"
Chợ Trời Biên Giới Việt Nam - Cao Miên - Lê Hương full prc pdf epub azw3 [Văn Hóa]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chợ Trời Biên Giới Việt Nam - Cao Miên - Lê Hương full prc pdf epub azw3 [Văn Hóa]
Ebooks
Nhóm Zalo
Tên sách : CHỢ-TRỜI BIÊN GIỚI VIỆT-NAM – CAO-MIÊN Tác giả : LÊ-HƯƠNG
Nhà xuất bản : XUÂN THU
Năm xuất bản : 1968
------------------------
Nguồn sách : tusachtiengviet.com
Đánh máy : alegan, khibungto, Muộn Thʈ Vèo, lion8, Thanhtan921992, Quỳnh Hoa, truongquang0500
Kiʀm tra chính tả : Max Phạm, Lê Thʈ Phương Hiɾn, Nguyễn Hồng Vân, Dương An Chi, Ngô Thanh Tùng
Biên tɪp ebook : Thư Võ
Ngày hoàn thành : 18/12/2019
Ebook này được thͱc hiện theo dͱ án phi lợi nhuận « SỐ HÓA 1000 QUYỂN SÁCH VIỆT MỘT THỜI VANG BÓNG » của diễn đàn TVE-4U.ORG
Cảm ơn tác giả LÊ-HƯƠNG và nhà xuất bản XUÂN THU đã chia sẻ với bạn đọc nhͯng kiến thͩc quý giá.
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
I. ĐỊA ĐIỂM NHͮNG NGÔI CHỢ-TRỜI II. TẠI SAO CÓ CHỢ-TRỜI BIÊN GIỚI ? III. BỘ MẶT CỦA MỖI CHỢ TRỜI
1) CHỢ-TRỜI HÀ-TIÊN
a) TÌNH TRẠNG BIÊN GIỚI
b) ĐʇA ĐIɿM H͌P CHỢ
c) DƯA HẤU HÀ-TIÊN, MÓN ĂN THÍCH KHɥU CỦA HOÀNG-GIA MIÊN
d) CHÁNH QUYɽN ĐỐI VỚI CHỢ-TRỜI
e) MỐI TÌNH MIÊN-VIỆT Ở CHỢ-TRỜI
2) CHỢ-TRỜI TʇNH-BIÊN
a) CHỢ-TRỜI
b) TIɽN VÀ MÁU
c) NHͮNG MÓN HÀNG SỐNG : BÒ, GÀ, HEO, CÁ d) TÌNH TRẠNG BIẾN THIÊN QUA TỪNG GIAI ĐOẠN 3) CHỢ-TRỜI THƯỜNG PHỨC (HỒNG-NGͰ) a) M͘T ĐʇA THẾ ĐɳC BIỆT
b) M͘T QUY LUɩT LẠ LÙNG
c) CÁC HẠNG THÂN CHỦ
d) CÁC MÓN HÀNG
e) CÁCH CHUYɿN HÀNG
f) VẤN Đɽ Đ͔I TIɽN VÀ « N͘P THUẾ »
Ờ Ở
4) CHỢ-TRỜI SỞ-THƯỢNG
a) ĐƯỜNG VÀO CHỢ
b) SINH HOẠT
5) CHỢ-TRỜI PHƯỚC-TÂN
1) ĐʇA THẾ VÀ HÀNG HÓA
2) MÓN HÀNG ĐɳC BIỆT : MA TÚY CɣN SA
6) CHỢ-TRỜI GÒ-DɣU-HẠ
a) ĐʇA THẾ
b) HÌNH DÁNG CHỢ-TRỜI
c) THɿ THỨC VÀO CHỢ
e) CÁC HẠNG THÂN CHỦ
f) HÀNG HÓA TRONG CHỢ
g) CÁC LOẠI THUẾ KHÔNG GIẤY TỜ
h) PHƯƠNG PHÁP DI CHUYɿN HÀNG
i) Tʹ NẠN, VƯỢT TUYẾN
j) GIͮA THỜI CͰC THʇNH
k) NGÀY TẾT CỦA CHỢ-TRỜI
l) TÌNH TRẠNG CHỢ-TRỜI KHI CHÁNH QUYɽN CAO-MIÊN CẤM
m) CHỢ-TRỜI TẠI CHỢ GÒ-DɣU-HẠ
KẾT
HÌNH ẢNH SƯU TẦM
LÊ-HƯƠNG
CHỢ-TRỜI BIÊN GIỚI
VIỆT-NAM – CAO-MIÊN
GIẢI NHẤT PHÓNG SͰ 1969 TRUNG TÂM VĂN BÚT VIỆT-NAM
XUÂN THU
XUÂN THU
PO Box 97 Los Alamitos CA 90720 xuất bản và phát hành
Muôn vàn tưởng nhớ anh HUỲNH-NGỌC-TIỆM
LỜI NÓI ĐẦU
Chợ-Trời biên giới Viʄt-Nam – Cao-Miên đã vào lʈch sͭ từ đɤu năm 1955.
Tác giả thường qua lại các vùng biên cảnh, có ý muốn ghi lại một sͱ kiʄn lạ lùng nhất trong tình trạng kỳ dʈ giͯa hai quốc-gia sát cạnh nhau, trình bày suốt dải biên thùy Viʄt-Miên có bao nhiêu ngã đường chính thức và không chính thức, bao nhiêu ngôi Chợ-Trời lớn nhỏ, vʈ trí của từng chợ, nhͯng lý do tại sao có Chợ-Trời biên giới, nhͯng điɾu lợi, hại của Chợ-Trời, tại sao chánh quyɾn không ngăn cấm, nhͯng món hàng đặc biʄt của chợ mà chợ khác không có, nhͯng chuyʄn thɪt bên lɾ, nhͯng kɸ sống nhờ Chợ-Trời và chết vì Chợ-Trời, nhͯng khía cạnh kinh-tế, thương-mãi, văn hóa, xã-hội, chính-trʈ.
Quý vʈ được tác giả đưa đi thăm từng vùng một và sẽ ngạc nhiên, thích thú trước nhͯng chuyʄn lạ lùng ở bên này hay bên kia biên cương kèm theo nhͯng hình ảnh rất hiếm có.
Sau cuộc kháng chiến đu͕i Thͱc dân Pháp và khi hai quốc-gia thu hồi nɾn độc lɪp thɪt sͱ, người Viʄt-Nam và người Cao-Miên mới bɬt đɤu nói đến biên giới và khơi động vấn đɾ biên giới. Trước kia, người Viʄt sang đất Miên cũng như người miɾn Nam ra Trung-Viʄt, Bɬc-Viʄt. Biên giới là cây trụ xây bɮng gạch cɬm cạnh quốc-lộ ghi hàng chͯ « Ranh giới Viʄt-Nam – Cao-Miên ». Cả hai bên không có đồn, ải, quán hàng gì cả.
Tính từ ch͗ giáp ranh ba nước Viʄt-Miên-Lào thɰng xuống đến bờ vʈnh Thái-Lan ta thấy có tất cả 12 ngã đường vào lãnh th͕ bạn. Đó là nhͯng đường chánh thức có tên đàng hoàng và hiʄn giờ có nơi bʈ bỏ hoang, có nơi có cơ quan chánh quyɾn trú đóng. Ngoài ra còn vô số ngã khác không thʀ đếm vì không có đường lớn cho xe cộ thông thương, không có sông to cho tàu bè qua lại.
Vào năm 1955, khi viʄc giao thông bʈ ngăn chặn vì quyɾn lợi dʈ biʄt của hai quốc-gia, giới buôn bán xoay qua lối chạy hàng lɪu sẽ cố nhiên là dễ tiêu thụ và có lời nhiɾu, có lời mau hơn bán chánh thức. Đʈa điʀm trao đ͕i hàng hóa là các vùng giáp giới, nơi mà con buôn quen mặt với nhân viên chánh quyɾn hai bên, có thʀ qua đất bạn vài giờ rồi trở vɾ không cɤn xin giấy tờ gì cả. Nhͯng nơi tụ h͍p như thế càng ngày càng thu hút nhiɾu « thân chủ », từ nhóm nhỏ ngồi theo lɾ đường, bờ ruộng đến các hàng quán che tạm cạnh nhau hóa thành chợ hɰn hoi. Danh từ « Chợ-Trời biên giới » phát sinh vào lúc ấy.
Nhưng không phải trong suốt 12 ngã biên cương đɾu có 12 ngôi Chợ-Trời. Suốt lɮn ranh chʆ có 4 nơi có chợ hɰn hoi, trong đó, có 2 chợ hoạt động mạnh nhất, ngoài ra còn 2 nơi khác đồng bào mua bán theo xóm, trong nhà chứ không h͍p ngoài trời. Lý do có thʀ cho rɮng vì đʈa thế, vì đường giao thông thuɪn tiʄn hay không. Chợ h͍p từ sáng sớm đến trưa, không thʀ kéo dài đến chiɾu, đến tối vì vấn đɾ an ninh. Người mua hay bán phải tính giờ đi đến chợ và giờ trở vɾ nhà. Không ai dám ở trễ hay ngủ lại nhà người quen gɤn đồn bót vì hôm sau, chính quyɾn đʈa phương sẽ cɪt vấn,
nghi ngờ nạn nhân vượt biên giới « qua bên kia » làm nhͯng gì ? Trường hợp nɤy đã xɦy ra cho vài Viʄt kiɾu ở Prâsaut, quɪn Chipou, tʆnh Svayriêng ở cách Chợ-Trời Gò Dɤu-Hạ 28 cây số. Nhͯng người gặp vɪn rủi vì lỡ chuyến xe đò chót phải ở lại xã Bavet sát đồn canh. Khi vɾ nhà, nhân viên Công-an mời đến « điɾu tra » ngày này qua ngày khác, kỳ đến lúc lòi một số tiɾn kha khá mới yên thân ! Điɾu quan tr͍ng là phương tiʄn di chuyʀn hàng hóa đến nơi tiêu thụ. Hai ngôi chợ thʈnh vượng nhất nước Viʄt-Nam nhờ « chiếm » được quốc lộ số 1 và con sông Cͭu-Long nên mới đứng vͯng với thời gian và có cơ bành trướng mãi mãi.
I. ĐỊA ĐIỂM NHͮNG NGÔI CHỢ-TRỜI
Bɬt đɤu từ ba biên giới Viʄt-Miên-Lào xuống đến ba biên giới cũ Viʄt-Miên-Trung của người Pháp đặt ra (g͍i là Trois Frontières) chʆ có một ngã độc đạo : quốc lộ số 10 nối liɾn tʆnh Pleiku của ta với tʆnh Stung-Treng của Miên. Suốt mấy mươi năm đô hộ, người Pháp chʆ cɬm một cây trụ xây bɮng gạch mang mấy chͯ « Ranh giới Annam – Cao-Miên », tuyʄt không có nhà cͭa của đồng bào cũng như của nhân viên chánh quyɾn. Đó là con đường mà người Pháp g͍i là đường chiến lược, dùng đʀ chuyʀn quân khi có sͱ xích mích với Thái-Lan và đʀ tɦu thoát khi Nhɪt chiếm Đông-Dương. Nhưng chưa kʈp sͭ dụng lɤn nào, Thͱc dân đã đɤu hàng Phát xít trong một đêm ! Quốc lộ số 19 nɮm im trong rừng rɪm.
Cách lɮn ranh vài cây số, ta gặp xóm Mok Den của người Thượng, khi vượt biên thùy hàng 10 cây số nͯa mới đến xóm Apia của dân miɾn núi Cao-Miên, g͍i là người « Lơ », nghĩa là ở trên cao. Năm 1935, một người Pháp cùng vợ lái xe từ tʆnh l͵ Stung-Treng đi Pleiku, đến gɤn biên giới gặp trɪn mưa bão quá lớn, quɪt ngã một cây to nɮm chɬn ngang quốc lộ. Ông ta phải quay lại xóm Apia tạm trú với th͕ dân 2 ngày mới trở vɾ nhà. Ông bèn viết một bài ký sͱ đăng báo ở Nam-Vang ca tụng tánh hiếu khách của nhóm người sống xa ánh sáng văn-minh mà dân thành thʈ thường cho là lạc hɪu, c͕ l͗. Bài báo có kèm theo 4 tấm ảnh đã được giới chánh quyɾn chú ý đặc biʄt. Vài người hiếu kỳ đã t͕ chức cuộc du ngoạn viếng xóm người Lơ. Khi Viʄt-
Nam và Cao-Miên hoàn toàn độc lɪp, chánh phủ xây tại biên giới đồn Đức-Cơ.
- « Ngã thͩ nhì » : là quốc lộ số 14 ở tʆnh Phước-Long tại ba biên giới cũ Viʄt-Miên-Trung của người Pháp mượn đất Cao-Miên đɬp một đoạn. Xưa kia người ta dùng ngã này đʀ đi vòng sang tʆnh Ban-mê-thuột vì lúc ấy chưa có con đường đi ngang Đồng-Xoài. Khi đɬp đường nɤy xong, quốc lộ 14 không ai dùng nͯa. Bên Miên không mấy khi có ai sͭ dụng đoạn đường đi từ 1 tʆnh của Viʄt-Nam (Phước-Long) đến một tʆnh khác của Viʄt-Nam (Ban-mê-thuột) mà nɮm trên đất mình !
- « Ngã thͩ ba » : là con đường được dùng nhiɾu nhất trước ngày đoạn giao với Cao-Miên đʀ sang Ai-Lao là quốc lộ số 13 từ tʆnh Bình-Long sang tʆnh Kratié. Đʈa điʀm cuối cùng của ta là sóc Panang, bên kia là quɪn l͵ Snoul. Mười năm nay không ai được đi ngã ấy, sͱ liên lạc với Ai-Lao chʆ nhờ đường hàng không.
- « Ngã thͩ tư » : cũng bʈ bỏ hoang là quốc lộ 22 từ tʆnh Tây-Ninh sang tʆnh Kompongcham. Trạm cuối cùng là ấp Tɤm-Phô bây giờ g͍i là Samách ở cách tʆnh l͵ 45 cây số. Hiʄn thời (năm 1968) đồng bào liên-lạc bɮng xe « Lam » và chʆ đi được 6 cây số an-ninh, ngoài ra, từ xã Tân-Hưng đến xã Tân-Hội đi ngang qua xã Tân-Long (quɪn Phù-Khương) thì không mấy gì bảo đảm. Vào năm 1952, một người Hoa kiɾu chủ hãng xe đò ở Kompongcham đưa hành khách theo đường này đi Saigon. Mục đích của ông ta là chở hàng lɪu thuế xuyên qua nhiɾu quãng rừng rɪm và vườn cao su hơn là một dúm người xuôi, ngược. Nhưng dạo ấy, nghɾ buôn
tɬt chưa mấy gì phát đạt nên ông ta bʈ l͗ vốn khá nhiɾu, phải ngưng ngang sau một năm chʈu đͱng. Người ta nói rɮng ông chủ xe chở thuốc phiʄn mua ở Lào, nhưng ông không cạnh tranh n͕i với các chủ xe hàng đi thɰng Vạn
Tượng, Paksé qua ngã Kratié, Bình-Long theo quốc-lộ số 13. Dù dân làng bẹp ở Saigon lúc nào cũng còn « mạnh giỏi » như thường nhưng giá cả ở thʈ trường được mấy chú Ba ấn đʈnh hɰn hoi, không ai có thʀ viʄn lý lẽ gì đʀ bán mɬc hơn được. Ông chủ xe phải bỏ nghɾ cũng vì thế. Sau ông, không ai dám mạo hiʀm nối chí ông, quốc lộ 22 vɬng bóng xe đò từ ngày ấy.
- « Ngã thͩ năm » : là một tʆnh lộ nối liɾn Tây-Ninh với tʆnh Svay Riêng. Từ tʆnh l͵ đến biên giới 15 cây số, qua ấn Tân-Sinh Bến-Sỏi đến xã Phước-Tân, quɪn Phước-Ninh. Tại Bến-Sỏi có chiếc đò chở xe hơi, chống qua con sông nhỏ bɮng sào. Bên kia ranh giới là xã Bosmon, thuộc quɪn Romdoul, quɪn l͵ tên Kompong Chaak, đ͍c là Công Bông Chót, Viʄt kiɾu quen g͍i là Chót. Trước thời khói lͭa, kiɾu bào ở Svay Riêng đi xe đạp viếng Núi Bà theo ngã nɤy. Công chức Viʄt kiɾu thường sang Tây-Ninh trong ngày Chúa nhɪt. Cũng như bốn ngã trên, tại biên giới chʆ có một cột trụ xây bɮng gạch chơ vơ bên lɾ đường. Ngày nay tʆnh lộ bʈ cấm hɰn. Dân chúng ở gɤn lɮn ranh thì tͱ do qua lại buôn bán công khai. Hàng hóa ? Đặc biʄt có ma túy cɤn sa, trâu bò, heo, gà, loại « sản phɦm đʈa-phương » mà người Viʄt cho rɮng người Miên « có tay nuôi » nghĩa là khéo săn sóc, chăn dɬt k-lưỡng, mặc dɤu dấu vết trên thân thʀ con trâu, con bò không bao giờ giống theo giấy tờ. Lối buôn bán nɤy
đã có từ thời Pháp thuộc ; một số người Miên chuyên môn « dɬt nhɤm » súc vɪt của người khác đem đến biên giới phát mãi với giá hời. Tiếng nhà nghɾ g͍i là « bán buông đuôi ». Viʄt kiɾu và đồng bào ở gɤn đây rất thích món hàng bở nɤy, nhất là khi có đám tiʄc cɤn phải ngã một, hai « con sừng ».
