🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cuộc Chiến Tranh Đông Dương - Lucien Bodard & Đoàn Doãn (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Lịch Sử]
Ebooks
Nhóm Zalo
Cuộc Chiến Tranh Đông Dương
Tác giả | Lucien Bodard
Người dịch | Đoàn Doãn
Nhà xuất bản | Công An Nhân Dân - Hà Nội - 2004 Dịch từ bản tiếng Pháp: LA GUERRE D’INDOCHINE
Scan & PDF | nhan van
Ảnh bản đồ | cuoicaisudoi
Chuyển text, soát lỗi, và đóng eBook | amylee Cộng đồng tve-4u.org
TÁC GIẢ
Lucien Bodard, sinh ngày 9 tháng 1 năm 1914 tại Trùng Khánh, Trung Quốc và mất ngày 2 tháng 3 năm 1998 tại nhà riêng ở quận 7 của Paris, là một nhà văn và nhà báo người Pháp, cựu phóng viên cấp cao của France-Soir và được trao giải Prix Goncourt cho “Anne Marie” năm 1981 và Giải thưởng Interallié cho “The French Consul” năm 1973.
TỰA
Ba mươi lăm năm đã qua đi kể từ khi tôi viết lịch sử cuộc chiến tranh của người Pháp ở Đông Dương. Là nhà báo, tôi đã theo dõi cuộc chiến, kể lại, phân tích hàng ngày; như vậy không đủ đối với tôi. Tôi còn cố tìm hiểu làm sao có thể dẫn đến thảm họa của Đội quân viễn chinh ở Điện Biên Phủ. Tôi đã muốn tháo gỡ những tình huống chằng chịt, làm sáng tỏ mớ rắc rối những sai lầm, cẩu thả, hợm hĩnh, những tính toán hớ hênh, lăn lộn, nhập nhằng, những sự phản bội và ô nhục, có thể nói tình trạng mất phẩm giá dẫn đến thảm họa không tránh được. Kỹ thuật chiến tranh lúc đó cũng hấp dẫn tôi. Phương Đông như một cơn ma túy; cuộc đấu tay đôi lôi cuốn tất cả: vũ khí và tâm hồn, sức mạnh vật chất và bản năng, đất nước, bùn lầy, đêm tối, cây xanh, thể xác và mọi góc cạnh của trí óc, việc sử dụng tiền bạc, đạo đức, hành động xấu xa, lễ nghi và tàn bạo, khủng bố và thuyết phục. Cuối cùng Đông Dương đối với tôi như mang mầm mống những thất vọng ê chề sau này ở Algéria và Châu Phi, phải thử phân tích những việc làm ở đó và bằng cách nào để giải thích lịch sử mới đây nhất của chúng ta. Xứ sở Đông Dương định mệnh, Đông Dương làm khuôn đúc cho tất cả...
Như trong cơn sốt tôi viết hàng nghìn trang. Ba cuốn sách tập hợp vào đây, những cuốn khác tôi chưa hoàn thành.
Có một thời gian tôi quan tâm đến tai họa của Mỹ nảy sinh ở Việt Nam trong sự đổ nát của tai họa Pháp, điều đó lôi kéo tôi vào những chuyến đi mới và một bản viết khác định trình bày ở Pháp, những “Hồ sơ của Lầu Năm góc” đã bị lãng quên. Mối diễm tình và những lực lượng tăm tối bám chặt vào tôi tuy cuối cùng tôi mệt mỏi. Đúng ra lòng ham thích rồi sự táo bạo đã đưa tôi đến với tiểu thuyết. Bạn tôi, nhà xuất bản Jean-Clacede Fasquelle thúc đẩy tôi. Ông nói: “Bộ ba tác phẩm về Đông Dương đã báo trước một tiểu thuyết gia”. Được tâng bốc, tôi chấp thuận.
Nhiều năm qua đi và ngày nay là tác phẩm đồ sộ này trong đó tôi thấy lại tuổi trẻ của tôi và của bao nhiêu người... Tôi đọc lại những gì đã viết và tất cả tái hiện, de Lattre mà người ta vẫn gọi là “vua Jean”, Bảo Đại, nhân vật Hamlet da vàng vừa biến mất, Hồ Chí Minh với đôi mắt sáng, tính cách một vĩ nhân, các thống chế, những kẻ bất lương, các vai phụ, những xáo động và những hành vi phức tạp của Sài Gòn. Hà Nội trầm lặng đến thế, những nhà thờ và các phe phái, sự vững tin tầm thường của những người da trắng... Tôi đọc và hình dung lại tất cả: tính lãng mạn, anh hùng ca, bi kịch, sự nổi dậy của một dân tộc bị chà đạp, cuộc chiến tranh không cảm nhận được, kéo dài vì đẫm máu, nỗi mê hoặc và ghê tởm của tôi.
Tôi biết rõ Đông Dương. Từ bé, lớn lên ở miền Nam Trung Quốc, tôi đã đến Hà Nội cùng bố mẹ tôi. Ở đây tất cả thể hiện sống động. Những hồi ức về quân Cờ đen, trung sĩ Bobillot Pavie, kẻ chinh phục hòa bình, đất nước được cứu vớt trở thành
viên ngọc của hệ thống thuộc địa Pháp. Nền tài chính, lúa gạo và cao su, công việc kinh doanh và Hội đoàn, các bà và những chuyện ngồi lê đôi mách, vẻ đẹp các thành phố, trật tự xã hội, sự hủy hoại vô ý thức. Rồi đến cuộc chiến tranh, hiệp định Genevè, sự chia cắt... Tôi ở đấy tám năm cho đến lúc Diệm, tên độc tài được người Mỹ hỗ trợ, đuổi tôi ra khỏi miền Nam Việt Nam.
Đấy là vào năm 1955. Tiếp đó người ta biết tính kiêu ngạo và ngây ngô của người Mỹ. Thực tế của Washington, thực tế của những người chăn dắt và con cái những người chăn dắt, thực tế của các quan chức dựa vào kỹ thuật với tính logic không hiểu nổi. Tính hãnh diện, sự hãnh diện muôn đời của phương Tây. Và rồi những ảo tưởng bị nghiền nát. Từ Kinh Thánh đến mưa bom, quyết liệt. Cuối cùng đội quân Hoa Kỳ tan rã, nước Mỹ tan rã vì đối tượng không là gì đối với họ, một nước rất nhỏ bé, một đường viền của Trung Quốc, mà họ muốn tiến hành cuộc Thập tự chinh.
Sống lâu, người ta thậm chí có thể chứng kiến điều không tưởng tượng được. Tôi cũng đã thấy người Pháp và người Mỹ trở lại Việt Nam, thấy đâm chồi và nảy nở những luyến tiếc vô cùng. Một số cũng đáng ngờ nhưng không quan trọng, thời gian sẽ sàng lọc.
Còn lại là những kỷ niệm, những thập kỷ, là hàng chục năm chiến tranh ngoại lai và lẫn lộn, sự giết chóc như một nạn dịch đen tối trên đất Việt Nam. Và lịch sử sự đam mê của Pháp bất chấp tất cả, luôn sống dai dẳng. Một câu chuyện về tình thương
và căm hận rối rắm cuộn vào nhau mà những cuốn sách này kể lại trong chốc lát.
Tôi tuyệt đối không thay đổi gì hết: tôi nói trong chốc lát nhưng tôi nghĩ đó là thời điểm cơ bản.
SỰ SA LẦY
LỜI NÓI ĐẦU
Tôi nhớ mãi năm đen tối 1954! Ngày tháng năm ấy ở Hà Nội phải có một cuộc diễu hành chiến thắng kỷ niệm mười năm Đức Quốc xã đầu hàng. Những người thợ Annam đã xây dựng khán đài bằng gỗ; đang mắc những chùm cờ Pháp và Việt Nam lên cây dọc đại lộ chính của thành phố, trước mặt đài liệt sĩ, thì người ta được tin Điện Biên Phủ tan vỡ. Nhưng các tướng của Bộ Tổng tham mưu, do kiêu căng hoặc khắc kỷ, quyết định vẫn tiến hành thao diễn.
Phải ổn định tổ chức thật lâu. Người ta sắp xếp các nhân vật dân sự và quân sự vào vị trí danh dự tùy theo ngôi thứ. Xa xa đội quân nhạc đang chơi một hành khúc ảm đạm. Tướng Cogny, người phốp pháp, đôi mắt rất xanh, nặng nề dựa vào chiếc can, bước chậm rãi đến đài liệt sĩ. Ông đặt một vòng hoa cho những người Pháp bị tử trận trong những cuộc chiến tranh trước kia, một vòng khác cho những người Việt Nam. Khuôn mặt đồ sộ của ông ngang tầm với bi kịch.
Buổi lễ tiến hành theo nghi thức quân sự. Tuy nhiên, khắp nơi là sự bại trận, trên những nét mặt, trong cử chỉ và trong lòng người. Viên tướng gắn huy chương cho những người có vẻ vừa thoát nạn. Các sĩ quan tùy tùng đưa lại những giải băng
trên một chiếc khay. Ông găm chúng lên những tấm ngực, ôm hôn; công việc kết thúc, ông giơ tay và cuộc diễu hành bắt đầu.
Đây là cuộc thao diễn những chiếc bóng, những người sống sót, tất cả những người lính mà tình cờ không tới Điện Biên Phủ. Họ đi qua, làm những động tác quá cứng nhắc, hầu như gượng gạo. Họ thuộc vào những lực lượng dự trữ cuối cùng của Bắc Kỳ: một tiểu đoàn quân nhảy dù nhiều “da vàng”, một số lính lê dương, những chiếc tăng. Phần lớn các sĩ quan dù, quần áo dã chiến, kéo lê chân vì những vết thương cũ. Chỉ khoảng một chục người; cách đấy vài trăm cây số, tất cả những người khác vừa đầu hàng.
Đây là khoảng một trăm lính lê dương, chân bước nặng nề và vô cảm. Họ thuộc về trung đoàn tử vì đạo của Đông Dương, trung đoàn lính đánh thuê thứ 3 ấy bị đánh bật ra khỏi Cao Bằng năm 1950. Những người tham gia diễu hành thuộc về tiểu đoàn không bị đưa lên Điện Biên Phủ nhưng mấy ngày trước đó rơi vào một cuộc phục kích khủng khiếp trên con đường Hà Nội - Hải Phòng. Cả trung đoàn chỉ còn lại họ.
Dân chúng Hà Nội, kể cả những người Pháp, không bận tâm về buổi lễ. Chỉ là những tàn dư đi qua và các nhà chức trách đứng nhìn. Trên khán đài, bên cạnh tôi, một đại tá bật khóc. Ông nói:
- Tôi không bao giờ nghĩ Việt Minh trong một đêm có thể tiêu diệt mười hai nghìn chiến binh Đông Dương giỏi nhất của chúng ta.
Nỗi đau càng lớn hơn khi hy vọng âm ỉ trong lòng. Người ta khẳng định sẽ cứu vớt được nếu còn cố thủ ít lâu. Những ảo tưởng ấy đã lan vào các ban tham mưu, bắt đầu tin vào sự tiêu hao của Việt Minh. Đêm trước xảy ra bi kịch, viên chỉ huy còn cho thả một tiểu đoàn lính dù. De Castries vốn đã yêu cầu từ nhiều tuần nay, lúc đầu người ta từ chối để không tăng thêm số người hy sinh. Rồi có quyết định, ngay trước thảm họa, như bỗng tăng thêm lòng tin.
Bây giờ trong âm thanh kèn đồng và những tiếng hô, có ai không nghĩ đến những hàng tù binh vô tận đi lên phía bắc? Ở Điện Biên Phủ mọi việc đang rộn ràng. Những chiếc xe Molotova chạy khắp vùng lòng chảo còn bốc khói để thu thập chiến lợi phẩm. Mặt đất cháy sém loang lổ với hàng nghìn chiếc dù đủ màu. Nhân công chôn vùi người chết không đếm xuể của cả hai phía. Những chỉ huy thua trận, de Castries, Bigeard, Langlais trải qua nhiều cuộc thẩm vấn có năm hoặc sáu nhân viên tốc ký ghi. Đối với họ đấy cũng là sự hạ thấp mình.
Ở Hà Nội người Pháp không biết Việt Minh có chăm sóc cho binh lính Pháp bị thương không, người ta quyết định thả thực phẩm và thuốc men xuống cho họ, mong rằng không bị tịch thu.
Người ta vẫn không hiểu vì sao Điện Biên Phủ thất thủ. Có thể quân cố thủ Pháp trong núi rừng tan vỡ như một con tim bệnh hoạn. Cuối buổi diễu hành, người bên cạnh tôi, viên đại tá sụt sùi đưa ra quan điểm:
- Một trong những bí ẩn của chiến tranh là sự tan vỡ. Người ta không bao giờ dự kiến được lúc nào một đoàn quân hoặc một đội quân đồn trú kiệt quệ đến kết thúc. Điều đó đột nhiên đổ sụp xuống.
Tang tóc và cay đắng đè nặng lên Đội quân viễn chinh. Vì đối với mọi chiến binh ở Bắc Kỳ và Đông Dương, Điện Biên Phủ là cả cuộc sống. Vào đầu trận đánh một trung sĩ già của quân thuộc địa khẩn nài tôi:
- Không nên nói tình hình trên đó xấu, sẽ là một sai lầm chết người...
Khắp Đông Dương, những người đầu bếp, làm công vặt, thư ký, tình nguyện nhảy vào lò lửa. Có những người, mười ngày nữa về nước cũng xin được nhảy dù. Khi người ta báo với họ là sẽ đi vào chỗ chết hoặc bị bắt, họ trả lời:
- Không quan trọng.
Một người lính bị thương ở mắt vào đầu trận đánh ở Điện Biên Phủ, được một trong những máy bay cứu thương cuối cùng đưa về Hà Nội, thoát khỏi địa ngục. Một tuần lễ trước thảm họa, trong lúc chưa lành bệnh, đề nghị cho nhảy xuống vùng lòng chảo bị bao vây.
- Anh tôi đang ở đó, tôi muốn đến với anh ấy.
Ở Hà Nội sau thất trận, lính dù uống rượu một cách đáng sợ. Họ là lính của một đại đội dự phòng không ra mặt trận. Xấu hổ vì còn sống và tự do, họ van xin người ta “đánh” họ xuống núi
rừng Điện Biên Phủ; họ muốn từ trên trời rơi xuống để giải phóng các bạn.
Ngoài ra, trong thành phố, quân lính mặt mày khắc khổ, im lặng. Thậm chí họ cảm thấy ghê tởm phải nói, phải thú nhận nỗi khổ tâm của mình. Bên dân sự, dốt nát còn là một hạnh phúc cuối cùng. Buổi sáng tôi thấy một phụ nữ Pháp trẻ, tóc hung và gầy đi xe đạp trên đường. Để mái tóc bay theo gió, chị giữ đứa con ngồi trên khung xe. Đấy là vợ người phát thanh đài Điện Biên Phủ vừa đưa tin của Bộ Chỉ huy de Castries; trong máy anh nói đơn giản với anh bạn ở đài Hà Nội:
- Quân Việt ở cách đây hai mươi mét: vĩnh biệt cậu!
Người đàn bà còn hớn hở ấy tên là Melien. Chị đang mang thai một đứa bé khác. Không bao giờ chị biết, nhưng rồi sẽ biết...
Tin tức lan dần trong thành phố rộng. Các ông bố bà mẹ thử bắt đài Việt Nam đang thông báo danh sách tù binh. Họ xấu hổ phải nghe làn sóng Việt Minh nhưng ham muốn quá mạnh. Vả lại tin tức nghèo nàn ấy rồi cạn kiệt, người Pháp làm rối loạn làn sóng địch. Qua đài người ta chỉ còn nghe tiếng rít của kim khí.
Tuy vậy, với dân chúng bình thường, cuộc sống vẫn tiếp tục. Thương nhân buôn bán, vừa trao đổi những phán xét nghiêm khắc về cuộc chiến. Sau bữa ăn tối những rạp chiếu phim và vũ trường tràn ngập đám người ngoại kiều rất vui vẻ. Dạ hội đặc biệt náo nhiệt ở Ritz, vũ trường Trung Hoa ngoài trời, trên trần nhà cao nhất Hà Nội. Người ta giãy giụa trong tiếng nhạc của một ban nhạc Philippines. Gái nhảy mặc áo dài sẻ lườn đẹp và
rất nhiều. Bỗng nhiên một loạt súng mạnh, gần và kéo dài hơn bình thường vang lên. Nỗi lo sợ bóp ngạt cử tọa, tất cả im bặt: ai cũng biết ông Giáp nói sẽ tiến về Hà Nội trong mấy ngày tới. Rồi người nhảy, đã quen với những tình huống ngẫu nhiên ấy, bình tâm lại. Cuộc vui tiếp tục.
Trong thành phố, người Việt Nam chứng tỏ nỗi thờ ơ đặc trưng của Châu Á: không một cử chỉ khiêu khích đối với người Pháp; cũng không một nụ cười hay một lời nói. Có thể nghĩ họ mù tịt về các sự kiện nhưng họ biết rõ. Sự vô cảm của Phương Đông chưa bao giờ thể hiện cao và độc ác đến thế.
Những người Pháp dân sự dần dần lo lắng. Sau nhiều năm tin tưởng tính ưu việt của người da trắng, họ phát hiện ra Việt Minh có thể thắng. Thịnh vượng của họ bị đe dọa sau chiến tranh; họ nói với nhau:
- De Lattre sẽ không làm chúng ta như thế.
