chí lược, “việc lấy quân không có số nhất định, chỉ chọn dân đinh nào khỏe mạnh thì lấy. Cứ năm người một ngũ, mười ngũ làm một đô, lại chọn hai người nhanh giỏi dạy tập vũ nghệ. Khi nào có việc điều động thì gọi ra, khi không có việc thì trở về nhà làm ruộng”. Như vậy, nhà Trần cũng áp dụng chính sách ngụ binh ư nông như thời Lý. Quân túc vệ có tuế bổng, còn quân các lộ thì chia phiên nhau về làm ruộng tự cấp. Thanh niên đến tuổi đinh tráng, gọi là hoàng nam, hằng năm khai vào đơn số, tức là sổ hộ khẩu. Lúc chiến tranh, cứ theo sổ hộ khẩu, gọi tất cả ra lính. Phan Huy Chú viết: “Bách tính đều là lính nên mới phá được giặc to và làm mạnh được thế nước” ( ).
Quân đội thời Trần được luyện tập thường xuyên. Trong những năm chuẩn bị kháng chiến, thường có những cuộc diễn tập lớn. Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn đã nói: “Quân lính cần tinh nhuệ, không cần nhiều” ( ). Các tướng lĩnh tôn thất đều được học tập quân sự ỏ Giảng Võ đường. Binh pháp rất được coi trọng. Vấn đề học tập binh pháp là nhiệm vụ bắt buộc của tướng sĩ. Ngoài Trần Quốc Tuấn, trong hàng tướng tá nhà Trần, có nhiều nhà chỉ huy quân sự ưu tú. Phạm Ngũ Lão đã đối xử với quân lính với mối tình cha con. Chính viên dũng tướng kiêm nhà thơ đó đã từng có những câu:
“Hoành sáo giang sơn cáp kỷ thu
Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu...".
(Cầm ngang ngọn giáo vì sông núi đã mấy mùa thu
Ba quân như hùm beo, khí thể dường như muốn nuốt cả trâu).
Phải chăng Phạm Ngũ Lão muôn nói lên khí thế oai hùng của đội quân “phụ tử” do ông chỉ huy và của toàn thể quân đội thời Trần. Một quân đội như thế, với lòng yêu nước nồng nàn và tinh thần dũng cảm cao độ, nhất định sẽ chiến thắng bọn xâm lược.
Như vậy là trong giai đoạn trước cuộc kháng chiên lần thứ nhất và cả trong giai đoạn giữa hai cuộc chiến tranh, nhà Trần đã ra sức khôi phục và phát triển kinh tế, củng cố bộ máy nhà nước và xây dựng một quân đội hùng mạnh.
Tất cả những việc đó đểu xuất phát từ quyền lợi của giai cấp phong kiến nhằm bảo vệ quyền lực thống trị của mình. Nhưng trong hoàn cảnh bấy giờ, khi mà nhân dân vừa trải
qua cuộc nội chiến cuối Lý, khi mà đế quốc Mông Cổ đang mở rộng cuộc chinh phục xuống phương Nam, yêu cầu của giai cấp phong kiến đứng đầu là quý tộc họ Trần, đã phù hợp với yêu cầu của nhân dân ở chỗ phải xây dựng một quốc gia giàu mạnh và kiên quyết bảo vệ nền độc lập dân tộc. Chính sự phù hợp đó đã khiến cho vương triều Trần có thể đoàn kết được toàn dân thành một đội ngũ vững chắc, xông lên tiêu diệt “giặc Mông Cổ là kẻ thù không đội trời chung”. Trong đội ngũ đó, có những người dân phiêu tán vừa trở về quê hương làm ăn sau những năm loạn lạc, có những bần dân và nô tỳ đang sống với gia đình của họ trong vùng khai hoang ở bờ biển, có những nông dân vừa được mua thêm mảnh ruộng nhỏ từ năm Nguyên Phong thứ tư... Tất cả những người đó đã tiến lên dưới ngọn cờ của giai cấp phong kiến. Giai cấp phong kiến đã dẫn họ ra chiến trường để bảo vệ điền trang thái ấp, những đất thang mộc của quý tộc, nhưng đồng thời cũng bảo vệ phần mộ, gia hương, xóm làng mình, bảo vệ Tổ quốc.
CHƯƠNG 2: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
"K
ĐẾ QUỐC MÔNG CỔ
hông còn một dòng suối, một con sông nào không tràn đầy nước mắt chúng ta, Không còn một ngọn núi một cánh đồng nào không bị quân Ta-ta giày xéo...”.
V.Frik (1210 -1290)
(nhà thơ Ác-mê-nỉ)
Thế kỷ XIII bắt đầu vào lúc thảo nguyên Mông Cổ đang cuốn bụi và thấm máu vì những cuộc chiến tranh bộ lạc tàn khốc.
“Trời có sao Đang quay cuồng.
Người người đã nổi dậy
Không về chỗ ngủ của mình nữa
Mà cướp đoạt của cải lẫn nhau.
Đất có cỏ Đang lật nhào.
Người người đã nổi dậy
Không nằm trong chăn của mình nữa
Mà đánh lẫn nhau” ( ).
Khúc hát ngắn chép trong Lịch sử bí mật Mông Cổ đã phản ánh tình hình các bộ lạc Mông Cổ vào cuối thế kỷ XII đầu thế kỷ XIII.
Trước Thế kỷ XIII, người Mông Cổ sống thành các bộ lạc hay liên minh bộ lạc. Các bộ lạc Mông Cổ sống trên vùng thảo nguyên châu Á, phía bắc đến hồ Bai Can, thượng lưu sông I-ê-ni-xê-i và sông Iếc-tư-sơ, phía nam qua sa mạc Gô Bi, đến gần Trường thành. Đại bộ phận là bộ lạc chăn nuôi du mục.
Tài sản chủ yếu của các bộ tộc Mông cổ là bò, cừu và ngựa. Ngựa đóng một vai trò rất lớn trong cuộc sống du mục của người Mông Cổ. Triệu Hồng đời Tống, tác giả Mông Thát bị lục đã viết: “Người Thát (tức người Mông cổ - T.G.) lớn lên trên yên ngựa, tự luyện tập chiến đấu, từ mùa xuân đến mùa đông, ngày ngày săn bắn, đó là sinh kế của họ" ( ).
Người Mông Cổ du mục theo hình thức Cu-ry-en (Küriyän, tiếng Mông Cổ có nghĩa là lều trại). Theo Ra-sít ut-Đin (Rasid ud-Dĩn) ( ), mỗi cu-ry-en bao gồm chừng một nghìn lều. Khi bộ lạc đi đến đâu, cu-ry-en đóng lại đó, lều thủ lĩnh bộ lạc ở giữa. Cùng với sự tan rã của chế độ công xã nguyên thủy, các gia đình cá thể giàu có mở rộng uy lực, xuất hiện tôi tớ nô lệ. Phương thức cu-ry-en tức phương thức công xã dồn dần được thay thế bằng phương thức a-in (ayĩl) tức phương thức du mục của gia đình cá thể.
Nô lệ gia đình có tác dụng không nhỏ trong quá trình hình thành xã hội có giai cấp của người Mông Cổ nhưng nó không trở thành hình thái kinh tế chiếm hữu nô lệ. Do ảnh hưởng của các cư dân định cư phong kiến, đặc biệt là Trung Quốc và do sự phát triển quan hệ tông pháp trong các bộ lạc du mục, người Mông Cổ đã tiến thẳng từ hình thái công xã nguyên thủy sang hình thái phong kiến, không trải qua hình thái chiếm hữu nô lệ.
Dưới chế độ công xã nguyên thủy, bãi chăn nuôi và đàn súc đều là tài sản của thị tộc Mông cổ. Khi chế độ công xã nguyên thủy tan rã, đàn gia súc biến thành tài sản của gia đình cá thể, còn bãi chăn nuôi thì vẫn là tài sản của thị tộc trong thời gian rất lâu. Nhưng dần dần, tầng lớp Nô-y-an (noyan, quý tộc Mông cổ) chiếm đoạt đất đai, bãi chăn nuôi của công xã và biến những người tự do A-rat (arat) trực tiếp sản xuất thành tầng lớp lệ thuộc, bị nô dịch cố định trên đất đai. A-rat phải cung cấp củi đốt, vắt sữa, chế sữa và đi thăm các đàn súc cho Nô-y-an. Lao động cưỡng bức đã phát sinh và phát triển như vậy.
Giữa thế kỷ XII, thủ lĩnh các bộ lạc hay liên minh bộ lạc đã dựa vào tập đoàn quý tộc Nô-y-an và đội thân binh Nô-ke (nokar) tiến hành các cuộc chiến tranh cướp bãi chăn nuôi, đất săn bắn, tranh đoạt uy lực. Đó cũng là quá trình xây dựng quốc gia thống nhất Mông Cổ. Người chiến thắng cuối cùng là Tê-mu-jin (Tamüjin) ( ).
Tê-mu-jin sinh ra trên bờ sông Ô-nôn (Ônon), trong bộ lạc Ta-y-tri-ut (Tayiẽĩut), cha là Y-ê-xu-gây - ba-tua (Yasugai ba’atur). Năm 1164, Y-ê-xu-gây chết. Sau một thời gian lưu lạc, Tê-mu-jin dần dần tập hợp được lực lượng, vào khoảng 1.200, Tê-mu-jin bắt đầu cuộc chiến tranh chinh phục các bộ lạc khác. Từ năm 1204 đến 1205, tất cả các bộ lạc chủ yếu của Mông Cổ lần lượt hàng phục trước vó ngựa Tê-mu jin.
Năm 1206, một khu-rin-tai (quriltai, đại hội quý tộc) mở trên bờ sông Ô Môn, giai cấp Nô-y-a đã tôn Tê-mü-jin làm Trin-ghit Khan (Cinggis-qan, Thành Cát Tư Hãn) nghĩa là hãn (vua Mông cổ) mạnh nhất. Cuộc chiến tranh liên miên
giữa các bộ lạc kết thúc. Một nhà nước phong kiến quân sự độc tài tập quyền ra đời. Quan hệ phong kiến nảy sinh sớm trong xã hội Mông Cô từ cuối thế kỷ XII, nay đã phát triển mạnh mẽ. Quá trình hình thành bộ tộc Mông Cổ được đẩy mạnh, khắc phục tính phân tán bộ lạc. Kinh tế và văn hóa có điều kiện phát triển. Chính vì thế, chúng ta thây rằng việc thống nhất quốc gia Mông Cổ của Trin-ghit Khan có một ý nghĩa tiến bộ lớn.
Nhưng ngay sau đó, Trin-ghit Khan và tập đoàn quý tộc phong kiến đã đem tất cả tinh lực của bộ tộc Mông cổ vừa hình thành dốc vào chiến tranh xâm lược và nô dịch các dân tộc khác. Những đoàn kỵ binh Mông Cổ lại ồ ạt kéo sang phương Đông và phương Tây, gieo rắc kinh hoàng và chết chóc xuống những vùng xa hơn ở châu Âu và châu Á.
Năm 1211, Trin-ghit Khan tiến quân vào miền Bắc Trung Quốc. Bấy giờ miền đất phía Bắc Trung Quốc bị tộc Nữ Chân chiếm cứ, lập nên nước Kim (từ năm 1115). Các cuộc khởi nghĩa của nông dân Trung Quốc và sự khuynh loát lẫn nhau của bọn phong kiến Nữ Chân đã làm cho vương triều Kim suy yếu. Năm 1215, quân Mông Cổ chiếm được Trung Đô (Bắc Kinh), nhưng sau khi cướp được nhiều của cải và tù binh, Trin-ghit Khan rút quân khỏi Trung Quốc.
Năm 1218, quân Mông Cổ chiếm vùng Đông Tuốc-ke-xtan (Turkestan). Trong đoàn kỵ binh và bộ binh Mông Cổ, người ta thấy có những vũ khí đánh thành học được của người Trung Quốc trong lần viễn chinh 1211-1215. Bấy giờ, quân Mông Cổ đã có những cỗ pháo bắn ra những bình đựng các chất cháy.
Năm 1219, đội quân của Trin-ghit Khán tiến về vương quốc Khô-re-xmơ (Khorezm). Tháng 2 năm 1220,thành Bu-kha ra (Buqara) nổi tiếng bị chiếm.Bọn xâm lược đã đuổi hết cư dân ra khỏi thành, vơ vét của cải rồi phóng lửa đốt. “Đó là một ngày vô cùng bất hạnh; chỉ nghe thấy tiếng khóc bi ai vĩnh biệt của già trẻ trai giá.Bọn dã man làm nhục phụ nữ trước mặt những người bất hạnh.... Có những người thà chết không muốn trông thấy thảm cảnh ấy". Nhà sử học Ip an A-xia (Ibn al-Athĩr, 1160-1293) ( ) đã viết như vậy về người Bu-kha-ra bị tàn phá.Từ Bu-kha-ra bốc cháy, Trin-ghit Khan tiến thẳng đến Xã-mác-khan (Samarqand), một thành thị giàu có cổ xưa, có một nền văn hóa rực rỡ ở Trung Á. Xa-mác-khan cũng phải chịu một số phận như Bu-kha-ra. Tòa thánh lộng lẫy với những cung đền Hồi giáo từ nay trỏ thành hoang phế. Năm 1222, đạo sĩ Trung Quốc là Khâu Xứ Cơ (Trường Xuân chân nhân) đi qua đô thành này đã thấy cư dân ở đây không còn được một phần tư dân số" trước kia ( ). Sau khi tàn phá Xa-mác-khan, quân Mông Cổ tấn công thủ đô của vương quốc Khô-re-xmơ là Uốc-ghen-trơ (Urgenc). Nhân dân thành Uốc-ghen-trơ đã chiến đấu rất kiên cường. Mấy nghìn quân Mông Cổ, dưới quyền chỉ huy của những viên mãnh tưóng Jô-tri (Jöci), Tra-ga-tai (Cayatai), Ô-gô-đây (Ogôdải) ba con trai của Trin-ghit Khan đã vây đánh suốt trong vòng 5 tháng mới chiếm được. Tháng 4 năm 1221, uốc-ghen-trơ thất thủ. Sau khi đã tàn sát cư dân và trưng tập thợ thủ công, bọn chiến thắng cuồng bạo đã phá đê sông A-mu Đa-ri-a cho nước tràn vào thành. Ip-an A-xia đã viết: “Những thành khác bị phá, cư dân còn lại hoặc ẩn náu hay bỏ chạy, hoặc trôn vào những đống thây người mà thoát được. Chỉ những người dân Khô-
re-xmơ (chỉ UỐc-ghen-trơ-T.G.) thoát khỏi bị bắt đi thì đểu chết đuối trong nước sông A-mu” ( ). Ngày 25 tháng 2 năm 1221, Tô-lui (Tolui) ( ), con út của Trin-ghit Khan đã hạ thành Méc-vơ (Merv). Vì nhân dân Méc-vơ đã chiến đấu anh dũng nên toàn thành đã bị tàn sát trừ 400 người thợ thủ công. Theo Ip-an A-xia, người ta đã đếm được 70 vạn xác chết quanh thành Méc-vơ. Khô-re-xmơ, một quốc gia văn minh phồn vinh trước đây, nay đã trở thành một vùng hoang vắng. Vua Khô-re-xmơ là Mô-ham-mét (Mohammed) chạy trốn rồi chết trên một hòn đảo nhỏ ở Ca-xpiên (Lý Hải). Nhiều thành thị trở thành gò hoang. “Nghệ thuật nhũng thư viện phong phú, nền nông nghiệp ưu việt, cung điện và giáo đường - tất cả sạch không”. K.Mác đã viết về hậu quả cuộc xâm lược Trung Á của người Mông cổ như vậy ( ).
