"
Con Gái Người Canh Giữ Giấc Mơ PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Con Gái Người Canh Giữ Giấc Mơ PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
CON GÁI NGƯỜI CANH GIỮ GIẤC MƠ —★—
Tác giả: Emily Colin
Người dịch: Phạm Minh Trang
Phát hành: Đinh Tị
Nhà xuất bản Văn Học 2019
ebook©vctvegroup
TẬP 1
Dành tặng cuốn sách này cho các chiến binh công lý. Những người đã đấu tranh cho điều họ tin tưởng, để cất lên tiếng nói cho những người thất thế và là cơ quan ngôn luận cho những người bị áp bức, dù cho trận chiến còn dài và sự tưởng thưởng còn rất lâu mới có được.
Cuốn sách này dành tặng những người không có tiếng nói và bị áp bức. Suy nghĩ và lời nói của các bạn có ý nghĩa và tầm quan trọng, mặc dù nó thường có vẻ không như vậy. Các bạn có ý nghĩa và tầm quan trọng. Đừng để bất cứ ai thuyết phục các bạn tin điều ngược lại. Các bạn nắm giữ trong trái tim mình sức mạnh để thay đổi thế giới.
Cuốn sách này dành tặng những người anh hùng đã trao cuộc sống cá nhân của mình cho điều lớn lao hơn chính bản thân họ, những người làm việc suốt nhiều giờ dài dằng đẵng để nhận lại số tiền thù lao ít ỏi và đôi khi không vì chút tiền bạc nào. Họ luôn có quá nhiều việc phải làm và quá ít thời gian. Bởi vì các bạn sẽ không bao giờ hát lên những lời ca khen ngợi chính mình, cho nên tôi sẽ hát chúng lên cho các bạn. Thế giới trở nên tốt đẹp hơn là nhờ các bạn.
Và cuối cùng, cuốn sách này dành tặng cho các nghệ sĩ - những nhà văn và nhạc sĩ, những họa sĩ và nhà soạn kịch. Lúc này, hơn bao giờ hết, chúng tôi cần các bạn. Không thỏa hiệp. Khiến chúng tôi bồn chồn. Giữ cho chúng tôi tò mò. Cho chúng tôi thấy sự thật. Dẫn lối chúng tôi về nhà.
Isabel
Tôi đang quỳ gối, mặt trời bỏng rát trên lưng và bụi bẩn từ những khúc xương dài chết chóc rải rác giữa những ngón tay đeo găng, thì điện thoại đổ chuông.
Bởi đang tập trung vào công cuộc đào xới tỉ mẩn, tiếng chuông điện thoại chói tai khiến tôi giật thót. Tôi bật dậy và mất thăng bằng, ngã phịch mông xuống và khiến một đám bụi bẩn tung lên. Phía sau, tôi nghe tiếng Jake, một trong những sinh viên của tôi, đang bật ra thứ chỉ có thể được mô tả như một tiếng cười hô hố. Tôi xoay người lại trừng mắt nhìn cậu ấy và cậu ấy che giấu nó thành một tiếng ho khan, trông vẻ bối rối. Sắc hồng lan trên má cậu ấy, gò má vốn đã đỏ lựng lên vì mặt trời và gió.
Tôi cứ tưởng cuộc gọi đến từ người hướng dẫn của tôi ở trường Đại học Charleston. Hoặc là của cha tôi, ông đang trông nom Finn, cô con gái bảy tuổi của tôi trong khi tôi đi thực địa. Nheo mắt để xem số gọi đến, tôi cố trấn áp cơn hoảng loạn bản năng và ớn lạnh mà tôi cảm thấy bất cứ khi nào chuông điện thoại reo: Là trường học. Finn mất tích. Con bé đang chơi trên sân trong lúc giải lao và giờ họ không thể tìm thấy con bé ở đâu cả, như thể con bé đã biến mất vào thinh không.
Phản ứng theo cách này thật chẳng ích gì, tôi nhắc nhở bản thân. Nó sẽ không hiệu quả. Nhưng tôi không thể đừng được. Sau tất cả những năm tập luyện võ thuật hỗn hợp cùng một đai đen Judo, tôi vẫn không cảm thấy thế giới này là nơi an toàn.
Rồi tôi nhìn thấy tên người gọi, và tôi quên luôn Jake, quên luôn Finn, quên luôn mọi thứ ngoại trừ ba chữ cái vô hại xuất hiện trên màn hình điện thoại.
Max.
Điện thoại lại reo, nhưng tay tôi đang run đến mức khó khăn lắm tôi mới tháo được găng, và rồi phải thêm hai hồi chuông nữa tôi mới có thể trả lời cuộc gọi. Tim tôi đập mạnh gấp ba lần khi tôi đưa điện thoại lên tai. “A lô?” Tôi nói, và rồi, khi không có tiếng đáp lại, tôi tiếp tục. “Max? Là anh phải không?”
Chỉ có sự im lặng từ đầu dây bên kia, và rồi, như thể đến từ tít cuối đường hầm tĩnh lặng dài thật dài, giọng nói tôi đã nghĩ mình sẽ không bao giờ được nghe thấy lần nữa cất lên. “Isabel.”
Tất cả những gì anh nói là tên tôi - nhưng đúng là Max, không nghi ngờ gì nữa. Suốt sáu năm chúng tôi quen biết nhau, tôi đã nghe Max gọi tên tôi vô số lần, theo hàng ngàn cách khác nhau. Anh hét gọi tôi từ trong khu rừng nối giữa hai nhà, háo hức kêu tôi ra ngoài. Cố gắng thu hút sự chú ý của tôi khi chúng tôi nằm cạnh nhau trong ngôi nhà trên cây anh đã dựng, lật từng trang cuốn Địa lý Quốc gia cũ kỹ. Lần đầu anh ngập ngừng hôn tôi, những ngón tay anh lướt trên mặt tôi. Và cuối cùng, khi Finn được thụ thai, như thể một phép màu, một điều còn kì diệu hơn câu “anh yêu em”. Tôi sẽ nhận ra giọng nói của Max ở bất cứ đâu.
Vấn đề là, tôi đã không còn được nghe giọng nói ấy nữa kể từ trước cả khi Finn chào đời.
Vấn đề là, tôi đã không còn được nghe giọng nói ấy nữa kể từ trước cả khi Finn chào đời.
Những ngón tay tôi đột nhiên nhũn ra, và thứ tôi đang cầm rơi bịch xuống nền đất bẩn. “Ôi trời ơi, Max.” Tôi nói. “Anh đang ở đâu?”
Sự im lặng ở đầu dây bên kia, và rồi, khi anh nhắc lại tên tôi, giọng anh chất chứa sự tuyệt vọng. “Isabel.” Anh nói, theo sau là sự tĩnh lặng. Tôi ấn mạnh điện thoại vào tai trong nỗi thất vọng, cố gắng thốt nên lời. Nhưng tôi không thể hiểu nổi cái quái gì hết. Rồi giọng anh trở nên rõ ràng lần nữa. “Giữ con bé an toàn.”
“Max, khó nghe quá. Giữ ai an toàn cơ? Nói cho em anh đang ở đâu.” Tôi nói, nhưng đã quá muộn. Tôi đang nói với một đường dây đã ngắt.
Tôi cố gọi lại, nhưng tất cả những gì tôi nghe thấy là tin nhắn thoại tôi đã nhận được suốt bảy năm qua: Số máy quý khách vừa gọi hiện không liên lạc được. Xin quý khách vui lòng gọi lại sau. Tôi gọi hết lần này đến lần khác, nhưng kết quả y như nhau.
Dần dần tôi nhận ra mình vẫn đang quỳ trên đất bẩn, nước mắt lăn dài xuống mặt, giữa chuyến khai quật khảo cổ mà tôi được giao nhiệm vụ phụ trách. Từ từ và chậm rãi, khuôn mặt nhòe đi của các sinh viên của tôi dần hiện ra trong tầm mắt. Jake đang nhìn tôi chằm chằm, vẻ bối rối và hoảng hốt.
Tôi loạng choạng đứng dậy, đầu óc choáng váng. “Tôi xin lỗi.” Tôi lẩm bẩm. Rồi sau đó, tôi làm điều chưa từng làm trước đây, chưa từng trong suốt năm năm đại học và hai năm làm giảng viên. Tôi bước thẳng qua khu vực đang khai quật.
Isabel
Tôi có thể nghe thấy tiếng bước chân Jake ngay phía sau, lạo xạo trên sỏi đá, gọi tên tôi, muốn biết có chuyện gì. Nhưng sao tôi có thể giải thích kia chứ?
Tôi ép bản thân xoay người lại và giơ một tay lên ra hiệu không sao, hy vọng chiếc kính râm đã che giấu những giọt nước mắt không mời mà đến đang nhức nhối trong mắt. Tôi nghe thấy giọng của chính mình, nói rằng mọi chuyện ổn cả, tôi chỉ cần ở một mình vài phút thôi. Cậu ấy sẽ phụ trách cho đến khi tôi quay lại.
Qua màn sương mù che phủ trước mắt mình, tôi có thể nhận thấy vẻ hoài nghi của Jake, thế nên, tôi cố nặn ra nụ cười. Rõ ràng nụ cười không mấy thành công, bởi vì cậu ấy nhăn mặt. Miệng mở ra, nhưng trước khi cậu ấy đặt một câu hỏi mà tôi không biết phải trả lời thế nào, tôi thò tay vào túi mò tìm chìa khóa và xoay xở mở cửa xe. Di chuyển như trong một giấc mơ, tôi ngồi vào sau tay lái và đóng cửa lại cùng một cảm giác hối hận mơ hồ. Đây không phải điều một phụ trách nên làm, nhưng ngay lúc này tôi không thể tập trung năng lượng để mà quan tâm được.
Tôi run rẩy lùi xe ra khỏi cổng và lái ra đường, phớt lờ tiếng ken két của khung xe khi một trong những bánh xe chẹt vào ổ gà. Điều cuối cùng tôi trông thấy là Jake đứng ở rìa bãi đỗ xe, tay đút trong túi chiếc quần soóc kaki, nhìn chằm chằm phía sau tôi với vẻ mặt đầy hoang mang.
Tôi không biết mình đang đi đâu, và sau vài phút trấn tĩnh lại thì nhận ra rõ ràng tôi không nên ngồi sau tay lái. Tôi khó có thể lái xe trên một đường thẳng, chưa kể đến quan sát giao thông. Thực tế là chúng tôi đang ở Barbados, nơi mà tôi vẫn nghĩ mọi người lái xe sai làn đường, không giúp ích được gì. Thế nên, tôi cho xe tấp vào lề đường và dừng lại ở nơi đầu tiên mình trông thấy - Cutters Deli, một
nhà hàng tự hào quảng cáo rằng mình là “nhà cung cấp Rum Punch[1] số một”.
Với ý niệm mơ hồ rằng một ly sẽ giúp bình tĩnh lại, tôi lao ra khỏi xe. Nhưng khi tôi hướng thẳng về phía nhà hàng thì lý trí có tiếng nói của riêng nó. Tôi không thể say được - tôi đang làm việc. Tôi đang nghĩ cái quái gì vậy chứ?
Tôi nhìn lại ô tô, rồi lại nhìn nhà hàng. Cơn run rẩy vẫn tiếp diễn, cơn run rẩy từ đầu đến chân khiến răng tôi va vào nhau lập cập và đầu gối chùng xuống. Ngoại trừ cái ngày mà mẹ tôi biến mất - từ sáu năm trước khi tôi mất Max - chưa bao giờ tôi cảm thấy cô đơn đến thế.
Trong cơn tuyệt vọng, tôi tưởng tượng Ryan - người bạn thân nhất của tôi - đang ở đây với tôi. Tôi nghe thấy giọng nói trầm ấm của cậu ấy đang bảo tôi phải tập trung vào. Tập trung. Nếu cậu tiếp tục suy nghĩ, giọng cậu ấy vang lên, cậu sẽ không thể cảm nhận. Nhìn xung quanh đi. Nói với tôi, cậu trông thấy gì.
“Được rồi.” Tôi nói lớn. Ép bản thân nhìn vào nhà hàng Cutters, thật sự tập trung vào lớp thạch cao màu vàng nhạt bên ngoài, mái kim loại xanh lấp lánh dưới ánh nắng giữa trưa. Mắt tôi quét qua sân trước, có những phiến đá lát lối đi và những chiếc bàn tròn màu trắng bao quanh bởi những chiếc ghế dài. Ở đó, có hai gia đình đang ngồi, thưởng thức bánh mì kẹp cá chuồn đặc biệt của nhà hàng, tôi có thể ngửi thấy mùi bột nhà hàng dùng để chiên cá, và trên hết là mùi nước xốt ớt cay của Cutters vốn đã rất nổi tiếng trong việc kích thích vị giác thực khách.
Phương pháp của Ryan khá hiệu quả. Được tiếp thêm động lực, tôi tiếp tục quan sát. Cái cây che nắng cho khoảng sân cần được cắt tỉa, tôi để ý với tinh thần khách quan đáng khen ngợi. Những hòn đá có thể được hưởng lợi từ một bữa gột rửa ra trò. Và lớp sơn trên chiếc đinh ba - biểu tượng cho việc thuộc địa này tách rời khỏi nước Anh - bên cạnh tên nhà hàng thật sự cần được tô vẽ lại. Giờ đã hít thở dễ dàng hơn, tôi đọc những từ được viết bên hông của tòa nhà: Cutters Bajan Deli, chữ đủ to để bao phủ hết cả mảng tường, và sau đó là những chữ nhỏ hơn, của Barbados, chỉ để phòng trường hợp
một du khách bất hạnh đang hoàn toàn bị lạc đường. Nếu Ryan ở đây, nó sẽ khiến cậu ấy cười phá lên.
“Được rồi, Ryan.” Tôi thì thầm, tiến thêm vài bước đến gần tòa nhà. “Tôi ổn rồi.”
Tôi không biết liệu đây có đúng là sự thật không, nhưng ít nhất tôi đã có lại khả năng quyết định phải làm gì tiếp theo. Dựa người vào bên hông nhà hàng, điện thoại trượt đi trong bàn tay ướt đẫm mồ hôi, tôi quay số gọi Max lần nữa. Và lần nữa, tôi nghe thấy một giọng nữ giới tự động và vô cảm vang lên. Tôi phải đấu tranh với nỗ lực không ném chiếc điện thoại xuống đất và giẫm lên nó. Tôi lý luận rằng rốt cuộc Max sẽ gọi lại cho tôi thế nào nếu tôi không có điện thoại đây?
Tất nhiên câu hỏi hay hơn là: Thế anh đã gọi cho tôi thế nào? Và tại sao lại là bây giờ, sau suốt ngần ấy năm?
Tôi đã không gặp hay nghe tin tức gì từ Max trong gần tám năm. Cái ngày sau khi tôi nói với anh tôi đang mang thai Finn, anh biến mất - cách chỗ tôi đứng chưa đầy mười lăm mét, trong khi tôi hét gọi tên anh.
Ngoài trời đang hơn ba mươi hai độ C, nhưng tôi run lên trong chiếc áo ba lỗ và quần soóc. Ngày hôm đó - cảm giác như thể ở một kiếp khác - anh đã hẹn gặp tôi trong khu rừng giữa hai ngôi nhà của cha mẹ chúng tôi. Đây không phải một yêu cầu bất thường - chúng tôi đã gặp nhau lần đầu tiên trong khu rừng đó, năm tôi mười sáu tuổi và anh mười bảy, và chúng tôi đã hẹn gặp ở đó kể từ khi ấy. Đó là nơi ẩn náu của chúng tôi, nơi chúng tôi có thể bỏ trốn - với anh là trốn khỏi những đòi hỏi ngột ngạt của cha mẹ, với tôi là khỏi sự im lặng ngột ngạt của ngôi nhà trống rỗng, bị ám ảnh bởi người cha u sầu, tham công tiếc việc của tôi và hồn ma bứt rứt không yên của người mẹ.
Năm năm sau, lần đầu chúng tôi làm tình ở đó - đã thụ thai Finn, trên những tấm ván được sưởi ấm dưới ánh mặt trời trong ngôi nhà trên cây mà Max đã dựng, tít cao trên một nhánh của cây sồi cổ thụ. Khi ấy đang là kỳ nghỉ mùa xuân vào năm cuối của tôi ở trường Đại học Bắc Carolina tại thành phố Columbia, lúc đó, tôi vừa trở về từ chuyến khảo cổ học tình nguyện tại Hy Lạp, những ký ức đó vẫn còn
in sâu trong tôi. Tôi đã kể cho Max nghe mọi chi tiết, cũng như tôi đã kể cho anh rất nhiều chuyện đã xảy ra trong hàng năm trời, anh lắng nghe, đôi mắt anh nhìn tôi chăm chú, tay anh vuốt tóc tôi, xoắn những sợi tóc của tôi quanh ngón tay anh.
Đấy là ký ức đẹp hơn nhiều cái ngày tôi mất anh, và đứng đó trong ánh mặt trời rực rỡ của buổi chiều Barbados, tôi nhắm mắt, mang mình trở về thực tại. Tôi tựa lưng vào bức tường thạch cao ấm áp, nhưng tôi hầu như không cảm thấy nó. Tôi hít thở sâu, cảm nhận mùi hương không thể nhầm lẫn của mùa xuân Bắc Carolina: hương thơm tinh tế của hoa tử đằng, mọc quấn quanh thân cây sồi có ngôi nhà trên cây, vị ngọt của những trái dâu tây tươi mát Max mang đến từ khu vườn của gia đình anh.
Tất cả những gì tôi có thể phỏng đoán là chắc hẳn tôi đang bị sốc, bởi nhớ về khoảng thời gian khi chúng tôi còn hạnh phúc thì cũng nhiều đau đớn như khi nghĩ về anh khiến tôi dường như không thể chịu đựng được. Xung quanh tôi, cuộc sống vẫn tiếp diễn - cánh cửa nhà hàng đóng sầm lại, một nữ bồi bàn hỏi liệu cô ấy có thể mang tới một ly nữa không - nhưng âm thanh đó như đang lùi xa, như thể ai đó đang chỉnh giảm âm lượng. Thay vào đó, tôi nghe thấy tiếng dế và tiếng một con ếch kêu trong chiếc ao nằm ngoài khoảng rừng thưa của ngôi nhà trên cây. Tôi trông thấy đôi mắt xám của Max, phản chiếu trong đôi mắt nâu của tôi, mái tóc đen vờn quanh khuôn mặt anh, bộ râu bao phủ xương gò má lấp lánh ánh lên trong ánh sáng đang mờ dần.
Đã vài tuần trôi qua chúng tôi không ở bên nhau. Tôi biết anh muốn tôi - tôi có thể cảm thấy điều đó trong cơ thể căng lên của anh áp vào tôi, trong nhu cầu gần như không thể kìm nén khi anh lần theo đường nét trên cơ thể tôi, lướt tay qua xương sườn đến đường cong trên hông tôi rồi lướt trở lại. Tuy nhiên, anh để tôi tiếp tục huyên thuyên về những hầm mộ và bụi bẩn, cảm giác phấn khích mà tôi có khi chạm vào mảnh gốm chưa ai từng trông thấy trong hàng ngàn năm, quét sạch bụi bẩn khỏi nó, nhác nó lên khỏi trái đất. Anh để tôi kể lể trong ánh tà dương khi chúng tôi nằm mặt đối mặt trên sàn ngôi nhà cây, đầu gối lên những chiếc đệm chúng tôi đã mang lên từ lâu, được bao bọc trong cảm giác yên bình không
thể nhầm lẫn. Cho đến khi cuối cùng tôi cũng hết hơi và anh di chuyển lên trên tôi, chặn hết ánh sáng cuối cùng còn sót lại. Chúa ơi, anh nhớ em quá, anh nói. Đừng có đi như thế nữa được không? Hay tốt hơn là đưa anh đi cùng em.
Tôi bật cười trước câu nói đó, hơi thở của tôi dồn dập trước sự mơn trớn của anh trên làn da trần trụi của tôi. Trên một khu vực đang khai quật ư? Quỳ gối trên đất bẩn, chọc chọc vào các thứ. Anh sẽ chán đến chết cho mà xem.
Anh ngẩng đầu lên rồi nhìn tôi, một tay di chuyển giữa hai chân tôi, ngón tay trượt vào trong tôi thăm dò trước, sau đó là đòi hỏi. Em nghĩ anh sẽ làm gì suốt cả ngày nào? Anh hỏi, trượt ra khỏi vòng tay tôi khi tôi cố gắng kéo anh xuống với mình. Bên cạnh đó, anh sẽ theo em đi bất cứ đâu. Em biết thế mà.
Vậy thì lại đây. Tôi cố gắng kéo anh lại gần hơn, và anh lắc đầu, bật cười.
Không nhanh thế đâu, Isabel. Anh đã chờ em nhiều tuần rồi. Em hẳn có thể chờ thêm vài phút nữa chứ.
Thật sao? Tôi nói, và đẩy anh xuống sàn. Nụ cười của anh nhạt dần và mắt anh dán chặt vào tôi như bị thôi miên, khi tôi quỳ giữa hai chân anh, khao khát trả thù.
Được rồi, anh nói, kéo tôi lên trên anh. Em thắng. Anh cong hông, lấp đầy tôi, và chúng tôi bắt đầu di chuyển, ở đó, trong ánh hoàng hôn.
Tôi vẫn nhớ cảm giác đôi tay của Max, chai sạn qua nhiều năm làm việc trong các khu vườn và nhà kính, lướt xuống hông tôi. Vẫn nhớ ánh mắt nhìn xuống anh, trông thấy bóng mình lấp đầy trong đôi mắt ấy, môi anh thì thầm tên tôi. Và rồi anh quỳ xuống ôm tôi trong vòng tay, tóc tôi đổ xuống như tấm rèm che chắn cả hai, miệng anh ấm áp và gấp gáp trên cổ tôi, trên ngực tôi. Isabel, anh gọi, hổn hển thở. Anh không... em biết đấy. Ôi Chúa ơi, anh không thể dừng lại được.
Tôi bấm sâu móng tay vào vai anh, áp mình vào anh để có thể cảm thấy anh di chuyển trong tôi, sâu như thể da thịt chúng tôi hòa làm một. Vậy thì đừng dừng lại, tôi thì thầm, bị áp đảo bởi làn sóng
của sự liều lĩnh. Và bao phủ miệng anh bằng miệng tôi, để mặc cho con sóng cuốn cả hai chúng tôi đi.
Đó là cách mà Finn được thụ thai - một điều bất ngờ nhưng không phải một rủi ro, tôi luôn nghĩ về điều đó như vậy. Tôi đã biết rõ ràng chuyện gì có thể xảy ra sau buổi chiều hôm đó - và Max cũng biết. Cách chúng tôi hình dung nó, vấn đề chỉ là khi nào mà thôi. Hay ít nhất đó là điều tôi đã luôn nghĩ. Có thể Max đã nghĩ khác. Có lẽ anh đã không muốn có con bé chút nào.
Tôi mở mắt, khó nhọc thở. Xung quanh tôi, thế giới tập trung trở lại - ánh sáng đang dần tàn, tiếng ồn của máy điều hòa không khí trong nhà hàng, một cặp đôi rám nắng bước lên bậc thềm. Người phụ nữ nhìn tôi với ánh mắt tò mò, sau đó đột ngột sải bước vội vã vào trong. Tôi nhìn xuống mình, lần đầu tiên nhận ra tôi đang dính đầy bụi bẩn và bùn từ khu khai quật. Chiếc quần soóc tả tơi bị rách từ một tai nạn do mảnh kim loại lởm chởm cứa vào.
Tuy vậy, tôi không thể bắt mình để tâm cho được. Tôi vẫn cảm thấy những mơn trớn của Max trên da, siết tôi chặt đến bầm tím, đánh dấu tôi. Tôi có thể nhìn thấy chính mình đang đứng trong bếp của cha tám tuần sau, những ngón tay gõ gõ trên bề mặt đã mòn vẹt của chiếc bàn, nói với Max tôi đang mang thai. Có thể trông thấy khuôn mặt anh, đôi mắt mở to vì sốc, rồi sáng lên thứ mà tôi có thể thề là niềm vui. Tôi nhớ anh đã bước vòng qua bàn và giữ chặt lấy vai tôi, hỏi tôi là liệu tôi có chắc không, vùi mặt anh vào tóc tôi và vòng tay anh quanh vai tôi, nói rằng anh yêu tôi và mọi chuyện sẽ ổn cả thôi. Anh sẽ chăm sóc cho cả hai mẹ con.
Rồi tôi nhớ anh thả tay ra và lùi lại, ánh nhìn kỳ lạ trên gương mặt. “Anh phải đi đã.” Anh nói, cũng phải thôi - hai mươi phút nữa anh phải vào làm việc rồi. “Hẹn gặp em ở ngôi nhà trên cây ngày mai nhé? Trưa được không? Mai anh được nghỉ.”
“Được ạ. Nhưng Max, có chuyện gì vậy? Anh có giận không? Hay là có...” Tôi ngừng lời, không muốn nói ra những suy nghĩ xấu xí đã ở trong tâm trí tôi ngay khi trông thấy ánh nhìn trên gương mặt anh - như thể là ai đó khác. Nếu là năm phút trước, tôi sẽ thề rằng điều đó là không thể. Giờ thì tôi không chắc lắm.