Họ quên mình vốn ghét de Lattre: viên tướng này coi khinh giới lắm tiền.
Đêm cuối cùng của chiến tranh
Hòa bình sắp đến: hòa bình trong nhục nhã.
Một lá cờ đỏ, giữa là ngôi sao Cộng sản, phất phới trên một con sào dài. Lá cờ chỉ đường một đoàn xe nhà báo đến Trung Giã; tại đây tiến hành một hội nghị hòa bình sóng đôi với hội nghị Genève.
Về nguyên tắc, cuộc gặp quy định ở một vùng không có người. Nhưng lá cờ Việt Minh, lần đầu tôi thấy, chứng tỏ chúng tôi đi vào vùng chiếm đóng: người Pháp thương lượng với tư cách những kẻ bại trận trong vùng những người chiến thắng.
Dưới lá cờ, nửa tá chiến binh của cụ Hồ, nhỏ bé, trong những bộ quần áo quá rộng, có vẻ như không thấy chúng tôi. Thân hình họ kín trong những đồng phục xanh lá cây rất mới không một phù hiệu. Những khuôn mặt khuất hẳn dưới những chiếc mũ tre đan còn phủ lá cây để ngụy trang. Ở những người này tôi chỉ nhận ra những mẩu khuôn mặt không thể hiện điều gì, không xúc cảm; họ có thái độ của những người tình nguyện đi đến cái chết.
Bỗng nhiên họ chĩa tiểu liên vào chúng tôi, xem kỹ giấy thông hành. Không một lời hay một cử chỉ. Không thể hiện khinh khi, đắc thắng. Cuối cùng họ nâng một thanh barie cản đường để chúng tôi đi qua.
Mấy mét xa hơn, những hiến binh Pháp đặc biệt mạnh khỏe, phô những khuôn mặt phương phi, cả một trang bị bằng da. Các nhà báo khó chịu tự hỏi làm sao những con người cao lớn da trắng và được nuôi dưỡng tốt như thế có thể bị những người mảnh khảnh da vàng nghèo khổ, đánh bại. Trên con đường nứt vỡ vì hố bom, hố mìn, những hiến binh này là biểu tượng sự bất lực mới của nước Pháp.
Tuy vậy vẫn còn đánh nhau. Chiến tranh tiếp tục, cả sau Điện Biên Phủ, cả sau khung cảnh quốc tế được dựng lên ở Genève để đàm phán hòa bình. Những sư đoàn Việt Minh ra khỏi núi rừng tràn xuống vùng châu thổ. Quân lính Pháp di tản, co cụm lại xung quanh con đường Hà Nội - Hải Phòng. Tướng Cogny chỉ trên tấm bản đồ rộng lớn của Ban tham mưu đất đai còn lại của người Pháp, nói: “Nó giống như một bộ phận sinh dục bị bệnh giang mai”. Những trận đánh giận giữ và đen tối luôn luôn xảy ra. Phó của ông, tướng Vanuxem tung các đội cơ động, xe tăng, những tiểu đoàn cuối cùng ra chống trả mãnh liệt. Cũng có vài trận chiến thắng. Họ bám trụ nhưng lực lượng địch vô tận, xâm nhập khắp nơi.
Người Pháp chiến đấu dũng cảm, dù đã mất lòng tin. Đối với toàn Đội quân viễn chinh, Điện Biên Phủ là một biểu tượng cao cả nhất: phải có một bước ngoặt để tiến lên chiến thắng. Nhưng sau tai họa không thể tin được đó, quân lính cảm thấy chán ngấy cả chính mình. Chỉ trong mấy tiếng đồng hồ, toàn đội trở thành buồn tẻ. Dưới nắng nóng của mùa hè Bắc Kỳ các sĩ quan và quân lính còn làm những động tác cần thiết để giữ chân quân
địch đang tràn tới. Nhưng chỉ vì kỷ luật. Tám năm ròng cái chết đã là kiểu cách trịch thượng cao nhất của Đội quân viễn chinh - họ lớn tiếng một cách khinh khi và khiếm nhã. Bỗng nhiên cái chết làm họ sợ. Lẽ phải đã thắng; ai cũng muốn sống, họ tính ngày giờ trước hòa bình sắp tới. Tôi đã nghe những câu tầm thường, trước đây là cả một sự sỉ nhục: “Bây giờ mà làm thủng da mình thì quá ngu đần”.
Những người Pháp ở thời vinh quang nhận lấy cái chết vô ích nhất vào buổi kết thúc khốn khổ này của cuộc chiến tranh Đông Dương, không còn muốn nữa. Tuy nhiên họ nhục nhã vì khuây khỏa trước hòa bình.
Người Việt không đặt ra những vấn đề ấy. Ngay trước tuần lễ cuối cùng họ bị chết hàng loạt. Thi thể họ chất thành chùm trên dây thép gai các đồn bốt. Những người tình nguyện hy sinh ôm bom mìn nhảy vào các lô cốt, tuy mọi việc đã được thu xếp ở Genève.
Cuối cùng đến ngày kết thúc chiến tranh: 26 tháng bảy năm 1954. Đình chiến bắt đầu vào ngày hôm sau lúc tám giờ.
Tôi lái chiếc xe jeep đi trên con đường bất khả xâm phạm của Bắc Kỳ, con đường lớn từ Hà Nội đi Hải Phòng. Đây là con đường thất trận. Lề đường đầy đổ nát, xe chạy giữa dấu vết nhiều vô số và đáng ngờ do những trận phục kích để lại giữa nền đất cháy sém. Đá dăm lấp đầy những đường hầm đào cắt ngang đường hoặc lỗ đánh mìn. Đủ loại phế thải, thùng xe tải, đầu máy xe lửa bị lật đổ trên đường sắt bên cạnh, được đẩy
xuống phía dưới, trong đống nhà đổ nát. Xa xa là làng xóm, có những mảng đang bốc cháy trên nước ruộng.
Dân chúng biến mất, dấu hiệu Việt Minh đã rất gần. Người ta chỉ thấy sự dàn trải vô vọng của binh lực Pháp. Những lô cốt bê tông, các đội pháo đang nhả đạn, xe tăng trực chiến nối nhau từ cây số này đến cây số khác. Nhưng việc triển khai lực lượng ấy không chắc chắn gì vì nét mặt quân lính nhuốm vẻ sợ hãi. Ở Đông Dương tôi biết được quá nhiều mọi thể hiện lo lắng. Và dưới vành mũ, những nét nhăn, những đôi mắt đăm đắm ấy có nghĩa là quân địch ở ngay bên cạnh, rất đông, giấu mình trong những gì còn lại trong xóm, sau những bụi tre, trong bùn ruộng, có lẽ chỉ cách mấy mét.
Tôi muốn tìm một người nói với tôi là không phải đã mất tất cả và cần tiếp tục cuộc chiến, tôi nghĩ đến con người cứng rắn Vanuxem, viên tướng phụ trách việc chống trả cuối cùng. Đó nguyên là một giáo sư triết học, chiếc đầu tròn của loại ăn thịt đồng loại xứ Flandre. Ông có một vành râu hung, đôi mắt xanh màu men sứ và bộ răng nhô ra khi cười. Trước đây đã bao lần ông lặp đi lặp lại với tôi người ta sẽ thất bại ở Đông Dương vì không dám làm điều cần thiết! Tôi đến Bộ chỉ huy của ông ở gần Kẻ Sặt, nhưng ông không có ở đấy, ông đang tung một đội cơ động trong cuộc tấn công cuối cùng. Tôi nghe tiếng súng ca nông của ông, hình dung ông tinh quái, tranh thủ thời cơ một lần nữa. Sau đó tôi hỏi, ông suy nghĩ và thân mật nói với tôi: “Chúng ta có thể trụ vững thêm mấy tuần lễ nữa.” Mấy xe thiết giáp nổi lên trên đoạn đường vòng, bắn vào một làng. Viên chỉ
huy, đứng, nhìn thẳng về phía trước với đôi mắt trống rỗng như chẳng còn gì quan trọng. Đấy là một viên thiếu tá kỵ binh có tên tuổi, thân hình gầy gò khổ hạnh. Đội quân viễn chinh đầy những nhà quý tộc như ông ta, sùng đạo và kiêu ngạo. Họ là những sĩ quan thuộc tầng lớp đặc quyền và đối với họ, nhiệm vụ là không phải chịu đựng gì.
Ông nhìn tôi với đôi mắt nhợt nhạt, không cảm giác. Như vậy ông tỏ ra không thích gặp tôi, chắc linh cảm được câu hỏi tôi sẽ nêu ra. Ông không muốn phải cúi đầu, cố gắng lắm để nói với tôi, giọng lạnh lùng:
- Trong chiến tranh tôi khinh ghét sự khôn ngoan. Than ôi, đấy là giải pháp duy nhất còn lại cho chúng ta. Ông đã bao giờ thấy con bọ hung bị kéo vào tổ kiến chưa? Chúng ta đang trong tình trạng ấy. Chúng ta buộc phải chấm dứt cuộc chiến tranh này. Chào ông.
Tối đến tôi được một bốt thu nhận, một công trình bằng bê tông trên có những tháp nhỏ như người ta làm thời tướng de Lattre. Bốt được một đội quân đồn trú lính thủy đánh bộ bảo vệ. Đã đến giờ ăn và các sĩ quan dũng cảm của bộ binh thuộc địa ăn không nề hà. Bàn ăn là một chiếc thùng to và những hộp nhỏ làm ghế ngồi. Lính Sénégal mang những cà-mèn thức ăn tới. Thực khách mình trần, ngực nở đầy mồ hôi và lông lá, ăn uống nhồm nhoàm. Không có quạt máy, một cậu bồi người Annam kéo dây chiếc quạt tự tạo. Trong nhóm người này tôi không tìm thấy tính chất lãng mạn nào là lương tri của con người.
Một đại úy già, cựu binh của những cuộc chiến tranh thuộc địa, miệng đầy thức ăn giải thích cho tôi quan điểm của các sĩ quan chỉ huy đồn bốt; họ đã chán ngấy, họ vui mừng đón hòa bình.
Trong vùng châu thổ, các đồn bốt bị vây hãm thường xuyên. Đây là những Điện Biên Phủ nhỏ. Không đêm nào Việt Minh không hạ một, hai bốt. Hoàng hôn xuống là cuộc xổ số bắt đầu, mỗi đơn vị đồn trú tự hỏi: “Đến lượt chúng ta chăng?” Người ta xấu hổ vì vui mừng thấy công trình bên cạnh bị tấn công. Chỉ còn việc theo dõi qua đài bi kịch diễn ra sát bên mình cho đến khi nó im lặng vì cái chết.
“Chúng tôi tất cả bị ám ảnh bởi những cuộc tấn công liên miên ấy. Vì đêm sau hoặc một đêm khác sẽ là hình ảnh kết thúc của bản thân chúng tôi. Chúng tôi biết trước sẽ chống cự được và không người nào đến cứu. Chỉ đến sáng ra một đội gọi là giải thoát sẽ đi khảo sát những gì còn lại. Đấy là kỳ hạn bị cưỡng chế; vì vậy thần kinh chúng tôi căng thẳng và những bột phát tâm thần tăng lên nhiều.”
Tôi trải qua đêm cuối cùng của chiến tranh ở bốt này, giữa đội quân đồn trú chen chúc trong khối bê tông. Mọi quân lính ở Bắc Kỳ cũng như tôi, bó mình trong các bốt, các trại, các thành phố. Khắp nơi người ta chen chúc thành nhóm nhỏ để tự bảo vệ trong đêm tối đầy người Việt. Nhưng cả trong những chỗ ẩn họ cũng không cảm thấy an toàn; bị kích động bất thường với toàn bộ vũ khí chống lại hiểm nguy thực sự hoặc tưởng tượng khắp trong không gian và thiên nhiên. Những người Pháp chiến đấu
với đêm tối, đồng minh của Việt Minh. Bầu trời sáng lên vì hỏa tiễn của họ. Một số như những áo dài có đuôi, số khác lơ lửng như khối thủy tinh mờ, vài hỏa tiễn lao lên như những mũi tên màu. Không trung là một trận hỏa pháo, mặt đất bên dưới là các loạt đạn đại bác. Súng Pháp bắn khắp nơi. Đêm cuối cùng này là một cơn thác đổ đạn và ánh sáng. Giữa những tiếng rít và tiếng nổ, hầu như từng phút những tia chớp xua tan bóng tối bao trùm mặt ruộng: đạn cối đang dội vào đất cày.
Không phải một trận đánh lớn, chỉ là một ảo giác do sợ hãi. Chỉ có những mục tiêu thứ yếu nhưng người ta tô vẽ lên và ưu tiên dội bom đạn vào: người ta không “đánh dùi cui” vào những người Việt thực mà vào những người Việt giả thuyết có thể tấn công. Người ta làm đảo lộn ban đêm. Mỗi bốt “bọc kín” những bốt bên cạnh để bảo vệ họ; tất cả các bốt dựng lên quanh những bốt khác thành một bức màn bằng thép. Vùng châu thổ Bắc Kỳ là một hình đa giác bốn cạnh đầy trọng pháo đạn dược bắt đầu từ Việt Trì và kết thúc ở Hải Phòng.
Chỗ của tôi không bị tấn công. Viên đại úy chỉ huy chỉ cho bắn đạn cối vào một điểm chốt tối tăm có vẻ đáng ngờ. Bình minh lên trên một quang cảnh không thay đổi. Còn một số vụ nổ, vài loạt tiểu liên lẻ loi. Tất cả ngừng lại lúc tám giờ. Kèn đình chiến vang lên, và rồi sau tám năm chiến tranh, tôi thấy cảnh yên lặng của hòa bình.
Sau mấy phút một dân quê già chậm rãi tiến lại. Ông lấy trong tay áo ra một lá cờ đỏ bằng giấy, bình thản treo lá cờ lên một cây to cách tháp canh mấy mét rồi ông đi.
Đại úy chỉ huy bốt cũng thấy cảnh ấy. Đầy ân hận, ông nói với tôi:
- Chính để đi đến chỗ ấy mà bao nhiêu người Pháp chết! Nhưng xấu hổ hơn bại trận là sự phản bội của chúng ta sắp tới. Chúng ta đã trụ vững lâu ở vùng châu thổ này vì hai trăm nghìn người Việt Nam là lính của chúng ta và một triệu đàn ông, đàn bà đã giúp đỡ chúng ta. Người ta sẽ phó mặc. Tôi tự hỏi phải chăng định mệnh trút xuống nước Pháp, buộc phải bỏ rơi người của mình để họ đi vào chỗ chết.
Trong buổi sáng một số người câm lặng đến bốt. Họ có những khuôn mặt kín đáo thể hiện sự đau khổ của Châu Á. Đấy là những vệ binh của một làng Thiên Chúa giáo chống cự hai năm với Việt Minh. Bao nhiêu lần họ ẩn náu trong nhà thờ bằng đá của họ như một đồn lũy cuối cùng! Cha cố làm lễ ban thánh thể cho những người chiến đấu và đàn bà cầu Chúa. Bây giờ họ đến trả lại vũ khí vô dụng cho người Pháp đã trang bị cho họ.
Cha cố nói thay họ. Ông cám ơn người Pháp. Tôi chỉ thấy ở ông một khuôn mặt vàng, tóc cắt ngắn với khăn choàng cổ màu đen. Viên đại úy trả lời, mời ông ở lại bốt cùng quân lính: người ta sẽ đưa họ đi. Cha cố lắc đầu bảo không. Ông trở về làng với đoàn người của ông sau khi trả những khẩu súng không một lời phàn nàn: nhưng vẻ lễ phép câm lặng ấy là một thái độ trách cứ đến mức nào!
Những khối chuông đồ sộ vang lên quanh vùng, khắp đồng ruộng. Tôn giáo ở đây như thời Trung cổ. Nhà thờ đè nát xóm
làng khốn khổ, cha cố có quyền lực tối cao. Ở mỗi bàn thờ một linh mục giảng đạo. Ông ta khuyên nhủ con chiên giữ vững tinh thần trước sự truy bức và hành hạ sắp xảy đến: ông cầu xin Chúa thương xót họ. Ông nói người Pháp bỏ rơi họ nhưng Chúa sẽ bảo vệ họ.
Đội quân khốn khổ Việt Nam cũng trong một tình trạng thảm hại. Viên đại úy Pháp quyết định đến một trong những tiểu đoàn cách bốt một cây số. Tôi đi theo ông ta. Tất cả đều bình lặng. Một số đàn ông tắm trong một con ngòi. Xa hơn một ít, đàn bà mình trần, đang gội rửa. Họ thật đẹp với thân hình trơn tru và mảnh khảnh, mái tóc đen dài quấn xuống đến chân! Đây là những người lính cuối cùng của đơn vị và vợ họ. Mọi người khác đã đào ngũ, để lại vũ khí và lời xin lỗi.
Khi chúng tôi đến gần, đàn ông mặc lại xi líp, tới hỏi: “Chúng tôi sẽ ra sao đây?” Sĩ quan của họ đã biến mất. Bản thân họ thậm chí không biết có còn một chính phủ Việt Nam không. Đàn bà, đã quần áo nghiêm chỉnh, đến nghe chúng tôi nói chuyện. Trẻ con trần truồng, bụng to, đi đi lại lại thật buồn cười. Viên đại úy hứa người Pháp sẽ đưa họ vào Nam Kỳ. Nhưng một hạ sĩ quan già da vàng vỗ vào cánh tay đại úy:
- Chốc nữa khi quân Việt Minh đến, chúng tôi sẽ làm gì?
