"
Chủng Tộc Technion - Amnon Frenkel & Shlomo Maital & Ilana Debare full prc pdf epub azw3 [Phân Tích]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chủng Tộc Technion - Amnon Frenkel & Shlomo Maital & Ilana Debare full prc pdf epub azw3 [Phân Tích]
Ebooks
Nhóm Zalo
Mục lục
Lời nói đầu
Lời giới thiệu cho bản tiếng Việt
Lời tựa
Lời cảm ơn
Chương 1: Đặc điểm di truyền của “chủng tộc” Technion Chương 2: Từ Sỏi đá đến Chất bán dẫn
Chương 3: Quốc gia khởi nghiệp trên nền tảng sáng tạo của Technion
Chương 4: Không chỉ là kỹ sư mà còn là nhà điều hành Chương 5: Giá trị Technion, hôm nay và mai sau Chương 6: Technion - một thương hiệu toàn cầu Phần kết
Phụ lục 1
Phụ lục 2
Về các tác giả
Lời nói đầu
Chủng tộc Technion là cuốn sách thứ hai được chuyển ngữ đến bạn đọc Việt Nam của Giáo sư Shlomo Maital, người Thầy kính yêu của tôi tại Viện Công nghệ Massachusetts, Hoa Kỳ, mà tôi có vinh dự được hiệu đính sau cuốn Kinh tế học dành cho Doanh nhân – 10 công cụ quản lý kinh doanh thiết yếu, một trong những cuốn sách kinh doanh bán chạy nhất Việt Nam trong vài năm qua. Ông cũng là giáo sư lâu năm của Đại học Technion được nói đến trong cuốn sách này.
Một lần nữa, tôi lại được hân hưởng những dòng suy tưởng đầy trí tuệ và nhiệt huyết của Giáo sư Shlomo về kinh tế, sáng tạo, khởi nghiệp, và về lòng yêu nước, yêu dân tộc của ông, cũng như của những người được nhắc tới trong cuốn sách này.
Chắc hẳn đã có nhiều bạn biết đến cuốn Quốc gia khởi nghiệp và âm hưởng của nó tại Việt Nam hơn ba năm qua. Phải chăng, tinh thần khởi nghiệp tại Việt Nam trong những năm này được khích lệ phần nào từ tinh thần Do Thái mà các bạn khám phá được từ cuốn sách đó? Hôm nay, trên tay các bạn là một cuốn sách tuyệt vời như thế, cho tất cả các thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ, của các trường đại học.
Được cùng học với những người bạn Do Thái thời Liên bang Xô Viết, tôi thực sự kinh ngạc trước trí tuệ siêu việt và sự bền bỉ, kiên gan của họ: Luôn đứng đầu tất cả các môn học một cách lặng lẽ, bất chấp sự phân biệt đối xử hay kỳ thị ở những nơi họ học tập. Tinh thần Do Thái có mặt ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là trong môi trường đại học, và Technion chính là trường đại học thể hiện rõ nhất tinh thần đó, qua những thành tựu to lớn của nhiều thế hệ, từ thế hệ sáng lập đến các thế hệ giảng viên, sinh viên tiếp theo.
̀
Những con người của Technion, trường đại học hàng đầu Israel, được các tác giả nhắc đến trong cuốn sách này như một “chủng tộc” riêng, khác biệt, là tinh hoa của trí tuệ khoa học công nghệ tại quốc gia nhỏ bé nhưng có tầm ảnh hưởng toàn thế giới này.
Chủng tộc Technion cho thấy khoa học công nghệ chính là động lực phát triển quan trọng hàng đầu của các quốc gia, nhất là những quốc gia nhỏ bé và đơn độc như Israel.
Họ hiểu rõ tinh thần khởi nghiệp trong trường đại học bằng cách đưa các nghiên cứu khoa học công nghệ vào cuộc sống thực tế để phát triển kinh tế, chăm lo cho con người, bảo đảm an ninh quốc gia... thông qua các doanh nghiệp – yếu tố cốt lõi cho sự thành công và đóng góp của một trường đại học đối với đất nước.
Chủng tộc Technion đã chỉ ra rằng những thành tựu khoa học công nghệ của họ dành cho đất nước Israel là chưa đủ. Họ luôn giữ tinh thần đóng góp trí tuệ và tài năng của mình cho sự an toàn và phồn vinh của nhân loại.
Technion xứng đáng là tấm gương cho bất kỳ trường đại học nào trên thế giới với ý chí vươn lên mọi thử thách, tinh thần sáng tạo, tinh thần khởi nghiệp, tinh thần phụng sự cho Tổ quốc và nhân loại.
Kỷ niệm khó quên của tôi với Giáo sư Shlomo Maital trong những ngày tháng còn học tập ở Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) là sau khi chấm một bài luận về kinh tế Việt Nam của tôi, ông mời tôi đi ăn trưa và nói rằng: Bài làm của anh khiến tôi thấy sao Việt Nam lại có nhiều điểm tương đồng với Israel thế! Hai dân tộc đều trải qua những cuộc chiến tranh liên miên, đều thông minh, sáng tạo, có ý chí vươn lên vì độc lập, tự do.
Với tôi, phải chăng Việt Nam còn những điều căn bản khác mà chúng ta cần học hỏi từ đất nước và con người Israel?
Chủng tộc Technion sẽ cho chúng ta một phần của câu trả lời. Tiến sĩ Trần Lương Sơn
Lời giới thiệu cho bản tiếng Việt
Guy Kawasaki, Giám đốc tiếp thị cho dòng máy tính Macintosh của công ty Apple, khuyên rằng: Hãy làm điều ý nghĩa, chứ không phải là tiền. Ông hàm ý rằng: Các doanh nhân cần có đam mê trong việc tạo ra giá trị cho người khác, và khi làm như vậy, họ sẽ tìm thấy ý nghĩa to lớn cho cuộc sống của mình. Nếu chỉ tập trung vào việc kiếm tiền, họ có thể sẽ thất bại.
Qua người bạn thân thiết đồng thời là cựu sinh viên Viện Công nghệ Massachusetts (MIT), Tiến sĩ Trần Lương Sơn, tôi đã tìm thấy ý nghĩa của việc đem đến thông điệp cho các doanh nhân về khởi nghiệp công nghệ từ đất nước Israel của chúng tôi tới các nước khác, đặc biệt là Việt Nam. Tôi luôn ngưỡng mộ Việt Nam, bởi con người của đất nước này có nhiều phẩm chất tiêu biểu như con người Israel – tính kiên định, sự quyết tâm, ý chí mãnh liệt khi đối mặt với nghịch cảnh. Đó cũng chính là tất cả những phẩm chất đặc trưng của các doanh nhân khởi nghiệp.
Tôi từng thực hiện khảo sát một nhóm 50 nhà thiết kế chip của Israel, và cho họ một danh sách các động lực của sự đổi mới. Ở phía trên cùng của danh sách là tính kiên định, tiếp theo là sự quyết tâm. Giàu có, danh vọng, v.v. nằm xa ở cuối danh sách. Tính kiên định là khả năng đứng dậy từ nghịch cảnh và khủng hoảng. Tất cả các doanh nhân khởi nghiệp đều từng gặp khủng hoảng và tất cả họ đều cần sự kiên định để vượt qua. Và có rất ít quốc gia trên thế giới đã phải trải qua những cuộc hồi sinh lịch sử như Việt Nam.
Tiến sĩ Trần Lương Sơn và tôi đã trở nên thân thiết bởi chúng tôi cùng có niềm đam mê sâu sắc đối với khởi nghiệp và tình yêu lớn đối với MIT. Giáo sư Edward Roberts của MIT, người khởi xướng chương trình Quản trị Công nghệ (Management of Technology – chương trình đã đưa Tiến sĩ Trần Lương Sơn tới MIT) đã nghiên ́ ́
cứu tác động của MIT đối với bang Massachusetts và thế giới. Với quy mô nhỏ chỉ 1.500 sinh viên tốt nghiệp hàng năm, các cựu sinh viên MIT đã tạo ra khoảng 30.000 doanh nghiệp, với doanh thu gộp đủ lớn để trở thành một nền kinh tế đứng thứ 11 thế giới.
Đại học Technion là một câu chuyện tương tự. Được thành lập vào năm ٣٦ ,١٩١٢ năm trước khi nhà nước Israel được thành lập, Technion đã khai sinh ra ngành công nghiệp công nghệ cao của Israel, thông qua các giảng viên và sinh viên tốt nghiệp của mình. Cứ bốn sinh viên tốt nghiệp Technion thì có một người là doanh nhân khởi nghiệp. Hiện nay, bình quân GDP đầu người của Israel là gần 40.000 đô-la, chủ yếu thông qua lĩnh vực công nghệ cao, với động lực là khởi nghiệp và công nghệ cao, tạo ra một nửa lượng xuất khẩu và đóng góp 40% tăng trưởng kinh tế của Israel.
Trong chuyến thăm gần đây của chúng tôi tới Việt Nam, do Tiến sĩ Trần Lương Sơn khởi xướng và tổ chức, tôi đã mang tới cho các bạn một thông điệp đơn giản: “Hãy vượt hàng!”. Hôm nay, Việt Nam đứng thứ 52 trên thế giới về đổi mới. Nhưng trong số các quốc gia có thu nhập thấp đến trung bình, Việt Nam đứng thứ hai!
Việt Nam không nhất thiết phải đi theo mô hình tiến từng bước như các nước có thu nhập thấp, bằng cách chuyển lên cao theo chuỗi giá trị, từ gia công may mặc cho tới các sản phẩm có giá trị cao hơn. Việt Nam có thể nhảy vọt lên phía trước, bằng cách chuyển hóa tiềm năng to lớn của thế hệ trẻ, tạo điều kiện cho họ khởi nghiệp và kinh doanh, hỗ trợ về kiến thức, kinh nghiệm, tài chính, và trên hết là loại bỏ bớt quan liêu. Hiện Việt Nam đứng thứ 102 trên thế giới (trong số 141 quốc gia) về “môi trường khởi nghiệp kinh doanh”. Việt Nam phải là số một. Một chuyến thăm ngắn đến Singapore sẽ cho bạn thấy điều đó có thể thực hiện như thế nào.
Việt Nam có một số lợi thế cạnh tranh mạnh mẽ – đứng thứ chín trên thế giới về “hiệu quả đổi mới” (khả năng chuyển đầu vào đổi mới như nghiên cứu và phát triển, thành đầu ra của đổi mới như đầu tư, xuất khẩu công nghệ cao). Việt Nam đầu tư mạnh vào giáo dục và đứng thứ 24 thế giới trong chi tiêu giáo dục theo % GDP. Việt Nam cần đòn bẩy kỹ năng, sự sáng tạo và hiệu quả chi phí của nhân
̀
công công nghệ, để thu hút đầu tư nghiên cứu và phát triển từ nước ngoài, như Israel từng thực hiện, với 200 trung tâm nghiên cứu và phát triển quốc tế đặt trụ sở tại đây.
Việt Nam thực tế đang là một trong những quốc gia sản xuất và xuất khẩu sản phẩm công nghệ hàng đầu thế giới. Con đường từ Made in Vietnam (Sản xuất tại Việt Nam) đến Invented in Vietnam (Sáng tạo tại Việt Nam) tuy ngắn, nhưng không phải là dễ dàng.
Tôi hy vọng rằng cuốn sách Chủng tộc Technion này một ngày không xa sẽ dẫn tới một cuốn sách tương tự, với đầy ắp những câu chuyện về các doanh nhân Việt Nam, như người bạn của tôi, Tiến sĩ Trần Lương Sơn, người đã khởi nghiệp với một công ty phần mềm tại thời điểm mà các điều kiện đều rất khó khăn.
Hãy để người Israel chúng tôi hợp tác chặt chẽ với nhân dân Việt Nam, vì tình hữu nghị và lợi ích chung của chúng ta. Và khi làm như thế, chúng ta sẽ tìm thấy ý nghĩa mới trong cuộc sống của mình.
Giáo sư Shlomo Maital,
Đại học Technion, Haifa, Israel
Tháng 6 - 2016
Cuốn sách này được thực hiện nhờ sự giúp đỡ hào phóng củaQuỹ Gia đình Allen A. Stein.
Chúng tôi xin cảm ơn Ban Giám đốc quỹ và người đại diện Eric Stein. Tầm nhìn và các mục tiêu mà ông đặt ra chính là sự phản ánh tầm nhìn và mục tiêu của Technion – dùng khoa học, công nghệ và sáng tạo để đem lại lợi ích cho Israel và toàn nhân loại.
Khoa học và công nghệ là hiện thân tương lai chung của chúng ta. Mặc dù nghèo tài nguyên thiên nhiên, Israel lại giàu có về nguồn nhân lực, chính yếu tố đó đã đưa chúng ta lên vị thế dẫn dắt các tiến bộ toàn cầu trong kỷ nguyên khoa học hiện đại thông qua quá trình cải tiến và đổi mới, tầm nhìn dự báo, sức sáng tạo và tư duy dám nghĩ dám làm. Những hạt giống được gieo xuống ngày hôm nay sẽ cho ra đời những khám phá bước ngoặt của ngày mai, giúp thế giới này trở nên tốt đẹp hơn.
Thật may mắn là Technion được thành lập trước khi Nhà nước Israel ra đời, giúp chúng ta chuẩn bị sẵn sàng cho tương lai.
Shimon Peres
Tổng thống Nhà nước Israel (2007-2014)
Lời tựa
Một buổi sáng anh bừng tỉnh giấc
Thấy cả dân tộc trong mình và cất bước lên đường
Đoạn thơ trên được trích từ tác phẩm viết năm 1953 của Amir Gilboa, khắc họa chân dung Theodor Herzl, nhà tư tưởng đã dự báo trước sự ra đời của một nhà nước Israel thời hiện đại. Nó đã được phổ nhạc thành một bài hát quen thuộc. Chúng tôi tin rằng câu thơ ấy cũng có thể được dùng để nói về Technion. Một thế kỷ trước, một nhóm các nhà tư tưởng đã đặt nền móng cho một trường đại học khoa học và công nghệ. Technion cũng bừng tỉnh, cảm thấy mình là nền tảng cho một quốc gia dân tộc (sẽ ra đời 36 năm sau đó) và cất bước lên đường, từng bước, từng bước một. 80.000 học viên tốt nghiệp nắm giữ hơn 90.000 tấm bằng chuyên môn khác nhau đã sớm trở thành nền tảng cho các công ty khởi nghiệp, các nghiên cứu khoa học cơ bản, các công nghệ ứng dụng, ngành công nghiệp công nghệ cao, trình độ quản lý đẳng cấp thế giới, xuất khẩu cũng như sự tăng trưởng kinh tế của Israel. Khoa kỹ thuật hàng không của Technion đã thúc đẩy nhiều bước tiến then chốt trong sự nghiệp quốc phòng của Israel. Các khoa kỹ thuật điện và khoa học máy tính đã cho ra đời nhiều nhân tài hiện đang dẫn dắt ngành công nghiệp điện tử và phần mềm của Israel, đóng góp 20 tỷ đô-la trong tổng giá trị xuất khẩu trung bình hàng năm trị giá 40 tỷ đô-la của quốc gia này. Các khoa kiến trúc và kỹ thuật dân dụng đã góp phần xây dựng hệ thống đường sá và cơ sở hạ tầng cho Israel. Và trong vòng tám năm gần đây, đã có tới ba thành viên trong đội ngũ giảng viên tài năng của Technion đoạt giải Nobel. Trong cuốn sách này, chúng tôi sẽ kể câu chuyện của Chủng tộc Technion, và của một vài thành viên mà chúng tôi sẽ tập trung nhấn mạnh. Chúng tôi không có ý định và cũng không đủ khả năng để đề cập một cách đầy đủ và toàn diện tất cả những đóng góp trên rất nhiều phương diện khác nhau cho Israel và thế giới của các nhà cải cách, phát minh, doanh nhân,
các nhà tư tưởng và tiên phong tại Technion. Chính một nghiên cứu trước đây về “Cộng đồng MIT” của Edward Roberts và Charles Easley đã truyền cảm hứng cho chúng tôi. Chúng tôi cũng tìm thấy nguồn cảm hứng lớn từ cuốn sách Quốc gia khởi nghiệp (Start up nation) của Dan Senor và Saul Singer.
Những người đặt nền móng cho “Technikum” (sau này là Technion), 1912.
Trong quá trình nghiên cứu, bản thân chúng tôi cũng vô cùng ngạc nhiên trước những kết quả thu thập được – chúng là những bằng chứng định tính và định lượng cho thấy những đóng góp lớn lao cho sự phồn vinh của nhân loại, của “chủng tộc” những người tốt nghiệp Technion. Đối với riêng chúng tôi, những người đã có tổng cộng 63 năm gắn bó với Technion, chúng tôi tin tưởng rằng mình biết về ngôi trường này khá rõ. Vậy mà chúng tôi vẫn không khỏi kinh ngạc trước những đóng góp to lớn của các cựu học viên Technion trên mọi phương diện của nền kinh tế và xã hội Israel cũng như toàn thế giới. Câu chuyện ấn tượng này không chỉ cho thấy Technion đã có những đóng góp lớn lao thế nào cho dân tộc Israel và nhân loại, mà còn chứng minh vai trò then chốt mà một trường đại học khoa học và công nghệ tầm cỡ có thể đảm nhiệm, dù có nằm ở bất cứ đâu trên Trái đất.
Lời cảm ơn
Chúng tôi rất vinh hạnh khi được biết và hợp tác cùng Ilana DeBare. Nếu Chủng tộc Technion là một cuốn sách sinh động, hấp dẫn và dễ đọc thì đó chính là nhờ khả năng viết lách như một nhà văn, nhà báo của cô ấy.
Ý tưởng cho dự án này đến từ cựu Giám đốc Viện đào tạo Khoa học và Công nghệ bậc cao Samuel Neaman, Giáo sư Moshe Moshe. Khi nghiên cứu về “Chủng tộc MIT” được đưa ra, ông đã kêu gọi và gây quỹ để thực hiện một dự án tương tự về Chủng tộc Technion.
Chúng tôi vô cùng biết ơn Chủ tịch Technion Peretz Lavie, người đã luôn ủng hộ dự án ngay từ những ngày đầu. Giáo sư Lavie đã đọc các bản phác thảo rất cẩn thận và những gợi ý của ông để giúp cuốn sách thêm phần ấn tượng. Cảm ơn Phó Chủ tịch Điều hành Cao cấp Technion, Giáo sư Paul Feigin; Phó Chủ tịch Điều hành Nghiên cứu, Giáo sư Oded Shmueli; và Phó Chủ tịch Quan hệ Đối ngoại và Phát triển Nguồn lực, Giáo sư Boaz Golany đã có những góp ý xây dựng cho cuốn sách này.
Cảm ơn hội đồng Viện Neaman Vered Segal, Tsipy Buchnick, Eran Leck, Golan Tamir và Bella Zalmonovic đã giúp chúng tôi biên soạn, sắp xếp và xử lý dữ liệu nền tảng cho cuốn sách. Cảm ơn Hội Cựu sinh viên Technion đã cung cấp sự trợ giúp vô giá để chúng tôi có thể gửi hơn 20.000 email đến các thành viên của hội, nhờ hoàn thành chi tiết bản khảo sát. Chúng tôi cũng rất trân trọng chào đón 4.000 cựu học viên đã dành thời gian đến điền vào chi tiết bản khảo sát.
Nếu không có kĩ năng tổ chức của Giám đốc Công vụ và Phát triển Nguồn lực Technion, Danny Shapiro thì e rằng đã không có cuốn sách này. Sự giúp đỡ của Danny là vô cùng cần thiết để xóa bỏ khoảng cách từ bản thảo thô sơ đến một cuốn sách hoàn chỉnh.
́
Đội Công vụ đã lựa chọn những bức ảnh rất đẹp và thông minh cho cuốn sách.
Chương 1
Đặc điểm di truyền của “chủng tộc” Technion
Nhà văn Arthur Koestler từng viết: “Quốc gia là mái nhà do một dân tộc gây dựng nên, và người Do Thái từng là một dân tộc không nhà trong suốt 2000 năm.” Ngày nay dân tộc Do Thái đã có mái nhà của riêng mình, một mái nhà vững chãi mang tên Israel. Thế nhưng, 36 năm trước khi quốc gia ấy ra đời, nền móng của một trường đại học khoa học và công nghệ đã được dựng nên, và những con người từng được đào tạo từ ngôi trường đó giờ đây cũng tạo thành một cộng đồng, một chủng tộc của riêng mình.