Một lɤn, ông Cai T͕ng C. ăn tân gia, đãi khách một con bò gác tró. Con bò được m͕ làm đôi, ruột gan đʀ riêng, treo giͯa hai khúc cây gác tréo nhau ở ngoài sân, phía dưới đʀ lͭa than. Thͱc khách cɤm dao cɬt miếng thʈt nào vừa ý kèm rau sống, nước mɬm, mɬm nêm đʀ trên bàn bên cạnh và đưa cay với rượu đế, rượu « rôm ». Trước khi nhɪp tiʄc, tình cờ thấy ông bạn Viʄt kiɾu ở Chót đi ngang nhà, ông liɾn mời vào, bɬt buộc phải ở lại cụng ly, nhất đʈnh không nghe lời thoái thác của người bạn. Ông này « tâm sͱ » rɮng đêm hôm qua kɸ trộm mở chuồng bò lùa đi một cặp. Ông theo dấu, biết chúng đi vɾ hướng Tây-Ninh như thường lʄ, nên xin phép lên đường truy nã kɸ bất lương càng sớm càng tốt. Ông chủ nhà há hốc mồm, lɪt đɪt kéo bạn ra sân chʆ vào con vɪt treo lủng lɰng trên đống lͭa và đưa mɬt hỏi. Người bạn gɪt đɤu, mʆm một nụ cười như mếu.
Ông chủ nhà lại đưa bạn ra phía sau chʆ một con nͯa đang nhai rơm. Kết cuộc, người mất hai con bò ở lại « ăn » một con và dɬt một con trở vɾ !
Nhͯng chuyʄn mất bò, mất trâu xɦy ra như cơm bͯa, nhà cɤm quyɾn thời ấy chʈu bó tay vì thʀ thức bɬt trộm giͯa hai nước nặng nɾ, chɪm chạp. Có dày công truy tɤm được kɸ gian đi nͯa thì con vɪt khốn nạn đã bỏ xác từ lâu rồi.
Dưới chế độ thͱc dân, kɸ bʈ trʈ nghèo kh͕ vô cùng. Vào nhͯng năm 1940, 1941, dân Miên ở vùng này không có cái chăn đʀ quấn ngang hông, đừng nói đến áo. Nhiɾu gia đình ở trong ruộng rɨy xa xôi, hai vợ chồng chʆ có một cái chăn lành, vợ mặc đi ra ngoài thì chồng ở truồng nɮm nhà. Năm 1942, quân Nhɪt chiếm Đông-Dương, một số phụ nͯ Miên đi bộ qua Gò-Dɤu-Hạ xin ăn và đi lɤn xuống Saigon. Không có người nào tàn tɪt hay đau yếu gì cả. H͍ h͍c vài tiếng Viʄt mới bɪp bẹ, ngây ngô. Tại xã Bàu-Gõ sát ranh giới, có ông chủ rɨy mía thông Miên ngͯ đã tán tʆnh thế nào mà một thiếu phụ Miên không chʈu đi nhà khác sau khi đã ăn cơm, nhɪn bao gạo và món tiɾn khá nhiɾu. Thiếu phụ nhất đʈnh ở trong nhà ông.
Hàng xóm thấy viʄc lạ đ͕ xô lại hỏi thì bà tuyên bố rɮng : « Tui không đi đâu hết. Ông chủ « để con trong ruột » tôi rồi ».
Đàn bà không làm gì được phải dùng phương pháp cuối cùng, đàn ông « anh hùng » hơn tụ tɪp nhau ăn cướp. Phải nhìn nhɪn rɮng trong nhóm bất lương có người Viʄt nͯa. Chính Viʄt kiɾu chʆ huy, bày mưu thiết kế. Nhͯng người có máu mặt ở d͍c lɮn ranh không bao giờ dám ngủ trong mùng vì sợ cướp đến viếng sẽ hốt hoảng không biết đường chui ra ! Người nào cũng ngủ trɤn, cũng may nhờ đồng ruộng trống trải, không có ao chuôm nên ít có mu͗i. Người sɬm tủ sɬt không bao giờ khóa vì khóa chặt, cướp sẽ đɪp bʀ, tốn tiɾn sͭa. Lúc nào tủ cũng khép hờ đʀ sɲn chờ cướp vào mở dễ dàng ! Lẽ cố nhiên là trong tủ không có vòng vàng, tiɾn bạc gì cả. Nhà nào cũng có cͭa hông, cͭa hɪu,
nghe động thì bỏ chạy hết, mặc cho cướp tung hoành. Năm 1943, ông giáo Dương-văn-Có làm Cai trưởng Xã Kim-Tấn (nay đ͕i là Prasath) bʈ một toán võ trang bɮng búa, gɪy, dao phay đɪp bʀ đɤu, vơ vét áo quɤn, tiɾn bạc. Không một ai dám tiếp cứu, mặc dɤu nhà ông ở trong vòng rảo ông Phụ tá Xã trưởng. Ông này có cây súng mút-cà-tông sản xuất trước thế chiến thứ nhất (1914-1918), m͗i lɤn nạp đạn lối 5 phút, bɬn có khi không n͕. Ông không dám đánh đu͕i b͍n thảo khấu vì sợ chúng thù.
Một nghɾ khác rất đặc biʄt của chúng là đào mả lấy quɤn áo liʄm người chết. Khi có đám ma khá giả, chúng trà trộn rình xem lúc nhɪp quan rồi ngay sau khi hạ huyʄt, tang chủ mỏi mʄt không đɾ phòng, hoặc có khi hai, ba hôm sau chúng đào lên, cạy nɬp hòm lột sạch xác chết ! Chúng tránh mùi hôi thúi không mó tay vào bɮng cách cɤm một cây tre dài xuống đất kéo ng͍n xuống cột c͕ kɸ bất hạnh lôi lên treo tòn-ten như người tͱ vɨn rồi dùng dao lɬt nút áo, cɬt dây quɤn ! Sáng ra, kh͕ chủ thấy người thân của mình trɤn truồng bʈ treo c͕ trên cây như cá mɬc câu, bên cạnh là cái quan tài r͗ng sạch. Kiɾu bào có kinh nghiʄm phải ngủ giͯ mả 4, 5 hôm mới tránh được tai h͍a. Quɤn áo, mɾn mùng có hơi người chết được chúng giặt nấu, ướp long não sạch sẽ đem xuống Chợ-Lớn, Saigon bán. Một Viʄt kiɾu ở ấp Tà Nu, xã Prasath mua lɤm cái mɾm loại ấy, khi đɬp vào có hơi người thì mùi thúi tiết ra. Giặt, phơi khô thì hết. Đɬp lại có ! Giặt hàng chục lɤn không hết, ông phát giɪn đem đốt ra tro.
Công tác đu͕i trộm của nhà cɤm quyɾn thời Pháp thuộc có nhiɾu điʀm rất buồn cười. Kɸ bất lương bʈ rượt chạy ngờ
ngờ trên bờ ruộng, ai cũng thấy rõ ràng, thế nhưng khi chúng vượt khỏi lɮn ranh, sang đất Viʄt rồi thì chúng đứng lại, méo miʄng, nheo mɬt, vɨy tay g͍i các viên chức Miên theo bɬt ! Có tên chạy quá mʄt, phát cáu vạch quɤn cho người rượt coi chơi nͯa ! Sͱ kiʄn nɤy làm mất mặt người nhà nước thái quá nên quý vʈ Chauvaysrok (Quɪn trưởng), sát đất Viʄt trình lên ông Khâm sứ ở Nam-Vang và đã được giải quyết như sau : Chánh phủ bảo hộ Pháp ở Cao-Miên thỏa thuɪn với chánh phủ thuộc đʈa Pháp ở Nam-Kỳ vɾ phương pháp truy nã kɸ gian vào nội đʈa hai quốc-gia.
« Bên Miên cũng như bên Việt, các viên chức có quyền đi sâu vào đất bạn hai ngàn thước để thi hành phận sự khi cần thiết ».
Với khoảng đường ấy các viên chức đủ thời giờ tóm con mồi của mình. B͍n lưu manh sa lưới vài tên, hết dám dùng mánh khóe cũ, lại bày mưu khác. Có tên áp dụng m nhân kế, gán một thôn nͯ m miɾu cho ông « sếp sòng » người Miên, rồi tha hồ làm mưa, làm gió trên một dãy… biên thùy. Nghɾ bán bò được truyɾn tͭ lưu tồn đến ngày nay và tùy theo tình thế thay đ͕i, kɸ bán người mua lấy vùng giáp giới làm thʈ trường. Đây là một ngôi Chợ-Trời không có nơi h͍p, các thân chủ hẹn hò gặp nhau ở nhà nào, xóm nào nhɪn hàng, giao bạc, tiɾn trao cháo múc, rồi chia tay. Đối với Viʄt-Nam, vùng nɤy không mấy gì an-ninh, lại không có trạm kiʀm soát sͱ giao thông nên đồng bào tͱ do « sinh hoạt ». Bên Cao-Miên cũng vɪy, chánh quyɾn đʈa phương làm ngơ đʀ đồng bào h͍ có dʈp làm giàu.
Một câu chuyʄn buôn ngͱa lɪu xɦy ra dưới thời Pháp thuộc trên trục giao thông này đã thành một giai thoại cho đồng bào biên giới và Viʄt kiɾu thường nhɬc nhở trong lúc tͭu hɪu trà dư. Nguyên hai ông giáo Viʄt kiɾu xin từ chức vɾ quê ở Trảng-Bàng và Gò-Dɤu hạ xoay nghɾ thương mãi. Hai ông hùn nhau lên tʆnh Prey Veng mua ngͱa đem vɾ bán cho giới mã xa. Dạo ấy, năm 1943, Chánh phủ Bảo hộ Pháp cấm « xuất cảng » thú vɪt ra « ngoại quốc », nên hai ông phải dɬt món hàng len lỏi trong rừng vượt tuyến ! T͕ng số ngͱa là 5 con, trong ấy có một con ngͱa đua vì què chân, chủ phải cho giải nghʄ, bán rɸ. Hai ông giáo thuê một người Miên biết đường tɬt cùng đi vɾ Gò-Dɤu-Hạ. Đoàn người xuất hành từ chɪp tối, len lỏi trong rừng, trên đồng ruộng xa quɪn, xã đʀ tránh nhà chức trách. Ông giáo Trảng-Bàng mặc quɤn áo kaki vàng, giả làm quan nhà binh, ông giáo Gò-Dɤu-Hạ giả làm thɤy thông ngôn mặc quɤn áo vɬn, đội nón rộng vành. Khi gặp một ít người Miên, thɤy thông ngôn đứng nghiêm chào ông quan, nói tiếng Pháp lăng nhăng cho ra vɸ người của nhà nước đi công tác. Ông giáo ở Gò-Dɤu Hạ ốm nhỏ người thấy con ngͱa đua lưng mɪp tròn thì xí phɤn trước, nhất đʈnh dành cỡi cho khỏe chân vì phải đi suốt đêm. Ông giáo ở Trảng-Bàng mɪp, cao không muốn hành hạ con vɪt, nhường cho bạn ; ông đi bộ với người hướng đạo vừa trò chuyʄn cho vui chân.
Ông giáo ở Gò-Dɤu-Hạ không ngờ con ngͱa đͱc bʈ kɾm chế hàng năm đʀ chạy đua, nay thấy bốn con ngͱa đồng hành toàn là nái xɾ thì mừng húm vội cất hai chân trước chồm tới chụp đại, đʈnh dở trò ái tình. Báo hại anh k͵ mã
lɤn đɤu tiên đang ngồi vênh váo trên lͱng ngͱa trɤn trụi không yên cương, bʈ băng xuống đất suýt què ! Ấy thế mà ông giáo nhà ta vɨn không ngán, cương quyết leo lên ngồi kẹp chân vào hông ngͱa thɪt chặt. Vài phút sau, con ngͱa quá khao khát lại dͱng đứng thân hình lên chụp đại con ngͱa cái, tung ông ta rơi xuống nɮm lăn. Tấn tuồng tái diễn đến lɤn thứ tư, ông giáo chʈu đɤu hàng.
Ông vừa đi vừa cɮn nhɮn trách ông giáo ở Trảng-Bàng : « Mầy hại tao mà ! Mầy biết con ngựa đực mà không nói để tao té cho mày cười chơi ! »
Hừng sáng, hai ông tới chợ quɪn KompongChâk, cột ngͱa dưới bụi tre ngoài xa, cùng người dɨn đường vào quán ăn hủ tiếu. Chưa hết tô thứ nhì, hai ông gặp một công chức Viʄt kiɾu lớn tu͕i và ba người lính Miên mang súng cɦn thɪn vào ngồi một bàn trong góc quán.
Ông nây là bɪc đàn anh của hai ông giáo buôn ngͱa lɪu, bước lại nói rɮng : « Ông Sứ 1được tin ở Prey Veng cho biết có người mua ngựa dắt về Gò-Dầu-Hạ. Tao thấy tụi bây ăn mặc như vầy thì biết là chánh và tòng phạm rồi. Vậy chớ ngựa ở đâu ? »
Hai ông giáo không thʀ chối cải, phải cười ruồi khai thɪt. Ông ấy nói : « Ăn rồi thì dắt đi mau đi, tao về sẽ trình là không gặp cho xong. Bộ hết nghề làm ăn rồi phải không ? »
Chuyến ấy chót l͍t, hai ông chia lời rồi giải nghʄ luôn. Ông ở Trảng-Bàng không muốn bʈ lôi thôi mang tiếng, còn ông ở Gò-Dɤu-Hạ thì hết ham cỡi ngͱa đua, loại ngͱa đͱc thấy ngͱa cái như người chết được sống lại.
Từ xã Phước-Tân d͍c theo lɮn ranh đến quốc lộ số 1, trạm biên giới Gò-Dɤu-Hạ có vô số đường mòn qua lại hai nước mà không bên nào kiʀm soát được, nhất là ở xã Bến Cɤu, xã Bɤu-Gõ.
- « Ngã thͩ sáu » : là ngõ yết hɤu của hai nước theo đường bộ : biên giới Gò-Dɤu-Hạ, cũng thuộc tʆnh Tây-Ninh, bên kia là xã Bavel, Viʄt kiɾu quen g͍i là Truông Cát thuộc quɪn Svay Teap (d͍c Svay Tiếp), tʆnh Svay Riêng.
Con đường xuyên đất bạn là quốc lộ số 1 đi từ ải Nam quan đến quɪn Poipet biên giới Cao-Miên – Thái-Lan. Tại đây có một ngôi Chợ-Trời vĩ đại nhất lãnh th͕ nhờ đʈa thế thuɪn tiʄn cho sͱ xê dʈch, tải hàng, là cây đinh của thiên phóng sͱ.
Từ biên giới Gò-Dɤu-Hạ dài theo ranh tʆnh Tây-Ninh, Long-An, Kiến-Tường, Kiến-Phong có vô số thông lộ xuyên hai quốc-gia mà không có sͱ kiʀm soát nào. Chʆ có nội trong tʆnh Svay Riêng của Cao-Miên đã có 5 đường đất đʀ xe bò kéo lúa, thông thương qua các xã, ấp của Viʄt-Nam và hai đường sông xuyên vào Đồng-Tháp-Mười. Tại xã Bavet, theo quốc lộ số 1 hơn một cây số rẽ tay trái theo con đường đất 5 cây số đến xã Prasath, trước kia có tên Viʄt là Kim-Tấn, lại rẽ tay trái 3 cây số là tới chợ Rạch-Tràm, xã Phước-Chʆ, tʆnh Tây-Ninh. Tại ngã tư Kim-Tấn rẽ tay mặt 3 cây số là xã Sok nok, nay đ͕i là Mêsothngok, có một hương lộ xuyên Viʄt sang ấp Tà-Nu xã M Qui, tʆnh Long-An. Cũng ở ngã nɤy đi thɰng hai cây số là đến đất Viʄt. Theo lɮn ranh từ xã Mêsothngok đến xã Kompong Ro, Viʄt kiɾu quen g͍i là Rồ có đường sang xã Bình-Hiʄp, quɪn Bɬc-Chiên, tʆnh Kiến-
Tường, kế đó là đường Tà-Lóc đến xã Long-Khốt cũng thuộc tʆnh Kiến-Tường. Một ngã nͯa đi từ tʆnh Long-An và đường thủy thông vào Đồng-Tháp. Từ đó đi dài đến bờ sông Cͭu Long là đồng ruộng, hai bên có người cày cấy hoặc bỏ hoang, bên ta là Đồng-Tháp-Mười thuộc tʆnh Long-An và Kiến-Phong, không có sͱ kiʀm soát chánh thức nào cả. Vấn đɾ lính Miên thʆnh thoảng chạy qua đất ta cướp bò, giͱt trâu, bɬt người đʀ đòi tiɾn chuộc như b͍n cường san chánh hiʄu, và giết nhͯng nông dân vô tội là chuyʄn thường lʄ của h͍ đã quen từ thuở bán khai đến bây giờ.