Viên đại úy Pháp nhún vai tỏ ý bất lực. Lúc ra về ông ta nói với tôi:
- Tôi không nhận được lệnh, tôi chẳng biết làm thế nào.
Về đến bốt chúng tôi thấy mỗi cây to xung quanh đã phấp phới một lá cờ đỏ.
Làn sóng đỏ
Làn sóng đỏ tràn lên vùng châu thổ, chỉ còn là một rừng cờ. Trong các làng, nông dân xây dựng các vòm chiến thắng, trên cùng là ảnh cụ Hồ. Các “Ủy ban hành pháp” ngồi thường trực trên các bệ. Cái mà người Pháp gọi là “rửa nát” trồi lên mặt, trở thành quyền lực hợp pháp mới giữa những tiếng hát và điệu nhảy. Tôi đi đến đâu, những đám đông đều tỏ rõ thân thiện tiếp đón tôi vừa hô lớn: “Nước Pháp muôn năm!” Vì đã có những chỉ thị cụ thể đưa xuống tận cơ sở, đến từng người lính, người dân. Hôm trước các ủy viên chính trị đòi hỏi phải căm thù người Pháp, phải hy sinh để giết thêm mấy người. Họ ra lệnh cho quân du kích đặt mìn trên đường đi ngay trong đêm cuối cùng và kéo dây lật đổ những chiếc xe Pháp cuối cùng đi qua.
Nhưng đến tám giờ đúng, tất cả chỉ còn là tình thương và thân thiện. Không nói đến cuộc chiến tranh liên miên nữa. Nhưng sự tàn bạo đối với nhau, những giết chóc không kể hết, những dòng thác căm hờn phải được quên đi. Điều quan trọng nhất là thỏa thuận Genève và việc thực thi “toàn vẹn”, tay trong tay với người Pháp. Toàn dân, kể cả các bà già không biết chữ và những em bé sáu tuổi, học thuộc lòng các điều khoản của hiệp định. Các ủy viên chính trị Việt Minh soạn thành sách dưới dạng câu hỏi và trả lời, bình luận những gì đúng, sai.
Quân đội của ông Giáp đêm trước còn vây hãm các đồn bốt Pháp và cắt con đường Hà Nội - Hải Phòng, đã biến mất như bốc hơi. Chỉ còn lại một số sĩ quan quân phục tề chỉnh; họ đến các ban tham mưu của Đội quân viễn chinh chào hỏi đúng điều lệnh và đề nghị tiến hành công việc với thứ tiếng Pháp rất chuẩn. Họ chỉ những chỗ đặt mìn trên đường, cắm những lá cờ nhỏ lên đấy làm dấu hiệu. Và họ ra đi sau những nghi thức quân sự lịch sự, vừa hô lớn: “Hòa bình muôn năm!”
Thay thế đội quân chính quy là phụ nữ, trẻ em và người già. Trong chốc lát làn sóng đỏ hân hoan biến thành một đợt triều dâng. Dân quê được huy động đấu tranh với những người khốn khổ khác, những người đàn ông đàn bà thất vọng muốn trốn vào Nam. Cuộc chiến chống những kẻ này kéo dài tám mươi ngày, từ lúc ngừng bắn đến lúc quân Pháp rút khỏi Hà Nội.
Đám đông bao vây tất cả, những đồn bốt nhỏ của quân Bảo an hoặc mấy người lính Việt Nam. Giờ đây quân vây hãm là thành viên Hội Phụ nữ Dân chủ, Đoàn Thanh niên mới, Hội Mẹ chiến sĩ, Phụ lão cứu quốc, Nông dân cứu quốc. Ngày đêm dân chúng bao vây mọi tổ chức của chính quyền Bảo Đại bằng các chiến thuật khác nhau.
Các ủy viên chính trị cầm loa kêu gọi với lời lẽ đầy vị tha. Nhưng các bà già đã rụng hết răng móm mém nói những lời đe dọa, bảo sẽ chém chết những kẻ ngoan cố. Người ta cử vợ con những kẻ bị vây hãm đến van nài họ đầu hàng. Nếu không họ sẽ làm nhân dân nổi giận và bị bao vây giữa những vòng người cầm gậy, tay không, gạch đá, chửi mắng. Đám đông có vẻ sẵn
sàng xông lên, phá toang tất cả, nhưng không bao giờ xảy ra tấn công. Vì trong cuộc chiến nhân dân này không được đổ máu, mà phải “thuyết phục”.
Nhiều đám đông dồn lại xung quanh những người lầm đường, thân mến và giận hờn thuyết phục cho đến lúc họ không còn chống cự: “Chúng tôi đã hiểu ra lẽ phải. Chúng tôi hối hận về quá khứ tồi tệ. Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm!” Lúc ấy nhiều người tung hoa hoan nghênh và công kênh họ.
Đội quân viễn chinh cố cứu những người Việt Nam ủng hộ họ. Ban tham mưu của Hà Nội ra lệnh cho các trưởng bốt, các đơn vị giải thoát cho binh lính Bảo Đại bị bao vây. Đây là cuộc chiến lạ nhất trong cuộc chiến tranh lạ lùng ở Đông Dương. Các sĩ quan không đánh nhau với cái chết nữa mà với những lời hoan hô. Họ không có khí giới, đối đầu với những bức tường người gồm hàng nghìn dân quê hô vang: “Xin chào Quân đội Pháp”. Họ phải qua những đám đông ấy đi đến binh lính Bảo Đại đang bị vây. Thật đáng sợ. Một trung úy nói với tôi: “Tôi sợ việc này còn hơn trong một trận đánh thật sự.”
Thực vậy, những tiếng hô thân thiện, những nụ cười, mọi thể hiện thân mật đều không thật. Nỗi căm hờn sẵn sàng bùng lên. Để khỏi bị tan xác, những người Pháp thực hiện việc cứu binh lính Bảo Đại chỉ có thể dựa vào kỷ luật của Việt Minh. Nhưng may mắn, kỷ luật ấy là triệt để.
Sĩ quan Pháp thường đến chậm. Đám đông dẫn lại cho họ những binh lính Bảo Đại mang đầy hoa, phất cờ đỏ và tuyên bố
rất hạnh phúc được trở về với nhân dân. Có những lần khác những kẻ bị vây hãm vẫn trụ lại nhưng thật điên rồ. Họ chống cự vì lo sợ, thậm chí đầu hàng cũng sợ, đến mức không dám rời chỗ bị vây để đi theo người Pháp qua đám đông luôn hiện diện, nhiều hơn bao giờ hết, mắng mỏ và kích động. Đôi khi những người ấy phải tranh cãi nhau hàng giờ để quyết định trong lúc bên ngoài vẫn gào thét. Cuối cùng những sĩ quan Pháp trở ra, mặc quân phục giữ nguyên lon và vạch. Binh lính Bảo Đại bám theo họ như những kẻ dở sống dở chết, được dìu đỡ. Hàng nghìn dân quê xiết chặt quanh những toán người lạ lùng ấy trong tiếng chửi rủa lẫn tiếng hô “Nước Pháp muôn năm”. Nhưng một cán bộ - ủy viên chính trị - ra lệnh và người ta để họ đi qua.
Việt Minh vẫn không bỏ cuộc. Người Pháp xếp những kẻ bỏ trốn lên xe nhưng đàn bà, trẻ em trong đám đông lấy thân mình làm rào chắn, nằm chặn ngang đường. Dân chúng ào lên xe quân đội Pháp: binh lính Bảo Đại không một cử chỉ chống cự và bị lôi đi. Một tiểu đoàn bị lột hết quần áo trong cơn thịnh nộ của dân chúng. Người Pháp dùng thiết giáp hộ tống xe những người chạy trốn; các “nữ anh hùng”, chạy tới trước bánh xích để ngăn cản.
Tuy thế người Pháp cũng thắng lợi trong cuộc chiến này. Trong vùng châu thổ họ đưa được về Hà Nội hàng trăm nghìn con người bị dồn đi, giáo dân, quân lính, bảo an, thân hào, các điền chủ, thương gia. Nhiều người trong số họ lúc đầu quyết định ở lại dưới chế độ Việt Minh. Nhưng rồi họ chạy trốn vì sợ bị trả thù.
Đối mặt với “niềm vui” Việt Minh, vô số đàn ông và đàn bà rời bỏ xóm làng sống lâu đời, bàn thờ tổ tiên, mọi tài sản ít ỏi để di cư vào Nam Kỳ xa xôi.
Giai đoạn tha hương đầu tiên là Hà Nội và những hè phố, tuy khung cảnh đẹp của thành phố này không nhằm để trưng bày cảnh khổ sở!
Ra khỏi một khách sạn Pháp sang trọng, tôi bước vào một con đường đông đúc. Lúc này không có ai nhưng một đoàn người bỏ trốn vừa tới đây. Tôi thấy những người dân quê này suy sụp đến mức nào về tâm lý. Xung quanh tôi chỉ là những người da nhăn nheo quá gầy hoặc bị phù thũng thường là mưng mủ. Một phụ nữ đang cho con bú. Đám người này ngồi xổm để chờ, lắc lư vô định. Tôi nhận ra những người lính bảo an qua tàn tích đồng phục Pháp nhưng đa phần là người Cơ đốc giáo đeo thánh giá ở cổ. Những bà già răng đen mang ảnh Chúa và Đức mẹ đồng trinh. Giọng chói tai, họ cám ơn Chúa đã kéo họ ra khỏi tay những người nghịch đạo. Một cha xứ chúc phúc cho giáo dân xung quanh: ông ta lôi kéo toàn bộ tu viện di dân vì lòng tin. Ông hỏi tôi:
Chúng tôi đói rồi. Bao giờ người ta cho chúng tôi ăn?
Cuộc di dân được tổ chức dần dần. Quan chức Việt Nam của tổng thống Diệm không làm gì hết, người Pháp vất vả vô cùng với những người trốn đi này, như vì hối hận đối với họ. Họ tổ chức một cầu hàng không kéo dài một năm để đưa vào Nam Kỳ những nạn nhân Châu Á của thảm bại Bắc Kỳ. Nước Pháp có một
nỗ lực từ thiện rất lớn để chuyên chở hơn một triệu đàn ông, đàn bà đi hơn một nghìn cây số. Sau này Diệm tuyên bố cuộc di dân này vừa là công trình to lớn của ông ta vừa là một phép màu của Chúa. Thật là một định mệnh lạ lùng, trong sự kết thúc chiến tranh Đông Dương này mọi việc người Pháp làm quay ra chống lại họ. Vì khối lượng lớn những người trốn chạy này là công cụ Diệm dùng làm người Pháp thất bại lần sau ở Sài Gòn.
Một trăm ngày ở Hà Nội
Đội quân viễn chinh có một trăm ngày để rút khỏi Hà Nội. Trong ba tháng, thành phố chỉ là một đảo nhỏ người Pháp giữa làn triều đỏ bao trùm châu thổ.
Hà Nội chuẩn bị kết thúc. Đây là một công việc tỉ mỉ và có phương pháp, không tình cảm, không lộ rõ buồn vui. Lệnh đưa ra triệt để. Xe Pháp tuần tra liên tục. Việt Minh không lộ diện, thậm chí họ không treo một lá cờ trong thành phố. Tổng bộ, hội đồng tối cao đã quyết định như thế.
Cho đến hạn định, mọi việc xảy ra như dự kiến. Không phải nỗi thất vọng mà là sự uể oải. Tuần lễ này qua tuần lễ khác, các khu phố tư sản vợi hẳn, cửa chỉ còn rào dậu. Mọi đồ đạc của thành phố đưa ra bán ở chợ đồ cũ nhưng không ai mua. Ở Châu Á những biến cố thường kéo theo nạn đầu cơ lạ lùng nhất. Đây không thế. Hà Nội biến dần vào hư vô.
Những khuôn mặt vẫn vô cảm tuy mỗi người dân thành phố đang trải qua một bi kịch nội tâm. Đấy là giờ lựa chọn
không tránh khỏi, chấp nhận ở lại hay ra đi. Thời gian trung thực đã đến. Bao nhiêu tư sản Việt Nam sống trong chiến tranh giữa sự thịnh vượng Pháp, tự dối mình, dối những người khác cho rằng Việt Minh không phải cộng sản! Từ nay mọi sai lầm sẽ tai hại. Không còn ai có quyền lầm lẫn về vai trò thực sự của mình.
Ở Hà Nội mỗi người Việt Nam lo lắng tự hỏi: “Thực sự Việt Minh xếp mình vào giai tầng nào? Họ chuẩn bị cho mình số phận nào?” Khốn nạn cho người nào chọn lựa sai trong những ngày cuối cùng này vì sẽ trả giá rất đắt.
Những người Pháp dân sự đỡ khổ sở hơn. Đối với họ chỉ là sự thanh toán một công việc kinh doanh béo bở. Họ không vội ra đi vì khi mà Đội quân viễn chinh còn đó thì họ còn kiếm ra tiền. Các vũ trường, khách sạn, quán rượu tồn tại cho đến ngày cuối cùng. Trong thành phố hấp hối, người ta nhảy, ăn, uống, những két nhận tiền loảng xoảng.
Nhà triệu phú M.G... tổ chức một bữa tiệc chia tay ở biệt thự đầy cột và hiên của ông ta. Giọng nói thân mật của ông át cả tiếng mở nút champagne. Ông ngồi chủ trì, người béo tốt, da rất nâu, vẫn tự phụ và rất vui. Các tướng lĩnh, quan chức cao cấp đến bắt tay ông như đối với một người bạn cũ. Họ giao du với những kẻ tái phạm tội, những kẻ trục lợi, các nữ chiêu đãi viên. Một dàn nhạc giúp vui và những người phục vụ, điệu bộ kiểu cách đi lại giữa những tủ thức ăn linh đình. Các bà bận áo dài nhiều lớp. Bà G... một nghệ sĩ lai Âu Á vừa mới cưới, tóc búi tó, phân phát quanh mình những nụ cười bí hiểm và cao đạo.
Nhưng cô em gái bà gây bê bối. G... quở trách cô. Mọi người mỗi lúc càng vui vẻ, hầu như sau. G... lại kể một lần nữa thành công của mình.
- Tôi ở đất nước này đã ba mươi năm. Tôi quen biết cả, những người cấp cao và người thấp kém, tôi quan tâm nhất việc buôn bán. Nhưng năm 1950, khi biên giới Trung Quốc bị phá vỡ sau thất trận ở Cao Bằng, toàn thành phố có gì bán nấy. Tôi tự nhủ chưa thể là tai họa thực sự: nước Pháp sẽ hành động, cố sức tiêu tiền. Tôi mượn những đồng Đông Dương, mua nhà cửa, khách sạn gần như không mất gì. Và tôi đúng vì de Lattre đã sang.
- Lần này ông có đầu cơ như thế nữa không?
G... phá lên cười:
- Không! Tôi đã bán đi từ lâu, đưa tiền ra ngoài. Tôi biết cà rốt được nấu chín rồi.
Kết thúc một nền văn minh chỉ là thế: ông G... tài ba, vua các thú vui của Hà Nội, chiêu đãi dạ tiệc linh đình này giữa sự lộn xộn, lẫn lộn các sĩ quan và những kẻ phiêu lưu, như không còn gì có giá trị.
Tuy vậy thu xếp xong công việc, những người Pháp dân sự tiếp nhau ra đi. Thế nhưng trong lúc khai vị một số “ông già” thuộc địa thề sẽ ở lại Hà Nội. Người ta thấy những người về hưu này, khuôn mặt sạm nắng, đội mũ bê-rê, kích thích lẫn nhau. Họ yêu và khinh khi người Annam: họ biết rõ những người dân này,
đúng không? Không vì dân quê trở thành Việt Minh mà họ, những người cũ sợ hãi.
Chỉ khoảng nửa tá trụ lại. Trong số đó có tình nhân của một người Pháp tên là Nini. Nini xấu nhưng cô tốt và biết tiêm thuốc phiện. Và người Pháp của cô có thể làm gì khác? Gầy gò, răng rụng, đau yếu, anh ta chẳng còn tích sự gì. Anh làm đủ mọi nghề, từ săn thú rừng đến làm báo; và anh không muốn thử vận may ở nơi nào khác. Thà nổ bung ra tại chỗ.
Những người khác, trong số những cặn bã da trắng - các tay nghiện thuốc phiện,“chạy theo con gái”, những binh lính cũ sống theo kiểu Annam - ra đi. Số phận của họ cũng bi ai. Không có tiền, không biết rõ nước Pháp, không có bà con, bạn bè ở đó. Cuộc sống của họ là thành phố Hà Nội này, xứ Bắc Kỳ này. Họ không thể thích nghi với kiểu sống hành chính sắp bắt đầu - đi lại tập thể trên xe Nhà nước chi trả, các trại, những chỗ nội trú. Họ sẽ trở thành những người ở đâu đó. Nhưng tất cả những điều ấy người ta không thấy được.
Cũng biết bao nạn nhân là người lai Âu Á! Tám mươi năm chế độ thuộc địa để lại ngoài lề một lớp người không cơ bản - dân lai với những nghề bị khinh rẻ, các bà mẹ Annam của con lai, vợ hoặc vợ lẽ da vàng của những người Pháp mất tích và vô số những đứa trẻ do Đội quân viễn chinh tạo ra. Không ai biết rồi họ sẽ như thế nào.