Ngày hôm nay – 100 năm sau khi ra đời – “chủng tộc” Technion – Học viện Công nghệ Israel – đã có trên 80.000 học viên tốt nghiệp, là chủ nhân của hơn 100.000 bằng cấp thuộc các chuyên ngành đào tạo khác nhau. Trong đó, gần 60.000 người vẫn đang trong độ tuổi lao động; ٢٥% đang là Giám đốc hoặc Phó Giám đốc điều hành, và khoảng 41% nữa đang nắm giữ các vị trí quản lý. Gần 11.000 cựu học viên Technion đang hoặc từng làm việc trong các công ty khởi nghiệp, và 1/4 cựu học viên Technion từng ít nhất một lần khởi tạo một doanh nghiệp. Những doanh nhân này gồm cả nam lẫn nữ: 15% nữ học viên tốt nghiệp Technion từng thành lập công ty. Trên 33% cựu học viên Technion hiện đang làm việc trong ngành công nghiệp, và 12% làm việc trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển. Như vậy, gần một nửa dân số Technion hiện đang sản xuất, sáng tạo hoặc thiết kế ra các sản phẩm và dịch vụ. 42 trong số 72 công ty Israel niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán NASDAQ được thành lập hoặc đang được dẫn dắt bởi các cựu học viên Technion(1). Trung bình, một lớp học của Technion tạo ra lợi tức xã hội nhiều gấp hai lần số vốn đầu tư cần thiết dành cho nó. Chúng tôi ước tính rằng tổng sản phẩm đầu ra hàng năm của cộng đồng
́
những người tốt nghiệp Technion trong riêng các lĩnh vực công nghệ cao, truyền thông, nghiên cứu và phát triển đã vượt quá con số 20 tỷ đô-la Mỹ, xếp trên khoảng 85 quốc gia nếu xét về giá trị tổng sản phẩm quốc nội.
Cuốn sách này là câu chuyện về Chủng tộc Technion, những con người tuyệt vời trong đó và những cách thức rất khác nhau mà họ đang sử dụng để khiến Israel và cả thế giới trở nên tốt đẹp hơn. Chúng tôi chọn cách kể lại những thành tựu xuất sắc này thông qua các câu chuyện chứ không phải tập hợp các dữ liệu thống kê thuần túy. Trong chương này cũng như những chương tiếp theo, chúng ta sẽ cùng sống lại với những thành tựu phi thường mà các học viên tốt nghiệp cũng như các giảng viên của Technion đã đạt được.
Câu chuyện chúng tôi chọn để mở đầu là về một doanh nhân 73 tuổi với phương pháp chữa trị bệnh ung thư mang tính cách mạng và một chàng trai trẻ tuổi thuộc dòng Do Thái chính thống đến từ Bnei Brak với xuất phát điểm tại Technion chỉ là chút kiến thức toán học cơ bản, nhưng giờ đây đã sắp nhận bằng kỹ sư xây dựng dân dụng. Theo một nghĩa nào đó, Yoram và Aharon chính là hai đại diện điển hình cho sự đa dạng về tuổi tác trong Chủng tộc Technion.
***
Câu chuyện của Yoram:
Theo Giáo sư Noam Gavrieli, cựu Phó Hiệu trưởng trường Y Ruth và Bruce Rappaport của Technion thì rất có thể một ngày nào đó, nhà vật lý học 73 tuổi Yoram Palti sẽ đoạt giải Nobel nhờ phát minh ra một phương pháp chữa bệnh ung thư mang tính cách mạng. Nếu điều đó trở thành hiện thực thì một phần là nhờ trí thông minh và sức sáng tạo của bản thân ông, nhưng một phần là nhờ tinh thần doanh nhân mà ông tiếp thu được – cũng là một phẩm chất cốt yếu và phổ biến của các học viên cũng như giảng viên Technion.
Palti là giáo sư danh dự môn sinh lý và lý sinh học, khác xa so với hình mẫu doanh nhân thành đạt ở tuổi ٢٥ như trong mường tượng của nhiều người. Ông nói với chúng tôi rằng, nhiều năm trước đây,
́
luận văn tiến sĩ của ông là một nghiên cứu khoa học tập trung tìm hiểu sự phân bổ điện trường trong các tế bào của con người. Một thời gian rất lâu sau đó, vào năm ٢٠٠٠, từ nghiên cứu cơ bản ban đầu của mình, ông phát hiện ra rằng có thể tạo ra các điện trường giúp phá hủy các tế bào đang phân chia.
“Hầu hết các tế bào bình thường của con người trưởng thành rất hiếm khi phân chia,” Palti giải thích. “Nhưng quá trình đó lại diễn ra liên tục ở các tế bào ung thư.” Và ông nhận ra rằng “Đó có thể là một công cụ giúp chống lại các tế bào ung thư đang sinh sôi nảy nở một cách nhanh chóng.” Đây là một hướng đi hoàn toàn mới trong việc điều trị bệnh ung thư, rất khác so với các phương pháp hóa trị và xạ trị hiện nay.
Palti thành lập một công ty có tên gọi NovoCure, đặt trụ sở ngay tại tầng hầm nhà mình để tiếp tục nghiên cứu. Ngày nay thiết bị của ông mang tên NovoTTF đang trải qua giai đoạn 3 của quá trình thử nghiệm lâm sàng tại Mỹ và đã cho thấy kết quả rất khả quan trong việc ngăn chặn sự phát triển của các khối u não glioblastoma, chính là thứ đã giết chết Thượng nghị sĩ Ted Kenedy và nhà soạn nhạc George Gershwin.
Vậy phát minh của Palti được áp dụng như thế nào trong thực tế? Các bệnh nhân có khối u não glioblastoma sẽ đội một chiếc mũ đặc biệt tạo ra điện trường, điện trường này phá hủy các tế bào ung thư trong khi chúng phân chia dựa trên hình dạng hình học đặc thù của chúng trong giai đoạn này.
Palti phát biểu trên tờ MIT Technology Review (Điểm tin công nghệ MIT) rằng: “Một tế bào đang phân chia có hình giống như một chiếc đồng hồ cát chứ không phải hình tròn như một tế bào không phân chia.” Điện trường do chiếc mũ NovoCure tạo ra sẽ truyền đồng dạng qua các tế bào không phân chia. Nhưng tại các tế bào ung thư đang phân chia, nút thắt ở phần giữa của chúng sẽ đóng vai trò giống như một thấu kính. Điện trường tập trung tại điểm đó và xé tan cấu trúc tế bào. Khối u sẽ ngừng phát triển.
́ ́ ̀
Thiết bị của Palti cho thấy tiềm năng trong việc chữa trị một số bệnh ung thư phổi cũng như ung thư não. Chúng tôi đã hỏi ông về bí mật giúp ông duy trì sức sáng tạo bền bỉ của mình.
“Trí tò mò và lòng quyết tâm tìm
ra giải pháp cho những vấn đề quan
trọng có thể là chìa khóa giúp tôi thành
công,” Palti nói. “Các năng lực sẵn có
có thể được khai thác tốt hơn nhờ sự
khôn ngoan và cách nhìn nhận thấu
suốt [có được cùng tuổi tác]. Cái
chính là phải tận dụng được lợi thế
Thiết bị Novo TTF-100A làm chậm hoặc đảo ngược sự phát triển của các khối u não
này và kiên trì theo đuổi mục tiêu đến cùng.”
Ngày 15 tháng Bảy năm 2014,
NovoCure bắt đầu chào bán thương mại phương pháp chữa trị bằng thiết bị NovoTTF tại châu Âu và Israel; 18 chuyên gia giải phẫu thần kinh và bác sĩ chuyên khoa ung thư thần kinh hàng đầu hiện đang chỉ định phương pháp chữa trị bằng NovoTTF cho các bệnh nhân có khối u glioblastoma (u não) tại các trung tâm y tế ở khắp châu Âu và Israel.
Câu chuyện của Aharon:
Aharon D. rảo bước qua tòa nhà của Khoa Kỹ thuật Dân dụng và Môi trường Yitzhak Rabin, đưa mắt nhìn vào từng lớp học cho đến khi tìm thấy một góc khá yên tĩnh để tiếp chuyện với các vị khách. Đôi
mắt kính không vành, chiếc mũ chỏm kippa trên đầu cùng ánh mắt vui vẻ, trìu mến, trông anh hoàn toàn giống như tất cả các sinh viên bình thường khác tại bất cứ một trường cao đẳng hay đại học nào của Israel.
Nhưng hóa ra Aharon lại không bình thường chút nào. Lớn lên trong một gia đình Do Thái chính thống cực đoan có 12 người con tại Bnei Brak. Anh từng dành 10 đến 11 giờ mỗi ngày chỉ để học các giáo
trình tôn giáo thuần túy tại một chủng viện Do Thái giáo – không toán, không khoa học, không tiếng Anh mà chỉ tập trung vào kinh
̀
Torah và sách Talmud. Cha mẹ anh luôn mặc định rằng anh sẽ trở thành một giáo sĩ.
Nhưng rồi, ở tuổi 25, khi đã có vợ, hai con và một đứa thứ ba sắp chào đời, Aharon nhận ra rằng anh sẽ không bao giờ cảm thấy hài lòng khi chỉ học kinh Torah và sùng kính Chúa Trời. Anh rời trường đạo và đăng ký vào đại học.
Nhưng cánh cửa mà anh chọn không phải là một trường đại học bình thường – nó là Technion – Học viện Công nghệ Israel, cơ sở đào tạo khoa học và kỹ thuật hàng đầu của đất nước.
Trải dọc theo sườn dốc của ngọn núi Carmel thuộc thành phố Haifa, các tòa nhà ốp đá và kính hiện đại xen giữa những quảng trường thoáng rộng và rừng cây phủ đầy bóng mát mang lại cho Technion một khung cảnh hiện đại viễn tưởng giống như Học viện Starfleet trong tập phim The next generation (Thế hệ mới) của sê-ri phim Star Trek (Du hành giữa các vì sao). Một sự so sánh thực ra không hề khập khiễng chút nào. Aharon đã chọn đúng nơi hội tụ của các nhà khoa học tên lửa, các nhà hóa học đoạt giải Nobel và các kỹ sư thiết kế những phần mềm tiên tiến nhất.
Và đến tận lúc đặt chân tới Haifa, anh còn chưa bao giờ giải một phương trình đơn giản kiểu như 2x + 4 = 24.
“Tôi có được học phép tính cộng và trừ, nhưng môn đại số thì không,” Aharon hồi tưởng lại sau khi đã tìm được một góc yên tĩnh trên tầng bốn của tòa nhà. “Tôi không hề có ý niệm gì về ngành
kỹ thuật. Nhưng tôi nhận ra rằng mình phải học để hiểu toán học giống như tôi đã học để hiểu Talmud.”
Technion ngày nay
Mỗi thể chế đều có đặc trưng riêng của mình – hay như cách nói về một trường đại học chuyên ngành toán và khoa học là đặc tính di truyền riêng. Và chúng ta có thể nhận ra ngay, lòng quyết tâm ẩn sau câu chuyện về thiết bị chống ung thư của Yoram hay bước nhảy vọt của Aharon D. từ một giáo sinh trở thành sinh viên ngành kỹ thuật chính là đặc tính di truyền cơ bản nhất của Technion.
Bản thân Technion cũng ra đời nhờ lòng quyết tâm – lòng quyết tâm của các nhà tư tưởng lập quốc Do Thái đầu tiên muốn kiến tạo một học viện kỹ thuật bậc cao vào thời điểm mà vật liệu vẫn phải được chuyên chở bằng lạc đà tới các công trường xây dựng.
Lòng quyết tâm đó tiếp tục được nuôi dưỡng trong suốt thời kỳ dựng nước kéo dài nhiều thập kỷ, trong đó các kỹ sư Technion đã trông nom việc xây dựng đường sá, nhà cửa và các hệ thống nước mà sau này trở thành cơ sở hạ tầng của một Israel hiện đại. Lòng quyết tâm đó còn giúp trang bị cho Israel khả năng tự chống lại kẻ thù, khi chính các nhà khoa học Technion đã phụng sự Tổ quốc thông qua việc gây dựng cũng như truyền cảm hứng cho các đơn vị nghiên cứu và phát triển phục vụ cho quân đội và cho ngành công nghiệp hàng không vũ trụ còn non trẻ của Israel.
Gần đây, lòng quyết tâm của Technion và các cựu học viên đã góp phần làm nên thành tựu được rất nhiều người tôn vinh là “sự thần kỳ kinh tế Israel.” Họ đã dẫn dắt đất nước từ chỗ chỉ biết trồng cam ở Jaffa đem đi xuất khẩu trở thành cường quốc công nghệ toàn cầu. Giá trị vốn hóa trên thị trường của 42 công ty niêm
́
yết trên sàn NASDAQ được sáng lập hoặc đang được quản lý bởi các cựu học viên Technion tính đến tháng Ba năm 2015 là 22 tỷ đô-la Mỹ. 34 trung tâm nghiên cứu và phát triển nước ngoài (như Apple, HP, Intel, Microsoft, Cisco, GE) đặt tại Israel đã được thành lập hoặc từng được quản lý bởi những người tốt nghiệp Technion.
Technion, tầm nhìn từ những nguồn lực thô sơ nhất
Cùng lúc đó, lòng quyết tâm bền bỉ của các nhà khoa học tại các phòng thí nghiệm Technion vẫn đang không ngừng mang lại lợi ích cho toàn nhân loại, từ các thuật toán nén dữ liệu, trái tim của hệ thống thông tin toàn cầu Internet đến các tiến bộ y học giúp điều trị những căn bệnh như ung thư hay Alzheimer. Trong vòng tám năm qua đã có ba giáo sư của Technion đoạt giải Nobel về hóa học.
Và giờ đây Technion sẽ trực tiếp đem tài năng của mình tới nước Mỹ. Chính quyền thành phố New York đã lựa chọn Technion cùng đối tác là trường Đại học Cornell để mở một cơ sở đào tạo chuyên ngành kỹ thuật mới với quy mô khoảng 2.500 sinh viên tại đây.
Theo Levy Gerzberg, cựu học viên Technion đồng thời là nhà sáng lập Zoran Corp., một doanh nghiệp điện tử tại Thung lũng Silicon hiện đang cung cấp các “bộ não” vi xử lý cho khoảng một phần ba số đầu đĩa DVD và màn hình ti-vi có độ phân giải cao trên toàn thế giới hiện nay(2), “Technion đã tạo ra ảnh hưởng lớn đối với xã hội Israel, đó là điều đương nhiên, nhưng nó còn tạo ra ảnh hưởng lớn đối với xã hội loài người nói chung. Tổng thu nhập
́ ̀
mà chủng tộc Technion tạo ra trong những năm qua là rất nhiều ngàn tỷ đô-la. Vâng, nhiều ngàn tỷ chứ không phải nhiều tỷ. Trong đó có phần được ghi nhận, phần thì không.”
Giá trị của một trường đại học nghiên cứu hàng đầu là gì?
Với tư cách là các giáo sư giảng dạy tại Technion, đã từ lâu chúng tôi rất tò mò về ảnh hưởng tài chính mà ngôi trường này tạo ra – những tỷ và ngàn tỷ đô-la giá trị mà Gerberg mô tả. Cuối cùng, trong hai năm qua, chúng tôi đã có cơ hội tìm hiểu vấn đề này thông qua một cuộc khảo sát về nghề nghiệp, những lựa chọn quyết định cuộc đời cũng như ảnh hưởng trên phương diện kinh tế của trên 4.000 cựu học viên Technion, những người đã trả lời bảng câu hỏi chi tiết được đăng tải trên website của chúng tôi.
Khi tiếp tục tìm hiểu sâu hơn, chúng tôi nhận ra rằng vai trò của Technion trong xã hội dù xét trên phương diện nào cũng đều vượt ra ngoài giá trị được tính bằng đô-la hay shekel(3), bởi nó còn có những đóng góp khó định lượng hơn – như những thành tựu nghiên cứu
khoa học cơ bản, những tiến bộ y học cách mạng giúp cứu sống nhiều người bệnh, sự thúc đẩy một xã hội Israel công bằng, nơi cơ hội được mở ra cho tất cả mọi người, và vai trò đi đầu của nó trong sự nghiệp an ninh quốc phòng của Israel.
Kỷ niệm 100 năm ngày thành lập Đại học Technion vào năm 2012 dường như là thời điểm thích hợp để chúng tôi chia sẻ nghiên cứu của mình với công chúng – chính vì vậy mà cuốn sách này ra đời. Qua từng trang sách, chúng tôi sẽ kể câu chuyện về cách mà cộng đồng Technion đã góp phần thúc đẩy sự thần kỳ kinh tế Israel. Chúng tôi sẽ chia sẻ với bạn đọc rất nhiều thiết bị và công nghệ quen thuộc trong đời sống hàng ngày mà có thể bạn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng hóa ra chúng bắt nguồn từ chính Technion. Chúng tôi sẽ đưa ra một vài phỏng đoán để lí giải làm thế nào một trường đại học nhỏ bé – với các nguồn lực hạn chế hơn rất nhiều so với Harvard, Stanford hay MIT – lại có thể giành được hai giải Nobel (trao tặng cho ba người) chỉ trong vòng chưa đầy một thập kỷ. Chúng tôi sẽ giải thích tại sao những tập đoàn công nghệ hàng đầu như Intel, Google, Yahoo! và Microsoft lại chọn đặt các cơ sở nghiên
cứu và phát triển chính của mình ở ngay cạnh Technion, cách nhau có một ngọn đồi.
Và chúng tôi sẽ giới thiệu với bạn những con người đã làm nên Technion – một tập thể mà lòng quyết tâm của mỗi cá nhân đều hướng về một phía, giống như rất nhiều con suối nhỏ cùng đổ về sông lớn, để làm nên một lòng quyết tâm chung - đặc điểm di truyền cơ bản nhất của ngôi trường này. Họ là những người như:
Cựu học viên Technion Inbal Kreiss, người dẫn dắt dự án
Arrow 3
Tên lửa chống tên lửa
Arrow
Inbal Kreiss, nhận bằng cử nhân ngành kỹ thuật hóa học tại Technion năm 1988. Bà từng quản lý vài trăm kỹ sư để thiết kế một hệ thống bắn hạ các tên lửa tầm xa nhằm vào Israel từ lúc chúng còn ở trên tầng khí quyển.
Trong khi phần còn lại của thế giới còn đang mải lo lắng về mối đe dọa hạt nhân từ Iran thì Kreiss và nhóm của bà tại Tập đoàn Hàng không vũ trụ Israel – với một nửa nhân sự là những người tốt nghiệp Technion – đã tạo ra công nghệ thế hệ mới giúp ngăn chặn tên lửa của kẻ thù trước khi chúng chạm tới bất kỳ nơi nào gần Israel. Kreiss nói: “Chúng tôi phải sẵn sàng vào đúng thời điểm và phải sẵn sàng trước khi kẻ thù hành động. Chúng tôi đang chạy rất nhanh.”
̀ ́
Yoelle Maarek, nhận bằng Tiến sĩ khoa học máy tính tại Technion năm 1989 với công trình nghiên cứu về máy tính từ trước khi mạng lưới thông tin toàn cầu World Wide Web ra đời. Bà đã thành lập cơ sở nghiên cứu và phát triển của Google ở Israel. Chính Maarek là người đã dẫn dắt đội ngũ chuyên gia nghiên cứu tại đây thiết kế tính năng “tìm kiếm gợi ý” của Google – tính năng cho phép đưa ra một vài gợi ý để hoàn thiện cụm từ khóa của người dùng từ khi họ bắt đầu nhập một ký tự hay một từ nào đó lên thanh tìm kiếm. Đó từng là một dự án đầy thách thức mà không một ai tại trụ sở chính của Google nghĩ là khả thi – vậy mà Maarek đã làm được.
Mới gần đây, bà chuyển việc và hiện đang điều hành phòng nghiên cứu của Yahoo tại Haifa, một trong ba cơ sở nghiên cứu đặt ngoài California của tập đoàn này. Bà đang giám sát khoảng 20 chuyên gia có bằng tiến sĩ khoa học máy tính, một nửa trong số đó tốt nghiệp từ Technion.