“Tất nhiên là anh không giận. Mọi chuyện ổn cả mà.” Anh nói, nhưng tôi biết anh đủ rõ để nói khi nào anh đang nói dối. Tôi có thể trông thấy điều đó trong cách mắt anh nhìn xa khỏi tôi, cách anh di chuyển chấn, như thể anh muốn tránh xa tôi và không thể chờ đợi thêm nữa.
Điều đó đau đớn hơn bất kỳ thứ gì khác. Max là người đã an ủi tôi khi mẹ tôi biến mất, đã lấp đầy lỗ hổng mà mẹ đã để lại trong tim tôi. Anh đã ôm lấy tôi khi tôi khóc vì mẹ, để tôi nói hết những lời mà cha tôi đã từ chối lắng nghe: Mẹ hoặc đã chết hoặc đã bỏ rơi chúng ta. Dù lý do là gì, mẹ cũng không quay lại nữa đâu. Max đã ở bên tôi khi cha chìm đắm trong nỗi ám ảnh, khi cha ngừng đến họp phụ huynh hay thậm chí là mua thực phẩm. Trong suốt sáu năm, Max đã là tất cả với tôi. Ngoại trừ một khoảng thời gian ngắn tôi muốn giữ khoảng cách trong tình bạn của chúng tôi - lo sợ rằng tôi đã yêu anh - chúng tôi không thể tách rời kể từ ngày gặp gỡ trong rừng. Thậm chí trong bốn năm tôi ở Columbia, học để lấy tấm bằng của tôi trong khi Max nghiên cứu lịch sử tại Đại học Charleston và tự mình lập một chuỗi kinh doanh vườn tược địa phương, cũng không khiến được chúng tôi chia xa - hoặc tôi đã tin là vậy.
“Max.” Tôi nói, sự ngờ vực rành rành trong giọng nói, và anh nở nụ cười.
“Anh hạnh phúc mà, Isabel. Anh hạnh phúc thật sự đấy.” Anh đặt bàn tay lên bụng tôi với sự dịu dàng tôi chưa bao giờ cảm nhận được từ anh, và trong khoảnh khắc, tôi để mình tin rằng đó là sự thật. Tôi đứng yên dưới bàn tay anh, tưởng tượng ra một cụm tế bào là Finn, đang lớn lên và thay đổi ngay cả trong khoảnh khắc này, trở thành đứa bé xinh xắn mà một ngày tôi sẽ ôm trong vòng tay. Và rồi, với một linh cảm lạ kỳ, tôi tưởng tượng ra mình đang nuôi nấng đứa trẻ đó một mình.
“Em rất mừng.” Tôi nói, ngẩng mặt lên. “Bởi vì cách anh hành động, thật khó nói.”
Giọng anh ôn hòa, vẻ tư lự. “Anh có hơi bị choáng váng, chỉ vậy thôi. Nó hơi quá tải để mà tiếp nhận. Và anh... chà, anh cần nói với em một chuyện.”
Nỗi sợ hãi hẳn đã lóe lên trên mặt tôi, nhanh chóng theo sau là sự giận dữ, bởi vì anh lắc đầu, một nụ cười trìu mến nở trên môi. “Không phải thế đâu. Chúa ơi. Em nghĩ anh còn sức mà đi lừa dối em sao, bị dục vọng dẫn lối? Trời ạ, em sẽ xé xác anh mất.”
“Thế thì là chuyện gì?” Tôi không thích giọng mình, đầy sợ hãi và đáng thương.
“Để mai đi, được chứ? Chỗ khoảng rừng thưa nhé. Anh sẽ nói mọi chuyện với em. Anh hứa đấy.”
“Sao không phải bây giờ?”
“Bởi vì anh phải đi làm. Trong vòng mười lăm phút nữa.” Anh nói thêm, kiểm tra đồng hồ. “Không đủ thời gian. Chưa kể đến... thôi, không có gì đâu.”
Tôi đứng đó, thấy được sự lo lắng trong đôi mắt xám của anh, cố gắng đoán định xem chuyện gì có thể khủng khiếp đến vậy. “Anh sắp chết à?” Tôi hỏi, giọng khàn đi.
“Gì cơ? Tất nhiên là không.” Môi anh giật giật.
“Thế thì là chuyện gì?” Tôi nói, nhìn anh chằm chằm đấy bối rối. Trong giây lát, tôi không nghĩ anh sẽ trả lời. Rồi anh lẩm bẩm. “Anh sắp muộn làm rồi. Công với chả việc.” Và anh ôm lấy mặt tôi trong tay, hôn tôi đắm đuối như thể trong cơn tuyệt vọng, làm rung lên sợi dây sợ hãi nằm im lìm trong trái tim tôi. “Anh yêu em.” Anh nói, áp chặt những ngón tay lên da tôi. “Em tin điều đó, đúng không?”
“Tất nhiên là em tin.” Tôi nói, thấy lo sợ hơn bao giờ hết. “Max, chuyện gì vậy?”
Anh ôm lấy mặt tôi giữa hai bàn tay. “Anh luôn yêu em.” Anh nói, hôn tôi lần cuối và bước đi. “Luôn yêu em. Nhớ nhé! Bất kể chuyện gì xảy ra.”
Tôi đã nói tôi sẽ nhớ. Và tôi vẫn giữ lời hứa của mình, bất chấp mọi thứ.
Anh đã yêu cầu tôi gặp anh ngày hôm đó, và tôi đã tới - đúng lúc trông thấy anh chạy giữa những thân cây phía bên kia khoảng rừng thưa, xuyên qua bụi rậm. Dừng lại, Isabel. Anh hét lên khi tôi đuổi theo. Tôi đã không nghe và bị mắc kẹt trong một bụi cây thạch nam
- tôi chưa từng biết rõ khu rừng chết tiệt đó như anh - và ngay khi tôi thoát ra được thì không thấy anh đâu nữa. Tôi theo dấu con đường anh đã đi cho đến khi không thấy dấu vết nào nữa. Chạy khắp các ngả ra đến tận đường lớn, gọi tên anh, rồi quay lại khoảng rừng thưa, không thấy tăm hơi anh đâu. Chỉ là anh đã... biến mất.
Đã nhiều năm rồi tôi mới cho phép bản thân nghĩ về anh thế này, cho phép bản thân nhớ về cảm giác khi anh ôm tôi, gọi tên tôi. Cuộc gọi này đã khiến tôi mất kiểm soát và tôi buộc bản thân phải hít thở sâu. Giữ con bé an toàn, anh đã nói vậy. Nỗi sợ hãi cuộn dâng trong tôi. Có phải anh đang nhắc đến Finn?
Đây hẳn là một suy nghĩ ngớ ngẩn. Tôi chắc chắn thế. Max chưa bao giờ gặp con gái anh. Bên cạnh đó, con bé đang ở nhà với cha tôi, cha đã giữ trọn lời hứa bằng cách trở thành một người ông phi thường. Cha sẽ không bao giờ cho phép bất kỳ chuyện gì xảy đến với Finn.
Tuy nhiên, nỗi sợ hãi vẫn đeo bám tôi kể từ cái ngày mẹ tôi biến mất - một ngọn lửa nhỏ, le lói đã bùng lên thành một đám cháy lớn khi Max biến mất và còn nóng hơn nữa khi Finn chào đời - sẽ không để tôi được thanh thản. Nếu con bé biến mất thì sao? Tôi nghĩ, nắm chặt điện thoại trong tay. Nếu như nó - bất kể nó là gì - cũng tóm được con bé thì sao?
Tôi biết mình đang vô lý. Phải, Max và mẹ tôi đã biến mất trong cùng một khu vực địa lý, cách nhau sáu năm. Phải, chưa ai từng được tìm thấy. Nhưng mặc cho những nỗ lực phối hợp của cảnh sát, họ chưa bao giờ khám phá ra sự kết nối nào giữa hai vụ mất tích. Họ nói đấy là một sự trùng hợp. Không có ông kẹ nào trồi lên từ dưới đất và nuốt lấy mẹ tôi cùng cha của con gái tôi. Không có lời nguyền siêu nhiên được định sẵn cho con gái tôi như nàng công chúa bị nguyền rủa trong truyện cổ tích. Tôi biết đó là sự thật. Nhưng tôi vẫn thấy sợ.
Mình không nên bỏ con bé lại, tôi nghĩ, quay số gọi cha tôi. Mình học bao nhiêu võ thuật như vậy phỏng có ích gì nếu mình đang ở một quốc gia khác? Tôi đã quá tự mãn, tôi đã hạ sự phòng thủ của mình xuống. Và giờ thì hãy xem chuyện gì đang xảy ra. Tất cả đều là lỗi của tôi. Lẽ ra tôi phải biết rõ hơn thế mới phải.
Điện thoại cha tôi reo một lần, rồi lần nữa, và tim tôi rung lên trong lồng ngực như một chú chim bị mắc kẹt, vật lộn để phá vỡ các chấn song. Làm ơn, tôi cầu nguyện, mặc dù tôn giáo chưa bao giờ là đức tin của tôi. Làm ơn, đừng để chuyện gì xảy đến với con bé. Ôi Chúa ơi, làm ơn.
Đúng lúc tôi nghĩ chắc ông kẹ đã bắt luôn cả cha tôi rồi, thì ông nhấc máy. “Chào con, Isabel.” Ông nói, giọng bình tĩnh như mọi khi. “Mọi chuyện tiến triển thế nào?”
Tôi thấy nhẹ nhõm hẳn khi nghe giọng ông, trong một giây tôi còn không thể trả lời được. Rồi nắm chặt điện thoại như thể đó là thứ vô giá, tôi thốt lên. “Finn. Finn ổn cả chứ ạ?”
“Finn hả?” Cha tôi nói, nghe có vẻ bối rối. “Con bé ổn. Cha vừa mới đón cháu về từ trường. Hôm nay là ngày cuối, con biết đấy. Hai ông cháu chuẩn bị đi xuôi theo con lạch để xem có thể bắt được vài con ếch cho cái bồn cảnh thủy tinh của con bé không.”
Chân tôi nhũn ra và tôi trượt xuống tường cho đến khi ngồi bệt xuống đất. “Ơn Chúa.”
“Isabel?” Cha tôi nói. “Có chuyện gì vậy?”
Cổ họng tôi khô khốc, và ban đầu, tất cả những gì tôi có thể xoay xở thốt lên được là lắp bắp nói: “Con...”
“Con có sao không?” Cha tôi hỏi, giờ giọng ông có vẻ hoảng hốt. Tôi cố gắng tập trung trở lại.
“Có ạ.” Tôi nói. “Và không ạ. Max đã gọi cho con.”
Có âm thanh bị bóp nghẹn, như thể cha tôi vừa đặt tay lên loa. Rồi tôi nghe thấy ông hét lên với Finn, “Ừ, là mẹ cháu đây, cháu yêu. Tất nhiên là cháu có thể nói chuyện với mẹ, một phút nữa nhé.”
Tôi không thể nghe ra Finn đáp lại gì, nhưng có thể nghe thấy giọng con bé, dễ thương và chói tai. Tôi thấy thật nhẹ nhõm khi nghe được âm thanh đó, và tim tôi đập trở lại nhịp độ bình thường. Tôi dõi theo những người đang bước đi, đến nơi nào không rõ - một phụ nữ lớn tuổi đẩy chiếc xe có em bé, mái tóc đen của bà ta được bện lại rất kiểu cách; hai cậu bé tuổi vị thành niên hét lên trêu chọc các cô gái bên kia đường - và cảm thấy thế giới ổn định trở lại quanh tôi. Không sao, tôi nghĩ. Con bé không sao cả.
“Isabel!” Cha tôi gọi, đủ to để tôi nhận ra đây không phải lần đầu tiên.
“Gì ạ?” Tôi hỏi, giật mình quay trở về thực tại.
“Cha tưởng con đã nói... nhưng cũng có thể không phải. Có phải con đã nói... Max gọi cho con không?”
“Ồ. Vâng ạ. Con đã nói thế. Bởi vì anh ấy đã gọi.”
“Ý con là sao?” Giọng ông gay gắt, cấp bách. “Đợi chút đã, Finn. Kiên nhẫn nào, cháu yêu. Đi kiểm tra những con dế ông cháu mình đã bắt đi, được không? Đảm bảo là chúng không trốn thoát nhé.”
Tôi nghe tiếng Finn đồng ý. Rồi bố tôi nói. “Được rồi. Max đã gọi cho con nghĩa là sao?”
Thế là tôi kể cho cha nghe hết những gì đã xảy ra - nghe thì có vẻ không mấy nghiêm trọng, nhưng đã phá vỡ thế giới của tôi theo cách riêng của nó. Ông giữ im lặng trong cả phút dài. Cuối cùng ông lên tiếng. “Con yêu, không thể là thằng đó được. Sao có thể là nó được chứ? Con gọi lại và đường dây đã bị ngắt kết nối. Hẳn phải là một... cha không biết nữa, một lỗi đường truyền nào đó chẳng hạn.”
“Nhưng anh ấy đã gọi tên con.” Tôi cứng đầu nói. “Là giọng anh ấy mà cha. Con biết thế mà.”
“Isabel, con nói tín hiệu bị nhiễu. Có lẽ con chỉ đang rất muốn đấy là Max mà thôi, con nghe thấy những gì con cần nghe.” “Sao cha có thể nói vậy được chứ?” Tôi rít lên, tìm kiếm bóng hình đặc biệt từ những người đi qua. “Chính cha chứ không phải ai khác. Sao cha có thể coi nhẹ chuyện này như vậy được chứ?” Cha tôi hít sâu và tôi biết tôi đã làm ông tổn thương. “Chính cha chứ không phải ai khác.” Ông nói. “Chứ không phải ai khác, cha biết con muốn đó là Max đến nhường nào. Được rồi, Isabel? Cha biết. Đó là lý do cha đang nói chuyện này, không phải đang phán xét con đâu, con yêu. Chúa ơi, cha là người cuối cùng có lý do nào đó để làm điều ấy.”
“Chết tiệt là đúng thế.” Tôi chỉ định nghĩ trong đầu thôi, nhưng từ âm thanh mà cha vừa thốt ra - như thể tôi vừa đâm ông - tôi biết tôi đã nói to điều đó. Trong khoảnh khắc, tôi cân nhắc lời xin lỗi - bất kể cha tôi đã thiếu sót gì khi tôi còn trong độ tuổi vị thành niên,
thì ông đã bù đắp với Finn rồi - nhưng rồi tôi đổi ý. Chúng tôi chưa bao giờ trò chuyện về những gì đã xảy ra sau khi mẹ tôi biến mất, nhưng chuyện gì mà chẳng có lần đầu.
“Isabel.” Cha tôi lên tiếng lần nữa. “Cha biết cha đã làm tổn thương con. Cha biết cha không bao giờ có thể sửa chữa được điều đó, ngay cả khi cha đã cố hết sức với Finn. Nhưng làm ơn nghe cha. Đừng đối xử với con gái con như những gì cha đã làm với con gái cha. Đừng để nỗi ám ảnh nuốt chửng con - bởi vì, tin cha đi, con yêu, nó sẽ làm, nếu con để nó làm vậy.”
“Là anh ấy mà.” Tôi nói. “Con biết là anh ấy.”
“Đừng như thế.” Cha tôi cầu xin.
“Để con nói chuyện với Finn.” Tôi nói, đứng thẳng dậy. “Nếu con không nghe cha.” Cha tôi nói. “Vậy thì có lẽ con sẽ nghe Ryan. Con đã kể cho nó chưa?”
“Chưa. Con gọi cha đầu tiên. Con muốn đảm bảo Finn vẫn ổn.” “Con bé chắc chắn là ổn, Isabel. Đây, con bé đây.” Rồi tôi nghe thấy giọng Finn, nhỏ nhưng rõ ràng.
“Mẹ ạ?”
“Chào con yêu.” Tôi nói, cố bơm chút vui mừng vào giọng nói. “Ở trường thế nào?”
“Tốt ạ. Con với ông đã giúp cô Evie làm vườn đấy. Cô Evie là hàng xóm mới của ông, mẹ biết chứ? Cô ấy có nhiều gà lắm. Và mẹ thử đoán xem. Khi con ở đó, những con gà con đã nở! Có những sáu con nhé. Cô Evie bảo là khi nào chúng nó lớn hơn chút nữa, con có thể mang chúng về nhà. Được không mẹ? Làm ơn đi mẹ?”
Cuộc trò chuyện hoàn toàn bình thường của chúng tôi khiến tôi mỉm cười. Tôi hình dung con bé đang mặc chiếc áo phông của khu Thủy cung Nam Carolina, chiếc quần jean thủng một lỗ trên đầu gối, và đi đôi ủng cao su - “bộ quần áo bắt ếch” của con bé - mái tóc đen tết hai bím lộn xộn là nỗ lực tốt nhất của cha tôi trong công cuộc chăm sóc tóc cho một cô bé. Tôi có thể trông thấy con bé đang nắm chặt chiếc điện thoại bằng bàn tay lấm lem, đôi mắt xám thừa hưởng từ người cha đang sáng lên với sự háo hức mà tôi luôn thấy
khó lòng cưỡng lại. “Mẹ chưa biết được, khỉ con ạ. Chúng ta sẽ nói chuyện đó khi mẹ về được không?”
“Vâng ạ.” Finn miễn cưỡng đồng ý. “Chúng nó xinh lắm mẹ ạ. Tất cả đều có lông tơ màu vàng đấy.”
“Thế sao?” Tôi đứng thẳng dậy và bắt đầu bước ra xe. Sự nhẹ nhõm trào lên trong tôi. Con bé nghe vẫn như mọi khi. Miễn là tôi biết Finn vẫn ổn, tôi có thể tiếp tục tiến bước. Tôi có thể hoàn thành công cuộc khai quật và trở về nhà - miễn là con bé ổn cả. “Ở nhà ngoan nhé.” Tôi dặn dò. “Nhớ nghe lời ông, được không nào?”
“Con lúc nào cũng ngoan mà.” Con bé nói, vẻ như bị xúc phạm. “Tất nhiên là vậy rồi.” Tôi mò mẫm tìm chìa khóa và dễ dàng bước vào trong xe, nhăn mặt khi bắp chân trần khẽ va vào ghế ngồi. “Con và ông sẽ đi bắt ếch đúng không?”
“Vâng ạ. Con và ông có lưới, xô cùng mọi thứ rồi. Nhưng con và ông sẽ không làm đau chúng nó đâu. Chỉ giữ chúng vài ngày thôi, sau đó thả chúng trở lại.” Giọng con bé có vẻ xấu hổ, như thể tôi đã bóng gió rằng con bé và cha tôi đang trong công cuộc tàn sát loài lưỡng cư vậy.
“Nghe có vẻ vui lắm đây, con yêu. Nhớ cẩn thận nhé.” “Ôi mẹ ơi.” Finn thở dài. “Ông là một người trông trẻ giỏi lắm. Và mẹ sẽ về nhà vào thứ Ba mà. Rồi mẹ có thể tự mình chăm sóc con, mẹ nhé.”
Con bé nói cực kỳ giống với một thiếu niên cáu kỉnh, khiến tôi phải phì cười. Tôi có thể nghe thấy tiếng loạt soạt từ cha tôi đang ở gần đó, có lẽ ông đang gom các dụng cụ bắt ếch của hai ông cháu. Những âm thanh quen thuộc của gia đình, và tôi cảm thấy bản thân bắt đầu thư giãn trở lại từng chút một. Tôi hình dung ngôi nhà mà tôi đã trải qua trong suốt những năm tháng thiếu niên, trần nhà cao và sàn gỗ tối màu, cửa sau mở ra bãi cỏ nhỏ nơi tôi thường ngồi đọc sách, lưng tựa vào phần thân nhô ra của cây hoa mộc lan. Như đang mộng du, tôi bước qua bãi cỏ và xuống con đường dẫn tới con lạch, một dải nước mỏng rộng không quá nửa mét. Tôi có thể nghe thấy tiếng kêu của những con ếch, trông thấy những con chuồn chuồn bay thấp. Xa phía bên kia con lạch, tôi có thể nhìn thấy những cái
cây đánh dấu rìa khu rừng, khoảng đất nằm giữa nhà tôi và nhà Max. Từng bước một, tôi đi qua những cái cây, cảm thấy ánh mặt trời thấm trên mặt và những cành cây làm xước da.
“Ông ơi!” Finn gọi. “Không phải cái đó. Nó nhỏ quá. Những con ếch sẽ bị bẹp mất. Chúng cần không gian mà.”
Trong khi hai ông cháu tranh cãi về kích thước của vợt bắt ếch, tôi nhắm mắt và lặng lẽ lặp lại câu thần chú của mình - câu thần chú đã giữ tôi sống tiếp trong suốt tám năm, vượt qua nỗi đau mất Max và mang thai Finn, tốt nghiệp đại học và mười hai tiếng làm việc mỗi ngày cùng các buổi tập tại võ đường cho đến khi mọi thớ cơ trong cơ thể tôi đau nhức. Đừng lo, con yêu. Mẹ sẽ không để bất cứ chuyện gì xảy ra với con đâu. Đó là lời hứa với Max cũng như với chính tôi và Finn, và tôi đã giữ nó trong suốt những năm qua mà không hề thất bại.
Tôi có một lời thề mười bảy chữ lặp đi lặp lại với bản thân, dù chúng chưa bao giờ được thốt lên trên môi tôi. Nhưng có lẽ tôi đã sai, vì Finn lại đang nói. Giọng con bé có vẻ thản nhiên, nhưng những lời nói thốt ra khiến trái tim tôi lỗi nhịp. “Mẹ ngốc quá.” Con bé nói. “Mẹ không biết sao? Con an toàn mà.”
Max
Thế giới tối đen, và tôi đang rơi trong đó.
Trong bóng tối, tôi giữ chặt những ký ức về Isabel - không phải như lần cuối tôi trông thấy em, đang hét gọi tên tôi khi em rẽ lối đuổi theo tôi qua những tán cây, mà là lần đầu tiên, sáu năm về trước. Em đang lang thang trong khu rừng ngăn cách nhà hai chúng tôi (khu rừng của tôi, tôi đã nghĩ về chúng khi ấy, với tính chiếm hữu sâu sắc). Tôi nghe tiếng em đi đến, nghiền nát những chiếc lá dưới chân, làm xáo trộn sự yên tĩnh mà vì nó tôi đã đến nơi này. Cơn kích động sôi sục bên dưới xương sườn khi tôi nghĩ đến những cái cây mà em đang chà đạp, sự tôn nghiêm của khu rừng đã bị phá hủy.
Rồi tôi trông thấy em, đang hướng thẳng về phía tôi qua những tán cây, quên luôn cơn bực dọc của mình. Tôi nghĩ, em trạc tuổi tôi, khoảng mười sáu hoặc mười bảy, mái tóc đen xoăn ánh lên dưới nắng mặt trời. Mái tóc đổ xuống tận eo, vướng vào cành cây, vương trên mắt khiến em phải vén nó sang. Tôi thấy mình đang tự hỏi sẽ thế nào khi được lướt tay qua mái tóc đó - liệu chạm vào nó có mượt mà không, liệu nó có trượt qua những ngón tay tôi như làn nước, không để lại điều gì ngoài cảm giác vấn vương?
Tôi lắc đầu, cố xua đuổi những hình ảnh đó đi. Tuy nhiên, tôi có thể thề rằng tôi cảm thấy sức nặng mái tóc của em trong tay tôi, ánh nắng ấm áp và mùi lá thông. Một cảm giác kỳ lạ lắng xuống tôi: bồn chồn, thấp thỏm. Tôi dựa vào thân cây bạch dương gần chỗ mình nhất và dõi theo em. Chúa ơi, em tạo ra nhiều tiếng ồn còn hơn cả một đàn voi, giẫm lên mọi nhánh cây rơi vương vãi như thể em đang cố tình làm vậy, khiến lũ quạ sợ hãi bay tán loạn. Làm thế nào mà một người tinh tế nhường vậy có thể càn quét mọi thứ như thế kia chứ?
Càn quét hay không thì em cũng đã nhận ra lũ quạ bay lên không trung. Em ngẩng đầu lên nhìn qua những tán cây để trông thấy bầu trời trong vắt. Đó là khi tôi có được cái nhìn thoáng qua đầu tiên về khuôn mặt em, và tim tôi đập dồn trong lồng ngực. Tôi đã không thể thốt nên lời, em đẹp quá, tôi cứ thế bị em hớp hồn, theo một cách thật khó lòng diễn tả. Ngoại hình của em không phải quá nổi bật, nhưng đã khiến tôi ngất ngây - hai bên gò má cao, đôi môi đầy đặn, đôi mắt đen nhánh ngước lên dõi theo những con chim đang bay. Không, là điều gì đó khác nữa. Dì tôi hẳn sẽ bảo đó là khí chất của em, nhưng tôi không tin như vậy.
Bất kể có chọn cho nó cái tên gì, thì tác động của nó lên tôi vẫn vậy: Nó thụi mạnh vào tôi và tôi phải ấn một tay lên ngực, hy vọng trái tim quay trở lại nhịp đập thông thường. Bên trong tôi có thứ gì đó vang dội, rung động tới từng mẩu xương, đến những ngón tay của bàn tay còn lại đang run rẩy, bám chặt lấy thân cây bạch dương.
Những con chim giờ đang đi di trú, bay theo hình chữ V tới bến bờ an toàn, nhưng cô gái vẫn đứng đó. Trông em lạc lõng, như thể em đang lạc mất thứ gì đó lớn lao và nghĩ mình không có nhiều cơ hội để tìm thấy nó. Quan sát em như thế khiến tôi băn khoăn - nhưng tại sao chứ? Tôi chưa từng trò chuyện một lời với cô gái lạ mặt này, chưa từng trông thấy cô ấy trước đây trong đời.