Có ai nhận thấy những bi kịch ấy? Xã hội tư sản thu vén tài sản nhưng không mang theo được các xí nghiệp và hầm mỏ của
họ. Vì thế trong các hội đồng quản trị nổi lên ẩn ý: “Phải chăng chúng ta cũng có thể điều đình với Chính phủ Hồ Chí Minh để có cách nào đó tiếp tục hoạt động?” Vì những công ty mới đây rất tồi tệ ở Thượng Hải, các công ty lớn châu Âu, tất nhiên đề phòng mọi mặt, di tản toàn bộ nhân viên da trắng nhưng bí mật xúc tiến những thương lượng vô cùng tế nhị và bền bỉ.
Đến một lúc tôi không còn thấy người Pháp nữa: cuối cùng họ đi hết. Lúc đó những nhà tư sản da vàng đến than thở với tôi số phận khắc nghiệt của họ. Tôi ái ngại cho họ sao được? Họ hèn hạ xấu xa. Điều xảy ra do lỗi của họ, hèn nhát và kiêu căng. Họ đã nghĩ mình ranh mãnh, tuyên bố “trong lòng ủng hộ Việt Minh” nhưng vẫn ở lại các thành phố làm ăn được quân đội Pháp bảo vệ. Họ làm giàu ghê gớm bằng đồng bạc của nhà băng Đông Dương. Vợ họ mang đầy kim cương, con họ học ở Pháp. Tuy vậy họ đau khổ “về tinh thần”: rất mẫn cảm về tất cả những gì là của Pháp. Một lần tôi nói chuyện với một người trong bọn họ, ông ta mỉm cười cao đạo khẳng định: “Việt Minh khi vào Hà Nội sẽ cần đến những người như tôi”.
Những người Việt sẽ đến. Và, vào phút chót, những nhà giàu Annam chạy trốn ngay vào Sài Gòn. Họ chuyển đồ đạc, mang đi tất cả, vợ lớn vợ bé, bố mẹ già, con cái không đếm xuể, đồ trang sức, các bảng nghi lễ, đồ gỗ đen. Tiền đã gửi vào chỗ từ lâu. Họ chỉ để lại một người bà con nghèo, giao trách nhiệm thỏa thuận với phe đỏ.
Họ không xứng đáng được thương hại vì đã lợi dụng cuộc chiến tranh. Những tư sản đáng kính duy nhất, được ái ngại sâu
sắc là một số yêu nước vì lý tưởng, đánh nhau chống Pháp. Những người ấy là kẻ địch thực sự, giết sĩ quan và binh lính Đội quân viễn chinh. Nhưng sau khi ở lại nhiều năm với người Việt, cuối cùng họ trở về trong một Hà Nội người Pháp tạm chiếm do chán ngán chủ nghĩa cộng sản. Những người ấy không nhiều nhưng họ trung thực và nghèo. Hơn những người Việt Nam khác họ sợ thế giới Việt Minh sắp tới.
Một người trạc ngũ tuần, mang huân chương, tiếp tôi tại nhà - Ông được một Toàn quyền khen thưởng đã lâu, sau đó là một bộ trưởng trong Chính phủ Hồ Chí Minh. Bây giờ ông dẫn tôi lại trước bàn thờ tổ tiên nói với tôi:
- Tôi sinh ra trong ngôi nhà này. Nó là của bố tôi và các gia tiên quan lại của tôi. Đây là vật quý nhất của tôi trên đời. Mấy hôm nữa tôi sẽ bỏ nó đi vĩnh viễn. Tôi không muốn sống với Việt Minh, những người tôi biết rất rõ. Tôi ra đi không có một đồng bạc. Tôi mang theo bà mẹ già, một người đàn bà góa vốn không bao giờ rời thành phố này, vùng châu thổ này. Chắc bà sẽ chết vì điều đó. Tôi là tất cả của bà. Thế mà bà nói với tôi: “Đừng nghĩ ngợi về mẹ, con đi đi vì con cần phải thế.” Bà muốn tôi để bà lại, sợ sẽ là một gánh nặng cho tôi trong cuộc sống khó khăn phía trước.
Thực lòng, là người Pháp, tôi cảm thấy có tội với những “con em”, những viên chức hợp tác với chúng ta. Họ mất mát vì chúng ta và Việt Minh sẽ không lay chuyển với họ. Hòa bình cứu chúng ta, những người Pháp với giá những người khốn khổ ấy.
Tôi nghĩ đến đội quân làm thuê - bồi, bếp nam nữ, những ông thư ký và phiên dịch, đến những tên vô lại cần thiết, gái điếm; và có cả những mật thám, chỉ điểm, tất cả những người tay chân. Người ta sai họ phục vụ những thú vui, làm tất cả mọi công việc kể cả những việc xấu xa nhất. Có lẽ họ đáng khinh nhưng đó là lỗi của chúng ta. Người ta làm họ hư hỏng rồi bỏ đi. Những người Pháp của Hà Nội và cả những người Việt Nam giàu có đã đề phòng, họ “biết trước”. Nhưng những người khổ sở này ngây thơ, tin tưởng; cho rằng nước Pháp không thể sụp đổ. Nhiều người làm không chỉ vì lợi lộc, họ “tận tâm”, bao nhiêu người gian nguy vì chúng ta, bị tra tấn và ám sát; cũng vì chúng ta. Bây giờ họ là những người bị ruồng bỏ. Người ta hứa những khoản trợ cấp, người ta phỉnh nịnh: Hãy đi theo chúng tôi. Nhưng nếu họ làm thế họ sẽ khốn khổ, nếu không là cái chết.
Tôi đang trên bờ sông Hồng, ở Việt Trì, trên một bãi rộng, chỗ số lớn tù binh được trao trả cho chúng ta. Tôi chờ đợi hàng giờ dưới một bụi tre. Việt Minh đã biến đổi vùng cây xanh hoang vắng này thành một khu vườn Phương Đông đầy đá sỏi, đường mòn khúc khuỷu và cờ hoa. Các nhà báo của Chính phủ Hồ Chí Minh, da nhẵn như bộ đồng phục kaki, nói chuyện rất lễ độ đối với tôi và mời tôi uống nước chanh. Họ nói tù binh ở trong một trại cách đây mấy trăm mét nhưng họ không biết giờ trao trả: đấy là một bí mật quân sự.
Đến trưa điệu nhạc xa xa dội qua cây cối, tiến lại gần từng phút một. Đấy là một điệu vũ miền Provence, một lễ hội đồng quê.
Một sĩ quan liên lạc Việt Minh rạng rỡ nụ cười đôn hậu. Ông ta tâm sự với tôi:
- Họ đến gần rồi đấy. Ông nghe xem, họ sung sướng biết mấy.
Tiếng ồn tăng dần nhưng tôi vẫn chưa thấy gì. Chỉ mười lăm phút sau một dàn nhạc của quân đội nhân dân lộ ra khỏi cây cối. Một người đàn ông đi lui tiến về phía chúng tôi vừa đánh nhịp. Hai chiến sĩ nữ, tết tóc, theo sự chỉ huy vỗ đàn ghi-ta mang trước người. Một người lính đánh trống, một người khác thổi ác mô-ni-ca.
Phía sau tốp nhạc, đoàn người được giải phóng tiến theo hàng tư. Họ vừa đi vừa nhún nhảy, múa hát, vỗ tay. Bên cạnh họ, một cán bộ đi theo đội ngũ, kích thích cuộc vui.
Các tù binh bước bên cạnh không nhìn tôi theo nhịp hành quân của Lữ đoàn Sông Hồng. Đấy là quân lính lê dương và những người A Rập, khuôn mặt phồng lên và xanh xao nhưng họ tỏ ra sung sướng. Ít nhất quân trông giữ cũng đã dạy cho họ cách thể hiện vui mừng: lối vũ đập chân, hát đồng ca, vỗ tay. Họ được tập dượt nhiều về những động tác ấy, đặc biệt cứ năm giây lại vỗ tay vào nhau. Tóm lại là một nhịp điệu ám ảnh thể hiện sự hoan hỉ.
Nối đuôi đoàn người, một số đau ốm không đi được, chỉ hát; các nữ chiến sĩ dìu họ.
Cả đoàn vừa đi vừa nhảy, bước xuống tam cấp đưa ra bờ sông Hồng. Hàng nghìn nam nữ nông dân tôi không rõ từ đâu
mang cờ và băng rôn hiện ra. Họ có một chỉ huy luôn hô lớn: “Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm”,“Hòa bình muôn năm”, “Tình đoàn kết giữa nhân dân Pháp và Việt Nam muôn năm”. Mỗi lần như thế, đám đông sôi nổi lặp lại những khẩu hiệu ấy vừa vỗ tay. Các tù binh cũng hét lên, ban nhạc rung lên. Cả một cảnh cuồng nhiệt.
Khi đoàn người đến một nền cao dựng trên mép nước, tất cả im lặng. Phía bên kia một thanh chắn mỏng manh là nước Pháp, những sĩ quan tiếp nhận của Đội quân viễn chinh. Một chiếc tàu LCT sàn rộng, chờ chuyển người đi.
Sau cùng, trước vòng cuối, người cán bộ đọc danh sách. Cách mấy mét, quân lính Pháp mặc đồng phục phụ trách tiếp nhận ra hiệu thông cảm với tù binh. Những người này không trả lời, trông như chết. Đã đến thời điểm lo lắng nhất, thời điểm phán xét cuối cùng. Họ rất sợ cán bộ bỏ sót, không nghe thấy tên mình trong danh sách! Họ còn e ngại vào những phút chót đã vụng về làm Việt Minh nổi giận và đưa họ trở lại đất nước cộng sản này. Các sĩ quan Pháp tiếp nhận có thể ở bên cạnh; họ không đáng gì so với thực tế đỏ đang tồn tại.
Nhưng kìa, những người được giải phóng bước ra con đường giữa thế giới Hồ Chí Minh và người Pháp. Ban nhạc và tất cả những người Việt Minh đi theo họ trong niềm cuồng nhiệt ôm nhau và chúc sức khỏe. Hai chiến sĩ nữ vẫn bấm phím đàn ghi
ta; các cô cười, ôm hôn đứng đắn. Khi người cán bộ vỗ tay, mọi tù binh cũ của ông cũng đột nhiên cùng làm động tác như thế.
Người cán bộ chính trị này, một lực sĩ, tiến lên như một con mèo rừng trên đôi dép cao su, đứng trước cánh cửa sắt hạ xuống của chiếc tàu. Ông nổi lên bên cạnh viên trung úy hải quân mang lon vàng, những đại liên Pháp đã nạp đạn, lá cờ tam tài bay trên chiếc cán dài. Hình như ông không trông thấy bộ máy quân sự ấy, ông đưa bàn tay thân thiện cho tất cả những tù binh bước lên chiếc tàu Pháp: không ai từ chối ông. Và khi chiếc LCT nổ máy rời bến, ông kêu lớn:
- Hãy nói chúng tôi đã đối xử tốt với các anh như thế nào.
Chiếc tàu rời bến. Những người được giải phóng, trong bộ quần áo “dân dã” vẫn không tươi cười. Cả khi một hội cứu tế xã hội la hét họ cũng không tỉnh lại. Chỉ khi chiếc tàu vào đúng dòng chảy đi xa khỏi Việt Trì họ mới bắt đầu hồi sinh, phản ứng lại những gì họ đã chịu đựng. Một người cầm chiếc mũ tre đan trên đầu ném xuống nước. Anh xua đuổi, phá bỏ quá khứ bị bắt. Rồi từng người một, những tù binh được giải phóng nghiêm trang làm động tác tượng trưng ấy, nên nhiều chục chiếc mũ trôi trên dòng chảy và chìm xuống.
Những khuôn mặt vẫn căng thẳng. Thủy thủ đoàn phân phát bữa ăn tạm. Những khúc dồi, những cốc rượu vang đầy đưa lại phép màu, nụ cười đầu tiên, một sự nhạo báng đầu tiên.
Tuy vậy, người lính lê dương, người đầu tiên ném mũ xuống sông nói với tôi:
- Đáng lẽ tôi phải đánh người cán bộ nhưng tôi lại bắt tay ông ta. Không bao giờ tôi tự tha thứ cho sự hèn hạ ấy.
Mỗi người được giải phóng giữ trong mình một nỗi xấu hổ; ở với người Việt, họ nén nhịn. Làm khác đi họ có thể không được trao trả.
Ở bến tàu Hà Nội, quan chức Pháp cố xóa bỏ cảm giác tội lỗi ấy của các tù binh bằng một cuộc đón tiếp thắng lợi. Tướng Cogny với nắm tay rắn rỏi làm lu mờ nắm tay thân thiện của người cán bộ. Trong điệu Marseillaise do một ban nhạc của đội lê dương trình tấu, ông ôm chặt từng người được giải phóng. Các nhạc công trang phục đại lễ không thèm chú ý đến những quân lính lê dương bị bắt trở về - những đồ giẻ rách.
Binh lính người Maroc cảm thấy vinh dự, mắt ánh lên theo tiếng hô khàn khàn của viên sĩ quan; mắt những lính biệt kích vẫn lờ đờ và chắc sẽ thiếu khí sắc thế mãi.
Toàn thể Ban tham mưu kính cẩn tập họp sau tướng Cogny, con người khổng lồ hào hiệp và hoàn hảo ấy. Với ông, cả quân đội Pháp hết sức tỏ vẻ để tiêu hủy những tác dụng của “niềm vui đỏ”. Nhưng phải mất bao lâu để tái tạo linh hồn cho những kẻ khốn khổ đã bị hủy hoại khi trở về mà người ta tiếp đón như những anh hùng?
Các tù binh trở về trong nhiều tuần lễ. Mỗi ngày người Pháp lại đi Việt Trì đón họ mà không biết sẽ đưa về bao nhiêu người, còn được bao nhiêu. Người Việt tăng cường khó khăn kiếm chuyện vô cớ, yêu sách trong việc trao trả. Giá như không phải chịu đựng để rút những người này ra khỏi họ!
Và khi những người này về đến nơi, họ còn thuộc về một thế giới khác, họ không thể thích nghi, lạ lẫm, suy sụp. Phải tổ chức giải độc và tập cho họ xóa bỏ dấu vết đỏ.
Người ta đưa tất cả những người được giải phóng đến bệnh viện Lanessan. Ở đây người ta sàng lọc họ, sắp xếp theo mức độ thương tổn thể chất và tinh thần. Quân cảnh điều tra về một số phản bội hoặc hầu như phản bội. Nhưng những việc đó thật khó biết được chính xác! Người ta im lặng trước những trường hợp nặng nề nhất.
Làm sao để không nghĩ đến những người được trao trả cho phía Việt Nam? Khi trao trả, họ đẹp đẽ, béo tốt, trang bị đồ đạc của quân nhu. Nhưng vừa lên xe, họ đã vứt bỏ thức ăn và quần áo người ta phát cho, hầu như ở trần; họ không muốn vấy bẩn vì những gì nhận của người Pháp. Đến Việt Trì họ hô vang “Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm”, họ vừa vứt bỏ những vật dụng cuối cùng của tư bản. Các nữ y tá Việt Minh bận quần áo trắng, tập trung những đồ vật ấy lại và nhóm lửa đốt.
Việc trao trả kết thúc; còn thiếu hàng nghìn tù binh đối với người Pháp - số phận của họ vẫn mãi mãi không ai hay biết. Một người Pháp dân sự có mặt mỗi khi có đoàn xe đến, ông ta yêu một người lính lê dương. Nỗi đau khổ của một anh đồng tính luyến ái có vẻ thật thảm hại! Ông ta chăm chú nhìn những khuôn mặt, lo lắng, hy vọng nhận ra bạn mình. Ông khóc, chờ đợi trong nhiều tuần, đơn độc và thất vọng.
Gia đình các tù binh ở bên Pháp, rất xa. Họ chỉ nhận được một bức điện tín của bên quân sự.
De Castries là người cuối cùng. Đối với ông ta, kẻ chiến bại ở Điện Biên Phủ, người ta chuẩn bị một buổi lễ đặc biệt lớn cách Hà Nội mươi cây số. Tại chỗ này cách đây một thế kỷ, các đội quân đã tiến hành đánh chiếm vùng châu thổ. Bây giờ vinh quang Pháp kết thúc ở đây. Trên LCT đưa de Castries về, trước tiên tôi thấy chiếc ca-lô kỵ binh đỏ của ông - ông đã đội nó trên mọi chiến trường của Đông Dương, để chứng tỏ sự phóng túng quý phái. Bây giờ chiếc ca-lô đã xỉn màu. Bản thân ông cũng thay đổi nhiều. Khuôn mặt nhăn nheo, làn da trước đây căng và đầy khí sắc, bây giờ giống một găng tay quá rộng. Đôi mắt tinh nhanh trũng sâu trong hốc mắt. Ông đã già.
Trước các đội quân, Cogny ôm hôn de Castries đang khóc và thấm nước mắt. Ông cố cười yếu ớt để nói về chiếc ca-lô của ông: quân Việt muốn lấy nó làm chiến tích nhưng ông đã giấu đi. Ông nói:
- Cử chỉ tự do đầu tiên của tôi là trước mặt những người Việt trao trả, tôi lấy chiếc ca-lô trong túi ra đội nó lên đầu.