“Ở Yahoo á! Chúng tôi không có các nguồn lực như của Google, vì vậy chúng tôi buộc phải trở nên thông minh hơn,” Maarek nói. “Chúng tôi không có túi tiền khủng, vì vậy phải có những bộ não khủng. Nó hơi giống với mối tương quan giữa Israel và Mỹ vậy.”
Ofer Vilenski, một doanh nhân thế hệ thứ hai của Technion từng bán công ty khởi nghiệp chuyên về phần mềm đầu tiên của mình với giá 107 triệu đô-la và giờ đang gây dựng một công ty nữa có tên Hola, công ty mới này tập trung vào tăng tốc độ kết nối trực tuyến bằng cách sử dụng phần mềm để tránh nghẽn đường truyền Internet. Hiện đã có khoảng 28 triệu người trên toàn thế giới đang sử dụng phần mềm Hola.
Không chỉ hài lòng với một sản phẩm phần mềm mới, Vilenski còn tạo ra chương trình máy tính của riêng mình để quản lý quy trình phát triển phần mềm hiệu quả hơn. Ông đã có được 7 triệu đô-la vốn đầu tư mạo hiểm ngay từ vòng gọi vốn đầu tiên mà không phải nhượng cho các nhà đầu tư một chút quyền sở hữu nào – chỉ cho họ quyền mua cổ phần với giá chiết khấu trong tương lai.
Vilenski luôn trân trọng thời gian ông làm phi công trong lực lượng không quân, nó đã dạy cho ông cách học hỏi từ sai lầm – kỹ năng rất quan trọng đối với một doanh nhân. Ông nói, “Bạn phải
xuất kích ba lần mỗi ngày, vì vậy lịch trình của bạn thường là mười phút nghe chỉ dẫn, nghiên cứu, bay, rồi báo cáo kết quả. Dần dần bạn sẽ quen với chu kỳ đó – nghe chỉ dẫn, thực hiện, báo cáo kết quả. Bạn không cần phải hoàn hảo, chỉ cần không ngừng tiến bộ. Mắc một lỗi nào hai lần mới là không thể chấp nhận được.”
Hossam Haick, một giáo sư ngành kỹ thuật hóa học 39 tuổi, hiện đang chế tạo một chiếc “mũi” nhân tạo có khả năng chẩn đoán được bệnh ung thư bằng cơ chế phát hiện mùi của các phân tử ung thư qua hơi thở của bệnh nhân.
Bị thôi thúc phải làm điều gì đó khi nghe tin một người bạn mắc bệnh ung thư, Haick đã dựa vào công nghệ nano để tạo ra thiết bị mà cựu Tổng thống Israel Shimon Peres từng gọi đùa là “Mũi Nano”. “Ngày nay ung thư thường âm thầm tiến triển mà không gây ra tác động phụ (đáng chú ý) nào cho đến khi phát thành bệnh nặng,” Haick nói. “Phương pháp này sẽ phát huy tác dụng tại thời điểm người bệnh thực sự cần nó nhất, ở các giai đoạn đầu.”
Haick, một người Israel gốc Ả Rập đến từ thành phố Nazareth, hiện đang điều hành một phòng thí nghiệm gồm 42 nhà nghiên cứu có nền tảng kiến thức thuộc chín chuyên ngành và đến từ gần chục quốc gia khác nhau. “Bạn sẽ thấy cả người Công giáo, Do Thái lẫn Ả Rập, cả những người sùng đạo và những người không tin vào tôn giáo, kiểu gì cũng có cả – tất cả cùng làm việc với nhau tại đây vì mục đích khoa học,” Haick nói. “Đó chính là sức mạnh lớn lao của khoa học.”
Giáo sư Hossam Haick: “Đánh hơi” ung thư
Giáo sư Haick cũng là một nhà sư phạm hàng đầu, hiện ông đang dạy một khóa học trực tuyến mở rộng đại trà về Công nghệ Nano và Các thiết bị cảm biến Nano, bằng cả tiếng Anh và tiếng Ả Rập, cho hơn 40.000 sinh viên thông qua Coursera(4), nhà cung cấp các khóa học đại học trực tuyến lớn nhất hiện nay. Như nhà báo phụ trách chuyên mục của tờ New York Times, Thomas Friedman, có ghi lại trong một bài báo của mình vào ngày 18 tháng Hai năm 2014, hàng ngàn sinh viên từ Ai Cập, Syria, Ả Rập Xê-út, Jordan, Iraq, Kuwait, Algeria, Morocco, Sudan, Tunisia, Jemen, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất và Bờ Tây đăng ký học bằng tiếng Ả Rập, còn hàng ngàn sinh viên Iraq thì đăng ký học bằng tiếng Anh.
Câu chuyện cuộc đời gói gọn trong sáu từ
Ngày nay Technion có gần 13.000 sinh viên thuộc 18 khoa và phân viện, nghiên cứu mọi thứ từ vật lý và toán học đến kiến trúc, công nghệ sinh học và cả kỹ thuật hàng không. Technion còn có 67.000 cựu học viên ở khắp nơi trên thế giới – khoảng 95% tập trung ở Israel nhưng một số thì ở những miền đất xa xôi như châu Âu, Mỹ hay Trung Quốc(5).
Trong khi tiến hành nghiên cứu của mình về ảnh hưởng của Technion bằng phương pháp định lượng, chúng tôi cũng muốn thử một chút phương pháp định tính và còn vận dụng thêm cả văn chương nữa. Vì vậy, trong một phần khảo sát trên Website của mình, chúng tôi đã hỏi một câu như sau:
́
Ernest Hemingway từng viết một câu chuyện hoàn chỉnh chỉ gồm có sáu từ. Đó là:
Giầy trẻ em. Chưa dùng. Để bán(6).
Xin hãy mô tả trong sáu từ đóng góp của bạn cho Israel và nhân loại.
Trước sự ngạc nhiên của chúng tôi, hơn 90% trong số 4.000 cựu học viên tham gia khảo sát đã trả lời câu hỏi này. (Một vài người từ chối vì cho rằng kỹ năng viết của họ không “đạt được trình độ của Hemingway”). Các câu trả lời rất đa dạng, bao trùm mọi khía cạnh của cuộc sống.
Hebrew là ngôn ngữ rất gãy gọn; việc dịch câu trả lời của các học viên sang tiếng Anh(7) thường khiến chúng tôi phải dùng nhiều hơn sáu từ. Rất nhiều người mô tả những công việc khác nhau mà họ đã trải qua trong đời:
Giáo viên. Nhà phát minh. Nhà văn. Người lính. Nhà giáo dục học. Nhà khoa học.
Những người khác nhấn mạnh các giá trị đạo lý đã dẫn dắt sự nghiệp của họ:
Nhân văn. Hữu hảo. Lòng trắc ẩn. Trung thực. Chuyên nghiệp. Quyết tâm.
Hoặc:
Ước mơ. Tâm huyết. Dám đương đầu. Học hỏi. Tin tưởng. Khẳng định mình.
Một trong những câu trả lời mà chúng tôi rất thích thú, thẳng thắn và đi luôn vào vấn đề:
Tôi đến, Tôi học tập, Tôi trở nên giàu có.
Và cả những bức tranh trái ngược:
Sinh ra và nuôi dạy năm đứa trẻ tuyệt vời.
Không phải tất cả đều là những kết quả vui vẻ. Israel không quan tâm. Nên giờ tôi là công dân Mỹ.
Hầu hết đều nói về những kỹ năng mà họ đã học được từ Technion, và cách họ áp dụng chúng trong cuộc sống:
Mang đến những nước nghèo công nghệ phù hợp với họ. Chip điện tử cho thiết bị gia dụng, 500 triệu gia đình. Kỹ thuật vi bao tiên tiến trong phụ gia thực phẩm.
Phương pháp điều trị và thuộc chữa ung thư tiên tiến. Đã được cấp bằng sáng chế.
Công nghệ xanh, nguồn lực tăng trưởng mới của Israel. Phát triển bộ vi xử lý 8087 của Intel.
Chế tạo Arava, máy bay đầu tiên do Israel tự sản xuất.
Thu hút người nhập cư Ethiopia vào ngành công nghiệp.
Sản phẩm mới làm thay đổi thế giới chụp ảnh và công nghệ.
Chủ nghĩa phục quốc Do Thái: Trên một tỷ đô-la xuất khẩu quốc phòng.
Phần mềm mô phỏng máy bay không người lái. Công nghệ tưới lưu lượng thấp.
Hai mươi năm trong ngành y tế, một nửa thời gian phục vụ người Ả Rập.
́
Chúng tôi đã bị ấn tượng trước phạm vi rộng lớn của những đóng góp cho cả Israel và thế giới của cộng đồng Technion. Các nhà sáng lập tiên phong sẽ phản ứng ra sao trước những câu trả lời trên, và trước Technion của ngày hôm nay? Viên gạch đầu tiên mà họ đặt xuống giờ đây đã trở thành một khuôn viên rộng hơn 300 mẫu cùng 90 tòa nhà. Lớp học đầu tiên của họ với 16 sinh viên nam và một sinh viên nữ giờ đã mở rộng quy mô thành khoảng 12.800 sinh viên, trong đó 40% là nữ và một phần năm là người Israel gốc Ả Rập.
Các cựu học viên Technion đến nay vẫn mang theo mình đặc tính di truyền là ý chí quyết tâm khó chuyển dời. Giống như thế hệ đi trước, họ tiếp tục phục vụ các nhu cầu kỹ thuật của quê hương Do Thái cũng như lợi ích của tất cả công dân.
Nhưng họ còn làm được nhiều hơn thế. Từ bộ vi xử lý cho đến các tiến bộ y học, đóng góp của Technion còn vượt lên trên cả những điều xa xôi nhất mà các nhà sáng lập ra nó có thể tưởng tượng ra. Họ làm rung chuyển cả địa cầu.
Chuyện kể cuối chương: Chuyện đời thường của một Công dân [Israel] bình thường (O.C(8))
O.C sống ở một thành phố cách Israel khá xa. Anh đã kết hôn, có hai con ở tuổi mới lớn và đang cố gắng quên đi sự thực rằng mình đã bước sang độ tuổi trung niên. Anh yêu bóng đá và bóng rổ, rất thích đạp xe cuối tuần, và hiện đang nắm giữ vị trí quản lý cấp trung tại một công ty công nghệ thông tin hoạt động trên phạm vi toàn cầu.
Đồng hồ báo thức reo lúc ٧ giờ sáng, anh vội ngắt chuông để vợ có thể ngủ nướng thêm một chút, rồi bật dậy khỏi giường, vươn người khoan khoái. Anh cảm thấy hoàn toàn tỉnh táo sau giấc ngủ sâu suốt bảy giờ liền, và đã sẵn sàng cho một ngày làm việc bận rộn.
Anh từng mắc chứng ngưng thở trong lúc ngủ, một dạng rối loạn với đặc điểm phổ biến là hiện tượng nhịp thở bị ngắt quãng khiến người mắc bệnh không có được giấc ngủ sâu và thư giãn hoàn toàn. Một vài thống kê cho thấy cứ năm người trưởng thành lại có một
́ ́
người mắc chứng bệnh này. Thế nhưng một công nghệ đột phá có tên Đồng hồ PAT đã giúp các bác sĩ chẩn đoán đúng bệnh và tìm ra cách chữa trị phù hợp cho anh.
Đồng hồ PAT ra đời từ phòng thí nghiệm về giấc ngủ của Chủ tịch Technion Peretz Lavie. Được bệnh viện Cleveland đánh giá là một trong ١٠ Sáng kiến y tế hàng đầu của năm 2010, Đồng hồ PAT giúp kiểm tra giấc ngủ cho bệnh nhân một cách linh hoạt. Nó gồm một thiết bị nhỏ được gắn vào đầu ngón tay và nối với thân máy có hình dạng giống như một chiếc đồng hồ đeo tay giúp ghi lại các tín hiệu từ hệ thần kinh tự trị của cơ thể.
Kiểm tra giấc ngủ một cách thoải mái cho bệnh nhân
Chủ tịch Technion Giáo sư Peretz Lavie
Anh vươn vai rồi bước vào phòng làm việc, nơi máy tính vẫn luôn chờ sẵn. Anh nhìn ra ngoài cửa sổ, lòng đầy tự hào về khu vườn nhà mình, nó luôn xanh mát và đáng yêu nhờ hệ thống tưới nhỏ giọt.
Công nghệ tưới nhỏ giọt đã cách mạng hóa nền nông nghiệp toàn cầu nhờ tăng cường đáng kể hiệu suất sử dụng nước và cho phép mở rộng sản xuất lương thực bằng phương thức rất thân thiện với môi trường. Công nghệ này được giáo sư Simcha Blass thai nghén, ông đã cùng con trai mình là Yeshayahu và một đồng sự nữa là Kibbutz Hatzerim thành lập Công ty Netafim vào năm 1965. Đến năm 1972, công ty này rơi vào tay một học viên tốt nghiệp ngành kỹ thuật cơ khí của Technion là Raphael Mehudar, ông đã chế tạo và phát triển thế hệ tiếp theo của công nghệ này với các hệ thống tưới tinh vi hơn
̀ ̀ ́
nhiều, tích hợp trong đó trên 40 nhóm bằng sáng chế đã được đăng ký bản quyền trên toàn cầu. Những phát minh này tích hợp tất cả các công nghệ hiện đại nhất đang được ứng dụng trong các hệ thống tưới tiêu hàng đầu trên thế giới hiện nay. Công ty Netafim của Israel đã xuất khẩu các sản phẩm của mình đi khắp các quốc gia trên toàn cầu.
Hệ thống tưới tiêu nhỏ giọt Netafim và Rafi Mehoudar
O.C cắm thẻ nhớ vào máy tính để chuyển các file dữ liệu mà anh mang về từ chỗ làm ngày hôm qua.
“Đĩa lưu dữ liệu di động – hay như mọi người vẫn thường gọi là thẻ nhớ – được phát triển bởi một công ty Israel tên là M Systems Ltd., do Dov Moran, sinh viên tốt nghiệp ngành kỹ thuật điện của Technion thành lập vào năm 1989. M-Systems sở hữu bằng sáng chế cho ổ nhớ flash(9) đầu tiên, được bán trên thị trường vào năm 1995 với tên thương mại là DiskOnChip và ổ nhớ flash kết nối chuẩn USB(10), có tên thương mại là DiskOnKey, được bán rộng rãi trên thị trường vào năm 1999. Ngày nay thẻ nhớ có mặt ở khắp mọi nơi, gắn cùng chùm chìa khóa hay trong túi xách tay của hàng triệu triệu người. M Systems đã được công ty đối thủ SanDisk mua lại vào năm 2006.
O.C kiểm tra ứng dụng trò chuyện trực tuyến và thấy anh trai mình đang “online.” Họ cùng bàn bạc để mua chung quà cho lễ kỷ niệm ngày cưới sắp tới của bố mẹ.
Dov Moran và Yossi Vardi
Ứng dụng trò chuyện trực tuyến(11) (hay tin nhắn tức thời) được phát triển bởi một công ty có tên Mirabilis, thông qua phần mềm ICQ (“I Seek You” – Tôi tìm kiếm bạn) mà người dùng có thể tải xuống miễn phí. Nhóm tác giả của nó, những sinh viên trẻ của ngành khoa học máy tính Israel đã viết ra phần mềm này xuất phát từ mong muốn biết được người bạn ở nước ngoài nào của mình đang “online” để có thể trò chuyện trực tiếp với họ. Với sự giúp đỡ từ cha của một thành viên trong nhóm – cựu sinh viên Technion Yossi Vardi, tốt nghiệp chuyên ngành Kỹ thuật và Quản lý Công nghiệp – họ đã thành lập công ty và cung cấp ICQ cho bất kỳ ai có nhu cầu sử dụng. Tính đến năm 1998, khi American Online mua lại Mirabilis với giá 408 triệu đô-la, đã có khoảng 12 triệu người tải phần mềm này. Tại thời điểm đó, đó là cái giá cao nhất từng được trả cho một công ty phần mềm Israel.
O.C cần kiểm tra kết quả tài chính hàng quý của bộ phận kinh doanh mà anh đang quản lý. Anh mở tệp tài liệu định dạng Adobe Acrobat PDF(12) vừa chuyển từ thẻ nhớ vào máy tính.
Định dạng PDF và các định dạng hình ảnh khác như GIF và TIF đều dựa trên thuật toán nén dữ liệu có tên Lempel-Ziv, được phát triển bởi các giảng viên Technion là Giáo sư Abraham Lempel (ngành khoa học máy tính), Giáo sư danh dự Jacob Ziv (ngành kỹ thuật điện), và một đồng nghiệp của họ là Giáo sư Terry Welch. Nén dữ liệu là phương pháp tối quan trọng trong thời kỳ phát triển ban đầu của các máy tính cỡ nhỏ, bởi khi đó bộ nhớ của chúng còn quá hạn chế, chưa thể xử lý được lượng dữ liệu lớn. Thuật toán Lempel-Ziv
̀ ́ ́
cho phép nén một tệp văn bản bằng tiếng Anh xuống chỉ còn một nửa dung lượng của nó – tức là tăng gấp đôi dung lượng bộ nhớ của máy tính. Khởi đầu với các hệ thống Unix vào năm 1986, thuật toán Lempel-Ziv đó trở thành một yếu tố then chốt của ngành công nghệ máy tính toàn cầu trong gần hai thập kỷ qua.
O.C mở ứng dụng lịch trực tuyến của mình ra và thấy một lời nhắc nhở rằng chiều nay anh có một buổi kiểm tra sức khỏe định kỳ. Anh nghĩ ngay rằng mình sẽ nhân thể ghé thăm người dì hiện đang điều trị bệnh ung thư ở bệnh viện đó. Giờ đã là 7 giờ 15 phút sáng – đến giờ gọi các con anh dậy rồi.
Anh tự hỏi liệu có ai đó đang nghĩ đến chuyện tạo ra một ứng dụng giúp các cô cậu học trò tuổi mới lớn ra khỏi giường mỗi sáng để đi học mà không khiến chúng cau có không nhỉ?
Chương 2
Từ Sỏi đá đến Chất bán dẫn
Phải đến năm 1914 tòa nhà đầu tiên mới hoàn thành, thế nhưng một cuộc luận chiến lớn trên phạm vi quốc tế đã bao trùm lên học viện công nghệ non trẻ của người Do Thái ở Haifa này. Các kỹ sư và chuyên gia kỹ thuật tương lai sẽ được giảng dạy bằng tiếng Đức hay tiếng Hebrew(13)?
Những người Do Thái đến từ Đức đang tham gia tích cực vào việc tổ chức học viện đã quyết định rằng nó sẽ không có ngôn ngữ chính thức nào cả, nhưng các bộ môn kỹ thuật thì sẽ được giảng dạy bằng tiếng Đức. Quyết định của họ lập tức châm ngòi một cuộc chiến nảy lửa: Sao học viện đào tạo bậc cao đầu tiên ở Palestine – biểu tượng của niềm hy vọng và giấc mơ Do Thái lại có thể giảng dạy bằng một thứ tiếng khác không phải tiếng Hebrew? Giáo viên ở khắp các khu định cư đầu tiên của người Do Thái khi đó đã kêu gọi một cuộc tẩy chay các trường học do người Đức điều hành. Công nhân đang xây dựng học viện mới thì cử một phát ngôn viên đòi hỏi việc giảng dạy bằng tiếng Hebrew. Các cuộc biểu tình ủng hộ tiếng Hebrew nổ ra khắp Jerusalem, phải nhờ đến sự đàn áp của chính quyền Ottoman mới bị dập tắt; các sinh viên luật người Do Thái ở Beirut và Constantinople cùng gửi đi thông điệp ủng hộ phong trào chống đối.
Phong trào được biết đến trong lịch sử phục quốc Do Thái là “cuộc chiến tranh ngôn ngữ” này còn làm dậy sóng cả tờ New York Times vốn nổi tiếng là điềm tĩnh.
“Các sinh viên ở Haifa sẽ không thể trở thành những kỹ sư hàng đầu nếu nền tảng kiến thức về các bộ môn khoa học chính xác được truyền tải đến họ bằng tiếng Hebrew, bởi không có bất kỳ một cuốn sách giáo khoa bằng tiếng Hebrew nào về các lĩnh vực
́
đó cả,” Paul Nathan, người Do Thái gốc Đức, một trong những người tiên phong trong các nỗ lực thành lập trường, viết.