Tôi gọi em, bước ra ánh mặt trời. Em không hét lên hay bỏ chạy. Thay vào đó, em chỉ nhìn tôi, như thể việc tôi đứng đó là tất cả những gì em đã dự trù. Đôi mắt em mang màu xanh lam sâu thẳm khó dò, như bầu trời sau cơn bão.
Rồi em lên tiếng, và tôi mới là người đang lạc lối.
Đang rơi qua bóng tối, tôi vẫn có thể nghe thấy tiếng em. Tôi bám vào nó như phao cứu sinh. Tôi vẫn đang rơi, rơi một mình qua đêm tối mịt mù, không trăng.
Tôi cứ rơi mãi đến vô tận. Như thể chẳng còn thứ gì khác ngoài bóng tối, ép chặt khiến tôi khó thở, mở rộng theo cấp số nhân khiến tôi như tan ra, bay vào các góc xa xôi của vũ trụ giống như rất nhiều mảnh nhỏ của thủy ngân. Tôi mở to mắt, cố tìm kiếm bất kì ánh sáng nào, nhưng vô ích, chỉ có bóng tối thăm thẳm. Tôi đang rơi tự do không trọng lực, dường như vĩnh viễn không thể thoát được ra.
Trong nỗ lực tuyệt vọng để níu giữ bản thân, tôi tập trung trở lại vào ký ức cuối cùng tôi có, khoảnh khắc trước khi tôi ngã - đứng trong khu rừng phía sau nhà cha mẹ, đang chờ Isabel. Khoảnh khắc tôi trông thấy một bóng ma, khoảnh khắc tôi đưa ra lựa chọn.
Khu rừng trở nên yên tĩnh. Đây là thứ đầu tiên tôi chú ý đến - những con chim đã ngừng hót, những con sóc đã ngừng chí chóe trên cây. Ngay cả gió dường như cũng ngừng thổi, để lá và cành cây đứng yên.
Và tôi chợt nhận ra - từ bản năng của kẻ bị săn đuổi, như thể có ánh mắt ai đó đang dõi theo tôi, nhìn chằm chằm, kiên nhẫn và đợi chờ thời cơ. Như thể tôi là một con mồi.
Nhưng tôi đang một mình trong khu rừng tĩnh lặng cơ mà. Một cơn ớn lạnh chạy dọc giữa hai bả vai tôi. Tôi từ từ xoay người lại.
Và rồi tôi trông thấy ông ta, đang bước qua những cái cây hướng về phía khoảng rừng thưa, trông ông ta giống hệt bức chân dung cổ xưa treo trên hành lang của nhà cha mẹ tôi. Mái tóc tối màu và đôi mắt xám của tôi, bộ râu và ria mép được cắt tỉa gọn gàng, ăn vận cùng chiếc áo choàng dài đúng kiểu.
Chính là Robert Adair.
Ban đầu tôi cứ tưởng mình đang mơ. Bất kể tôi đã trông thấy gì trong rừng suốt những năm qua, những chuyện mà tôi sắp tin là đã thực sự xảy đến với mẹ của Isabel. Người đàn ông này không thể là thật. Bởi vì nếu không, tôi đang đứng cách ông cố sáu đời của tôi khoảng hơn bốn mét.
Chúng tôi nhìn nhau chằm chằm. Tôi quá sốc nên không thể thốt nên lời, còn về phần ông ấy, sao ông ấy lại có thể kia chứ? Ông ấy là một người đã chết.
Rồi tôi nghe thấy tiếng Isabel trong khu rừng phía sau, hơi thở của tôi nghẹn lại trong họng. Sao tôi có thể giải thích chuyện này với em được? Mặc dù, nghĩ về nó, sự xuất hiện của Robert đã củng cố niềm tin nơi tôi về lời thú nhận tôi định nói: Chà, để xem nào, mẹ em không chỉ biến mất đâu, mà bác ấy đã đi theo một bóng ma vào
trong rừng và không bao giờ quay lại nữa. Và anh, anh đã dành sáu năm qua để cố gắng tìm kiếm bác ấy.
Em sẽ nghĩ tôi bị điên. Và sau đó sẽ ghét tôi vì đã không nói với em rằng tôi chính là người cuối cùng đã trông thấy bác Julia cái ngày bác ấy biến mất.
Tôi nghĩ về đứa con của chúng tôi, giờ vẫn đang nhỏ hơn cả một tế bào, và tim tôi quặn thắt. Mắt tôi dán vào hình bóng của Robert Adair, tôi chạm vào chiếc nhẫn cưới của bà nội. Tôi đã mang nó trong túi suốt cả tuần qua, chờ đợi đúng thời điểm. Bằng cách nào đó, chạm vào nó tiếp thêm can đảm cho tôi lên tiếng.
“Cụ muốn gì?” Tôi hỏi Robert, như thể ông ấy là một người bằng xương bằng thịt chứ không phải cụ tổ của tôi đã qua đời sau cuộc Nội chiến.
Ông ấy không trả lời. Thay vào đó, ông ấy giơ một tay lên mời gọi rồi quay người trở lại khu rừng đúng theo lối đã đến. Tôi ngập ngừng một giây, sau đó chạy theo, xuyên qua những tán cây đúng lúc trông thấy ông ấy biến mất dưới chỗ nhô ra của cây sồi lớn. Phía sau, tôi nghe tiếng Isabel gọi tên mình. “Max, anh đi đâu thế? Max, dừng lại!”
Tôi liếc nhìn qua vai vào khoảng rừng thưa trong khi vẫn đang lao đi, trông thấy em đứng đó trong chiếc váy màu xanh lục, ánh mặt trời soi rọi trên mái tóc đen - tương lai của tôi. Và rồi tôi nhìn về phía trước tới chỗ khu rừng, gần như không còn trông thấy bóng dáng Robert Adair đâu nữa.
Đây là cơ hội của tôi. Hoặc tôi theo ông ấy và mạo hiểm tìm ra mẹ của Isabel đã thật sự đi đâu - hoặc tôi có thể quay trở lại khoảng rừng thưa và nói dối. Giả vờ như tôi chưa bao giờ trông thấy bác Julia Griffin vào ngày bác ấy biến mất. Quỳ xuống cầu hôn và nuốt cảm giác tội lỗi xuống.
“Ở yên đó!” Tôi hét lên với em, và chạy theo Robert. Lao qua một nhánh thông thẳng đứng, tôi bắt kịp ông ấy cách đó vài mét. Rồi ông ấy biến mất phía sau cây sồi khổng lồ, và vừa nguyền rủa tôi vừa rảo bước nhanh hơn.
Lúc này, tôi có thể nghe tiếng Isabel đang chạy - tất nhiên là em không nghe lời tôi. “Dừng lại!” Tôi hét lên với em bằng toàn bộ lượng không khí còn trong phổi. “Đừng theo anh, Isabel. Quay lại đi!” Tôi sẽ bị nguyền rủa nếu như để em bị cuốn vào chuyện này - em và đứa con của chúng tôi.
Em không trả lời, nhưng tiếng sột soạt vang lên phía sau tôi càng lúc càng lớn hơn và nhanh hơn. Tôi đi vòng quanh cây sồi nơi trông thấy Robert lần cuối... và bước vào cái hốc trống.
Cứ như tôi vừa bị đẩy vào khoang thang máy, hoặc rơi tự do về phía trước trong một chiếc tàu lượn siêu tốc. Tôi đang rơi. Thế giới mờ đi, di chuyển càng lúc càng nhanh hơn. Tôi chộp lấy những cái cây xung quanh mình, cố gắng giảm tốc, nhưng chúng trượt khỏi tay tôi và gửi tới những cơn đau nhói trong bóng tối lạnh lẽo. Phổi tôi bắt đầu cảm thấy bị áp lực, bị kéo và đẩy bởi hàng ngàn giọng nói. Và rồi cũng đột ngột như khi bắt đầu, tất cả kết thúc. Trái đất lao tới phía trước tôi và tôi rơi xuống đất cứng đủ mạnh để răng tôi cắn mạnh vào lưỡi. Lồm cồm bò dậy bằng tay và đầu gối, tôi nhổ máu ra, sau đó nôn cho đến khi không còn lại gì trong dạ dày. Khi có thể hít thở lại được, tôi lau miệng bằng mu bàn tay và ngồi dậy, buộc mắt mình mở ra chống lại cơn đau vặn xoắn trong đầu và ánh sáng chói lóa của mặt trời. Xung quanh tôi là sự im ắng đến kỳ lạ - như thể thế giới đang chờ đợi, hay tôi đang chờ đợi.
Suy nghĩ đầu tiên là tôi vẫn đang trong rừng. Sau đó tầm nhìn rõ ràng, tôi trông thấy mình đang ở giữa một biển thân cây nối nhau liên tiếp, bên trên là những tán lá xanh xòe ra. Nắm chặt lấy một thân cây để giữ thăng bằng, tôi lảo đảo đứng dậy. Những cái cây cao hơn tôi, nối tiếp dài đến mức tôi có thể trông thấy theo mọi hướng. Tôi đưa tay chạm vào những chiếc lá màu xanh và nhanh chóng rụt tay lại. Chúng sắc như dao và giờ tôi đang chảy máu.
Cho ngón tay bị thương vào miệng, tôi cúi xuống để kiểm tra thân cây kỹ hơn, cứ như tôi đang làm việc trong nhà kính của mình ở nhà vậy. Tôi lục lọi trong túi lôi ra con dao đa năng của Thụy Sĩ, cảm thấy chút mất mát khi bàn tay lướt qua chiếc nhẫn tôi đã định trao cho Isabel. Tôi cắt một miếng từ một trong những thân cây màu nâu và kiểm tra, lướt ngón tay trên bề mặt thô ráp, phần trong
màu vàng cát, sau đó đưa lên mũi ngửi. Nó có mùi thơm ngọt. Tôi đưa nó lên miệng và nếm thứ nước ngọt ngào.
Cây mía. Tôi đang đứng trong một cánh đồng mía, xét chiều cao của thân cây thì có lẽ đang gần đến mùa thu hoạch,. Vấn đề là tôi chưa bao giờ trông thấy một cánh đồng mía nào ở Nam Carolina. Ngay cả khi Robert Adair còn sống thì các đồn điền quanh Charleston cũng đã dành để trồng bông rồi. Tôi cố gắng nhớ lại những điều ít ỏi mình biết về việc canh tác mía ở Hoa Kỳ, nhưng nơi duy nhất tôi có thể nhớ ra là tiểu bang Louisiana - và tôi đang làm cái quái gì ở đó kia chứ?
Bất kể tôi kết thúc thế nào ở nơi này, một điều chắc chắn là tôi không thể chỉ đứng loanh quanh chờ đợi chuyện gì đó xảy ra. Hít sâu một hơi, tôi tiến về phía trước, giơ một tay lên để bảo vệ mặt khỏi những chiếc lá sắc nhọn.
Rồi tôi thấy mình đứng đối mặt một người đàn ông da đen cao lớn, bờ vai rộng, con dao rựa giơ cao trên đầu.
Isabel
Bằng cách nào đó cuối cùng tôi cũng vụng về trò chuyện nốt được với con gái và tắt máy, bị vắt kiệt sự bình yên ít ỏi tôi có thể tập hợp được. Từ khi Finn còn ít tuổi, con bé đã có khả năng lạ lùng để biết những người xung quanh đang nghĩ và cảm thấy điều gì. Điều đó thật đáng lo ngại, và hầu hết thời gian tôi chỉ đơn giản nghĩ rằng đó là vì con bé nhạy cảm. “Sự nhạy cảm.” Tôi nói với giáo viên của con bé và cha mẹ những đứa trẻ khác, khi họ nhìn con bé với ánh mắt cảnh giác, bối rối mà đến tôi cũng nhận ra một cách rõ ràng. “Đồng cảm.” Tôi nói thêm, nụ cười hồ hởi nở rộng trên môi - không, chẳng có gì không ổn ở đây cả!
Sự thật là tôi không hiểu sao Finn biết được những gì con bé biết. Hầu hết thời gian, con bé chỉ là một cô bé con bình thường thích sơn móng tay màu tím và thích những con thú bông có đôi mắt to, thích mì ống và phô mai đóng hộp hơn là thức ăn bổ dưỡng thật sự. Nhưng đôi khi, con bé lại thốt ra điều gì đó rất gần với những gì tôi đang nghĩ, cứ như thể con bé đọc được suy nghĩ của tôi vậy. Trong những dịp khác, con bé đưa điện thoại cho tôi và nói: “Là chú Ryan đấy ạ!” trước cả khi chuông điện thoại reo. Và tôi không thể đếm nổi số lần con bé tìm thấy thứ gì đó tôi làm thất lạc, hoặc biết tôi đã có một ngày vất vả trước cả khi tôi bước qua ngưỡng cửa vào nhà.
Tôi tưởng mình phải kéo con bé đến gặp nhà tâm lý học và chuyên gia - nhưng nghĩ cho cùng thì con bé khỏe mạnh, thông minh, tình cảm và tốt bụng với cả những động vật đi lạc. Nếu như trực giác của con bé có chút lệch hơn so với thang đo Richter[2] thì đã sao? Đây là những gì tôi muốn nói với các bậc làm cha làm mẹ, những người đã cấm con cái họ chơi với Finn, những người bạn cứ rơi rụng dần sau khi con bé nói ra điều gì đó kỳ quái nhiều lần. Rất
nhiều đứa trẻ là kẻ bắt nạt bạn bè bằng cách ăn trộm, đánh bạn và gọi bạn bằng những cái tên xấu. Finn không làm những việc đó. Con bé là người nhân từ, gần như thể là một khiếm khuyết, và tôi tim đau đớn khi thấy càng ngày con bé càng hay lủi thủi một mình.
Thường thì tôi là người bảo vệ trung thành của Finn, tôi đã quen với những điều kỳ quặc của con bé đến mức hầu như không nhận thấy chúng nữa. Nhưng lần này, phản ứng của con bé với những suy nghĩ sâu kín của tôi - Mẹ không biết sao? Con an toàn mà. - đã khiến đầu óc tôi quay cuồng.
Tôi lái xe trở lại khu khai quật, xin lỗi vì sự vắng mặt của mình và hoàn thành công việc trong ngày, nhưng tâm trí tôi không đặt ở đó. Di chuyển như một cái máy, tôi kiểm tra giấy tờ của học viên, giám sát khi họ thu thập xẻng, dây đo và hòn chì của dây dọi, tranh cãi về việc ai đã cả gan khai quật bằng bay của người khác - một tội lỗi rất lớn trong giới khảo cổ học, nơi mà một chiếc bay mòn là món đồ vô giá, dấu hiệu của sự kiên nhẫn và những năm tháng khai quật khảo cổ đã qua.
Chúng tôi đã ở cùng nhau suốt bốn tuần, đây là đội của tôi, vài người không được ngủ đủ giác đang dần trở nên cáu kỉnh. Thường thì tôi sẽ thấy mình phải có trách nhiệm để dĩ hòa vi quý trước khi mọi chuyện bùng nổ thành thứ gì đó khác, một sự bất đồng có thể làm tổn hại đến công việc khai quật. Dù vậy, hôm nay, tôi cứ mặc kệ họ, và ngoài những cái liếc nhìn thoáng qua, họ cũng để kệ tôi. Giữa sự suy sụp tinh thần và sự bỏ đi đột ngột của tôi, rõ ràng có điều gì đó không ổn - nhưng tôi không nói ra, và họ cũng không hỏi.
May mà giờ cũng gần là ngày cuối cùng của chuyến khảo cổ kéo dài bốn tuần của chúng tôi rồi, bởi vì tôi nhận ra bản thân chỉ có thể đưa ra những chỉ dẫn cơ bản nhất khi chúng tôi che phủ lên khu vực khảo cổ bằng băng dính và ni lông nhựa để phòng lúc đêm xuống. Tôi nghe thấy giọng mình vọng đến từ một nơi rất xa xôi, nói với Jake và Maura rằng dự báo thời tiết bảo sắp có gió, chúng tôi cần phải tháo rời tấm sàng lọc ra và dùng chân đế để giữ mọi thứ xuống. Tôi thấy thật là một kỳ tích khi họ răm rắp nghe lời, chưa kể những thành viên còn lại trong đội đã làm đúng những gì họ phải làm - đổ nước khỏi tủ làm mát, chất đồ lên xe tải, những chiếc xô
chứa những phát hiện của chúng tôi được chèn cẩn thận để không bị nghiêng hay đổ.
Ngồi trên chiếc ghế cắm trại bị bỏ quên, tôi cẩn thận ghi chú lại: Hạ trại lúc ba giờ chiều. Điều kiện thời tiết: Có gió nhưng không mưa. Nhiệt độ: 35 độ C. Tôi gật đầu với Maura khi cô bé bước ngang qua vác theo chiếc máy ảnh, kiểm tra xem tôi đã có đủ báo cáo của mọi người chưa, thực hiện bước cuối cùng để đảm bảo khu thực địa được an toàn. Rồi tôi lái xe chở mọi người quay lại ngôi nhà giờ đã trông giống một phòng thí nghiệm dã chiến hơn, bật to tiếng đài phát thanh để át đi tiếng trò chuyện.
Mọi người đều rời khỏi xe tải với tâm trạng phấn khởi, dỡ đồ với sự chính xác hơn bình thường. Hôm nay là tối ngày thứ Sáu, và chỉ vào dịp này thôi, mọi người biết là họ không phải thức dậy vào lúc năm giờ ba mươi phút sáng. Họ đều có những kế hoạch lớn, hầu hết trong số đó liên quan đến việc gọi chung một chiếc taxi đi tới St. Lawrence Gap và chè chén say sưa. Tôi nghe câu được câu chăng, cung cấp lời khuyên đúng chuẩn trong khi kiểm tra tất cả đống túi đựng đồ nghề trong ghi chú của mình. Cuối cùng, đội của tôi cũng ra khỏi xe hết và tiến vào trong, tranh cãi xem ai sẽ tắm rửa trước. Tôi suy nghĩ lại chuyện hôm nay lần nữa, đến khi sắp phát điên đến nơi thì nghe thấy tiếng Jake phía sau.
“Ừm, tiến sĩ Griffin...” Cậu ấy lên tiếng, nghe có vẻ lúng túng hơn bao giờ hết. Tôi đứng dậy và quay lại nhìn cậu ấy - mái tóc nâu bù xù buộc túm đuôi ngựa, khuôn mặt cháy nắng dưới chiếc mũ bóng chày của đội Duke Blue Devils, áo phông và quần soóc lấm bẩn, biểu cảm lo lắng, “Ừ?” Tôi nói, cố giữ giọng kiên nhẫn hết mức có thể.
Cậu ấy chuyển chân nọ qua chân kia, trông không mấy thoải mái. “Trước... buổi chiều nay... À, có thể cô không muốn nói về nó, em hiểu. Nhưng tất cả bọn em đều biết có chuyện gì đó đã xảy ra, và em đoán là nó không được tốt. Và em chỉ muốn cô biết là em... nếu cô cần ai đó để trò chuyện về... ý em là, nếu có việc gì em giúp được...” Giọng cậu ấy nhỏ dần, và cậu ấy nhìn xuống đôi ủng dính đầy đất cát của mình.
Khổ thân Jake, tôi nghĩ với phần nào đó trong tôi còn sót lại khả năng cảm thông với người khác. Là chỉ huy phó của tôi, cậu ấy có
trách nhiệm đối phó với người giám sát đang rối trí, hoảng loạn. Tôi không thể tưởng tượng nổi việc cậu ấy thích tôi - điều mà tôi đã cố hết sức khiến cậu ấy nản lòng - sẽ khiến cho khoảnh khắc này trở nên dễ dàng hơn, trừ khi cậu ấy ảo tưởng rằng tôi sẽ đột ngột nhào vào vòng tay cậu ấy, rồi thì cậu ấy sẽ mang tôi vào căn phòng cậu ấy đang chia sẻ với hai sinh viên khác có vấn đề về vệ sinh và an ủi tôi bằng cách khiến cả hai thỏa mãn. “Cảm ơn.” Tôi nói, bằng tất cả sự chân thành bản thân có thể gom góp được. “Tôi đánh giá cao điều đó, nhưng chuyện xảy ra với tôi... là chuyện riêng thôi.”
Cậu ấy ngẩng phắt đầu lên, nhưng hoàn toàn không nhìn vào mắt tôi. Thay vào đó, cậu ấy nhìn chằm chằm vào một điểm qua vai tôi. Là thói quen hơn là thật sự tò mò, tôi quay đầu và trông thấy chiếc xe taxi đang rẽ vòng qua khúc cua, tiếng nhạc dội ầm ầm, người lái xe vươn cả nửa người ra ngoài cửa sổ tìm kiếm hành khách. “Được rồi.” Jake nói, mắt dán vào chiếc xe van màu trắng có những sọc đỏ khi nó rít lên phanh gấp và dừng lại, nhả ra hai cô cậu tuổi vị thành niên đang cãi nhau om sòm, sau đó nhanh chóng lên đường tiếp, lái đi với sự cẩn trọng. “Chỉ nghĩ là em nên hỏi thôi. Nhưng nếu cô muốn đi cùng bọn em tối nay... cô biết là cô luôn được chào đón mà.”
“Cảm ơn em.” Tôi đáp. “Nhưng tôi nghĩ mình sẽ ở lại đây và thư giãn thôi.” Tôi cố hết sức mỉm cười với cậu ấy, nhưng chắc nó giống một cái nhăn mặt hơn, vì cậu ấy nhăn nhó và quay trở lại nhà, bỏ giày ngoài cửa theo cách hẳn là đã làm cả ngàn lần.
Trong giây lát, tôi cân nhắc có nên gọi với theo cậu ấy không, nhưng sau đó quyết định là chẳng ích gì. Rốt cuộc thì cậu ấy đang cố tỏ ra tử tế, người duy nhất trong nhóm đủ can đảm để tiếp cận tôi. Thế nên, thay vào đó, tôi khóa xe lại và vào nhà, nơi tôi bắt đầu làm việc với đống giấy tờ nhiều vô tận trong phòng sinh hoạt chung, ráng hết sức tỏ ra bình thường khi từng sinh viên của tôi bắt đầu xuất hiện, sẵn sàng cho bữa tiệc tối. Cạo râu sạch sẽ và phảng phất mùi nước hoa, Jake hỏi lại lần nữa là tôi có muốn đi không. Một lần nữa tôi nói không, và với ánh mắt lo lắng nhìn lại lần cuối, cậu ấy lùa hết mọi người ra ngoài.
Tôi thở phào nhẹ nhõm ngay lúc cánh cửa đóng lại phía sau họ. Nhóm của tôi là trách nhiệm của tôi, bất kể chuyện gì đang xảy ra trong cuộc đời tôi, nhưng giờ đây tất cả những gì tôi muốn làm là tắm nước nóng và đi ngủ. Thức ăn thì cũng tốt, nhưng chưa cần thiết. Tôi khá chắc là còn vài thanh ngũ cốc dinh dưỡng giấu trong túi nếu cần, chưa nói đến khả năng trong tủ lạnh chung có vài món đồ linh tinh. Ngay lúc này, dạ dày tôi đang siết chặt thành một quả bóng nén, nghĩ đến chuyện ăn uống là đã khó chịu rồi.
Cuối cùng cũng được ở một mình, tôi mở cửa phòng ngủ và kiểm tra một lượt - thói quen từ lâu sinh ra từ chứng hoang tưởng rằng bất kỳ thế lực bí ẩn nào đã bắt cóc Max và mẹ tôi cũng sẽ bắt tôi đi. Không có gì khả nghi. Không có ai nhảy ra bịt miệng tôi. Không có ai chĩa súng vào đầu tôi.
Bước vào trong, tôi đóng cánh cửa lại phía sau và đứng dựa lưng vào nó, nhìn khắp xung quanh khoảng không gian chật hẹp. Mọi thứ vẫn y như cũ - những bức tranh phổ biến vẽ cuộc sống trên đảo treo trên tường, những cuốn sách và giấy ghi chú nằm rải rác trên chiếc bàn nhỏ, hai chiếc đầm mùa hè tôi mang theo treo lẻ bóng trong tủ quần áo. Qua tấm rèm khép hờ che cánh cửa mở ra ban công, tôi có thể trông thấy những cây cọ lắc lư trong gió.
Tôi bước ra ngoài, dựa vào lan can, nhìn xuống hồ bơi của khách sạn bên cạnh - đầy những con người đang trong tâm trạng vui vẻ hơn tôi nhiều - có cả một quầy bar. Gió thổi bay tóc tôi, mang theo mùi của muối và kem chống nắng, tiếng cười của một phụ nữ. Xa hơn quầy bar, tôi trông thấy phần nhỏ của bờ biển và lắng nghe tiếng sóng vỗ rì rầm.
Không thể nào là Max được, tôi tự nhủ. Tất nhiên là không thể. Ngoại trừ đó chính là anh.
Tôi mò mẫm tìm chiếc điện thoại cất trong túi quần soóc và gọi cho Max lần nữa. vẫn cái tin nhắn chết tiệt kia, vẫn cái giọng nói tự động khó chịu ấy. Mình mất trí rồi. Tôi tự nhủ. Đây là cách nó xảy ra. Không phải với một tiếng nổ mà là một tiếng khóc than rên rỉ.