Mặc dù có nhiều lời đồn thổi, de Castries có phải vẫn là một hiệp sĩ thời Trung Cổ không? Ông ta cố gắng làm cho người ta tin thế một cách thảm hại! Ông muốn tự bào chữa, giận dữ kêu lên ông chỉ là một nạn nhân, là bung xung của cuộc thất trận. Nhưng lệnh chỉ huy bảo ông im đi; nếu không ông lộ ra hết những bất lực của mình ở Điện Biên Phủ.
Ít lâu sau tôi biết sự thật về de Castries. Tại Hà Nội do Việt Minh chiếm giữ, tôi ăn trưa với các phóng viên báo chí đỏ. Tôi ngồi bên cạnh Jensens, một người Do Thái Úc béo phệ, mắt lồi, râu tóc bờm xờm, chuyên viên lôgíc, một người cuồng tín. Anh ta ca ngợi de Castries, biết ông này rất rõ. Chính anh ta đi theo ông khi trao trả cho người Pháp. Anh nói:
- Ngồi bên cạnh nhau trong chiếc xe Molotova trong nhiều giờ, chúng tôi nói chuyện cởi mở với nhau. Ông ta nói bộ chỉ huy Pháp đã lừa dối và bỏ rơi ông! Bao nhiêu lời hứa trước trận đánh không được thực hiện. Tôi trả lời dù sao thì Điện Biên Phủ cũng tan vỡ. Ông công nhận, tán thành khi tôi nói về sự ngu ngốc của cuộc chiến tranh Đông Dương và thừa nhận chủ nghĩa cộng sản sẽ thắng lợi ở Châu Á. Chúng tôi có cảm tình với nhau lắm.
Sao tôi không tin Jensens dù khó hình dung được tình bạn bè của một viên tướng đánh thuê cao đạo với một tay Do Thái dữ tợn. De Castries là con người trong sự chờ đợi lâu dài, trước đòn tấn công của người Việt, đã cho rải tờ rơi trên phòng tuyến địch vây quanh Điện Biên Phủ. Ông rêu rao khinh thường ông Giáp hèn nhát không ra lệnh tấn công. Điều đó xảy ra chỉ cách đây mấy tháng - nhưng dĩ nhiên người ta, cả de Castries cũng có thể thay đổi lạ lùng vì thảm bại.
Thực vậy, cả những quân lính giỏi nhất của Điện Biên Phủ, cả những lính dù đã hy sinh vô vọng, cũng bị tác động. Tôi hình dung được nỗi thất vọng của họ ở Normandie mấy ngày sau khi được giải phóng. Trong quán bar nổi tiếng này của Hà Nội mà nhiều “tù binh” ăn uống, tôi nhận ra ngay các chỉ huy lính dù
của Điện Biên Phủ. Tuy bề ngoài giống những sĩ quan khác, họ vẫn toát ra một khác thường nào đó: họ không còn biết mình là ai, bối rối và lúng túng do bồn chồn. Một số nói quá nhiều, số khác không hề nói gì.
Ba anh hùng của Điện Biên Phủ uống champagne ở một bàn với các bà lai. Đấy là một tiệc rượu hoàn toàn vì lịch sự; họ đang mải mê với ý nghĩ của mình. Dở say, một người vỗ lưng tôi:
- Chúng tôi không thể nói với anh chúng tôi đã cảm thấy thế nào. Đó là điều không “nói được”. Chúng tôi đã mất lòng tin.
Một người khác, một đại úy nổi tiếng, nói với tôi như mộng du:
- Tôi uống để quên nhưng không quên được. Tôi chỉ huy quân lính đánh đến cùng, họ nghe theo. Ngày cuối cùng, tôi ra lệnh cho một anh chột và một anh cụt chân sử dụng súng cối. Một trong những hạ sĩ quan của tôi, bị thương ở bốn chỗ, tiếp tục ném lựu đạn. Họ đều bị tử trận. Phải chăng tôi có tội đối với họ? Vì nghề nghiệp mà tôi dẫn quân lính đến cái chết. Chúng tôi là lính dù. Nhưng tôi có quyền đày đọa người của tôi một cách vô ích như vậy không? Họ là những người tuyệt vời, là anh em của tôi. Chúng tôi đã ở bên nhau trong những trận đánh lớn. Tôi ân hận chính ở Điện Biên Phủ. Họ bị hy sinh chẳng để làm gì cả. Ngay từ đầu chúng tôi đã biết thất bại và Bộ chỉ huy đặt chúng tôi vào một cái bẫy chết.
Tôi nghĩ về mọi điều đó khi là tù binh của quân Việt. Tôi đã thấy họ đúng như người họ. Tình cảm của tôi đối với họ thật
phức tạp. Có nỗi ghê sợ, lòng căm hận và cả sự thán phục. Làm sao không kinh ngạc về kết quả họ đạt được? Tôi không bao giờ nghĩ con người có thể cố gắng đến thế và thực hiện những kế hoạch chính xác và có tính toán đến thế. Tôi xấu hổ về lề thói Pháp già cỗi của chúng ta.
Người Việt giải thích cho chúng ta họ thắng vì họ có lý tưởng. Họ chê trách chúng ta thiếu điều đó. Tôi đã kể với họ về lòng can đảm ghê gớm của những lính dù trẻ của tôi ở Điện Biên Phủ. Họ trả lời: “Chủ nghĩa anh hùng phải chăng là một giải pháp?”
Than ôi, tôi biết là không. Thời gian bị giam giữ tôi đã suy nghĩ. Tôi hiểu sự dũng cảm vô vọng chỉ là một yếu đuối. Cùng với các bạn, sự suy sụp của các sĩ quan cao cấp. Chúng tôi đã kết luận, phía trên cấp bậc chỉ huy, người ta chỉ còn là bùn và mỡ.
Trong trại chúng tôi có một cách giải trí hơi độc ác: chúng tôi xem xét kỹ lưỡng các chỉ huy chính ở Đông Dương, chỉ tha thứ cho rất ít người trong bọn họ: Vanuxem, Bigeard, d'Alencon, cả Cogny nữa.
Chúng tôi đau đớn phát hiện thấy quân đội Pháp lún sâu trong thể chế già cỗi. Tất cả chúng tôi cùng một chẩn đoán. Đối với chúng tôi bi kịch chiến tranh Đông Dương là ở chỗ một Đội quân viễn chinh siêu hiện đại đã không thể đương đầu với một đội quân cách mạng.
Trong trại tù đụng chạm với thực tế Việt Minh, chúng tôi cảm thấy sự mù quáng của các ban tham mưu thật kỳ lạ. Trong
tám năm các tướng tá đánh nhau với một cuộc cách mạng mà không biết nó là gì, vẫn dùng những phương pháp của cứng nhắc được dạy trong trường quân sự. Khi tình hình tồi tệ đi, Bộ Chỉ huy sử dụng biện pháp cổ điển - nói dối. Chúng tôi sát cánh thảm họa đã ba năm nay, và may mắn tránh được nó nhiều lần. Việt Minh luôn luôn tự phê bình và cải tiến tình hình. Về phía mình, chúng tôi luôn tỏ vẻ, tuyên bố mọi việc tiến triển tốt và các tướng tá hiềm khích nhau. Các ban tham mưu hoạt động tối đa, không ngừng xây dựng những chiến lược mới, luôn luôn lạc quan hơn, lý thuyết và trí tuệ hơn. Chỉ cần một sai sót là cả hệ thống chúng tôi đổ sụp. Tướng Navarre ủng hộ việc đó. Điện Biên Phủ không phải là một hậu quả tình cờ mà là một phán xét.
Nhưng chúng tôi,những người thua cuộc đã làm chết quân lính của mình, thì ra sao? Chúng tôi sẽ tin vào việc gì? Chúng tôi thất vọng, về bại trận thì ít mà về sự mục ruỗng thì nhiều.
Việt Minh vào Hà Nội
Trình tự cuộc bại trận tiếp tục, Hà Nội chỉ còn là sườn, ngày di tản đã đến: mồng 9 tháng mười năm 1954.
Lá cờ Pháp được hạ xuống chiều tối mồng 8 trong một buổi lễ đơn giản. Đã về đêm và một cơn bão nổi lên. Bên trong sân vận động Mangin rất thô sơ với đường vòng bằng đất, gió mưa ùa vào những dụng cụ thể thao và cầu môn bóng đá; ở giữa dựng lên một cây cột, mờ đi trong hoàng hôn, biến trong mây mưa sát mặt đất. Khó khăn lắm mới thấy lá cờ treo trên đó, lá cờ
Pháp cuối cùng ở Hà Nội. Tôi nghe thấy những mệnh lệnh khàn khàn. Vài trăm người bồng súng. Một hạ sĩ quan kéo lá cờ xuống, gấp vào và ôm hôn, trong lúc kèn thổi buồn bã. Im lặng bao trùm nhưng tôi thấy mãi khuôn mặt của tướng Cogny, tất cả những khuôn mặt khô cứng của quân lính ông, trong mấy giây, thể hiện đỉnh sâu cay đắng.
Ngày hôm sau quân đội Việt Minh, phân tán từ khi ngừng bắn, có mặt để chiếm hữu thành phố. Đây là lần đầu người ta thấy họ ban ngày. Tuy luôn luôn đe dọa và hiện diện, họ giấu mình từ nhiều năm nay trong núi rừng và đồng ruộng. Họ chỉ xuất hiện để chiến thắng.
Đội quân viễn chinh trao trả Hà Nội lại cho người Việt chưa bao giờ đẹp đẽ hơn thế. Những nghi ngờ về ngày mai của việc ngừng bắn đã biến mất. Bây giờ người ta không tìm ra một trong các sĩ quan, hạ sĩ quan Pháp không chửi rủa đáng lẽ phải tiếp tục chiến tranh. Người ta giấu kín những tù binh tìm lại được, nhân chứng của sự bất lực.
Than ôi! Họ không còn đánh nhau nữa mà là thực hiện những bổn phận nhục nhã của cuộc bại trận. Trong ngày tang tóc này phải chấp nhận chúng thật đẹp. Rời bỏ thành phố là một cuộc diễu binh, có những hàng xe tăng, các đại liên ở tư thế bắn, binh lính mũ sắt, các sĩ quan cao ngạo. Việc rút lui vững mạnh và trật tự diễn ra như một nhịp điệu đồng hồ, từ khu phố này sang khu phố khác, từ đường này đến đường khác đến tận sông Hồng và cầu Doumer[1]. Đấy là quang cảnh rất cổ điển.
Đấy cũng là tính kiêu ngạo thuần túy và dửng dưng đặt lên trên thảm họa. Người Pháp thể hiện với Việt Minh một sự lễ độ hoàn hảo làm hủy diệt hiệu lực của họ, lấy đi thực tế của họ. Người Pháp giúp đỡ họ vào Hà Nội - tiếp đón, bố trí chỗ ở, thậm chí cho họ mượn xe để chuyển quân vào.
Những người trong Đội quân viễn chinh xử sự theo lối hào hoa lịch thiệp, để lại cho những người tiếp nhận những tài sản đáng lẽ phải phá bỏ vì tai họa. Tính kiêu ngạo ấy thật đẹp nhưng không vì thế mà ngăn cản được một quân đội nhà nghề bị một đội quân nông dân đánh bại. Những Việt Minh tiến vào Hà Nội còn là những người dân quê. Quân phục chưa phải đã hoàn toàn đồng phục, mũ chưa ra mũ. Sĩ quan của họ luôn luôn vẫn là những người của nhân dân. Không phải vì họ không mang lon mà người ta không phân biệt được họ và người của họ mà vì tinh thần họ như nhau.
Việt Minh thắng trận với đôi chân đi hàng chục, nhiều chục nghìn cây số, đơn giản không ngờ được. Ngoài tiểu liên, mỗi chiến sĩ chỉ có ruột tượng gạo quanh cổ và trên lưng một ba lô nhỏ buộc vào đấy là chiếc ve lá cờ đỏ.
Trong mỗi đơn vị toàn bộ trang bị giảm thiểu trong mấy gói mang đầu gậy, nồi niêu. Việc chăm sóc thuốc men gần như không có. Và vũ khí phải luôn luôn vác trên lưng người.
Chỉ với mấy trọng pháo 75 ly và những khẩu súng cối mà Việt Minh đập nát ở Điện Biên Phủ những người Pháp có ca nông, xe bọc thép, máy bay rải khắp bề mặt Đông Dương.
Đấy là thực tế mà Đội quân viễn chinh cố quên đi một cách vô vọng qua thái độ của mình trong những giờ bi kịch rút lui khỏi Hà Nội.
Vì Hà Nội của Đội quân viễn chinh co lại như một tấm da buồn thảm. Đến trưa những lữ đoàn Pháp cuối cùng chỉ cách bến sông Hồng một cây số. Rồi đến lượt họ rút qua cầu Doumer, tác phẩm bằng sắt cũ, dài hai cây số mà Bộ chỉ huy Pháp đã sợ đến thế trong suốt cuộc chiến tranh! Họ vẫn luôn sợ Việt Minh phá đổ cầu nhưng Việt Minh đã không đụng đến, biết rằng có ngày cây cầu sẽ là của họ.
Trên bờ sông trước mặt Hà Nội chỉ còn lại một đại đội. Chỉ còn lại một toán sĩ quan chào nhau theo nghi thức, chỉ còn một đại tá ấp úng mấy câu xúc động với các nhà báo; quân đội Pháp chẳng còn lại gì. Lúc đó có một chiếc ô tô phía trước là một đại úy má phính, bụng phệ và dáng ẻo lả. Ông ta đưa cánh tay béo tròn ra vẫy và kêu giọng the thé: “Chờ tôi. Chờ tôi”.
Trong lúc Đội quân viễn chinh rút lui, Hà Nội nổ ra như một bông hoa đỏ, từng cánh một.
Chỉ trong mấy giây không khí hồi sinh lan ra khắp nơi. Người Pháp lùi vào hư vô. Xung quanh họ, thành phố chết - không một bóng người, một tiếng ồn, một lá cờ. Nhưng Việt Minh chỉ phía sau họ mấy mét. Và bỗng nhiên đám đông khổng lồ của Châu Á xuất hiện sau bước chân họ. Trong quá trình giải phóng, vào giờ phút này đường phố, nhà cửa biến mất sau rừng cờ màu đỏ máu. Có thể nói một làn sóng đỏ tràn lên. Chỉ trong
mười lăm phút, xã hội “tự do” đã được tổ chức. Giữa những băng-rôn, ảnh Hồ Chí Minh và các vòm chiến thắng, các ủy viên chính trị dặn dò nhắc nhủ.
Tôi ở lại Hà Nội, thấy được “niềm vui” nảy nở dưới mắt tôi. Không hề là một kích động. Đám đông không tỏ ra quá khích mà rất đúng mực. Mỗi người dân làm theo lời chỉ dẫn. Những “cán bộ” đến cùng các đoàn người hô vang khẩu hiệu, dân chúng hô theo. Các ủy viên chính trị, dân chúng, nhảy múa điệu vũ Giải phóng. Mọi việc đều được dự kiến, không bất ngờ.
Hà Nội năm 1954 này, Hà Nội chiến thắng của Hồ Chí Minh thật khác với thành phố đỏ năm 1946 say sưa nổi dậy và giết chóc.
Tính thụ động này không chỉ do chiến tranh bị hủy diệt. Đây là vấn đề khác. Việt Minh đã thay đổi, không muốn để tự phát cá nhân mà chứng tỏ được niềm vui thích tập thể. Họ tổ chức “tình cảm”, đặt những thể lệ. Các cá nhân khi thực hiện thậm chí không còn biết họ có thành thực không. Họ không dám nêu vấn đề.
Để tự bào chữa, chiến binh của Đội viễn chinh nói: “Chúng tôi không bị đánh bại vì một quân đội mà vì một dân tộc.” Không đúng. Người Pháp không bị đập nát bởi sự nổi dậy tự phát của quần chúng mà, do đường lối tổ chức cách mạng. Những người cộng sản Châu Á đã sáng tạo một phương pháp mới để chiếm lĩnh thể chất và tinh thần phục vụ cho mục đích của họ. Người Pháp không thể chống khoa học tâm lý quần
chúng ấy. Ở Đông Dương chỉ có những người Pháp truyền thống với những đức tính và sai sót của lịch sử ngàn đời của họ.
Việt Minh không chỉ khó phân định đối với người Pháp. Họ cũng như vậy đối với những người dân Hà Nội. Dân chúng chờ đợi các đoàn quân chiến thắng vào thành, nghĩ rằng Hồ Chí Minh sẽ xuất hiện trên một ban công vẫy chào chiến thắng. Nhưng Việt Minh phân tích tình hình và kết luận những thể hiện huy hoàng ấy phản tác dụng.
Không ai biết cụ Hồ và ông Giáp ở đâu. Không ai nói về họ. Chỉ mấy ngày sau nhân dân mới được thông báo trên một bài báo ngắn họ đã về Hà Nội, cũng không nói ở chỗ nào.
Thực tế, Việt Minh không tổ chức lễ hội chiến thắng mà là lễ hội “dân chủ”, thành quả của chiến thắng. Tôi có tham dự một buổi lễ. Tôi thấy giai cấp tư sản trở thành dân tộc, thay đổi bản chất, ý thức được mình trong quá trình buổi lễ mang tính chất thiêng liêng. Trong hai ngày nhân dân mừng hoan hỉ. Cả thành phố như một bàn thờ trang nghiêm. Có huấn luyện viên hướng dẫn, người ta tập đi, tập hát, diễu hành và xử thế dân chủ. Ngày đêm trên đường phố từng đoàn người tập dượt. Cả thành phố như một trường học trình diễn.