“Vậy là chúng ta lại đang quyết tâm tạo ra một ngôi trường sẽ cản trở sự phát triển của ngôn ngữ Hebrew,” Bernard Rosenblatt, Thư ký danh dự của Hiệp hội phục quốc Do Thái Mỹ phản pháo.
Học viện kỹ thuật non trẻ nằm giữa tâm bão đó, đương nhiên, chính là Technion ngày nay. Và những tranh luận cuồng nhiệt xung quanh vấn đề ngôn ngữ của nó chính là bằng chứng cho thấy câu chuyện về Technion gắn bó sâu sắc với lịch sử ra đời của Nhà nước Israel tới mức nào.
Sự phát triển của Technion – từ một tòa nhà đơn sơ trên nền đá trở thành một trong những trường đại học nghiên cứu hàng đầu thế giới – phản ánh sự phát triển của toàn bộ xã hội Israel trong vòng một thế kỷ qua. Nhưng Technion còn có vai trò lớn hơn thế nữa. Hãy cùng tóm tắt những đóng góp của nó:
Làm sống lại ngôn ngữ Hebrew. Xây dựng lực lượng lao động với những kỹ năng cần thiết phục vụ cho một nền độc lập thực sự. Phát triển các ngành hàng không vũ trụ và công nghiệp quốc phòng nhằm bảo vệ đất nước Israel non trẻ trước kẻ thù. Thu hút dòng người Xô Viết di cư trên diện rộng vào những năm 1990. Làm bệ phóng cho sự bùng nổ công nghệ cao đã biến Israel thành một trong những quốc gia sáng tạo nhất trên thế giới…
Chủng tộc Technion: Khai sinh từ sỏi đá khô cằn của sườn núi Haifa
Còn hơn cả hình ảnh phản chiếu của lịch sử Israel, Technion đã chứng minh rằng nó chính là động lực thúc đẩy tiến trình lịch sử đó, là nơi nuôi dưỡng những kỹ năng và tầm nhìn đã tạo ra xã hội Israel ổn định, thịnh vượng và phát triển trên nền tảng công nghệ cao như chúng ta thấy ngày nay.
Giấc mơ về một trường đào tạo kỹ thuật của người Do Thái
Ý tưởng về Technion được nhen nhóm vào năm 1901, ít lâu sau khi Đại hội Phục quốc Do Thái lần thứ năm đưa ra ý tưởng về việc thành lập một trường đại học Do Thái. Ba người trẻ tuổi trong đó có Martin Buber và Chaim Weizmann đã viết một tài liệu cổ động, kêu gọi hạn chế dần sự phụ thuộc của người Do Thái vào đào tạo chuyên môn kỹ thuật tại Nga, đồng thời đề xuất thành lập một “Technikum” – học viện kỹ thuật công nghệ – nhằm trang bị cho thanh niên Do Thái kiến thức chuyên sâu cũng như kỹ năng để làm các công việc chuyên ngành kỹ thuật và nông nghiệp.
Cộng đồng Do Thái nhỏ bé ở Palestine thời kỳ đó phải học ở các trường do các hội từ thiện của Pháp, Anh và Đức thành lập và điều hành. Chính Hilfsverein – một hội từ thiện Do Thái gốc Đức – đã đi đầu với ý tưởng về một trường đào tạo của chính người Do Thái. Nhờ sự ủng hộ của nhà triết học theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái Ahad Ha’am, Hilfsverein đã kêu gọi được khoản đầu tư đợt đầu trị giá 100 ngàn rúp (tương đương khoảng 50 ngàn đô-la Mỹ tại thời điểm đó, tức khoảng 1,3 triệu đô-la theo giá trị hiện tại) từ ông trùm
́
tư bản ngành chè người Nga gốc Do Thái Kalonymous Zeev Wissotzky. Nhà tài phiệt Mỹ Jacob Schiff – bị chấn động mạnh bởi sự nghèo đói mà ông chứng kiến trong một chuyến thăm Palestine – đã quyên góp thêm 100 ngàn đô-la Mỹ nữa cho dự án.
Martin Buber (trái) và Chaim Weizmann (phải, áo khoác tối màu): những người khởi xướng thành lập một “Technikum”
Các nhà tổ chức đã chọn Haifa làm nơi đặt ngôi trường mới. Đây là một cảng có kết nối đường sắt với các thành phố lớn như Beirut và Damascus, giúp các học viên tốt nghiệp sau này có thể tìm kiếm việc làm trong một khu vực rộng lớn mà tại thời điểm đó vẫn hoàn toàn thuộc về Đế chế Ottoman. Cộng đồng người Do Thái ở Haifa khá nhỏ – chỉ hai ngàn người trong tổng dân số 20 ngàn người của toàn thành phố – và các nhà tổ chức nhận định rằng một cơ sở đào tạo sẽ là động lực để nó phát triển. Họ cũng thấy cộng đồng Do Thái ở Haifa khá tiến bộ và linh hoạt – ít say sưa với tôn giáo hơn Jerusalem và ít cuồng nhiệt với chủ nghĩa phục quốc Do Thái hơn Jaffa.
Những bất hòa trong tư tưởng phục quốc Do Thái trên khắp thế giới khiến cho ngôi trường mới từ trong trứng nước đã là tâm điểm của rất nhiều tranh cãi.
Vào thời điểm đó, nhiều người Do Thái ở Mỹ và Đức tuy phản đối ý tưởng về một nhà nước Do Thái, nhưng lại mong muốn cải thiện điều kiện sống của người dân ở Palestine; họ thấy một trường đào tạo nghề chính là cách để giúp người Do Thái ở Palestine thoát khỏi đói nghèo. Mặt khác, phong trào phục quốc Do Thái còn non trẻ nhưng đang lớn mạnh nhanh chóng thì lại cho rằng một trường đại học kỹ thuật sẽ là cơ sở quan trọng làm nên tư thế một quốc gia. Dấu ấn của những căng thẳng này in đậm nét trong kế ̀ ̀ ́ ̀
hoạch ban đầu về việc thành lập trường – từ vấn đề ai sẽ sở hữu đất đai, đến chương trình học và bằng cấp, đến ngôn ngữ giảng dạy.
Gần một năm sau ngày 11 tháng Tư năm 1912, khi viên gạch đầu tiên được đặt xuống cùng một lễ kỷ niệm hoành tráng, cuộc chiến tranh ngôn ngữ thực sự bùng nổ. Đầu tiên, có vẻ như người Đức sẽ giành chiến thắng: không có cuốn sách giáo khoa khoa học nào bằng tiếng Hebrew cả, và trên thực tế cũng không có giáo viên đủ trình độ nào có thể nói được tiếng Hebrew, và cũng không có những từ ngữ tương đương bằng tiếng Hebrew cho rất nhiều thuật ngữ khoa học và kỹ thuật. Trên tất cả, tổng lãnh sự Đức – người hỗ trợ tài chính cho các nhà tổ chức – cương quyết cho rằng không những tiếng Đức phải là ngôn ngữ dùng để giảng dạy mà nhà trường cũng phải thuê các giáo viên Đức và không phải người Do Thái đứng lớp.
Các nhà tổ chức đã nhượng bộ bằng cách sử dụng tiếng Đức để giảng dạy các bộ môn khoa học và kỹ thuật trong khi vẫn cho phép các môn học tự chọn bằng tiếng Hebrew, tiếng Anh hoặc tiếng Pháp trong vòng hai giờ mỗi tuần. Cộng đồng nhỏ bé nhưng đang lớn mạnh của những người theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái đã phản ứng vô cùng giận dữ bằng các cuộc tẩy chay, biểu tình và diễn thuyết phản đối.
“Technikum sẽ phải giảng dạy bằng tiếng Hebrew, hoặc là nó sẽ không tồn tại,” Hiệp hội giáo viên tiếng Hebrew tuyên bố. Còn Eliezer Be-Yehuda, học giả vô cùng táo bạo trong việc phát triển ngôn ngữ Hebrew hiện đại thì cảnh báo “Technion sẽ không khai giảng mà không có đổ máu”.
Cuối cùng, Chiến tranh Thế giới thứ Nhất lại quyết định kết cục của câu chuyện. Người Đức thua trận nên không còn nhiều ảnh hưởng ở Trung Đông nữa. Phong trào Phục quốc Do Thái sau chiến tranh phát triển mạnh mẽ và có vị thế hơn. Khi ban lãnh đạo do phía Đức ủng hộ rơi vào tình trạng rối loạn về tài chính, Jacob Schiff đã mua lại đất đai và cơ sở của Technion rồi giao lại nó cho phong trào Phục quốc Do Thái. Khi những sinh viên đầu tiên nhập học vào
̀ ́
năm 1923 và 1924, việc giảng dạy bằng tiếng Hebrew đã trở thành điều không một ai còn nghi ngờ hay đặt câu hỏi nữa.
Ảnh hưởng của quyết định này còn vượt xa khỏi phạm vi lớp học và trải nghiệm của vài chục sinh viên trong niên khóa đầu tiên của Technion. Cuộc chiến tranh ngôn ngữ đã khởi đầu phong trào ủng hộ tiếng Hebrew trở thành ngôn ngữ hàng ngày của người Do Thái Palestine – điều này đến lượt nó lại gieo mầm cho ý thức văn hóa và tinh thần dân tộc mới trong cộng đồng người Do Thái.
Cuộc tranh cãi cũng đồng thời khiến Phong trào Phục quốc Do Thái tập trung hơn vào nhu cầu phải có một hệ thống giáo dục mang màu sắc dân tộc riêng. Sáu trường phổ thông – tất cả đều được dạy bằng tiếng Hebrew – đã được mở ra ở Jerusalem, Haifa và Jaffa dù gặp phải làn sóng tẩy chay và phản đối mạnh mẽ. Đến thời điểm kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ Nhất, đã có tới 27 trường do những người theo chủ nghĩa Phục quốc Do Thái mở ra ở khắp Palestine.
Năm 2011, Bảo tàng thành phố Haifa tổ chức một cuộc triển lãm mang tính lịch sử về cuộc chiến ngôn ngữ và ý nghĩa của nó đối với cộng đồng mà sau này trở thành Israel ngày nay.
Ủy viên ban điều hành Svetlana Reingold viết: Cuộc chiến tranh ngôn ngữ, với chiến thắng thuộc về tiếng Hebrew, chính là một trong những giờ phút quyết định sự hình thành và kết tinh của bản sắc văn hóa Israel.”
Xây trường và dựng nước
Những sinh viên Technion đầu tiên nhập học vào cuối năm 1923 tại một tòa nhà có sự kết hợp hài hòa giữa quy mô và công năng của một trường đại học châu Âu với chi tiết kiến trúc mái và cổng vòm theo truyền thống Trung Đông. Những lớp học đầu tiên hướng tới nhu cầu thiết thực của một xã hội đang bắt đầu đô thị hóa và công nghiệp hóa – các chương trình buổi tối dành cho công nhân xây dựng, làm đường và mộc. Một năm sau, các lớp đại học đầu tiên đào tạo các kỹ sư xây dựng được tổ chức.
̀
Chuyên ngành đào tạo đầu tiên của Technion là kỹ sư xây dựng và kiến trúc. Và quả đúng là các học viên tốt nghiệp Technion đã xây dựng đất nước theo đúng nghĩa đen của cụm từ đó. Hiệu trưởng đầu tiên của Khoa Kiến trúc là kiến trúc sư và nghệ sĩ người Đức gốc Do Thái Alexander Baerwald. Chính ông đã thiết kế tòa nhà đầu tiên của Technion với phong cách kiến trúc vô cùng duyên dáng. Ông cũng chính thức di cư sang Israel cùng vợ vào năm 1925.
Điều kiện học tập thời kỳ đó rất khó khăn. Ba đội quân khác nhau đã chiếm đóng trường trong thời kỳ chiến tranh. Sau chiến tranh, lữ khách thường lấy trường làm nơi nghỉ chân khiến nó trở
thành một nhà trọ bất đắc dĩ. Các bà nội trợ thậm chí còn “tận dụng” các lọ thủy tinh lớn tại khoa hóa để ngâm rau củ. Khi Arthur Blok từ Anh sang để nhận chức giám đốc vào năm 1924, ông đã chứng kiến không chỉ các cánh cửa biến mất mà đến cả cầu thang cũng bị dỡ hết. Trần thì thấm dột. Các lớp học thì không bàn ghế thiết bị. Ông chỉ có thể tìm thấy một thợ ống nước duy nhất trong cả nước có khả năng dựng một phòng thí nghiệm hóa học. Ngay cả tên gọi của trường cũng vẫn liên tục bị thay đổi.
Tòa nhà đầu tiên của Technion, nay là bảo tàng khoa học và công nghệ
Tên gọi Technion hình thành như thế nào?
Rất ít trường đại học từng được các nhà thơ hay học giả đặt tên. Technion là một trong số đó. Ban đầu, khi tiếng Đức vẫn còn là ứng viên đầu bảng cho ngôn ngữ giảng dạy chính thức, tên giao dịch của trường vẫn là Technikum, thuật ngữ tiếng Đức để chỉ một trường kỹ thuật. Sau đó, Đại hội Phục quốc Do Thái đề
́ ́
xuất một phiên bản tiếng Hebrew là Techniah. Nhà văn Ahad Ha’am gợi ý cái tên Technicon. Cuối cùng, nhà thơ Chaim Nachman Bialik, được xem như nhà thơ tiếng Hebrew vĩ đại nhất đã đề nghị đặt tên trường là Technion. Bialik đã thắng. Và cái tên Technion đi vào lịch sử, từ đó đến nay.
Các giảng viên – rất nhiều trong số đó vừa từ châu Âu sang – phải đối mặt với thách thức lớn là giảng dạy cho sinh viên bằng thứ ngôn ngữ mà họ chưa biết. Một giáo sư đến từ Đức đã sử dụng hàng loạt thuật ngữ khoa học bằng tiếng Nga trong các bài giảng của mình vì nghĩ rằng đó là tiếng Hebrew. Còn một giáo sư môn hóa đến từ Kharkov thì nhờ dịch các bài giảng của ông sang tiếng Hebrew rồi sau đó phiên âm lại bằng tiếng Nga để có thể đọc cho sinh viên nghe.
Nhưng ngôi trường mới lại thu hút được sự quan tâm đặc biệt – nhiều khi đến vô lý. Những người Do Thái trẻ tuổi ở Palestine lúc ấy đang khao khát được đào tạo thực hành. “Những anh thợ đồng hồ muốn học về điện, thợ kim hoàn muốn học kỹ thuật cắt đá, và còn cả những người không có nguyện vọng cụ thể về một chuyên ngành nào nhưng vẫn đòi ngồi trên giảng đường để có thể nghe các bài giảng bất kỳ” – Blok viết.
Tiếng Hebrew đã thực sự được cải tiến để phục vụ mục đích nghiên cứu và giảng dạy của trường. Một hội đồng thuật ngữ kỹ thuật bằng tiếng Hebrew đã được thành lập vào năm 1924 với nhiệm vụ xây dựng danh mục tất cả các thuật ngữ thường dùng trong ngành cầu đường và xây dựng. Từ những năm 1950, Technion trở thành nơi đặt trụ sở Văn phòng Thuật ngữ Công nghệ Israel, văn phòng đã xuất bản 75 cuốn từ điển khoa học và công nghệ bằng nhiều thứ tiếng, đồng thời quản lý cơ sở dữ liệu gồm khoảng 100.000 thuật ngữ bằng tiếng Hebrew của các ngành như hóa học, vật lý và máy tính.
Lớp học đầu tiên của Technion
Công việc của Technion lúc ấy không chỉ là kiến tạo một ngôn ngữ mà còn kiến tạo cơ sở hạ tầng cho một nhà nước Israel như chúng ta biết tới ngày nay. Phòng thí nghiệm vật liệu xây dựng của Technion đã đưa ra các tiêu chuẩn về xây dựng khi làn sóng định cư của người Do Thái ở Palestine dần mở rộng. Các chương trình thực tập tại chỗ của trường đã góp phần giúp đỡ về mặt chuyên môn kỹ thuật cho các khu định cư của người Do Thái cũng như các làng nông nghiệp khác. Khoa thủy lực đã tiến hành các nghiên cứu giúp mở mang ngành nuôi trồng thủy sản – các hồ nuôi cá – thành một ngành sản xuất trọng yếu của Israel.
Cuộc Đại Khủng hoảng cũng làm Technion chao đảo như tất cả các quốc gia khác. Đội ngũ nhân sự của trường đồng ý đi làm mà không được cam kết về tiền lương: Một vài người chỉ được trả khoảng 25% so với những gì họ nhận được trước đây, còn những người khác thậm chí không được trả đồng lương nào. “Những người đóng góp hảo tâm nhất đã biến mất khỏi một thế giới đang ngập chìm trong khủng hoảng kinh tế,” giám đốc Shlomo Kaplansky than vãn sau một chuyến kêu gọi tài trợ với kết quả đáng thất vọng ở châu Âu vào năm 1932.
Nhưng học viện vẫn xoay sở đủ nguồn lực để mở cửa đón các nhà khoa học và học giả trốn chạy khỏi Đức quốc xã. Albert Einstein, sau này trở thành chủ tịch đầu tiên của Cộng đồng Technion vào năm 1924, đã giúp kêu gọi tài trợ phục vụ cho việc thu hút các học giả lưu vong. Technion mở thêm khoa công nghệ công nghiệp để đào tạo
̀
và tuyển dụng những người tị nạn. Các lớp học được giảng dạy bằng tiếng Đức nhằm đào tạo lại các kỹ sư thuộc rất nhiều chuyên ngành khác nhau, cung cấp nguồn nhân lực cho các công việc liên quan đến kỹ thuật xây dựng, một nhu cầu thường xuyên của xã hội thời hậu chiến. Các giáo sư của Technion cũng giúp đỡ giới viên chức Đức chuyên làm việc bàn giấy học hỏi các kỹ năng lao động chân tay để họ có thể tự ổn định cuộc sống ở nơi mới. Một báo cáo năm 1934 đã ghi lại rằng 13 người có trình độ đại học, 26 thương nhân, 9 viên chức, 20 lao động phổ thông và 12 người đang làm các nghề “lặt vặt” khác đã được đào tạo lại thành 39 thợ ván khuôn và đổ bê tông, 22 thợ sắt, 10 thợ mộc và 9 thợ ống nước.
Albert Einstein (ở giữa), chủ tịch Cộng đồng Technion đầu tiên, ảnh chụp tại Technion
Einstein và Technion
Albert Eistein có lẽ là nhà khoa học gốc Do Thái vĩ đại nhất trong lịch sử. Chỉ trong khoảng thời gian một năm ngắn ngủi, từ giữa tháng Sáu đến tháng Mười Một năm 1905, Eistein đã cho ra đời bốn công trình nghiên cứu làm thay đổi cả thế giới, gồm có hiệu ứng quang điện, chuyển động Brown, thuyết tương đối hẹp và phương trình nổi tiếng: E = mc2.
́ ́
Lịch sử của Technion gắn bó mật thiết với câu chuyện cuộc đời của Einstein. Năm 1923, Einstein và vợ tới thăm Technion và trồng kỷ niệm hai cây bách trong vườn trường. Ông đã nghe một buổi nói chuyện của Giáo sư Aharon Tcherniavsky, một giáo viên của trường trung học Reali, nội dung về phản đối xu hướng để Technion trở thành nơi chuyên đào tạo công nhân kỹ thuật và ủng hộ quan điểm biến Technion thành một trường đại học đào tạo kỹ sư. Sau này, Einstein có hồi tưởng lại trong nhật ký của mình ấn tượng mạnh mẽ của ông về Tcherniavsky. Năm 1924, Einstein trở thành người đứng đầu Hội đồng Đức của Học viện Kỹ thuật ở Haifa – một trong rất nhiều Cộng đồng Technion trên khắp thế giới có vai trò vô giá trong sự phát triển và thành công của trường sau này.
Năm 1933, ít lâu sau khi Hitler lên nắm quyền, Technion bắt đầu đàm phán với các nhà khoa học và kỹ sư Đức gốc Do Thái đang tìm đường di cư. Cần phải có quỹ hỗ trợ cho hoạt động này. Einstein đã viết một bức thư kêu gọi gửi tới cho Quỹ trung ương Anh dành cho người Đức gốc Do Thái, trong đó nói rằng “đây là môt cơ hội lớn để gây dựng ở Palestine một trung tâm khoa học kỹ thuật quan trọng của người Do Thái… Tôi kêu gọi quý hội đồng hãy giúp Technion… cứu lấy những trí tuệ kỹ thuật Do Thái giỏi nhất để dành cho Palestine.”