Bực bội, tôi bước trở vào trong, đóng cửa ban công phía sau và chốt lại. Ngay lập tức, sự yên tĩnh của căn phòng bao trùm lấy tôi, chỉ bị phá vỡ bởi tiếng ồn của máy điều hòa. Cảm thấy hơi nôn nao,
tôi bước vào phòng tắm - tôi có phòng tắm riêng, một trong những lợi ích của giám sát viên - và đẩy cửa mở. Thật ngạc nhiên là căn phòng trống trơn. Để cho chắc, tôi gạt tấm rèm tắm sang bên và nhìn vào bồn. Không có ai trong đó, hoặc chỉ là tiếng một vòi nước rò rỉ chảy vào bồn tắm. Tôi khóa cửa phòng tắm lại phía sau, cởi quần áo bẩn và đôi xăng đan, rút điện thoại ra khỏi túi quần, đặt nó lên phía sau bồn vệ sinh, để dễ với lấy trong trường hợp nó đổ chuông. Sau đó tôi bật nước nóng và bước xuống dưới vòi sen.
Tôi vô thức với lấy bánh xà phòng nhỏ, sau đó là chai dầu gội du lịch có mùi hạnh nhân. Khi hai tay đang lướt qua tóc, quét sạch lớp mồ hôi và bụi bặm, tôi không thể ngăn mình nhớ lại cuộc gọi - có thể là cuộc gọi của Max. Hoặc có thể không. Thất vọng, tôi vò mạnh tóc, đủ để giật vài sợi ra khỏi da đầu. Phải mất một thời gian dài mái tóc tôi mới dày và quăn lên được, và tôi đã để chúng dài đến gần thắt lưng một cách tự nhiên.
Cuối cùng cũng sạch sẽ, nhưng tôi chưa sẵn lòng rời khỏi sự thoải mái của việc tắm gội. Lục lọi qua đống đồ riêng tư mang theo - ngồi trên thành bồn tắm trong tư thế bấp bênh, tôi tẩy da chết và cạo lông. Cuối cùng không còn gì để làm, tôi đành tắt nước và ra ngoài. Trong chóc lát, tôi chỉ đứng trên tấm thảm trắng, lắng nghe. Không có động tĩnh gì ở phòng bên, sự nhẹ nhõm cuộn lên trong tôi, theo sau là nỗi thất vọng. Cơ thể vẫn đang nhỏ nước, tôi đứng đấy cố tìm ra đó là gì. Chẳng lẽ tôi lại muốn một người lạ mặt trong phòng khi tôi đang trần như nhộng và về cơ bản là không thể tự vệ ư? Hay là tôi chỉ đang quá muốn giải tỏa nhu cầu thể xác đến mức gán cho những cảm xúc một điều gì đó mà tôi hiểu được? Xét cho cùng, tôi đã bắt đầu luyện tập tại võ đường chỉ để dành cho một dịp như vậy - mối đe dọa đã mang mẹ tôi và Max đi, cũng sẽ đến để chộp lấy Finn và tôi, mang chúng tôi đến một nơi không ai biết.
Bực bội, tôi lấy khăn trên giá xuống và bắt đầu lau khô tóc. Tôi đang lau được nửa chừng thì bất chợt giật mình - không phải tôi đang lắng nghe xem có ai đó lẻn vào đây hay không.
Mặc dù tôi ghét phải thừa nhận điều đó với chính mình, tôi không thật sự nghĩ có bất kỳ ai ở đây có ý định làm hại tôi. Không, tôi đang tìm kiếm mọi ngóc ngách trong căn phòng này để tìm Max,
nghĩ rằng bằng cách nào đó anh đang ở đây, rằng tôi sẽ mở cửa và thấy anh đang nằm trên giường, tay đặt sau đầu, mỉm cười với tôi theo cách anh luôn mỉm cười. Cũng bất hợp lý như vậy, một phần hy vọng nhỏ nhoi trong tôi tin rằng khi tôi mở cửa ban công, sẽ thấy anh đang dựa vào lan can, vòng tay rộng mở chào đón.
Nhận thức đó khiến mắt tôi mở to, tiếng rỉ rên tắc nghẹn thoát ra từ trong họng, chiếc khăn trên đôi tay run rẩy rơi xuống sàn nhà. Sao tôi có thể ngu ngốc đến mức nghĩ Max sẽ ở đây, trong căn phòng nhỏ xíu xấu xí này? Rằng sau mọi chuyện, tôi sẽ thấy anh đang chờ tôi? Tệ hơn nữa, sao tôi có thể che giấu nó khỏi chính bản thân mình?
Âm thanh bi thương quay trở lại, và tôi kinh hoàng ấn tay lên miệng để ngăn nó trào lên. Tôi đã không thật sự khóc trong nhiều năm, không nghĩ mình đủ khả năng để khóc nữa. Nếu tôi bắt đầu khóc, liệu tôi có thể dừng lại và rồi sau đó sẽ ra sao?
Nhưng tôi có thể cảm thấy những giọt nước mắt đong đầy trong mắt mình, cảm thấy tiếng nức nở dâng lên sau cổ họng. Tôi siết chặt quai hàm, cố dìm nó xuống. Rồi tôi giật chiếc khăn lên khỏi sàn, quấn nó quanh người thật chặt, như thể nó sẽ kìm giữ được tôi. Tôi lấy điện thoại trên bồn vệ sinh, nắm chặt nó trong tay như thể đấy là chiếc phao cứu sinh, bước vào phòng ngủ trống rỗng, lặng im như tờ. Nằm xuống mép giường, hổn hển thở và nghẹn ngào, tôi quay số gọi Ryan.
Cậu ấy không trả lời. Đấu tranh để ngăn cơn hoảng sợ lại, tôi thử gọi số nơi làm việc của cậu ấy ở Mage, công ty truyền thông kỹ thuật số và thiết kế truyện tranh mà cậu ấy cùng vài người bạn đã lập ra cách đây ba năm. Điện thoại đổ chuông một lần, rồi hai lần, và tôi hình dung ra chiếc điện thoại đặt trên bàn của cậu ấy giữa những cuốn truyện tranh và tiểu thuyết đồ họa. Cậu ấy có lẽ đang trong phòng với nó và không thể xác định được thứ chết tiệt đó đúng lúc. Giậm chân đầy sốt ruột, tôi chờ đợi. Cuối cùng, ở hồi chuông thứ tư, cậu ấy trả lời kèm theo những tiếng sột soạt. “Baxter đây.”
Thường thì tôi sẽ rao giảng cậu ấy về cái thói sử dụng điện thoại dở tệ ấy, nhưng hôm nay tôi không thể bận tâm cho nổi. Sự nhẹ
nhõm nhấn chìm tôi, và tất cả những gì tôi có thể thốt ra là “Ryan?” với giọng đáng thương nghe thật chẳng giống tôi chút nào. “Isabel à? Có chuyện gì thế?” Tiếng sột soạt biến mất, thay vào đó là sự quan tâm sâu sắc ngay lập tức.
Tôi cố trả lời, thật sự tôi đã cố. Nhưng trước sự xấu hổ tột bậc của bản thân, tôi bật khóc. Tôi hiếm khi khóc trước mặt Ryan trong suốt nhiều năm quen biết cậu ấy và tôi không muốn làm vậy ngay bây giờ. Nhưng dường như tôi không thể đừng được.
“Isabel?” Ryan nhắc lại, như thể không chắc đó thật sự là tôi. Và rồi, khi tôi không trả lời. “Chúa ơi, sao vậy? Finn làm sao à?” Tôi mò mẫm lấy khăn giấy trong chiếc hộp trên bàn đầu giường, xì mũi và cố gắng thông cổ họng đủ để lên tiếng. “Không. À, có thể. Mình không biết nữa.” Và rồi tôi lại khóc tiếp, những giọt nước mắt chảy thành dòng trên má và khiến lông mi tôi dính vào nhau. Trong nỗ lực cuối cùng để giành lại quyền kiểm soát bản thân, tôi bấm móng tay vào lòng bàn tay đủ mạnh làm hằn lên hình lưỡi liềm. Tôi cảm thấy đau, nhưng thay vì tập trung vào mình, cơn đau chỉ đổ thêm dầu vào ngọn lửa cuồng loạn của tôi, và tôi càng nức nở hơn. Ryan thở ra một hơi thất vọng. “Cậu nói chẳng ra đâu vào đâu cả.” Cậu ấy nói, và tôi có thể nghe thấy nỗ lực cần thiết để cố tỏ ra nhẹ nhàng, lo lắng như bình thường. “Mình không thể giúp được nếu cậu không nói xem có chuyện gì đâu.”
“Mình chẳng biết phải nói với cậu thế nào nữa.” Tôi đáp qua tiếng nức nở. “Mình sợ lắm, Ryan.”
Câu nói đó dường như là đủ hiểu, bởi vì tôi nghe tiếng cậu ấy hít vào thật sâu. Rồi cậu ấy lên tiếng. “Được rồi, cưng. Đây là những gì mình muốn cậu làm này. Cậu đang ở đâu?”
Ngay cả trong tình trạng hiện tại của bản thân, cách gọi âu yếm đó vẫn khiến tôi ngạc nhiên. Ryan chưa bao giờ gọi tôi bằng bất cứ cái tên nào kiểu như vậy trước đây, và nó còn khiến tôi bối rối hơn, như thể vũ trụ đã lệch khỏi trục, hạ tôi xuống một nơi không ai biết. Tôi bối rối liếc nhìn quanh. “Trong phòng mình. Trên giường. Sao vậy?”
“Có rượu trong nhà không? Ý mình là rượu mạnh ấy, không phải rượu vang đâu.”
Bị bối rối bởi câu hỏi chẳng mấy ăn nhập, tôi liếc nhìn cái tủ nhỏ xíu trong phòng, nơi tôi cất chai rượu rum Mount Gay mà các thành viên khác đã đưa tôi cuối tuần trước như một trò đùa, nói rằng nếu tôi không ra ngoài với họ, có lẽ tôi sẽ thích tiệc tùng một mình hơn. “Có.” Tôi nói, mừng vì đã có một phản ứng dứt khoát để đáp lại cậu ấy.
“Được rồi, thế thì trước tiên mình muốn cậu ngồi dậy. Đứng dậy ấy, được chứ?”
Tôi vâng lời đứng lên. “Mình đang đứng rồi đây.” Tôi nói, khịt mũi. “Giờ thì sao?”
“Giờ thì bước vào phòng tắm và lấy một cái khăn. Cậu làm được không?” Giọng cậu ấy nghe có vẻ nghi ngờ thực sự, và tôi bị thôi thúc bởi mong muốn phải trấn an cậu ấy.
“Tất nhiên là được.” Tôi nói, cố bật cười, nhưng chỉ thấy như bị bóp cổ. “Tôi có bị bất lực đâu.”
Cậu ấy lại khịt mũi, nhưng lần này có chút hài hước hơn. “Thế mới là cô gái của mình chứ. Nhúng ướt cái khăn bằng nước lạnh rồi rửa mặt đi.”
“Nhưng mình sẽ làm ướt điện thoại mất.” Tôi phản đối, và cậu ấy bật cười vẻ gượng ép.
“Thế thì đặt nó lên bệ rửa mặt. Mình sẽ ở yên đây thôi, hứa đấy.” Lặng cả người, tôi làm theo lời cậu ấy nói. Sau đó lại cầm điện thoại lên, trong lòng đột nhiên ngập tràn sự quả quyết rằng cậu ấy sẽ phát ốm vì phải phân loại cảm xúc và đã gác máy rồi. “Ryan?” Tôi nói, ghét nỗi sợ hãi trong giọng mình.
“Mình đây.” Cậu ấy nói, trong giọng nói có sự dịu dàng bất ngờ. Nó đã hủy hoại sự tự chủ mong manh mà tôi gom góp được, và tôi lại bắt đầu sụt sịt.
“Lạy Chúa.” Ryan nói, nghe có vẻ rất ngạc nhiên. “Isabel, làm ơn đi. Cậu thật sự đang làm mình sợ đấy. Bác Andrew làm sao hả, hay là... chết tiệt, nói đi chứ.”
Nhưng tôi không thể. Thay vào đó tôi khóc to hơn, hổn hển hớp lấy không khí, cho đến khi Ryan nói với vẻ tuyệt vọng. “Cậu đang ở một mình hả? Isabel?”
Tôi gật đầu, nhận ra cậu ấy không thể trông thấy mình, và xoay xở lên tiếng, “Ừ.” Tôi có thể nghe thấy chính mình đang thở, nhanh và nghẹn ngào trong nước mắt. Cơn choáng váng quét qua tôi, cuốn theo cả căn phòng và tôi đột nhiên sợ rằng mình sắp sửa ngất xỉu.
Rõ ràng Ryan cũng đang có chung suy nghĩ đó, bởi vì cậu ấy lẩm bẩm. “Chết tiệt.” Gần như là nói với chính mình. “Isabel, cậu biết sao mình lại hỏi cậu về rượu mạnh không? Cậu lấy nó được không?” “Chắc chắn rồi.” Tôi nói, nấc lên. “Tại sao?”
“Để chiều lòng mình ấy mà. Cậu đang ở Barbados... ít nhất ở đó có rượu rum, phải không?”
Tôi khó nhọc nuôi xuống. “Ừ, là rượu rum. Thậm chí mình còn có một chai ở đây cơ.”
“Thế thì tốt.” Cậu ấy nói, giọng rõ ràng và bình tĩnh, toàn bộ thái độ chống đối biến mất. Đó là mánh khóe mà tôi đã từng thấy cậu ấy sử dụng trước đây - khóa chặt cảm xúc của bản thân xuống, trưng ra vẻ bề ngoài cho cả thế giới thấy không có rắc rối gì như bề mặt chiếc ao phẳng lặng, bất kể thứ gì đang cuộn trào bên dưới. Một lần tôi hỏi cậu ấy sao làm được thế - nó có vẻ là một khả năng tuyệt vời, liệu có chút mánh khóe nào không - và cậu ấy chỉ nhún vai, trông cực kỳ thiếu thoải mái. Chỉ sau này, sau rất nhiều quan sát, tôi mới nhận ra đây có thể là một chiến lược sinh tồn mà cậu ấy đã phát triển sau khi bị cha mẹ bỏ rơi ở tuổi lên tám và các trung tâm bảo trợ xã hội đã nhét cậu ấy vào làm con nuôi tại hết gia đình tồi tệ này đến gia đình tồi tệ khác. Sống như thế, cậu sẽ học hỏi rất nhanh hoặc sẽ thất bại, cậu ấy thừa nhận khi tôi thu thập đủ can đảm để hỏi. Cậu quyết định rằng cảm xúc là thứ xa xỉ, hoặc cậu tìm ra cách ngụy trang chúng khi phải làm vậy, để không ai có thể lợi dụng chúng chống lại cậu. Dù cách nào thì cậu cũng phải trả giá.
“Rồi.” Giờ cậu ấy đang nói, cẩn trọng như thể đang nói chuyện với một người sắp sửa nhảy khỏi mỏm đá. “Đi lấy chai rượu và uống khoảng ba ngụm. Làm đi, mình sẽ chờ.”
“Nhưng thế thì mình say mất.” Tôi nói, nhớ ra chai rượu Rum Punch loại một, và cậu ấy khịt mũi.
“Cậu sẽ bình tâm lại. Đừng có tranh cãi với mình. Cứ làm đi.” Tôi quấn khăn quanh người và bước tới chỗ tủ quần áo. Giật mở cửa tủ, lau mắt bằng mu bàn tay, chà sát mạnh hết lần này đến lần khác cho đến khi có thể nhìn rõ, sau đó cầm lấy chai rượu bằng những ngón tay run rẩy, tôi mở nút chai và làm theo lời cậu ấy. Rượu mạnh thiêu đốt cổ họng và khiến tôi ho sặc sụa, nhưng một khi đã nuốt xuống, nó lắng đọng trong dạ dày, lan đến tứ chi với luồng nhiệt trấn an, vững vàng. Tôi uống ngụm cuối cùng và đặt cái chai vào lại tủ quần áo, cảm thấy trống rỗng về mọi thứ. “Giờ đã thấy khá hơn chưa?” Ryan lên tiếng khiến tôi giật mình. Ngập ngừng, tôi hít sâu một hơi, dự kiến một cơn nức nở khủng khiếp, tả tơi khác lại trào lên, nhưng nó không đến. Tôi hít vào và thở ra, rồi lại thêm một hơi nữa, và nằm vật ra giường. Sau đó, tôi lau mắt và nhìn quanh. Thế giới hiện lên qua những vệt ánh sáng mờ nhạt, ấm áp, và tôi nhận ra lần đầu tiên kể từ lúc điện thoại reo chiều nay, tôi cảm thấy an toàn. Tôi hắng giọng, ho, và lên tiếng. “Cảm ơn cậu nhiều lắm. Mình xin lỗi nhé. Mình không biết cái gì...”
“Đừng có xin lỗi, Isabel, Chúa ơi. Cứ nói với mình đi.” “À.” Tôi nói, cảm thấy bồn chồn. “Là Max.”
Ryan im lặng. Rồi cậu ấy lên tiếng. “Max? Ý cậu là họ đã tìm thấy...”
“Không, không.” Tôi vội vã nói. “Không phải như thế.” “Ồ. Thế thì... có phải họ đã tìm ra anh ta? Còn sống?” Có sự hoài nghi rành rành trong giọng Ryan, phảng phất chút khinh miệt. Ryan rất khinh bỉ những người cha bỏ rơi con cái họ, và có cực kỳ ít sự cảm thông với những người đó. Cậu ấy không nói về cha mẹ ruột kể từ khi được cơ quan dịch vụ xã hội đưa đi. Theo quan điểm của Ryan, họ đã chết vào ngày hôm ấy rồi.
“Không, cũng không phải thế.” Tôi nói, hớp một ngụm rượu rum để lấy thêm can đảm.
“Rồi, thế thì là gì?” Cậu ấy nói, vẻ thiếu kiên nhẫn. “Mình chẳng hiểu gì cả.”
“Mình cũng thế?’ Tôi lẩm bẩm, cố để không bật ra tiếng cười khe khẽ kích động. Rượu rum đã làm tốt việc của nó, giúp tôi giữ khoảng cách khỏi cú sốc bởi cuộc điện thoại của Max và hòa tan sự ức chế của tôi vào rượu. Đó quả là một sự thay đổi mới mẻ.
Ryan làu bàu gì đó, với vẻ giận dữ mà tôi chưa bao giờ nghe từ cậu ấy. “Isabel, ôi Chúa giúp tôi, nếu cậu không nói cho mình chuyện gì đang diễn ra thì mình gác máy đây, gọi cho cái gã cấp dưới đáng ghét của cậu ấy, và bảo gã đến giúp cậu thỏa mãn khi cậu cần.”
Cậu ấy đang nói đến Jake, và tôi cười bật cười khúc khích. “Không đâu.” Tôi nói. “Hơn nữa, mình chỉ đang quấn mỗi cái khăn tắm.”
“Mình không quan tâm cậu đang mặc cái quái gì. Nếu cậu không muốn cái gã đầy tớ bé nhỏ đó bắt được cậu trong tình trạng này, tốt hơn cậu nên bắt đầu nói ra hoặc mặc quần áo vào đi.”
Tôi nghiêng chai rượu rum lần nữa và uống một hơi. “Mình chưa bao giờ nghe cậu ăn nói thế này trước đây, Ryan ạ. Cậu thật sự khá hung dữ đấy.”
“Lạy Chúa, Isabel, thế thì giúp mình đi, nếu cậu không bắt đầu nói...” Cậu ấy đáp, và theo sau là sự ngờ vực, khi tôi ợ lên một tiếng rõ to. “Lạy Chúa, cậu vẫn đang uống đấy à? Dừng lại đi. Đặt cái chai chết tiệt đó xuống. Cậu đang say đấy.”
“Mình không say.” Tôi nói với tất cả sự chững chạc, đường hoàng mà tôi có được vào lúc này. “Mình đang bình tĩnh. Cậu đã nói thế còn gì.”
“Mình biết mình đã nói gì. Nhưng giờ mình đang nói là vặn nút cái chai đó vào và để nó lại đúng nơi cậu đã lấy nó ra.” Cậu ấy thở dài. “Mình đang ở chỗ làm, cậu biết đấy. Thếnên mình đang đi gần tới cửa phòng làm việc của mình rồi và mình sẽ giữ cuộc gọi ở chế độ chờ. Mình sẽ trở lại và nếu cậu không ăn nói cho rõ ràng hơn bây giờ, mình sẽ gọi cho Jake. Mình có số của cậu ta trong máy đây này,
trong trường hợp cậu nghĩ mình đang đùa. Cậu có hai mươi giây, bắt đầu từ bây giờ.”
Tôi sắp sửa phản đối nhưng điện thoại đã vang lên tiếng loạt soạt khi cậu ấy đặt nó xuống bàn một cách dứt khoát. Tôi nhìn chiếc điện thoại rồi lại nhìn cái chai lúc này đang nằm giữa hai đầu gối. Và rồi, với nỗ lực hết mức, tôi đặt cái chai lên bàn cạnh giường ngủ. Tôi chỉnh lại khăn tắm, ngồi thẳng lưng, và bình tâm lại. Vấn đề là lúc này tôi có thể nghe thấy giọng Max, đang gọi tên tôi. Tôi nhắm chặt mắt lại và bắt đầu đếm to. “Chín... tám... bảy... sáu... năm...”
Khi tôi kết thúc màn đếm ngược và bắt đầu hoảng loạn, Ryan lên tiếng. “Mình quay lại rồi đây. Giờ thì kể đi. Làm ơn.” Cậu ấy nói thêm như thể đó là một suy nghĩ vội vã.
Cảm giác âm ấm khắp người do rượu rum đã biến mất, giờ chỉ còn cảm giác sợ hãi lạnh lẽo. “Max đã gọi cho mình.” Tôi nghe tiếng Ryan thở hắt ra. “Gì? Vừa xong á?”
“À, không phải vừa xong. Vừa xong mình còn đang nói chuyện với cậu mà.” Tôi nói, và lấy tay áp vào miệng để ngăn một tiếng ợ khác.
“Được rồi, Isabel. Ý cậu nói Max gọi cho cậu tức là làm sao? Gọi vào di động à? Anh ta đã nói gì?” Có sự hoài nghi không nhỏ trong giọng nói của Ryan. Tôi không trách cậu ấy vì thế, nhưng nó lại khiến tôi thât vọng.
“Ừ, gọi vào di động của mình. Anh ấy gọi tên mình, Isabel, sau đó nói Giữ con bé an toàn. Anh ấy cũng nói những điều khác nữa, nhưng mình không thể nghe được. Bị nhiễu sóng.” Tôi mân mê một sợi chỉ ở mép khăn tắm. “Nhưng là anh ấy mà, Ryan. Mình thế đây.”
“Sao cậu biết?” Cậu ấy nói, giống y như cách cậu ấy nói với thực tập sinh của mình khi họ lưỡng lự tuyên bố một tình huống tiến thoái lưỡng nan trong trường hợp không đủ dữ liệu. Nó khiến tôi bực bội, và trong trạng thái say xỉn của bản thân, tôi không đủ tỉnh táo để kiềm chế sự kích động.
“Thứ nhất, đây là số điện thoại của anh ấy trong danh bạ của mình.” Tôi cáu kỉnh đáp.
“Cái đó cũng không nói nên điều gì.” Cậu ấy nói ngay lập tức. “Ai đó khác giờ đã có thể có số của anh ta rồi. Cậu biết thế mà.” “Đấy là giọng của anh ấy.” Nước mắt lại bắt đầu dâng lên trong mắt tôi lần nữa. “Cậu không nghĩ là mình biết giọng Max nghe thế nào sao?”
“Đã gần tám năm rồi, Isabel. Làm sao cậu có thể chắc chắn thếchứ?” Đây là tông giọng kiên nhẫn, dạy bảo của cậu ấy, và nó khiến tôi mất bình tĩnh.
“Đừng có lên mặt với mình!” Tôi quát lên với cậu ấy, hoàn toàn kích động. “Mình không phải một trong số học viên của cậu. Và đừng có nhìn nhận chuyện này như... đống bằng chứng logic chết tiệt đó. Mình biết mình đã nghe thấy gì!”
Im lặng theo sau sự bùng nổ bị đánh thức của tôi. Ryan hít vào một hơi sâu. Tôi chắc cậu ấy đang cố kiềm chế. “Mình đang cách cậu hơn ba nghìn cây số, Isabel.” Cậu ấy nói, nhả từng chữ một. “Mình cảm thấy bất lực, cậu có hiểu điều đó không? Cậu muốn mình làm gì đây?”
Đó là một câu hỏi thật sự, và sự phẫn nộ ào ào rút khỏi tôi, bỏ tôi lại với cảm giác tội lỗi. “Mình xin lỗi.” Tôi nói. “Mình không có ý quát lên với cậu như vậy. Cậu chỉ đang cố giúp mình.”
Ryan hắng giọng vẻ miễn cưỡng chấp nhận. “Không sao đâu. Thế ... kể đi. Kể mọi chuyện đã xảy ra, từ đầu đến cuối. Đừng bỏ sót gì, cả những chi tiết cậu không cho là quan trọng.”
Thật tuyệt vời, cậu ấy đang hoàn toàn nghiêm túc - và nếu có bất kỳ ai có thể giải được câu đố về cuộc gọi của Max, người đó chính là Ryan. Tôi thở dài, cảm thấy như toàn bộ không khí trong cơ thể bị rút kiệt khi tôi thư giãn. Nghe thấy thế Ryan dỗ dành. “Đúng rồi. Ngồi dựa vào tường nhé. Nhắm mắt lại. Thở đều. Sau đó kể cho mình mọi chuyện. Như thể mình đang ở đó với cậu. Để mình chứng kiến nó.”