- « Ngã thͩ bảy » : là ngã yếu hɤu thứ nhì của hai nước theo đường thủy, biên giới đặt tại xã Thường-Phước, quɪn Hồng-Ngͱ, tʆnh Kiến-Phong, nɮm trên tả ngạn Tiɾn Giang, và xã Tân-An, quɪn Tân-Châu, tʆnh Châu-Đốc trên hͯu ngạn. Đối diʄn với trạm Thường-Phước là ấp Kas Kos, xã Trapeng Svay Phlâus, quɪn Peam Chor, tʆnh Prey-veng. Xã Trapeng Svay Phlâus xưa kia mang tên Viʄt là Vĩnh-Lợi Tường, ấp Kas Kos g͍i là Cái-Cốc, người Viʄt quen g͍i là
Gòi-Cái-Cốc. Đây là trạm biên giới có từ thời Pháp thuộc đến ngày nay. Tại lɮn ranh nɤy có một ngôi Chợ-Trời vĩ đại vào bɪc nhì của nước ta, đứng sau chợ ở Gò-Dɤu-Hạ.
Cũng trong quɪn Hồng-Ngͱ, có một Chợ-Trời nhỏ nͯa tên là chợ Sở-Thượng nɮm trên bờ kinh Sở-Thượng. Kinh nɤy bɬt nguồn trong Đồng-Tháp-Mười chạy quanh trên đất Miên, đi ngang chợ quɪn Hồng-Ngͱ đ͕ vào sông Cͭu-Long. Đây cũng là một ngã đường sang đất bạn thuộc hàng thứ tám nhưng không được chánh thức hóa. Đồn bót hai bên chʆ
có phɪn sͱ giͯ vɾ mặt an-ninh cho dân chúng h͍p chợ mà thôi.
- « Ngã thͩ chín » : đối diʄn với xã Tân-An, quɪn Tân Châu là xã Prek Cham, trước kia mang tên Viʄt là Vĩnh Xương, thuộc quɪn Kos Thom (Viʄt kiɾu quen g͍i là Cỏ Thơm), tʆnh Kandal. Tại vùng biên giới nɤy không có Chợ Trời vì giới buôn bán chʆ được phép h͍p ở chợ Thường-Phước mà thôi. Dòng Cͭu-Long là ngã đường giao thông muôn thuở của hai quốc-gia ở cạnh nhau cùng sͭ dụng chung một con sông. Mặc dɤu Cao-Miên có một hải cảng là Sihanoukville ở vʈnh Kompong Som trong vʈnh Thái-Lan nhưng đại đa số tàu ngoại quốc đɾu nhờ sông Cͭu-Long đʀ đến Nam-Vang. Ngày xưa, người Viʄt theo ngã nɤy sang Cao-Miên lɪp nghiʄp tạo nên một số đồng bào kͷ lục hơn 400.000 người. Từ ngày tạm đoạn giao, sͱ qua lại bʈ hạn chế đến mức tối đa. Tuy nhiên, nhͯng món hàng của Cao Miên cɤn xuất cảng và cɤn nhɪp cảng giͯa hai nước được phép chuyʀn sang ở tại đây, dưới sͱ kiʀm soát của trạm Quan thuế, đó là cao su ở Kompong Cham do các vườn của người Pháp sản xuất và dɤu xăng, dɤu lͭa ở Saigon. Cao su chất trong ghe chài và xà lan từ Kompong Cham trước sͱ khám xét của chánh quyɾn đʈa-phương, rồi theo tàu thủy kéo đến biên giới giao, có chiếc tàu thủy ở Saigon kéo đoàn ghe chài và xà lan không nên đôi. Chʆ có tàu chở dɤu xăng được đi thɰng tới Nam-Vang nhưng bʈ khám xét rất k lưỡng. Thủy thủ không dám mua bán món gì ngoài các thức ăn thông thường như khô cá sấy, khô tra, lạp xưởng. Vi phạm luɪt lʄ, chủ hãng xăng sẽ bʈ phạt vạ bɮng một số tiɾn
kh͕ng lồ và lẽ cố nhiên nhân viên gây tội l͗i phải mất nồi cơm !
Tàu dɤu chạy 2 ngày từ Saigon đến Nam-Vang, một tuɤn có một chuyến. Tuɤn nào lỡ trễ vài ngày thì xăng ở Nam-Vang thiếu xài, thiên hạ phải mua giá chợ đen mɬc gấp ba gấp bốn lɤn giá chánh thức. Giͯa năm 1966, công ty cao su Pháp cho tàu cɪp bến Sihanoukville nhɪn hàng chở thɰng nên không dùng được sông Cͭu-Long nͯa. Trước đấy một số Viʄt kiɾu muốn gặp bà con ở Viʄt-Nam thường giả làm thủy thủ theo đoàn xà lan đến biên giới hàn huyên vài giờ với thân nhơn ở Saigon theo đoàn xà lan không ! Người nào muốn hồi hương không cɤn giấy tờ có thʀ trốn trong ghe và thừa lúc lộn xộn mà trà trộn với đám người ở Saigon.
- « Ngã thͩ mười » : ở trên bờ Hɪu-Giang vɾ hͯu ngạn g͍i là Benghi, ta g͍i là Bình Di, thuộc xã Sampou Thleay, quɪn Kos Thom, tʆnh Kandal, bên ta là xã Khánh Bình, quɪn An-Phú, tʆnh Châu-Đốc. Lɮn ranh chia đôi hai nước là con sông nhỏ tên là rạch Bình-Dʈ, tiếng Miên là Preak Benghi. Người bên nɤy muốn qua bên kia phải dùng chiếc đò chèo. Bên tả ngạn Tiɾn-Giang ngang chợ xã Khánh-Bình là đất Miên, ăn dài xuống đến xã Baknam là trạm chót. Từ biên giới trở xuống toàn là đồng ruộng, chʆ có đường đất nhỏ d͍c theo bờ sông Cͭu-Long là thuộc vùng bất an-ninh. Theo ngã Bình-Di, người Viʄt có thʀ đi Nam
Vang dễ dàng. Từ Châu-Đốc, dùng đò chèo qua Đa-Phước, ngồi xe hơi đò nhỏ đến xã Khánh-Bình, dùng đò chèo qua rạch Bình-Di, ngồi xe đò đi thɰng lên Nam-Vang. Đi như thế
phải có giấy tờ hợp pháp trình đồn bót kiʀm nhɪt, nhưng người nào muốn đi lén thì có thʀ nhờ người bơi xuồng đưa qua khoảng vɬng sang đất Miên. Đó là trường hợp của nhͯng người Viʄt kiɾu có giấy cư trú ở Cao-Miên lén vɾ Viʄt
Nam thăm bà con, chứ người Viʄt đi kiʀu đó thì không khỏi bʈ bɬt, trục xuất sau khi ở tù một thời gian đʀ các quan điɾu tra xem có phải là gián điʄp hay không ! Tuy sͱ qua, lại xem ra dễ dàng như thế, mà tại Bình-Di không có Chợ-Trời vì lẽ khó kiʀm soát theo con rạch nhỏ. Chánh quyɾn đʈa phương Miên cấm hɰn sͱ tụ h͍p d͍c theo bờ sông con đʀ tránh rɬc rối cho đôi bên.
Từ biên giới Bình-Di lɤn qua sông Châu-Đốc theo lɮn ranh không có sͱ kiʀm soát nào chánh thức. Đồng ruộng hai bên giáp nhau, bát ngát bao la. Vɾ hͯu ngạn sông Châu-Đốc, xã Vĩnh-Ngươn là đʈa điʀm chót của ta nɮm trên bờ sông Vĩnh-Tế.
Khi vạch ranh giới với Cao-Miên, người Pháp có ý lấy con kinh nhân tạo này làm dấu cho dễ nhɪn nhưng vì đồng bào ta ở trên bờ kinh quá nhiɾu và khai khɦn ruộng đất hàng mấy cây số nên lɮn ranh phải tùy theo bờ ruộng của người Viʄt bên này và người Miên bên kia, đã thế, người Miên lại thích nhàn, thường bỏ hoang phɤn đất của mình, người Viʄt bèn xin canh tác, trả bɮng lúa từng mùa. M͗i năm, khi đong lúa ruộng, đồng bào ta mở tiʄc ngoài mời cả Hội đồng và xã Miên đến chén. Tại xã Vĩnh-Ngươn đi dài đến quɪn Tʈnh Biên, hai bên có đồn bót án ngͯ, nhưng không có đường qua lại. Đồng bào ở vùng này thường bʈ lính Miên chạy qua bɬt cóc đòi tiɾn chuộc, hoặc cướp trâu, bò và đôi khi bɬn
chết nhiɾu người. Thảm trạng ấp Vĩnh-Lạc vɨn còn là cơn ác mộng của ta.
- « Ngã thͩ mười một » : là quốc lộ số 2 từ Châu-Đốc đi đến tʆnh Takeo của Miên ngang quɪn Tʈnh-Biên nɮm trên bờ kinh Vĩnh-Tễ.
Tʈnh-Biên là một trạm biên giới quan tr͍ng vào thời trước g͍i là biên giới Châu-Đốc – Takeo. Tại đây có một chiếc phà do người chống bɮng sào đưa xe cộ qua kinh. Phɤn đất của ta ăn qua bên kia bờ kinh hơn hai cây số mới đến một tiʀu thʈ trấn tên là Tam-Lɪp (Viʄt kiɾu quen g͍i là Tà-Lɪp), tên Miên xưa là Tonleap, đ͍c là Tông liếp, nay đ͕i là Prabat Chean Chum, thuộc xã Phnom Den, tʆnh Takeo. Dưới thời Pháp thuộc chưa có quốc-lộ số 17 nối liɾn tʆnh l͵ Rạch-Giá với quɪn l͵ Hà-Tiên, đồng bào đi Hà-Tiên phải theo ngã Tʈnh-Biên qua đất Miên đi ngang ngã Tukméas (ta quen g͍i là Sóc Mẹt) quɪn Kompong Trach và trở xuống biên giới lɤn nͯa !
Từ ngày Viʄt-Nam độc lɪp, ta không mượn đường theo lối ấy nͯa. Đồng bào đi Hà-Tiên bɮng quốc-lộ số 17 từ Rạch-Giá. Người Viʄt có thʀ dùng ngã nɤy đi Nam-Vang qua tʆnh Takeo nhưng nếu từ Sai-gon khởi hành thì theo quốc lộ số 1, ngã Gò-Dɤu-Hạ là gɤn nhất (125 cây số). Trước năm 1958, một hãng xe đò Vĩnh-Bình qua biên giới Tʈnh-Biên. Theo nghɾ t͕ truyɾn, ông chủ xe chuyên môn chở hàng lɪu nhɪp cảng và ngược lại. M͗i lɤn xe đến bến đò, hành khách phải chờ chủ xe điɾu đình với « thɤy chú » hàng nͭa ngày mới thoát được vɾ Châu-Đốc, hành động của ông ta quá lộng đến n͗i chánh quyɾn đʈa-phương cấm tuyʄt không cho
vào đất ta nͯa. Quốc lộ số 2 bʈ bỏ hoang hơn 15 năm nay, nhͯng hai bên vɨn có đồn bót trấn đóng. Qua đò Tʈnh-Biên theo đường lộ lối một cây số (vɨn còn là đất Viʄt) có một Chợ-Trời quy tụ Viʄt kiɾu và người Miên ở chợ Tân-Lɪp đến h͍p m͗i ngày. Chợ nɤy thuộc vào hạng nhỏ, tuy không vĩ đại như chợ Thường-Phước, Gò-Dɤu-Hạ nhưng cũng có nhͯng nét quan tr͍ng đặc biʄt của đʈa phương.
Từ Tʈnh-Biên theo bờ kinh Vĩnh-Tế ra tɪn vʈnh Thái-Lan không có sͱ kiʀm soát của chánh quyɾn. Dưới thời h͍ Ngô, các đảng phái chống chế độ gia đình trʈ lɪp chiến khu trong vùng bất khả xâm phạm này. Đảng Khăn-trɬng của Cao
Miên cũng nhờ đó mà nhi nhoe một dạo nhưng không làm nên trò trống gì.
- « Ngã thͩ mười hai » : là ngã chót : Hà-Tiên – Kampot, Viʄt kiɾu quen g͍i là Cɤn gi͍t (?) Đây là vùng đồng bɮng cách quɪn l͵ Hà-Tiên vài cây số, đối diʄn với một xóm người Miên tên Prussey Srok, nối liɾn bɮng quốc-lộ số 17. Đường nɤy do tʆnh Kiên-Giang đɬp sau ngày độc lɪp, từ chợ Rạch-Giá đến chợ Hà-Tiên dài 99 cây số.
Trong thời gian khói lͭa, đồng bào Hà-Tiên muốn đi Saigon không dám theo ngã Tʈnh-Biên, phải đi vòng qua tʆnh l͵ Kampot lên Nam-Vang nghʆ một đêm, hôm sau theo quốc lộ số 1 qua ngã Gò-Dɤu-Hạ ! Tuy nhiên, vì ở quá xa hai thủ đô nên sͱ xê dʈch của dân chúng không mấy rộn rʈp. Từ ngày đoạn giao, khoảng đường Hà-Tiên, Kampot không còn xe nào đi nͯa. Hiʄn giờ (năm 1968), quốc lộ số 17 chʆ thông thương được từ chợ Rạch-Giá đến xã Sóc-Xoài cách 12 cây số thuộc quɪn Châu-Thành. Từ chợ Sóc-Xoài đi thêm
3 cây số nͯa có một Tiʀu khu trấn đóng, chʆ có quân xa xê dʈch. Khoảng đường kế tiếp đến quɪn Minh-Lương, nơi có hãng xi măng Hà-Tiên thuộc vùng bất an-ninh. Đồng bào đi Hà-Tiên phải ngồi đò máy tới quɪn Minh-Lương, đi xe lam đến bến đò Tô-Châu, nếu không thì theo tàu tuɤn của Ty Thương chánh đi vòng ngoài biʀn. Tại biên giới Hà-Tiên có một Chợ-Trời giͯa cánh đồng, gɤn ngôi chùa Xà Xía của người Viʄt gốc Miên. Chợ nɤy thuộc loại nhỏ như ở Tʈnh
Biên và có nhiɾu nét độc đáo không giống các chợ khác.
II. TẠI SAO CÓ CHỢ-TRỜI BIÊN GIỚI ?
Chợ-Trời biên giới « phát sinh » ra do sͱ giao thông thương mại giͯa hai quốc gia bʈ bế tɬc, gián đoạn hoàn toàn hoặc bʈ tạm gián đoạn giͯa lúc dân chúng hai bên còn cɤn dùng nhͯng món hàng hóa, thức ăn hàng ngày. Tùy theo chánh quyɾn đʈa phương tại vùng biên giới nới lỏng hay siết chặt, tình trạng Chợ-Trời được « phát đạt » đúng mức hay thu hẹp tɤm hoạt động.
Có thʀ cho vào lʈch sͭ Chợ-Trời bɬt đɤu từ năm 1955, sau mấy tháng Cao-Miên và Viʄt-Nam thu hồi nɾn độc lɪp hoàn toàn. Trải qua ngót 13 năm, bộ mặt của m͗i Chợ-Trời d͍c theo lɮn ranh giới đã đ͕i thay không biết bao nhiêu lɤn. Nhưng dù cho tình hình ngoại giao giͯa hai nước có thay đ͕i thế nào cũng mặc, dù cho nhà chức trách ở hai đồn biên cảnh có cấm đoán thế nào cũng mặc, Chợ-Trời vɨn được duy trì bɾn vͯng với thời gian.
Chợ-Trời lợi cho ta thế nào, hại cho ta thế nào ? Có nên dẹp hay đʀ đồng bào buôn bán ở Chợ-Trời ? Đó là nhͯng câu hỏi của nhà cɤm quyɾn đã nêu ra và bàn cãi sôi n͕i, rút cuộc, Chợ-Trời vɨn còn tồn tại mặc dɤu bên cạnh nhͯng điɾu lợi có một ít điɾu hại nhỏ. Lợi cho ta trên phương diʄn kinh tế là số hàng hóa tiêu thụ sang đất bạn rất đáng kʀ, nuôi sống và làm giàu cho một số đồng bào ở vùng giáp giới. Nước Cao-Miên giao thương với Pháp và Trung-cộng nhưng người Miên vɨn thích xài đồ nội hóa Viʄt-Nam như
xoong, chảo bɮng nhôm, vải hàng, xà bông và thích dùng các thức ăn của người Viʄt như rau cải Đà-Lạt, trái cây tùy theo mùa : măng cụt, dưa hấu, xoài chín, chôm chôm, cả đến quà bánh h͍ cũng không chê. Một điʀm buồn cười nhất là h͍ thích xài đồ M, tuy chống M ra mặt, La ve hộp M bán thùng nɤy qua thùng khác. Người chủ đất cho cất Chợ Trời thâu tiɾn từng gian hàng m͗i tháng. Chánh quyɾn đʈa phương thu thuế ủng hộ và thuế Thương chánh tùy theo món hàng bán ra cũng như mua vào.