Khi Cộng đồng Technion tại Mỹ (ATS) ra mắt lần đầu tiên trong một buổi tiệc tối ở New York ngày 8 tháng Năm năm 1940, Einstein là người phát biểu chủ đạo. Ông kêu gọi các kỹ sư, kiến trúc sư, nhà khoa học và nhà tư bản công nghiệp Do Thái ủng hộ Technion “bằng sự thông thái và nguồn lực tài chính của các bạn.” Cuối Chiến tranh Thế giới thứ Hai, Einstein lại gửi một thông điệp nữa đến buổi tiệc tối được tổ chức hàng năm của Cộng đồng này, nói rằng “Technion đã giúp Đồng Minh giành chiến thắng bằng việc cung cấp cho lực lượng quân đội Liên Hiệp Quốc nguồn nhân sự kỹ thuật được đào tạo bài bản và các cơ sở nghiên cứu hiện đại.”
Một năm sau, vào năm 1944, ông nhấn mạnh với ATS rằng “Technion… là yếu tố không thể thiếu cho sự nghiệp phục ́
hưng dân tộc của chúng ta sau chiến tranh.”
Khi Tổng thống đầu tiên của Israel, Chaim Weizmann, qua đời vào tháng Mười Một năm 1952, Thủ tướng David Ben-Gurion đã đề nghị Einstein đảm nhiệm chức vụ này. Đại sứ Israel tại Hoa Kỳ, Abba Eban, giải thích rằng lời đề nghị đó “thể hiện sự tôn trọng sâu sắc nhất mà dân tộc Do Thái dành cho một người con của mình.” Nhưng Eistein đã từ chối. Ông đáp lại rằng “ông hết sức xúc động nhưng đồng thời cũng rất khổ tâm và hổ thẹn” rằng mình không thể nhận lời. Là một trong những nhà khoa học lỗi lạc nhất trong lịch sử nhưng Eistein lại nói ông không thể nhận chức Tổng thống bởi ông không có những khả năng cần thiết mà chức vụ này đòi hỏi!
Eistein từng nói, “Israel chỉ có thể thắng trong cuộc chiến sinh tồn bằng con đường duy nhất là xây dựng cho mình nền tảng tri thức chuyên sâu về khoa học công nghệ.” Đối với ông, sự hưng thịnh của Technion có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn vong và thịnh vượng của dân tộc Do Thái.
Thủ tướng David Ben-Gurion, tại công trường xây dựng cơ sở mới của Technion
Cùng lúc đó, các xưởng sản xuất của Technion còn cung cấp vũ khí và quân trang thiết yếu cho các tay súng tự vệ Do Thái ở Haganah – mọi thứ từ kíp đạn và các bộ phận của súng cho đến khóa tín hiệu đèn và đài không dây. Trong suốt những năm 1930 và 1940, hầu như mỗi sinh viên ở Technion đều đóng một vai trò nào đó ́ ́
trong các hoạt động quân sự bí mật. Họ chui xuống các giếng sâu 100 mét trong sân trường để thử vũ khí mà không bị chính quyền Anh phát hiện; họ luyện bắn súng ngắn trong hành lang tầng hầm nơi tiếng súng được ngụy trang bởi tiếng ồn của các máy móc công nghiệp.
Trong suốt cuộc Chiến tranh giành Độc lập năm 1948, các tay súng Israel đã dựa vào “cốc-tai Ilioff” – một loại bom cầm tay sản xuất hàng loạt do Giáo sư của Technion Alexander Ilioff chế tạo. Đây mới chỉ là khởi đầu cho mối quan hệ đối tác lâu dài và hiệu quả giữa Technion và Các lực lượng Quốc phòng Israel trong đó Technion sẽ cung cấp cho nhà nước non trẻ này mọi thứ từ kính mắt nhìn xuyên đêm đến toàn bộ ngành công nghiệp hàng không vũ trụ.
Lớn mạnh thành một trường đại học
Làn sóng các nhà khoa học Đức tị nạn ở Palestine đã góp phần thúc đẩy Technion vượt xa khỏi giới hạn của một trường dạy nghề để trở thành một viện nghiên cứu học thuật được nể trọng. Với sự ra đời của Nhà nước Israel vào năm 1948, Technion bước vào thời kỳ phát triển
ổn định kéo dài, trong đó nó đã mở rộng thành một trường đại học nghiên cứu thực sự theo mô hình kiểu Mỹ hay châu Âu với các chương trình đào tạo sau đại học và một trường y. Mặc dù chính phủ chu cấp toàn bộ kinh phí hoạt động để Technion duy trì mức học phí thấp, trường vẫn dựa chủ yếu vào các nguồn tài trợ và quyên góp từ nước ngoài để xây dựng các phòng thí nghiệm, giảng đường và cơ sở vật chất phục vụ học viên nhằm tạo điều kiện tối đa cho hoạt động giảng dạy và nghiên cứu. Đến những năm 1950, cơ sở ban đầu của trường ở trung tâm Haifa đã trở nên quá nhỏ bé, Technion chuyển tới cơ sở mới hiện nay tại Neve Sha’anan, ngay gần Haifa, rộng tới hơn 300 ha và vẫn bám theo sườn núi Carmel. Tòa nhà đầu tiên được xây dựng vào năm 1912 trở thành trụ sở của MadaTech - Bảo tàng Khoa học, Công nghệ và Không gian Quốc gia Israel. Thư viện của Technion – bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 1924 với khoảng hai ngàn cuốn sách – đã mở rộng thành 32 ngàn cuốn vào năm 1952, 80 ngàn cuốn vào năm 1970 và ngay nay là khoảng 1 triệu cuốn sách. Những lối đi rợp mát bóng cây xen giữa các tòa nhà màu ́ ́
trắng sáng lấp lánh trong khuôn viên của trường ngày nay là minh chứng cho sự ủng hộ hào phóng và nhiệt thành trong nhiều thập kỷ của các nhà tài trợ ở khắp nơi trên thế giới.
Khởi đầu sớm: Trường trung học của Technion
Có một phần thực tế rất dễ bị lãng quên là trong khi các kỹ sư và nhà khoa học tài năng của Technion sáng tạo ra các sản phẩm và dịch vụ, họ cần những công nhân kỹ thuật lành nghề để hiện thực hóa chúng. Ở đây, cộng đồng Technion cũng đóng một vai
trò rất quan trọng. Bosmat (từ viết tắt bằng tiếng Hebrew cho cụm từ Trường trung học dạy nghề dành cho công nhân kỹ thuật) là trường trung học kỹ thuật đầu tiên tại Palestine, được Technion thành lập vào năm 1928. Nhiệm vụ của ngôi trường này
là đào tạo các công nhân lành nghề phục vụ cho “nền công nghiệp Do Thái” vừa chớm nở và đào tạo dự bị cho các sinh viên tương lai của Technion. Trường có các chuyên ngành kiến trúc, kỹ thuật hóa học, điện, cơ khí, điện lạnh và điều hòa không khí, kỹ thuật ô tô, radio và một số ngành khác. Ban đầu trường chỉ nhận các học viên nam. Nhưng đến năm 1959, các học viên nữ bắt đầu được phép đăng ký học, và cho đến nay họ đã chiếm tới một phần tư tổng số học viên.
Đóng vai trò then chốt trong việc thành lập Bosmat là vị giáo sư huyền thoại của Technion, Franz Ollendorf. Ông di cư tới Israel vào năm 1937. Mong muốn của Ollendorf là “thanh niên Do Thái phải làm quen với khoa học ngay từ khi còn rất trẻ.” Chính vì vậy, ông đã cống hiến không mệt mỏi cho sự nghiệp giáo dục dạy nghề. Ollendorf thành lập Khoa Kỹ thuật Điện ở Technion đồng thời cho ra đời Khoa Điện tử học ở Bosmat. Ông tham gia giảng dạy ở cả Bosmat và Technion cho đến tận năm 1975. Ông vẫn thường nói “Bosmat là ngôi nhà của tôi.” 19.800 học viên tốt nghiệp Bosmat cũng có thể được tính vào hàng ngũ của Technion. Trong đó có cả những nhân vật xuất sắc như Yuli Ofer, ông trùm buôn bán, và Eitan Wertheimer, chủ tịch của Iscar – một trong những công ty sản xuất dụng cụ lớn nhất
́
thế giới, đã được Warren Buffett mua lại vào năm 2006 với giá 4 tỷ đô-la.
Giáo trình và chương trình học của Technion đã được cải tiến đáng kể cùng với nhu cầu phát triển của đất nước Israel. Khi Thủ tướng David Ben-Gurion nói rằng đất nước non trẻ của chúng ta cần có ngành công nghiệp phòng không của riêng mình, Technion đã thành lập khoa Kỹ thuật hàng không (sau được đổi tên thành “Hàng không vũ trụ”). “Một cuộc sống theo tiêu chuẩn cao, một nền văn hóa phong phú, một nền độc lập về kinh tế, chính trị và tinh thần sẽ không thể trở thành hiện thực nếu chúng ta không kiểm soát được bầu trời của mình,” Thủ tướng Ben-Gurion giải thích trong lời yêu cầu của mình gửi tới Technion trong những năm đầu 1950.
Những năm đầu 1960, Technion đã giúp Bộ Ngoại giao Israel vươn tới các đồng minh nước ngoài đầy tiềm năng thông qua một chương trình đào tạo dành cho các sinh viên đến từ các quốc gia đang phát triển. Sinh viên Technion cũng được tuyển dụng làm các kỹ sư đầu tiên của ngành công nghiệp hạt nhân Israel vào những năm 1950 và 1960. Khi dân số của Israel dần tăng lên, Technion trở thành hình mẫu và tiêu chuẩn cho các chương trình đào tạo khoa học và kỹ thuật của các trường đại học mới được thành lập trên khắp cả nước. Khi Đại học Negev (ngày nay là Đại học Ben-Gurion) khai giảng khóa đầu tiên tại Beersheva vào cuối những năm 1960, Technion đã giúp họ giảng dạy các chương trình sau đại học đồng thời giám sát chất lượng chương trình đào tạo kỹ sư trong những năm học đầu tiên. “Tôi đã ký bằng tốt nghiệp cho những sinh viên đầu tiên của trường Đại học Ben-Gurion vì khi đó họ còn chưa được cấp phép,” cựu chủ tịch Technion, Amos Horev, hồi tưởng lại.
Technion mở chương trình đào tạo khoa học máy tính vào năm 1967, thời điểm mà một chiếc máy tính vẫn còn chiếm diện tích của cả một căn phòng và người ta dự kiến rằng toàn cõi Israel sẽ chỉ cần nhiều nhất là 50 đến 100 kỹ sư máy tính. Sau đó, vào năm 1988, khi Israel trở thành quốc gia thứ tám trên thế giới phóng vệ
̀ ́ ̀
tinh lên vũ trụ, gần như tất cả các kỹ sư tham dự án đó đều là học viên tốt nghiệp Technion. Mười năm sau, Technion phóng vệ tinh cỡ nhỏ của riêng mình – trở thành một trong số ít ỏi năm trường đại học trên thế giới có vệ tinh được thiết kế và chế tạo bởi chính sinh viên của mình.
Thu hút các nhà khoa học Xô Viết và giành giải thưởng Nobel
Khi Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô Viết sụp đổ vào đầu những năm 1990 và những người Do Thái Nga đột nhiên được phép di cư, Technion lại một lần nữa đóng vai trò đi đầu trong việc thu hút lực lượng lao động có kỹ năng đông đảo này.
Trong tổng số 800.000 người Do Thái đến từ Liên bang Xô Viết có khoảng 11.000 nhà khoa học và 58.000 kỹ sư. Technion đã mở rộng quy mô tuyển sinh để tiếp nhận khoảng 1.300 sinh viên nhập cư – gần như tất cả đều cần đến các chương trình bổ túc kiến thức bằng tiếng Hebrew và tiếng Anh. Trường cũng tuyển dụng tạm thời 260 nhà khoa học nhập cư. Viện đào tạo Khoa học và Công nghệ bậc cao Samuel Neaman của Technion đã xuất bản một loạt các cuốn sách giáo khoa “Tiếng Hebrew chuyên ngành Khoa học và Kỹ thuật” được phổ biến rộng rãi khắp đất nước để giúp bộ phận dân cư mới hòa nhập với cuộc sống.
Toán học và vật lý xóa bỏ khoảng cách ngôn ngữ với những người dân nhập cư mới
Cựu Chủ tịch Technion Zehev Tadmor, hiện là chủ tịch Học viện Neaman hồi tưởng lại, “khi mọi chuyện trở nên khá rõ ràng rằng sẽ có một lượng lớn dân nhập cư đến từ Nga thì cũng là lúc tôi có mặt ở New York để kêu gọi tài trợ từ Cộng đồng Technion Mỹ… Đây sẽ là một sự kiện lớn, và chúng tôi muốn Technion chuẩn bị sẵn sàng. Một trong những vấn đề cần giải quyết là chỗ ở cho toàn bộ số sinh viên mới này. Quyên góp tiền cho mục đích xây ký túc xá vẫn luôn là công việc khó khăn. Nhưng sau đó, Lenny Sherman (thành viên Cộng đồng Technion Mỹ) đã đứng dậy nói, ‘chúng tôi sẽ nhận xây khoảng 12.000 phòng’. Đó là một con số khổng lồ. Nhưng họ cho các nhà tài trợ cơ hội được quyên góp cho từng phòng ở đơn lẻ một, chỉ trong thời gian rất ngắn, các suất tài trợ đã hết veo.”
Trong suốt thời kỳ căng thẳng nhất của đợt nhập cư hàng loạt từ nước Nga, Henry Taub là Chủ tịch Ban điều hành Quốc tế của Technion (1990-2003). Taub là doanh nhân, người sáng lập ADP - công ty tiên phong trong dịch vụ quản lý bảng lương bằng máy tính tại Mỹ. Dưới sự lãnh đạo của ông, diện tích xây dựng các tòa nhà tại Technion đã tăng thêm một phần ba, còn số lượng giường sinh viên thì tăng gấp đôi. Trung tâm Khoa học và Công nghệ Taub cũng
chính là nơi đặt Viện khoa học máy
tính của Technion. Với khoảng 1.500
sinh viên, hiện nay, đây là một trong
những viện đào tạo lớn nhất ở miền
Tây Israel và luôn được xếp thứ hạng
rất cao. Taub qua đời ngày 31 tháng
Ba năm 2011, trong niềm tiếc thương
vô hạn của rất nhiều người.
Zehev Tadmor, cựu Chủ tịch
Technion, có tên trong Nhà lưu
danh các nhà phát minh quốc
gia
Ngành quy hoạch đô thị của Technion: Kiến thiết Tương lai
Bậc thầy quản lý Peter Drucker có một câu nói rất nổi tiếng rằng cách tốt nhất để đoán định tương
Leonard Sherman và công trình thử thách 1.200 phòng ở cho sinh viên
lai là sáng tạo ra nó. Với làn sóng nhập cư hàng loạt từ Liên bang Xô Viết cũ vào những năm 1990, các chuyên gia quy hoạch đô thị tại Viện Kiến trúc và Quy hoạch đô thị của Technion đã cùng nhau kiến thiết tương lai của Israel. Giáo sư Adam Mazor đã dẫn dắt một dự án nghiên cứu và quy hoạch trên quy mô lớn được biết đến với cái tên Israel 2020 với sự tham gia của trên 250 giáo sư, những chuyên gia quy hoạch hàng đầu của Israel cùng các chuyên gia quốc tế khác. Mục tiêu của dự án là xây dựng các định hướng kinh tế, xã hội và môi trường cho Israel trong thế kỷ XXI. Năm 2013, Giáo sư Mazor vinh dự nhận Giải thưởng Israel cho thành tựu “thay đổi khái niệm quy hoạch và thiết kế không gian ở Israel.”
Trong nửa thế kỷ hoạt động tiếp theo, Technion tăng cường mạnh mẽ hoạt động nghiên cứu khoa học, dẫn đến thành quả là một chuỗi các phát kiến đột phá và hai giải thưởng Nobel. Năm 2004, giải thưởng Nobel hóa học được trao cho các giáo sư danh
dự Avram Hershko và Aaron Ciechanover với công trình tìm ra cơ chế phân hủy protein trong tế bào. Năm 2011, một giải thưởng Nobel hóa học khác lại được trao cho giáo sư danh dự của Technion, Dan Shechtman với công trình tìm ra giả tinh thể(14).
Người đoạt giải Nobel 2004 Giáo sư Avram Hershko
Người đoạt giải Nobel 2004 Giáo sư Aaron Ciechanover
Người đoạt giải Nobel 2011 Giáo sư Dan Shechtman
Hai con đường dẫn tới giải Nobel
Hai thành tựu khoa học đột phá đằng sau hai giải thưởng Nobel của Technion thuộc về hai lĩnh vực hoàn toàn khác nhau. Một liên quan đến các tinh thể và một liên quan đến các protein.
Thế nhưng hai con đường dẫn tới những thành tựu này lại có khá nhiều điểm tương đồng – cả hai đều dựa trên tinh thần kiên trì ̀ ́
bền bỉ và ý chí sẵn sàng theo đuổi lối tư duy khác thường.
Giáo sư danh dự Dan Schechtman được trao giải Nobel hóa học năm 2011 vì đã tìm ra giả tinh thể, một dạng vật chất mà trước đó nhiều nhà khoa học khác đã kết luận là không thể tồn tại.
Giáo sư danh dự Avram Hershko và Aaron Ciechanover giành giải Nobel năm 2004, cùng với Giáo sư Irwin Rose của Đại học California, Irvine, vì đã tìm ra cơ chế phân hủy của protein – quá trình trong đó các protein bên trong tế bào được lựa chọn để phân rã.
Cả ba nhà khoa học đoạt giải đều trải qua nhiều năm tháng phiêu du trong những miền hoang mạc khác nhau của khoa học – cùng theo đuổi những ý tưởng đã bị các nhân vật đầu ngành bỏ qua vì cho rằng chúng là điều không thể hoặc không có giá trị. Thành tựu của họ đòi hỏi không chỉ cái nhìn sâu sắc, sự sáng tạo, tinh thần làm việc nhẫn nại, mà còn cả một ý chí quyết tâm không gì lay chuyển nổi trong khi theo đuổi tầm nhìn của bản thân, bất chấp xu hướng chung hay quan điểm của những người xung quanh.
Cuộc hành trình đến với giải Nobel của Shechtman khởi đầu từ năm 1982 khi ông mới chỉ là một nhà nghiên cứu sang làm việc ngắn hạn tại phòng thí nghiệm Maryland. Ở đó, ông đã nhìn vào kính hiển vi và tự hỏi, “lẽ nào lại tồn tại một dạng vật chất như thế.”
Shechtman vừa nhìn thấy bằng chứng của một tinh thể có năm trục đối xứng quay – sự đối xứng mà cho đến lúc đó được coi là không thể tồn tại. Ông tiếp tục nghiên cứu và cuối cùng đã tìm ra dạng tinh thể này trong ba loại vật liệu khác nhau. Nhưng các đồng nghiệp của ông lại tỏ ra nghi ngờ, đến mức người lãnh đạo nhóm nghiên cứu phải nói với ông rằng “Giáo sư Shechtman, ông đang làm xấu mặt cả nhóm và tôi buộc phải đề nghị ông chuyển sang một nhóm nghiên cứu khác.”
Sau khi trở lại Technion, Shechtman có được sự ủng hộ của Giáo sư Ilan Blech và cuối cùng đã công bố phát hiện của mình. Công trình của ông đã gây ra một cuộc tranh cãi lớn. Một chuyên gia hàng đầu thậm chí còn lên án rằng “Shechtman đang nói những điều vô
nghĩa… Không có cái gì gọi là giả tinh thể cả – chỉ có những nhà khoa học giả trá mà thôi.”
Qua thời gian, phát hiện của Shechtman dần được chấp nhận rộng rãi và mở ra một ngành nghiên cứu hoàn toàn mới. Ngày nay, các nhà khoa học có thể liệt kê hàng trăm vật liệu có cấu trúc như Shechtman đã phát hiện; các hội thảo quốc tế được tổ chức mỗi
năm về chủ đề này; 40 cuốn sách khoa học đã được viết xoay quanh loại tinh thể “không thể tồn tại” mà ông đã khám phá ra.