Và tôi làm theo. Cậu ấy lắng nghe mà không ngắt lời, mặc dù tôi có thể nghe tiếng gõ bàn phím lạch cạch - cậu ấy đang ghi chú lại, tôi nhận ra và cảm thấy yên tâm đến lạ. Khi tôi kể đến đoạn tôi quay trở lại ngôi nhà, cậu ấy mới lên tiếng.
“Cậu đã nghĩ là Max ở trong phòng cậu.” Cậu ấy lặng lẽ nói. “Cậu nghĩ anh ta ở đó.”
Tôi muốn cãi lại cậu ấy, nhưng nó là sự thật. “Có.” Tôi thừa nhận. “Ngu ngốc nhỉ?”
“Chà, có lẽ không đâu. Nếu người gọi điện thật sự là anh ta.” Giọng cậu ấy nhẹ nhàng, đầy cảm thông, và nó đánh sụp sự phòng thủ của tôi thành cát bụi.
“Thật điên rồ, không phải sao Ryan?” Tôi bật dậy, để chiếc khăn rơi xuống sàn nhà, lao đến chỗ tủ quần áo, lục lọi một trong số những ngăn kéo đựng đồ. “Không thể là anh ấy được. Ý mình là, nếu đúng vậy, sao số điện thoại của anh ấy lại không liên lạc được khi mình gọi lại? Và nếu không liên lạc được, tại sao anh ấy lại gọi cho mình được?”
“Mình không biết.” Giọng cậu ấy trầm ngâm. “Một tin tặc giỏi có thể làm được. Ai đó có đủ kỹ năng để thao túng hệ thống.” Tôi mặc đồ lót sạch vào, sau đó là chiếc quần vải lanh màu xanh dương, chiếc quần thoải mái nhất mà tôi có. “Giống như cậu?” Tôi nói, nửa đùa nửa thật. Khi còn là một thiếu niên nổi loạn, Ryan đã tự mò mẫm vượt qua tất cả các kiểu hàng rào an ninh mạng trong quá khứ. Cậu ấy đã vô tình kể cho tôi chuyện đó trong một lần tâm sự bên tách cà phê, giống như cách một người thú nhận về quá khứ ăn trộm son môi hoặc tải về các bản nhạc MP3 bất hợp pháp. Cậu ấy không kể chi tiết và tôi cũng chưa bao giờ hỏi - cho đến bây giờ. Ryan thốt ra giọng bất bình tức giận. “Mình có thể. Nhưng mình sẽ không làm thế. Lạy Chúa, Isabel, cậu không nghĩ mình sẽ làm thế với cậu đấy chứ?”
“Không.” Tôi nói sau một lúc do dự, cài dây áo ngực. “Mình chỉ... thỉnh thoảng mình quên mất khía cạnh đó trong cậu. Thật kỳ lạ khi nhắc lại.”
“Mình không làm chuyện kiểu đó nữa. Cậu biết thế còn gì.” Cậu ấy nói nghe có vẻ bị xúc phạm.
“Tất nhiên.” Tôi nói bằng giọng hòa giải nhất trong khi kéo một chiếc áo phông qua đầu.
“Dù sao, đó cũng chỉ là một khả năng. Nhưng ai lại quấy rối cậu như thế được chứ? Ai lại muốn làm vậy?”
“Mình chịu.” Tôi thừa nhận. “Có thể ai đó đã bắt cóc Max chăng? Nhưng có ai lại muốn điều gì từ anh ấy kia chứ? Và tại sao lại để anh ấy gọi điện, sau suốt quãng thời gian đó? Thật vô lý. Dù vậy, đúng là anh ấy mà, Ryan, mình thề đấy. Nhưng sao có thể thế được? Mình không hiểu?”
Tôi nghe thấy có âm thanh lặp đi lặp lại và suýt nữa đã hỏi cậu ấy về nó thì chợt nhận ra đấy là gì - là Ryan, đang gõ gõ ngón tay lên mặt bàn làm việc khi cậu ấy đang cố gắng giải quyết vấn đề. “Mình cũng không hiểu.” Cậu ấy lên tiếng sau một lúc. “Nhưng chúng ta sẽ tìm ra thôi.”
Một cảm giác nhẹ nhõm sâu sắc ngập tràn trong tôi: Bởi không còn phải một mình đối diện với cuộc gọi bí ẩn từ Max nữa, có ai đó khác giúp đỡ tôi đối phó với bất kể điều gì sắp đến. Cảm thấy nhẹ nhõm hơn, tôi mở cửa ban công và bước ra ngoài. Có một người đang ngồi trên chiếc ghế xếp kế bên hồ bơi, nhâm nhi thứ đồ uống ưa thích được trang trí một chiếc ô nhỏ. Hai đứa trẻ đang vầy nước dưới ánh sáng của bóng đèn ngoài hiên. Tiếng cười giòn tan của chúng vang tới chỗ tôi và tôi không thể không nghĩ về Finn. Trong khi tôi quan sát, người đàn ông đứng dậy, đặt ly đồ uống xuống nền đất bên cạnh và nhảy tùm xuống nước. Anh ta lặn xuống dưới và trồi lên ngay cạnh hai đứa trẻ, chúng hét lên vui sướng và té nước vào anh ta, thế là trận chiến bắt đầu.
Max chưa bao giờ chơi với Finn như vậy. Nhưng Ryan thì có, mỗi mùa hè. Thực ra, cậu ấy là người đã dạy con bé bơi, rất lâu sau khi tôi giơ tay đầu hàng. Hết lần này đến lần khác, cậu ấy đứng trong bể bơi sâu mét rưỡi, cánh tay dang rộng, dỗ dành con bé nhảy, hứa sẽ đỡ được con bé. Và cuối cùng con bé nhảy thật. Bởi vì con bé tin cậu ấy.
“Cảm ơn cậu đã ở bên mình, không chỉ là tối nay đâu.” Tôi xúc động nói. Đây không phải cách chúng tôi thường trò chuyện với nhau - cả cái cách cậu ấy gọi tôi là cưng ban nãy nữa - nhưng dường như tôi không thể ngăn mình lại. “Cậu như một người cha với Finn vậy. Mình biết thế. Và mình rất yêu quý cậu vì điều đó.”
Ryan không đáp lời, và trong trạng thái lơ mơ vì rượu rum, tôi tự hỏi có phải mình đã nói quá nhiều không, có vượt quá giới hạn tình bạn của chúng tôi không. Sau một lúc lâu ngừng lời, cậu ấy lên tiếng. “Thật sao?”
Có gì đó là lạ trong giọng cậu ấy, điều gì đó tôi không thể xác định được. Có lẽ chỉ là Ryan, một người luôn tự tin, đột nhiên nghe có vẻ không mấy chắc chắn, giống như cảm giác của tôi vậy. Tôi cá là nếu đang tỉnh táo, tôi có thể đoán ra được. Nhưng tôi đang bị ảnh hưởng bởi một lượng rượu đáng kể, và đang mất tỉnh táo, thế nên tôi chỉ nói, với sự phẫn nộ nửa vời. “Tất nhiên là thế. Sao có thể không yêu được kia chứ?”
Câu nói khiến cậu ấy bật cười, tiếng cười khùng khục khiến cả người rung lên. “À, mình cũng yêu cậu. Nhưng mình nghĩ cậu đang mệt lử rồi đấy. Còn gì trong tủ lạnh của cậu không? Cậu cần phải ăn tối đi.”
“Ăn tối á? Mình đang định ăn trưa cơ.” Rượu rum cuộn lên trong dạ dày tôi, chực chờ trào lên, và tôi chợt nhận ra Ryan nói đúng - tốt hơn tôi nên ăn thứ gì đó càng sớm càng tốt.
“Ăn trưa?” Cậu ấy kinh hãi nói. “Cả ngày nay cậu đã ăn gì chưa đấy?”
“Mình có ăn sữa chua rồi.” Tôi đáp, lục lọi ký ức xem đã lấy bất kỳ thứ gì khác ra khỏi tủ lạnh sáng nay. “À, với một tách cà phê nữa. Mình bỏ bữa trưa, bọn mình bận quá. Và rồi Max...” Giọng tôi khàn đi, nhưng tôi cố nói cho hết. “Dù sao thì sau đó mình đã quên sạch chuyện ăn uống.”
Ryan khụt khịt mũi vẻ ghê tởm. “Một cốc sữa chua. Và cái đống rượu rum đó. Chẳng trách cậu lại ăn nói thế này. Chẳng trách cậu lại nghĩ đấy là Max, chỉ với cốc sữa chua để làm việc dưới ánh mặt trời. Mình ngạc nhiên là cậu không bị ảo giác một cuộc gọi đến từ tổng thống đấy.”
“Mình không ảo giác gì hết!” Tôi nói, bắt đầu nổi giận lần nữa. Thế giới quay cuồng, đột nhiên tràn ngập trong một bể màu sắc, và tôi phải vịn vào lan can để giữ thăng bằng, lớp sơn ram ráp bên dưới lòng bàn tay. “Sao cậu lại không tin mình? Cha mình cũng thế. Có
chuyện quái gì với hai người vậy? Có phải mình không đáng tin không? Hay quá thất thường?”
“Tất nhiên là không phải thế. Nhưng thôi nào, Isabel. Thử nghe xem chuyện này ra làm sao. Cậu sẽ làm gì nếu cha cậu gọi cho cậu kể một chuyện như thế, về mẹ cậu? Cậu muốn nó là thật, tất nhiên là vậy. Cậu sẽ làm bất cứ điều gì để biến nó thành sự thật, mình nói đúng chứ?”
“Ừ.” Tôi nói, nắm lấy lan can vì mạng sống thân yêu. Rượu rum trào lên trong cổ họng, đột ngột và nguy hiểm, còn tôi nỗ lực nuốt nó xuống.
“Nhưng.” Ryan nói, không mủi lòng khi con sóng thủy triều vỗ vào bãi biển nhỏ phía bên kia hồ bơi, rồi lại dạt ra khơi. “Cha cậu vẫn ở đây, còn mẹ cậu thì không. Cậu muốn điều gì thậm chí hơn cả gặp lại mẹ lần nữa? Bản năng nhắc nhở cậu điều gì?”
Tôi nghĩ về cha tôi trông ra sao sau khi mẹ biến mất - hao gầy và kiệt sức, khuôn mặt thiếu ngủ của ông, mắt trũng sâu vì lo lắng. Với những ký ức sống động ngay lập tức được gợi lại, tôi thấy ông bước đi khỏi tôi, rút lui hết lần này đến lần khác vào phòng mình, tay giở đi giở lại những trang báo cáo của cảnh sát. Tôi thấy ông đi khắp thị trấn dán những tờ rơi tìm người mất tích, thấy ông bước ngang qua tôi trong bếp, trong hành lang, trên lối vào nhà mà không nói một lời. Nhìn thẳng qua tôi, như thể tôi không có ở đó, cho đến khi tôi buộc phải chấp nhận thực tế rằng tôi cũng đã mất cả ông. Và giờ nó trở lại, tuyệt vọng và buồn đau, với Max.
Tôi không thích những ký ức này, chúng đã bị chôn sâu từ nhiều năm trước. Khi Finn ra đời và cha tôi đã chứng minh ông là người ông của con bé tốt hơn tôi có thể tưởng tượng, tôi cứ nghĩ mình đã để chúng yên nghỉ rồi. Nhưng chúng ở đây, được gợi lên bởi chuỗi câu hỏi không ngừng của Ryan, và tôi không mảy may bận tâm. Tôi lắc đầu thật mạnh để xua chúng đi, nhưng điều đó chỉ khiến tôi thêm chóng mặt, và tôi phải ngồi phịch xuống một trong nhũng chiếc ghế bập bênh màu trắng. Nhìn sâu vào tâm trí mình, tôi vẫn có thể trông thấy cha, quay lưng đi và đắm chìm trong sự đau buồn của ông, bỏ rơi tôi. Luôn luôn bỏ rơi tôi.
Và chỉ cần có thế, tôi đã có câu trả lời. “Mình muốn bảo vệ cha.” Tôi thì thầm. “Để không thứ gì khiến ông tổn thương như thế lần nữa.”
Lần này, sự im lặng của Ryan có sự khác biệt - nó trầm ngâm, như thể đang chứa đựng sức nặng của cả ngàn từ ngữ. Cuối cùng, cậu ấy lên tiếng, giọng khẽ khàng như giọng tôi. “Đơn giản mà, cưng.”
Max
Thời gian chậm lại và tôi có thể trông thấy mọi thứ - màu xanh lục đậm của mía trên nền trời xanh ngắt, và rọi bóng lên chúng là vóc dáng của người đàn ông, làn da đen bóng mồ hôi, bắp tay căng phồng khi lưỡi dao pha rít lên xé gió trong không khí. Tôi nhìn thấy từng giọt mồ hôi nhỏ giọt xuống mặt và ngực anh ta, chiếc quần trắng rách rưới, cả cơ thể bốc mùi, cái mùi đặc trưng của một người không được tắm rửa suốt thời gian dài trong thời tiết nắng nóng.
Thời gian bắt đầu trở lại bình thường và tôi tránh khỏi đường đi của lưỡi dao vừa kịp lúc. “Anh nghĩ anh đang làm cái quái gì thế?” Tôi hét. “Anh có thể đã giết tôi đấy!”
Người đàn ông nhìn chằm chằm tôi như thể tôi là một con ma, và rồi biểu cảm của anh ta biến thành vẻ kinh hãi. Anh ta nhìn xuống đất, và tôi có thể thấy bàn tay cầm dao của anh ta đang run rẩy. “Thưa ông.” Anh ta cố nói, đôi mắt dán chặt vào gốc mía. “Tôi không định làm hại ông đâu, thật đấy. Ông chủ Alleyne bảo tôi đến đây phát quang chỗ này. Điều cuối cùng tôi mong đợi là thấy một người đang đứng ở đây.”
Lời anh ta nói khiến tôi bối rối. Nhịp độ và ngữ điệu giọng nói của anh ta rất đặc biệt, pha trộn giữa âm điệu du dương của những người sống ở đảo mà tôi nhớ trong kỳ nghỉ gia đình tới vùng Caribe và Gullah, phương ngữ của những người vùng bờ biển Nam Carolina có tổ tiên là những nô lệ Tây Phi. Rồi cả ý tứ kỳ lạ của anh ta khi nhắc đến “ông chủ Alleyne”, chưa kể đến nỗi sợ hãi của người đàn ông này nữa, thật vô lý, xét đến việc anh ta mới là người có vũ khí. Trong khoảnh khắc, tôi hoang mang đến nỗi chỉ có thể nhìn chằm chằm anh ta. Anh ta cúi đầu và con dao pha rơi khỏi tay. Tôi nhìn nó đập xuống đám đất bẩn và đầu óc tôi rối tung lên, cố gắng nghĩ ra
vài lời giải thích cho biểu hiện của anh ta và những điều anh ta đang nói.
Tôi thấy chính cánh tay mình cũng đang run rẩy, tôi cúi xuống nhặt con dao - và nhìn lướt qua đôi chân chằng chịt sẹo của anh ta. Tôi chớp mắt nhìn chúng một lúc, rồi lại nhìn con dao, đột nhiên chắc chắn rằng những vết sẹo được tạo ra bởi một vật sắc lẹm hay thứ gì đó tương tự, nhắm vào cây mía nhưng bị trượt và găm sâu vào da thịt.
Người chặt mía, đầu óc tôi chạy đua, cố gắng nhớ lại thông tín từ hội thảo về lịch sử Tây Ấn mà tôi tham dự năm ngoái. Tôi đã viết luận án về cuộc nổi dậy của nô lệ Barbados năm 1816 và sự liên kết giữa Barbados và Carolina, cố gắng tìm hiểu về di sản không mấy tự hào của gia đình - trong số những thứ khác. Kiến thức sống dậy trong tâm trí tôi, rõ ràng và mạch lạc. Người đàn ông này là một người cắt mía. Anh ta đang phát quang cánh đồng, chuẩn bị cho vụ thu hoạch mía. Thế có nghĩa là anh ta không hề đơn độc.
Như thể suy nghĩ đó đã triệu hồi họ, tôi nghe thấy những giọng nói khác, đang ca lên một bài hát. Một tiếng hát mạnh mẽ, cao hơn hẳn những giọng còn lại, hòa vào ca khúc. Tôi không nghe rõ lời bài hát, không phải ở khoảng cách này, nhưng giai điệu thì đủ quen thuộc. Nó khiến tôi nhớ đến thứ âm nhạc trong nhà thờ của người da màu ở Charleston, những giai điệu trầm bổng của câu hát gọi và lời phụ xướng.
Tâm trí tôi quay cuồng, tôi nhặt con dao lên và đưa trả lại chủ nhân của nó, anh ta không nhúc nhích chút nào từ nãy đến giờ. “Của anh đây.” Tôi nói, ráng hết sức để giọng nghe vẻ trấn an. “Tôi biết anh không cố ý làm hại tôi. Đó là lỗi của tôi - không người bình thường nào lại mong muốn gặp một ai đó ở đây cả. Thật đấy, không sao đâu.”
Anh ta ngẩng phắt đầu lên và run rẩy lùi xa khỏi con dao, như thể anh ta không nghe thấy bất cứ điều gì tôi vừa nói. Tôi kiên nhẫn thử lại. “Cầm đi. Nó là của anh mà.”
Anh ta rón rén nhận lấy con dao từ tôi, liếc mắt nhìn tôi, và tôi thấy sự hoài nghi trong đó, nhưng anh ta đã nhanh chóng cẩn thận che giấu đi. “Cảm ơn ông.” Anh ta nói, âm “ng” gần như là âm câm,
rồi quay đi và biến mất hệt như cái cách anh ta đã đến. Tôi hít thật sâu một hơi bầu không khí ẩm ướt và nóng bức, nghẹn thở khi thấy tấm lưng trần của anh ta. Nó chằng chịt những vết sẹo lởm chởm, có cả những vết thương còn mới nguyên đang rỉ máu.
“Đợi đã!” Tôi vội nói, trước cả khi tôi biết mình vừa nói gì. Nó giống một lời khẩn cầu hơn là một mệnh lệnh, nhưng anh ta đứng khựng lại như thể tôi vừa ra lệnh cho anh ta. “Ai đã làm thế này với anh?”
Anh ta không nói gì. Những người đang hát giờ đã tới gần hơn, đủ gần để tôi có thể tháp thoáng trông thấy bộ quần áo màu trắng của họ qua những cây mía, ánh sáng từ những con dao lấp loáng phản chiếu ánh mặt trời. Chỉ giây lát nữa thôi, anh ta sẽ biến mất vào đám đông những người còn lại, và tôi sẽ mất cơ hội. “Trả lời tôi đi.” Tôi nói, và khi anh ta không nói gì, tôi nói thêm. “Làm ơn.”
Câu đó khiến anh ta ngẩng phắt đầu lên kinh ngạc. Anh ta lí nhí trả lời mà khó lắm tôi mới có thể nghe thấy dưới tiếng rít của những lưỡi dao, tiếng bước chân, tiếng hát ca, anh ta nói với vẻ đường hoàng chắc chắn trái ngược với những lời của anh ta. “Là ông chủ Alleyne, thưa ông.”
Chữ “ch” trong từ “chủ” gần như không thể nhận thấy, “u” nghe không rõ lắm. Tôi cảm thấy phát bệnh khi nghĩ một người đang kiểm soát một người khác, nhưng nghe những lời đó được nói ra theo cách này, được nhắc lại đúng y khuôn mẫu từ một nô lệ, khiến cơn buồn nôn trào lên trong dạ dày tôi. “Tại sao?” Tôi nói, như thể nó có thể là lời bào chữa cho thứ gì đó như điều này. Nhìn gần, lưng anh ta trông như bãi chiến trường - những vết thương và các vết sẹo lồi đan xen vào nhau. Mặc dù trời nóng gay gắt, mồ hôi lạnh vẫn lan tỏa khắp cơ thể tôi.
Người đàn ông nhún vai, không quay lại. “Ông ta bảo tôi không làm việc đủ chăm chỉ. Uống rượu. Và ăn trộm.” Giọng anh ta trống rỗng, như thể những lời này chẳng là gì với anh ta.
Tôi mở miệng, nhưng không một âm thanh nào thốt ra. Dù vậy, cũng không quan trọng tôi có nói hay không, bởi vì lúc này, những người chặt mía còn lại đang ở ngay bên chúng tôi, vung những lưỡi dao đồng loạt nhịp nhàng theo giai điệu bài hát. Phải có đến ba
mươi, bốn mươi người, những người đàn ông và phụ nữ da đen di chuyển đồng thời, mặc những bộ đồ lanh trắng bẩn thỉu, chặt phăng những thân mía. Phía sau họ là một người đàn ông da trắng cưỡi ngựa, con dao đựng trong bao giắt trên thắt lưng và một cây roi quấn trên yên ngựa, hét lên những lời lăng mạ và khàn giọng ra mệnh lệnh.
Cai nô. Tâm trí tôi lên tiếng, trong cùng tông giọng lạnh lẽo. Nhưng bằng cách nào?
Người đàn ông với tâm lưng chằng chịt sẹo đã hòa vào nhóm người. Tôi choáng váng đứng trên đường đi của nhóm những người chặt mía đang tiến tới. Ngay trước khi người cưỡi ngựa trông thấy tôi, cuối cùng tôi đã hiểu được phần lời của bài hát: “Chủ nhân mua tôi, ông ta sẽ không giết tôi.”
Và điệp khúc hòa âm ngân vang: “Để tôi sống với một người xấu, ô la. Để tôi sống với một người xấu.”
Isabel
Đêm đó tôi mơ thấy Max, sống động hơn tôi từng mơ trong nhiều năm qua. Tôi đang bước về phía anh trên con đường rộng rải nhựa. Không khí ngột ngạt và ẩm ướt, sực nức hương thơm của những đóa hoa nhiệt đới, phía xa, tôi có thể nghe thấy tiếng sóng vỗ rì rào. Một bên đường, những hàng mía xanh tươi cao quá đầu người xào xạc trong gió. Phía bên kia là những cánh đồng, những căn nhà nhỏ bằng gỗ được dựng lên, và đằng sau Max là một con đường cho xe chạy dài và quanh co, hai bên có những cây cọ cao chót vót dẫn đến một biệt thự hai tầng màu trắng. Tôi nhận ra đó là một ngôi nhà đồn điền, không giống như ngôi nhà chính trên đất nhà Lowther, nơi chúng tôi đang khai quật, hoặc như những ngôi nhà lớn khác, như của nhà Bayleys hay biệt thự nhà Drax. So với nó, những căn nhà gỗ để ở quá xấu và xiêu vẹo.
Max đang đứng ở giữa đường, cách khoảng hơn bốn mươi mét, chờ tôi. Anh mặc bộ đồ lần cuối tôi trông thấy anh, vào ngày anh biến mất: quần ka ki túi hộp và áo phông màu xanh hải quân đã bạc màu qua nhiều lần giặt. Ở khoảng cách này, lẽ ra tôi không thể thấy nụ cười hơi nhếch môi lên của anh, nhưng tôi thấy nó vẫn như xưa. Anh giơ một tay lên và vẫy gọi tôi với cử chỉ không thể nhầm lẫn: Đi nào.
Tôi liền chạy đến chỗ anh, rút ngắn khoảng cách giữa chúng tôi - ba mươi rồi hai mươi mét. Nụ cười của Max rộng mở, điều đó càng thôi thúc tôi chạy nhanh hơn về phía anh. Nhưng khi tôi đến gần, biểu hiện của anh chuyển từ mong đợi sang hoảng sợ. Anh quay lưng lại với tôi, tiến về phía ngôi nhà. Sau đó, có một vụ nổ lớn, khói mù mịt che mờ tất cả.
Sức mạnh của vụ nổ làm tôi ngã quỵ. Đất cát sỏi đá từ vụ nổ bắn lên lòng bàn tay và khuỷu tay tôi. Tuyệt vọng, tôi cố nhìn qua màn
khói dày đặc. Tôi hét gọi tên Max, nhưng anh không trả lời. Tôi chắc chắn mình đã mất anh lần nữa.
Tôi dụi mắt hết lần này đến lần khác, cho đến khi nhìn rõ những gì trước mắt. Max vẫn ở đó, nhưng bây giờ anh đang đứng giữa một đám cháy. Tôi nghe thấy tiếng la hét, sau đó là tiếng súng nổ. Con đường rải rác những mảnh vụn, ngọn lửa tràn ra từ những ô cửa sổ của căn nhà, khói từ đám cháy lấp đầy không trung.
Tiếng la hét xé toạc không khí lần nữa, không hiểu sao những tiếng la hét đó lại rất khác nhau. Đó là tiếng gào khóc giữa cuộc chiến, điên cuồng và hoang dại. Và rồi họ ào đến, tràn ra từ cánh đồng mía như cơn sóng cuồng nộ, đen như bầu trời đêm, tay nắm chặt những cây xỉa rơm rạ và những con dao pha. Tôi thấy một người trong số họ tay cầm ngọn đuốc và ném vào ruộng mía. Những người nổi loạn, tôi nghĩ.