Trên phương diʄn chánh trʈ, Chợ-Trời là nơi thuɪn tiʄn cho vấn đɾ tình báo, gián điʄp, nơi cung cấp và xuất phát nhͯng nguồn tin có tính cách giɪt gân ! Song song với viʄc này, Chợ-Trời là đất dụng võ của nhͯng người tͱ xưng là tʈ nạn chính trʈ, động có viʄc gì thì chuồn đến vùng trái độn đʀ thoát qua bên kia !
Vɾ mặt xã-hội, Chợ-Trời là một vú sͯa cho các thân chủ thuộc nhiɾu giới : buôn bán hàng hóa, đ͕i bạc, xe đưa hành khách, xe chở hàng, khuân vác, gồng gánh, bán thức ăn, làm môi giới, cờ bạc bʈp và giấu hàng lɪu dùm cho người khác ! Một số Viʄt kiɾu hồi hương nhờ Chợ-Trời làm nơi thết tiễn hay rước thân nhân.
Vɾ mặt văn-hóa, người Miên và Viʄt kiɾu nhờ Chợ-Trời cung cấp sách h͍c chͯ Pháp, tạp chí, tiʀu thuyết, bản nhạc và ngược lại, người Viʄt gốc Miên mua sách h͍c chͯ Miên, kinh Phạn chͯ Pali (Phạn ngͯ) và nhạc mới của Cao-Miên !
Đại khái nhͯng điɾu lợi cho ta là thế ; còn điɾu hại đáng kʀ là vấn đɾ đối phương mua đồ dùng ở Chợ-Trời và có nơi
chúng lén kiʀm soát, bɬt buộc đồng bào đóng thuế đʀ chúng « bảo đảm » sanh mạng và tài sản. Đʀ tránh nạn nɤy, chánh quyɾn đʈa-phương đã cố gɬng rời Chợ-Trời đến gɤn đồn bót và phái nhân viên công lͱc đến bảo vʄ an-ninh.
Thʆnh thoảng có người nêu câu hỏi có nên đʀ Chợ-Trời hay không, thì có người trình bày rɮng dù có dẹp, có cấm đoán thế nào đi nͯa dân chúng hai bên vɨn tìm đủ 1001 phương pháp trao đ͕i hàng hóa với nhau ở nhͯng đʈa điʀm xa xôi d͍c theo lɮn ranh thì chánh quyɾn cũng không làm sao kiʀm soát n͕i. Riêng tʆnh Tây-Ninh có 213 cây số ranh giới, liʄu nhân viên đủ sức đảm nhiʄm viʄc chặn bɬt nhͯng người buôn bán hay không ?
Thế nên, đến ngày nay (1968) dù không được nhìn nhɪn chánh thức trên giấy tờ, Chợ-Trời vɨn « có mặt » trên thʈ trường và chiếm một đʈa vʈ không kém phɤn quan tr͍ng.
III. BỘ MẶT CỦA MỖI CHỢ TRỜI
1) CHỢ-TRỜI HÀ-TIÊN
a) TÌNH TRẠNG BIÊN GIỚI
Mấy năm rồi, người ta nói nhiɾu vɾ biên giới Viʄt-Nam – Cao-Miên. Đối với người Viʄt, vấn đɾ nɤy không có gì đáng g͍i là rɬc rối. Trái lại, đối với quốc-gia bạn, vì một lẽ riêng, cứ quanh đi quɦn lại, nói tới nói lui mãi gây thành một điɾu thɬc mɬc cho nhͯng kɸ hiếu kỳ.
Sở dĩ câu chuyʄn nhuộm màu sɬc ly kỳ là vì tánh chất tͱ nhiên của các vùng giáp giới đã có vɸ ly kỳ sɲn, cũng như viʄc ấn đʈnh lại do người Pháp khi chiếm đất ta. Th͍ hưởng một di sản bất đɬc dĩ ấy, ta không thʀ tránh được nhͯng điɾu bͱc mình khi kɸ khác cố tình xiên xỏ vào vấn đɾ không phải tͱ ta đặt ra.
Từ c͕ chí kim, ở nước nào cũng vɪy, viʄc phân chia ranh giới đɾu được ấn đʈnh bɮng nhͯng văn kiʄn ký kết giͯa hai vʈ lãnh tụ, rồi căn cứ theo đó mà gìn giͯ từ đời này sang đời sau. Nếu có cɤn sͭa đ͕i một vài điʀm thì lại ký thêm văn kiʄn khác kèm theo. Trên đʈa hình, người ta dùng sông, rạch, núi, đồi hoặc cɬm trụ đá đʀ ghi lɮn mức. Phɤn đất tiếp giáp với nhau thuộc vɾ ai ở bên này hoặc bên kia đɾu có giấy tờ, s͕ bộ chứng thͱc.
Ngược dòng lʈch sͭ ta thấy rɮng cuộc giao thiʄp chánh thức giͯa hai nước Viʄt-Nam và Cao-Miên khởi đɤu từ năm Canh-Thân (1620), bấy giờ Cao-Miên còn g͍i là Chân-Lạp, do Vua Chey Chetta II thấy con gái Chúa Sãi Nhà Nguyễn là Công-chúa Ng͍c-Vạn có nhan sɬc, xin cưới làm Hoàng-hɪu.
Ba năm sau (1623), quân Xiêm đánh Chân-Lạp, Chúa Nguyễn đưa quân sang dẹp, nhân đó Chúa xin Vua Chân Lạp cho người Viʄt vào cày cấy, buôn bán ở miɾn Đồng-Nai và phải nộp thuế. Từ năm Mɪu-Tuất (1658) đến năm Kͷ
Mão (1759) m͗i lɤn nước Cao-Miên có nội loạn hoặc ngoại xâm đɾu nhờ Nhà Nguyễn đem binh giúp đỡ. Và m͗i lɤn tiến quân như thế, người Viʄt lại vào đʈnh cư ở miɾn Nam. Tính ra, hơn một thế kͷ, nước Cao-Miên miɾn dưới bʈ chánh sách « tɰm thͱc » của Ông Đạm Am Nguyễn-Cư-Trinh mà thuộc vào bản đồ Viʄt-Nam. Tuy nhiên, mãi đến khi người Pháp chiếm Đông-Dương, ranh giới vɨn chưa được chánh thức hoạch đʈnh. Khi vào Saigon đʀ đáp tàu đi sứ bên Pháp lo viʄc chuộc ba tʆnh miɾn Đông, Cụ Phan-Thanh-Giản có trả lời câu hỏi của Thống soái De La Grandière vɾ ranh giới trong phɤn đất Tây-Ninh với Cao-Miên như vɤy :
« Muốn biết đúng chắc ranh giới vùng ấy thì phải xem xét tại chỗ. Tuy nhiên, về nguyên tắc hễ chỗ nào người Nam ở thành xóm là đất Đại-Nam, chỗ nào rừng rú là đất Miên ».
Căn-cứ theo số kiʀm tra của người Pháp năm 1862 thì người Viʄt ở miɾn Nam có 1.732.316 người còn người Miên chʆ có 146.718 người : Như vɪy, chứng tỏ rɮng miɾn Nam tuy là đất Miên nhưng người Miên quá ít. Trong khoảng 204 năm, tính từ 1.658 đến 1.862, mà người Viʄt di cư và sanh sôi nɦy nở ngót 2 triʄu rồi.
Sau khi chiếm Viʄt-Nam và nhɪn bảo hộ Cao-Miên, người Pháp vạch lɮn ranh phân chia rõ rʄt 5 xứ : Bɬc-kỳ, Trung-kỳ, Nam-kỳ, Ai-lao và Cao-Miên.
Với sͱ đồng ý của Quốc-vương Cao-Miên Norodom, một ủy ban phân ranh được thành lɪp vào tháng 3 năm 1870 gồm có ba ông Rheinart, Labussière và de Bastard. Thanh tra b͕n xứ sͱ vụ miɾn Tây-Ninh, Trảng-Bàng và Tân-An với các quan Cao-Miên do Nhà vua đɾ cͭ. Ủy ban xem xét k càng khɬp làng, ấp các vùng gɤn ranh giới hai xứ, thâu thɪp các ý kiến và lời khiếu nại của dân chúng. Sau khi bán cải và ưng thuɪn với các quan Miên, Ủy viên Pháp cho cɬm trụ đá lɪp thành biên bản rành rẽ đʀ tránh sͱ tranh tụng, rɬc rối vɾ sau. Ủy ban làm viʄc liên tiếp 34 ngày, đi hơn một trăm hai mươi lăm cây số từ Tây-Ninh đến Hà-Tiên xuyên sông Cͭu-Long.
Ranh giới được hoạch đʈnh theo sông rạch, gò n͕ng thiên nhiên, theo xóm làng của hai dân tộc Viʄt-Miên, tất cả có 124 trụ đã được cɬm mốc giới theo thứ tͱ từ Đông sang Tây.
Trong bản quyết đʈnh phân chia ranh giới số 166 ngày 9-7-1870 ký kết giͯa viên Toàn quyɾn Đông Pháp Đɾ-Đốc De Cornulier Lucinière với Quốc-vương Norodom có ghi :
« Biên giới giữ nguyên tình trạng như đã vạch sẵn không một điểm nào thay đổi từ trụ số 1 (tại Vàm sông Puach Prien) đến trụ số 16 (ở Tasang trên kinh Cái Cáy).
« Vùng đất ở khoảng giữa hai ngọn rạch Cái Rạch và Cái-Cáy trong đất Pháp (mà số thu hằng năm được lối 1.000 quan) sẽ nhường cho Cao-Miên để bù lấy lối 486 căn nhà hợp thành những làng ở khoảng Srociranh và Bang Chrum.
« Trụ đá số 17, 18 và các trụ kế tiếp sẽ nhổ bỏ đến Hưng-Nguyên, Cao-Miên giữ tất cả phần đất hiện có người Miên ở trong các tỉnh Prewend, Bonifuol, Sroc Thiet.
« Lằn ranh sẽ vạch sau này và dãy đất dọc theo sông Vàm Cỏ do người Việt ở hoặc khai khẩn thuộc về Pháp ».
Nguyên văn chͯ Pháp :
« Le frontière demeure telle qu’elle a été tracée sans aucun changement depuis le poteau N01 (à l’embouchure du Puach Prien) jusqu’au poteau N016 (à Tasang sur le Cai Cay).
« Le terrain compris entre le Cai Rạch et le Cai Cay qui faisait partie du territoire français (et donc le revenu annuel s’élève environ à 1000 fr) sera concédé au Cambodge, en compensation des 486 maisons environ qui forment les villages situés vers Sroc Tranh et Bang Chrum.
« Les poteaux Nos 17, 18 et suivants seront aunulés jusqu’à Hưng-Nguyên, le Cambodge conservera tout le pays actuellement habité par les Cambodgiens des provinces de Prewend, Bonifuol, Sroc Thiet.
« La limite sera tracée ultérieurement et on réservera pour les posessions françaises la bande de terrain longeant le Waico qui est occupée par les Annamites ou exploitée par eux ».
Sau ba năm đo đạc, lấy đʈa đồ, cɬm trụ đá, ranh giới chɬc chɬn giͯa hai xứ Nam-kỳ và Cao-Miên được chánh thức nhìn nhɪn theo Nghʈ-đʈnh ký kết ngày 15-7-1873 giͯa
viên Toàn quyɾn Đông Pháp Đɾ Đốc Marie Jules Dupré và Quốc-vương Norodom như sau :
Với ý muốn phân đʈnh dứt khoát và cùng một sͱ thỏa thuɪn chung, biên giới giͯa Vương-quốc Cao-Miên và Nam kỳ thuộc Pháp sau khi đã nghiên cứu đʈa hình của lãnh th͕ hɤu chấp nhɪn lɮn ranh theo các kinh, rạch hoặc nhͯng cuộc đất lồi lõm đã đánh dấu chɬc chɬn đʀ tránh m͍i điɾu khiếu nại sau này, đã chấp thuɪn và ký nhɪn bản hiʄp ước với nhͯng điɾu dưới đây :
Biên giới giͯa Nam-kỳ thuộc Pháp và Vương-quốc Cao Miên sẽ được đánh dấu bɮng nhͯng cột trụ có mang một hàng chͯ. T͕ng số trụ là 124. Trụ mang số 1 sẽ được đặt ở cuối biên giới vɾ hướng Đông tiến lɤn qua hướng Tây theo số thứ tͱ đến trụ thứ 124…
Trụ số 1 khởi đɤu tại Tây-Ninh dͱa mé rạch Tonly Tru. Trụ đá số 124 chấm dứt tại làng Hòa-Thạch, tʆnh Châu-Đốc, ở phía Bɬc, cách kinh Vĩnh-tế 209 thước, từ đó thɰng ra Hà Tiên tới Vʈnh Thái-Lan thì d͍c theo con đường sứ sɲn có.
Từ đó vɾ sau, thʆnh thoảng có nhͯng vụ điɾu chʆnh một vài điʀm ở biên giới, Chánh phủ Pháp đɾu có ra Nghʈ-đʈnh ghi rõ từng phɤn đất của người nào thuộc vɾ Cao-Miên hoặc ngược lại như :
- Nghʈ đʈnh ngày 31-7-1914 của viên Toàn quyɾn Đông Pháp do viên T͕ng Thư ký Van Vollenhoven ký tên.
- Nghʈ-đʈnh ngày 3-12-1935 của Toàn quyɾn René Robin.
- Nghʈ-đʈnh ngày 11-11-1936 của Toàn quyɾn Silvestre.
- Nghʈ-đʈnh ngày 26-7-1942 của Toàn quyɾn Decoux, v.v…
Nhͯng vì một khía cạnh chánh trʈ mà hơn mười năm nay, Chánh phủ Cao-Miên luôn luôn hục hặc với Chánh phủ Viʄt-Nam Cộng-Hòa vɾ vấn đɾ biên giới, trong ấy, m͗i nơi có vài điʀm khá khôi hài, ví như bɬt đɤu ở Hà-Tiên.
Từ chợ Hà-Tiên đến trạm biên giới không đɤy 5 cây số : khoảng đường nhͱa nɤy rối tốt đưa du khách đi ngang Chùa Ng͍c Hoàng, chùa Phɪt mɨu, đồi Thạch-Động, Chùa Xà-Xía của người Viʄt gốc Miên. Đồng bào thường đạp xe đi hóng gió làm thú tiêu khiʀn thanh cao. Biên giới được đánh dấu trên mặt đường là một cây c͕ng chɬn ngang bên ta, và cách khoảng 100 thước cây c͕ng bên Miên. Trước năm 1957, chánh quyɾn đʈa phương chưa xây cất cơ quan kiʀm soát nên dân chúng hai nước qua lại thông thương, không bʈ bɬt buộc phải xin phép, chʆ có điɾu người Miên được đi chợ Hà Tiên rồi trở vɾ, người Viʄt qua xóm Prussey Srok mà thôi. Đi xa hơn nͯa cố nhiên bʈ xét giấy và bʈ mời trở lại. Vì thế, dân chúng không t͕ chức h͍p Chợ-Trời ở gɤn lɮn ranh.
Tính từ c͕ng trên quốc lộ 17 đi vɾ phía bờ biʀn, ranh giới nɮm theo bờ ruộng, rất dễ nhìn nhɪn. Đồng bào ta và người Miên không bao giờ tranh chấp lôi thôi. Từ c͕ng đi vào phía trong đồng bɮng thì cả một trời xa lạ. Bên Miên, đất bỏ hoang vì sình lɤy quanh năm lại gɤn hòn núi Đá Dͱng của ta là ng͍n đồi Kok Kampot của h͍ không thʀ khai thác được. Ranh giới ấn đʈnh giͯa hai đồi, núi này theo
nhͯng trụ đá hình vuông, đɤu nh͍n của người Pháp cɬm vào năm 1870. Chính ở giͯa hai trụ đá là nơi rɬc rối vì bên này tính chồm qua bên kia. Cuối tháng 10 năm 1958, b͍n lính Miên lén nh͕ cây trụ đá đem qua đất ta dͱng đứng trên bờ ruộng. Vì phải làm hối hả giͯa đêm khuya, h͍ không kʈp chôn k lưỡng. Phɤn đất h͍ đʈnh ăn gian là một đồng lúa sɬp tr͕ bông ! Đây là hành động khai mào cho nhͯng lời đòi hỏi của Chánh phủ Cao-Miên vɾ biên giới và nhͯng hòn đảo hoang ngoài khơi Hà-Tiên. Tiếp đến, tͱ dưng thủy quân Cao-Miên kéo lên đóng trên các đảo ấy, dͱng quốc kỳ và tuyên bố với… cây cối, đá núi rɮng đây là lãnh th͕ Miên. Đoàn quân võ trang đi vòng quanh các đảo, nhɪn thấy không thʀ ở được, bèn rút vɾ !