Đối với Hershko và Ciechanover thì con đường dẫn tới giải Nobel lại bắt đầu từ đầu những năm ١٩٧٠ với lòng quyết tâm trả lời cho bằng được một câu hỏi rất ít người quan tâm. Gần như tất cả mọi người trong ngành sinh học đều cố tìm xem các tế bào sinh trưởng
và sản xuất protein như thế nào; quá trình phân hủy protein được xem là phần không mấy thú vị. Như để minh chứng cho sự lẻ loi của mình trong khoa học, Hershko và Ciechanover đã dành ١٥ năm làm việc “tạm thời” tại một tòa nhà hai tầng cũ kỹ trong khi cơ sở chính thức của trường y Technion đang được xây dựng. Một đồng nghiệp đến từ Jerusalem đến thăm hai người và than phiền với Hershko rằng ông “không nên để phần lớn nhân sự trong phòng thí nghiệm của mình nghiên cứu một vấn đề không có tia hy vọng thành công nào.”
Nhưng Hershko không hề nao núng. Ông viết trong tiểu sử của mình gửi tới hội đồng Nobel, “sự cô lập nhiều khi dẫn đến tính sáng tạo, bạn sẽ không bị làm phiền bởi những gì những người khác đang làm và cũng không cảm thấy cần phải quan tâm đến những thứ đang được coi là phổ biến và ‘hợp thời’.
Hershko, Ciechanover và Rose đã chỉ ra rằng sự phân rã của protein không phải là hiện tượng ngẫu nhiên mà xảy ra theo một quá trình có kiểm soát trong đó một số protein nhất định được đánh dấu bởi một phân tử gọi là ubiquitin – nó chính là “nụ hôn của thần chết.”
Nghiên cứu của họ đã làm sáng tỏ nguyên nhân của nhiều bệnh như ung thư cổ tử cung hay xơ nang. Nó còn dẫn tới sự ra đời của một
́ ́
loại thuộc chống ung thư có tên Velcade, dùng để chống lại bệnh đa u tủy xương.
Hershko đã dành cả sự nghiệp của mình cho nghiên cứu khoa học cơ bản chứ không phải phát triển các ứng dụng như thuốc chữa bệnh. Nhưng gần đây ông đã có cơ hội nhìn thấy nỗ lực của mình đem lại những thành quả giúp cứu sống sinh mạng con người như thế nào. Đó là khi một người bạn 80 tuổi từ Mỹ sang thăm ông ở Israel. Trong thời gian hai tuần Hershko đưa bạn đi chơi nhiều nơi. Trở về nhà, người bạn của ông cảm thấy mệt và nhận được kết quả chẩn đoán là ông mắc chứng ung thư đa u tủy xương giai đoạn ba. Sau đó ông đã được chữa trị nhờ loại thuốc được điều chế từ kết quả nghiên cứu của Hershko.
“Bệnh nhân ung thư đa u tủy xương giai đoạn ba thường chỉ có 20% cơ hội sống sót,” Hershko nói. “Nhưng ông ấy đã được điều trị bằng Velcade. Khoảng một năm nay, bệnh của ông ấy đã thuyên giảm và bác sĩ nói ông ấy sẽ còn sống được từ năm đến bảy năm nữa.”
Hershko đã rút ra được điều gì về hoạt động nghiên cứu khoa học từ nhiều thập kỷ lao động của mình? Có lẽ câu trả lời được thể hiện mạnh mẽ nhất trong câu nói của Dan Shechtman.
“Lời khuyên của tôi dành cho các bạn trẻ là: Lựa chọn thứ mà bạn tin tưởng là điều rất quan trọng, nhưng đó chưa phải là yếu tố quyết định – nếu không thì rất nhiều người đã có được thứ bạn muốn trước bạn rồi.” Hershko nói. “Hãy hết sức kiên nhẫn. Hãy vô cùng nhất quán. Hãy là người may mắn. Hãy nắm lấy vận may và tận dụng nó. Rất nhiều thử nghiệm đã có được may mắn không ngờ, nhưng cuối cùng lại để nó vuột mất.”
Ngày nay rất nhiều phân viện của Technion cũng đang kiên trì và quyết tâm tiến hành những nghiên cứu có thể sẽ mang về nhiều giải Nobel hơn nữa trong những thập kỷ tới.
Điển hình là câu chuyện của Hossam Haick, kỹ sư hóa đang phát triển một chiếc “mũi” nhân tạo dùng để phát hiện bệnh ung thư
̀
thông qua hơi thở của con người. Nhiều nhà khoa học khác, trong đó có cả chủ nhân giải Nobel Linus Pauling, từng nỗ lực trong nhiều năm tìm cách dùng hơi thở để phát hiện bệnh mà không thành công. Nhưng Haick lại tận dụng được lợi thế của công nghệ nano hiện đại – lĩnh vực nghiên cứu trọng tâm tại Viện công nghệ Nano Russell Berrie của Technion, được thành lập vào năm 2005. Và cả công nghệ nhận dạng ảnh bằng vi tính nữa. Anh cũng có niềm đam mê lớn với việc kết hợp các ngành khoa học khác nhau – một phương pháp tiếp cận khó mà thực hiện được ở một số trường đại học nhưng lại rất được khuyến khích ở Technion.
Nghiên cứu của Haick kết hợp rất nhiều lĩnh vực khác nhau – sinh học, khoa học máy tính, hóa học, kỹ thuật cùng nhiều ngành khác nữa – khiến cho lúc đầu không một thành viên nào trong nhóm có thể hiểu được nền tảng kiến thức của những người khác. “Tôi nói thứ ngôn ngữ của công nghệ nano, và những người trong ngành kỹ thuật cơ khí chẳng hiểu tôi đang nói gì,” anh hồi tưởng lại. “Phải cần đến hai năm chúng tôi mới có một thứ ngôn ngữ chung. Nhưng khi kết hợp được tất cả các chuyên ngành này lại với nhau, bạn sẽ tạo ra một lĩnh vực của riêng mình.”
Viện Công nghệ Nano Russell Berrie nơi Haick đang liên kết chỉ là một trong số rất nhiều chương trình nghiên cứu độc đáo mà Technion từng xây dựng trong những năm gần đây nhằm thích ứng với các ngành khoa học và kỹ thuật đang thay đổi nhanh chóng và ngày càng liên kết với nhau chặt chẽ hơn. Trung tâm Khoa học và Kỹ thuật Sự sống Lockey, ra đời năm 2006, hiện đang sử dụng phương pháp kết hợp đa lĩnh vực để phát triển các loại dược phẩm và công nghệ y tế mới. Chương trình Năng lượng Grand của Technion, ra đời năm 2007 nhờ các nhà tài trợ Nancy và Stephen Grand, hiện đang kết nối các học giả từ chín phân viện khác nhau để nghiên cứu các loại nhiên liệu thay thế, năng lượng tái tạo cũng như năng lượng có thể bảo toàn và lưu trữ.
Technion trong sự nghiệp quốc phòng Israel
Trong khi mở rộng quy mô tuyển sinh bậc đại học cũng như năng lực nghiên cứu của mình, Technion cũng không quên nhu cầu nghiên
́ ́
cứu quốc phòng của Israel. Sáu trong số tám vị Chủ tịch của Technion từng nắm giữ các chức vụ cao cấp trong Lực lượng Quốc phòng Israel. Các kỹ sư và nhà khoa học Technion hiện đang thực hiện nhiều dự án cùng với các nhà nghiên cứu tại Rafael – công ty công nghệ quốc phòng được thành lập bởi quân đội Israel.
Amos Horev từng theo học tại Technion trong những năm 1940 trước khi trở thành chỉ huy trung đội bộ binh Palmach(15) dưới sự lãnh đạo của Yitzhal Rabin. Sau chiến tranh Độc lập năm 1948, Ben Gurion gửi ông tới học tại MIT, sau đó ông trở về thành lập bộ phận phát triển vũ khí cho quân đội. “Tôi tìm kiếm các kỹ sư, và những kỹ sư đầu tiên mà tôi nghĩ tới là ai? Chính là các cựu chiến binh từng tham gia Chiến tranh độc lập sau đó theo học tại Technion.” Horev nói. Sau này ông trở thành nhà khoa học chủ chốt của quân đội Israel đồng thời là Chủ tịch của Technion.
Việc Technion thành lập khoa kỹ thuật hàng không vào những năm 1950 lúc đầu còn trở thành một chủ đề để báo chí châm biếm. Một tranh biếm họa trên tờ Haaretz có dòng bình luận, “Họ nghĩ sẽ bay trên đỉnh núi Carmel bằng cái gì – diều giấy ư?” Thế nhưng cuối cùng, nơi đây đã trở thành cái nôi đào tạo nên những bộ não siêu việt đằng sau các máy bay quân sự và dân sự cũng như các tên lửa và vệ tinh nổi tiếng toàn cầu của Israel ngày nay.
Khi Tổng thống Pháp Charles de Gaulle ra sắc lệnh cấm vận vũ khí đối với Israel sau Chiến tranh Sáu Ngày năm 1967, chính một công ty trong lĩnh vực quốc phòng có tên Elron Electronic Industries đã cùng với các nhà sáng lập và nhân viên chủ yếu là học viên tốt nghiệp Technion – đứng ra đảm nhận vai trò bù đắp khoảng trống lớn này. Rồi chính Học viện Vi điện tử học của Technion, vào đầu những năm 1970, đã tạo nền tảng cho vai trò dẫn đầu trong ngành công nghệ tên lửa của Israel ngày nay.
Rất nhiều học viên tốt nghiệp Technion hiện đang làm việc tại Rafael – hiện nay đã trở thành một công ty trực thuộc chính phủ. Rafael bắt đầu phát triển các tên lửa không đối không ngay từ năm 1959. Còn Horev đã đưa ra các chỉ dẫn kỹ thuật đầu tiên cho
́
một tên lửa hạm đối hạm từ năm 1953; tên lửa này đi vào hoạt động vào năm 1967 trong cuộc Chiến tranh Sáu Ngày 1967.
“Năm 1973 khi Rafael đang phát triển các tên lửa không đối không sử dụng công nghệ hiện đại thì yếu tố quan trọng nhất chính là thiết bị cảm biến,” Horev nói. “Rafael tìm đến Technion bởi Technion đã bắt đầu tham gia vào lĩnh vực vi điện tử học… Giáo sư Yitzhak Kidron đã tự tay đảm nhận nhiệm vụ này. Trong thời gian hai năm, ông đã chế tạo ra một máy dò hồng ngoại dành riêng cho tên lửa. Bạn không thể hình dung nổi nó quan trọng như thế nào trong việc tăng cường năng lực của chúng tôi trong lĩnh vực đó đâu.”
Ngày nay di sản mà Giáo sư Kidron để lại đang được tiếp tục phát triển bởi hàng trăm cựu học viên Technion như Inbal Kreiss, người đã thấy trước và góp phần quan trọng mang lại thành công cho tên lửa Arrow 3 của Tập đoàn Công nghiệp Hàng không vũ trụ Israel (IAI).
Israel là quốc gia duy nhất trên thế giới bán công nghệ tên lửa cho Mỹ – chính nhờ vào thành tựu của Kreiss và các đồng nghiệp của bà.
Tên lửa của IAI vận hành nhờ vào các bộ cảm biến và định vị mục tiêu có độ chính xác rất cao. Phòng thủ bằng tên lửa chống tên lửa giống như việc một tay súng Miền Tây hoang dã cố bắn trúng một viên đạn đang ở trên đường bay – chỉ có điều với tốc độ và cao độ lớn hơn rất nhiều. Và mục tiêu của nó chỉ đơn giản là phải “bảo vệ tuyệt đối” – nghĩa là có đủ các lớp bảo vệ để không một tên lửa nào có thể tới gần người dân Israel. Khoảng cách giữa thành công và thảm họa có khi chỉ được tính bằng vài phần nghìn giây đồng hồ.
Vì thế Kreiss điều hành hoạt động của nhóm bằng cách đặt áp lực rất cao. “Kỹ sư của tôi tham gia chạy marathon. Khi họ trở về, tôi nói với họ rằng họ cần phải chạy nhanh hơn nữa,” bà nói, giọng nửa đùa nửa thật.
Kreiss nói rằng tôn chỉ của bà là “hãy là người đi đầu, hãy là người xuất sắc.” Và bà học được điều đó từ vị Giáo sư Technion, Yeshayahu Talmont. Bà nói, “Giáo sư Talmont đã dạy tôi phải làm tốt hơn hẳn tất cả những người khác – phải là người dẫn đầu, phải luôn luôn tiến bộ. Technion có một bầu không khí rất đặc biệt.
̀
Giáo sư Yitzhak Kidron - Người đi tiên phong trong lĩnh vực vi điện tử
Nhiều người so sánh nó với một nhà tù trên đỉnh núi. Một khi đã vào trong, bạn sẽ không ra khỏi đó trong suốt bốn năm liền. Bạn phải học và học liên tục không ngừng nghỉ.”
Trong số các nhân viên của Kreiss có vô số các kỹ sư tốt nghiệp Technion. Họ thường đùa nhau, “chúng ta vẫn chưa rời ghế nhà trường đâu.” Và chính bầu không khí Technion đặc biệt đó – lòng quyết
tâm, không bao giờ dừng lại khi chưa đạt được thành quả xuất sắc – chính là nguồn cảm hứng bất tận cho toàn bộ tổ chức của bà.
“Có bao nhiêu quốc gia trên thế giới đang làm những việc như chúng ta đang làm – phóng vệ tinh, phát triển hệ thống phòng thủ bên ngoài tầng khí quyển?” bà hỏi. “Có thể đếm chúng trên đầu ngón tay của một bàn tay, và Israel là một trong số đó. Câu trả lời
cho câu hỏi chúng ta làm việc đó bằng cách nào nằm ngay ở đây – những con người nhiệt huyết, tận tâm cống hiến hết mình cho nhiệm vụ. Đó là câu chuyện về những con người điên rồ, tin rằng họ có thể làm được điều mà chưa một ai khác từng làm.”
Hiện nay Inbal Kreiss đã ở một vị trí rất cao, trở thành phó chỉ huy toàn bộ các nghiên cứu liên quan đến không gian của Tập đoàn Hàng không Vũ trụ Israel.
Hệ thống tên lửa chống rocket Iron Dome đã có những chiến tích lẫy lừng trong vai trò bảo vệ nhà cửa và người dân Israel khỏi rocket của lực lượng Hamas trong Chiến dịch Vành đai bảo vệ của Israel hồi tháng Bảy năm 2014. Nó được phát triển bởi các kỹ sư của Rafael, hầu hết đều là các cựu học viên Technion, trong vòng bốn năm, khoảng thời gian ngắn chưa từng thấy đối với một hệ thống phức tạp như vậy.
Gieo mầm cho “Sự thần kỳ kinh tế”
̀ ́
Chính các nghiên cứu khoa học cơ bản về công nghệ quốc phòng được các giảng viên và cựu học viên Technion thực hiện trong suốt thời gian dài đã góp phần vào sự phát triển của ngành công nghiệp công nghệ cao đầy sinh lực của Israel ngày nay.
“Khoản đầu tư lớn vào quốc phòng của Israel trong 50 đến 60 năm qua đã đến độ gặt hái và bắt đầu lan tỏa sang các lĩnh vực dân sự,”Zehev Tadmor nói. “Ngành quốc phòng đã tạo ra hạ tầng cơ sở quan trọng là các công ty chuyên cung cấp công nghệ cho Bộ Quốc phòng, một yếu tố rất hữu ích giúp Israel đẩy mạnh sự phát triển của ngành công nghệ cao.”
Đến những năm 1980, Technion đã cho ra lò hàng ngàn học viên với các kỹ năng đẳng cấp thế giới trong lĩnh vực kỹ thuật điện tử. Rất nhiều người trong số họ từng phục vụ trong các đơn vị thông tin tiên tiến của quân đội, một vài người còn có cả kinh nghiệm làm việc trong các công ty công nghệ quốc phòng.
Các công ty công nghệ hàng đầu như Intel và Applied Materials bắt đầu hướng tới Israel để tìm kiếm các tài năng kỹ thuật trẻ xuất sắc. Rất nhiều trong số đó đã mở các cơ sở nghiên cứu ngay tại Haifa để có thể tiếp cận dễ dàng hơn với cộng đồng Technion.
Dan Vilenski, cử nhân kiêm thạc sĩ kỹ thuật cơ khí Technion, nhớ lại cuộc họp với các nhà điều hành của công ty thiết bị bán dẫn KLA Instruments ở California vào khoảng giữa những năm 1980 để bàn về khả năng mở chi nhánh tại Israel.
Dan Vilenski, một doanh nhân tiên phong
Vilenski nhớ lại, “Họ đang nói nào là chuyện đánh bom và những thứ nguy hiểm khác, nào là chuyện đặt chi nhánh ở Israel sẽ rủi ro tới mức nào. Nhưng ngay khi họ vừa dứt câu chuyện, một trận động đất bất ngờ xảy ra và mọi người đều phải chui xuống gầm bàn. Và tôi nói, ‘Nghe này, tôi không chắc là mình muốn làm việc với các bạn đâu - Động đất ở California thật là quá nguy hiểm’.
Cuối cùng KLA đã mở chi nhánh tại Israel, tạo ra giá trị xuất khẩu khoảng 400 triệu đô-la mỗi năm. Và lý do dẫn dắt họ đến chính là lực lượng lao động kỹ thuật lành nghề của quốc gia này. “Chính là bởi con người, con người và con người,” Vilenski nói. Ông chính là người điều hành chi nhánh của KLA tại Israel và sau này là chủ tịch của Applied Materials Israel. “Nói về miền đất thánh sẽ chẳng có tác dụng gì. Và vào thời điểm đó cơ sở hạ tầng của Israel còn chưa phát triển như ngày nay. Nhưng tôi đã nói với họ về con người, và về cách chúng tôi ứng dụng công nghệ quân sự vào đời sống dân sự.”
Làn sóng nhập cư từ các quốc gia Xô Viết vào những năm 1990 càng thúc đẩy ngành công nghệ vừa chớm nở của Israel phát triển mạnh mẽ hơn. Các kỹ sư trẻ từ Technion và các trường đại học khác của Israel đã kịp thời tận dụng được sự cuồng nhiệt của thời đại đối với Internet và bắt đầu khởi tạo các doanh nghiệp của riêng mình. Trong khi đó, chính phủ Israel cũng có những chính sách thúc đẩy hoạt động đầu tư mạo hiểm trong nước. Thế giới bắt đầu tiến tới một thị trường toàn cầu sau sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội Xô Viết.
́ ̀
Thành quả của Hội nghị Hòa bình Oslo cũng làm lắng dịu dần các phong trào tẩy chay Israel trước kia, mở ra thị trường mới, rộng lớn trên phạm vi toàn cầu cho ngành xuất khẩu của Israel.
Tất cả các yếu tố đó đã hợp lại để tạo nên một thời kỳ mới trong lịch sử Israel mà một số người vẫn thường được gọi là “sự thần kỳ kinh tế Israel”, còn một số khác thì gọi đó là “Quốc gia khởi nghiệp.”
Và Technion nằm ngay ở vị trí trung tâm của sự thần kỳ đó.
Chuyện kể cuối chương: Chuyện đời thường của một Công dân [Israel] bình thường (O.C)
Khi những âm thanh rộn rã của ngày mới cuối cùng cũng vang lên từ trong phòng lũ trẻ, anh hướng tới nhà bếp nơi vợ anh đã làm xong bánh mỳ nướng và cà phê. Cô ngồi đối diện anh, đang uống thuốc bác sỹ kê cho hàng ngày để kiểm soát các triệu chứng của bệnh Parkinson giai đoạn đầu.
Rasagiline (Azilect) là dược phẩm hàng đầu trong điều trị bệnh Parkinson giai đoạn đầu hiện nay, do các Giáo sư Technion, Moussa Youdim và John Finberg điều chế và một chi nhánh của Tập đoàn dược phẩm Teva của Israel bán ra thị trường. Theo học ngành hóa sinh từ mong muốn làm được gì đó cho người cha thường xuyên đau ốm của mình, Youdim đã dành 30 năm phát triển loại thuốc giờ đây đã trở thành phương pháp điều trị tiêu chuẩn cho bệnh Parkinson, căn bệnh đang hành hạ một đến hai phần trăm số người già trên 65 tuổi trên toàn thế giới. Doanh thu bán Azilect của Teva hàng năm hiện đã lên tới con số 300 triệu đô-la, và các nhà phân tích cho rằng thị trường tiềm năng của loại thuộc này còn có thể lên tới một tỷ đô-la hoặc hơn.