Cuối cùng là buổi sáng đoàn kết dân tộc. Năm giai cấp được biết - công nhân, nông dân, binh lính, tiểu tư sản, tư sản yêu nước - tập hợp nhau thể hiện tình thân ái.
Bốn giờ sáng toàn thể nhân dân đã sẵn sàng, tập trung từng tốp hàng trăm nghìn người trên đường phố. Mỗi hè phố là một
khối sống động đàn ông, đàn bà như bao trùm dưới vòm cờ. Giữa những lớp bao quanh, những đám đông im lặng trong tư thế chuẩn bị, hàng trăm đoàn người chờ thời điểm rung chuyển trên đường. Có nhiều loại hàng ngũ. Đông nhất gồm thiếu niên mặc theo lối hướng đạo sinh - người Việt trước hết lo phân phối khăn quàng cho nam nữ thiếu niên dưới hai mươi tuổi. Người ta cũng thấy những hàng ngũ các ông già, phụ nữ, xã viên hợp tác xã, thị dân. Phụ nữ địu con trên lưng. Thợ giày yêu nước mang dụng cụ trước người.
Chỉ có nhân dân tồn tại. Tất cả là vì nhân dân. Không có khán đài chính thức, các nhân vật, đoàn ngoại giao. Phía trên khối người chỉ một bức ảnh, ảnh cụ Hồ Chí Minh. Các cô gái, bận quần áo trắng, kính cẩn đặt bức ảnh trên ngọn tháp hồ Gươm, nơi linh thiêng của Hà Nội.
Những đám đông ấy đứng tại chỗ cho đến mười một giờ. Rồi chỉ trong mấy giây những dòng người bắt đầu chảy khắp nơi trong trật tự kỳ lạ. Tôi tự hỏi làm sao trong một thời gian ngắn như thế Việt Minh có thể biến dân chúng không rèn luyện ấy trở thành một khối người đồ sộ biểu tình dân chủ? Tôi chẳng còn ngạc nhiên là trước đây, trong những điều kiện vô cùng khó khăn họ huy động những lực lượng đông đảo - những đoàn dân công, đàn ông và đàn bà theo đường mòn rừng núi tiếp tế cho quân lính bao vây Điện Biên Phủ.
Một tiếng hô vang lên từ chân trời bao trùm thành phố. Dân chúng chào đón quân lính trung đoàn Thủ đô, trung đoàn xuất sắc của Việt Minh đã dẫn đầu cuộc nổi dậy ngày 19 tháng mười
hai năm 1946 để đồng loạt tiêu diệt hết người Pháp. Sau đó, trung đoàn là hạt nhân của sư đoàn 308, đơn vị bảo vệ sắt, tham gia vào mọi trận đánh và tấn công đòn quyết định ở Điện Biên Phủ. Quân Pháp sợ hãi mỗi lần phải chạm trán với sư đoàn này.
Trung đoàn Thủ đô xuất hiện trên bờ con hồ nhỏ mà đội quân viễn chinh đã bao lần diễu binh. Hôm nay không phải một cuộc diễu binh mà chỉ là buổi lễ của các đồng chí chiến sĩ. Những người chiến thắng bận đồng phục màu xanh lá cây. Họ không chú trọng bước đều, tiến về phía trước, mềm dẻo, lộn xộn như đi trong rừng. Mỗi người lính cầm vũ khí như dụng cụ làm việc của mình.
Đoàn quân này không tự phô trương để tác động dân chúng mà để nói chuyện với họ. Câu chuyện giữa quân lính với “dân chúng” là những bài hát, vỗ tay và hoa, tăng lên từng phút một. Đám đông hô vang và làm những cử chỉ nồng nhiệt. Nhưng tính chất mãnh liệt ấy được chỉ đạo, hướng dẫn có tính toán. Chính những ủy viên chính trị đi trong hàng ngũ cách nhau mười lăm mét một là những chỉ huy dàn nhạc. Binh lính mang vũ khí “trả lời”. Họ nhảy nhót, bước theo vũ điệu, giơ nắm tay, hét to lên, chào với những bó hoa lớn, chơi những bài hát ngắn bằng đàn măng-đô-lin và kèn ác-mô-ni-ca. Một số đơn vị nhảy múa, những đơn vị khác hát hoặc hô vang trời.
Dân chúng không ngớt khuyến khích quân lính vui hơn nữa. Quân lính kích thích dân chúng càng phấn khởi hơn. Lời qua tiếng lại dồn dập đến nỗi không phân biệt được yêu cầu và lời đáp lần lượt bung ra. Chỉ còn là một sự lẫn lộn tạm thời mà
hàng trăm ngàn người, dân và quân như những cỗ máy làm hàng nghìn, hàng triệu cử chỉ được chỉ đạo. Đấy là một hình thức cao của trật tự đỏ. Đấy là mệnh lệnh từ trên xa qua đó cả thành phố tự hòa đồng vào chế độ. Từ nay Hà Nội hoàn toàn là Việt Minh: nước Pháp bị gạt bỏ vĩnh viễn.
Trong lúc ấy Đội quân viễn chinh rút xuống Hải Phòng. Quân Pháp bị đuổi khỏi Hà Nội vinh quang xuống thành phố cảng lớn này mà họ đã chiếm đóng nhiều năm và sẽ phải rời bỏ sau mười tháng. Tướng Cogny đứng thẳng người trên một chiếc xe. Tất cả các đội quân ở Bắc Kỳ chào tôn vinh ông và diễu binh hùng tráng. Tướng Cogny đề nghị giám mục Hải Phòng cho kéo chuông ở nhà thờ.
Đông Dương bị mất
Sự thất bại không dừng lại. Điện Biên Phủ và Hà Nội chỉ là hai giai đoạn đầu. Ở phần còn lại của Đông Dương người Pháp tiếp tục xuống dốc.
Những người Pháp hy vọng cứu vớt một số phần còn lại nhờ vào hiệp định Genève. Họ chia cắt Việt Nam làm hai nghĩ sẽ có hai con bài để chơi. Đây chỉ là một ảo tưởng. Họ đã mất lực lượng và có những lực lượng mới xuất hiện. Từ nay Đông Dương thuộc Pháp cũ là Trung-Nga ở phía Bắc và Mỹ ở phía Nam.
Ở miền Bắc bí mật về “Hồ Chí Minh phúc hậu” biến mất nhanh chóng. Chỉ trong mấy ngày người ta nhận thấy Bắc Việt Nam chỉ là một vệ tinh đỏ. Chẳng bao lâu nước Pháp chỉ còn lại
mấy chục người Pháp ở Hà Nội sống một cuộc sống tập trung cao sang trong “Ngôi nhà Pháp”. Một Sainteny đã trở lại đây và sẽ thất vọng nhanh chóng.
Ở phía Nam người Pháp không còn cần thiết nữa. Từ khi họ thôi đánh nhau, người Việt Nam và người Mỹ không cần đến họ nữa. Miền Nam Việt Nam biến thành một quốc gia phụ thuộc vào lá cờ sao như Philippines, Thái Lan, Đài Loan. Tổng thống Diệm trước hết là công cụ loại bỏ họ.
Như vậy chủ nghĩa cộng sản đã đuổi họ, chủ nghĩa dân tộc cũng thế. Từ sau Điện Biên Phủ người Pháp không được kể đến ở Châu Á, hầu như bị xóa khỏi lục địa da vàng. Người Châu Á hoàn toàn không biết đến họ, những người da trắng khác ở Viễn Đông nghiêm khắc phán xét họ. Gay gắt nhất là người Mỹ.
Ở Hồng Kông, trong Câu lạc bộ các phóng viên, một nhà báo Mỹ - một người theo đạo Tin Lành, gầy và cuồng tín - nói với tôi:
- Ở Điện Biên Phủ, đáng lẽ chúng tôi phải làm cho các anh thắng. Có thể đấy, tuy quân đội các anh nghèo nàn nhất thế giới.
Một trong những đồng nghiệp của anh cố an ủi tôi:
- Tôi thì tôi thán phục vì là quân đội của “sự nghĩa hiệp”. Tôi muốn nghe nói đến sự nghèo nàn hơn là những cử chỉ đẹp. Chính tôi cũng dùng cách diễn tả ấy, đã viết nó. Nhưng tôi ghét nó từ miệng một người Mỹ vì biết nó có nghĩa như thế nào đối với họ. Điều đó muốn nói quân đội Pháp là sản phẩm của một nền văn minh chết, như chiếc ghế phô-tơi Luis XV.
Tôi có thể trả lời những người Mỹ ấy quân lính nước họ không bao giờ tiến hành được một cuộc chiến tranh Đông Dương, không chịu đựng được sự mệt nhọc, tàn bạo, thiếu tiện nghi ở đây. Nhưng đáp lại? Vì người Mỹ sẽ không đánh nhau như lính Pháp. Họ sẽ dàn thành hàng để tiến hành một cuộc chiến tranh khác, sẽ đưa tới bao nhiêu phương tiện. Và làm tan nát đất nước, dân chúng bằng bom đạn và đô-la. Cuối cùng rất có thể họ thành công hơn. Hơn nữa một lý do cơ bản bó tay người Pháp, vốn không có sự vượt trội ban đầu như họ. Ở Đông Dương, Đội quân viễn chinh không bao giờ có những nguồn lực theo tầm của Mỹ. Thế mà họ đã áp đảo so với Việt Minh!
Lúc đầu người Pháp vượt hẳn về lực lượng. Việt Minh khi ấy chỉ là những chiến sĩ du kích thiếu vũ khí: họ dựa vào Đội quân viễn chinh, theo nguyên tắc chính quân địch phải “bảo trợ” lực lượng nhân dân. Họ trang bị vũ khí bằng lấy trộm và phục kích. Thời kỳ ấy thực sự không có ai giúp đỡ quân lính của Hồ Chí Minh. Trung Quốc của Mao Trạch Đông còn ở xa, đang đánh nhau với quân đội của Tưởng Giới Thạch.
Đối mặt với Việt Minh khốn khổ, những người Pháp có Đội quân viễn chinh, cảnh sát và chính quyền, đồng bạc Đông Dương và cả hệ thống kinh tế. Đại bộ phận dân chúng dưới quyền họ, muốn tuyển mộ bao nhiêu binh lính và bảo an da vàng tùy ý. Chính quyền mỗi ngày cung cấp cho cuộc chiến tranh một tỷ phrăng. Sau đó đô-la và khí cụ Mỹ đổ vào.
Bây giờ không thể không đặt ra những câu hỏi: làm sao những người Pháp có thể bị đánh bại? Làm sao điều ấy xảy ra
được? Mục đích cuốn sách này là tìm ra những câu trả lời.
Sẽ là một công trình đáng buồn vì cuộc kết thúc thất bại, càng buồn hơn vì thảm họa ấy là lôgic và xứng đáng. Tôi kể lại lịch sử một thời kỳ tàn lụi kéo dài tám năm, mỗi năm một tăng từ cuộc “chiến tranh thoải mái” trước 1950 cho đến “sự hấp hối của Điện Biên Phủ”.
Người ta sẽ thấy không có ai biết ngăn con đường cong dẫn đến thảm họa, kể cả de Lattre - ông ta đến quá chậm. Điều đáng phải làm vượt quá xa những tưởng tượng và định kiến của các tướng lĩnh và bộ trưởng Pháp. Trong những nhân vật quân sự cũng như dân sự không có một người tìm ra sự thật chẩn đoán, tìm và đặt ra một giải pháp. Vì phải “xét lại” tất cả.
Cuộc chiến tranh Đông Dương phản ánh sự bối rối của Pháp, người ta không biết mình muốn gì, không làm điều phải làm.
Cơ may thắng về quân sự đã mất trong ba năm đầu của cuộc chiến tranh, giữa năm 1946 và cuối 1949. Thời kỳ đó đã có thể nắm lấy cổ họng và bóp nghẹt Việt Minh. Nước Pháp không có sự cố gắng cần thiết, cho rằng không thể được (sau này họ có những cố gắng lớn nhiều mà không một hy vọng chiến thắng). Khi Trung Quốc của Mao Trạch Đông vươn đến cửa ngõ Bắc Kỳ thì họ hết cơ hội. Quân Pháp bị đánh bại trên đường số 4; đối với họ không còn vấn đề thắng lợi trong cuộc chiến tranh Đông Dương.
Tướng de Lattre sau những kết quả bước đầu, nhận thấy phải tiêu diệt cả Trung Hoa đỏ. Ông muốn có một cuộc chiến
tranh lớn ở Châu Á, mở rộng sự xung đột ra khắp lục địa da vàng. McArthur sẽ chỉ huy ở phía bắc và ông ở phía nam. Nhưng McArthur bị đuổi về và de Lattre chết. Ý tưởng một cuộc xung đột chống Trung Quốc bị bỏ rơi để tái hiện vào phút chót một cách vô ích ở Điện Biên Phủ.
Trận đánh thảm khốc trên sông Đà diễn ra lúc de Lattre hấp hối ở Paris là một cảnh báo ghê gớm. Nó có nghĩa từ nay Việt Minh là lực lượng mạnh hơn cả: phải chuẩn bị điều đình với họ hoặc dù sao cũng phải thúc đẩy nó tung ra lực lượng tổng thể của nước Pháp. Nhưng người ta không làm gì, hòa bình không, chiến tranh cũng không.
Những người Pháp còn tiếp tục cuộc phiêu lưu Đông Dương lâu hơn mà không biết nó sẽ đưa họ đến đâu. Chính phủ Paris, các ban tham mưu chỉ tìm cách lảng tránh. Dễ dàng thôi vì xa xôi thế! Mục đích duy nhất là kéo dài, là tránh thảm họa luôn luôn đe dọa. Hậu quả là sự xuống cấp dần dần, không có ý tưởng mới trả giá bằng những trận đánh đáng sợ mà người ta nói đến ít nhất. Đấy là bước đi lôgic thảm họa. Người ta không phải luôn luôn biện minh được. Cả trong sự vô lý, tất cả đều có một kết thúc.
| Chương I |
CUỘC CHIẾN TRANH THOẢI MÁI
Có vẻ lạ lùng khi tôi bắt đầu câu chuyện dài và đau khổ về thất bại của Pháp ở Đông Dương bằng mô tả cuộc “chiến tranh thoải mái”.
Thế nhưng đấy là điều tôi thấy khi đến Sài Gòn làm phóng viên chiến tranh năm 1948. Tôi phát hiện ra một Đông Dương thời Trung cổ với tiểu liên và đồng bạc, dưới nhãn hiệu Liên hiệp Pháp. Tất cả đều đông cứng. Đội quân viễn chinh đã từ chối những “chuyến đi” lớn, tấn công và cơ động. Thời kỳ những đoàn quân của Leclerc, với tính chất lãng mạn bạo lực lao vào chinh phục, đã xa rồi.
Từ nay là cảnh sa lầy. Chỉ trên biên giới Trung Quốc trong núi rừng miền Bắc Bắc Kỳ, đang tiếp diễn cuộc chiến thực sự chống đội quân chính quy của Hồ Chí Minh. Cuộc chiến xa xôi và người ta không nói đến.
Vả lại khắp nơi người ta tiến hành cuộc “chiến tranh thoải mái” chống Kháng chiến. Cuộc chiến du kích, chống du kích ấy, khốc liệt, chắc chắn tàn bạo hơn nhiều những trận đánh diễn ra trên biên giới Trung Quốc. Nhưng đồng thời là “cuộc sống đầy đủ” và sự thịnh vượng cho mọi người.
Diễn biến hàng ngày là máu, cái chết, khoái lạc, mệt mỏi, lười biếng, lối sống xa hoa. Những người đánh nhau tự thấy mình là “chúa tể” và quan chức nhà nước đắm mình trong thừa thãi. Hai bên dồn ép và giết hại dân chúng theo cách của mình. Dân quê là vật cá cược chủ yếu những khi không bị tử hình họ tự bung ra, tranh thủ mọi lợi thế của đồng bạc, đạt tới một mức sống không ngờ được đối với những người nông dân da vàng.
Từ đó có một sự cân bằng bề ngoài không có lý do gì chấm dứt, càng được duy trì vì Bảo Đại được người Pháp lại đưa lên cầm quyền; ông ta làm ruỗng nát cả và làm rối ren thêm.
Bao nhiêu lực lượng đồng minh hoặc thù địch tranh giành nhau nhờ vào những đồng lõa không ra mặt! Đông Dương năm 1948 là một bàn cờ vô số quân tốt nhưng hầu như bất động. Người ta chưa đoán được xứ sở này sẽ trở thành sân khấu, mà tất cả những yếu tố trên thắt nối với nhau trong một sự kiện cũng căng thẳng và bị lột trần như một bi kịch Hy Lạp: mấy năm sau tấm màn hạ xuống ở Điện Biên Phủ.
Nhưng năm 1948 người ta chưa nghĩ đến điều đó. Người ta quen dần với lề thói một cuộc chiến tranh không muốn nhưng không tránh được. Thậm chí người ta bắt đầu nhận thấy không phải không có lợi.