Năm 1221, hai viên tướng Mông Cổ là Xu-bu-tai (Subutai) và Jê-bê (Jábá) đem quân xâm nhập A-déc-bai-jan, tiến đến Gơ-ru-di-a. Sau khi chiếm Sê-ma-kha, đội quân viễn chinh vượt núi Cáp-ca-dơ tiến lên phía bắc, tràn đến Cơ
rưm và chiếm vùng Xu-đac. Năm 1223, Xu-bu-tai và Jê-bê đánh tan liên quân Nga 8 vạn người do các công tước Ki-ép, Ga-li-sơ, Trec-ni-gốp và Xmô-len chỉ huy trên bờ sông Can ca (Kalka). Thuyền bị đốt cháy trụi, số quân thoát được không quá một phần mười. Bọn tướng xâm lược bắt trói các vương công Nga, bắc ván lên đầu họ và ngồi lên đó, ăn mừng chiến thắng. Quân Nga sở dĩ thất bại là vì ngay trong lúc nguy cấp, các công quốc vẫn bất hòa với nhau. Quân Mông Cổ không ngừng lại ỏ thảo nguyên Nam Nga mà tiếp tục tiến đến trung bộ sông Vôn-ga. Ở đấy, họ đã gặp sức
chiến đấu mãnh liệt của dân Bun-ga. Bị phục kích, quân Mông Cổ đã thất bại thảm hại, tìm đường chạy trốn.
Mùa thu năm 1225, Trin-ghit Khan trở về Mông Cổ. Nửa năm sau, Trin-ghit Khan lại kéo quần về phía đông, đánh nước Tan-gut (Tangut, tức Tây Hạ), Tan-gut thất bại, thành thị bị cướp phá và thiêu huỷ. Nhưng đó cũng là chiến thắng cuối cùng trong đời Trin-ghit Khan. Tháng 8 năm 1227, Trin
ghit Khan chết trên đường viễn chinh ỏ huyện Thanh Thuỷ (Cam Túc), tây nam Lục Bàn Sơn.
Khi Trin-ghit Khan còn sống, lãnh thổ rộng lớn của đế quốc Mông Cổ đã chia cho bốn con trai của y. Những đất phong đó gọi là ulus. Ưlus của con trưởng Jô-tri ở phía tây sông Iếc-tư-sơ, suốt một dải thảo nguyên Tuốc-kê-xtan, từ hạ du sông A-mu Đa-ri-a đến sông Xưa Đa-ri-a. Con thứ hai là Tra-ga-tai, chiếm vùng thảo nguyên Ka-sơ-ga và lưu vực sông I-li.Vùng tây Mông Cổ giữa núi An-tai và hồ Ẹan-ca-sơ thuộc quyền O-gô-đây, người con thứ ba. Con út là Tô-lui thừa kế miền đất cũ của cha.
Theo Lịch sử bí mật Mông Cổ và Tập sử biên niên của Rarsit ut-Đin thì trước đây, Trin-ghit Khan đã chỉ định Ô-gô-xiây thừa kế ngôi hãn. Nhưng sau khi Trin-ghit Khan chết, quyền lực thực tế nằm trong tay Tô-lui.
Năm 1228, khu-rin-tai mở trên bờ sông Kê-ru-len (Karụlan). Đại biểu các ulus đều về họp. Bọn quý tộc hoàng thất đã cử Ô-gô-đây ( ) lên ngôi hãn. Yến tiệc mừng hãn mới tưng bừng bên sông Kê-ru-len. Bốn mươi mỹ nữ trang sức đầy vàng ngọc bị làm vật hiến tế cho linh hồn Trin-ghit Khan ( ).
Ô-gô-đây lên ngôi khi bản đồ đế quốc Mông Cổ đã vô cùng rộng lớn. Trừ Mông Cổ ra, đế quốc Mông cổ bao gồm cả
vùng Bắc Trung Quốc, Tuốc-ke-xtan, Trung Á, vùng thảo nguyên từ sông Iếc-tư-sơ đến sông Vôn-ga, phần lớn đất I răng và đất Cáp-ca-dơ. Giai cấp thống trị ỏ các quốc gia bị chinh phục, đại địa chủ, tăng lữ cao cấp và đại thương nhân phục vụ bọn xâm lược, mong duy trì đặc quyển và tài sản của mình. Ách áp bức đè nặng lên vai nhân dân láo động du mục và định cư. Thuế khóa nặng nể. Thợ thủ công bị trưng tập lao dịch cho người Mông Cổ. Năm 1235, thủ đô Kha-ra Khô-rum (Qara Qorum) được xây dựng trên bờ sông Oóc
khôn (Orkhon). Tham gia xây dựng đô thành và vương cung ấy là những thợ tù binh Trung Quốc, Tát-jich, Tuyếc, Ba Tư và các dân tộc khác.
Do sự thống trị tàn bạo của bọn chúa dị tộc Mông Cổ, nhân dân nhiều nơi đã nổi dậy. Chẳng hạn năm 1238, Ma-hơ-mút Ta-ra-bi (Mahmùd Tarabi) đã vùng lên đuổi bọn xâm lược ra khỏi Bu-kha-ra và dựa vào nông dân, đánh tan quân đội Mông Cổ chiếm đóng và bọn chúa phong kiến địa phương. Nhưng cuộc khởi nghĩa bị trấn áp.
Sau khi Trin-ghit Khan chết, các cuộc viễn chinh xâm lược vẫn tiếp tục. Kế hoạch đánh chiếm nước Kim ở Bắc Trung Quốc đã được Trin-ghit Khan vạch ra cho cận thần từ trên giường bệnh. Năm 1232, Ô-gô-đây và Tô-lui tấn công vào đất Hà Nam, liên minh với Nam Tông đánh Kim. Tháng 5 năm 1232, tướng Xu-bu-tai chiếm Biện Kinh (Khai Phong). Kim Ai Tông chạy vế Quy Đức rồi chạy về Thái Châu (nay là Nhữ Nam, Hà Nam). Quân Mông Cổ liên minh với Nam Tống đánh Kim, giao ước là sau khi diệt Kim, Tống sẽ được thu phục ba kinh thành (Đông Kinh là Khai Phong, Tây Kinh là Hà Nam tức Lạc Dương, Nam Kinh là Ứng Thiên tức Thương Khâu). Tông Lý Tông đã sai Mạnh Hồng đem hai vạn quân
và ba mươi vạn thạch lương giúp Mông Cổ vây Thái Châu. Năm 1234, thành Thái Châu vỡ, Kim Ai Tông tự sát ở Ư-lan hiên. Nước Kim mất. Nam Tống theo điều ước, tiến quân lấy lại đất cũ, nhưng quân Mông Cổ đã tháo nước sông Hoàng Hà làm ngập quân Tông. Năm 1236, Ô-gô-đây sai quân đánh Tống. Đạo thứ nhất do Kha-đan (Qađan) con thứ hai của O-gô-đây chỉ huy, qua Tứ Xuyên, đánh vào Thành Đô, đạo thứ hai do Ku-tru (Kucu) con khác của Ô-gô-đây và tướng Tê-mu-tai (Tẳmmutai) chỉ huy đánh chiếm Tương Dương ở Hồ Bắc, một đạo do thân vương Kun Ba-kha (Kun
Buqa) và tướng Tra-gan (Éayan) tiến đến vùng Hán Khẩu ngày nay. Cuộc chiến tranh 40 năm xâm lược Nam Tông đã mở màn.
Vấn đề viễn chinh lưu vực sông Vôn-ga và vùng từ đó về phía Tây đã được bọn quý tộc Mông Cổ nêu ra từ Khu-rin-tai năm 1228 và trong Khu-rin-tai năm 1235 lại được nhắc đến. Mùa xuân năm 1236, một đạo quân mười lăm vạn ồ ạt kéo sang phía Tây. Cầm đầu đạo quân là thống soái Ba-tu (Batu) ( ), con trưởng của Jô-tri, cháu Trin-ghit Khan. Viên lão tướng Xu-bu-tai làm tiên phong. Ba-tu đã qua mùa đông 1236-1237 ỏ gần vùng Vôn-ga. Tháng 12 năm 1237, quân Mông Cổ tấn công công quốc Ri-a-dan. Đại công I-u-ri I-go rê-vích bị chết. Đầu năm 1238, quân Mông Cổ chiếm Mát
xcơ-va. Tháng 2 năm 1238, công quốc Vơ-la-đi-mia bị chiếm. Đại công I-u-ri Vơ-xê-lô-đô-vích bỏ chạy rồi bị giết. Một loạt 14 thị trấn như Rô-xtốp, I-a-rô-xláp, I-u-ri-ép và Đơ-mi-tơ-rốp,... bị tàn phá. Tháng 3 năm 1238, Ba-tu định tiến về Nốp-gô-rốt nhưng gặp sức phản kháng mãnh liệt của nhân dân Nga nên phải rút lui vể thảo nguyên. Năm 1239, Ba-tu bước vào giai đoạn thứ hai của cuộc chinh phục
đất Nga. Các thành Pê-rê-i-a-xláp và Tréc-ni-gốp lần lượt bị tàn phá. Năm 1240, quân Mông Cổ tấn công Ki-ép. Thân vương Mi-khai-in trốn sang Hung-ga-ri, viên quý tộc Đi-mi tơ-ri giữ thành. Ba-tu cho quân bao vây dày đặc quanh thành Ki-ép. Biên niên sử Nga chép: “Tiếng ầm ầm của vô số" chiếc xe Mông Cổ, tiếng bò rống, tiếng lạc đà kêu, tiếng ngựa hí và tiếng gào đánh của những người dã man làm thành một thứ huyên náo mà ngay trong thành cũng không thể nghe thấy được...” ( ). Nhân dân U-cơ-ren đã anh dũng chiến đâu nhưng cuối cùng, ngày 6 tháng 12 năm 1240 ( ), thành Ki-ép cổ kính đã bị chiếm và tàn phá. Quân đội và nhân dân bị giết vô số hàng nghìn người bị bắt làm nô lệ.
Từ Ư-cơ-ren, một cánh quân Mông Cổ do Bai-đa (Baidar) và Khai-đu (Qaidu) chỉ huy tiến vào Ba Lan. Mùa đông năm 1240-1241, quân Mông Cổ vượt qua sông Vi-xtun đóng băng, tấn công Xan-đô-mia (Sandomierz) và đốt cháy trụi Cơ-ra-cốp. Quân Mông Cổ không chiếm được Vơ-rô-xláp ( ) nhưng sau đó, tiến đến Xê-lê-di, đánh tan 3 vạn liên quân Ba Lan I Đức do công tước Xi-lê-di Hen-rich II chỉ huy ở Van-stát (Wahlstadt) gần Líc-nít (Liegnitz) ngày 9 tháng 4 năm 1241. Sau chiến thắng đó, cánh quân này tiến qua Mô
ra-vi để hợp với cánh quân của Ba-tu. Đại quân của Ba-tu đã từ ba đường tiến đánh Hung-ga-ri. Ngày 11 tháng 4 năm 1241, Xu-bu-tai đã thắng quân Hung và gần chỗ hợp lưu sông Xay-o (Sayo) và sông Tít-xa (Tisza). Thủ đô Pe-xtd (Pest) bị hạ, vua Hung là Bê-la chạy trốn ra bờ biển A-đơ-ri
a-tic. Tháng 7 năm 1241, kỵ binh Mông Cổ đến Nôi-stát (Neu-stadt) gần Viên. Tháng 12 năm 1241, Ba-tu vượt qua sông Đa-nuýp đóng băng, chiếm thành Gran, đô cũ của Hung-ga-ri. Nhân dân ở đây đã đốt hết nhà cửa, giết ngựa,
giấu vàng bạc, không để tài sản lọt vào tay giặc. Bọn xâm lược Mông Cổ phẫn nộ, đã đem nướng người trên lửa và chặt đầu phụ nữ trong thành. Đẩu năm 1242, đội tiên phong của quân Mông Cổ truy kích vua Hung đã đến quần đảo vùng Đan-ma-xi (bờ biển Nam Tư) gần thành Vơ-ni-dơ nước Ý. Cả châu Âu chấn động. Theo sử biên niên của Pháp thì mối lo sợ trước quân Mông Cổ đã làm đình trệ cả sự buôn bán. Các sử gia biên niên Anh cho chúng ta biết rằng bây giờ việc thông thương giữa đất Anh với lục địa bị gián đoạn. Ở Đức, xuất hiện bài kinh cầu nguyện “Chúa cứu vớt chúng con khỏi cơn thịnh nộ Ta-ta (tức Mông Cổ)”. Giáo hoàng La-mã Giơ-rê-goa (Grégoire) IX đã hiệu triệu tổ chức thập tự quân chống Mông Cổ. Trong thư gửi cho tín đồ Cơ đốc giáo, Giáo hoàng đã viết: “Nhiều việc khiến ta lo lắng như những việc đáng buồn ở đất Thánh, những mốì lo âu của giáo hội, tình hình đáng thương của đế quốc La-mã. Nhưng ta nguyện quên hết những lo âu đó mà chú tâm đến cái tai họa Ta-ta, sợ rằng hiện nay uy danh của đạo Cơ đốc sẽ bị bọn Ta-ta tiêu diệt mất. Nghĩ đến đó là ta xương nát tủy khô, thân gầy sức kiệt, đau xót vô cùng, khiến ta không biết làm gì đây”.