Anh hứa tối nay trên đường về sẽ mua một ít đồ lặt vặt, rồi hôn tạm biệt vợ để tới chỗ làm. Anh là người khá giỏi giang trong việc sang sửa nhà cửa, nên đến khi lái xe ra khỏi cổng, anh còn ngoái lại
nhìn ngắm tấm pin mặt trời anh vừa lắp trên mái nhà, lòng đầy ̀
tự hào. Đó là một buổi sáng nhiều mây, anh chợt băn khoăn không biết liệu có đủ nước nóng cho sáu cô bé điệu đàng, bạn của con gái anh, tắm rửa trong bữa tiệc ngủ chung sắp tới của chúng hay không.
Giáo sư môn hóa của Technion, Efrat Lifshitz, đang sử dụng công nghệ nano để cải tiến đáng kể các tấm pin quang điện. Bà đã phát hiện ra rằng vật liệu nano – bao gồm các “chấm” lượng tử cỡ nano – có thể hấp thụ cả tia hồng ngoại, tia tử ngoại cũng như tia khả kiến. Các tấm pin quang điện dựa trên công nghệ của Lifshitz sẽ hiệu quả hơn nhiều so với các tấm pin mặt trời mà nhân vật của chúng ta vừa lắp tại nhà bởi chúng có thể hấp thụ nhiều loại năng lượng của mặt trời hơn. Nghiên cứu của bà là một phần trong một chương trình nghiên cứu liên ngành, có tên gọi Chương trình Năng lượng Grand của Technion với mục tiêu giảm bớt sự phụ thuộc của con người vào nhiên liệu hóa thạch.
O.C lái xe vòng vào bãi đậu, xách cặp rồi tiến vào văn phòng.
Anh họp hành liên miên vào tất cả các buổi sáng trong tuần. Đôi khi, ngay tại những cuộc họp như thế, anh phải tìm ra cách giải quyết ngay lập tức một vấn đề nào đó.
Chương 3
Quốc gia khởi nghiệp trên nền tảng sáng tạo của Technion
Cuốn sách này hay rất nhiều cuốn sách khác viết về sự sáng tạo có thể dễ dàng khiến bạn có ấn tượng rằng cuộc sống là một chuỗi dài những thành công êm ả. Thế nhưng sự thực là số lượng các công ty khởi nghiệp thất bại nhiều hơn rất nhiều so với số
thành công. Tầm nhìn càng xa rộng thì rủi ro thất bại càng lớn. Rất ít câu chuyện minh chứng điều này một cách thuyết phục như câu chuyện về công ty khởi nghiệp Better Place của Shai Agassi.
Shai Agassi tốt nghiệp ngành khoa học máy tính tại Technion. Khi mới 24 tuổi, anh đã gây dựng Công ty phần mềm TopTier, được người khổng lồ phần mềm toàn cầu SAP mua lại vào năm 2001 với giá 400 triệu đô-la, nhờ đó anh trở thành nhân vật quan trọng thứ hai của tập đoàn này. Anh rời SAP để tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi mà thậm chí rất ít người dám đặt ra: Làm sao để lái xe đi khắp đất nước mà không cần đến dầu mỏ? Anh thành lập Better Place vào năm 2007, rồi ký thỏa thuận liên doanh với Renault và Nissan. Mục tiêu vô cùng táo bạo của họ là: Chế tạo ô tô chạy hoàn toàn bằng điện, nạp năng lượng bằng các tấm pin có thể tháo rời để thay thế. Người Israel đươc chào mua loại xe hơi nhãn hiệu Renault Fluence với các tấm pin điện giúp nó chạy được 100km. Các tấm pin này sẽ được thay thế tại một số trạm đặc biệt, tấm pin đã cạn sẽ nhanh chóng được tháo rời và tấm mới được lắp thay thế chỉ trong vòng vài phút.
Từ trái sang phải: Reuven Agassi – nhà sáng lập Better Place, Shai Agassi và Chủ tịch Technion – Peretz Lavie.
Ngày 2 tháng Năm năm 2013, Better Place đã gửi hồ sơ thanh lý công ty lên tòa án Tel Aviv với lý do “kinh doanh không hiệu quả”. Theo một nghĩa nào đó, Better Place đã thất bại. Chỉ có 900 người Israel mua những chiếc xe của họ. Nhưng theo một nghĩa khác, sự đánh cược hoang đường của Agassi vào một phương thức giúp Israel và thế giới từ bỏ sự phụ thuộc vào dầu mỏ đã chứng minh một nguyên tắc khởi nghiệp tối thượng, “sớm thất bại để chóng thành công”. Một ngày nào đó các động cơ đốt trong sẽ được thay thế bằng xe điện, với các tấm pin được nạp bằng năng lượng điện sạch vào những thời điểm có nhu cầu sử dụng điện thấp. Agassi có thể sẽ được nhớ tới không chỉ bởi thất bại cay đắng, mà còn bởi tầm nhìn vượt thời đại của anh.
“Ưu thế lớn nhất mà tôi có được từ những năm tháng học tập tại Technion là khả năng lựa chọn một chủ đề mới rồi nghiên cứu và phân tích nó một cách kỹ càng,” Agassi nói. “Tôi đã học được cách giải quyết vấn đề, cách tiếp cận điểm mấu chốt của giải pháp.”
***
Số lượng các công ty Israel niêm yết trên sàn chứng khoán công nghệ NASDAQ lớn hơn tổng số các công ty của Pháp, Đức và Anh cộng lại(16). Israel là đất nước có mật độ các công ty khởi nghiệp dày đặc nhất thế giới – 3.850 công ty khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ cao, hay tỷ lệ một công ty trên 1.844 công dân Israel. Đây cũng
́ ́ ̀ ́ ̀ ́
là quốc gia đứng thứ tư trên thế giới về số lượng bằng sáng chế được quốc tế công nhận trên mỗi đầu người.
Nếu Israel cổ đại được mô tả là “Ánh sáng [của Chúa Trời] soi rọi các dân tộc,” thì Israel hiện đại có thể được mô tả là ánh đèn Led soi sáng nền kinh tế quốc tế – sử dụng những sáng kiến công nghệ cao để tỏa sáng và vươn xa hơn rất nhiều so với kích thước nhỏ bé của mình.
Dan Yachin và Oren Raviv, các nhà phân tích của Tập đoàn Dữ liệu Quốc tế chuyên thu thập thông tin công nghệ toàn cầu cho biết: “Israel dẫn đầu thế giới về vốn đầu tư mạo hiểm trên đầu người và chỉ đứng sau Mỹ về số lượng các công ty khởi nghiệp.”
Làm thế nào một đất nước nhỏ bé với nguồn tài nguyên thiên nhiên hạn hẹp lại có thể trở thành trung tâm sức mạnh sáng tạo công nghệ toàn cầu?
Trong cuốn sách viết năm 2009 của mình có tên Quốc gia khởi nghiệp: Câu chuyện về sự thần kỳ kinh tế Israel, hai tác giả Dan Senor và Saul Singer đã trả lời câu hỏi trên bằng cách chỉ ra hệ tư tưởng Israel. Đó không chỉ là câu chuyện về tài năng mà còn là câu chuyện về lòng kiên trì, tinh thần liên tục đặt vấn đề của các nhà cầm quyền, sự thẳng thắn đến cương nghị của mỗi công dân, kết hợp với một thái độ trước thất bại mà ta chỉ có thể gặp ở Israel, cộng thêm tinh thần đồng đội, sự tận tâm vì nhiệm vụ, thái độ trước rủi ro và sức sáng tạo từ sự kết hợp tri thức đa lĩnh vực. Senor và Singer cũng nhấn mạnh các yếu tố quan trọng đằng sau sự bùng nổ công nghệ tại Israel, từ các đơn vị kỹ thuật lành nghề trong quân đội đến phong trào nhập cư của các kỹ sư và nhà khoa học máy tính Xô Viết trong những năm 1990.
Tất cả những điều trên đều rất chính xác. Nhưng còn một lý do cơ bản nữa giải thích cho số lượng dồi dào các công ty khởi nghiệp ở Israel – đó chính là Technion.
Với tư cách là trường kỹ thuật đầu tiên và danh tiếng nhất Israel, Technion đã đóng vai trò then chốt trong sự bùng nổ các
doanh nghiệp khởi nghiệp tại đây. Các giảng viên Technion chính là tác giả của những nghiên cứu cơ bản đã tạo nền tảng cho sự nảy nở của các công ty khởi nghiệp công nghệ trong vòng hai thập kỷ qua, không chỉ ở Israel mà còn trên toàn thế giới. Ví dụ, thuật toán do các Giáo sư Abraham Lepel và Jacob Ziv xây dựng trong những năm 1970 đã trở thành phương pháp nén dữ liệu trên máy vi tính đầu tiên và được phổ biến rộng rãi nhất – mở đường cho khả năng gửi các dữ liệu dung lượng lớn qua Internet. Không có nghiên cứu của họ, có thể chúng ta sẽ không có các thiết bị kết nối dịch vụ Internet hiệu quả, không có các tệp dữ liệu dạng hình ảnh như GIF hay PDF, và thậm chí cũng không có cả Internet nữa. “Nếu có một giải Nobel dành cho các thành tựu trong lĩnh vực thông tin thì chắc chắn nó sẽ thuộc về Lempel-Ziv,” Amos Horev, cựu Chủ tịch Technion nói.
Technion cũng hỗ trợ về mặt hậu cần cho các công ty khởi nghiệp thông qua Dimotech, một công ty do Technion sở hữu 100% giúp kết nối các nghiên cứu khả thi về mặt thương mại với các nhà đầu tư, và còn thông qua cả vườn ươm doanh nghiệp Technion Seed nữa. Nhưng cho đến nay, đóng góp lớn nhất của Technion cho sức sáng tạo Israel chính là nguồn nhân lực do nó đào tạo – các chuyên gia kỹ thuật tay nghề cao, thành phần quan trọng nhất của một nền kinh tế thành công nhờ tri thức và chất xám. Wix, Protalix, Radcom, Elbit, EZChip, Nice chỉ là một số ít tên tuổi trong tổng số 42 công ty niêm yết trên sàn NASDAQ được sáng lập hoặc đang được điều hành bởi các cựu học viên Technion (xem phần Phụ lục). Trên thực tế, 58 % các công ty Israel trên sàn NASDAQ tại thời điểm tháng Ba năm 2015, có các cựu học viên Technion là các nhà sáng lập hoặc quản lý cấp cao.
Khi tiến hành khảo sát về các cựu học viên Technion, chúng tôi phát hiện ra rằng gần ba phần tư các học viên tốt nghiệp Technion làm việc trong ngành công nghiệp hiện đang hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh công nghệ cao. Khả năng các cựu học viên Technion sẽ làm việc trong mảng nghiên cứu và phát triển cũng cao gấp 13 lần so với một người Israel bình thường.
Tỷ lệ ngành nghề của các học viên tốt nghiệp Technion so với người Israel bình thường, xét về mức độ tham gia của ́ ́
yếu tố công nghệ:
Nguồn: Khảo sát Technion 2010 do Amnon Frenkel và Shlomo Maital thực hiện.
17% các học viên tốt nghiệp Technion hiện đang làm việc trong các công ty khởi nghiệp công nghệ cao – gấp ba lần tỷ lệ trung bình của Israel. Con số đó thậm chí còn cao hơn, lên tới 20%, nếu chỉ tính những học viên tốt nghiệp trong vòng 20 năm gần đây.
Ứng dụng công nghệ mới để những thứ cũ kỹ trở nên hiệu quả hơn.
Ofer Vilenski là một cựu học viên như vậy – một doanh nhân khởi nghiệp hiện vẫn đang say sưa với công ty khởi nghiệp thứ hai của mình bất chấp nhiều nỗ lực “nghỉ hưu” sau thành công đầu tiên.
Vilenski đăng ký học chương trình khoa học máy tính của Technion sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự với vai trò một phi công trong Không lực Israel. Ngay từ khi mới tốt nghiệp phổ thông, tinh thần doanh nhân trong con người ông đã tỏa sáng. Đó là khi ông phát hiện ra rằng mình có thể tự đóng một chiếc giường với chi phí chỉ 100 shekel thay vì phải đi mua với giá 800 shekel, ông đã chuyển sáng kiến đó thành công việc kinh doanh giường gấp cho các sinh viên khác.
“Công nghệ cao nghĩa là làm những thứ mà con người vẫn làm từ hàng ngàn năm nay theo một cách mới – hiệu quả hơn,” Vilenski nói. ́
“Vậy làm thế nào bạn khai thác được những công nghệ mới để làm những thứ cũ kỹ một cách hiệu quả hơn?”
Sau khi tốt nghiệp năm 1996, Vilenski làm việc cho Công ty công nghệ phần mềm Check Point, một trong những công ty phần mềm đầu tiên của Israel niêm yết trên sàn chứng khoán Mỹ. Sau đó ông và một đối tác sáng lập Jungo, một công ty chuyên cung cấp phần mềm Internet băng thông rộng cho các gia đình. Họ gây dựng Jungo cho đến khi đội ngũ nhân viên của nó mở rộng thành 170 người rồi bán lại cho NDS – một nhánh của Tập đoàn truyền thông News Corp của ông trùm tư bản Rupert Murdoch – với giá 107 triệu đô-la vào năm 2006.
Vilenski thề sẽ không làm việc thêm một ngày nào nữa trong đời. “Nhưng sau đó, chúng tôi có một ý tưởng thực sự hay ho là thông qua phần mềm ta có thể làm cho tốc độ kết nối Internet tăng thêm 50 lần so với hiện nay mà không hề phải động chạm tới phần cứng,” ông hồi tưởng lại.
Vậy là Vilenski lại tiếp tục kinh doanh – mặc dù giờ đây ông chỉ điều hành 10 nhân viên và một chú chó canh cửa. “Chúng tôi giữ nó ở đây chỉ là để khoe khoang với các nhà tư bản đầu tư mạo hiểm mà thôi,” ông nói đùa về công ty khởi nghiệp mang tên Hola! hiện đang đặt văn phòng tại Netanya của mình.
Technion và đại học trong nhà bếp
Technion thực sự là một trường đại học lớn. Nhưng thường thì nó còn kết hợp với một trường đại học không tên tuổi khác theo mô hình “đại học trong nhà bếp”. Mà sự kết hợp này thì lại thường có sức mạnh rất lớn.
Lấy ví dụ như Dan Vilenski, nhà quản trị trong lĩnh vực công nghệ đồng thời là cựu học viên Technion. Vilenski và vợ là Judith, một y tá, có năm người con. Cả năm đều đã bắt đầu sự nghiệp kinh doanh của riêng mình. Và mặc dù chỉ có một người
́ ́ ̀ ́
trong số họ tốt nghiệp Technion, cả năm đều đã tốt nghiệp “đại học trong nhà bếp” của Vilenski.
Đại học trong nhà bếp, tại nhà của Vilenski ở Haifa, chỉ có hai nguyên tắc đơn giản. Thứ nhất là một kèm một. Nói cách khác, cả gia đình sẽ không tụ họp để cùng xử lý vấn đề của một thành viên mà thay vào đó, từng người con sẽ gặp riêng cha Dan ở trong bếp để thảo luận một vấn đề nhất định.
Nguyên tắc thứ hai là, cha Dan sẽ không đưa ra lời khuyên nếu không được đề nghị. Dan có thể từng là chủ tịch của Applied Materials Israel, nhưng cuộc gặp gỡ ở đại học trong nhà bếp vẫn cần phải được một trong những đứa trẻ yêu cầu thì mới được tổ chức.
Chúng tôi đã nhắc tới người con trai của Vilenski là Ofer, anh đã bán công ty khởi nghiệp mà anh cùng cha sáng lập và giờ lại đang bắt đầu xây dựng công ty mới mang tên Hola. Con gái Sigal của ông hiện đang sở hữu và điều hành công ty thiết kế đồ họa Strudel Design, nơi sáng tạo ra các mẫu lô-gô độc đáo và ấn tượng cho rất nhiều công ty. Sigal cố tình hạn chế cường độ hoạt động kinh doanh của mình để có thể dành thời gian cho việc đón các con vào buổi chiều. Một người con gái khác của ông là Yael, hiện đang điều hành công ty có tên Ooga-Ooga! chuyên làm bánh nghệ thuật (Ooga nghĩa là “bánh” trong tiếng Hebrew). Studio có tên Inside Out của cô con gái Irit chuyên thiết kế nội thất, chủ yếu là cho các quán cà phê. Còn cô con gái Noa thì là một nhà thiết kế thời trang.
Có rất nhiều trường đại học trong nhà bếp như vậy trên khắp Israel. Thế hệ doanh nhân của những năm 1980 và 1990 đã sinh con, và con cái họ, được rèn luyện từ phiên bản đại học trong nhà bếp đặc thù của gia đình mình, giờ cũng đang gây dựng sự nghiệp kinh doanh riêng.
Better Place của Shai Agassi chẳng hạn, chắc chắn nó đã có được những lời khuyên vô cùng hữu ích từ đại học trong nhà bếp
́
của cha anh, Reuven. Cả hai cha con cùng tốt nghiệp Technion, và cả hai cùng là doanh nhân.
Những kỹ sư có tâm hồn
Không phải tất cả doanh nhân Technion đều gây dựng các công ty khởi nghiệp. Một số lại tham gia vào các hoạt động xã hội và cũng đang góp phần thay đổi cả thế giới. Giáo sư môn kỹ thuật dân dụng của Technion, Mark Talesnick, là một ví dụ. Ông đang đứng đầu
Chương trình hợp tác với UNESCO về Kỹ thuật bền vững trong các cộng đồng đang phát triển đồng thời đang dẫn dắt Hiệp hội Kỹ sư Không biên giới (Engineers Without Borders – EWB) của Technion với mục tiêu hoạt động là đào tạo ‘các kỹ sư có tâm hồn’, ‘kỹ sư toàn
cầu’, các giảng viên và sinh viên mong muốn “phát triển các giải pháp kỹ thuật phù hợp và bền vững cho các vấn đề đã được đánh giá tại các cộng đồng đang phát triển, các giải pháp giúp các cộng đồng này có thể duy trì, điều chỉnh, ổn định và tái sinh.”
Hiệp hội EWB của Technion hiện có tám dự án đang được thực hiện, trong đó có các dự án về nước và năng lượng ở Ethiopia và Negev cùng một dự án mang tính cách mạng ở Namsaling, Nepal. Giáo sư Talesnick rất say sưa nói về dự án sau cùng, một dự án xây dựng “các bể kị khí,” hay các hầm ủ phân chuồng để tạo khí đốt bi ô-ga. “Rất nhiều gia đình nông thôn Nepal hiện vẫn chặt cây lấy củi phục vụ việc nấu ăn, sưởi ấm và chiếu sáng. Nó tạo ra một cái vòng luẩn quẩn – nước phải được làm sạch bằng cách đun sôi, vì thế cần phải chặt nhiều cây hơn, đốt nhiều củi hơn và lại tạo ra nhiều khói bụi ở trong nhà hơn. Câu hỏi đặt ra là, làm thế nào để giải quyết cùng lúc tất cả những vấn đề trên, chỉ bằng năng lực hạn chế của các cộng đồng ở đó?”
Câu trả lời ư? Chính là các hầm bi-ô-ga ủ vi khuẩn tự nhiên, nước và phân động vật hoặc chất thải của con người trong môi trường không có khí ô xy để tạo ra hỗn hợp khí hy-drô-gen, các-bon mô-nô xít và mê-tan có thể được dùng để nấu nướng. Hiện có khoảng 200 ngàn hầm ủ như thế ở khắp Nepal. Nhưng trong một chuyến thăm quan thực tế tại Namsaling, các sinh viên Technion đã phát ̀ ̀ ́
hiện ra rằng xây dựng những hầm ủ như thế ở các vùng nông thôn rất đắt đỏ và tốn thời gian. Họ đã nghĩ ra một cách để xây các hầm ủ nhanh hơn và rẻ hơn, đầu tiên là dùng nhôm và Styrofoam (không có sẵn ở Nepal), nhưng sau đó là sử dụng vật liệu tre sẵn có tại địa phương để làm các tấm phủ lớn. Hiện đã có 60 hầm ủ bi-ô-ga như vậy được làm tại Nepal và nhóm nghiên cứu hy vọng sẽ xây được khoảng 950 cái nữa. Mỗi cái dành cho một hộ gia đình, có khả năng chuyển đổi 40-50 kg chất thải của động vật và con người thành lượng khí đốt cho khoảng 5-6 giờ đun nấu mỗi ngày. Mỗi hầm ủ như vậy sẽ tiết kiệm 12 ngàn kg gỗ mỗi năm. Lượng gỗ tương đương hơn một chục cây gỗ lớn.