Những cây mía bắt đầu bén lửa. Sau đó, ngọn lửa ngày càng cháy to hơn và lan rộng. Mùi hăng của những chiếc lá đang cháy khiến phổi tôi như khô đi và tro từ đám cháy rơi xuống, phủ lên mọi thứ. Tôi cố chạy về phía Max để kéo anh đến nơi an toàn, nhưng đúng như cách mà những giấc mơ kinh hoàng diễn ra, tôi không thể cử động được. Tất cả những gì tôi có thể làm là dõi theo khi tôi mất anh thêm lần nữa.
“Max.” Tôi hét lên. “Max! Chạy đi!” Nhưng anh đứng đó, mắc kẹt giữa ngôi nhà và ruộng mía đang cháy. Anh không cố gắng chạy thoát thân. Anh chỉ đứng đó, không thể nhúc nhích, và tôi cũng vậy.
Nhưng bị tê liệt không có nghĩa là tôi không cảm thấy gì. Phân nửa những gì tôi đã tưởng là tiếng sóng vỗ lại là tiếng vó ngựa đang tiến đến rất nhanh. Cơ thể tôi cảm nhận được tiếng đập xuống nền sỏi, trước khi chúng đi vào tầm mắt tôi: ba mươi người lính mặc quân phục đỏ cùng súng hỏa mai kiểu cũ lao về phía tôi. Sầm sập lao qua tôi đến chỗ ruộng mía đang cháy, như thể tôi không tồn tại. Những người da đen không có súng và tôi đứng đó chứng kiến vụ thảm sát.
Mặc dù những người nổi loạn bị áp đảo về quân số và không được trang bị đầy đủ vũ khí, nhưng họ có một thứ: Sự liều lĩnh. Tôi dõi theo một người cầm đuốc giơ thanh kiếm lên cao quá đầu và
vung mạnh nó xuống, những múi cơ trên cánh tay anh ta gồ lên dưới làn da. Lưỡi kiếm xuyên qua lớp áo đỏ của một người lính, ghim sâu vào cơ thể người đó. Người lính ngã xuống, ôm lấy bụng, người nổi loạn đá vào anh ta một cách không thương tiếc.
Sau đó là tiếng nổ chói tai, giống như tiếng một khẩu hỏa mai, và một đốm màu đỏ xuất hiện trên ngực người cầm kiếm. Tôi thậm chí không có thời gian để cắt nghĩa vẻ bàng hoàng trên gương mặt anh ta chợt lóe lên trước khi anh ta ngã xuống đám mía đang cháy, căm phẫn và đầm đìa máu. Những người nổi loạn đằng sau anh ta hét lên phẫn nộ, và tiếng súng lại khai hỏa lần nữa. Nhưng tất cả sự hỗn loạn này biến mất khi tôi nghe thấy một tiếng khóc, cao, ai oán và hoảng sợ - đó là tiếng khóc của một đứa trẻ, đến từ bên trong ngôi nhà. Con gái tôi, bị mắc kẹt và sợ hãi.
“Finn!” Tôi hét to đến nỗi như xé toạc cả cổ họng. Tôi giằng giật để giải thoát bản thân khỏi sự tê liệt, điều này còn khó khăn hơn so với những gì tôi đã trải qua trước đây, nhưng mọi nỗ lực đều vô ích - tôi không thể cử động được. Tuy nhiên, Max có vẻ không gặp khó khăn như thế. Không do dự, anh chạy về phía ngôi nhà, xô vai vào cánh cửa, những mảnh gỗ vụn làm anh bị thương. Tôi thấy anh quỳ xuống và bò vào bên trong trước khi khói che khuất tầm nhìn của tôi và Max biến mất.
Finn lại hét lên lần nữa, tôi nhìn lên và thấy một phần của mái nhà đã rơi xuống. Nước mắt chảy đầm đìa trên mặt tôi, và tôi nhận ra mình đang cầu nguyện, liên tục gọi tên con bé và Max hết lần này đến lần khác. Mùi khét của đường cháy, sức nóng ngọn lửa ở khắp mọi nơi, tôi chợt nghĩ nếu địa ngục có tồn tại, nó hẳn sẽ chỉ thế này mà thôi.
Rồi tôi trông thấy một hình bóng chuyển động thoáng qua ở một trong những ô cửa sổ tầng trên, khác hẳn với khói và ngọn lửa. Tôi căng mắt, đúng là người phụ nữ đó, mái tóc vàng búi trên đỉnh đầu, khuôn mặt của bà đầy những vệt muội đen, dáng người in bóng trên khung cửa sổ. Tôi không gặp khó khăn để nhận ra người phụ nữ đó. Đã mười bốn năm trôi qua, nhưng tôi vẫn sẽ nhận ra người đó, dù ở bất cứ đâu.
Người phụ nữ bên cửa sổ là mẹ tôi.
Max
Khi người đàn ông trên ngựa hỏi tôi là ai, trong tích tắc, tôi đã cân nhắc đến việc nói dối. Nhưng khi người đó xuống ngựa, nhìn tôi với ánh mắt tò mò, và tất cả các nô lệ tạm dừng công việc của họ, vẫn cầm dao pha và cuốc trong tay, thì tôi chẳng thể nghĩ được cái quái gì trong đầu hết.
Thay vào đó, tôi đứng ngay ngắn và chỉnh lại trang phục, phủi bụi bẩn trên quần áo. “Tôi là Maxwell Adair.” Tôi nói, nghiêng đầu theo cách quý phái nhất mà tôi có thể làm được. “Và ông là?”
“Simon Alleyne.” Người đàn ông nói, nghiêng người chào vẻ cứng nhắc. Anh ta nói giọng của một người gốc Anh, với một chút luyến láy mà tôi khó lòng nhận biết được. “Với tư cách người giám sát khu đất này. Xin thứ lỗi nhưng tôi cần phải hỏi, điều gì đã đưa ông đến đây? Đây không phải là nơi dành cho một quý ông.”
“Tôi bị lạc.” Tôi nói, khoát tay ra hiệu quanh cánh đồng mía rộng lớn.
“Bị lạc.” Người đàn ông nhắc lại, đôi mắt anh ta quét khắp người tôi một lượt. Tôi đang mặc quần ka ki, áo phông màu xanh hải quân, và đi giày lười - bộ trang phục có vẻ là bình thường khi đang chờ Isabel trong rừng, nhưng không phải ở đây, hoặc bất kỳ đầu tại thời điểm này. Người đàn ông nhảy xuống khỏi yên ngựa và bước về phía tôi qua những cây mía đã được chặt xuống, cây roi da vẫn cầm trên tay. “Adair hử?” Anh ta hỏi và nhìn kỹ mặt tôi. “Vậy chắc là anh có họ hàng với ông chủ đúng không?”
Khi tôi không nói gì, anh ta nói rõ ràng hơn: “Robert Adair, chủ sở hữu của mảnh đất này. Sweetwater. Anh có quan hệ gì với ông ấy không?”
Dù đã cố giữ vẻ mặt bình thản, nhưng miệng tôi vẫn há ra trước tin này. Sweetwater là tên đồn điền ở Barbados của tổ tiên tôi, được gia đình Adair gây dựng cho đến khi một cuộc nổi dậy của nô lệ đã bao phủ phân nửa hòn đảo trong biển lửa và thiêu rụi nó. Lực lượng dân quân và đồn trú Anh đã dập tắt cuộc nổi dậy trong ba hay bốn ngày, nhưng Robert Adair, phần lớn tài sản của ông bị phá hủy và người vợ thì chết trong khi sinh, đã chẳng còn hứng thú gì với cuộc sống ở vùng Caribe, cũng như việc sở hữu nô lệ nữa. Theo ghi nhớ của tôi thì đồn điền đã được bán cho một gia đình sở hữu phần lớn hòn đảo khi đó là nhà Wiltshire. “Đúng vậy.” Tôi trấn tĩnh lại. “Tôi là người họ hàng của ông ấy đến từ Mỹ. Nam Carolina.”
Anh ta nở nụ cười. “Người Mỹ.” Anh ta trầm ngâm. “Tôi đoán điều đó giải thích cho cách ăn mặc của ông. Vâng, thưa ông, nếu ý định của ông là đến thăm ông Adair, ông đã đến đúng chỗ rồi đấy. Ngôi nhà tuyệt vời đó ở ngay kia.”Anh ta đưa tay chỉ qua đống mía, hướng về con đường mà anh ta đã đến. “Tuy vậy, tôi rất tiếc phải thông báo cho ông rằng ông Adair hiện không có mặt ở đây. Thực ra, ông Adair đã một mình đến Nam Carolina rồi. Tuy nhiên, vợ của ông ấy vẫn ở nhà và tôi chắc chắn bà ấy sẽ vui lòng chào đón ông - và tìm cho ông bộ quần áo phù hợp hơn. Tôi sẽ rất vinh hạnh được đích thân hộ tống ông, nhưng tôi còn phải trông chừng lũ da đen này. Hẳn ông đã biết bọn chúng thế nào rồi đấy - chỉ cần sơ sểnh một chút thôi là chúng sẽ trở nên lười biếng tệ hại cho xem.”
Simon Alleyne nhìn tôi như để chờ sự xác nhận, nhưng tôi còn đang há hốc miệng mà nhìn anh ta và nhóm người da đen khốn khổ đúng bên cạnh. Một ý nghĩ lướt nhanh qua đầu tôi, rằng tất cả điều này liệu có đang xảy ra thật hay không, liệu đây có phải là hiện thực? Có phải thực sự tôi đã đi theo một bóng ma vào rừng và thức dậy giữa đồn điền mía của Robert Adair? Nếu vậy, người đàn ông với tấm lưng đầy sẹo, người nữ ca, những người khác đang đứng ở đây trong bộ quần áo màu trắng, đội mũ rơm và khăn trùm đầu này - đều là những nô lệ. Những nô lệ thuộc sở hữu của tổ tiên tôi. Dạ dày tôi lại quặn thắt, và tôi cảm thấy mình trở nên nhợt nhạt bên dưới làn da rám nắng.
“Lại đây, mày đấy, Richard!” Alleyne ngoắc ngón tay, và một trong số những người đàn ông bước tới.
“Vâng, thưa ông?” Người đàn ông nói, mắt cụp xuống. “Đưa ông Adair về nhà và đảm bảo có ai đó đón tiếp ông ấy đúng quy cách. Ông ấy không quen với cái nóng ở đây đâu. Sau đó nhớ phải quay lại đây ngay, nếu không mày sẽ phải trả một cái giá khá đắt đấy.” Anh ta quật mạnh cây roi vào đùi người đàn ông để cảnh cáo.
“Vâng, thưa ông.” Người nô lệ đáp, rồi quay sang tôi. “Lối này, thưa ông chủ Adair.” Anh ta đi theo con đường mà những hàng mía đã được dọn sạch, và tôi theo sau, vì dù sao cũng chẳng có lựa chọn nào tốt hơn. Tôi muốn bảo anh ta đừng gọi tôi là “Ông chủ Adair”, nhưng tôi lại không thể thốt nên lời.
Chúng tôi tiến vào một khoảng sân rộng, bao quanh bởi những tiếng ồn ào huyên náo. Năm hay sáu đứa trẻ với làn da sẫm màu đang nhanh chân chạy tới, ôm theo một đống cỏ khô cho gia súc để tít phía cuối sân gần một nhà kho. Khi đám trẻ con đến gần hơn, những con bò có vẻ không thể chờ đợi thêm nữa để được cho ăn, chúng luồn những cái đầu to qua thanh gỗ hàng rào. Một phụ nữ lớn tuổi với mái tóc được bện chặt và buộc lại bởi tấm vải màu đỏ tươi, mở cánh cổng cho lũ trẻ chạy vào, vứt cỏ khô quanh bãi nhốt gia súc, và cũng nhanh chóng như lúc trước, đám trẻ chạy ra và cánh cổng đóng lại. Tôi quan sát lũ trẻ nhặt những cái xô đang nằm chỏng chơ bên ngoài bãi nhốt gia súc và khó nhọc dọn dẹp, một người phụ nữ trông coi chúng. Tôi nghe một trong số những đứa trẻ cất tiếng nói. “Hát cho bọn cháu nghe bài hát về con nhện và con gấu đi, bà Bec.”
Tôi không nghe thấy câu trả lời của bà ấy khí họ biến mất khỏi tầm mắt. Dõi theo sau họ, tôi có thể nhìn thấy đỉnh của một chiếc cối xay gió bằng đá khổng lồ, và gần đó là ngôi nhà có mái lợp tôn với một ống khói. Bên trái tôi là vài mẫu đất trải dài đã được phát quang, xung quanh là những túp lều bằng gỗ nhỏ và tuềnh toàng, với khu vườn có rào chắn nuôi thả gà, dê và lợn. Tôi hít sâu một hơi đầy mùi phân bón, trộn lẫn mùi của những thứ chắc hẳn là đường và hoa thơm.
“Đó là cái gì?” Cuối cùng tôi hỏi, chỉ vào những túp lều. Nếu Richard có ngạc nhiên bởi câu hỏi của tôi, anh ta cũng không để lộ ra. “Khu ở của nô lệ, thưa ông.” Anh ta trả lời, và nói thêm với chút rụt rè. “Vậy cuộc sống ở Mỹ rất khác phải không thưa ông?”
Khu ở của nô lệ. Tôi đưa tay lên lau mồ hôi trên trán, nhìn chằm chằm vẻ hoài nghi. “Không.” Tôi nói. “Tôi đoán là không.” “Đằng kia.” Richard nói với một chút kiêu hãnh, chỉ về phía bên phải tôi. “Đó là nhà chính, nơi ông chủ Adair sống cùng vợ ông ấy.” Tôi quay lại, nhìn thấy một dinh thự bằng đá trắng hiện ra lừng lững trên khu đất, bao quanh bởi hàng rào cây chanh.
Tôi đã từng xem những bức tranh vẽ ngôi nhà chính của Sweetwater trước đây, nhưng tôi không nghĩ mình có thể tận mắt thấy nó như thế này, sự sang trọng của nó đối lập với sự tồi tàn của những ngôi nhà dành cho nô lệ. Nó khiến bụng dạ tôi nhộn nhạo. Tôi im lặng đi cùng Richard khi anh ta đưa tôi đến cửa như đã hứa. Anh ta đợi cho đến lúc một người giúp việc mở cửa khi nghe thấy tiếng gõ cửa của tôi, sau đó nhanh chóng trở lại cánh đồng.
Người giúp việc là một cô gái trẻ có làn da sáng màu với xương gò má cao, tóc được buộc lại bằng một chiếc khăn màu xanh. Có điều gì đó quen thuộc ở cô gái, nhưng tôi không đoán định được là gì. Cô gái nhìn tôi với chút hoài nghi, nhưng vẫn lên tiếng. “Chào mừng đến Sweetwater, thưa ông.” Và cô mở rộng cửa để tôi bước vào. Bên trong, ngôi nhà mát mẻ - chà, dù sao cũng mát mẻ hơn - và tối, ít nhất là so với ánh sáng chói lóa của mặt trời. Ngôi nhà có mùi gỗ sơn và hương chanh thoang thoảng.
“Chắc hẳn ông đang khát lắm?” Cô gái nói. Giọng cô cao và thanh, nhưng trọng âm lại không rõ ràng lắm. “Mời ông vào phòng khách ngồi. Tôi có thể phục vụ gì cho ông không ạ? Có lẽ là một ly rượu punch ngon, tươi mát vừa được làm sáng nay. Không gì sảng khoái hơn một ly rượu punch mát lành vào những ngày nắng nóng thế này.”
Cô gái nhìn tôi như thể tôi là người ngoài hành tinh, tôi lúng túng nghĩ xem nên cư xử sao cho phải phép. “Thế thì tuyệt quá, cảm ơn
cô. Tôi xin lỗi, chúng ta chưa được giới thiệu.” Tôi nói. “Tôi là Max Adair.”
Cô gái này không có vẻ quá thận trọng như Richard hay người đàn ông với tấm lưng đầy sẹo. Cô mỉm cười lại và nhún gối, nâng váy chào với vẻ mỉa mai rành rành. “Tôi là Hannah, thưa ông.” Cô trả lời, dẫn đường cho tôi về phía phòng khách, để tôi lại ngồi trên chiếc ghế trường kỷ bọc lụa và rời đi để lấy cho tôi một ly rượu punch.
Tôi nhìn quanh căn phòng, cố gắng thích ứng với môi trường xung quanh mình. Căn phòng đầy đồ đạc, bao gồm những chiếc ghế trông không được thoải mái cho lắm khiến tôi nhớ đến những chiếc ghế trong phòng khách của mẹ. Trong một góc kê một kệ sách có ngọn trúc đài trang trí nhiều họa tiết hoa văn công phu, cắm đầy những cây nến trắng và cao. Các bức tường được bao phủ những tấm bản đồ vẽ các hòn đảo, cùng một bức tranh vẽ khung cảnh bên cảng tấp nập, với những con thuyền được lái bởi những người đàn ông có râu, đeo một miếng bịt mắt, một con khỉ trông sống động y như thật đang ngồi trên một bên vai họ.
Thứ gì đó bị lật úp nằm lẻ loi, lệch lạc hẳn so với tổng thể, lấp ló bên dưới một cái gối trên chiếc trường kỷ bên cạnh tôi: một tờ báo. Hít thật sâu một hơi, tôi lật nó lên. Barbados Mercury,dòng tiêu đề trên cùng được in đậm màu đen, và bên dưới là: And Bridgetown [3]
Gazette
.
Tôi nhắm mắt vào, rồi lại mở ra. Và đọc thêm một dòng, ngay bên dưới tiêu đề.
Thứ Bảy, ngày 30 tháng 3 năm 1816.
Isabel
Tôi tỉnh dậy từ giấc mơ, tim đập thình thịch, mồ hôi đầm đìa. Mắt tôi hé mở, cứ ngỡ mình còn đứng trên đường, cổ họng bỏng rát vì sức nóng của ngọn lửa và tro bay lả tả như tuyết rơi, mẹ tôi ở bên cửa sổ và một người nổi loạn chết dưới chân tôi. Nhưng không, tôi đang ở trong căn phòng ngủ thuê bé nhỏ của mình, hít thở bầu không khí ngột ngạt của chiếc máy lạnh, những tấm rèm cửa khẽ bay trong gió. Tôi quay đầu lại và thấy chai rượu rum vẫn đang nằm trên chiếc bàn cạnh giường ngủ, bên cạnh điện thoại của tôi. Trong một giây, tôi cân nhắc gọi cho Ryan chỉ để được nghe giọng nói của ai đó khác, nhưng trời bên ngoài vẫn tối đen, chắc hẳn là cậu ấy đã chìm sâu vào giấc ngủ - mà không chắc là cậu ấy ngủ một mình. Tôi nghĩ cậu ấy không cần tự làm phiền mình với những thứ chắc chắn là bằng chứng làm rõ thêm việc tôi đã phát điên.
Đẩy người ngồi dậy, tôi dụi mắt, sau đó nhăn mặt. Chúng sưng vù và đau như thiêu đốt. Tôi chỉ có thể tưởng tượng lúc này trông tôi ra sao, và gửi một lời cầu nguyện ngắn thể hiện lòng biết ơn đến bất cứ ai phát minh ra kem che khuyết điểm.
Tôi vung chân qua mép giường, sau đó bước ra ban công nhỏ, nhìn ra khoảng không tối thẫm xa xăm ngoài khơi. Mặt trời mới bắt đầu ló dạng, lấp ló phía cuối đường chân trời, tôi ngắm nhìn bình minh lên và nghĩ bất luận cuộc gọi của Max báo hiệu điều gì, dù cho ma quỷ có bám theo tôi trong đêm, thì đây cũng là điều để mà bám víu vào. Cũng giống như những gì tôi đã làm trong những tháng ngày sau khi mẹ tôi biến mất, sau khi tôi thấy hai vạch trên que thử thai, sau khi Max biến mất không một dấu vết, tôi sẽ sống tiếp. Đó là những gì tôi biết cách làm, và hôm nay không phải là ngoại lệ.
Đang là cuối tuần, vì vậy ít nhất tôi không phải gọi mọi người dậy và kéo cả nhóm ra khu khảo cổ. Thay vào đó, tôi mặc quần soóc và
áo ba lỗ, tóm lấy đôi giày chạy. Tôi không lo lắm việc đánh thức những người cùng nhà - tôi biết họ đang ở trong nhà là nhờ những mẩu đất bẩn rải rác quanh khu vực chung mà họ mang về nhà, và tôi phải tin tưởng Jake và Maura sẽ đảm nhiệm tốt trách nhiệm của một trưởng nhóm khi tôi vắng mặt, mặc dù suy nghĩ đó có đôi chút khiến tôi lo lắng.
Thế là tôi bước ra khỏi cửa và băng qua bãi biển, theo đúng như kế hoạch. Bao biện rằng giác mơ chỉ là tiềm thức của tôi, kết hợp với Max, mẹ và Barbados vào cùng một kịch bản ác mộng. Không quá khó để tôi phân tích cốt truyện - nỗi sợ mất Finn, bị mắc kẹt và không thể giúp con bé, kết hợp với sự mất tích trước đây của mẹ tôi và nỗi lo lắng mới của tôi về Max. Dù vậy, về điều cuối cùng, tôi nghĩ mình có thể làm được gì đó. Tôi sẽ gọi cho nhà mạng Verizon[4] ngay khi họ mở cửa, tôi tự nhủ trong khi nắm lấy mắt cá chân trái để kéo căng gân khoeo, rồi chuyển sang chân phải. Họ có thể xác nhận tôi đã nhận được cuộc gọi từ số của Max và ít nhất đó sẽ là điểm khởi đầu. Họ thậm chí còn có thể truy tìm tháp phát sóng, và cho tôi biết cuộc gọi đến từ đâu.
Nó cũng chẳng nhiều nhặn gì, nhưng đó là một sự khởi đầu - nhiều hơn những gì tôi dám hy vọng. Khi tôi bắt đầu tăng tốc độ, chân chạy trên cát và ánh nắng màu cam tràn ngập bầu trời, lần đầu tiên trong gần tám năm, tôi cho phép bản thân tin mình có thể tìm thấy anh.
Max
Tờ báo rơi khỏi tay tôi xuống sàn nhà bên cạnh chiếc ghế, và tầm nhìn của tôi mờ đi. Tôi biết có điều gì đó đang sai khủng khiếp, nhưng chuyện này - không thể nào. Những thứ thế này không xảy ra với người bình thường. Không phải những người có một công việc và một cô bạn gái cùng đứa con đang thành hình.
Ngươi mong đợi gì chứ? Giọng nói mỉa mai trong đầu tôi vang lên. Ngươi đã đi theo một bóng ma vào rừng và nghĩ ngươi sẽ kết thúc... ở đâu? Công viên Disneyland à?
“Im mồm.” Tôi lẩm bẩm, nghiêng người tựa khuỷu tay lên đầu gối. Tôi gục đầu, để máu dồn trở lại não, và chớp mắt cho đến khi tầm nhìn trở nên rõ ràng.
Khi đó, tôi mới thấy Hannah đã trở lại và đang đứng ngay trước mặt tôi, cầm theo một cái khay trong tay. “Ông ổn cả chứ, thưa ông?” Cô lên tiếng. “Ông đang trắng bệch như một tờ giấy vậy, nếu ông không phiền khi tôi nói thế.”
Cố gắng lắm tôi mới xoay xở để ngồi thẳng dậy được và mỉm cười với cô gái. “Tôi không sao đâu, Hannah, cảm ơn cô. Chỉ hơi chóng mặt thôi.”
Cô ta nhìn tôi dò xét. “Cũng phải, ngoài kia nắng quá mà lại không có gì để uống. Cô Lily không được khỏe, nhưng cô ấy mời ông ở lại ăn tối, và ở lại qua đêm nếu như ông không định đi đâu khác.”
Tim tôi nảy lên khi nghe nhắc đến tên Lily, và cố không để nó lộ ra ngoài mặt. “Bà Lily Adair? Là vợ đầu... ý tôi là vợ của Robert? Bà ấy đang ở đây ư?”
Lông mày Hannah nhướng lên vẻ khó hiểu, và tôi nguyền rủa bản thân vì sự bất cẩn của mình. “Vâng, thưa ông.” Cô ta nói, đưa
tôi ly rượu punch. “Cô ấy còn ở đâu khác được chứ?” “Quả là vậy.” Tôi lẩm bẩm, chà tay lên mặt để trấn tĩnh lại. Khi tôi ngẩng đầu lên thì lông mày Hannah gần như đang chạm đến tận chân tóc của cô.
“Ông biết ông chủ Robert sao?” Cô nói, đặt cái khay xuống cuối bàn và đưa tôi chiếc dĩa có chiếc bánh quy nhỏ.
Tôi nhấp một ngụm rượu lớn để lấy can đảm. Rượu trôi tuột xuống bụng và lan khắp mạch máu, mang đến sự thoải mái và ấm áp. “Không hẳn, tôi chưa bao giờ trực tiếp gặp ông ấy. Ông ấy... chúng tôi là họ hàng xa thôi. Anh em họ. Tôi hy vọng sẽ tìm thấy ông ấy ở đây.” Tôi uống cạn ly rượu và cắn một miếng bánh to, hy vọng một miệng đầy đồ ăn và đồ uống sẽ ngăn tôi nói bất cứ điều gì khiếm nhã.
Hannah đưa tay ra cầm lấy cái ly rỗng trong tay tôi. “Anh em họ.” Cô gái nói, thận trọng gật đầu. “Thảo nào. Ông trông rất giống ông ấy, đặc biệt là đôi mắt.”