Nhưng sức chiến đấu của người Nga, người Ba Lan, người Tiệp và người Hung đã làm yếu lực lượng đội quân viễn chinh Mông Cổ. Quân Mông Cổ tiến lên trước, nhưng hậu phương phía sau không ổn định. Nông dân Hung-ga-ri đã nổi dậy dưới sự lãnh đạo của người nữ anh hùng Lan-ka xinh đẹp. Khi thất bại, Lan-ka đã tự sát, không để lọt vào tay giặc ( ). Pơ-lăng Các-panh (Plan Carpin) đã cho chúng ta biết nhiều người Mông Cổ chết ở Ba Lan và Hung ( ). Mùa xuân 1242, Ba-tu phải rút quân về phía Đông, qua Bun-ga-
ri và Nga, đến vùng Vôn-ga. Do cuộc viễn chinh của Ba-tu, đất phong (ulus) của Jô-tri mở rộng, lập thành nước hãn Kim Trướng (Lều Vàng). Nước Nga chịu ách thống trị của nước hãn này hơn 200 năm.
Năm 1241, Ô-gô-đây chết, Tra-ga-tai (Cayatai)( ) cũng chết năm đó. Tình hình đế quốc Mông Cổ trở nên phức tạp. Các gia tộc dòng Trin-ghit Khan mâu thuẫn với nhau. Do đó, ngôi hãn bỏ trống trong 5 năm, vợ Ô-gô-đây là Tô-rê-ghê
nê (Tõrãgãnă) nhiếp chính. Mãi đến Khu-rin-tai năm 1246, con Ô-gô-đây là Gu-y-uc (Güyük) ( ) mới được cử làm hãn. Nhưng Ba-tu, con Jô-tri, ra mặt chống lại Gu-y-uc, không thừa nhận y là đại hãn và không chịu tuyên thệ. Gu-y-uc đem quân đánh Ba-tu nhưng chưa ra khỏi biên giới thì chết giữa đường năm 1248.
Gia tộc Jô-tri liên kết với gia tộc Tô-lui chống lại gia tộc Ô gô-đây và Tra-ga-tai. Trong Khu-rin-tai 1251, do áp lực của bọn con cháu Jô-tri và Tô-lui, con Tô-lui là Mông Ke (Mongkâ) được cử làm đại hãn.
Sau khi lên ngôi hãn, Mông-ke tiến hành việc trấn áp những kẻ thù của y. Mông-ke đã cử những đạo quán đặc biệt đánh phá lãnh địa Ô-gô-đây và Tra-ga-tai, do đó, hai vương thất này mất hết ảnh hưởng cũ, ulus không còn rộng lớn như trước nữa. Trên thực tế, đế quốc Mông Cổ trong những năm đó chia làm hai: lãnh địa của Mông Ke và lãnh địa của Ba-tu (hãn Kim Trướng).
Trong thời kỳ thống trị của hãn Mông-ke, nhân dân ở Bắc Trung Quốc, đông Tuốc-ke-xtan, Trung Á, I-răng, Nam Cáp ca-dơ và châu Âu bị bóc lột nặng nề. Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra. Mông-ke phải ra sức củng cố chính quyền trung ương
và khống chế các vùng đã chinh phục. Chính quyền Mông Cổ đã dựa vào bọn đại địa chủ và tăng lữ cao cấp ở các nước bị chinh phục. Hãn Mông Cổ cũng rất chú ý đến bọn lái buôn giàu có. Bọn xâm lược chọn trong bọn chúa phong kiến và thương nhân Hồi giáo các quan lại cai trị các đất bị chinh phục.
Mông-ke vẫn tiếp tục các cuộc viễn chinh xâm lược. Năm 1253, Mông Ke đã cử em là Hu-lê-gu (Hulagu) ( ) hoàn thành việc chinh phục Ba Tư.
Đất Ba Tư đã bị các tướng Mông Cổ là Troóc-ma-gan (Cormayan), Bai-ju (Baiju) En ji-ghi-dai (Eljigidai) xâm lược nhiều lần từ năm 1231 Bấy giờ, I-xma-in (Isma’ìl) là đất độc lập cuối cùng của nước I-răng. Ngày 2 tháng 1 năm 1256, Hu-lê-gu vượt sông A-mu Đa-ri-a. Chúa I-xma-in là Rốc-nut-Đin Cua-sa (Rokn ud-Dĩn Kursah) đầu hàng ngày 19 tháng 11 năm 1256. Sau khi tiêu diệt I-xma-in, Hu-lê-gu cho quân tấn công Ba-gơ-đát (Bagdad) và lãnh thổ của Kha-líp (Khalife vua Hồi giáo) An Mu-xta-xim (alMusta’sim). Mu-xta-xim và cận thần đều hèn nhát, Hu-lê-gu đã dễ dàng chiếm được Ba-gơ-đát. Ngày 15 tháng 2 năm 1258, quân Mông Cổ tiến vào đô thành nổi tiếng đó, cướp phá của cải, thiêu huỷ cung điện và tàn sát cư dân. Hu-lê-gu đã bỏ Mu xta-xim vào một cái túi rồi cho ngựa xéo chết.
Sau khi chiếm Ba-gơ-đát, Hu-lê-gu tiến quân chiếm vùng Lưỡng Hà, xâm nhập Xi-ri. Nhưng đên năm 1259, thủ lĩnh quân Ma-mơ-luc (Mameluk) Ai Cập là Khu-tu-dơ (Qutuz) đánh bại quân Mông Cổ, bắt sống tướng Kit Bu-kha (Kit
Buqa) đuổi quân xâm lược khỏi đất Xi-ri, chặn được thế tiến công của Hu-lê-gu. Hu-lê-gu trở về Ba Tư, thiết lập một
nước hãn mới và sáp nhập các vùng A-dec-bai-jan, Ác-mê ni, Gơ-ru-di-a vào bản đồ của quốc gia mới. Vào những năm 60 của thế kỷ XIII, nước hãn Ba Tư cũng như nước hãn Kim Trướng thực tế đã thoát ly chính quyền trung ương của đại hãn Mông Cổ.
Về phía Đông, Mông-ke cùng với em là Hốt Tất Liệt (Qubilai, Khu-bi-lai) ( ) tiếp tục cuộc chiến tranh chinh phục miền Nam Trung Quốc. Đến năm 1279, Trung Quốc hoàn toàn bị Mông Cổ xâm chiếm. Trong và sau khi chinh phục miền Nam Trung Quốc, đế quốc Mông Cổ đã gây chiến tranh xâm lược Việt Nam, đồng thời âm mưu phát triển thế lực ra các nước khác ở Đồng và Đông Nam Á.
Như vậy là trong vòng nửa thế kỷ, bọn phong kiến Mông Cổ đã kéo thế giới vào một cuộc chiến tranh khủng khiếp. Một đế quốc rộng mênh mông được thành lập từ bờ Hắc Hải đến Thái Bình Dương.
Cuộc chiến tranh xâm lược nổ ra giữa lúc chế độ công xã nguyên thủy tan rã, chế độ phong kiến hình thành. Bọn thống trị phong kiến Mông Cổ lợi dụng thể chất cường tráng, tinh thần chiến đấu, tài năng cưỡi ngựa bắn cung của nhân dân Mông Cổ và tổ chức quân sự đặc biệt của xã hội du mục, đã tổ chức một quân đội hùng mạnh, tiến hành các cuộc viễn chinh xâm lược. Theo Ju-vây-ni (Jweyni) nhà sử học thế kỷ XIII ( ) thì tất cả dân du mục trong thời bình đều phải làm nghĩa vụ cho hãn và quý tộc Nô-y-an, trong thời chiến, người đến tuổi chịu binh dịch đều phải vào quân đội. Ngoài ra các hãn đểu có đội quân hộ vệ (kaisk) rất đông. Qua những cuộc chiến tranh xâm lược, bọn phong kiến
Mông Cổ còn lợi dụng nhân lực và binh lính của nước bị chinh phục để mở rộng đội ngũ của mình.
Lịch sử bí mật Mông Cổ và Ra-sit ut-Đin cho biết rằng kỷ luật quân đội Mông Cổ rất chặt chẽ, ai vi phạm quân kỷ bị trừng phạt rất nặng.
Quân đội Mông Cổ rất thiện chiến. Thêm vào đó, thiên tài quân sự của Trin-ghit Khan (Thành Cát Tư Hãn) đã sáng tạo những chiến lược, chiến thuật thích hợp với điều kiện bản thân và hoàn cảnh khách quan. Những người kế thừa cũng tiếp thu được những chiến lược, chiến thuật đó. Quân Mông Cổ đặc biệt biết lợi dụng điểu kiện hành động nhanh chóng mẫn tiệp của kỵ đội. Bành Đại Nhã đời Tông, tác giả Hắc Thát sự lược, đã chép: “Về đánh trận, họ lợi ở dã chiến, không thấy lợi, không tiến quân... Trăm quân kỵ quay vòng, có thể bọc được vạn người, nghìn quân kỵ tản ra, có thể dài đến trăm dặm... địch phân tất phân, địch hợp tất hợp, cho nên kỵ đội là ưu thế của họ, hoặc xa hoặc gần, hoặc nhiều hoặc ít, hoặc tụ hoặc tán, hoặc hiện hoặc ẩn, đến như rơi trên trời xuống, đi như chớp giật...” ( ).
Bành Đại Nhã còn chép rất rõ cách tấn công bằng kỵ đội của quân Mông Cổ: “Phép phá địch của họ, trước hết là lên chỗ cao nhìn ra xa, xem địa thế, xét địch tình. Vì chuyên thừa cơ địch rối loạn nên lúc bắt đầu giao phong, thường dùng kỵ đội xông thẳng vào trận địch, mới xông vào mà địch đã núng thì không kể đông hay ít, ồ ạt tiến lên, địch tuy chục vạn, cũng không thể đương được. Nếu địch không núng, thì đội phía trước tản ngang ra, đội tiếp theo xông lên, nếu không vào được thì đội sau nữa lại tiến lên như vậy. Nếu trận địch vững chắc, trăm kế không xông vào
được, thì họ xua bò, quất ngựa cho súc vật đâm vào trận địch, ít khi mà địch không bại. Nếu địch chĩa giáo tủa ra chống, không để ngựa xông vào, thì họ cho quân kỵ bọc xung quanh, thỉnh thoảng bắn một mũi tên, khiến cho địch phải vất vả. Cầm cự ít lâu, địch tất không có ăn hay thiếu củi nước, không thể không nao núng, bấy giờ họ mới tiến quân uy hiếp, hoặc là trận địch đã núng nhưng họ không đánh ngay, đợi địch mệt mỏi rồi mới xông vào. Nếu quân của họ ít thì trước hết lấy đất rải ra, sau đó lấy cây kéo, khiến cho bụi bay mù trời, địch nghi là quân đông, thường tự tan vỡ, nếu không tan vỡ thì khi xông vào, tất thế nào cũng phá được. Có khi họ xua hàng binh lên trước, cố để cho thua, đợi lúc địch kiệt sức, mới đem quân tinh nhuệ ra đánh. Có khi vừa giao chiến, đã giả thua chạy, vờ bỏ xe cộ, vứt vàng bạc, địch cho là bại thật, đuổi mãi không thôi, gặp phải quân kỵ phục kích của họ, thưòng là bị tiêu diệt hết.... Họ mà thắng thì đuổi theo địch chém giết, không để trốn thoát, họ mà thua thì chạy rất nhanh, đuổi theo không kịp ( ). Do điều kiện tiến nhanh của kỵ đội, quân Mông Cổ thường quen đánh những trận vu hồi lớn. Khi đánh vào một vùng nào hay một địa điểm nào, họ thưòng tấn công bằng nhiều gọng kìm từ các phía lại. Họ thường tránh thực đánh hư, dụ địch ra khỏi căn cứ mà tiêu diệt.
Với đội quân thiện chiến đó, Trin-ghit Khan và những người thừa kế đã tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược thế giới. Về sau, khi học được cách chế tạo các vũ khí đánh thành của ngưòi Trung Quốc và người Tây Á, quân đội Mông Cổ lại càng hùng mạnh. Nhưng đội quân hùng mạnh đó, một lần tấn công vào Chiêm Thành, ba lần tấn công vào Đại
Việt, đều bị thất bại nhục nhã. Nhân dân Việt Nam thế kỷ XIII đã ghi vào lịch sử dân tộc những trang sáng chói./.
CHƯƠNG 3: CUỘC KHÁNG CHIẾN LẦN THỨ NHẤT
"... Người lính già đầu bạc
Kể mãi chuyện Nguyên Phong”
Trần Nhân Tông
Năm 1251, đại hội quý tộc (Quriltai) trên bờ sông Ô-nôn - (Onon) đã đưa Mông Ke (Mongka) lên ngôi hãn. Tên chúa Mông Cổ mới vẫn nuôi mộng chinh phục thế giói. Năm 1253, Mông Ke ra lệnh cho em y là Hu-lê-gu (Hulagu) tiến hành xâm lược Ba Tư và Tây Á. “Hãy thiết lập tập quán, phong tục và pháp luật của Trin-ghit Khan (Cinggis-qan) từ bờ sông A-mu Đa-ri-a đến cuối xứ Ai Cập... Kẻ nào không khuất phục thì hãy làm cho hắn nhục nhã”. Đó là lệnh của hãn Mông Cổ ( ).