Sự thất bại của những người thiện chí
- Ông ơi, nếu chúng tôi biết chặt vài tá đầu đúng lúc thì sẽ còn một Đông Dương thuộc Pháp. Ông nghĩ trước năm 1940 bất
cứ một người Pháp nào, không một vũ khí, có thể đi lại tự do cả những vùng hoang dã nhất. “Thân hào” sung sướng lạy tiếp đón anh ta. Than ôi! Những “người Pháp từ nước Pháp” chúng tôi “tiếp xúc” năm 1945 đã gây nên tai họa khi nghĩ rằng tán tỉnh được Hồ Chí Minh.
Những người cũ ở Đông Dương tiếp đón tôi tại Sài Gòn với những lời như thế. Đây là những ông đáng kính no đủ và hiền lành. Họ có những chiếc bụng to - những quả trứng thuộc địa - trên đôi chân gầy.
Những nhân vật ấy mô tả Đông Dương thuộc Pháp của chế độ Bảo hộ, như một thiên đường. Họ nói:
- Phải chăng chúng tôi đã không làm gì cho dân quê? Chúng tôi lôi họ ra khỏi đói nghèo, xây dựng trường học, đường sá, bệnh viện và nhất là chúng tôi đưa lại cho họ sự công bằng và nền an ninh.
- Thế vì sao đất nước được ban thưởng nhiều ân huệ như vậy có thể “nổ bùng” chống lại chúng ta? Dân chúng sung sướng ấy phải chăng muốn nền độc lập hơn hết?
Những người đối thoại không hề xấu hổ về chế độ thực dân của mình. Ngược lại bực tức vì câu hỏi của tôi, họ ca thán:
- Chà! Nếu những người mới đến lắng nghe chúng tôi, những người biết rõ dân Annam, yêu mến họ và được yêu! Nhưng de Argenlieu và đồng bọn kết tội chúng tôi là bóc lột dân chúng Annam. Vậy mà không làm cho họ nghe theo.
- Các ông không nghĩ Đông Dương của các ông đã chết từ lâu rồi? Các ông nghĩ nó vững chắc nhưng chỉ cần một rạn nứt là nó đổ sụp.
- Chúng tôi sẽ cứu Đông Dương dù có biến cố, dù không có ảo tưởng của những chỉ huy mới do Paris chỉ định.
Những tay thực dân này tin vào quyền lợi của mình xiết bao! Nhưng họ ghét những người do de Gaule cử sang năm 1945 để hòa giải nước Pháp với những dân tộc nổi dậy ở Đông Dương.
Tranh cãi vô ích vì những người này người kia đều thất bại! Tôi ở trong một đất nước nằm trong lề thói chiến tranh liên miên. Tôi tự hỏi chiến tranh bùng ra như thế nào, có thể tránh được không, tôi dành những tuần lễ đầu tiên tái hiện lại quá khứ. Tôi nhận thấy tất cả những người Pháp đã thật thà khác thường đồng thời thật mù quáng.
Điều tôi phục hồi lại là những sự kiện trước thời tôi. Đấy là sự phá sản của tất cả những người thiện chí. Vì có hai loại. Những “thực dân” cũ muốn làm lại Đông Dương thuộc Pháp. Những người “Pháp tự do” từ chính quốc sang hy vọng điều đình với Hồ Chí Minh. Nhưng quan niệm của họ đều sai lầm. Kết quả là máu, là thù địch.
Nhưng trước bi kịch chiến tranh đã có những bi kịch của hòa bình không trọn vẹn, kéo dài gần bảy năm, từ 1940 đến cuối 1946. Cốt lõi phức tạp như sau:
Lúc đầu những người chiếm giữ Đông Dương thuộc Pháp không cố thử, không chịu đựng để cứu xứ sở này! Vì vào năm
1941, nhưng kẻ thực dân cần rất can đảm, trong lúc giáo lý của người da trắng gần như không được vi phạm là không “hợp tác” với người da vàng. Tuy vậy khi chính quốc đổ sụp cách đấy mười hai nghìn cây số, khi Đông Dương bất lực trước lục quân và hải quân Thiên Hoàng, các đô đốc tướng lĩnh, viên chức, các điền chủ sẵn sàng chấp nhận sự chiếm đóng của Nhật: họ hy vọng theo cách ấy cứu được cái cần thiết nhất, nghĩa là sự hiện diện của lá cờ tam tài. Đấy là kinh nghiệm của Decoux, một hành động cá cuộc không tưởng tượng được.
Một thời gian lâu họ nghĩ đã đạt được. Vì người Nhật giận dữ nhấn chìm mọi thống trị da trắng ở Châu Á, ngoại trừ duy nhất chủ quyền Pháp. Chính quyền thuộc Pháp hoạt động, công dân Pháp tự do, lá cờ tam tài phấp phới khắp nơi. Vào mùa xuân năm 1944 chỉ cần giữ vững thêm mấy tháng hoặc mấy tuần lễ là sẽ thắng lợi.
Tất cả đổ sụp trong một đêm. Ngày mồng 9 tháng ba năm 1945 Sài Gòn hoảng loạn: dân chúng đang ngủ thức dậy vì tiếng ồn ào kêu thét xen lẫn tiếng súng, tự hỏi: “Tai họa gì vậy?” Họ được biết ngay. Những người gác đêm trung thành, những lực sĩ da màu bí mật thông báo với các chủ Pháp: “Thưa ông, ông tắt đèn nhanh cho: người Nhật đang giết hết người da trắng”. Các gia đình sợ hãi chạy trốn mang theo trẻ em vào các khu vườn, hầm hào chờ cho đến sáng. Tuy vậy trong bóng tối xuất hiện những binh lính Nhật phát ngang mọi chống cự vào phá hủy tất cả. Trong thành phố vang lên chói tai lẫn lộn tiếng đàn bà rên rỉ, người chết hấp hối và tiếng bát đĩa đổ vỡ.
Người Nhật cho dán lên tường bố cáo bãi bỏ chủ quyền của Pháp. Người ta nghe chất keo chảy, tưởng họ rải một chất lỏng dễ cháy để đốt toàn bộ thành phố.
Tuy nhiên đấy chỉ là “cuộc đảo chính” của người Nhật, thanh toán Đông Dương, san bằng, hạ nhục một cách có hệ thống những người da trắng. Kampetai “tổ chức hiến binh Nhật”, truy lùng khắp nơi, bắt người Pháp cho vào nhà tù. Họ giam vào những căn nhà ghê gớm của sở mật thám, chỗ các cảnh sát “thực dân” đã “thẩm vấn” các thế hệ nổi dậy Annam. Sự trả thù mỉa mai! Những tù nhân da trắng phải ngồi xổm nhón chân hàng giờ, bị đánh đập khi mất thăng bằng. Cũng có những kiểu tra tấn thông minh hơn, hành hạ, chém giết hàng loạt. Toàn bộ lính trong bốt đồn trú Lạng Sơn bị gươm đâm chết. Chỉ vài đơn vị của Bắc Kỳ thoát được. Đoàn Alessandri sang Trung Quốc theo Tưởng Giới Thạch qua một chuyến đi dài và khốn khổ xuyên rừng núi.
Ở Sài Gòn họ không thể ẩn náu được. Trước cửa mỗi nhà phải treo một tấm biển gỗ ghi tên họ, đặc điểm, nghề nghiệp, dân tộc, giới tính và tuổi của những người trong nhà. Một trong những “trò hài hước” cuối cùng là nhận thấy thói làm dáng không hoàn toàn biến mất đối với các bà; hiếm khi họ thú nhận mình đã tứ tuần và những bà làm thế đã nguyền rủa mình thật ngây thơ.
Được dán nhãn như vậy, bị nhốt trong nhà không có quyền ra khỏi một chu vi nào đó, chịu đựng thiết quân luật tùy theo trạng thái của người Nhật, những người Pháp tự cảm thấy bị
giam cầm, là những tấm bia sống, hàng ngày lo lắng tách biệt tổ quốc và thế giới đã nhiều năm nay, làm sao họ hiểu mình sẽ ra sao? Làm sao họ ngờ được Hiroshima và Nagasaki đã gần?
Người Nhật linh cảm sự thất bại sắp tới và muốn phá hủy Đông Dương như cách trả thù cuối cùng. Và để chắc chắn xứ sở này không bao giờ vực dậy được, họ gây ra niềm tự cường dân tộc trong lòng dân chúng Annam. Đến lượt mình, dân chúng bắt đầu truy lùng những người da trắng bất lực và đòi “xử bắn” họ.
Thật khốn khổ. Cùng với hành động tàn bạo của cảnh sát và binh lính Nhật thêm vào lòng căm thù của dân chúng Sài Gòn. Tệ hại hơn nữa là những người Pháp luôn thất vọng, thiếu lòng tin.
Quả bom nguyên tử đã là phép màu cứu sống họ. Người da trắng thậm chí có những giờ sảng khoái, nghĩ rằng dân Annam lại trở thành dễ bảo, vô hại. Họ đã không hiểu mình sẽ đụng vào những lực lượng mới và không xoa dịu được: họ chưa biết gì về chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa cộng sản.
Nỗi thất vọng - sự tỉnh ngộ cay đắng và tàn nhẫn - là những người Annam tỏ ra cừu địch nghìn lần hơn khi không có người Nhật. Cách mạng cháy bùng lên ở Đông Dương chỉ trong mấy ngày. Từ núi rừng xuất hiện một Hồ Chí Minh, nhà hoạt động có tên trong sổ sách mật thám, cùng một số đồng chí chiếm lấy Hà Nội. Sáng lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, ông trở thành người Cha của Dân tộc. Khắp nơi theo lời kêu gọi của ông, trong
các thành phố, làng xóm, ruộng đồng, dân chúng sốt sắng tập hợp nhau tổ chức mừng tự do. Các ủy ban và cảnh sát tăng lên nhiều. Việt Minh khởi nghĩa quét sạch cả đất nước Annam, trải rộng hơn một nghìn hai trăm cây số về phía nam, đến tận Sài Gòn.
Thành phố này cũng nằm trong tay Việt Minh. Ác mộng kéo dài một tháng. Ban ngày tất cả hình như tĩnh lặng. Vấn đề duy nhất là thực phẩm. Lợi dụng sự lơ là bên ngoài, phụ nữ Pháp luồn ra chợ mà người “Trung Hoa” đồng ý với giá cắt cổ bán cho những mẩu thịt và từng bó rau muống.
Hoàng hôn đưa tới nỗi sợ hãi. Trong bóng đêm bắt đầu một lối di cư lạ lùng: những gia đình gần nhau lén lút tập trung vào một nhà, mỗi đêm một nhà khác; họ hợp sự bất lực của họ lại. Đêm nào cũng dài dằng dặc. Việt Minh tuần tra quanh vùng. Bốn phía vang lên giọng nói lanh lảnh, tiếng quát tháo và những đợt còi. Đôi khi một đội tấn công bước theo nhịp điệu “một, hai” - và rồi khi họ dừng lại thì đó là dấu hiệu tấn công vào một biệt thự.
Những đêm không bao giờ chấm dứt. Tất cả các ngôi nhà cùng một nét mặt chờ đợi. Người ta để đèn sáng để tự trấn an. Đàn ông chơi bài, trong tầm tay là những con dao nhà bếp, vũ khí duy nhất của họ. Thỉnh thoảng họ ngừng chơi để trấn an các bà vợ sẵn sàng lên cơn thần kinh. Trẻ con dồn vào một gian bên cạnh, run lên vì sợ trên cùng một chiếc giường và nôn cả ra màn.
Cuối cùng, một hôm dân Sài Gòn điên lên vì mừng, được biết “họ” sắp tới. “Họ” là những người của thế giới bên ngoài, những người da trắng xa nhau bao nhiêu năm và đã thắng trận. Người ta chờ những ân nhân đến cứu. Thực vậy, người Anh đổ bộ, theo sau là quân lính dù Pháp.
Các đội quân Anh tỏ ra tế nhị. Nhưng thật kinh ngạc trước thái độ của “quân dù”! Họ xem những người Pháp ở Đông Dương xứng đáng như quân phản bội! Một hố sâu tinh thần chia cắt những người được giải phóng với người giải phóng mình.
Thật đúng lẽ nếu quân lính từ Pháp sang phải cứu những người ở Sài Gòn mà người Việt luôn tìm cách tấn công. Họ chỉ can thiệp dè dặt, trong trường hợp cuối cùng khi không làm khác được.
Một phụ nữ Pháp trong cuộc tấn công của Việt Minh vào một nhà, chạy đến báo với lính dù đóng trại gần đấy. Bà đã làm cho họ cảm động nhưng chỉ huy của họ, một đại tá, từ chối không đưa quân đến cứu.
Những lính dù đầu tiên này mang sang Đông Dương tình hình họ đã biết ở Pháp. Đối với họ chỉ có những người hợp tác và những người chống cự. Quân phản bội chỉ có thể là những người Pháp ở Đông Dương: họ đã không làm việc lâu với người Nhật rồi sao? Việt Minh có vẻ đáng khen hơn. Họ không ngừng nổi dậy chống phát xít Nhật; ngược lại họ nói với quân dù, họ yêu mến người Pháp, chỉ tấn công bọn “thực dân” đã thỏa hiệp với binh lính của Thiên Hoàng.
Lính dù vốn thực tâm. Họ có những ý tưởng rất đẹp: không muốn trấn áp người Annam mà ôn hòa thu phục lòng người. Thế nhưng mấy tuần lễ sau họ lao vào một cuộc chiến tranh ác liệt nhất.
Leclerc sang Đông Dương, đưa các đội quân ra ngoài Sài Gòn để ôn hòa chiếm lại đất nước; Nhưng rồi bị tấn công ngay. Chẳng bao lâu binh lính Pháp bị bắt, bị chặt khúc và làng xóm Annam bốc cháy. Vì bạo lực trả lời bạo lực. Những mơ mộng dịu dàng chuyển sang say mê tàn bạo chỉ trong một thời gian ngắn! Người Pháp chiếm lại Nam Kỳ, Căm-bốt, Lào, Trung và Nam Annam bằng những cuộc hành quân chớp nhoáng hủy hoại. Nhưng các chi đội đỏ và tất cả những tổ chức du kích luôn luôn như tự nảy sinh. Cuộc chiến lan khắp đồng ruộng.
Tất cả trái ngược nhau. Qua mấy tháng bản thân Leclerc đã nghĩ không thể dùng sức mạnh chiếm lại Đông Dương. Người ta không đạt được mục đích với quần chúng đông đảo Châu Á nổi dậy sử dụng chiến lược “chiến tranh nhân dân” theo những nguyên tắc Mao Trạch Đông. Hoặc sẽ bị kiệt quệ vì sự chống đối không dứt.
Người ta trở lại kết luận: cần điều đình với Hồ Chí Minh, ông già có bộ râu mảnh, thương yêu trẻ em và đã trở thành một huyền thoại sống. Ông có phong thái một nhà trí thức phúc hậu, không phải của một người cộng sản cuồng tín và lạnh lùng. Phải chăng có thể thỏa thuận với ông giữ sự có mặt của Pháp “ngay” trong lòng một nước Cộng hòa Việt Nam? Một người tin vào điều đó. Đấy là Sainteny - một anh hùng, đẹp, mạnh mẽ, hơi
bí ẩn, vừa cứng rắn vừa lãng mạn. Trên hết ông tuyệt đối tin tưởng vào quyền lực của ý muốn và sự lôi cuốn của mình.
Đáng lẽ ông không nên có lòng tin như thế! Những mật sứ Pháp đầu tiên nhảy dù xuống Bắc Kỳ bị truy lùng, đôi khi bị sát hại. Bản thân ông đến Hà Nội Việt Minh với chức danh đặc phái viên Cộng hòa Pháp, bị giam giữ gần như tù nhân. Cả mùa đông là một ác mộng. Hàng ngày dân chúng tập hợp trong những cuộc mít tinh khổng lồ và những đoàn biểu tình không ngớt. Đấy là niềm cuồng nhiệt đỏ và trong sự hoan hỉ và căm hận, những đám đông thề “những tên thực dân” không bao giờ được trở lại. Hầu như từng đêm, những người da trắng - trong thành phố có mấy nghìn người Pháp dân sự và người lai bất lực - biến mất; sau này người ta tìm thấy tàn tích của họ trong những hố chôn xác chết.
Thế nhưng sau những tháng dài thê thảm ấy - vào mùa xuân năm 1946 - một điều ngạc nhiên khác thường. Hồ Chí Minh ký một thỏa ước cho phép đoàn quân Pháp đổ bộ lên Bắc Kỳ. Sau đó ít lâu một số lượng lớn người và xe cộ quân đội Pháp được chuyển từ Sài Gòn ra Hải Phòng, hải cảng lớn cách Hà Nội một trăm hai mươi cây số.
Than ôi, người ta không hiểu sự thay đổi của Hồ Chí Minh liên minh với Pháp là “giải pháp đúng” bất lợi của phép biện chứng: lấy một điều bất lợi để rũ bỏ một bất lợi khác lớn hơn. Việt Minh đưa quân đội Leclerc đến để tiến tới đuổi các đơn vị của Quốc dân đảng chiếm đóng Bắc Kỳ và sắp lật đổ Chính phủ Cộng hòa Nhân dân.