Đáp lại, chánh quyɾn đʈa phương báo cáo vɾ Saigon m͍i viʄc và cho dời trụ đá lại ch͗ cũ, đặt binh-sĩ canh gác cho đồng bào cày cấy, làm mùa. Sau đó, có lẽ người Miên không thấy có gì lợi ích trong các chiến dʈch ấy nên tͱ động bỏ ngang. Đồng bào ở biên giới không gặp viʄc gì rɬc rối nͯa.
Giͯa năm 1957, bên ta xây các công ốc tại biên giới, trạm kiʀm soát ở sát lɾ đường. Chi Thương Chánh ở phía trong một chút bên cạnh là nhà của nhân viên. Viʄc qua lại bɬt đɤu khó khăn vì hai bên đɾu dùng thɸ thông hành (Passeport) như xuất ngoại. Tuy nhiên, đối với dân chúng quen mặt ở hai vùng, các nhân viên vɨn cho đi thong thả. Hɤu hết người Miên ở xóm Prussey Srok đɾu đi chợ Hà-Tiên hàng ngày vì bên đất MIên chưa lɪp chợ tại đó. Người buôn bán ở chợ Hà-Tiên xài hai thứ bạc Viʄt và Miên, và người nào cũng nói sành Miên ngͯ.
Đɤu năm 1958, tình thế thay đ͕i, Chính phủ Cao-Miên tuyên bố trung lɪp và thân Cộng rõ rʄt, Chánh phủ Viʄt Nam Cộng-hòa không cho người ở đất Miên nhɪp cảnh dễ dàng cũng như người Viʄt muốn sang đất bạn. Viʄc kiʀm soát tại biên giới được thi hành đúng theo luɪt lʄ, người Miên không được đi chợ Hà-Tiên, phải lɪp một chợ nhỏ trong xóm. Hàng hóa không được tͱ-do trao đ͕i như trước, giới tiʀu thương xoay ra phương pháp buôn lɪu và ch͍n đʈa điʀm làm Chợ-Trời.
b) ĐỊA ĐIỂM HỌP CHỢ
Nơi thuɪn tiʄn nhất gɤn biên giới là thͭa ruộng ở cách trạm kiʀm soát lối một ngàn thước phía ra bờ biʀn. Đứng trên đường nhͱa, ta nhìn vɾ tay trái thấy rõ mồn một nhóm người xúm xít dưới ánh nɬng chang chang và hai hàng người gồng gành đi vɾ hai phía !
Đối với chánh quyɾn đʈa phương Cao-Miên, viʄc giao thương như thế là một điɾu lợi cho h͍, vừa bán được sản phɦm của dân chúng, vừa thu được thuế, vừa mua được các món cɤn dùng mà h͍ không có sản xuất. Cố nhiên h͍ không cấm đoán gì cả, dân Miên qua lại tͱ do.
Đối với ta thì còn có chút ít co giãn vɾ luɪt lʄ, có thʀ nói g͍i là cho có vɪy thôi. Nếu bảo rɮng Chợ-Trời ấy bất hợp pháp thì tại sao nó vɨn tồn tại năm này qua năm khác ?
Nếu bảo hàng hóa Cao-Miên không được nhɪp cảng vào lãnh th͕ Viʄt-Nam thì tại sao đồng bào vɨn tiêu thụ hàng ngày và bày bán ở chợ Hà-Tiên ? Vả lại, thân chủ của Chợ-
Trời đâu có núp lén, trốn tránh gì cho cam. Giá như các ông bà ấy quả bʈ cấm đoán thɪt sͱ thì h͍ phải dùng bờ ruộng đi vòng ra bờ biʀn rồi mới quanh vɾ chợ, đɮng này h͍ ngồi xe ngͱa, xe lam, xe lôi, xe đạp từ chợ Hà-Tiên ra biên giới, đến khoảng giͯa Thạch-Động và đồn Thương Chánh thì ngừng lại… đi bộ vòng theo bờ ruộng tới Chợ-Trời ! Chiếc xe đưa khách đɪu tại đó chờ nhͯng người mang hàng từ trong chợ đi ra ! Sͱ viʄc diễn ra trước mɬt các nhân viên Thương Chánh vì đồng trống trơn, không có cây cối, bờ bụi gì cả. Đây là hình ảnh quen thuộc hàng ngày trước khi Viʄt-Nam – Cao-Miên đoạn giao (1963), đồng bào du khách tͱ-do đến sát lɮn ranh… ngɬm cảnh. Sau đó, chánh quyɾn rào ngang quốc lộ phía dưới chân Thạch-Động và cất một tháp canh, nhͯng người có giấy phép của ông Quɪn-trưởng Hà-Tiên mới được đến biên giới. Tình trạng này vɨn còn duy trì đến ngày nay, nhưng không vì thế mà Chợ-Trời phải chʈu ảnh hưởng, trái lại, sinh hoạt vɨn điɾu hòa, nɦy nở mạnh thêm nͯa. Chʆ kh͕ cho đồng bào phải đi bộ xa hơn trước, từ chợ đi thɰng theo bờ ruộng qua khỏi Thạch-Động một đồi mới tẽ ra đường cái ngồi xe vɾ quɪn l͵. Đại đa số bạn hàng là phụ nͯ không thʀ vác hoặc gánh nặng trên khoảng đường quá xa, phải thuê lao công người Viʄt gốc Miên chuyên làm nghɾ này.
Trên cánh đồng bao la, từ sáng đến xế chiɾu, lúc nào cũng có một phụ nͯ cɤm xách tay đi trước, một người đàn ông mặc quɤn đùi, xoay trɤn gánh hai kiʄn hàng theo sau.
Chợ-Trời h͍p từ tờ mờ sáng đến xế chiɾu, có khi tan sớm vì hai bên bán hết hàng, có khi kéo dài đến xɦm tối.
Nhờ từ chợ vɾ quɪn l͵ Hà-Tiên không quá nͭa giờ, vừa đi bộ vừa ngồi xe nên đồng bào không mấy gì lo ngại. Bên Miên thì hɤu hết là người Miên tới mua bán nên vấn đɾ nhà chức trách kiʀm soát, làm khó dễ không xảy ra, dân chúng tha hồ đi suốt đêm cũng không sao.
c) DƯA HẤU HÀ-TIÊN, MÓN ĂN THÍCH KHẨU CỦA HOÀNG-GIA MIÊN
Vì viʄc di chuyʀn xa xôi, diʄu vợi từ Hà-Tiên đến Rạch Giá và từ Rạch-Giá đến Saigon nên hàng hóa ở Chợ-Trời Hà Tiên chʆ được đồng bào đʈa-phương tiêu thụ mà thôi. Hơn nͯa, từ thủ đô Nam-Vang đến biên giới ấy phải mất gɤn 200 cây số, nên giới thương mãi không ham dùng đʈa điʀm quá xa nɤy làm nơi hoạt động. Do đó, các món hàng bán chạy nhất ở Chợ-Trời là vôi đỏ, tiêu ở các vườn trong tʆnh Kampol, đường thốt nốt loại ngon đặc biʄt ở Cao-Miên sản xuất ở tʆnh Kampot, rau câu, cau khô, đɪu xanh, heo, gà, thuốc hút hiʄu Ara và một ít đồ dùng thường của Trung cộng như dép cao su, ống quẹt máy, bình thủy, đũa sơn, dɤu gió, cù là. Người ta có thʀ tìm thấy các món nɤy ở chợ Hà-Tiên với giá phải chăng. Hàng bán qua bên Miên là loại đồ nhôm, rượu la ve, rượu quýt-ky của Hoa-Kỳ, thuốc Bastos, v.v… Nhͯng món nɤy cũng nɮm tại chợ Prussey Srok cho dân Miên mua xài và ở chợ Kampot cho Viʄt kiɾu dùng đʀ đỡ nhớ quê hương ! Chánh quyɾn Cao-Miên đánh thuế các món hàng của h͍ trước khi cho vào Chợ-Trời và không đánh thuế hàng Viʄt-Nam vào đất h͍. Làm như thế, ta mua hàng của h͍ với giá cao hơn còn dân Miên xài đồ
của ta với giá rɸ. Đó là chưa kʀ giá bạc Miên đ͕i trên thʈ trường đen mɬc gɤn gấp ba bạc Viʄt, vào tháng 9-1967, một Ria Miên đ͕i 2đ60 của ta !
Ngoài nhͯng sản phɦm của ngoại quốc và nội hóa, đồng bào ta còn bán các loại trái cây, rau cải tùy theo mùa như : dưa hấu, dưa leo. Dưa hấu Hà-Tiên n͕i tiếng nhất nhì Viʄt Nam, nghe đâu nhờ bón phân dơi nên mới lớn trái. Người Miên rất thích loại dưa này cũng như măng cụt, chôm chôm
ở Lái-Thiêu.
Từ thường dân đến bɪc Vua, Chúa, người nào cũng ưa. M͗i năm hoàng-triɾu Cao-Miên sức cho các viên chức tʆnh Kampot sang Hà-Tiên mua hàng xe dưa hạng nhất đem vɾ triɾu. Chợ-Trời được một phen nhộn nhʈp vào nhͯng dʈp tốt ấy. Dưa hấu Hà-Tiên liʄt vào hàng trái cây ngͱ dụng ngang với xoài chín với xôi và ăn vào lúc các vườn xoài ở Nam
Vang chưa có trái chín mà ở Saigon đã có đɤy chợ. Trong mùa dưa hấu, loại trái cây quý giá ở Viʄt-Nam được dùng làm thức ăn giải khát cho Hoàng-gia Miên và món tráng miʄng trong các bu͕i tiʄc.
Tình trạng giao thông khó khăn từ Hà-Tiên đến Rạch Giá giúp Chợ-Trời biên giới phát đạt, tuy không tấp nɪp, rɤm rộ như các chợ khác, nhưng vɨn h͍p quanh năm, nuôi sống một số đồng bào đʈa phương. Viʄc mua bán giͯa hai sɬc dân không có gì rɬc rối. Ai muốn trả tiɾn Viʄt, tiɾn Miên
đɾu được hoan nghinh tuốt ; cứ tính theo giá bạc ở thʈ trường m͗i ngày mà trả là xong.
d) CHÁNH QUYỀN ĐỐI VỚI CHỢ-TRỜI
Đối với chánh quyɾn, Chi Thương Chánh sờ sờ ở cạnh quốc lộ 17, sát trạm kiʀm soát biên giới, nhân viên đứng nhìn rõ rʄt nhóm người quây quɤn giͯa ruộng và gồng gánh đi ngờ ngờ từ sáng đến chiɾu, nhân viên Cảnh sát đạp xe tới lui khoảng đường từ Thạch-Động đến c͕ng cuối cùng, thʆnh thoảng ngừng lại chuyʄn trò với anh tài xế xe lam đɪu d͍c đường chờ các bà đi… chợ vɾ, thế mà vấn đɾ bɬt bó, tʈch thâu, phạt vạ gɤn như không có. Nguyên do vì phɤn đông thân chủ Chợ-Trời này mua các món hàng không bʈ cấm như cau khô, vôi đỏ, tiêu s͍, rau câu, đường thốt nốt, vả lại, người mua một giỏ, một gánh, vốn liếng có là bao, số lượng chʆ đủ bán theo bu͕i chợ mà không có gì tai hại đến nɾn kinh tế nước nhà, nên nhân viên làm ngơ đʀ đồng bào có cách sống và m͍i người có đủ đồ dùng. Thɰng hoặc có người mua nhͯng thứ bʈ cấm như dɤu gió, dɤu cù là, dép cao su, v.v… thì m͗i người mua 1 lố, 2 lố đủ kiếm lời 1, 2 trăm nuôi sống gia-đình trong một ngày. Thông cảm hoàn cảnh ấy, các ông không nỡ áp dụng đúng theo luɪt lʄ một cách thɰng mͱc tàu ! Thế nhưng, con buôn hạng lớn đừng thấy đó mà ham, lợi dụng sͱ dễ dãi này mà « mɤn » thͭ một vố sẽ bʈ vướng lưới ngay. Nhân viên Chánh phủ quen mặt từng người buôn bán ở Chợ-Trời như anh em một nhà, kɸ nào lạ mặt dù có hóa trang, ăn mặc theo đồng bào đʈa phương cũng bʈ theo dõi và xét hỏi ngay. Hơn nͯa, quɪn l͵ Hà-Tiên là vùng đất cuối cùng của lãnh th͕, vỏn vẹn có bao nhiêu đường, bao nhiêu người, lại biʄt lɪp hàng mấy năm liɾn nên người nào ở xa vừa đến là có « tin đồn » tức thì. Nhͯng người muốn t͵ nạn sang Cao-Miên cũng ít dám dùng
đʈa điʀm quá vɬng vɸ nɤy. Xưa kia, nhân lúc du khách tấp nɪp viếng đất Hà, có người trà trộn thuê thuyɾn câu đi vòng ngoài biʀn vào chợ Kampot rồi ngồi xe đò đi Nam-Vang. Mấy năm sau này không ai buồn đến chợ Hà-Tiên đừng nói muốn đi xa hơn.
Ngoài một số đồng bào sống nhờ Chợ-Trời bɮng nghɾ buôn bán lương thiʄn, còn có một nhóm bất lương chuyên rút rʆa mồ hôi, nước mɬt của dân chúng, bɬt buộc đồng bào đóng thuế mới cho h͍p chợ và « bảo toàn tánh mạng cùng tài sản », nghĩa là chúng sẽ cướp hết hàng hóa g͍i là tʈch thâu và ám sát g͍i là xͭ tội người nào không tuân theo luɪt lʄ. N͗i kh͕ của người dân Viʄt-Nam là phải h͍p chợ tại vùng sát biên giới, nơi mà b͍n chúng dễ dàng chạy sang đất Miên m͗i khi bʈ nhân viên công lͱc của ta săn đu͕i. Tình trạng đoạn giao giͯa ta và Cao-Miên càng giúp cho chúng được nhiɾu lợi thế hơn, tha hồ thao túng. Có thʀ nói Chợ-Trời là nguồn tiếp tế vô tɪn của chúng, vừa là nơi thu thuế vừa là nơi mua thͱc phɦm, đồ dùng cɤn thiết hàng ngày.
e) MỐI TÌNH MIÊN-VIỆT Ở CHỢ-TRỜI
Giͯa nhͯng cảnh quay cuồng vì đồng tiɾn, bát gạo, Chợ-Trời Hà-Tiên còn là nơi chứng kiến một mối tình Miên Viʄt đẹp như bài thơ với đoạn kết tươi vui như nhͯng bản trường ca dân tộc Viʄt-Nam vào đɤu thế kͷ nɤy. Sở dĩ chúng tôi phải nhấn mạnh phɤn cuối trước là vì cách đây hơn 10 năm (1957) chúng tôi có dʈp viếng Hà-Tiên và có ghi lại một mối tình Nhɪt-Viʄt buồn thảm như một tuồng hát cải lương « Nam kỳ » có đủ 20 câu V͍ng c͕ đưa ma và 4 lớp
Xuân tình du dương kʈch liʄt. Câu chuyʄn mang cái tͱa là « Đɤu lâu trong hang Thạch-Động Hà-Tiên » hiʄn nay đã hóa thành một giai thoại cho lão già tͱ xưng là Sư ở Thạch Động kʀ cho du khách nghe đʀ tỏ rɮng ta h͍c rộng biết nhiɾu đây, và hai nͯ nhân viên Ghi Thông tin tấm tɬc khen rồi, sau khi đã liʄt kê vào các chi tiết của thɬng cảnh nɤy. Chuyʄn tóm tɬt như sau :
Cuối năm 1945, nhờ quân Anh tiếp tay. Thͱc dân Pháp tái chiếm miɾn Nam, đu͕i Viʄt-minh vào chiến khu. Trong cuộc lục soát hang Thạch-Động, một binh sĩ thấy trong hốc đá giͯa hang phía dưới tượng bà Quan Âm n͕i lên vách, một đɤu lâu gói trong mảnh vải trɬng. Căn cứ vào cái s͍ không có tóc và tấm vải loại tốt còn mới, người Pháp cho đó là đɤu của lính Nhɪt do bộ đội đóng tạm cất giấu chờ ngày đem vɾ nước. Lɪp luɪn này rất đúng vì người Viʄt thời ấy không có vải đʀ may quɤn áo, nhiɾu người phải mặc quɤn bɮng bao bố tời, bɮng đʄm kết lại, có đâu đem gói đɤu lâu, còn cái đɤu tr͍c thì dù người Viʄt có kɸ thích xu thời cạo tóc như lính Nhɪt đʀ lên mặt với vợ con, cũng không ai chặt đem đʀ trong hốc đá. Nếu có kɸ sát nhân thi hành thủ đoạn dã man như thế, hɬn cũng phi tang bɮng cách đào đất chôn.