Về phía đông, Mông Ke chuẩn bị tấn công xâm lược quốc gia Nam Tống. Đồn điền và thành lũy của quân đội Mông Cổ mọc lên trên một tuyến dài từ sông Hán đến sông Hoài. Đe uy hiếp mặt tây nam của Nam Tống, từ năm
1252, Hốt Tất Liệt (Qubilai, Khu-bi-lai), em của Mông-ke, được lệnh đánh chiếm vùng Vân Nam Trung Quốc. Năm 1253, Hốt Tất Liệt và tướng U-ry-ang-kha-đai (Uriyarigqađai) ( ) vượt sông Kim Sa, đánh chiếm thủ đô nước Đại Lý. Vua Đại Lý là Đoàn Hưng Trí bỏ trốn. Năm 1254, Hốt-tất-liệt trơ về Bắc, U-ry-ang-kha-đai ở lại tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược. Đoàn Hưng Trí bị băt ở Thiện Xiển ( ) và đầu hàng quân Mông Cổ. Các dân tộc thiểu số ở Vân Nam lần lượt bị chinh phục ( ). Đến năm 1256, toàn bộ
vùng Vân Nam bị chia thành phủ huyện, nằm dưới ách thống trị của Mông Cổ. Nước Đại Lý mất.
Năm 1257, chúa Mông cổ là Mông Ke tế cờ trên bờ sông Kê ru-len (Kärulän) rồi xuất quân đánh Tống ( ). Theo kế hoạch của Mông Ke, quân Mông Cổ sẽ tấn công vào đất Tống từ bốn mặt. Mông Ke thân dẫn đại quân tiến vào theo con đường Tứ Xuyên. Một cánh quân dưới quyền chỉ huy của Hốt Tất Liệt vượt Trường Giang đánh chiếm châu Ngạc (Vũ Xương, Hồ Bắc). Một cánh quân khác do Tô-ga-tra (ToyaCar)( ) chỉ huy, tấn công mạn hạ lưu Trường Giang, vào vùng Kinh Sơn. Cánh quân của U-ry-ang-kha-đai được lệnh từ Đại Lý đánh thẳng xuống Đại Việt, rồi từ đó, đánh vào châu Ưng (Nam Ninh, Quảng Tây), châu Quế (Quế Lâm, Quảng Tây), tiến lên gặp các cánh quân kia ở châu Ngạc ( ). Cánh quân này sẽ trở thành mũi dao đâm vào sau lưng Trung Quốc.
Như vậy, việc tiến quân xâm lược Đại Việt là nằm trong kế hoạch thâm độc trên của tên chúa Mông Cổ. Chúng ta không biết được chính xác số quân của U-ry-ang-kha-đai khi tiến vào Đại Việt. Nhà sử học Ba Tư Ra-sit ut-Đin (Rasĩd ud-Dĩn) cho biết rằng U-ry-ang-kha-đai đã đem ba vạn quân xuống Vân Nam nhưng trước khi tiến lên châu Ngạc gặp Hốt Tất Liệt thì quân số còn lại không quá năm nghìn tên. Ngoài số quân Mông Cổ, tên vua Đại Lý đã đầu hàng là Đoàn Hưng Trí cùng với chú y là Tín Thư Phúc còn đẹp hai vạn quân người Thoán Bặc (người Di ở Vân Nam) làm quân tiên phong cho U-ry-ang-kha-đai, tiến vào Đại Việt.
Như vậy, đội quân của U-ry-ang-kha-đai, gồm cả quân Thoán và kỵ binh Mông Cổ, phải trên hai vạn rưởi người.
Trước khi tiến quân vào biên giới Đại Việt, U-ry-ang-kha-đai đã nhiều lần sai sứ dụ hàng Trần Thái Tông ( ). Nhưng biện pháp ngoại giao của y đã hoàn toàn thất bại. Triều đình Trần cũng như toàn dân Đại Việt không mảy may run sợ trước uy lực của Mông Cổ. Khi được tin Mông Cổ sắp tấn công xâm lược, triều đình lập tức chuẩn bị khẩn trương để chống giặc. Tháng 8 năm Đinh Tỵ (10-9 -8-10-1257), trại chủ Quy Hóa ( ) là Hà Khuất báo tin sứ Mông Cổ đến. Tháng 9 (9-10 - 7- 11-1257), Thái Tông đã xuống chiêu cho Trần Quốc Tuấn chỉ huy các tướng đem quân thủy bộ lên phòng ngự ở biên giới. Đến tháng 11 (8-12-1257 đến 5-1-1258), triều đình lại xúc tiến việc chuẩn bị kháng chiến thêm một bước nữa. cả nước được lệnh sắm sửa vũ khí ( ). Vua Trần và tôn thất, đại thần vốn thường say mê luyện tập vũ nghệ, lúc này đã sẵn sàng chờ ngày xuất trận. Để tỏ rõ ý chí kiên quyết của mình, vua Trần không một chút kiêng sợ, đã ra lệnh tống giam tất cả những tên sứ Mông Cổ.
U-ry-ang-kha-đai tiến quân đóng ở A-mân ( ) phía bắc biên giới Đại Việt, chờ mãi không thấy sứ trỏ về, liền quyết định xâm lược bằng quân sự. Y sai Trê-trếch-đu (Cacakdu) ( ) và một viên tướng khác mỗi tên đem một nghìn quân, chia làm hai đường dọc theo sông Thao tiến xuống ( ). Viên tướng trẻ A-ju (Aju) con của U-ry-ang-kha-đai, được phái đi tiếp viện cho các đạo quân đi trước. Đồng thời, A-ju còn có nhiệm vụ dò xét tình hình phòng ngự của quân ta.
Thấy quân ta rất đông, đã dàn ra sẵn sàng, A-ju vội sai người về báo. Được tin U-ry-ang-kha-đai liền tiến binh xuống gấp rút. Tháng chạp năm Đinh Tỵ, hai đạo quân Mông Cổ gặp nhau ( ). Ngày 12 tháng chạp (17-1-1258), U
ry-ang-kha-đai kéo quân đến Bình Lệ Nguyên.
Trần Thái Tông liền ra trận trực tiếp chỉ huy chiến đấu ( ). Vua cho bày trận ở bên này sông đợi giặc. Quân lính, voi ngựa dàn ra san sát. Bên kia sông, U-ry-ang-kha-đai cũng tìm cách cho quân vượt sông sang giao chiến. Y chia quân ra làm ba đội, cho Trê-trếch-đu làm tiên phong qua sông trước, y dẫn đại quân, đi tiếp theo, còn phò mã Khai-đu (Qaidu) ( ) và A-ju thì chỉ huy hậu quân, U-ry-ang-kha-đai vạch kế hoạch tấn công cho Trê-trếch-đu như sau: “Quân ngươi khi đã qua sông, đừng đánh chúng vội, chúng tất đến chống lại ta. Phò mã (chỉ Khai-đu -T.G.) theo sau cắt hậu quân của chúng, ngươi rình cướp lấy thuyền. Quân Việt nếu tan vỡ chạy ra sông không có thuyền tất bị ta bắt”.
Trê-trếch-đu theo hạ lưu sông sang trước. Vừa lên đến bờ, y liền cho quân xông ngay vào đánh. Nhưng, quân Mông Cổ đã gặp sức chiến đấu mãnh liệt của quân ta. Vua Trần Thái Tông dấn thân vào giữa làn mưa đạn xông lên phía trước, tự mình đốc thúc tướng sĩ đánh giặc. Quân Mông Cổ tấn công ào ạt. Quân ta vẫn dũng cảm không chịu rời bỏ kẻ thù. Tướng Lê Tần gan dạ hiên ngang cưỡi ngựa ra vào trận giặc, sắc mặt bình tĩnh, không một nét bối rối lo sợ. Nhưng rồi trận địa của ta bị lấn dần. A-ju đã dùng những tên lính thiện xạ Mông cổ bắn vào voi của quân ta làm voi hoảng sợ, lồng trở lại. Bấy giờ, có người khuyên vua Trần đứng ở nhà trạm để chỉ huy và quan sát trận đánh. Nhưng trước mũi nhọn tấn công rất mạnh của giặc, Lê Tần - viên dũng tướng kiêm mưu sĩ tài ba, biết rằng quân ta chưa thể đương nổi ngay với chúng trong điều kiện này nên đã cố sức khuyên vua Trần hãy tạm rút lui. Quân ta rút về đến sách Cụ Bản thì quân cứu viện của tướng Phạm Cụ Chích vừa đến. Sau một trận giáp chiến, Phạm Cụ Chích hy sinh, nhưng vua Trần đã
rút lui an toàn. Quân Mông Cổ vẫn không cướp được thuyền của ta. Vua Trần đến bến Lãnh Mỹ thì xuống thuyền. Quân Mông Cổ đuổi theo tới nơi, đứng trên bờ bắn loạn xạ. Lê Tần đã lấy ván thuyền che cho vua khỏi trúng tên của giặc ( ). Thuyền quân ta xuôi về Phù Lỗ. Như vậy là âm mưu cướp thuyền, bắt sống vua tôi nhà Trần của U-ry-ang-kha-đai đã hoàn toàn thất bại. Y nổi giận, đòi trừng trị tên tướng tiên phong. Trê-trếch-đu hoảng sợ, uống thuốc độc tự tử ( ).
Hôm sau, ngày 13 tháng chạp (18-1-1258), vua Trần cho phá cầu Phù Lỗ, bày trận ở bên sông ( ). Quân U-ry-ang kha-đai kéo đến bờ bên kia, muốn sang sông nhưng không có thuyền và không biết rõ nông sâu thế nào. Bọn lính Mông Cổ đi dọc theo bờ sông, bắn tên xuống nước, hễ thấy chỗ nào tên không nổi lên thì biết đấy là chỗ nông ( ). Kỵ binh của địch theo những chỗ đó lội qua sông.
Khi đàn ngựa Mông Cổ đã nhảy lên bờ, kỵ binh địch chia thành các cánh tấn công vào trận địa ta. Tôn thất nhà Trần là Phú Lương hầu tử trận ( ). Sau trận đánh cản địch ở Phù Lỗ, quân ta tiếp tục rút lui về hướng Thăng Long.Quân Mông Cổ vẫn đuổi theo quân ta cho đến Đồng Bộ Đầu (tức bến Đông) trên sông Hồng, phía đông thành Thăng Long ( ).
Trước thế giặc mạnh đang tấn công ồ ạt, để bảo toàn lực lượng, triều đình đã quyết định rút khỏi kinh đô Thăng Long. Quân ta theo sông Hồng về đóng giữ ở sông Thiên Mạc ( ). Linh từ Quốc mẫu - vợ Trần Thủ Độ, đứng ra quán xuyến việc lánh nạn cho các cung tần mỹ nữ cùng vợ con các tướng ở vùng sông Hoàng Giang ( ).
Thăng Long bỏ trống. Trước bốn cửa thành, không còn bóng quân Tứ Sương ( ). Khi quân Mông Cổ kéo vào kinh thành,
lực lượng cùa ta đã rút hết. Bọn giặc tìm thấy trong ngục những tên sứ mà U-ry-ang-kha-đai đã sai vào Đại Việt trước kia. Chúng đều bị trói chặt bằng thừng tre lằn sâu vào thịt. Khi cỏi trói ra, một tên đã chết. Bọn xâm lược Mông cổ điên cuồng, tàn phá Thăng Long để trả thù.
Giặc chiếm cứ kinh đô, đại quân phải rút lui, tình hình đó không khỏi làm cho một số ít người hoang mang dao động. Thái úy Trần Nhật Hiệu, khi vua đến hỏi kế đánh giặc, đã hoảng sợ đến nỗi chỉ ngồi trên thuyền lấy tay chấm nước viết hai chữ “nhập Tống” (chạy vào đất Tống) lên mạn thuyền. Y cũng không còn biết cánh quân Tinh Cương mà y chỉ huy ở đâu. Nhưng trong toàn quân, toàn dân và trong triều đình, ý chí kiên quyết kháng chiến đến cùng vẫn chiếm ưu thế. Đại thần, tôn thất, tướng tá vẫn quây quần quanh vua, cùng vua mưu tính kế hoạch phản công địch. Lê Tần, tức Lê Phụ Trần, vẫn kín đáo ra vào dưới trướng bàn việc cơ mật. Thái sư Trần Thủ Độ, người tướng già mưu lược, người đã xây dựng tổ chức vương triều Trần, lúc này càng tỏ rõ vai trò của mình. Khi Trần Thái Tông hỏi ý kiến, Thủ Độ đã trả lời “Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo”. Lời nói mà sử sách còn lưu truyền mãi mãi đó đã củng cố" thêm tinh thần của vua Trần và quần thần. Lời nói kiên quyết đó, lòng tin tưởng sắt đá đó đồng thời cũng thể hiện ý chí của toàn dân.
Triều đình lại tích cực củng cố lực lượng quân ngũ. Tướng tá, quân sĩ và cả hậu phương đều rộn rịp chuẩn bị phản công. Linh từ quốc mẫu đã đi thu thập tất cả những quân khí cất ở trong thuyền của các gia đình đi lánh nạn để gửi ra cho quân đội. Sau một thời gian rất ngắn khẩn trương chuẩn bị, lực lượng đã hồi phục khí thế chiến đấu lại bừng lên. Trong
khi đó quân Mông Cổ đã bắt đầu khổ sở và lúng túng vi thiếu lương thực trong một tòa thành trống. Kẻ địch đã cố gắng tiến hành những cuộc cướp phá rộng ra vùng xung quanh Thăng Long nhưng ở đâu chúng cũng gặp sức chống trả mãnh liệt của nhân dân. Chẳng hạn như khi quân Mông Cổ tiến đến Cổ Sở (nay là xã Yên Sở, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây) nhân dân ở đây đã đoàn kết chiến đấu, bảo vệ xóm làng, đánh cho bọn chúng một trận tơi bời, đầu giặc rơi rụng, ngựa giặc ngã què, khiến lũ cướp nước phải tan tác bỏ chạy ( ).