Tình trạng thật rối ren! Trước khi đế quốc mặt trời mọc sụp đổ, các “nước lớn” đã quyết định lực lượng quân Anh sẽ đến Nam Kỳ “giải giáp” quân đội Nhật. Họ đã tiến hành một cách hợp pháp vừa tạo điều kiện lập lại chính quyền Pháp. Ở Bắc Kỳ, quân đội Trung Hoa Quốc dân đảng được giao đảm nhiệm công việc ấy. Nhưng họ dự định không ra đi nữa. Họ có chỗ dựa Roosevelt, vốn không muốn có một Đông Dương thuộc Pháp nữa: đối với ông này, Đông Dương trực tiếp hoặc gián tiếp phải trở về Trung Hoa Quốc dân đảng.
Nhưng Hồ Chí Minh người cộng sản quá nhanh chân. Từ khu du kích vùng Cao Bằng ông đã nhảy về Hà Nội trước khi các sư đoàn “con trời” chỉ mới bước vào châu thổ Bắc Kỳ. Khi họ đến nơi cùng những người Annam “hợp tác” của họ - những thành viên Đồng minh hội và Việt Nam Quốc dân đảng, liên minh với Trung Hoa Quốc dân đảng - thì đã quá chậm: Việt Minh đã nắm chính quyền.
Sự lộn xộn thật phi thường. Thậm chí không phải một đội quân chính quy vào Bắc Kỳ: đấy là lũ hung bạo của Lư Hán, chúa tể chiến tranh của Vân Nam, tỉnh xưa kia như một bậc cao hai nghìn mét, giữa Hi Mã Lạp Sơn và đại dương. Nhân dân gọi Lư Hán là Con Báo Đen. Ông ta bắt đầu cuộc sống bằng trộm cướp. Bao nhiêu mưu mẹo và cứng rắn để trở thành tỉnh trưởng đáng sợ của Vân Nam, nhà độc tài tuyệt đối từ lâu độc lập đối với Tưởng và với tất cả! Ông ta bóc lột lãnh thổ của mình theo lối cổ, không đếm xỉa gì đến luật pháp và mạng sống. Tài sản của ông ta vô bờ. Nhưng con người sơn cước này tham lam nhìn xuống
dưới, về đồng bằng, về Bắc Kỳ người đông như kiến; và bây giờ, những vùng ấy dâng hiến cho ông ta!
Một cuộc cướp bóc khổng lồ. Người của Lư Hán đi chân đất, trơ trụi, khổ sở, thành hàng dài vô tận. Họ tỏa ra khắp nơi như lũ sâu bọ phá hoại, không để lại cho các nhà kể cả cái đấm cửa. Chưa bao giờ có cuộc trấn lột hệ thống như thế. Binh lính, sĩ quan vỗ béo mình, nhưng lòng tham của họ không thỏa mãn.
Chính lòng tham lam ấy trước hết cứu Hồ Chí Minh. Thay vì thanh toán ông, chúng bảo: “Cho chúng tôi vàng”. Việt Minh chồng chất lên dân chúng những “khoản thuế yêu nước” để trả cho Lư Hán. Đầu năm 1946 Hồ Chí Minh và nhân dân ông đã kiệt quệ. Hơn một triệu nông dân vùng châu thổ chết đói. Nhận thấy Hồ Chí Minh không có lợi nữa, những người Trung Hoa chuẩn bị cho ám sát ông; họ quyết định thủ tiêu Việt Minh. Lúc đó mặc dù căm hận, Việt Minh cầu cứu người Pháp.
Kế hoạch thành công hoàn hảo. Ở Hải Phòng tàu của Leclerc được quân lính Lư Hán đón tiếp bằng ca nông; họ chống lại và giết chết mấy trăm người. Người Pháp đổ bộ lên và sau vài tuần lễ “mua chuộc” người Trung Hoa để họ ra đi. Cuộc mặc cả tiến hành thuận lợi nhờ một sự kiện bất ngờ nhưng hoàn toàn nằm trong truyền thống của Châu Á.
Vì tướng Lư Hán ghê gớm - kẻ đa nghi nhất trong các chúa tể chiến tranh - là nạn nhân của một sự bất chính khôn khéo của Tưởng Giới Thạch. Chính Tưởng đưa sự giàu có của Bắc Kỳ ra nhử mồi ông ta, đã bảo ông: “Hãy đưa quân sang Hà Nội. Tôi
giao trách nhiệm cho chính ông và quân đội ông nhiệm vụ cao cả mà nước Trung Hoa đảm đương”. Lư Hán tuy rất khôn ngoan, cũng không cưỡng được lòng ham muốn: ông cử các lữ đoàn của ông vào vùng châu thổ. Nhưng trong lúc các lực lượng Vân Nam xa cơ sở, bận vào việc vơ vét ở Bắc Kỳ, viên Tổng tư lệnh - Tưởng Giới Thạch - cho hai sư đoàn trung thành nhất của mình đột ngột vào Vân Nam không bố phòng, dễ dàng chiếm lấy vùng lãnh thổ của Lư Hán.
Tưởng Giới Thạch chỉ còn rũ bỏ vĩnh viễn các đội quân Vân Nam đầy vàng nhưng mắc bẫy ở Bắc Kỳ. Đúng lúc Bát lộ quân cộng sản - của Lâm Bưu, Napoléon đỏ - tấn công mạnh vào Mãn Châu Lý. Viên tổng tư lệnh cho chất binh lính Vân Nam lên những chiếc tàu cũ ở Hải Phòng; mấy tuần sau họ được đưa đến cách mấy nghìn cây số, gần Moukden, trên vùng đồng bằng bao la và băng giá; ở đấy hầu như họ bị nhấn chìm ngay bởi những tấn công của cộng sản.
Ở Bắc Kỳ không còn người Trung Hoa nữa. Trở ngại của “con trời” được gạt bỏ đối với Việt Minh cũng như với Pháp. Quân Pháp để cho cảnh sát của Hồ Chí Minh tiêu diệt hết những kẻ bảo vệ Trung Hoa - những băng nhóm Đồng minh hội và Việt Nam Quốc dân đảng họ đưa về từ Vân Nam về để đưa lên cầm quyền và đã bỏ rơi khi họ rút lui.
Đội quân viễn chinh không can thiệp những cuộc tàn sát ấy. Chắc chắn người của Đồng minh hội và Việt Nam Quốc dân đảng đã tỏ ra độc ác và thù ghét người Pháp hơn Việt Minh. Và
rồi vấn đề duy nhất, hơn giờ hết là thỏa thuận với Hồ Chí Minh và nhân dân của ông.
Pháp và Việt Minh đối mặt nhau ở Bắc Kỳ. Giờ tỏ rõ sự thật sắp điểm: người ta sẽ biết chế độ nhân dân và những kẻ thực dân cũ có cùng tồn tại với nhau không.
Người Pháp còn hy vọng vì họ không biết lòng căm thù theo quan điểm của Mao Trạch Đông mà Hồ Chí Minh vận dụng toàn bộ là như thế nào: một sự kinh tởm siêu hình đối với cái xấu mà hình thể tối cao là chủ nghĩa đế quốc. Những gì nhắc lại sự thống trị của người nước ngoài, nhất là người da trắng, không bao giờ hết tồi tệ, bị trừng phạt và đền tội đủ...
Chủ nghĩa cộng sản da vàng là sự trả thù quyết liệt của tính kiêu hãnh. Họ sáng tạo ra một khoa học hiện đại về bài ngoại. Căm thù chốc lát không đủ, phải học căm thù, dạy cho mình, cho quần chúng hàng ngày hàng giờ vô cùng tỉ mỉ về lòng căm thù. Toàn thể nhân dân phải đoàn kết trong tinh thần căng thẳng trả thù, không có tình cảm nào khác.
Đối với Việt Minh, ý tưởng đơn giản nhất về một “thỏa thuận” thực lòng với người Pháp là không thể hình dung nổi. Những người này đã đóng vai trò của mình. Họ đã làm cho người Trung Hoa ra đi, bây giờ đến lượt họ phải đi. Tổng bộ - ban chỉ huy tối cao - phân tích tình hình và quyết định “giải pháp đúng đắn” là tiến hành nhẹ nhàng, cử ông Hồ Chí Minh thuyết phục người Pháp, bắt nhượng bộ nhiều đến nỗi sự có mặt của họ
bị tước hết những phần chủ yếu; để sau này dễ đàng đuổi họ đi hoàn toàn.
Đến lúc đó, với một nghệ thuật vô song Hồ Chí Minh hoàn thành đóng nhân vật “Bác Hồ”, con người phúc hậu hình dáng trí thức truyền thống nhưng tinh thần bốc lửa, cao quý và hào hiệp. Con người kỳ lạ của nhất trong những người cộng sản Châu Á đã làm cho hầu khắp thế giới tưởng lầm ông không phải cộng sản: vậy phải đưa lại cho ông những gì ông muốn.
Không may xung quanh những chiếc bàn xanh, trong những cuộc hội nghị ở Đà Lạt và Fontainebleau, những người Pháp và Việt Minh nhận ra những từ họ cùng dùng - tự do, dân chủ, liên hiệp - có những ý nghĩa trái ngược nhau, người Pháp nghĩ thiết lập một quốc gia Việt Nam nhân dân, có xu hướng xã hội, chặt chẽ, gắn liền với một nước Pháp không là thống trị nữa mà là cố vấn thân tình. Họ chưa chấp nhận cho độc lập mà đề nghị liên hiệp. Việt Minh đòi hỏi trước hết là chủ quyền và họ muốn một nước Việt Nam đỏ, trên cơ sở “quy chế dân chủ” của nhân dân.
Cuộc tranh chấp căng thẳng. Người Pháp đề phòng, thành lập nước Cộng hòa tự trị Nam Kỳ ở Sài Gòn với những chức sắc lớn da vàng. Không hoàn toàn là một sự vô lý và giả tạo. Xứ Nam Kỳ có nhiều tư sản và thành phần quốc gia hơn cộng sản; ở đó nền văn minh Pháp đã dành chỗ cho những lề thói Khổng Tử cũ; nhất là người Nam Kỳ giàu có và lười biếng trong địa đàng ngoại lai của họ, sợ những người Bắc Kỳ quá đông, trong cuộc sống
làm lụng vất vả trên vùng châu thổ nghèo nàn, làm cho họ quyết liệt và chi phối nguy hiểm.
Tuy thế khi người Pháp khai thác những nỗi lo sợ và ẩn ý ấy của người Nam Kỳ, họ hoàn toàn làm tổn thương tinh thần yêu nước Việt Nam. Từ ngữ “nước Việt Nam thống nhất” luôn ở cửa miệng cùng với từ độc lập. Việt Minh tích cực phát động quần chúng chống sự chia cắt đất nước ấy; họ tổ chức kháng chiến trong toàn Nam Kỳ do người Pháp nắm giữ: ở đây người ta chém giết khắp nơi.
Mặc dù tình hình Đông Dương tồi tệ đi, Hồ Chí Minh vẫn không từ bỏ tác động dư luận Pháp. Ngược lại ông dùng cây gậy người hành hương. Trong lúc các phái đoàn Pháp và Việt Minh đối đầu nhau ở Fontainebleau, ông vượt sông biển đem tình thân mến đến cho nhân dân nước Pháp. Thật là một chiến dịch “khẳng định” thần kỳ. Anh “bồi buồng” cũ của tàu chở khách D’Artagnan đến nói chuyện với phụ nữ, trẻ con Pháp. Ông nói những câu rất đơn giản, với những từ cảm động thiết tha hòa bình của ông. Ông nhắc lại với các bà mẹ không nên để con trai họ chết vô ích trên đồng ruộng. Những người đàn ông, đàn bà của Việt Nam phải chăng không có quyền tự do?
Trong chuyến đi, Hồ Chí Minh được Chính phủ Pháp tiếp đón với những vinh dự như với một nguyên thủ quốc gia. Ông đi xe, có những đội mô tô tháp tùng, đến đặt một vòng hoa ở Đài Chiến thắng.
Tuy thế, người Pháp không nhường bước. Điều đó dẫn đến sự cắt đứt. Lúc đó, khi mọi việc xem như đã xong, Hồ Chí Minh một đêm, trên đầu bàn ở nhà Marius Moutet, ký một thỏa ước - không giải quyết được gì nhưng qua đó, ít nhất cũng tránh được sự tranh chấp và chiến tranh công khai.
Thực tế, bí mật Hồ Chí Minh bắt đầu. Người ta không bao giờ biết cử chỉ đột ngột của Bác Hồ, một mình ký tắt một mảnh giấy, là cố thử vô vọng cứu lấy hòa bình hay bước đầu chuẩn bị một lễ Thánh Barthélemy lớn cho người da trắng.
Còn hơn trước đây, Sainteny tin chắc vào sự “thành thật” của Hồ Chí Minh, bị Việt Minh của ông, những người Pháp, những người cực đoan dồn đến bước đường cùng và dựa vào uy tín lớn lao của mình trên cán cân, mạo hiểm những sáng kiến táo bạo của mình để máu khỏi chảy.
Nhưng đấy có phải là ý đồ thực sự của ông già không? Người ta cũng rất có thể nhìn ông với những sắc màu ngược lại. Ông có thể là người thực tế không lay chuyển, nhận thấy không thể đạt mục đích bằng thương lượng với người Pháp đã kết luận chỉ còn một cách: loại bỏ những người da trắng, tổ chức cuộc chống trả khắp nơi trong điều kiện có thể, trước hết là ở Hà Nội và Bắc Kỳ.
Một cuộc chiến như vậy cần tổ chức tỉ mỉ. Một đòn táo bạo - dứt khoát hoặc tăng gấp đôi - phải làm cho tất cả những người Pháp bị thủ tiêu bất ngờ. Trước khi chết họ cần có lòng tin. Và Hồ Chí Minh, với sự thỏa thuận lịch sự, tạo thời gian cần thiết
thực thi giải pháp, hơn nữa ông trấn an nạn nhân tương lai để giao họ vô tư cho đao phủ.
Mùa hè và mùa thu năm 1946 ở Bắc Kỳ rất lạ lùng. Cơn sốt nổi lên. Đấy là đêm quyết định. Đội quân viễn chinh ở chỗ nào cũng như bị bao vây bởi dân chúng, loa của các ủy viên chính trị, quân du kích và những đám đông. Người ta cày xới đất, đào hầm, dựng chướng ngại vật xung quanh từng vị trí của người Pháp. Người Pháp ẩn nấp sau chướng ngại vật và súng đại liên. Đôi khi sức ép của dân chúng quá lớn, họ tung ra những đòn nặng - tấn công những người Việt bao vây họ, chiếm hoàn toàn những thành phố như Hải Phòng, Lạng Sơn v.v... Nhưng sau đó quân lính canh gác Pháp biến mất: họ bị bắt cóc và xử tử.
Trong không khí ngạt thở ấy, Sainteny đấu tranh dữ dội ở Hà Nội vì hòa bình. Nhiệm vụ khó khăn! Vì ông phải chống lại các chỉ huy Đội quân viễn chinh, các đại tá, các tướng đã nói với ông: “Chỉ còn lại sức mạnh thôi. Nếu chúng ta không đè nát Việt Minh bây giờ thì họ sẽ tiêu diệt hết chúng ta”. Ông khó làm cho họ nghe theo mình; hơn nữa làm sao phản bác một số biện pháp an toàn mà không gánh những trách nhiệm ghê gớm? Tình huống thật tai hại.
Sainteny nhìn Hồ Chí Minh như một đồng minh: phải chăng ông Hồ cũng đấu tranh với những người cuồng tín của ông, những người “cứng rắn”, những thành viên của cuộc chiến tranh như ông Giáp? Hai người trở thành bạn thân. Thấy rõ gần như hàng ngày họ cư xử với nhau như họ chiến đấu cho cùng một lợi ích - Hòa bình, trước mọi đe dọa, mọi sức ép, mọi định
mệnh. Không người nào từ bỏ mặt trận của mình mà ngược lại. Nhưng họ hoạt động với tư cách đối thủ trung thực,“tự giải thích” để tránh thảm họa.
Cả trong tháng chạp năm 1946 Sainteny còn tin tưởng vào thực tâm của cá nhân Hồ Chí Minh. Tuy vậy quan hệ của ông thưa dần. Hà Nội đã căng thẳng tột độ. Không thể im lặng trước mức độ quan trọng của những chuẩn bị quân sự của Việt Minh.
Trong những trường hợp ấy binh lính Pháp ở Hà Nội tỏ ra dũng cảm. Nhận được lệnh chịu đựng thay vì chống trả, họ nhận những lời chửi rủa, đe dọa, tất cả những hành động khiêu khích. Họ chỉ phản ứng vừa phải cả những khi bạn họ bị bắt đi hoặc bị thương, nhằm tránh sai lầm không sửa chữa được.
Nhưng lúc đó ai tưởng tượng được “việc không sửa chữa được” ấy biến thành một cuộc diệt chủng, một trong những cạm bẫy ghê gớm ở thời hiện đại? Người ta đã không cảm nhận được điều đó.
Đêm 19 tháng chạp 1946, hàng chục nghìn Việt Minh quân lính đỏ, cán bộ chính trị, du kích, cảnh sát, đủ loại đàn ông, đàn bà, trẻ em - bắt đầu tiêu diệt người Pháp. Đấy là việc ám sát, tấn công có hệ thống, thực hiện theo một mệnh lệnh chiến đấu chuẩn bị đã nhiều tuần và chứa đựng trong hàng trăm chỉ thị. Tất cả những người da trắng phải thanh toán hết nhưng có một chương về phương pháp thực hiện theo từng đường phố, từng nhà.