Giáo sư Talesnick nói: “Một trong các kế hoạch khác của chúng tôi là lắp đặt một tua bin gió và hệ thống pin mặt trời tại làng Bedouin, tỉnh Qasr A Sir miền Bắc Negev. Mục đích là để cổ vũ các sáng kiến tập thể của người dân trong làng, đặc biệt là phụ nữ, trong việc nấu nướng và may vá. Từ xuất phát điểm là con số không, chúng tôi đã chế tạo được một máy phát điện chạy bằng sức gió: lõi máy phát được làm từ các vật liệu thô, nam châm và dây điện cuộn, bộ lá cánh để làm máy đẩy, hệ thống điện và cột trụ, tất cả đều được chế tạo bởi các sinh viên. Tua bin hiện đang được chạy thử trên nóc một tòa nhà của Technion, trước khi lắp đặt tại hiện trường.
Ảnh của Talesnik – Negev
Công ty khởi nghiệp với ý tưởng giúp người bị liệt chân đi lại được
Giống như sáng kiến của Talesnick trong việc giúp đỡ người dân nông thôn Nepal, một học viên Technion khác, Tiến sĩ Amot Goffer,
́ ́ ̀ ́
lại tạo ra thứ giúp giải quyết một vấn đề ở cấp độ cá nhân con người. Goffer từng làm việc cho Elscint, một công ty chuyên về thiết bị hình ảnh y tế, sau đó anh tự mình thành lập một công ty chuyên cung cấp hình ảnh chụp cộng hưởng từ tức thời dùng trong các ca phẫu thuật não. Nhưng rồi một tai nạn khủng khiếp đã khiến anh bị liệt chân và phải đi lại bằng xe đẩy. Và cũng giống như Agassi của thế hệ trước, anh đã đặt ra một câu hỏi táo bạo: “Làm thế nào để chế tạo một thiết bị giúp những người bị liệt đi lại được trên chính đôi chân của mình?”
Goffer đã nghĩ ra giải pháp. Anh tự dựng một nguyên mẫu để thử nghiệm với chính mình sau đó thành lập công ty Công nghệ y tế Argo để gọi vốn đầu tư mạo hiểm cho việc sản xuất đại trà. ReWalk là một bộ khung được gắn bên ngoài cơ thể, sử dụng công nghệ điện tử để giúp những người bị liệt thân dưới đứng được trên đôi chân của chính họ và đi bộ với tốc độ bình thường khoảng 2 cây số mỗi giờ - thậm chí còn leo cả cầu thang nữa. Thiết bị này vừa có công dụng của một “khung tập đi” vừa là thiết bị phục hồi chức năng giúp các bệnh nhân phục hồi sau tai nạn hoặc va đập mạnh. Chúng tôi đã tham dự một buổi trình diễn thiết bị ReWalk tại văn phòng công ty Argo đặt tại một khu công nghiệp nhỏ ở Yokneam, ngay ngoại ô Haifa. Người dùng được gắn một bộ khung vào chân, bộ khung này kết nối với một cảm biến điện tử gắn trên cổ tay giúp đẩy lần lượt từng chân về phía trước mỗi khi anh ta nghiêng người về phía trước. Pin của nó nằm trong một túi nhỏ gắn sau lưng và chỉ tạo ra tiếng ồn rất nhỏ. ReWalk tích hợp các công nghệ và tri thức tiên tiến nhất của các lĩnh vực gồm phần mềm, điện tử học, vật lý học, cơ khí và công thái học(17). Chính Goffer cũng không thể tự mình sử dụng được thiết bị này vì anh bị liệt cả tứ chi. Nhưng anh ước tính rằng khoảng 500 ngàn trên tổng số khoảng 2 triệu người đang phải ngồi trên xe đẩy ở Mỹ sẽ đi lại được nhờ ReWalk. Với nguồn vốn gọi từ các quỹ đầu tư mạo hiểm và đội ngũ nhân sự chừng 15 người, anh đã bắt đầu tiếp thị thiết bị của mình ở cả châu Âu và Mỹ. Hiện nó đang được một trung tâm phục hồi chức năng ở Philadelphia và một bệnh viện dành cho cựu chiến binh ở New York sử dụng.
Thủ tướng Bejamin Netanyahu, Tổng thống Barack Obama và Radi Kaiuf bên thiết bị ReWalk.
“Lợi ích hàng đầu của ReWalk là người dùng sẽ lấy lại sự tự tin về giá trị của bản thân,” Goffer nói với chúng tôi. “Người dùng ReWalk sẽ không còn bị coi là tàn tật nữa mà chỉ là cần đến một chút hỗ trợ. Nó có thể nâng cao chất lượng cuộc sống, sức khỏe, sự chấp nhận của xã hội và khả năng trở lại làm việc của người dùng.”
Trong chuyến thăm Israel vào tháng Ba năm 2013, Tổng thống Mỹ Obama đã tận mắt thấy ReWalk được điều khiển bởi Radi Kaiuf, một cựu chiến binh của Quân đội Israel và Theresa Hannigan, một cựu chiến binh quân đội Mỹ. Cả hai đều bị liệt hai chân. Hannigan cho biết, “Tôi rất vui khi có cơ hội biểu diễn cho Tổng thống Obama công nghệ đáng kinh ngạc này, nó sẽ mang lại lợi ích cho cuộc sống của rất nhiều người bị chấn thương cột sống.” Hannigan hiện đang luyện tập sử dụng ReWalk tại Trung tâm chăm sóc cựu chiến binh tại Bronx, New York.
Khoa học cơ bản, tư duy đa ngành
Những nhà cải cách như Goffer, Vilenski và Agassi đã học được những gì từ Technion?
Ngày nay Technion cổ vũ mạnh mẽ tinh thần khởi nghiệp: Nhà khoa học vật liệu đoạt giải Nobel, Giáo sư Dan Shechtman, hiện đang phụ trách một lớp học khá quen thuộc tại đây trong đó các doanh nhân sẽ được mời tới để chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn trong sự nghiệp kinh doanh của họ. 28 năm về trước, khi Shechtman mở khóa đào ̀
tạo doanh nhân đầu tiên của mình thì mọi chuyện không được thuận lợi đến vậy. Thế nhưng phương pháp tư duy và cách thức tiếp cận vấn đề mang bản sắc Technion thì đã hình thành từ lâu qua nhiều thế hệ.
Tinh thần doanh nhân lan tỏa từ nhà khoa học đoạt giải Nobel
Nhà khoa học đoạt giải Nobel Dan Shechtman được nhiều người biết đến bởi phát hiện mang tính đột phá của ông về giả tinh thể. Tuy nhiên, ông còn đạt được một thành tựu quan trọng khác, dù nó không làm ông nổi tiếng bằng giải Nobel. Shechtman là doanh nhân hiện đang hoạt động tích cực tại một số công ty khởi nghiệp, một vài trong số đó đang tìm cách thương mại hóa nghiên cứu của ông về “vật chất Shechtman”. Ông cũng rất tâm huyết với sự nghiệp truyền cảm hứng và đào tạo các doanh nhân cho Technion.
Năm 1987, Shechtman cùng hợp tác với Shlomo Maital, một trong các đồng tác giả của cuốn sách này, để tổ chức một khóa học nghiên cứu tổng hợp tại Technion có tên “Tinh thần doanh nhân công nghệ”. Ý tưởng chủ đạo của khóa học kéo dài 14 tuần này là để chính các doanh nhân kể lại câu chuyện của họ cho người học, cả thất bại lẫn thành công. Shechtman kể lại: “Chúng tôi muốn cổ vũ các sinh viên Technion khởi nghiệp bằng cách chỉ cho họ thấy cách những con người bình thường làm những điều phi thường thông qua các sản phẩm và doanh nghiệp mới, ra đời nhờ sự dẫn dắt của khoa học công nghệ.”
Yêu cầu của khóa học rất đơn giản. Hàng tuần học viên phải có mặt để nghe giảng sau đó viết một bản tóm tắt về buổi nói chuyện của ngày hôm đó cũng như những gì họ học được từ đó. Suốt một phần tư thế kỷ qua, đã có hàng trăm sinh viên đăng ký và tham gia khóa học này mỗi năm.
Tổng cộng đã có hàng ngàn sinh viên Technion được nghe những câu chuyện hấp dẫn từ những doanh nhân khởi nghiệp kỳ cựu, rất nhiều trong số đó đã được truyền cảm hứng và đã thực sự
́
tiếp bước họ. Các học viên của khóa học không chỉ là kỹ sư điện tử hay khoa học máy tính, họ đến từ tất cả 18 khoa và phân viện của Technion. Một số đã trở lại với tư cách là doanh nhân để chia sẻ kinh nghiệm của chính họ với những thế hệ kỹ sư mới của Technion. Ngày nay khóa học này vẫn tiếp tục được tổ chức. Nó còn được trợ giúp bởi công nghệ: các bài giảng đều được ghi hình và tải lên mạng Internet, với sự hỗ trợ từ Xưởng làm phim Carasso của Technion.
Các cựu học viên là doanh nhân mà chúng tôi phỏng vấn đều nói rằng Technion luôn nhấn mạnh khoa học cơ bản, sẵn sàng kết nối nhiều lĩnh vực khác nhau và luôn nỗ lực dạy cho sinh viên của mình cách giải quyết những vấn đề thực tế và khó lường trước. “Họ không muốn bạn chỉ ngâm ngợi giáo trình và học liệu mà phải thực sự suy nghĩ về nó,” Ofer Vilenski nói.
Trong khi đó, Shai Agassi lại ca ngợi những kiến thức khoa học cơ bản mà anh đã học được ở Technion.
“Tất cả những ai từng học tập tại Technion đều biết rằng năm học đầu tiên sẽ được dành cho những kiến thức nền tảng tổng hợp, những thứ bạn nghĩ mình sẽ chẳng bao giờ dùng đến,” Agassi nói. “Nhưng cơ sở kiến thức rộng lớn về khoa học của tôi cuối cùng lại trở nên vô cùng hữu ích khi tôi chuyển từ lĩnh vực phần mềm sang thế giới của ô tô điện... Giải quyết vấn đề một cách có phương pháp là kỹ năng được Technion rèn luyện cho tất cả sinh viên, và bạn sẽ sử dụng kỹ năng đó trong suốt cuộc đời làm việc của mình. Đến giờ tôi vẫn còn cần đến nó, dù 20 năm đã trôi qua.” Nỗ lực phổ biến xe ô tô vận hành mà “không cần đến một giọt dầu nào” của Agassi đã thất bại; nhưng các chuyên gia tin rằng xe điện, một khi đã được hoàn thiện, sẽ là công nghệ vận tải hứa hẹn nhất của tương lai.
Eli Pasternak, nhận bằng cử nhân ngành kỹ thuật điện của Technion năm 1973 và bằng thạc sĩ vào năm 1976, cũng đồng ý rằng kiến thức khoa học cơ bản mà ông học được ở Technion là vô
́
giá đối với sự nghiệp của ông trong vai trò của một doanh nhân và một nhà nghiên cứu đổi mới.
“Technion đã dạy tôi phương pháp tiếp cận các vấn đề kỹ thuật – bám sát khoa học cơ bản và các nguyên tắc vật lý ẩn giấu bên trong. Nó luôn chú trọng vào những nguyên tắc cơ bản chứ không phải là phương pháp kỹ thuật hay quy trình.” Pasternak nói.
Pasternak là chuyên gia công nghệ chủ chốt đồng thời là Phó Chủ tịch cấp cao của BridgeWave, một công ty truyền thông không dây với quy mô khoảng 100 nhân viên tại Thung lũng Silicon. Ông đã
sáng lập công ty này vào năm 1999 cùng với một cựu học viên Technion khác là Amir Makleff.
Niềm say mê kỹ thuật của Pasternak đã nhen nhóm từ khi ông còn là đứa trẻ 12 tuổi mê mẩn với những chiếc radio. Sau này, ông đã tự nguyện lựa chọn ở lại bộ phận kỹ thuật của công ty thay vì chuyển sang mảng tài chính và quản lý. “Khi một vấn đề kỹ thuật nào đó xảy ra, tôi thường bị nó ám ảnh, nhưng là nỗi ám ảnh hạnh phúc,” ông nói. “Với tôi, nó giống như một trò chơi vậy.”
Xếp dọc hành lang văn phòng của BridgeWave là các tấm bảng ghi lại các bằng sáng chế của Pasternak – nhưng chúng mới chỉ là một số ít trong tổng số 20 bằng sáng chế đã được ông đăng ký. Khảo sát của chúng tôi cho thấy 58% cựu học viên Technion làm các công việc nghiên cứu cải tiến trong một lĩnh vực nào đó giống như Pasternak – 49% trong số đó đang phát triển các sản phẩm mới, 12,6% đang cải tiến các quy trình kinh doanh và 7,6% đang kiến tạo các mô hình kinh doanh mới. (Có sự chồng lấn giữa những tập hợp này bởi một vài người đang đồng thời phát triển các sản phẩm, quy trình và mô hình kinh doanh mới.)
Chúng tôi cũng phát hiện ra rằng trung bình cứ bốn học viên tốt nghiệp Technion lại có một người đã được cấp hoặc đang gửi hồ sơ xét cấp bằng sáng chế – một con số đặc biệt ấn tượng khi xem xét thực tế là một số học viên làm việc trong các chuyên ngành như quy hoạch đô thị, kiến trúc và y khoa, những ngành không thường xuyên có các bằng sáng chế mới như các ngành khác.
̀ ̀ ́ ̀
Những người có nhiều bằng sáng chế thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như Pasternak khá nhiều. Trong số các học viên có bằng sáng chế thì số bằng sáng chế trung bình mà mỗi người sở hữu là năm cái. Ofer Vilenski đang thực hiện một dự án có liên quan tới 70 bằng sáng chế khác nhau. “Mọi thứ xung quanh đây đều vô cùng đặc biệt,” ông nói với nụ cười trên môi.
***
Cùng với sự chú trọng vào nền tảng kiến thức cơ bản, Technion cũng nhận được nhiều lời khen ngợi từ các doanh nhân là cựu học viên của nó bởi chính sách khuyến khích tư duy đa ngành.
Shai Agassi nói rằng, được đào tạo đa ngành tại Technion là yếu tố quan trọng khiến anh chuyển sự quan tâm của mình sang chế tạo xe hơi tiết kiệm năng lượng – dựa vào sinh vật học để nghiên cứu nhiên liệu hóa sinh, sau đó dựa vào vật lý học để nghiên cứu về ắc quy, và cuối cùng là dựa vào môn tích hợp hệ thống để tạo ra một mô hình kinh doanh mới. Eli Pasternak cũng làm điều tương tự nhưng ở quy mô nhỏ hơn. Đó là vào những năm 1980 khi ông còn là một kỹ sư trẻ và là ông bố tận tụy của những đứa con nhỏ, ông đã chế tạo ra một chiếc máy in có thể in được hình ảnh lên những chiếc bánh ngọt.
Với ngân sách 150 đô-la, Pasternak đã dùng một chiếc máy quay đĩa, một máy quay video và một transitor quang điện giá 50 xu để tạo ra một máy in cho bánh ngọt. Nhưng ông phát hiện ra rằng sô-cô-la rất giòn vì thế lớp phủ sô-cô-la sẽ vỡ dưới áp lực khi in ảnh.
“Vậy là tôi phải tạo ra một loại sô-cô-la mới. Chính là môn kỹ thuật thực phẩm!” Pasternak nói. “Tôi có vài cuốn sách và tôi đã đọc về nó. Tôi lại nhớ ra rằng ở Technion họ có dạy tôi về độ cứng của vật liệu. Khi xây dựng bằng bê tông, bạn phải gia cố nó bằng thép. Đó chính là môn kỹ thuật dân dụng! Và họ vẫn dạy tôi những điều đó mặc dù tôi là một kỹ sư điện.”
Cuối cùng Pasternak nghĩ ra giải pháp trộn thêm kẹo dẻo vào sô cô-la, giống như cốt thép bên trong bê tông vậy. Và sau ba tháng
trời cặm cụi, ông đã thành công.
“Technion dạy cho học viên phương pháp tiếp cận đa lĩnh vực, mà mọi vấn đề thực tế của đời sống thì đều liên quan đến rất nhiều lĩnh vực khác nhau,” Pasternak nói. “Ở những nơi khác, bạn sẽ trở thành chuyên gia trong một ‘lĩnh vực.’ Nhưng bạn sẽ phải giải quyết vấn đề bạn cần giải quyết, chứ không phải vấn đề bạn được đào tạo để giải quyết.”
Không chỉ sáng tạo ra sản phẩm, mà còn cả mô hình kinh doanh
Những từ ngữ như “sáng tạo” hay “cải tiến” khiến bạn nghĩ đến cái gì? Thường thì sẽ là một sản phẩm mới lạ. Nhưng bậc thầy quản lý Gary Hamel lại lý luận một cách đầy thuyết phục rằng những cải tiến vĩ đại nhất chính là những thứ tạo ra những phương thức kinh doanh mới, như mô hình bán máy tính “trực tiếp tới khách hàng” của Hãng máy tính Dell chẳng hạn. Học viên tốt nghiệp chuyên ngành kỹ thuật điện của Technion Yehuda Zisapel đã cùng anh trai Zohar sáng tạo ra một mô hình mới kiểu như vậy khi họ sáng lập RAD Group, một nhóm các công ty công nghệ cao hàng đầu với doanh thu hàng năm khoảng 1 tỷ đô-la và một đội ngũ khoảng bốn ngàn nhân công. Tạp chí Business 2.0 gọi RAD là “lồng ấp” các công ty khởi nghiệp trong lĩnh vực viễn thông “thành công nhất thế giới”.
Zisapel bắt đầu sự nghiệp doanh nhân của mình vào khoảng giữa những năm 1970 với một công ty nhỏ có tên Bynet mà sau này trở thành nhà tích hợp hệ thống hàng đầu Israel. Sau đó, ông còn tạo dựng thêm từ đó tám công ty nữa. Thời điểm ấy ngành công nghiệp công nghệ cao Israel còn chưa hình thành và cũng chưa có cái gọi là vốn đầu tư mạo hiểm ở Israel. Các thiết bị điện tử thường được mua về từ nước ngoài.
Từ trái sang phải: Doanh nhân hàng đầu Yehuda Zisapel và Tổng thống Peres với Zohar Zisapel
Bất chấp thực tế đó, năm 1981, anh em Zisapel vẫn quyết định thành lập một công ty hoạt động theo hướng xuất khẩu mang tên Công ty Truyền thông dữ liệu RAD, để sản xuất các loại thiết bị kiểu như modem mà Bynet từng mua và phân phối. Yehuda Zisapel nói với chúng tôi rằng mục tiêu rất rõ ràng của ông lúc đó không phải là thành lập một công ty mà là khởi đầu một ngành công nghiệp. Chiếc modem của RAD là một cải tiến mang tính cách mạng. Trong khi các modem khác của thời kỳ đó thường to bằng cỡ chiếc hộp đựng bánh pizza thì modem của RAD có thể nằm gọn trong lòng bàn tay. Nó không cần nguồn điện riêng, có thể hoạt động nhờ điện truyền qua đường dây điện thoại. RAD thu lợi nhuận lớn chỉ trong vòng hai năm. Đến năm 1987, nó đạt doanh thu bán hàng 10 triệu đô-la mỗi năm và đến năm 1996 là 100 triệu đô-la.
Nhưng sáng tạo thành công nhất của RAD lại không phải là chiếc modem mà là một chuỗi các công ty khởi nghiệp thành công mà nó tạo dựng. Tổng cộng RAD đã thành lập 128 công ty và quỹ đầu tư, một con số rất đáng kinh ngạc. Một tấm bảng chỉ dẫn treo trên tường tại văn phòng của Zisapel cho thấy RAD và con cháu của nó giống như những chùm mây dày đặc với RAD ở vị trí trung tâm cùng hàng trăm đường nối ra rất nhiều công ty khác, sự đa dạng về màu sắc thể hiện các công ty thuộc các thế hệ khác nhau.
"""