Điều kiện chủ quan và khách quan đó đã tạo nên một thời cơ rất tốt cho cuộc phản công. Ngày 24 tháng chạp năm Nguyên Phong thứ 7 (29-1-1258), Trần Thái Tông đã cùng thái tử Hoảng chỉ huy lâu thuyền ngược dòng Thiên Mạc, phá tan giặc ở Đông Bộ Đầu, chiếm lại kinh thành ( ). Bị đánh bật khỏi Thăng Long, quân Mông Cổ quay đầu chạy dài về Vân Nam. Đang lúc chỉ mong thoát thân thì quân Mông Cổ lại bị dân tộc vùng núi ở trại Quy Hóa theo lời kêu gọi của trại chủ Hà Bổng đổ ra tập kích. Trận đánh bất ngờ này làm cho chúng thất bại rất nặng ( ). Bây giờ khác với thái độ nghênh ngang hung hãn khi tiến sang, bọn xâm lược Mông Cổ bị tan tác, len lén tìm đường trốn cho nhanh. Chúng không còn dám nghĩ đến chuyện cướp bóc đốt phá. Để chê giễu thái độ đó của chúng, người bấy giờ đã gọi chúng bằng cái-tên khá mỉa mai là “giặc Phật” ( ). U-ry ang-kha-đai đem quân chạy ra khỏi biên giới, về Vân Nam, đóng ở thành Áp-xich ( ).
Viên tướng bách chiến bách thắng, con trai của Xu-bu-tai - Dũng sĩ (Subutai - ba’atur) đã thất bại thảm hại như thế đấy. U-ry-ang-kha-đai đã từng theo Gu-y-uc (Guyuk) đánh
Nữ Chân miền Liêu Đông đã tấn công vào Ba Lan và Đức dưới cờ tây chinh của Ba-tu (Ba-tu) ( ). Y cũng đã từng nhận lệnh cùng với Hu-lê-gu, tiến sang phía tây, đánh vào vương quốc Ba-gơ-đát (Bagdad) ( ). Có lẽ trong đời chinh chiến của mình U-ry-ang-kha-đai chữa bao giờ bị thua nhục nhã như lần này. Kinh thế đại điển tự lục và Nguyên sử đã cố gắng che đậy sự thất bại của quân Mông Cổ, đổ lỗi cho cái khí hậu uất nhiệt của phương Nam ( ). Nhưng vì sao một đội quân khoảng ba vạn tên, dưới quyền chỉ huy của những viên tướng lão luyện ( ) như vậy lại có thế rút khỏi kinh đô Đại Việt trong một thời gian rất ngắn? Phải chăng đúng như ý kiến của nhà sử học tác giả Đại Việt sử ký toàn thư cho rằng "Lúc đó, người Nguyên mới lấy Vân Nam, du binh xâm lược đến, không có ý đánh lấy nước ta? Hoàn toàn không phải như vậy! Nguyên sử đã cho chúng ta biết rõ âm mưu chiếm cứ nước ta của bọn xâm lược Mông Cổ: U-ry-ang kha-đai vào Giao Chỉ định kế ở lâu dài”. Nhưng mưu đồ đó đã không thực hiện được. Quân dân Đại Việt đã giáng cho bọn xâm lược một đòn chí mạng. Có thể nói chắc chắn rằng chiến công mùa đông năm Nguyên Phong thứ bảy (1258) này là do quân đội ta anh dũng, nhân dân ta miền xuôi miền ngược đồng lòng.
Chiến công rực rỡ này cũng do ý chí kiên quyết của giai cấp phong kiến mà lúc này quyền lợi còn đang gắn liền với vận mệnh của nhân dân cả nước. Quân dân ta, dưới sự lãnh đạo của vương triều Trần, chẳng những đã phá tan mưu đồ chiếm đóng Đại Việt của Mông Cổ mà còn bẻ gãy gọng kìm của chúng tấn công vào mặt Nam của Nam Tống. U-ry-ang
kha-đai không còn mong từ Đại Việt tiến quân vào Ung, Quế nữa mà phải chạy trở về Vân Nam. Khi được lệnh của hãn
Mông Kesai tiến quân vào đất Tống để hội quân với Hốt Tất Liệt ở châu Ngạc, y đã phải dẫn quân từ Vân Nam vào châu Ung theo con đường trại Hoàng Sơn (phía đông huyện Ung Ninh, tỉnh Quảng Tây) ( ). Con đường này hoàn toàn bất lợi đối vớị cuộc hành quân của U-ry-ang-kha-đai. Nhưng y không thể nào làm khác được. Chiến thắng của nhân dân Đại Việt đã khiến cho âm mưu dùng Đại Việt làm căn cứ để tấn công Nam Tống của bọn xâm lược Mông Cổ hoàn toàn thất bại. Từ đấy cho đến khi đất nước Trung Quốc hoàn toàn rơi vào tay bọn ngoại tộc Mông Cổ, âm mưu đó không bao giờ được thực hiện.
Theo Ra-sit ut-Đin, đạo quân ba vạn kỵ binh Mông Cổ của U-ry-ang-kha-đai kéo xuống Vân Nam, trước khi tiến lên châu Ngạc, còn lại không quá năm nghìn tên. ở đây, chúng ta phải nói đến sự quật khởi của các dân tộc thiểu số vùng Vân Nam và sức chiến đấu ngoan cường của nhân dân Nam Tống. Nhưng rõ ràng là cuộc chiến đấu và chiến thắng của nhân dân Đại Việt năm 1258 đã góp một phần vô cùng to lớn trong việc tiêu hao sinh lực cánh quân này.
Sau khi đuổi kẻ thù ra khỏi kinh thành, quân Trần tiến vào Thăng Long. Ngày mồng một tháng giêng năm Mậu Ngọ (5- 2-1258), trong buổi triều đầu tiên của một năm mới, Trần Thái Tông đã phong thưởng cho các tướng có công. Lê Tần tức Phụ Trần, viên dũng tướng ở trận Bình Lệ Nguyên được phong chức ngự sử đại phu, tước Bảo Văn hầu. Nhà vua đã nói với ông: “Trẫm không có khanh há lại có ngày nay!”. Người anh hùng dân tộc miền núi ở trại Quy Hoá là Hà Bổng cũng được phong tước hầu. Trần Khánh Dư được khen thưởng vì đã có công thừa cơ tập kích giặc.
Công lao của những người chiến thắng không phải chỉ được ghi một lần vào ngày đầu xuân năm đó. Trần Nhân Tông, ông vua anh hùng của cuộc kháng chiến chống xâm lược Mông Cổ năm 1285 và năm 1288, trong một bài thơ của mình, đã có câu:
“Bạch đầu quân sĩ tại,
Vãng vãng thuyết Nguyên Phong”.
(Còn có những ngưòi lính bạc đầu,
Luôn luôn kể lại chuyện đời Nguyên Phong)
Cuộc chiến đấu và chiến thắng năm Nguyên Phong thứ 7 không phải chỉ là một niềm tự hào của quân dân đời Trần mà mãi mãi được ghi trên những trang sử sáng chói của dân tộc Việt Nam anh hùng.
CHƯƠNG 4: THỜI KÝ ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO 1258-1284
"... Sứ giặc đi lại ngoài đường...
thác mệnh Hốt Tất Liệt
mà đòi ngọc lụa...” (Hịch tướng sĩ)
Trần Quốc Tuấn
Thăng Long giải phóng. Những ngày thanh bình trở lại trên đất nước. Dân nghèo và nô tỳ theo vương hầu đi khai hoang. Những người thợ nề xây chùa Phổ Minh. Nhà sử học Lê Văn Hưu cặm cụi hoàn thành bộ sử của mình và Hàn Thuyên làm thơ nôm đuổi cá sấu ở sông Hồng.
Nhưng không phải chỉ như vậy, từ 1258-1284 còn là thời kỳ những sứ bộ Mông Cổ phóng ngựa vào cửa kinh thành và những đoàn thuyền chiến tiến lên tập trận ở sông Bạch Hạc. Đó là thời kỳ của một cuộc đấu tranh ngoại giao quyết liệt giữa vương triều Trần và bọn phong kiến Mông Cổ, thời kỳ của căm hờn, nhẫn nhục và kiên quyết.
Nước Việt nhỏ bé ỏ phương Nam này dám đương đầu với đế quốc Mông Cổ hùng mạnh đang chiến thắng khắp nơi trên thế giới, không phải không gặp nhiều khó khăn. Vì thế, vương triều Trần phải áp dụng một chính sách ngoại giao hết sức khôn khéo trong những ngày hòa bình này. Đó là đường lối ngoại giao vừa mềm dẻo vừa cương quyết. Phải mềm dẻo có thể có nhân nhượng với kẻ thù, để tránh được binh đao khi còn có thể tránh và có thì giờ chuẩn bị lực lượng, nhưng phải cương quyết, giữ vững nguyên tắc không để mất chủ quyền và tổn hại quốc thể. Dựa vào thực lực
của quốc gia, của toàn dân, nhà Trần đã đối phó với bọn phong kiến Mông Cổ một cách linh hoạt. Cuộc bang giao Việt - Mông trong hơn hai mươi lăm năm trời quả là một cuộc đấu tranh vô cùng gay go phức tạp.
Năm 1258, ngay khi vừa bị đuổi chạy dài về đến Vân Nam, U-ry-ang-kha-đai đã sai ngay hai sứ sang dụ vua Thái Tông vào chầu. Căm phẫn vì thấy kinh đô Thăng Long bị tàn phá, Thái Tông với khí thế của người chiến thắng, đã sai trói hai sứ lại, đuổi về ( ). Đồng thời, vua Trần vẫn cho sứ sang Nam Tống cống voi và nói ý định truyền ngôi cho con ( ). Ngày 30 tháng 3 năm 1258 (24 tháng hai năm Mậu Ngọ), Thái tử Hoảng lên ngôi tức Trần Thánh Tông ( ). Lúc này, một phần vì sứ Mông Cổ nhiều lần sách nhiễu, một phần vì nhà Trần đã suy xét về thực lực của Mông Cổ và của Tống nên đã quyết định đặt quan hệ với Mông Cổ. Lê Phụ Trần - ngưòi tướng tài dũng cảm ở trận Bình Lệ Nguyên, lần này lại là một nhà ngoại giao. Ông cầm đầu sứ bộ, Chu Bác Lâm làm phó, tiến vào đất địch. Từ Vân Nam, U-ry-ang-kha-đai đã dẫn họ đến gặp chúa Mông Cổ là Mông-ke bấy giờ ở vùng Thiểm Tây, đang tiến quân đánh Nam Tống. Sứ bộ này đã đi đến thoả thuận là định lệ ba năm cống một lần ( ).
Chúa Mông Cổ liền sai Nu-rut-Đin (Nur-ud-Dĩn) ( ), một tín đồ Hồi giáo, đưa thư sang Đại Việt. Nội dung bức thư như sau: “Trước ta sai sứ thông hiếu, các ngươi giữ lại không cho về, vì thế mới có việc xuất quân năm ngoái, làm cho chúa nước ngươi phải chạy ra nơi thảo dã. Ta lại sai hai sứ đến chiêu an, các ngươi lại trói đuổi sứ của ta. Nay đặc sai sứ sang dụ rõ ràng: nếu các ngươi thật lòng nội phụ thì quốc chủ phải thân đến, nhược bằng còn không sửa lỗi thì nói rõ cho ta biết”. Trước những lời đe dọa đó, Trần Thái
Tông vẫn không sang chầu, chỉ trả lời một cách khôn khéo: “Nước nhỏ thành tâm thờ bề trên thì nước lớn đối đãi lại như thế nào?” ( ).
Nu-rut-đin trở về Vân Nam, U-ry-ang-kha-đai liền nói lại với tên thân vương Mông Cổ trấn giữ Vân Nam bây giờ là Bu kha (Buqa) ( ). Thấy Thái Tông không chịu vào chầu, Bu kha lại sai Nu-rut-Đin sang Đại Việt lần nữa. Vua Trần đã
lựa lời lảng tránh: “Đợi đức âm ban xuống sẽ lập tức sai con em sang làm con tin”. Bu-kha sai Nu-rut-đin trở về tâu với hãn Mông-ke ( ).
Bấy giờ Mông-ke đang tiến quân vào vùng Tứ Xuyên của Trung Quốc. Năm 1259, Mông-ke đem quân vây Hợp Châu (tức Hợp Xuyên, Tứ Xuyên). Tướng Tống là Vương Kiên đã đoàn kết quân dân, giữ vững tòa thành nhỏ trên núi Điếu Ngư, anh dũng chống cự với giặc trong suốt năm tháng ròng. Ngày 11 tháng tám năm 1259, Mông-ke trúng đạn chết ( ). Hàng vạn quân Mông cổ đã thất bại nặng nể phải rút đi trước “thành Điếu Ngư nhỏ như cái đấu” này ( ).
Mông-ke chết, em Hốt Tất Liệt là A-ric Bu-ke (Arĩq-Bùkă) ( ) chiếm quốc đô Mông Cổ Kha Ra Khô Rum (Qa-raqorum) tranh ngôi hãn. Nghe tin đó, Hốt Tất Liệt vội vàng ngừng cuộc tấn công Ngạc Châu, rút quân về Bắc. Năm 1260, Hốt Tất Liệt đã không triệu tập Khu Rin Tai (Quriltai, tức đại hội quý tộc), phá bỏ truyền thống cũ của chê độ tuyển cử Mông Cổ, tự xưng là đại hãn ở Khai Bình (sau đổi là Thượng Đô, ở phía đông nam Dolon-nor khu tự trị Nội Mông ngày nay) tiến hành cuộc chiến tranh chống A-ric Bu-ke.
Cuộc nội chiến đó đã khiến Hốt Tất Liệt phải tạm ngừng việc tấn công xâm lược Nam Tống và đối xử nhân nhượng hơn
với Đại Việt.