Tôi đã nghĩ đến khả năng này, nhưng thật nhẹ nhõm khi nghe Hannah nói ra - ít nhát thì nó cũng là bằng chứng xác minh cho câu chuyện của tôi. Nhưng khi quan sát Hannah, tôi chợt nhận ra có điều gì đó quen thuộc ở cô gái. Tôi suýt chút nữa thì đánh rơi cái đĩa.
Tôi không phải người duy nhất trong căn phòng này trông giống Robert Adair.
Tôi biết những người quản lý đồn điền đã lợi dụng các nô lệ làm việc cho họ, và trừ khi tôi đang nhầm lẫn nghiêm trọng, Hannah chính là bằng chứng sống cho điều đó. Đôi mắt cô gái màu nâu, không phải màu xám như của tôi, nhưng khuôn mắt thì giống. Cô có cái mũi dài và gò má cao mà tôi được thừa hưởng từ cha mình. Tuy nhiên, cô ít nhất cũng phải mười bảy tuổi - quá lớn để làm con của Robert Adair, mới chỉ ở độ tuổi hai mấy khi Lily chết và ông ta mất tất cả.
Tôi đào bới tâm trí, cố nhớ lại những gì mình biết về gia đình trước năm 1816. Không có gì nhiều: Họ định cư ở Barbados một thời gian vào thế kỷ mười bảy, thế có nghĩa là nhiều thế hệ nhà Adair đã
ở trên mảnh đất này hoặc một đồn điền giống nó. Nhưng bởi Robert đang sở hữu Sweetwater - thế hẳn có nghĩa là cha ông ta đã chết. Cha ông ta - và cũng có thể là cha của Hannah. Ngôi nhà này đúng ra phải thuộc về cả hai người bọn họ.
Cô gái khéo léo đổ đầy ly rượu cho tôi. Tôi nhìn chằm chằm tay cô, những ngón tay dài, khéo léo nhắc tôi nhớ về đôi tay của chính mình, và cảm thấy mặt mình tái nhợt đi. “Ông có chắc mình ổn cả không, thưa ông?” Cô gái nói. “Ông có cần nằm xuống không? Chúng tôi có thể chuẩn bị một phòng cho ông nhanh thôi.”
Tôi lắc đầu. “Tôi không sao. Chỉ là... hôm nay là ngày 30 tháng 3 đúng không?”
Cô gái liếc nhìn xuống tờ báo, sau đó khom người và nhặt nó lên từ sàn nhà. Tôi thấy đôi mắt cô lướt nhanh đến phần ngày tháng để xác nhận, và cảm thấy một sự ấm áp lan tỏa - vậy là cô gái có thể đọc. “Vâng, thưa ông.” Cô nói, gấp gọn tờ báo và đặt nó phía cuối bàn. “Thứ Bảy.”
“Cuối tuần.” Tôi nói trước khi có thể ngăn mình lại. “Và họ vẫn đang làm việc sao?” Tôi ra hiệu ra bên ngoài, về phía những cánh đồng.
Hannah nhìn tôi với ánh mắt tò mò, sắc sảo. “Những nô lệ làm việc trên đồng, họ được nghỉ vào các ngày thứ Bảy khác, và Chủ nhật. Nhưng sát đến vụ thu hoạch là thời gian bận rộn.”
Tôi lặng lẽ gật đầu, không muốn nói thêm nữa, và ăn nốt bánh. Nó ngọt vừa phải, nhưng nó lắng lại trong dạ dày tôi như một tảng đá. “Nhân tiện.” Tôi nói trước khi đánh mất dũng khí. “Cô có biết một người phụ nữ tên Julia Griffin không? Tóc vàng, mắt nâu, không cao lắm?”
Cô gái nghiêng đầu sang bên, suy nghĩ. “Chắc có đấy ạ.” Cô nói sau một lúc. “Có một bác tên Julia, thỉnh thoảng được gọi là bà Julia - có vẻ đúng là bác ấy. Bác ấy có mái tóc vàng. Không chắc lắm - tôi chỉ hay gọi bác ấy là bà Julia thôi.”
“Cảm ơn cô.” Tôi nói, cố che giấu niềm hy vọng đang dâng trào trong mình. Nếu bác Julia thật sự đang ở đây - vậy thì có lẽ tôi có thể tìm ra cách giúp cả hai chúng tôi trở về nhà. Tôi mệt mỏi vuốt
tay qua tóc. “Tôi thật sự đánh giá cao mọi thứ, Hannah ạ - đồ ăn, đồ uống, lòng hiếu khách của bà Adair. Vui lòng chuyển lời của tôi đến bà ấy nhé.”
“Không có gì, thưa ông.” Cô gái nói, và lại đổ đầy rượu vào ly cho tôi. Với tốc độ này, tôi sẽ say trong vòng năm phút tới. Tôi nghe thấy tiếng phụ nữ đang cao giọng ra lệnh phía hành lang - và một giọng nói phục tùng khác. Đầu Hannah nghiêng đi, lắng nghe, và cô gái quay đi. “Còn một chuyện nữa.” Tôi nói trước khi cô đi mất. “Ngày lễ Phục sinh[5] năm nay rơi vào ngày nào?” Ít nhất nó cũng không phải một câu hỏi vô nghĩa. Nếu tôi nhớ không nhầm, cuộc nổi loạn của nô lệ làm rung chuyển hòn đảo sẽ diễn ra vào Chủ nhật ngày lễ Phục sinh năm nay. Tôi giữ vẻ mặt thản nhiên, hy vọng nếu Hannah có nghe được tin đồn nào thì cô cũng không liên kết nó với sự xuất hiện của Max Adair đến từ Nam Carolina. Nhấm nháp ly rượu punch trên chiếc trường kỷ không mấy thoải mái, mặc bộ đồ lạc lõng so với bối cảnh, tôi chờ câu trả lời của cô gái.
“Tôi nghĩ là ngày Mười bốn.” Hannah nói sau một lúc. Vẻ mặt cô không biểu lộ cảm xúc. Tôi không thể biết liệu ngày đó có ý nghĩa gì với cô không. “Ông theo đạo sao, ông Max?”
“Không.” Tôi nói với cô gái, nở nụ cười niềm nở nhất của mình - nụ cười vẫn thường có khả năng ngăn chặn một cuộc cãi vã với Isabel. “Không có gì đâu, chỉ tò mò thôi. Tôi nghe nói lễ Phục sinh là một ngày lễ lớn ở đây - tôi đang rất mong đợi nó.”
Cô gái có vẻ chấp nhận câu trả lời này, và để tôi lại với những suy tư riêng. Ngày Mười bốn tháng Tư. Tôi nhấm nháp ly rượu punch của mình, tính toán nhanh. Còn mười lăm ngày nữa là đến cuộc nổi loạn. Mười lăm ngày trước khi cả địa ngục vỡ tung. Trước khi hòn đảo chìm trong biển lửa, mang cả Sweetwater theo nó, khiến Lily Adair lâm bồn sớm - và dẫn đến cái chết của bà ấy. Mười lăm ngày trước khi mọi chuyện vượt quá tầm kiểm soát.
Vậy thì tôi phải rời khỏi đây trước lúc đó.
Isabel
Mặc cho những dự trù tốt nhất của tôi, cuối tuần vẫn trôi qua không mấy êm đẹp. Là vì gần hết cả đội đã dành cả ngày thứ Bảy để nôn thốc nôn tháo sau bữa say túy lúy, lết từ phòng này sang [6]
phòng khác như trong phim Vùng đất thây ma
. Khi tôi truy vấn
Jake về chuyện này cậu ấy trông có vẻ xấu hổ và hỏi xem tôi còn viên thuốc đau đầu nào không. Tệ hơn, cứ theo cách cậu ấy và Maura đang tránh mặt nhau, tôi khá chắc là có chuyện gì đó đã xảy ra giữa hai người - và trông họ cũng chẳng vui vẻ gì với chuyện đó. Thật tệ khi hai trong số các sinh viên cuối khóa trong đội xích mích với nhau. Nếu chuyện này tiếp diễn, những ngày sống chung còn lại chắc sẽ không mấy dễ chịu với tất cả mọi người.
Trên hết, khi tôi gọi cho Verizon, họ thông báo rằng trong lịch sử cuộc gọi không có bất kỳ số nào gọi đến điện thoại của tôi vào ngày thứ Ba. Không một cuộc nào. Cuộc gọi của tôi cho cha tôi, có, và bốn mươi lăm phút cuồng loạn tôi dành để trò chuyện với Ryan (giờ thì tôi đang nghiến răng thầm kêu trời vì tiền phí cuộc gọi kể cả khi tôi đã lên kế hoạch đăng ký gói cước quốc tê). Không có cuộc gọi nào từ Max.
Da gà nổi khắp cơ thể tôi, như thể một cơn gió lạnh vừa lướt qua. Tôi yêu cầu người trực tổng đài của Verizon kiểm tra lần nữa, rồi lại thêm lần nữa. Cuối cùng, tôi phải thừa nhận thất bại - không phải một trong những điểm mạnh của tôi - và cúp máy, chủ yếu là vì cô ta bắt đầu trở nên cực kỳ khó chịu với cuộc đối thoại của chúng tôi. Không, cô ta đảm bảo với tôi, không thể là lỗi máy tính được ạ. Chắc chắn thế. Nếu có ai đó gọi cho chị, tôi đã thấy ở đây rồi.
Hoàn toàn hoang mang, tôi dồn Jake vào thế bí lần nữa. Cậu ấy đang nằm trên giường với một chiếc khăn lạnh đặt trên mắt. Nghe
tiếng tôi bước vào, cậu ấy bỏ khăn ra, nhăn mặt và tì khuỷu tay để nâng người lên, chắc chắn về việc bị mắng nhiếc thêm. “Em đã nói là em xin lỗi vì đã để họ quá chén rồi mà.” Cậu ấy lên tiếng trước khi tôi có thể nói được lời nào. “Chuyện đó sẽ không xảy ra nữa đâu.”
“Tất nhiên là không.” Tôi nói, khoanh tay trước ngực. “Bởi vì đây là tuần cuối cùng của chúng ta ở đây. Tôi không biết sao tôi lại phải bận tâm kia chứ.”
Jake nằm vật xuống, rên rỉ. “Tiến sĩ Griffin, cô vào đây chỉ để hét vào mặt em thôi sao? Bởi vì em nghĩ cô đã làm khá tốt trước đó rồi, nêu cô không bận tâm em nói như thế, và đầu em thì đang đau như búa bổ đây.”
Tôi bước thêm bước nữa tới gần giường, chặn lại ánh mặt trời đang chiếu qua bức rèm được vén lên. “Nếu tôi sắp hét vào mặt cậu thì cậu sẽ biết ngay thôi, Jake ạ. Tôi không vào đây để la mắng gì cậu đâu.”
“Thế cô muốn gì?” Cậu ấy nói, he hé một bên mắt liếc nhìn tôi. “Không có ý khiếm nhã đâu.”
Tôi dừng lại trước khi trả lời, cố gắng điều chỉnh giọng nói về lại sự tự tin vốn có. “Ở buổi khai quật hôm qua - trước khi tôi lái xe đi - cậu đã trông thấy tôi trả lời điện thoại đúng không?”
Mắt cậu ấy mở lớn, bối rối và đỏ ngầu. “Tất nhiên em đã thấy cô trả lời điện thoại. Điện thoại reo và cô cúi xuống rồi nhìn em vẻ khó chịu khi em cười to. Cô xem số người gọi, bắt đầu khóc, và lao đi như một con dơi rời khỏi địa ngục. Ôi!” Cậu ấy kêu lên, xoa xoa thái dương, cố lắp ghép lại các từ ngữ hẳn đã tốn quá nhiều sức lực của cậu ấy.
Mặc dù tôi không biết mình liệu có đang quá xúc động với lời miêu tả của cậu ấy về cách cư xử của tôi không, nhưng nó có phần đúng - và hơn thế nữa, nó khẳng định lại niềm tin về sự tỉnh táo của tôi, mặc xác cái nhà mạng Verizon. Tôi nhẹ nhõm hẳn, tôi có thể hôn Jake mất thôi, nhưng đó khó có thể là hành vi thích hợp cho được. Thay vào đó, tôi nói, lại cảm thấy được là chính mình lần nữa. “Tốt. Đó chính là điều tôi muốn biết.”
Cậu ấy xoa đầu, mắt nhắm nghiền. “Em đoán cô sẽ không nói cho em nghe tại sao cô lại hỏi thế đúng không?”
“Cậu đoán đúng rồi đấy.” Tôi nói, để ý đến cậu ấy với chút thương xót hơn năm phút trước. “Chỉ một chuyện nữa thôi. Về Maura...”
Lúc này, cậu ấy bắt đầu lăn người, kéo gối qua đầu. “Đừng có nhắc đến nữa. Em không biết tại sao mà chuyện gì cô cũng biết. Cô cứ như một tiến sĩ phù thủy ấy, hay thứ gì kiểu vậy.”
Câu nói này khiến tôi mỉm cười. Tôi giật cái gối ra, ráng hết sức tỏ ra nghiêm khắc. “Khó đây, Jake. Bất cứ ai cũng có thể thấy chuyện đang diễn ra giữa hai đứa. Tôi không cần biết chuyện gì đang xảy ra. Vì Chúa, đừng có nói với tôi!” Tôi nói, khi cậu ấy mở miệng. “Hãy giải quyết nó đi, được chứ?”
Đôi mắt đỏ ngầu của cậu ấy bắt gặp mắt tôi, và sự trống rỗng trong biểu cảm của cậu ấy khiến tôi nhớ ra cậu ấy vẫn còn trẻ đến nhường nào. “Thế em phải giải quyết thế nào bây giờ?” Cậu ấy hỏi.
Với một tiếng thở dài, tôi nghiêng người, xoay cái gối sang mặt bên kia cho mát, như tôi đã giúp Finn khi con bé bị sốt. “Nói chuyện với cô bé. Xin lỗi, nếu đó là điều cậu cần làm. Nhưng vì Chúa, đừng có giả vờ là nó chưa từng xảy ra. Với Maura thì cũng vậy thôi.”
Jake xoay đầu để má áp vào gốì. “Thế sao cô không đi nói chuyện phải trái với cô ta đi? Sao em lại thành cái người may mắn ấy thế?”
“Bởi vì...” Tôi nói, quay đầu tiến về phía cửa. “Cậu là người chịu trách nhiệm cho hành vi của mọi người. Do đó, cậu phải đi rao giảng thôi.”
Cậu ấy lại rên rỉ. “Rồi rồi, em sẽ nói chuyện với cô ta. Giờ thì nếu cô không phiền, Tiến sĩ Griffin, em có thể ngủ chút được không?” “Chắc chắn rồi.” Tôi nói, để cậu ấy yên, đóng cửa lại phía sau hơi mạnh hơn cần thiết. Từ bên trong phòng ngủ tối, tôi có thể nghe thấy tiếng Jake chửi thề khi tôi rời đi.
Tâm trạng tốt của tôi kéo dài thêm được một lúc - đủ lâu cho tôi gọi về nhà và cha tôi xác nhận với tôi là Finn vẫn ổn, và để Jake rời khỏi phòng cậu ấy và bắt chuyện với Maura, cô bé đang vùi mình
trong một cái ghế tựa quá khổ trong khu vực chung và đọc cuốn Cô gái mất tích với vẻ chú tâm tuyệt đối. Tôi nhẹ nhõm hẳn khi thấy dù cậu ấy đã nói gì đi nữa thì cũng đủ khiến cô bé đứng dậy và theo cậu ấy ra ngoài. Cậu ấy liếc nhìn tôi khi họ đi ngang qua, như một người đàn ông đang bước đến buổi hành quyết của anh ta, nhưng anh ta vẫn bước tiếp và với tôi vậy là đủ.
Đó là vào chiều muộn ngày Chủ nhật, trong khu thí nghiệm dã chiến, khi chúng tôi sắp xếp lại các phát hiện lấy được từ hôm thứ Sáu, rửa sạch và đóng gói lại để phân tích thêm sau này. Mai là ngày cuối chúng tôi ở đây, và mọi thứ phải được sắp xếp tốt nhất có thể trước khi chúng tôi trả nó lại cho đội đến từ Đại học Tây Ấn ở Đồi Cave, ngay bên ngoài Bridgetown.
Đây là khu khai quật chung, một sự hợp tác giữa Đại học Charleston và Đại học Tây Ấn, thế nên chúng tôi sẽ không niêm phong chỗ này lại khi rời đi. Họ sẽ đến cùng với đội của mình ngay sau chúng tôi và tiếp tục những gì chúng tôi đang làm dở dang. Theo nhiều cách, việc này khiến mọi thứ dễ dàng hơn - chúng tôi có thể mượn nhiều công cụ và xô của họ, thay vì tự lo liệu lích kích mang theo trong suốt những chặng bay quốc tế - nhưng là người dẫn đầu đoàn khảo cổ, tôi phải buông bỏ một số quyền lực nhất định, điều mà không mấy dễ dàng cho tôi.
Tuy nhiên, đây là quốc gia của họ và địa bàn của họ, họ đã tử tế cho phép chúng tôi có cơ hội tiếp cận. Tôi ráng hết sức ghi nhớ điều này khi xem qua những phát hiện mới nhất của chúng tôi bằng con mắt độc chiếm, tất cả đều được lấy lên từ đất nhà Lowther: một móc khóa kim loại, những cái khuy trông như rớt ra từ đồng phục của một người lính, những gì còn lại của một cái thùng tô nô rất có khả năng từng chứa rượu rum, một ống sáo có lẽ từng được một nô lệ chơi để giải tỏa sự nhàm chán và đau khổ của kiếp nô lệ.
Quét lớp bụi bẩn khỏi ống sáo bằng cây chổi, tôi thấy mình đang tự hỏi liệu một người đàn ông hay phụ nữ đã sở hữu nó. Tôi tưởng tượng ra họ đứng giữa vùng đất khai hoang trống trải được bao quanh bởi những khu nhà dành cho nô lệ, chơi một giai điệu buồn bã khi mặt trời đang dần khuất bóng. Giữ ống sáo trong bàn tay đeo găng, trong tôi trào lên khao khát, ước mong mình có thể quay
ngược thời gian để gặp gỡ người nhạc sĩ, để nhìn vào đôi mắt họ, và thừa nhận những việc sai trái đã làm với họ. Trước đây, tôi đã từng có cảm giác này, nhưng hiếm khi nào lại mạnh mẽ như vậy.
Khi tôi đứng đó, có một chuyện kỳ lạ xảy ra. Hình ảnh trở nên sắc nét, với chiếc ống sáo và người sở hữu nó hiện lên chính giữa hình ảnh. Là một người đàn ông cởi trần, lưng anh ta chằng chịt sẹo. Dù vậy, anh ta đứng cao hẳn ngay chính giữa nhóm vũ công, đung đưa theo tiếng nhạc, cơ thể anh ta được những tia nắng mặt trời đang khuất dần soi sáng. Ngay trước khi mặt trời khuất hẳn phía cuối đường chân trời, anh ta quay lại, ánh sáng cuối cùng chiếu lên mặt anh ta, và đó là khi tôi biết anh ta là ai: Người đàn ông trong giấc mơ của tôi, đang giơ cao thanh kiếm trên đầu, sự kiên quyết báo thù hằn trên từng đường nét và mồ hôi lấp lánh trên làn da đen bóng.
Tôi giật mình đến mức suýt nữa thì đánh rơi ống sáo. Thật không giống tôi khi lại để trí tưởng tượng bay xa đến vậy, ít khi nào tôi lẫn lộn giữa đời thực và mơ một cách liền mạch như thế. Nó khiến tôi thấy khó chịu, và đột nhiên tôi không muốn gì hơn là rời khỏi khu thực nghiệm, để những điều bình thường vây quanh, những sinh viên năm cuối đang cãi nhau ầm ĩ, những sinh viên năm đầu còn non nớt, tất cả.
Tôi đặt ống sáo trở lại túi nhựa với ít nhiều thiếu cẩn trọng, bịt kín khóa kéo và quay trở lại phòng sinh hoạt chung. Xung quanh tôi, toàn bộ cuộc sống vẫn diễn ra như thường lệ: các thành viên trong đoàn đang tranh luận tìm ra cách tốt nhất để làm món mỳ Ý và sau đó là những lời qua tiếng lại của Rob và Maura, cậu ta đã chọn đúng thời điểm bất tiện này để đổ thêm dầu vào lửa. Tuy nhiên, tôi không thể xóa bỏ được hình ảnh người đàn ông cầm kiếm, máu nhuộm đỏ ngực, đổ sụp xuống cây mía đang bốc cháy. Tôi thấy anh ta ngã xuống, thấy mẹ mình bên cửa sổ, nghe thấy tiếng Finn la hét. Và rồi, rõ ràng y như giọng nói của Jake, vượt lên khỏi tiếng lao xao trong bếp, tôi nghe tiếng Max gọi tôi, giọng anh chất chứa nỗi tuyệt vọng: Isabel. Giữ con bé an toàn.
Max
Tôi lang thang trên khu đất của Sweetwater đến tận lúc bữa tối. Khu điền sản đó lớn thật, quần cư phải đến hơn một trăm nô lệ. Tôi nghe họ hát trên những cánh đồng, những lưỡi dao pha của họ cắt qua thân mía.
Tôi đang đứng trong một lùm cây xoài gần khoảng đất trống trải thì một nhóm trẻ con xuất hiện từ những cánh đồng, oằn mình kéo những cây mía và xách theo những xô nước. Một trong số chúng là cô bé có làn da sẫm màu nhỏ hơn hẳn những đứa trẻ khác, bước qua một tảng đá và ngã, nước đổ lênh láng khỏi chiếc xô của cô bé tới vũng nước trong khoảng sân đầy đất bẩn. Cô bé ngơ ngác xoa đầu gối và nhìn quanh tìm cái xô. Nhưng trước khi cô bé có thể với lấy nó, một người đàn ông đã tiến đến từ chỗ những cây dương xỉ mọc trên rìa khoảng sân phía bên kia. Hắn có làn da sẫm màu hơn cô bé - làn da sáng bóng màu gỗ mun - và hắn mặc bộ đồ tươm tất hơn, nhưng chỉ tươm tất khi so với bộ đồ quá rách rưới cô bé đang mặc mà thôi.
Cô bé co rúm người lùi lại khỏi hắn, mở miệng như thể định thanh minh. Trước khi cô bé có thể thốt nên lời, cánh tay hắn đã vung ra và hắn đánh cô bé, nhanh như một con rắn, khiến cô bé ngã sõng soài. Tôi giật mình lùi lại vì sửng sốt, tay tôi siết chặt thành nắm đấm. Con người sống trong thế kỷ hai mươi mốt của tôi muốn gọi ngay cho chính quyền, nhưng phần còn lại trong tôi biết rằng chẳng có ai để gọi cả, không phải ở đây và chắc chắn không phải lúc này.
“Con ranh hậu đậu!” Người đàn ông nói, quắc mắt nhìn những đứa trẻ khác. “Cả lũ chúng mày nữa, còn không đi làm việc đi? Bỏ cái kiểu nhìn chằm chằm của chúng mày đi và quay lại làm việc ngay. Còn mày, Mercy Nell.” Hắn nói, dùng chân thúc cô bé. “Mày
chẳng hơn gì con mẹ mày cả. Mày muốn kết thúc giống mụ ta chứ gì? Ở trong Chuồng ấy?”
Mercy Nell lắc đầu dữ dội. Chiếc khăn trùm đầu màu hồng rơi xuống và những lọn tóc bung ra. Từ chỗ đang đứng, tôi có thể trông thấy đầu gối cô bé đang chảy máu. “Ông đã gặp mẹ tôi khi vào thị trấn hả, Isaac?” Cô bé hỏi. “Ông có biết khi nào mẹ về nhà không?”
Lúc này, gã đàn ông khụt khịt mũi. “Khi nào luật pháp cho phép, Mercy, và mày nên thấy bản thân mày thật may mắn vì bà chủ Lily muốn mụ ta quay lại, bỏ trốn như mụ ta đã làm để đi tìm thằng bố đần độn của mày. Mụ ta thật may mắn - hắn đã có một người vợ ở nhà Simmons, đấy là những gì tao nghe được. Hắn chẳng thèm che giấu hứng thú với mẹ mày, kể cả với đám thợ săn da đen. Mụ ta hoàn toàn điên rồi nếu đó là những gì mụ ta nghĩ. Để rồi xem, mày cũng sẽ giống hệt mụ ta.”
Tôi cứ tưởng Mercy sẽ co rúm lại lần nữa, nói với Isaac bất cứ điều gì hắn muốn nghe. Nhưng thay vào đó, cô bé chống tay xuống lớp đất bẩn và đẩy mình đứng lên, lờ đi những giọt máu nhỏ xuống từ đầu gối. “Tôi sẽ rất tự hào nếu trở thành người giống mẹ tôi.” Cô bé nói vang vọng khắp khoảng sân khu đồn điền. “Mẹ bỏ chạy bởi vì mẹ muốn được tự do, như chúng tôi luôn muốn. Bởi vì mẹ tin là chúng tôi cũng tốt đẹp như bất kỳ ai khác, ngay cả nếu màu da chúng tôi có đen như màn đêm. Lòng can đảm của mẹ còn lớn gấp đôi của ông, Isaac ạ.”