Năm 1957, nhân dʈp viếng đất HÀ, nghe câu chuyʄn có vɸ ly kỳ, chúng tôi liɾn đi tìm nguồn gốc. Trải hơn tháng trời điɾu tra, dò hỏi đồng bào các xóm ấp, chúng tôi được biết rɮng : lúc quân Nhɪt chiếm Đông-Dương, tại Hà-Tiên có một chàng Trung-sĩ trong quân đội Thiên Hoàng yêu cô thôn nͯ nhà ở cạnh quốc lộ 17. Nàng có vɸ đẹp yêu kiɾu, tuy không đến n͗i ngư trɤm, nhạn lạc nhưng cũng thừa cho
chàng trai Phù-Tang say mê đɬm đuối. Hɮng ngày cô đón mua th͕ sản của người Miên bên kia ranh giới đem xuống chợ Hà-Tiên bán kiếm lời nuôi bà mẹ già. Bóng dáng yêu kiɾu l͍t vào mɬt xanh của kɸ si tình, m͗i khi nàng đi ngang qua đồn lính. Chàng trai Nhɪt nhờ viên thông ngôn người Viʄt đưa chàng đến nhà nàng và kính cɦn tỏ lòng mong muốn với thân mɨu nàng. Cô gái Viʄt cũng không chê con người mã thượng qua dáng dấp hào hoa và tánh tình mɾm mỏng.
Hai bên đʈnh ngày cưới hỏi xong thì tai h͍a xɦy ra.
Số là trong khi chờ ngày tốt, chàng thường đến nhà nàng trò chuyʄn bɮng nhͯng tiếng Viʄt mà chàng cố gɬng h͍c với viên thông ngôn, còn nàng thì thʆnh thoảng ghé trả lời một vài câu hỏi của chàng trước nơi chàng đóng. Viên Đại-úy chʆ huy thấy nàng liɾn sanh tâm, quyết cướp đoạt bɮng được, bất chấp lời giãi bày của viên thông ngôn. Hɬn đʈnh dùng võ khí đến nhà ép cô gái phải thuɪn tình, nếu không, hɬn cũng bɬt cóc đem đi.
Nghe tin như sét đánh ngang đɤu, chàng Trung-sĩ n͕i máu anh hùng võ sĩ đạo, ngang nhiên vào văn phòng thách vʈ chʆ huy của mình đấu kiếm đʀ rͭa nhục và phân đʈnh hơn thua, người đẹp sẽ vɾ tay người thɬng trɪn, không được dùng quyɾn thế ép bức kɸ dưới tay. Viên Đại-úy nhɪn lời, hẹn gặp nhau trên mảnh sân sát chân Thạch-Động vào một đêm trăng sáng. M͗i bên có một người bạn đi theo làm chứng theo thủ tục dân Phù-Tang. Chính nhờ sͱ thách thức này mà cô gái Viʄt tránh khỏi bàn tay tàn bạo của tên dâm ô.
Đêm ấy, sau giờ thiết quân luɪt, viên Đại-úy cùng người làm chứng ngồi xe hơi đến Thạch-Động. Chàng Trung-sĩ đã chờ sɲn với người bạn, ngoài ra còn một khán giả duy nhất là vai chánh trong câu chuyʄn : cô thôn nͯ. Nghe người yêu báo tin dͯ, cô lén đến núp trong kẹt đá theo dõi trɪn đấu. Nàng thɤm vái các vʈ linh thɤn xui cho viên Đại-úy bỏ ý đʈnh điên cuồng đʀ tránh thảm h͍a cho hai bên và cho nàng. Nàng sợ người yêu không đủ tài thɬng n͕i tình đʈch thì thân nàng sẽ ra sao ? Thà chết còn hơn chʈu thất tiết với kɸ cuồng bạo. Nhiɾu lúc nàng muốn nhảy x͕ ra kêu g͍i hai bên ngưng chiến đʀ nàng nói thɰng vào mặt viên Đại-úy nhͯng ý nghĩ trong lòng nàng cũng như tình nàng đối với chàng Trung-sĩ, nhưng hai lưỡi gươm dài sáng chói lấp lánh dưới ánh trăng va chạm vào nhau bɪt thành nhͯng tiếng động rợn người kèm theo nhͯng tiếng quát tháo vang dội làm cho nàng khiếp sợ phát run lên. Đây là lɤn đɤu tiên trên đời nàng thấy một trɪn đấu gươm Nhɪt do hai võ sĩ đạo chính tông so tài sống mái… vì nàng.
Sau nͭa giờ đem hết tài nghʄ thi thố, chàng Trung-sĩ bʈ viên Đại-úy đánh văng kiếm. Kɸ thɬng trɪn nở một nụ cười ngạo nghễ, tra gươm vào vỏ, g͍i người làm chứng ra xe vɾ chợ, thình lình thấy bóng cô gái núp trong kẹt đá vừa đứng lên xem người yêu có bʈ hạ sát chăng ? Ông ta vụt cười to lên, đủng đʆnh đi tới ; đưa hai tay như đón mời người đẹp. Cô gái hoảng hồn vụt ù té chạy xuống chân núi biến vào bóng tối. Vʈ sĩ-quan không đu͕i theo, lái xe vɾ Hà-Tiên.
Người thua không thʀ sống chʈu nhục và nhìn người yêu qua tay kɸ khác, chàng Trung-sĩ nhờ bạn giúp mình xͭ sͱ
theo lối anh hùng võ sĩ đạo : m͕ bụng tͱ tͭ (barakiri). Chàng thảo bức thư gởi vɾ cha mẹ và một bức thư cho cô thôn nͯ, đoạn ngồi xếp bɮng tͱ rạch bụng làm đôi. Người bạn đứng sau lưng chém chàng đứt đɤu, dùng vải trɬng gói lại đem vào hang đʀ trong hốc đá, rồi chở thân mình vɾ đơn vʈ làm lễ mai táng.
Cô gái không biết thảm trạng nɤy, vì ngay trong đêm ấy, đã cũng mẹ vượt biên giới sang đất Miên lánh thân chứ không chʈu làm vợ viên Đại-úy. Khi ông ta hay liên tiếp hai tin buồn : viên Trung-sĩ tͱ tͭ, cô gái bỏ xứ ra đi vì ý muốn dơ bɦn của mình thì hối hɪn không cùng. Ông làm lễ hỏa thiêu xác chết và long tr͍ng hứa trước các binh sĩ sẽ đem đɤu người quá cố vɾ Nhɪt sau ngày thɬng trɪn (?)
Sau đó, ông xin thuyên chuyʀn đi tʆnh khác đʀ tránh cảnh đau buồn.
Vài tháng sau, quân Nhɪt đɤu hàng, chiến cuộc kết thúc, kế quân Pháp trở lại gây sóng gió khɬp dải đất Viʄt Nam. Ở Cao-Miên, Viʄt kiɾu gặp phải nạn « cáp duồn » và cướp bóc, cô thôn nͯ theo một số kiɾu bào hồi cư vɾ Hà Tiên. Nghe bà con trong xóm thuɪt lại cái chết của chàng Trung-sĩ Nhɪt, cô gái đau đớn không cùng. Nàng đem vàng, hương đến mảnh sân cạnh Thạch-Động khóc lạy người xấu số. Nàng không biết quân đội Pháp chôn đɤu chàng ở đâu đʀ đɬp mộ, chʆ lấy nơi chàng đấu gươm làm đʈa điʀm đʀ trút n͗i nhớ niɾm thương. Du khách viếng Thạch-Động phải ngạc nhiên thấy một người đẹp ngồi giͯa sàn khóc như mưa như gió. Trời đất hình như cũng âu sɤu như nàng. Một dải
mây trɬng bay ngang đʆnh Thạch-Động ngưng lại một hồi lâu như vấn vành khăn tang.
Chúng tôi chấm dứt câu chuyʄn ly kỳ này ở đây vì sau đó người đẹp có chồng, có con như tất cả các cô gái khác, và thʆnh thoảng lên ng͍n đồi cạnh quốc-lộ đʀ tưởng nhớ người xưa. Dạo ấy, có người đʈnh quay thành phim nhưng vì không muốn nhɬc đến quân đội Nhɪt mà viʄc không thành.
Mối tình Miên – Viʄt ở Chợ-Trời Hà-Tiên cũng có vài tình tiết gay cấn, đánh dấu một giai đoạn lʈch-sͭ của cuộc bang giao giͯa hai quốc gia. Chàng là một nông dân Miên ở gɤn bãi biʀn Kep, cách biên giới lối 30 cây số. Nàng là một cô gái Viʄt kiɾu bán quà, bánh nơi nghʆ mát. Chàng và nàng quen nhau từ bé, đã tính cùng nhau xây dͱng một t͕ ấm trên miếng ruộng của chàng. Cha mẹ chàng cũng bɮng lòng cho chàng cưới cô gái Viʄt vì nàng sống trên đất Miên từ bé, thông thạo Miên ngͯ cũng như phong tục, tɪp quán của người Miên. Cha mẹ nàng không ao ước gì hơn được một người rʀ mɨn cán, quanh năm lo săn sóc thͭa ruộng, miếng vườn. Mối tình êm đẹp đang bừng nở trong lòng đôi bạn như đóa hoa dưới nɬng sớm, thì thình lình bão tố n͕i lên : tình hình chánh trʈ hai quốc-gia Miên – Viʄt không hòa hợp với nhau. Viʄt kiɾu bʈ nhiɾu cảnh ngược đãi, phũ phàng. Cùng một số kiɾu bào vô phước khác, gia-đình nàng phải hồi hương vɾ Hà-Tiên, nàng không thʀ sống với nghɾ cũ vì bãi biʀn Mũi Nai không có bao nhiêu du khách, phải xoay đi buôn bán ở Chợ-Trời.
Hɮng ngày đến cạnh lɮn ranh chia đôi hai lãnh th͕ nàng nhìn vɾ đất Miên tưởng nhớ ý trung nhân mà không ngăn
được đôi dòng lʄ. Tiếng người mua bán dùng toàn Miên ngͯ ồn ào bên tai càng khiến cho lòng nàng thêm se thɬt. Nơi đó, bước qua vài thước là vào xứ Miên nhưng đối với nàng, đối với Viʄt kiɾu một khi đã hồi hương rồi thì khó mong trở lại chốn cũ.
Chàng trai Miên mất người yêu cũng đau kh͕ không ít. Chàng lồng lộng đi tìm và gặp nàng ở Chợ-Trời. Đôi bạn ngồi trên bờ ruộng khóc như gió, như mưa trước mɬt hɤu hết m͍i người. Ai cũng mủi lòng trước cảnh tình ngang trái vì thời thế. Cuộc hội ngộ đɤu tiên giͯa vùng biên cảnh khơi mào cho nhiɾu lɤn gặp gỡ khác. Hɮng ngày chàng đến Chợ Trời từ sáng sớm chờ nàng. Bóng dáng anh lͱc điɾn si tình đứng ngóng người yêu trên bờ ruộng phân chia hai quốc-gia hóa thành hình ảnh quen thuộc của nhͯng thân chủ Chợ Trời. M͍i người đɾu trɤm trồ khen cô gái Viʄt kiɾu tốt phước, may mɬn được anh chồng tương lai gương mɨu. Câu chuyʄn tình nɤy được nhiɾu người nhɬc nhở một dạo như giai thoại của Chợ-Trời-Hà-Tiên.
Nhiɾu khi chàng trai Miên muốn đ͕i nghɾ nông, đi buôn bán đʀ gɤn người yêu, nhưng tͱ xét không đủ tài xoay xở với nghɾ mới nên thôi. Vả lại, mộng ước của chàng là sống bên nàng đến ngày đɤu bạc, chứ không mơ mộng vɦn vơ, nên chàng phải quyết đʈnh ch͍n một giải pháp ͕n thỏa nhất. Sau ba tháng dùng ranh giới làm con sông Tương, chàng Ngưu Lang Cao-Miên không thʀ kéo dài n͗i kh͕ tâm thêm nͯa, liɾn vượt biên giới xin cưới nàng Chức nͯ Viʄt
Nam. Chàng được m͍i người tiếp đón nồng hɪu và giúp đỡ m͍i phương tiʄn.
Đám cưới t͕ chức tại nhà hàng có đủ cha mẹ chàng trai được chánh quyɾn đʈa phương « thông cảm » cho phép sang dͱ. Hɤu hết bạn hàng Chợ-Trời có mặt trong bu͕i tiʄc vui. Một nhóm nghʄ sĩ Viʄt gốc Miên trong ban hát Dù-kê tͱ động vào trình diễn tăng thêm phɤn náo nhiʄt. Đáp lại, một dàn đờn c͕ điʀn Viʄt-Nam tr͕ tài cho bà con thưởng thức nhiɾu bản nhạc vui. Chú rʀ được tặng nhiɾu quà cáp và nhiɾu lời chúc tụng thành thɪt nhất đã cảm động đến lʄ rơi. Chàng không ngờ dân Viʄt-Nam đối đãi tốt với chàng đến thế.
Cưới hỏi xong anh trai Miên nhɪp Viʄt tʈch trở thành người Viʄt gốc Miên và thi hành phɪn sͱ công dân như nhͯng thanh niên Viʄt. Anh gia nhɪp Đʈa-phương quân tại quɪn nhà trong khi vợ anh vɨn tiếp tục buôn bán ở Chợ
Trời.
2) CHỢ-TRỜI TỊNH-BIÊN
Tình trạng biên giới d͍c theo kinh Vĩnh-Tế thuộc tʆnh Châu-Đốc được ấn đʈnh theo phɤn đất của đồng bào khai thác chứ không phải căn cứ theo đʈa hình thiên nhiên dưới thời nhà Nguyễn. Sau khi người Viʄt đào xong con kinh từ hͯu ngạn Hɪu-Giang đến sông Giang-Thành quɪn Hà-Tiên thông ra bờ biʀn, thì đồng bào ta đʈnh cư lɪp ấp, lɪp làng hai bên bờ rồi khai khɦn nhͯng mảnh đất bỏ hoang hàng mấy thế kͷ. Khi người Pháp đặt nɾn cai trʈ, Chính phủ phải vạch lɮn ranh theo bờ ruộng của người Viʄt đã làm chủ dưới sͱ thỏa thuɪn của vʈ Quốc-vương Cao-Miên. Vì thế, đất Viʄt phía bên bờ kinh rộng từ 1.000 đến 2.000 thước. Biên giới được đánh dấu bɮng nhͯng trụ đá có ghi số thứ tͱ, từ trụ này đến trụ kia là bờ đê hay lạch nước. Tính chung biên giới theo tʆnh Châu-Đốc dài 120 cây số.
Từ chợ Châu-Đốc ra chợ quɪn Tʈnh-Biên phải theo quốc lộ số 2, đến ngay bờ kinh Vĩnh-Tế, rẽ tay mặt vài chục thước là chợ, rẽ tay trái vài chục thước là bến đò. Vì lòng kinh không rộng lɬm nên người ta dùng một chiếc đò duy nhất đʀ giͯa hai sợi dây sɬt cột hai bên bờ kinh ; đò di chuyʀn bɮng sào và bɮng phu kéo theo hai sợ dây ấy. Nhͯng người này đứng hai bên be đò dùng một miếng g͗ có khoét l͗ lòn vào sợi dây kéo một lượt với nhau. Chiếc đò có thʀ chở n͕i một xe hàng lớn. Trạm kiʀm soát của ta ở ngay bến đò, du khách trình giấy tờ xong tiếp tục theo quốc lộ gɤn 2.000 thước mới đến biên giới chánh thức dưới chân núi Đen, người Miên g͍i là Phnom Den. Tại đây có cây c͕ng
chɬn ngang đường, bên cạnh có một đồn canh nhỏ của ta. Qua khỏi c͕ng là đất Miên, nhưng đi một khoảng độ 600 thước mới gặp đồn canh thứ nhất, rồi tiếp tục gɤn 1.000 thước mới đến thʈ trấn Tam-Lɪp, tiếng Miên là Tonléap (đ͍c là Tông liếp) nay đ͕i là Prabat Chean Chum thuộc tʆnh Takeo.
a) CHỢ-TRỜI
Chợ-Trời Tʈnh-Biên nɮm ở gɤn c͕ng biên giới, sát bên lɾ đường phía bên đất ta. Người buôn bán h͍p nhau trên khoảng đất trống, không cất quán, cất lɾu gì cả. Thân chủ của chợ toàn là bạn hàng ở hai chợ Tʈnh-Biên và Tam-Lɪp đi, vɾ bɮng xe lôi đạp hay xe lôi máy, rất nhanh nên thì giờ h͍p chợ ở đây không thành vấn đɾ. Cứ tờ mờ sáng hai đoàn người ngồi xe lɤn lượt tͱu đến rồi thì kɸ đi, người lại liên tiếp cho đến xɦm tối. Đôi khi hàng hóa ở Nam-Vang hay Saigon chưa đến kʈp thì chợ tan sớm hơn. Hoặc trong nhͯng ngày mưa dɤm chợ cũng không thʀ kéo dài đến xế chiɾu.
Một điʀm đáng ghi bên lɾ câu chuyʄn là tình cảnh của anh em xe đạp xe lôi từ bến đò đến Chợ-Trời. Có lẽ đây là một đoạn đường ngɬn nhất thế giới, vì anh em chʆ đưa khách và hàng hóa hơn 1.000 thước m͗i chuyến rồi trở vɾ cũng bấy nhiêu thước ! Xưa kia hai quốc-gia còn giao hảo thân mɪt, anh em được phép đi đến chợ Tam-Lɪp cũng như các bạn đồng nghiʄp Cao-Miên ở chợ ấy được quyɾn đi đến bến đò Tʈnh-Biên. Từ khi đoạn giao, nhà ai nấy ở, anh hùng nào giang sơn nấy, tɤm hoạt động của anh em thu hẹp trên khoảng đường ngɬn. Tuy nhiên, nhờ nhiɾu người đi lại luôn
luôn, suốt ngày « mɤn » cũng được vài chục chuyến nên anh em thở dễ dàng. Hơn nͯa, m͗i lɤn có chở hàng lɪu, người thuê xe thông cảm trả hɪu hĩ hơn !