Ngày mồng 5 tháng 1 năm 1261, Hốt Tất Liệt sai Mạnh Giáp và Lý Văn Tuấn mang chiếu thư sang Đại Việt. Trong chiếu thư có đoạn: “... Mới rồi thú thần nước Đại Lý là an phủ Nê ji-mut-Đin (Nejm ud-Dìn) chạy trạm dâng biểu nói cho ta biết nước ngươi thực lòng hướng phong mộ nghĩa. Lại nghĩ trước kia vào thời tiên triều, khanh đã từng thần phục, từ nơi xa cống dâng phương vật, cho nên nay ban chiếu chỉ, sai lễ bộ lang trung Mạnh Giáp sung chức An Nam tuyên dụ sứ và lễ bộ viên ngoại lang Lý Văn Tuấn sung chức phó sứ sang hiểu dụ cho quan liêu sĩ thứ nước ngươi biết rõ: phàm
áo mũ, điển lễ phong tục, cứ theo chê độ cũ của nước mình, không phải thay đổi. Như nước Cao Ly mới rồi sai sứ sang xin, hiện đã xuống chiếu cho hết thảy y theo lệ ấy. Ta đã cấm các biên tướng ở vùng tỉnh Vân Nam không được tự tiện đem quân xâm phạm bờ cõi nước ngươi, quấy rối nhân dân nước ngươi. Quan liêu sĩ thứ nước ngươi hãy cứ yên ổn làm ăn như cũ...” ( )
Đấy là những lời lừa phỉnh giảo quyệt của Hốt Tất Liệt, vì bấy giờ, y đang dốc tất cả quân lực vào cuộc chiến tranh chống A-ric Bu-ke ở Mông Cổ, U-ry-ang-kha-đai cũng trở về Bắc tham gia cuộc nội chiến đó ( ), làm sao còn có thể “tự tiện đem quân xâm lược bò cõi” “quấy rối nhân dân” được. Tất nhiên nhà Trần không bao giờ tin vào những điều dối trá đó mà vẫn lo tăng cường củng cố lực lượng quân sự của mình. Từ tháng 3 năm 1261, đinh tráng ở khắp các lộ được tuyển lựa để bổ sung vào quân ngũ. Ổ các phủ, lộ, huyện củng thành lập các phong đội, tức các đội quân địa phương ( ).
Nhưng mặt khác, triều đình Trần vẫn lợi dụng tờ chiếu của Hốt Tất Liệt để đấu tranh với Mông Cổ nhằm bảo vệ chủ quyền, quốc thể, vạch trần bộ mặt giả dối và âm mưu xâm lược của bọn chúng. Khi Mạnh Giáp và Lý Văn Tuấn trở về, Trần Thái Tông sai thông thị đại phu Trần Phụng Công, chư vệ ký ban Nguyễn Thám và viên ngoại lang Nguyễn Diễn sang thông hiếu xin ba năm công một lần. Hốt Tất Liệt phong cho Trần Thái Tông là An Nam quốc vương ( ). Ngày 19 tháng 8 năm 1261, vua Mông Cổ sai Na-xi-rut-Đin (Nãsir ud-Dĩn) và Mạnh Giáp đi sứ Đại Việt ( ).
Như vậy là trên danh nghĩa từ đây Đại Việt đã thần phục Mông Cổ. Bọn phong kiến Mông Cổ càng muốn biến Đại Việt thành một thuộc quốc của chúng mà không cần dùng đến tên cứng và ngựa mạnh. Hốt Tất Liệt yêu sách vua Trần phải tăng cống phú và đặc biệt là đòi phải để cho Mông Cổ đặt chức đa-ru-ga-tri (daruyaci) ở Đại Việt. Đa-ru-ga-tri là chức quan thống trị mà đế quốc Mông Cổ đặt ở các nước bị chiếm để kiểm soát mọi công việc của nước đó.
Tháng 10 năm 1262, Hốt Tất Liệt gửi chiếu thư cho vua Trần: “Khanh đã gửi đồ lễ xin làm bề tôi, vậy bắt đầu từ năm Trung Thống thứ 4 (1263), cứ ba năm cống một lần, hãy chọn nho sĩ, thầy thuốc, ngưòi giỏi âm dương bói toán, các loại thợ, mỗi thứ ba người, cùng dầu tô hợp, quang hương, vàng bạc, châu sa, trầm hương, đàn hương, sừng tê, đồi mồi, trân châu, ngà voi, vải trắng, chén sứ đem cả đến một lúc. Ta vẫn cử Nu-rut-Đin (Nur ud-Din) làm Đa-ru
ga-tri, đeo hổ phù đi lại trong nước An Nam ( ).
Tháng 12 năm 1262, một sứ bộ mười người do Ma-hơ-mut (Mahmud) tín đồ Hồi giáo cầm đầu lại đến Thăng Long hạch
sách về lễ khánh hạ ( ).
Như vậy là bọn thống trị Mông Cổ càng ngày càng lấn tới. Chúng muốn vơ vét đồ cống phú nhiều hơn, đồng thời chúng tưởng rằng với một tên Đa-ru-ga-tri đeo hổ phù nghênh ngang hoành hành trên đất nước Đại Việt là có thể khuất phục được vương triều Trần, nô dịch được nhân dân ta.
Không, những mưu toan đó của Hốt Tất Liệt không thể nào làm nhà Trần và nhân dân Đại Việt khuất phục. Từ tháng 3 năm Nhâm Tuất (22-3 - 19-4-1262), vua Trần đã ra lệnh cho các lộ chế tạo vũ khí và chiến thuyền. Các đội quân thủy lục được lệnh tập trận ở bãi phù sa sông Bạch Hạc. Năm 1263, Trần Thủ Độ lại đi tuần ở vùng Lạng Sơn ( ).
Tất cả những việc đó nói lên rằng nhà Trần không hề xao lãng việc chuẩn bị lực lượng phòng thủ và chiến đấu của mình. Nhưng bên ngoài, nhà Trần đã đối phó với bọn phong kiến Mông Cổ hết sức khéo léo. Đứng trước những việc o ép, sách nhiễu ngày càng tăng của chúng, nhà Trần tuy có nhân nhượng hơn ở một số điểm nhưng đồng thời lại kiên quyết không chịu nhượng bộ ở một số điểm khác, về mặt cống phú, vua Trần vẫn sai sứ mang lễ vật nộp đều đặn ba năm một lần, có khi chưa đến kỳ nhưng gặp dịp “tạ ơn" hãn Mông Cổ gì đó thì vua Trần cũng cho đưa cống phẩm sang ( ). Nhưng còn việc chúa Mông Cổ đòi các loại người thì nhà Trần nhất định không chịu nộp và năm 1267, vua Thái Tông đã sai Dương An Dưỡng đem biểu sang xin miễn ( ).
Mặt khác, vương triều Trần tạm để cho Mông Cổ đặt chức Đa-ru-ga-tri ở Đại Việt nhưng đồng thời đã tìm mọi cách ngăn trở khiến cho viên quan này không làm được nhiệm vụ
của y, không thực hiện được âm mưu của bọn thống trị Mông Cổ.Trên thực tế, Nu-rut-Đin (Nur ud-Din) tên Đa-ru ga-tri đầu tiên này chỉ như một sứ giả của Mông Cổ. Nu-rut Đin sang Đại Việt năm 1262 nhưng đến tháng 12 năm 1263
y đã về nước ( ). Mãi đến tháng 3 năm 1266, Nu-rut-Đin mới trở lại Đại Việt ( ). Như vậy là trong một thời gian dài, tên Đa-ru-ga-tri này không có mặt ở nước ta. Hẳn nhà Trần đã khống chế Nu-rut-Đin bằng nhiều biện pháp làm cho y không thể “đi lại trong nước An Nam” ( ), dò xét tình hình. Để giữ bí mật, vua Trần đã ra lệnh cấm nhân dân không được nói chuyện với những người Hồi Hột (Uigur) ( ) đang ở trên đất nước ta vì trong số họ có thể có những tên gián điệp Mông Cổ hoặc vì họ dễ tiết lộ tình hình nước ta với bọn sứ thần hay Đa-ru-ga-tri Mông Cổ. Như vậy là những nguồn tin tức đến với Nu-rut-Đin đã bị cắt. Chính vì thế mà Hốt Tất Liệt đã giận dữ và đe dọa:
Lại ngay trong tờ tâu thường có câu “một nhà”. Ngay nghe Nu-rut-Đin (Nậu Lạt Đinh) nói ở đấy có lệnh cấm người Hồi Hột, không để cho giao đàm. Nếu quả như lời, thì cái nghĩa “một nhà” có lẽ nào như thế? Nghĩa vua tôi, thực như nghĩa cha con, có lẽ nào tôi, con mà lại trái vua, cha ư? Trẫm nếu không nói thì lại là đối đãi với ngươi không lấy thành thực. Ngươi nên nghĩ cho chín để toàn được thủy chung” ( ).
Mặc cho tên vua Mông Cổ muốn nói gì thì nói, vương triều Trần vẫn giữ vững đường lối của mình. Chẳng những tìm cách ngăn trở Nu-rut-Đin dò xét tình hình, nhà Trần còn dùng tiền bạc của cải mua chuộc tên Đa-ru-ga-tri người Hồi giáo này như đã mua chuộc những viên quan Hồi giáo khác ở Vân Nam ( ) khiến cho Nu-rut-Đin không thể chi phối được triều đình Trần. Chính vì thế mà nhà Trần đã yêu cầu
vua Mông Cổ cho y làm Đa-ru-ga-tri dài hạn ( ). Nhưng trước sự bất lực của Nu-rut-Đin, năm 1268, Hốt Tất Liệt đã cử một tên Mông Cổ khác là Khu-rung Kha-y-a (Qurung - Qaya)( ) sang thay vì sợ Nu-rut-Đin “thông tình” với Đại Việt ( ).
Việc thay Nu-rut-Đin còn chứng tỏ rằng chính sách ngoại giao của Mông Cổ đối với Đại Việt đã thay đổi. Bấy giờ, tình hình nội bộ Mông Cổ đã tương đối ổn định. Năm 1264, A-ric Bu-ke (Aruq-Buka) đầu hàng Hốt Tất Liệt. Cùng năm đó, Hốt Tất Liệt dời đô về Yên Kinh, đô thành nổi tiếng mà người Mông Cổ gọi là Khan-ba-lic (Qanbalig, về sau đổi là Đại đô, tức Bắc Kinh ngày nay). Năm 1267, A-ju (Aju), con trai U-ry-ang-kha-đai (Uriyangqadai), viên bại tướng ở thành Thăng Long mười năm trước, nay lại chỉ huy bảy vạn quân, tấn công vào Tương Dương, mở đầu kế hoạch tiếp tục xâm lược Nam Tống của Hốt Tất Liệt. Đó cũng là lúc tên chúa Mông Cổ muốn tiến hơn một bước trong âm mưu nô dịch Đại Việt. Ngày 13 tháng 10 năm 1267 (ngày Mậu Thân (24), tháng 9, Chí Nguyên 4) Hốt Tất Liệt vừa mới chấp nhận ba đạo biểu của sứ thần Đại Việt Dương An Dưỡng thì hai ngày sau, ngày 15 tháng 10 (ngày Canh Tuất (26)), y đã ra một tờ chiếu khác, đòi Đại Việt phải thực hiện sáu việc:
1. Quân trưởng phải vào chầu.
2. Con em phải sang làm con tin.
3. Kê biên dân số.
4. Phải chịu quân dịch.
5. Phải nộp phú thuế.
6. Vẫn đặt chức Đa-ru-ga-tri để thống trị.
Đây là giọng xảo quyệt của Hốt Tất Liệt trong tờ chiếu của y:
"Theo thánh chế của đức hoàng đế Thái Tổ (tức Cing-gis qan, Thành Cát Tư Hãn - T.G.) thì phàm những nước quy phụ, quân trưởng phải thân vào chầu, con em phải làm con tin, lại phải kê dân số, chịu quân dịch, nộp thuế má, mà vẫn đặt quan Đa-ru-ga-tri (Đạt Lỗ Hoa Xích) để thống trị. Mấy việc ấy là để tò lòng thành thực thần phục. Khanh sai tiến cống không trái kỳ hạn ba năm, đủ tỏ lòng thành, cho nên ta lấy điển lệ của tổ tông ta đã định mà nhắc bảo, cũng là lấy lòng thành thực mà hiểu dụ. Vả lại quân trưởng sang chầu, con em làm con tin, lập sổ dân, định ngạch thuế, xuất quân giúp nhau, từ xưa cũng có, nào phải bây giờ mối đặt ra lệ ấy đâu?... Khanh làm được đủ các điều đó, trẫm còn phải nói gì?” ( ).
Nhưng vua Trần làm sao có thể thừa nhận sáu điều đó được vì nếu như thế thì Đại Việt sẽ trở thành một thuộc quốc chịu sự thống trị trực tiếp của Mông Cổ, không còn một chút chủ quyển nào. Chính vì thế mà trong hơn mười lăm năm trời, vương triều Trần đã tìm mọi cách để không thực hiện những điểu đó.
Tháng 11 năm Chí Nguyên 4 (18-11 - 16-12-1267), Hốt Tất Liệt lại đòi nhà Trần phải đem nộp những thương nhân người Hồi Hột. Y mượn cớ là để biết tình hình Tây Vực ( ). Nhưng đấy chỉ là một sự dối trá, vì Tây Vực (vùng Trung và Tây Á) bấy gíờ đã nằm trong bản đồ của đế quốc Mông Cổ và người Hồi Hột có phải chỉ có ở Đại Việt thôi đâu. Trong vùng kiểm soát của Mông Cổ, thương nhân Hồi Hột càng
nhiểu hơn.. Âm mưu của Hốt Tất Liệt chính là ở chỗ qua những lái buôn Hồi Hột này mà dò xét tình hình Đại Việt. Chính vì thế mà y đã tức tối khi nghe tin vua Trần cấm nhân dân không được giao dịch với người Hồi Hột.
Năm 1267, Hốt Tất Liệt lại phong cho con là Hu-ghê-tri (Hugaci) ( ) làm Vân Nam vương, đem quân xuống đóng ở Vân Nam. Đội quân của Hu-ghê-tri có nhiệm vụ khống chế các dân tộc thiểu số vùng Vân Nam đồng thòi làm áp lực quân sự đối với Đại Việt ( ).
Cảnh giác trước mọi âm mưu của kẻ thù, vương triều Trần đã ra sức tăng cường lực lượng vũ trang. Dọc biên giới, ven biển đều có lục quân thủy quân canh giữ. Luôn luôn báo về triều động tĩnh của quân Mông Cổ. Năm 1266, thủy quân lộ Đông Hải đi tuần biên giới được tin quân Mông Cổ chuẩn bị xâm lược. Vì thế, năm 1267, nhà Trần đã định lại quân ngũ, mỗi quân 30 đô, mỗi đô 80 người, chọn những ngưòi tôn thất giỏi vũ nghệ và binh pháp làm tướng. Lực lượng vũ trang này cũng là một trong những chỗ dựa cho chính sách ngoại giao kiên quyết của triều đình Trần.