Cô bé đứng thẳng người và nhìn vào mặt gã đàn ông. “Tôi biết tại sao ông lại quan tâm nhiều đến thế, tại sao ông đứng đây gọi tên chúng tôi khi mà lẽ ra ông đang phải chú ý canh chừng số đường kia. Tôi đã nghe thấy ông trong đêm, tôi biết ông đã làm gì mẹ. Mẹ chắc chắn là muốn thoát khỏi lũ mọi trắng[7]. Nhưng mẹ cũng muốn thoát khỏi ông nữa. Ông có thể chiếm được cơ thể mẹ, nhiều như ông muốn, và mẹ chẳng thể làm gì để ngăn ông lại. Nhưng ông không thể với những ngón tay tham lam của ông quanh trái tim mẹ được đâu.”
Cô bé đứng đó thách thức, cái cằm nhỏ bướng bỉnh hếch lên, nhìn chằm chằm vào Isaac như thể cô là một người dụ rắn và hắn là con rắn hổ mang, bất lực trước ánh mắt cô bé. Bên rìa sân, những
đứa trẻ khác cũng đang đứng bất động. Biểu cảm trên mặt chúng phản ánh chính xác vẻ mặt tôi - đầy hoài nghi - lẫn lộn giữa tự hào và sợ hãi. Tôi đang nín thở.
Thế rồi Isaac phá vỡ được phép thuật của cô bé và lại đánh cô bé. Mercy ngã xuống và hắn đá cô bé, hết lần này đến lần khác, cho đến khi Mercy cuộn tròn như một trái bóng, cố gắng bảo vệ đầu mình.
Cơn giận dữ dâng trào trong tôi. Trước khi biết bản thân đang làm gì, tôi đã lao ra khỏi lùm cây và túm lấy Isaac, hạ hắn đo ván ngay cạnh Mercy Nell. “Con bé chỉ là đứa trẻ con, thằng khốn kiếp này.” Tôi nhổ toẹt, đứng trên hắn. “Mày là loại đê tiện gì mà đi đá một đứa trẻ?”
Miệng Isaac há ra, rồi ngậm lại. Trong giây lát, sự phẫn nộ rõ rành rành trên mặt hắn. Rồi hắn nhìn tôi lần nữa và lau sạch máu trên miệng. “Xin lỗi ông.” Hắn nói, cụp mắt xuống. “Tôi không trông thấy ông đang đứng ở đó.”
Tôi khó nhọc hít thở. “Chuyện đó thì liên quan quái gì? Tao mừng là đã ở đây. Nếu không, có Chúa mới biết mày có thể đã làm gì con bé.”
Hắn không nói lời nào, và tôi phải kiềm chế lắm mới ngăn được bản thân không nghiền hắn ra thành bột. Buộc mình bình tĩnh lại, tôi đưa tay đỡ lấy Mercy Nell, cô bé thả lỏng người, không còn cuộn tròn như trước nữa và chăm chăm nhìn tôi một cách thận trọng, cánh tay quấn quanh đầu gối như thể đang cố khiến bản thân trở nên vô hình. “Em ổn cả chứ?” Tôi hỏi. “Em đứng dậy được không?”
Mercy Nell nhìn tay tôi như thể cô bé chưa bao giờ trông thấy thứ gì như vậy trước đây. “Xin ông lượng thứ, thưa ông.” Con bé thì thầm, lau đi một giọt máu trên má. “Tôi không định gây rắc rối đâu.”
“Em không gây rắc rối gì đâu.” Tôi nói, và kéo cô bé đứng dậy. “Tôi đã chứng kiến toàn bộ sự việc. Tất cả đều không phải lỗi của em.”
“Vâng, thưa ông.” Cô bé nói như cái máy, nhưng tôi thấy mắt cô bé hướng về phía Isaac.
“Đừng lo về hắn. Hắn sẽ không gây phiền phức gì cho em nữa đâu. Tôi sẽ trông chừng chuyện đó.” Tôi nói với Mercy, phủi bụi bám trên quần áo cô bé. Cô bé ngần ngại khi tôi chạm vào, và với cảm giác muốn bệnh, tôi nhận ra lý do vì sao. Với cảm giác ghê tởm cả gia đình, tôi buông thõng tay hai bên sườn.
“Đứng dậy.” Tôi nói với Isaac. Hắn tuân lệnh ngay lập tức, điều đó càng khiến tôi thấy muốn bệnh. Hắn vâng lời tôi phải không? Hắn không có lựa chọn. Nhưng hắn đã lạm dụng cô bé. Khôn kiếp, tất cả mọi thứ thật là một mớ hỗn độn chết tiệt. “Mày tránh xa con bé ra, nghe rõ chưa? Nếu mày còn đặt dù chỉ một ngón tay lên đứa trẻ này và để tao phát hiện, mày sẽ không thích chuyện xảy đến với mày đâu. Tôi ở nhà lớn nhé. Mercy Nell, nếu gã đàn ông này còn chạm vào em, thì cứ đến nói cho tôi biết.”
Đứa trẻ cắn môi. “Thế tên ông là gì, thưa ông?” Cô bé hỏi. Tôi chợt nhận ra khi là một thành viên trong gia đình, có lẽ tôi có một vài quyền lực thực sự ở đây, còn hơn cả những thông điệp mà màu da của tôi truyền tải. Và dù chỉ một lần, tôi không cảm thấy tồi tệ khi sử dụng nó. “Tên tôi là Max Adair.” Tôi nói, nhìn thẳng vào mắt Isaac. “Nhớ lấy.”
Tay Isaac mở ra và đóng lại, nhưng chưa lần nào siết chặt thành nắm đấm. “Vâng, thưa ông.” Hắn nói. “Nếu ông không cần đến tôi nữa, tôi xin quay lại làm công việc của mình.”
Tôi gật đầu và hắn quay đi, lưng hắn thẳng đờ lúc hắn bước đi. Ngay khi hắn vừa rời khỏi, Mercy khuỵu xuống, sự căng thẳng rút cạn khỏi cơ thể cô bé. Cô bé cúi xuống nhặt cái xô, bên tay còn lại ép chặt vào mạn sườn. “Tôi rất biết ơn ông, thưa ông.” Cô bé khẽ nói, ánh mắt dán vào chiếc xô rỗng đang đung đưa trên tay. “Tôi sẽ không quên đâu.”
“Em không cần phải cảm ơn tôi. Bất kỳ ai cũng sẽ làm như vậy thôi.”
Cô bé lắc đầu. “Chưa một ai từng ngăn Isaac trước đây.” “Nhưng Robert…” Tôi nói, và cô bé lại lắc đầu.
“Đây là chuyện của nô lệ. Ông chủ Robert không bao giờ bận tâm đến cả.” Cô bé liếc nhìn tôi qua hàng mi. “Tôi rất lấy làm biết
ơn, thật đấy. Nhưng thưa ông... ông là một người lạ ở đây. Ông không biết tôi hay mẹ tôi. Sao ông lại ngăn Isaac?”
Sự bối rối trên gương mặt cô bé khiến tôi như bị thụi một cú đâm vào giữa ngực. “Bởi vì thế là sai trái!” Tôi nóng nảy nói. “Em là một đứa trẻ. Đàn ông không đánh hay đá những cô bé. Ở chỗ tôi, một người đàn ông như thế hoàn toàn không đáng mặt đàn ông.”
Mercy mỉm cười với tôi, một tay vẫn ép chặt vào mạn sườn. Hai chiếc răng hàm dưới của cô bé đã gãy, chiếc váy cô bé mặc dính đầy đất bẩn, còn máu đang chảy xuống trên mặt - nhưng khi cô bé mỉm cười như thế, thì như thể có ánh sáng trong đôi mắt cô bé, Mercy thật xinh đẹp. “Rất cảm ơn ông.” Cô bé nói, và khẽ nhún gối chào khiến tôi bất ngờ. Rồi cô bé nhấc chiếc xô lên và biến mất trên con đường mòn, chiếc váy rách rưới kéo theo lớp bụi bẩn.
Adrenaline[8] vẫn còn chảy rần rần trong cơ thể tôi, tìm kiếm một lối thoát. Tôi chưa bao giờ nghĩ bản thân là một người ưa bạo lực, nhưng tôi sẽ vui vẻ mà đập tan khuôn mặt của thằng khốn ngược đãi đó và nguyền rủa hắn. Tôi vuốt một tay qua mặt và bước tiếp.
Vài phút sau, tôi đã đến được nơi mà hẳn là khu sản xuất đường, nằm ngay cạnh nhà chưng cất. Một hàng dài những nô lệ đi từ cánh đồng đến khu sản xuất, lưng còng xuống, những thân mía nặng trĩu trên lưng. Hơi nước bốc lên nghi ngút từ ống khói của nhà chưng cất, không khí nồng nặc mùi đường cháy, quyện với mùi của mồ hôi.
Tôi tò mò mở cửa - và bước thẳng vào khung cảnh trong Hỏa [9] của Dante. Hơi nóng ập vào tôi đầu tiên, một bức tường hơi
ngục
nước dày đặc đến nỗi tôi khó có thể trông thấy gì. Khi mắt đã điều chỉnh được, tôi có thể nhận ra ngọn lửa đang nhảy nhót, ánh sáng của chúng hắt lên những bức tường và soi sáng những cơ thể với nửa thân trên để trần của những người lao động, làn da tối màu ướt đẫm mồ hôi. Một dòng chảy liên tục như không bao giờ kết thúc của thứ chất lỏng trong suốt ánh xanh chảy trực tiếp từ cối xay đến nhà chưng cất, thẳng vào một dãy những cái ấm đồng khổng lồ, đây chính là nguồn gốc của đám mây trắng đang bốc cao chót vót. Có một nô lệ đứng cạnh mỗi cái ấm, khuấy đều thứ chất lỏng bằng một
cái muôi gỗ dài. Thứ mùi chua ngái nồng nặc đến nỗi nó lấp đầy lỗ mũi khiến tôi nghẹt thở, ráng sức nuốt nó xuống.
Chạy tới chạy lui giữa những chiếc ấm là một người đàn ông, mắt anh ta nhìn chăm chăm vào thứ chất lỏng bên trong. “Nào!” Anh ta hét, và hai trong số những nô lệ chuyển thứ chất lỏng đang sôi từ một trong những chiếc ấm to đùng sang cái nhỏ hơn, bước lùi lại để tránh những tia chất lỏng bắn lên. Bầu không khí uy quyền tuyệt đối bao quanh anh ta khiến tôi mất một lúc mới nhận ra bản thân anh ta cũng là một nô lệ. Khi tôi đang quan sát, anh ta tóm lấy cánh tay một người nhỏ nhắn suýt ngã và kéo cậu ấy khỏi mép những cái vạc lớn. “Cẩn thận chứ, Ben.” Anh ta nói bằng giọng trầm thấp. “Tỉnh táo vào, hoặc cậu sẽ ngã nhào vào trong đó đấy. Giờ thì nhớ cẩn thận.”
Anh chàng nhỏ bé chớp mắt và thẳng người dậy, mắt mở to. Cậu ấy gật đầu nhanh và lầm bầm cảm ơn. Mắt dán chặt vào mía nghiền đang bốc hơi, cậu ấy bắt đầu khuấy nó bằng cái muôi cán dài, chớp mắt trong nỗ lực để giữ tỉnh táo.
Tôi bắt đầu nhận ra ý người đàn ông kia là gì: trong vài giây nữa, Ben sẽ nghiêng người vào cái ấm đường đang sôi sùng sục và bị luộc sống. Kinh hoàng, tôi liếc nhìn khắp căn phòng: những ngọn lửa đang cháy rực, những nô lệ kiệt sức, thứ mùi khủng khiếp... và bắt đầu lùi lại. Không ai chú ý đến tôi, thế cũng tốt - tôi sẽ phải có vài lời hay ho với gã da trắng đang ngồi vắt chân bên một trong những ô cửa sổ lớn trong phòng, quan sát chuyện vừa rồi, và tốt nhất là nên giữ chúng cho riêng tôi thôi.
Tôi đi được nửa đường về nhà chính thì nghe thấy tiếng hét that thanh.
Isabel
Bình minh ngày thứ Hai nóng và ẩm ướt hơn bao giờ hết, một làn gió nhẹ thổi tới từ Đại Tây Dương. Khi đồng hồ báo thức đã tắt, tôi kéo mình khỏi giường và hò mọi người dậy, đảm bảo họ đã thu dọn hết xẻng, bay và bạt phủ. Tôi kiểm tra lần nữa thùng giữ lạnh, chất đầy những chiếc cốc nhựa chứa đá và những can nước lấy từ bồn tắm, đảm bảo có đủ thực phẩm cho bữa trưa, lục trong ba lô tìm thuốc xịt côn trùng, kem chống nắng và áo sơ mi dài tay. Khi đã hài lòng, tôi đội chiếc mũ rộng vành lên đầu, xỏ chân vào đôi giày leo núi cao cổ và bảo mọi người đến lúc lên đường rồi.
Như thường lệ, chẳng có ai ngoài Maura dậy đủ sớm để ăn sáng, thế nên tất cả đều đang nhồi nhét những thanh ngũ cốc dinh dưỡng vào miệng khi ngồi trong chiếc xe van. Bên cạnh tôi, Rob đánh đổ cà phê lên chiếc áo phông xám in hình Công viên kỷ Jura, làm dây vết bẩn lên đầu con khủng long bạo chúa. Chuyện này sáng nào cũng như sáng nào - tôi thở dài đưa cậu ấy một cái khăn ăn chôm được từ Chefette, nhà hàng thức ăn nhanh chính trên đảo. Cậu ấy lẩm bẩm câu gì đó nghe mơ hồ như “Cảm ơn cô, tiến sĩ Griffin” và chấm chấm vào vết bẩn, khiến nó trông còn tệ hơn.
Tôi tập trung lái xe - ngay cả sau một tháng trên đảo, tôi vẫn không hoàn toàn tự tin về việc chuyển làn đường. Nhưng khi những cánh đồng mía xanh pha nâu lờ mờ hiện ra phía bên trái và những ngôi nhà nhỏ lụp xụp phía bên phải, đàn gà thấp thoáng trong sân và những cậu bé đang tha thẩn nơi hiên nhà, một phần trong tôi đã sẵn lăn tăn, tự hỏi liệu hôm nay điện thoại có lại đổ chuông và Max sẽ ở đầu dây bên kia không. Thật ngớ ngẩn, tôi biết, nhưng tôi không thể đừng được.
Hy vọng đó giữ tôi qua được việc chỉ định các sinh viên trong suốt cả ngày - luôn là một thách thức, vì các sinh viên yếu hơn phải
gồng mình nỗ lực để theo kịp cả nhóm, chia sẻ tình yêu thông qua việc dựng lều che mưa nắng, mài xẻng và bay. Nó giúp tôi trải qua việc xem xét tỉ mỉ các di chỉ và qua được hai giờ đầu tiên của công việc đòi hỏi sự tỉ mỉ. Tôi làm đến tận giờ nghỉ trưa - sau đó mọi thứ muốn ra sao thì ra.
Chúng tôi đào cẩn thận mỗi mười centimét một, cái mà các nhà khảo cổ học gọi là các cấp độ. Mỗi mười centimét đào xuống, các di chỉ cần phải được phủi sạch, chuẩn bị sẵn sàng phun nước sạch để cho ra màu sắc thật sự dưới lớp bụi bẩn, sau đó, được vẽ và chụp ảnh để đưa vào dữ liệu. Chúng tôi phải mất đến bốn tuần để có được ngày hôm nay - từ những mảnh vụn của cuộc sống đầu thế kỷ hai mươi đến những thứ trông như đống phế liệu từ cuối thế kỷ mười chín, đến nền đất bẩn của một túp lều nô lệ, rải rác những mảnh gốm vỡ và phần còn lại của một chiếc nồi nấu bằng sắt. Đây là mục tiêu của chúng tôi: Barbados đang gần đến ngày kỷ niệm thứ 200 của cuộc nổi dậy nô lệ năm 1816. Đại học Charleston và Đại học Tây Ấn đã liên kết để khám phá và bảo tồn càng nhiều hiện vật càng tốt, để tưởng nhớ lịch sử của hòn đảo này.
Đây là một quá trình phức tạp. Phần lớn các vật dụng mà những nô lệ sử dụng trong thời gian họ còn sống, như là đồ dùng để ăn, bình đựng nước uống, quần áo, kể cả những túp lều của họ - đều được làm từ vật liệu hữu cơ và đã từ lâu nên mục nát hết cả, khiến công việc của tôi gặp khó khăn hơn nhiều. Tất cả những gì tôi có thể làm là đoán xem cái gì đang ở đây, và hy vọng tôi sẽ tìm ra một vài hiện vật còn tồn tại qua thời gian.
Là người giám sát, tôi không có nhiều cơ hội để tự khai quật - tôi quá bận rộn trả lời những câu hỏi và phải đảm bảo tất cả những người khác để tâm đến những gì họ phải làm. Dọn dẹp sạch sẽ vị trí trong ngày cho tôi nhiều cơ hội để khiến đôi tay được bẩn, và khi Maura ra hiệu, tôi không do dự.
Thật buồn cười khi nhận ra những thứ nhỏ bé lại luôn đọng lại trong bạn. Trong phần còn lại của cuộc đời, tôi nghĩ mình sẽ nhớ lớp cát cảm giác ra sao khi đầu gối tôi tì xuống, mồ hôi nhỏ giọt vào mắt tôi thế nào, ngay cả bên dưới vành chiếc mũ, và tôi phải lau nó bằng một bàn tay đeo găng. Khuôn mặt Maura đỏ ửng dưới ánh mặt trời
và do cả sự phấn khích, khi cô bé gọi tôi, khoe họ đã tìm thấy thứ gì đó.
Trong khoảnh khắc ấy, tôi không hề biết thế giới của tôi đang xê dịch khỏi trục của nó, không bao giờ quay lại được về vị trí cũ. Thay vào đó, tôi cảm thấy tia sáng quen thuộc của sự tò mò đã thôi thúc tôi trở thành nhà khảo cổ học - mong muốn kết nối với những người đi trước, khám phá ra bí mật của họ, những thứ họ đã để lại ghi dấu ấn rằng họ đã từng ghé qua đây. Tôi cẩn thận trèo xuống hồ và cúi xuống bên cạnh Maura, cô bé đang thả chiếc bay của mình ra và chọc chọc vào thứ gì đó bằng một que kem để tránh làm hỏng nó. Mùi đất ẩm ướt mới bị đào xới bao quanh tôi, cả mùi mồ hôi chua lòm của những người đang khai quật, trộn lẫn với mùi kem chống nắng hương dừa và mùi hăng hăng của thuốc xịt côn trùng.
Maura đang nằm sấp. “Nhìn này.” Cô bé nói, và ngồi dậy, dịch ra để tôi có thể thấy. “Nó tinh tế thật đấy. Chắc là một mảnh đồ trang sức. Cô nghĩ sao?”
“Để tôi xem nào.” Tôi nói, gỡ chiếc bay ra khỏi thắt lưng và nghiêng người gần hơn. Dù bị vùi lấp như vậy tôi vẫn có thể thấy cái mà Maura vừa nhắc đến - ánh sáng lấp lánh của một thứ bằng kim loại, phản chiếu ánh bạc ngay cả qua những lớp bụi bẩn. Cảm giác hồi hộp lướt qua tôi, tôi liếc nhìn tờ giấy ghi chép của Maura để chắc chắn cô bé đã ghi lại mọi thứ - tọa độ, loại đất, khu vực tìm thấy và vị trí trong ma trận khảo cổ của chúng tôi. Sau đó, tôi ra hiệu về phía chiếc bay của cô bé. “Em không phiền chứ?”
Cô bé lắc đầu, đưa nó cho tôi. Cẩn thận hết mức có thể, tôi trượt hai chiếc bay của chúng tôi xuống bên dưới vật thể bí ẩn và nhấc cả tảng đất bên dưới nó lên, mẫu vật mà Maura tìm thấy vẫn an toàn bên trong. Tôi đặt nó vào một một tờ giấy thiếc đặt trên nền đất và bắt đầu nhẹ nhàng gạt đi lớp bụi bẩn bằng que kem của Maura, tỉ mẩn từng chút một.
Các sinh viên khác đang túm tụm lại quanh chúng tôi, khuôn mặt họ sáng lên vẻ phấn khích. Đây là phần yêu thích của tôi trong việc khai quật, phần mà khiến toàn bộ kế hoạch và đống giấy tờ công việc trở nên đáng giá. Nó là phần mà tất cả những người đam mê khảo cổ học chúng tôi yêu thích - sự hồi hộp khi chờ đợi để xem một
lô đất cụ thể sẽ mang lại điều gì, sự kỳ diệu của khám phá khi chúng tôi tìm thấy thứ gì đó đặc biệt. Ryan gọi đó là khoảnh khắc Indiana Jones[10].
Khom người lâu trên đất bắt đầu khiến lưng tôi đau nhức, thế nên tôi cởi chiếc áo sơ mi cotton và nằm lên nó. Tôi cẩn trọng gẩy gẩy mẫu vật khiến một đám đất bẩn rơi ra, và nhặt một chiếc chổi nhỏ nằm bênh cạnh bảng ghi chép của Maura để phủi sạch đám bụi bẩn còn lại. Tôi càng quét thì màu kim loại lấp lánh càng sáng, cho đến khi mẩu đất cuối cùng rơi xuống, để lộ ra những gì đã bị giấu đi: là một sợi dây chuyền bạc, bị đất bẩn bao phủ nhưng vẫn còn nguyên vẹn. Trên đó là mặt dây chuyền tôi đã nghĩ mình sẽ không bao giờ thấy lại nó nữa.
Không thể nào, tôi nghĩ, nhìn chằm chằm xuống viên ngọc xanh biển, ánh sáng xanh vẫn lấp lánh ngay cả qua lớp đất bẩn mà tôi vẫn chưa quét sạch hết. Không thể thế được.
Bên cạnh, tôi nghe tiếng Maura và cả những sinh viên còn lại đều hít sâu. “Đó là gì vậy?” Cô bé hỏi. “Nó trông gần giống một…” “Giống một con chuồn chuồn.” Tôi nói, trước khi có thể ngăn bản thân lại. Cũng như phần lớn sợi dây, con chuồn chuồn vẫn bị bao phủ trong đất cát và một bên cánh không nghi ngờ gì là đã bị gãy. Ngực tôi thắt lại, và tôi khó nhọc nuốt xuống. Không thể thế được. Nhưng rồi...
“Nó đẹp thật đấy.” Maura lên tiếng, giọng đầy vẻ tôn kính. “Cô nghĩ nó đến từ đâu, Tiến sĩ Griffin? Nó không giống bất kỳ mẫu vật nào chúng ta đã tìm thấy. Em không biết họ lại chế tác được món đồ bạc đó vào đầu những năm 1800.”
Nắm chặt lấy những nỗ lực phát hiện của mình - một mặt dây chuyền có kích thước bằng nửa ngón tay cái của tôi, một bên cánh bạc đang phủ đầy đất bẩn, viên ngọc xanh biển lấp lánh xuyên qua đám đất đúng ngay nơi tôi hình dung sẽ là trái tim của chú chuồn chuồn - tôi cảm thấy như tim mình sắp ngừng đập. Tôi hít thở trong bầu không khí ngập tràn mùi cát và muối, và tôi lấy lại bình tĩnh, cố gắng bù đắp sự thiếu tập trung lúc trước. “Không. Không đâu.” Tôi
nói, chớp mắt trong nỗ lực giải đoán sự xuất hiện của chiếc vòng cổ với những gì tôi biết là đúng đắn.
Đây là chiếc vòng giống hệt chiếc mẹ tôi đã đeo vào cái đêm mẹ biến mất. Chiếc vòng cha tôi và tôi đã chế tác tặng sinh nhật mẹ chỉ ba tuần trước đó. Chúng tôi không có bức ảnh nào chụp mẹ đeo nó. Tôi đã không trông thấy nó suốt mười bốn năm rồi. Nhưng tôi vẫn nhớ cách cha tôi đã đeo nó lên cổ mẹ đêm đó, cách nó áp vào cổ mẹ, vừa vặn hoàn hảo, như thể nó được làm ra để ở đó. Tôi nhớ mẹ đã đứng ở rìa đám đông trong bữa tiệc ngoài vườn của gia đình Max, khuôn mặt mẹ trầm ngâm, ngón tay mân mê mặt dây chuyền, phía sau một bên cánh được khắc dòng chữ nổi “Giấc mơ có thật”, một câu trích trong tác phẩm Có những đôi mắt đang dõi theo [11] của Zora Neale Hurston, một trong những cuốn sách yêu
Chúa
thích của mẹ. Mãi yêu thương, I.&A.
Tôi ngồi xuống với đôi tay run rẩy, nhìn chiếc vòng như thể nó là vật liệu gây nổ nguy hiểm. Nó ở đó, nửa chìm trong đất bẩn, câm lặng và vô hại.
Không. Tôi tự nhủ. Không thể nào. Không đâu. Rốt cuộc thì chiếc vòng cổ của mẹ tôi đang ở đây, hư hỏng và bị lãng quên trong khu tàn tích của một đồn điền ở Barbados từ thế kỷ mười chín ư? Theo như tôi được biết, mẹ thậm chí chưa bao giờ rời khỏi nước Mỹ.
“Được rồi.” Tôi nói, đẩy lùi cơn hoảng loạn, lên tinh thần để coi chiếc vòng cổ giống như những thứ khác. “Ai có máy ảnh không? Ai đó hãy phác họa cái này và ghi lại những gì các bạn cần. Sau đó mang nó lên và đóng gói vào nhé, chúng ta sẽ chụp ảnh nó trong điều kiện đủ sáng.”
"""