Hàng Chợ-Trời Tʈnh-Biên được đồng bào hoan nghinh ở nhͯng chợ quɪn trong tʆnh Châu-Đốc như Nhà-Bàng, Tri Tôn và tại tʆnh l͵, lɤn xuống chợ Long-Xuyên và cố nhiên chúng nó cũng đi đến các tʆnh miɾn Tây và Saigon như thường.
Dưới thời Ngô Đình Diʄm, tʆnh Châu-Đốc còn là một quɪn của tʆnh An-Giang, đã có một vài ông Tʆnh-trưởng làm giàu nhờ nuôi các thân chủ Chợ-Trời Tʈnh-Biên và được các nhân vɪt ấy nuôi lại. Cả đến vài ông Quɪn trưởng Châu-Đốc cũng phát tài to. Rồi cứ theo luɪt tuɤn hoàn của tạo hóa, ăn một thời gian thì mɬc xương, các ông bʈ g͍i vɾ Saigon và bʈ đưa đi Bến-Hải, Cà-Mau g͍i là thanh trừng nhè nhẹ. Ông khác mới đến cũng h͍c theo sách cũ và sách quá dễ, quá hay, h͍c rất mau thuộc, cũng như hʄ thống làm viʄc có sɲn sàng từ đời mấy vʈ t͕ sư Thͱc dân, đʀ sau đó một ít lâu lại mɬc xương như bɪc tiɾn bối. Tấn tuồng cũ rích như trái đất ấy cứ diễn đi diễn lại, cho đến khi T͕ng Ngô chɤu Chúa mới chấm dứt. Các quan sau này triʄt đʀ lấy trừ tất cả nhͯng tʄ đoan trước, khiến cho Chợ-Trời bʈ ảnh hưởng nặng nɾ. Phạm vi hoạt động phải thu hẹp lại từ tính cách liên tʆnh rút vɾ đʈa phương.
Nhưng dù có cấm đoán thế nào đi nͯa, vì nhu cɤu cɤn thiết của đồng bào cũng như của Viʄt kiɾu và người Miên, Chợ-Trời vɨn tồn tại. Ta cɤn nhiɾu món hàng của Miên, h͍ cũng cɤn nhiɾu sản phɦm của ta. Sau ngày Cách-mạng,
Chợ-Trời Tʈnh-Biên bớt nhộn nhʈp hơn trước, bên Miên người bán lại đem hàng vào chợ Tam-Lɪp hoặc xa hơn là vɾ chợ Tʆnh Takeo, bên ta cũng loay hoay ở mấy chợ Châu-Đốc, Long-Xuyên, bến đò Vàm-Cống. Người mua bán ở Saigon thích đi Chợ-Trời Gò-Dɤu-Hạ gɤn hơn, tiʄn hơn là đến chợ Tʈnh-Biên.
b) TIỀN VÀ MÁU
Bạn hàng ở chợ Tʈnh-Biên đi đò qua kinh Vĩnh-Tế, ngồi xe lôi đến Chợ-Trời và chở hàng hóa vɾ đường cũ. Đó là nhͯng món thông thường được chấp thuɪn của nhân viên kiʀm soát, trái lại, nhͯng thứ dͯ, kh͕ chủ phải tìm cách qua mɬt nhà cɤm quyɾn. Ngã thông thương duy nhất ở vùng nɤy là kinh Vĩnh-Tế, qua bên kia thì gɤn đất Miên, trở vɾ là nhà của mình. Từ bên bờ Tʈnh-Biên ngược ra Châu-Đốc hay xuôi vào Hà-Tiên có cả một ngàn lɸ một bến cho đồng bào, sͭ dụng vào nhͯng giờ phút thuɪn tiʄn cho phương pháp đi ngang vɾ tɬt. Các viên chức biết rõ nghɾ làm ăn của một số người sống nhờ Chợ-Trời nhưng làm sao bố trí đʀ bɬt được h͍ dễ dàng ? Một chiếc xuồng câu, một chiếc tam bản, một chiếc ghe lường từ bờ này xẹt qua bờ kia mất vài ba phút, h͍a chăng các ông được mɪt báo trước như lối buôn á phiʄn mà chɪn đứng ngách mới tóm được con mồi.
Áp dụng lối nɤy, con buôn phải nhờ người gánh hay vác hàng từ Chợ-Trời theo đường ruộng đến nơi đʀ xuồng. Người gánh thuê toàn là người Miên ở dài theo lɮn ranh thuộc đường như cháo và biết rõ giờ nào nên xuất hành giờ nào nên nghʆ ! H͍ đɾ phòng như thế là đʀ tránh toán lính tuɤn
tiễn Miên thʆnh thoảng xâm phạm đất ta đʀ cɤm nhɤm hàng hóa của đồng bào. Trước mũi súng, lưỡi gươm, nhͯng người buôn bán chʆ có nước xuôi tay cho các quan mặc tình vơ vét. Người nào hết thời gặp phải vố này thì vốn liếng kʀ như cúng hết cho Ông Tà. Tuy nhiên, được mang cái ch͗ đội nón vɾ với vợ con là một cái may vì nếu các quan có n͕i máu… chɰng mà giết chết cũng phải chʈu. Thân nhân không biết kêu ca vào đâu, cả đến chánh phủ ta có la ó rùm lên thì cũng như hát giͯa bãi sa mạc. Đây là một mối nguy hại cho giới thương mại ở Chợ-Trời Tʈnh-Biên mà cũng là một điɾu kh͕ tâm của nhà cɤm quyɾn. Đồng bào rất sợ tai h͍a này vì chính mình đem thân vào miʄng c͍p, nhân viên công lͱc của ta biết đâu mà bảo vʄ cho kʈp thời ? Trong lʈch-sͭ Chợ Trời chʆ có chợ này phải gánh cái ách không biết đến bao giờ mới thoát khỏi. Kʀ từ ngày tiên khởi đến giờ đã có bao nhiêu nạn nhân rồi ? Nhưng có ai biết đến tình cảnh đáng thương của h͍ ? Báo chí biết đâu mà điɾu tra, nhà chức trách biết đâu mà giúp đỡ vì chính h͍ có dám cung khai viʄc mua bán lén lút của mình bao giờ đâu ? Chʆ có người trong giới của h͍, bạn đồng nghiʄp của h͍, và nhͯng người sống chết với Chợ-Trời đã nhɬc nhở h͍ khi quyʀn s͕ đoạn trường ghi thêm tên một bạn mới ! M͗i nạn nhân gặp một trường hợp khác nhau, một đʈa điʀm khác nhau, một hoàn cảnh khác nhau và từng chuyʄn, từng chuyʄn, nhͯng trò giͱt hóa thành nhͯng giai thoại đɤm đìa nước mɬt và đượm vɸ uất ức, hɪn thù. Chuyʄn được vào đɾ luôn luôn bɮng câu : Ngày… tháng… năm… anh X. theo người gánh thuê quɦy hai bao hàng đi theo ngã… thình lình… Cũng như ta thường kʀ
chuyʄn c͕ tích rɮng : Ngày xưa, có một người đàn bà hung dͯ…
Thʆnh thoảng đồng bào ở Saigon thấy báo đăng tin lính Miên vượt biên giới Tʈnh-Biên. Nhưng đó là nhͯng tin b͍n chúng bɬt cóc nông dân Viʄt đʀ đòi tiɾn chuộc hoặc giết đồng bào ta đʀ cướp trâu, cướp bò, và lâu dɤn dân chúng xem như là chuyʄn thường nhɪt !
Đối với chánh quyɾn đʈa phương, hàng lɪu Chợ-Trời có qua đến bờ kinh, có tải lên nhà cất giấu và bʈ các viên chức phát giác được cũng phạt vạ, đánh thuế là cùng. Viʄc tʈch thu ít khi xɦy ra trừ khi nhͯng loại hàng nguy hại đến vấn đɾ an-ninh.
Không khác Chợ-Trời Hà-Tiên bao nhiêu, hàng hóa ở Chợ-Trời Tʈnh-Biên cũng là nhͯng món của dân chúng hai bên cɤn dùng hàng ngày. Xưa kia, dưới thời T͕ng Ngô thì viʄc buôn bán nhờ có ơn trên che chở nên mãi lͱc mạnh mẽ, đồ vɪt dồi dào. Khi chế độ cũ đi đời thì bộ mặt Chợ-Trời cũng thay đ͕i hɰn. Người tiêu thụ ít, người bán không lời nhiɾu, không đấp n͕i sở phí từ Nam-Vang tải xuống nên h͍ xoay vɾ ngã Gò-Dɤu-Hạ. Nghɾ đ͕i tiɾn hai bên hɤu như bʈ khánh tɪn hoàn toàn sau khi chiếc xe đò hết chạy. Du khách không ai dùng ngã đường khó khăn và xa xôi nɤy nên có ai cɤn đ͕i đʀ làm gì ? Người mua bán thì xài cả hai thứ, mua hàng nào trả tiɾn nấy.
Tuy nhiên, tại Chợ-Trời Tʈnh-Biên có món hàng đặc biʄt mà không nơi nào có : Sách chͯ Miên xuất bản ở Nam Vang. Người Viʄt gốc Miên h͍c chͯ Miên, viết chͯ Miên
nhưng ở Viʄt-Nam không có in sách Miên ngͯ, bɬt buộc h͍ phải mua lén lút ở Nam-Vang bɮng cách nhờ bạn hàng ở Chợ-Trời Tʈnh-Biên. Đấy là một vấn đɾ rất đáng cho chánh phủ Viʄt-Nam Cộng-hòa lưu ý, nhưng hơn 10 năm nay không ai chú tr͍ng đến.
Người Viʄt gốc Miên h͍c chͯ Miên là lẽ cố nhiên, chͯ Miên là quốc ngͯ của h͍.
Truy từ nguyên gốc thì từ dưới thời Pháp thuộc, tại nhͯng tʆnh có nhiɾu người Viʄt gốc Miên đɾu có nhͯng lớp dạy chͯ Miên và chͯ Pháp g͍i là Classe Française Cambodgienne song song với lớp Viʄt Pháp g͍i là Classe Française Annamite. Trɸ Viʄt gốc Miên tͱ do lͱa ch͍n, muốn theo lớp nào cũng được, h͍c Miên ngͯ thì sau đɪu Tiʀu-h͍c vào trường Trung-h͍c ở Cɤn-Thơ hoặc lên Nam-Vang và Lycée Sisowath. Nhͯng sinh viên nɤy giúp chánh phủ Hoàng-gia Cao-Miên và rất được tr͍ng dụng, có nhiɾu vʈ làm Tri-phủ, Tʆnh-trưởng, Thống đốc Ngân hàng, Bộ trưởng, Đại sứ, Thủ-tướng. Trɸ nào h͍c Viʄt ngͯ thì giúp chánh phủ thuộc đʈa ở Nam kỳ và sau nɤy chuyʀn sang chánh phủ Viʄt-Nam Cộng-hòa. Vì thế, có người lấy làm lạ khi thấy một số công chức Viʄt gốc Miên không thông Miên ngͯ.
Khi thành lɪp chánh phủ Viʄt-Nam Cộng-hòa, chánh quyɾn bãi bỏ các lớp Miên ngͯ, trɸ em Viʄt gốc Miên phải h͍c chͯ Viʄt. Nhưng dù chͯ Miên không đɬc dụng trong chánh giới, người Viʄt gốc Miên vɨn phải h͍c đʀ bảo tồn quốc ngͯ của h͍ và đʀ h͍c kinh Phɪt khi vào chùa tu. Theo phong tục từ ngàn xưa, người con trai Viʄt gốc Miên nào cũng phải vào chùa tu một thời gian ít nhất là một tháng
đến mãn đời, lúc nào muốn hoàn tục thì vɾ nhà, lúc nào muốn tu lại thì vào. Kinh Phɪt viết bɮng chͯ Pali (Nam Phạn) cùng nét chͯ như Miên. Muốn h͍c Phạn ngͯ rất cɤn phải thông Miên ngͯ mới dễ h͍c. Vì tɪp quán bɬt buộc, người Viʄt gốc Miên thà chʈu cho con dốt tiếng Viʄt chͯ không thʀ bỏ chͯ Miên, h͍ cho con vào chùa theo các lớp Miên ngͯ dưới sͱ chʆ dạy của vʈ Sãi giáo. Chùa nào cũng có một hoặc nhiɾu lớp h͍c tùy theo số trɸ con quanh vùng. Đó là tục lʄ bất di bất dʈch mà dưới thời Pháp thuộc, Chánh phủ bảo hộ vɨn phải duy trì, bảo vʄ, giúp đỡ, đặt quy chế riêng biʄt g͍i là trường chùa (école des pagodes) hay trường làng (école rurale) quý vʈ Sãi giáo được cấp lương hàng tháng và dụng cụ đʀ phát cho h͍c sinh. Chánh phủ Viʄt-Nam Cộng hòa tuy đã bỏ lớp Miên ngͯ ở trường công cũng không thʀ cấm các lớp h͍c ở chùa vì sợ va chạm vào vấn đɾ tín ngưỡng. Tuy không có sɬc lʄnh nào vɾ viʄc nɤy, nhͯng quý vʈ Tʆnh-trưởng vùng đồng bào gốc Miên tͱ động giúp đỡ các lớp h͍c ở m͗i chùa vɾ vɪt chất lɨn tinh thɤn. Công tác này thuộc vào một phɤn của chương trình Miên vɪn. Nhưng nói rɮng giúp đỡ là tặng một số tiɾn sͭa chͯa lớp h͍c, đóng thêm bàn, ghế chứ không thấy vʈ Tʆnh-trưởng nào hoặc vʈ Bộ trưởng nào ở trung ương đặc biʄt chú tr͍ng đến viʄc cung cấp sách Miên ngͯ cho trɸ h͍c. Vì thế, tͱ nhiên người Viʄt gốc Miên phải lén lút mua sách xuất bản ở Nam-Vang được phép dạy ở các trường công và mua kinh Phɪt cũng in ở Nam-Vang.
Chánh thʀ quốc-gia bạn là quân chủ và theo đường lối trung-lɪp thân Cộng, khác và nghʈch hɰn với ta. Cho trɸ
Viʄt gốc Miên đ͍c sách Miên dù là do Bộ Quốc-gia Giáo-dục soạn thảo hay do các vʈ giáo sư trước tác, chính là hun đúc cho chúng có sɲn tư tưởng trái nghʈch với ta ngay từ khi còn bé. Hơn nͯa, vì mối liên hʄ vɾ chủng tộc và đất đai mà hơn mười năm nay, Chánh phủ Hoàng-gia Cao-Miên lén lút và công khai mở nhͯng chiến dʈch đòi đất, đòi dân, cho rɮng 600.000 người Viʄt gốc Miên là người Miên miɾn dưới g͍i là Miên Hạ (Kampuchéa Krom) hoặc là Miên kiɾu ngụ ở Viʄt Nam, đồng thời tuyên bố miɾn Tây Nam phɤn đất Miên thuộc vùng Thủy Chân-Lạp ngày xưa. Một trong nhͯng mục tiêu của chiến dʈch là khơi động mối liên quan vɾ chủng tộc của người Viʄt gốc Miên, hô hào hướng vɾ Cao-Miên và chuɦn bʈ sɲn sàng đʀ trở vɾ với đất t͕ ! H͍ đã thành lɪp Đảng khăn trɬng và Mặt trɪn giải phóng người Miên hạ ɦn nấp ở vùng biên giới Châu-Đốc, Hà-Tiên khuấy rối. Tại Nam-Vang, chính phủ Cao-Miên t͕ chức 1 hội g͍i là Hội bạn của người Miên Hạ, mục đích kêu g͍i người Viʄt gốc Miên bỏ miɾn Nam tʈ nạn ở đất Miên đʀ hội giúp đỡ : Sư Sãi thì được cấp y cà sa, bình bát bà lộ phí đến ngôi chùa nào muốn ở tu, dân chúng thì được giúp đỡ công ăn viʄc làm tùy theo khả năng, tài sức. Cơ quan tuyên truyɾn của hội là tờ báo tuɤn san Sang Khum Monous (Hy v͍ng vào con người) chuyên đặt điɾu vu khống chính phủ Viʄt-Nam Cộng-hòa hiếp đáp, cư xͭ tàn nhɨn người Viʄt gốc Miên ! Hiʄn thời, tuy đã có nhiɾu đảng viên Khăn trɬng vɾ hồi chánh nhưng Mặt trɪn giải phóng người Miên Hạ vɨn còn ở Nam-Vang đʀ thʆnh thoảng tung một vài tờ truyɾn đơn, cho n͕ vài trái lͱu đạn ở vùng biên giới tỏ rɮng ta đây còn sống.