Năm 1268, Khu-rung Kha-y-a (Qurung - Qaya) được cử làm Đa-ru-ga-tri thay Nu-rut-Đin, Trương Đình Trân làm phó, sang Đại Việt, mang chiếu thư của Hốt Tất Liệt lần nữa đòi lái buôn Hồi Hột (Uigur) ( ). Nhưng Trần Thái Tông đã không chịu. Trong thư gửi Hốt Tất Liệt tháng 12 năm 1269, Thái Tông nói: “Lái buôn Hồi Hột một người tên là I Ôn đã chết lâu ngày, một người tên Bà Bà vừa bị bệnh chết” ( ). Không hẳn những người Hồi Hột đã chết ở Đại Việt, rõ ràng là vua Trần đã nhìn thấy âm mưu do thám của bọn thống trị Mông Cổ.
Cho đến đó, chẳng những vua Trần không chịu nộp các loại người (thợ, thầy thuốc...) mà ngay việc nộp cống vật cho Mông Cổ cũng cố ý trì hoãn, thoái thác. Trong bức thư nảm 1269, Thái Tông đã xin hoãn việc cống voi: "Theo lời Khu
rung Kha-y-a, bệ hạ muốn đòi mấy con voi lớn. Loài thú ấy thân thể to lắm, bước đi rất chậm chạp, không như ngựa của thượng quốc. Xin tuân sắc chỉ, đợi đến năm tiến cống sau sẽ đem dâng” ( ). Năm 1271, Mông Cổ lại nhắc việc đòi voi và đồ cống thì nàm 1272, vua Trần đã trả lời:"... Sứ đến nói việc đòi voi, trước vì sợ trái chỉ nên không dám nói thẳng là theo hay không theo chứ thật ra vì tượng nô không chịu rời nhà, khó sai họ đi, còn việc đòi nho sĩ thầy thuốc và thợ thì khi bồi thần nước tôi là bọn Lê Trọng Đà vào bệ kiến, gẩn uy quang trong gang tấc cũng không nghe chiếu dụ gì đến việc ấy. Huống chi từ năm Trung Thống thứ 4 (1263) ( ) đã được đội ơn tha cho, nay lại nhắc đến, xiết nỗi kinh ngạc...” ( )
Về mặt nghi lễ ngoại giao đối với Mông cổ, vua Trần đã hết sức khôn khéo đấu tranh để giữ được quốc thể. Không bao giờ Thái Tông chịu lạy chiếu thư của Hốt Tất Liệt. Khi Trương Đình Trân đến Thăng Long, Trần Thái Tông đã đứng nhận chiếu của vua Mông Cổ mà không lạy. Tên Hán gian đó còn căm tức vì vương triều Trần vẫn kết thân với nhà Tống nên hắn đã lên giọng dọa nạt: Nhà vua vẫn hòa mục với Tống, tưởng được cứu viện lúc gấp, nay trăm vạn quân đang vây kín ở Tương Dương, chim bay cũng không có lối, chỉ sớm tối là hạ thành, dồn quân qua sông, lật đổ kinh đô nước ấy dễ như bẻ cành khô, thế mà nhà vua còn dựa vào nơi bờ bể,cậy là môi với răng, tự tôn tự đại. Nếu tâu lên hoàng đế (vua Mông Cổ - T.G.), oai trời khẽ động, thì chẳng
cần gọi đến quân Trung Quốc ở xa, mà mưòi vạn quân Vân Nam, hơn tháng là đến, sẽ biến vương miếu thành gò hoang, vương đình thành bãi cỏ, chẳng khó khăn gì...”( ). Trương Đình Trân còn hống hách, đòi vua Trần phải tiếp đãi hắn theo lễ đối với tước vương. Thái Tông đã trả lời cứng cỏi: “Thánh Thiên tử thương tôi nhưng sứ giả đến nhiều người vô lễ. Ông là quan triều liệt ( ) còn tôi là vua, mà cũng ngang lễ với nhau, từ cổ có điều đó không?”. Thái Tông còn vặn Đình Trân: “Đã xưng là nước lớn sao lại còn đòi tê tượng” ( ). Trước thái độ láo xược của Đình Trân, vua Trần đã sai vệ binh tuốt gươm trần đứng vây quanh để thị uy và sau đó, gần như là giam lỏng hắn ( ). Cái lễ vương nhân mà hắn muốn như thế đấy!
Kiên quyết giữ gìn quốc thể, vị Hoàng đế Đại Việt còn biết lợi dụng điển lễ Mông Cổ và chiếu thư của Hốt Tất Liệt để đấu tranh vói bọn phong kiến Mông cổ. Năm 1271, trung thư tỉnh Mông Cổ gửi điệp cho vua Trần, dẫn nghĩa sách Xuân thu để trách việc nhận chiếu không lạy và tiếp sứ không theo lễ vương nhân ( ). Năm 1272, trong thư trả lời, Thái Tông đã nói: “Nước tôi thờ phụng Thiên triều đã được phong tước vương, há không phải là vương nhân hay sao? Sứ Thiên triều đến lại xưng là vương nhân, nếu đãi ngang lễ thì sợ nhục triều đình. Huống chi nước tôi trước đã nhận được chiếu bảo cứ theo tục cũ (chiếu chỉ Hốt Tất Liệt năm 1261 -T.G.). Phàm nhận chiếu cứ để yên nơi chính điện còn mình thì lui tránh ở nhà riêng, đó là điển lễ cũ của nước tôi...”.( )
Từ năm 1271, Hốt Tất Liệt tiến thêm một bước trong việc củng cố địa vị thống trị của Mông Cổ ở Trung Quốc, đặt quốc hiệu là Nguyên. Nhân dịp đó, để thị uy, vua Nguyên đã
cho sứ sang đòi vua Trần vào chầu.Thái Tông từ chối là có bệnh, không đi ( ).
Năm 1272, vừa muốn điều tra địa thế, vừa muốn kiếm cớ hạch sách, Hốt Tất Liệt sai U-ry-ang (Uriyang) ( ) sang hỏi cột đồng Mã Viện. Vua Trần cũng cho viên ngoại lang Lê Kính Phu cùng hắn đi tìm. Nhưng chắc hẳn nhà Trần đã mua chuộc hắn, Lê Kính Phu chỉ đưa hắn đi hỏi han qua loa ỏ một vài nơi và không đến những địa điểm quan trọng bí mật về quân sự... Sau đó, nhà Trần đã trả lời rằng cột đồng Mã Viện dựng lâu ngày nay đã mai một không còn dấu vết ( ). Năm đó, Đồng Tử Dã và Đỗ Mộc được lệnh sang sứ Nguyên ( ). Vua Mông Cổ đã sai Y-ê-si-nê (Yasina) làm Đa-ru-ga-tri thay Khu-rung Kha-y-a. Lý Nguyên làm phó. Năm sau, 1273, Y-ê-si-nê chết, Lý Nguyên thay làm Đa-ru-ga-tri và Kha-xa Kha-y-a (Qasar - Qaya) làm phó ( ).
Năm 1273 là năm thành Tương Dương, sau sáu năm trời kiên trì chiến đấu, không được triều đình.Nam Tống chi viện, đã thất thủ. Bọn xâm lược Mông Cổ dốc toàn binh lực, vượt sông Trường Giang, tiến sang một bước mới trong kế hoạch tiêu diệt Nam Tống. Năm 1274, Hốt Tất Liệt đã sai tướng đem binh thuyền đánh Nhật Bản. Trong tình hình đó, những tên Đa-ru-ga-tri Mông Cổ đến Đại Việt đã hoạt động ráo riết, hòng uy hiếp vương triều Trần, thực hiện âm mưu nô dịch của chúng.
Trung thư tỉnh nhà Nguyên lại đưa thư trách cứ, vặn lý về việc không lạy chiếu: “... Trong khoảng trời đất có hàng muôn nước mà mỗi nước có một phong tục riêng, nếu bắt thay đổi ngay có điều không tiện, nên cho phép được dùng
phong tục bản quốc, nhưng có lễ tục nào lại nhận chiếu của Thiên tử mà không lạy?...” ( ).
Vương triều Trần đã đấu tranh để chống lại các yêu sách của vua Nguyên và đặc biệt là chống lại việc đặt Đa-ru-ga tri một cách mạnh mẽ hơn trước.
Trong thư gửi vua Nguyên tháng 2 năm 1275, Thái Tông đã viết: "... Hơn mười năm nay, tuy ba năm cống một lần, nhưng sai phái sứ thần đi lại mệt mỏi, chưa hề được nghỉ ngơi lấy một ngày. Còn như Đa-ru-ga-tri (Đạt Lỗ Hoa Xích) Thiên triều sai đến đất nước chúng tôi sao có thể về không, phương chi những kẻ sai đến, động tí gì là cậy thế chèn ép nước nhỏ... vả lại Đa-ru-ga-tri chỉ nên đặt ở các vùng man di ngoài biên giới, còn tôi đã được phong vương, làm phên giậu một phương mà còn đặt Đa-ru-ga-tri để giám sát, há không bị các nước chư hầu cười cho hay sao. Sợ giám sát mà nộp công sao bằng trong lòng vui phục mà nộp công!.. Tất cả quan lại thiên triều sai đến, xin đổi làm dẫn tiến sứ để tránh được cái tệ Đa-ru-ga-tri... ( ). Chẳng những đòi bỏ Đa-ru-ga-tri mà vương triều Trần còn đòi cứ một lần nộp cống ở trung nguyên, một lần nộp cống ở Thiện Xiển (Côn Minh ngày nay) ( ).
Hốt Tất Liệt đã cự tuyệt những yêu cầu của vua Trần. Lúc này, bọn xâm lược Mông Cổ đang ồ ạt tấn công vào đất Tống. Năm 1275, mười ba vạn quân của tên thừa tướng hèn nhát nhà Tống là Giả Tự Đạo tan tác ở Vu Hồ chỉ trong một ngày. Ngạc Châu, Thường Châu, Kiến Khang (Nam Kinh) lần lượt bị tàn phá dưới vó ngựa Mông Cổ. Kinh đô Tống là Lâm An bị uy hiếp. Tống Thái hậu khóc mà xuống chiếu cần vương. Uy lực của Mông Cổ đã rất lớn trên đất Trung Quốc.
Vì thế, tuy dốc tâm vào cuộc chiến tranh thôn tính Nam Tống, Hốt Tất Liệt vẫn không chịu nới lỏng miếng mồi Đại Việt. Vua Trần gửi thư vào tháng 2 năm 1275, thì tháng 3, Hốt Tất Liệt đã gửi chiếu thư yêu sách sáu việc cũ và cử Kha-xa Kha-y-a làm Đa-ru-ga-tri ( ). Y dùng những lời xảo trá hòng lừa bịp vua Trần.
“Theo chế độ tổ tông ta đã định, phàm nước nội phụ thì quân trưởng phải thân vào chầu, con em phải làm con tin, lại phải kê 80 hộ khẩu, thu nộp thuế má, điều động dân giúp việc binh, lại đặt chức Đa-ru-ga-tri để thống trị. Sáu việc đó, năm trước đã dụ cho khanh biết rồi. Thế mà quy phụ đã hơn mười lăm năm, quân trưởng chưa hề thân đến triều cận, mấy việc kia vẫn chưa thi hành, tuy ba năm có cống một lần, nhưng đồ cống cũng đều vô bổ. Nghĩ rằng khanh lâu ngày, khắc tự tính biết, nên bỏ qua mà không hỏi đến, sao mà đến nay vẫn chưa giác ngộ. Cho nên ta lại sai Kha-xa Kha-y-a (Qasar - Qaya, Hợp Tán Nhi Hải Nha) sang dụ ngươi vào chầu. Nếu vì cớ gì không vào chầu được, có thể sai con em vào thay. Ngoài ra số hộ khẩu bản quốc, nếu chưa có sổ sách nhất định thì tuyển binh thu thuê bằng vào đâu mà châm chước, như thế, nếu số dân quả là ít mà lại lấy nhiều thì sức không chịu nổi. Nay làm sổ hộ khẩu nước ngươi là muôn lượng xem nhiều ít mà định số binh số thuế. Còn gọi là điều binh cũng không phải là quân lính đi xa nơi khác, chỉ là theo thú binh tỉnh Vân Nam mà cùng hiệp lực với nhau...” ( ).
Ngoài việc tăng cường sách nhiễu, bọn thống trị phong kiến triều Nguyên đã có những âm mưu mới về mặt quân sự. Tháng 11 năm Bảo-Phù thứ 3 (19-11 - 18-12-1275), tướng của nhà Trần ở biên giới phía Bắc báo về là Nguyên cho
người đi tuần biên giới để dò xét địa thế ( ). Trước tình hình đó, Trần Thánh Tông đã cử Lê Khắc Phục và Lê Túy Kim sang công và lại yêu cầu miễn sáu điều ( ). Mặt khác đầu năm 1276. Thánh Tông cho Đào Thế Quang sang Long Châu vờ mua thuốc để điều tra tình hình Mông Cổ ( ).
Năm 1277, Thượng hoàng Thái Tông mất, vua Trần sai trung thị đại phu Chu Trọng Ngạn, trung lượng đại phu Ngô Đức Thiệu sang báo với vua Nguyên ( ). Năm 1278, Thánh Tông nhường ngôi cho thái tử Khâm tức Nhân Tông ( ) nhưng đối với Mông Cổ, thì bấy giờ Thánh Tông mới lên ngôi. Hốt Tất Liệt lấy cớ vua mới không “xin mệnh” mà tự lập, ngày 20 tháng 8 năm 1278 ( ), sai lễ bộ thượng thư Sài Thung ( ) hội đồng quán sứ Kha-ra Tô-in (Qara-Toyin) ( ), công bộ lang trung Lý Khắc Trung, công bộ viên ngoại lang Đổng Đoan sang trách hỏi. Lê Khắc Phục cùng đi về với sứ bộ này ( ).
Trước đây, con đường qua lại của sứ thần Đại Việt và Mông Cổ là con đường qua Thiện Xiển (Côn Minh, Vân Nam), nhưng đến nay, theo lệnh của vua Nguyên, bọn Sài Thung đã đi thẳng từ Giang Lăng (Hồ Bắc) qua Ưng Châu (Quảng Tây) để vào nước ta. Vua Trần đã kiên quyết phản đối việc đó. Tháng 11 nhuận âm lịch (Chí Nguyên 15, 16-12-1278 - 13-1-1279), Sài Thung đến trại Vĩnh Bình ở Ưng Châu, Thánh Tông đưa thư nói: “Nay nghe quốc công đến biên giới tôi, biên dân không ai là không lo sợ, không biết sứ nước nào mà đến lối đó, xin đem quân về đường cũ mà đi”. Sài Thung không chịu, lại còn hách dịch, đòi phải lên biên giới đón hắn. Triều đình Trần đành phải nhân nhượng chút ít, cho ngự sử trung tán coi thẩm hình viện Đỗ Quốc Kế lên đón Thung.
Tháng 1 năm 1279, Thái úy Trần Quang Khải ra bờ sông Hồng đưa Thung vào sứ quán ở Thăng Long. Ngày 17 tháng 1 (ngày 4 tháng chạp âm lịch), Sài Thung đọc chiếu thư của Hốt Tất Liệt.
Trải bao nhiêu năm, lễ ý bạc dần, cho nên năm Chí Nguyên thứ 12 (1275) lại xuống chiếu đòi những việc thân vào chầu, giúp binh lính. Mới đây bọn Lê Khắc Phục đến, xem trong biểu chương, có điều không thực. Như nói nước ngươi quy phụ trước tiên, thì các nước bốn phương đến hàng phục trước nước ngươi có nhiều, sau ngươi thì có nhà Vong Tông... Thế thì điều ngươi nói không dối trá là gì? Lại nói Chiêm Thành [Chân Lạp], hai nước quấy rối, không thể giúp quân được thì những nước ấy ở gần nước ngươi không phải mới từ ngày nay. Đến như nói đường xa không vào chầu được thì sao bọn Lê Khắc Phục đến được? Hai điều ấy dối trá cũng đã rõ rằng!... Trước vì cha ngươi già yếu không thể đi xa, còn lượng tình được. Nay ngươi tuổi đang cường sĩ, vào chầu chịu mệnh, chính là phải thời. Huống hồ bờ cõi nước ngươi tiếp giáp với các châu Ung (Quảng Tây - T.G.), Khâm (Quảng Đông - T.G) của ta thì sợ gì mà không sang được. Nếu ngươi không yên, cố ý kháng cự mệnh trẫm, thì ngươi cứ sửa đắp thành lũy, sắm sửa giáp binh, sẵn sàng mà đợi!...” ( ).
Qua những lời ngạo mạn láo xược của Hốt Tất Liệt, chúng ta cũng thấy được cuộc đấu tranh của vua Trần chống các yêu sách của Mông Cổ trong suốt hai mươi năm trời. Trong hai mươi năm đó, bọn phong kiến Mông Cô càng ngày càng lấn lướt, nhưng cho đến nay, Hốt Tất Liệt mới thực sự đe dọa đem quân sang đánh Đại Việt. Tình hình đã căng thẳng hơn
nhưng vua Trần vẫn không khuất phục. Dù chiến tranh có xảy ra, dù phải đổ máu, vương triều Trần cũng không chịu bỏ mất chủ quyền.
Vua Trần đặt tiệc ở hành lang, Sài Thung không chịu đến, phải đặt tiệc ở điện Tập Hiển, hắn mới đến dự. Trong bữa tiệc, Thánh Tông ( ) đã nói với Thung: “Trước dụ sáu việc, đã được miễn xá. Còn việc thân hành vào chầu thì vì tôi sinh trưởng ở thâm cung, không biết cưỡi ngựa, không quen phong thổ, sợ chết dọc đường, con em thái úy trở xuống cũng đều như thế...” ( ). Như vậy là vua Trần vẫn từ chối việc sang chầu và không một ai đi làm con tin cả. Sài Thung bực tức bỏ về ( ). Vua Trần sai Trịnh Đình Toản ( ) và Đỗ Quốc Kế đem phương vật và hai con voi sang Nguyên, đưa biểu xin miễn việc vào chầu. Lời biểu cũng gần giống với lời vua Trần nói với Sài Thung trong bữa yến ở điện Tập Hiền:
"... Cô thần đương lúc có tang cha, kỳ niên cống lại đến. thần không dám vì sự lo phiền về việc tang tóc, nhân sứ trước là Lê Khắc Phục trái thời chưa đến, mà để chậm niên cống, tiếp sai trung thị đại phu Chu Trọng Ngạn, trung lượng đại phu Ngô Đức Thiệu làm hành nhân để đem biểu văn cùng phương vật đến dâng ở cửa khuyết... Kíp đến năm Chí Nguyên thứ 15 (1278), bọn Chu Trọng Ngạn chưa về, duy đoàn thiên sứ Sài thượng thư đem chiếu thư đưa lũ Lê Khắc Phục cùng về tiểu quốc... Thấy chiếu thư dụ thần vào chầu, thần kinh sợ vô cùng, mà sinh linh cả nước nghe thấy tin ấy đều nhao nhao kêu phải bơ vơ như chim mất tổ. Vì thần sinh trưởng ở đất Việt Thường, sức người yếu đuối, không quen thủy thổ, không dạn nắng mưa, tuy được xem biết văn hóa của thượng quốc, được dự làm tân khách ở vương đình, nhưng e đi đường có sự không may xảy ra, chỉ
dãi phơi xương trắng để động lòng nhân của bệ hạ thương xót mà thôi, không ích chút nào cho thiên triều vậy...”.
Năm 1279, Sài Thung về Đại Đô (Bắc Kinh) trước, bắt Trịnh Đình Toản đợi ở Ung Châu (Quảng Tây).
Bấy giờ, bọn xâm lược Mông Cổ đã hoàn thành việc thôn tính Nam Tống. Từ tháng 12 năm 1278, Văn Thiên Tường, người anh hùng của nhân dân Trung Quốc, đã bị bắt. Tháng 2 năm 1279, Nhai Sơn (trong biển phía nam Tân Hội, Quảng Đông), căn cứ cuối cùng của chính quyền Hán tộc bị tấn công. Lục Tú Phu ôm vua Tống Triệu Bính nhảy xuống biển tự tử. Trương Thế Kiệt đắm thuyền. Nhà Tống mất. Nhân dân Trung Quốc lâm vào cảnh “núi sông tan nát như tơ trước gió thổi” mà Văn Thiên Tường đã nói đến trong thơ của mình ( ).
Đó cũng chính là lúc nhân dân Đại Việt đang đứng trước nguy cơ một cuộc chiến tranh mới.
Tháng 4 năm 1279, xu mật viện Nguyên xin Hốt Tất Liệt cho đem quân đánh Đại Việt ( ). Nhưng tên vua Mông Cổ còn cân nhắc lợi hại, chưa đồng ý. Y cho gọi sứ bộ Việt đến Đại Đô.Tháng 8 năm đó, y ra lệnh đóng chiến thuyền để chuẩn bị đánh Đại Việt ( ). Nhưng Hốt Tất Liệt vẫn còn muốn dùng uy lực khuất phục vương triều Trần bằng biện pháp ngoại giao. Tháng 12, y ra lệnh giữ Trịnh Đình Toản lại ỏ Đại Đô, sai Sài Thung và binh bộ thượng thư Lương Tằng đi cùng Đỗ Quốc Kế sang Đại Việt ( ). Lần này Hốt Tất Liệt đòi “nếu quả thật không tự vào ra mắt được thì lấy vàng thay thân, hai hạt châu thay mắt, thêm vào đó, lấy hiển sĩ, phương kỷ, con trai, con gái, thợ thuyền, mỗi loại hai người
để thay cho sĩ nhân. Nếu không thì hãy tu sửa thành trì mà đợi xét xử” ( ).
Trước yêu sách ngày càng ngang ngược của kẻ thù, quan hệ ngoại giao ngày càng căng thẳng, nguy cơ chiến tranh khó bể tránh khỏi, triều đình Trần đã chuẩn bị chiến đấu khẩn trương hơn. Nhưng để trì hoãn thời gian thêm ít nữa, năm 1281, Nhân Tông đã cho chú họ là Trần Di Ái thay mình cùng Lê Tuân, Lê Mục theo bọn Sài Thung sang Nguyên ( ).
Thấy việc đòi vua Trần vào chầu thất bại, Hốt Tất Liệt nắm ngay lấy cơ hội này để thực biện dã tâm xâm lược của mình. Hốt Tất Liệt phong Trần Di Ái làm An Nam quốc vương, Lê Mục làm hàn lâm học sĩ, Lê Tuân làm thượng thư ( ). Chiếu thư của Hốt Tất Liệt gửi vua Trần có đoạn: “... Cho sứ sang vời thì người kiếm cớ không đi, nay lại kiếm lời cố ý trái mệnh, chỉ sai chú là Di Ái vào chầu.Ta cũng định cử ngay quân sang đánh. Vì ngươi nội phụ và cống hiến đã lâu năm rồi, có lẽ nào bắt chước kẻ vô tri, để hại uổng tính mệnh dân chúng. Ngươi đã cáo bệnh không vào chầu, nay cho ngươi được nghỉ mà thuốc thang điều dưỡng, ta đã lập chú ngươi là Di Ái thay ngươi làm vua nước An Nam, coi trị dân chúng của ngươi...” ( ).
Bên cạnh cái triều đình bù nhìn đó, vua Nguyên đã lắp luôn một bộ máy thống trị thực dân kèm theo. Ngày 27 tháng 11 năm 1281, đặt An Nam tuyên uý ty. Bu-y-an Tê-mua (Buyan Tâmur) ( ) được cử làm An Nam tuyên úy sứ đô nguyên soái, Sài Thung và Khu-ghe (Qugar ( ) làm phó ( ). Tháng 1 năm 1282, Hốt Tất Liệt sai một nghìn quân đi hộ tống đưa bọn này sang Đại Việt ( ).
Khi những viên quan Mông Cổ và cái triều đình bù nhìn kia đến biên giới, Nhân Tông đã ngầm sai quân đón đánh khiến Trần Di Ái hoảng sợ phải trốn về nước. Mặt khác, Nhân Tông lại sai người lên đón bọn Sài Thung về Thăng Long ( ). Sài Thung đã cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương Minh. Quân Thiên Trường ngăn hắn lại, hắn đã lấy roi ngựa đánh họ bị thương ở đầu rồi phóng ngựa đến tận điện Tập Hiển mới chịu xuống ( ). Trước thái độ hếng hách của Sài Thung, triều đình Trần vẫn tỏ vẻ ân cần tiếp đãi hắn. Sài Thung thất bại trở vê. Cái âm mưu đặt An Nam tuyên uý ty và lập triều đình bù nhìn Trần Di Ái của Hốt Tất Liệt đã tan ra mây khói.
Trong bài thơ tiễn Sài Thung Thái úy Trần Quang Khải vẫn viết như sau:
“... Vị thẩm hà thời trùng đổ diện,
Ân cần ác thủ tự thê lương”
(Không biết đến bao giờ lại được gặp mặt,
Ân cần nắm tay nhau kể chuyện hàn huyên ( ).
Vừa đánh tan một nghìn quân địch trên biên giới, lại vừa làm thơ xướng họa với sứ thần kẻ thù âu đó cũng là một nét đặc biệt trong cuộc đấu tranh ngoại giao của vương triều Trần. Nhưng sau vụ Trần Di Ái, quan hệ bang giao đến đây khó bề mà duy trì được nữa.
Cuối năm 1283, Triệu Chử theo lệnh của vua Nguyên, sang đòi nhà Trần phải giúp binh lương cho việc đánh Chiêm Thành. Lại một âm mưu mới của Hốt Tất Liệt! Vua Trần đã sai Nguyễn Đạo Học sang triều Nguyên và Phạm Chí Thanh, Đỗ Bảo Trực sang hành tỉnh Kinh Hồ đưa thư từ chối.
"Về việc thêm quân thì Chiêm Thành thờ phụng nước tôi đã lâu, cha tôi chỉ lấy đức để che chở, đến tôi cũng nối chí cha tôi. Từ khi cha tôi quy thuộc Thiên triều đến nay đã ba mươi năm, gươm giáo không dùng đến nữa, quân lính cho về làm dân đinh, một lòng cống hiến Thiên triều, trong lòng không có mưu đồ gì khác, mong các hạ thương mà xét cho. Về việc giúp lương thì nước tôi ở ven biển, ngũ cốc trồng được không nhiều. Sau khi đại quân rút đi, tràm họ lưu vong, lại thêm lụt hạn, sớm no chiều đói, ăn không đủ. Tuy vậy lệnh của các hạ không dám trái, xin đợi mang nạp ở châu Vĩnh An trên địa giới châu Khâm...” ( ).
Chẳng những vua Trần đã cự tuyệt việc giúp quân lính và lương thực cho bọn xâm lược nhà Nguyên đánh Chiêm Thành mà trước đó đã đem quân và chiến thuyền ứng viện Chiêm Thành chống lại kẻ thù chung. Sau khi thất bại ở Chiêm Thành, Hốt Tất Liệt đã quyết định tấn công xâm lược Đại Việt.
Cuộc đấu tranh ngoại giao gay go và phức tạp của vương triều Trần trong hơn hai mươi lăm năm đến đây đã kết thúc. Hai mươi lăm năm, “sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà xỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thỏa lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam vương mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn...”. Đã qua rồi thời kỳ phải nén mọi phẫn nộ, lấy nhạc thái thường để đãi yến ngụy sứ”, thời kỳ vừa phải rất kiên quyết đối phó với giặc lại vừa phải chọn lời mềm mỏng cho những bức thư ngoại giao hay những bài thơ thù tiếp. Không một ai, kể cả vị tướng kiêm nhà thơ Trần Quang Khải, muốn thấy lại bộ
mặt đáng ghét cùa những tên sứ hống hách kiểu Sài Thung, cả nước đã chuẩn bị chiến đấu, sẵn sàng đón tiếp kẻ thù bằng vũ khí./.