Hội bạn của người Miên Hạ cũng đã hoạt động đɾu đặn đʀ tiếp đón Sư Sãi, quân nhân và đồng bào Viʄt gốc Miên bỏ miɾn Nam lên Cao-Miên hoặc làm nội tuyến cướp súng đem nộp chánh phủ Cao-Miên lãnh thưởng.
Trước nhͯng âm mưu đen tối như thế mà ta vɨn đʀ người Viʄt gốc Miên lén lút mua sách ở Cao-Miên kʀ là một hành động can đảm.
Vɾ các bộ kinh Phạn Ngͯ, bɪc Tiʀu-h͍c h͍c 3 năm phải có hai bộ :
- Veynekor (văn phạm Pali) : 2 quyʀn.
- Thommabal (Pháp cứu) 8 quyʀn, m͗i quyʀn dày từ 450 đến 550 trang.
Bɪc Trung-h͍c 4 năm phải có 3 bộ :
- Kampi Mangkol (Hạnh phúc kinh) 4 quyʀn.
- Pisuktimak (Đường đạo tinh khiết) 4 quyʀn.
- Kantba Vitharoney 2 quyʀn.
M͗i quyʀn Hạnh phúc kinh dày bɮng cuốn tͱ điʀn !
Theo quy điɾu của nhà Phɪt thì nhͯng quyʀn kinh nào cũng phải sɬp chͯ và in giống nhau bất cứ do quốc-gia nào xuất bản. Đạo Phɪt ngành Tiʀu-thừa truyɾn bá sang Thái Lan, Miến-điʄn, Ai-Lao, Cao-Miên, Nam-Dương nên Sư Sãi xứ nɤy đɾu h͍c các bộ kinh giống nhau. Ví dụ, khi một nhà Sư Thái nói rɮng câu kinh ở dòng thứ mấy, trang mấy trong quyʀn nào thì vʈ Sãi ở Ai-Lao hay Miến-Điʄn biết ngay vì quyʀn kinh in ở 2 nước ấy cũng giống y như ở Thái. Đành rɮng giáo luɪt là thế nhưng giả sͭ trong nhͯng sản phɦm ấy
có đôi ba phɤn tài liʄu chánh trʈ do kɸ chủ mưu cố tình xen vào đʀ tuyên truyɾn, xúi giục thì liʄu chánh phủ Viʄt-Nam Cộng-hòa có biết đʀ kiʀm soát và ngăn chặn không ? Hay là m͗i khi thấy nhà Sư thì nhân-viên chánh quyɾn nghĩ ngay đến chủ trương tôn tr͍ng tͱ do tín ngưỡng mà không dám quấy rɤy ? Vả lại, cho rɮng có nghi ngờ vấn đɾ ngụy trang tài liʄu trong kinh sách đi nͯa, liʄu có ông nào đ͍c được chͯ Miên, chͯ Phạn hay không ?
Ngoài sách h͍c và kinh Phɪt, người Viʄt gốc Miên còn nhờ bạn hàng ở Chợ-Trời Tʈnh-Biên mua bản nhạc do các nhạc sĩ Miên sáng tác, tiʀu thuyết Miên ngͯ, nhͯng loại sách bình luɪn giảng giải kinh Phɪt và hàng năm mua cuốn lʈch ghi ngày, tháng tốt xấu, ngày Tết, ngày lễ Phɪt so với Dương-lʈch. Cuốn này g͍i là Maha Sangkran do các vʈ quan Thiên văn trong Hoàng-triɾu Cao-Miên soạn m͗i năm. Người Miên và Viʄt gốc Miên dùng một loại Âm-lʈch khác hɰn với Âm-lʈch người Trung-Hoa, chia m͗i tháng làm 2 tuɤn : tuɤn trăng tròn 15 ngày và tuɤn trăng khuyến 15 ngày hay 14 ngày, tùy theo tháng đủ hay tháng thiếu, cứ hai năm có một lɤn nhuɤn 1 tháng giống như Âm-lʈch của Tàu.
Căn cứ theo sͱ vɪn chuyʀn của mặt trăng, các quan Thiên văn soạn lʈch m͗i năm m͗i khác, ví như giờ « Vào năm mới » (Giao thừa) có năm nhɬm 5 giờ sáng 14 tháng 4, các ngày lễ khác cũng không « đứng » nguyên một ch͗ như năm trước. Vì thế, người Viʄt gốc Miên bɬt buộc phải lén mua cho kỳ được đʀ coi ngày tháng cͭ hành các cuộc lễ quan tr͍ng. Có người gởi mua một lɤn từ 500 đến 1000 quyʀn đem vɾ bán lại khɬp các miɾn Tây. Số lượng nɤy
không thʀ nào đủ cung cấp cho 600.000 người Viʄt gốc Miên !
Bạn hàng ở Chợ-Trời Tʈnh-Biên lãnh mua các loại Kinh, sách bản nhạc, tiʀu thuyết Miên ngͯ tính lại theo giá bạc Viʄt-Nam thêm với tiɾn lời thành một số tiɾn quá cao khiến cho giới chơi sách Viʄt khi nghe được phải giɪt mình. Một cuốn tɪp h͍c giáo 20 « ria » (bạc Miên) bán lại 100 đồng, hoặc 120 đồng. Một bộ kinh Pháp cứu Phạn ngͯ 8 quyʀn giá 350 « ria » bán 2.000 đồng hoặc 2.500 đồng. Cuốn lʈch Maha Sangkran 15 ria bán 60 đồng ! Nhưng dù mɬc đến thế nào người Viʄt gốc Miên vɨn sɲn sàng đón mua, đặt trước với một niɾm sung sướng vô biên. Phải nhìn thấy nét mặt h͍ khi cɤm một tác phɦm Miên với đôi mɬt sáng ngời thì mới rõ. H͍ bỏ tiɾn mua cả nhͯng quyʀn lʈch « giả » do các ông Cao-Miên không thông Thiên văn, đʈa lý trước tác càn, gạt đồng bào. Người nào muốn thấy các ấn loát phɦm kʀ trên xin mời vào một trong số 500 ngôi chùa Viʄt gốc Miên sẽ được hài lòng ngay.
Trong giới chánh quyɾn Viʄt-Nam có nhiɾu người thɬc mɬc vì sͱ kiʄn này và nghe đâu có một cơ quan đɾ nghʈ soạn sách chͯ Miên theo lối song ngͯ Viʄt Miên cho trɸ h͍c và in kinh Phɪt bán cho giới Sư Sãi đʀ tránh nhͯng điɾu tai hại có thʀ xɦy ra. Hình như đɾ nghʈ này bʈ xếp xó hàng mấy năm rồi không được cứu xét. Nhờ đó, đồng bào gốc Miên tha hồ đ͍c sách Miên ngͯ ở Nam-Vang, bất chấp lʈnh cấm của chánh phủ, và một số thân chủ Chợ-Trời Tʈnh-Biên chuyên mua sách Miên ngͯ dùm bà con Viʄt gốc Miên dư sống quanh năm.
c) NHͮNG MÓN HÀNG SỐNG : BÒ, GÀ, HEO, CÁ
Dù không có Chợ-Trời, không cɤn đến Chợ-Trời, không phải vào Chợ-Trời đʀ bán, một số đồng bào ở Tʈnh-Biên chuyên mua một loại hàng sống của người Miên đưa qua : bò. Nghɾ nɤy đã có từ thời… thượng c͕ khi dân Viʄt, dân Miên biết xài tiɾn và phát triʀn mạnh nhất trong thời Thͱc dân Pháp cai trʈ Đông-Dương. Tại vùng biên giới này, bên Miên cũng như bên Viʄt có rất nhiɾu đồng ruộng bát ngát và rừng núi dày đặc tạo thành một đʈa thế vô cùng thuɪn lợi cho kɸ mua, người bán trâu bò không có giấy tờ. Ở Viʄt Nam, m͗i con vɪt có một cái thɸ nhɪn dạng ghi màu lông, số tu͕i, số xoáy và tên (không có h͍). Đồng bào ta quen gɬn thɸ này cho con vɪt khác miễn là nó giống na ná nhͯng điʀm ghi trong hồ sơ. Phương pháp nɤy được áp dụng gɤn một thế kͷ và hình như bây giờ vɨn còn tồn tại. Nói gì đến cái sͱ người chủ con vɪt tͱ nhiên xin cái thɸ và nộp thuế mà không xuất trình đủ lý do vɾ nguyên gốc của nó ở đâu mà ra ? Xưa kia, Viʄt-Nam – Cao-Miên còn sống dưới một chế độ mà nhͯng nạn nhân của b͍n trộm trâu, bò còn khó thʀ truy tɤm được b͍n chúng huống chi ngày nay, cái gì l͍t qua khỏi biên giới thì kʀ như tiêu ra khỏi cho xong. M͗i tháng 3 lɤn ngày 10, 20 và 30 tʆnh Châu-Đốc có mở chợ phiên trâu, bò dưới chân núi Sam. Chợ chánh thức hoạt động từ ngày 1-1-1953. Người nào biết rõ vấn đɾ này nhìn bɤy thú không khỏi nghi ngờ biết đâu trong ấy có một số « chạy lạc » từ bên Cao-Miên sang ! Người trong giới kʀ lại rɮng ngoài nhͯng lối mở lɤm chuồng, dɬt lɤm trâu, bò kɸ khác, các ông Miên cũng khá hóm hʆnh khi dùng l͗i « lùa
lɤm » ! Hɮng năm, nước sông Cͭu-Long dâng cao, đồng bào tʆnh Châu-Đốc, An-Giang phải cất chuồng bɮng sàn cho trâu, bò ở suốt mấy tháng trước. M͗i ngày người ta cɬt cỏ, đʀ rơm cho chúng ăn. Nhiɾu người không tiʄn săn sóc bɮng lối ấy phải dɬt chúng lên Cao-Miên gởi cho người Miên chăn giúp mấy tháng. Trong tʆnh Takee, d͍c theo biên giới có một số nông dân Miên chuyên làm nghɾ này ăn cộng bɮng một số tiɾn. Khi nước rút cạn, người gͭi trâu, bò phải đến nơi dɬt vɾ. Có ông lợi dụng bɤy thú đông đảo này t͕ chức một bu͕i tiễn đưa đʀ kèm theo một số của đồng bào h͍ mà các ông cố tình lùa lầm ! Đoàn người và thú qua khỏi lɮn ranh rồi thì của ai nấy nhɪn và chia tay nhau, phɤn của ông Trưởng đoàn thì ông đưa vɾ nơi hẹn trước với các bạn đồng nghiʄp Viʄt-Nam ! Nghɾ làm ăn xem ra dễ dàng làm sao ấy !
Dưới thời ông Diʄm, quý vʈ Quɪn trưởng ở biên giới có cấp cho đồng bào buôn bán bò một giấy CHỨNG THƯ NGUYÊN XỨ xác nhɪn con vɪt ấy là của người dân… Annam nuôi từ thuở nó mới mở mɬt chào đời ! Nɬm được lá bùa này các ông lái tha hồ mua bò Cao-Miên lùa sang. Trước 2, 3 ngày mở cͭa chợ phiên người ta thấy nhiɾu bɤy bò từ phía bên kia lɮn ranh đủng đʆnh nhɪp cảnh Viʄt-Nam giống như nhͯng bɤy bò Texas trên màn ảnh cao bồi. M͗i bɤy có từ 50 đến 70 con, toàn là bò mɪp ú, cao nhồng. Đó là loại bò người Miên nuôi trong rừng, núi, cho ăn cỏ rừng và chʆ đʀ bán thʈt nên không có con nào biết kéo cày. Nông gia Viʄt-Nam đi chợ phiên Núi Sam thấy bò lớn, mạnh và rɸ tiɾn vội mua vɾ bɬt ách vào thì chúng nɮm lăn ra. Ép chúng đi
thì chúng té lên té xuống ! Người ta phân biʄt chúng với loại bò biết kéo cày, kéo xe ở cái c͕ không bʈ chai vì mang ách. Các ông lái bò lùa bò vào chợ phiên, trình giấy « Chứng thư nguyên xứ » sẽ được nhân viên làm giấy xác nhɪn chủ nhân ông của con vɪt, đóng dấu sɬt nung đỏ vào mông bò mà không cɤn hỏi xuất xứ ở nơi mô, nơi tê nào cả ! Hễ bò vào đất Viʄt rồi là của người Viʄt. Người nào mua cho lò thʈt Saigon tha hồ ch͍n lͱa, trả tiɾn và lùa lên xe. Dân ở Saigon ăn thʈt bò hɮng ngày khen ngon ɤm ĩ. Tuy nhiên, có dạo chánh quyɾn đʈa-phương bɬt buộc trâu, bò được đóng dấu rồi phải chờ một ngày đʀ người nào bʈ mất cɬp nhɪn diʄn. Ví như chợ ngày 10 thì chờ ngày 11, ngày 12 mới chở bò đi. Nhưng lʈnh nɤy chʆ áp dụng có vài tuɤn rồi đâu vào đấy, đóng dấu con vɪt xong là cho chở đi ngay.
Phương pháp cấp « Chứng thư nguyên xứ » được áp dụng luôn cho ngành bán cá tươi. Hồi còn mồ mả ông Tây mũi dài, cá ở Biʀn-hồ Cao-Miên được bán cho dân Viʄt-Nam một phɤn lớn. Khi Cao-Miên độc lɪp và kết thân với Trung
Cộng thì bao nhiêu cá đánh được bʈ bɬt buộc phải cung cấp cho chú Ba, lẽ cố nhiên là với giá rɸ. Người Miên, không dám chống đối ra mặt, chʆ ngấm ngɤm đem một số ra Chợ Trời và ở d͍c biên giới bán cho người Viʄt. Do đấy, cá đem ở Viʄt-Nam có theo mùa, mà dân Viʄt lại được ăn quanh năm, nhất là đồng bào ở tʆnh Châu-Đốc, Kiến-Phong. Giá cả bán tại chợ Châu-Đốc, Hồng-Ngͱ, Tân-Châu, Long-Xuyên rɸ hơn ở Saigon nhiɾu. Các xe chở cá, tɤu thủy chở cá xuống Saigon đɾu là cá ở Biʀn-Hồ Cao-Miên « nhɦy » sang ranh giới. Trước ngày Cách-mạng, quí-vʈ Quɪn-trưởng ở biên
cương thường cấp cho thân nhân « Chứng thư nguyên xứ » m͗i lɤn vài ngàn ký lô cá đen, nghĩa là người cɤm giấy ấy đã « câu » được ngɤn ấy cá trong xứ Viʄt-Nam và được quyɾn chở đi Saigon bán. Người có giấy lại không có một con cá nào và cũng không có một đồng xu nào, mới đem « nhường » lại cho các ông, các bà lái cá. Kɸ có công, người có của, cái vòng lɦn quɦn cứ loanh quanh mãi, đồng bào nhờ đó được có các loại cá đen trong bu͕i cơm hɮng ngày, giͯa lúc ngay ở nước nhà ngư phủ chưa câu được.
Vấn đɾ mua heo Cao-Miên có nhiɾu đặc điʀm đặc biʄt hơn mua bò và cá. Trong phɤn trước, quý bạn đã thấy ở mục ngã đường Khánh-Bình Bình-Di có ghi rɮng phɤn đất đối diʄn với xã Khánh-Bình bên tả ngạn Hɪu-Giang là lãnh th͕ Miên, chạy dài xuống đến Baknam. Như thế, phân nͭa mặt sông bên này là của ta, phân nͭa bên kia là của h͍. Ghe, xuồng xâm nhɪp qua khỏi thủy phɪn thì bʈ lôi thôi ngay. Tàu tuɤn hai bên chạy lên, chạy xuống hoài hoài. Ở đɤu xã Khánh-Bình, cạnh bờ sông Bình-Di là ranh giới có chợ Long-Bình, một chợ xã nhưng nhộn nhʈp và sɤm uất không thua chợ quɪn. Đó là nhờ viʄc mua bán hàng hóa Cao-Miên sang và hàng Viʄt-Nam đưa qua đất Miên. Đối diʄn với chợ Long-Bình là đồng ruộng Cao-Miên d͍c theo bờ Hɪu-Giang. Bên ấy người Miên nuôi heo rất nhiɾu, ăn không hết phải lén chở qua Viʄt-Nam bán bớt. Từ trong xóm, ấp xa, h͍ chở ra bờ sông bán cho một người đɤu nɪu. Người nɤy làm một cái chuồng vĩ đại đʀ chứa và sɬm ghe, xuồng sɲn sàng chở qua chợ Long-Bình. Nói như thế nghe dễ dàng như là một nghɾ làm ăn lương thiʄn, sͱ thɪt thì khác hɰn.
Heo bán trong xóm thì không sao chứ chở đi vɾ hướng « bờ sông » thì y như rɮng các quan chặn lại xét hỏi giấy tờ. Người bán heo phải « biết điɾu » mới mong đi trôi chảy ! Nhưng không phải vấn đɾ biết điɾu này dễ dàng áp dụng luôn luôn đâu, nguyên do vì chánh phủ Miên cấm tuyʄt không cho xuất cảng heo sống sang Viʄt-Nam bɮng cách phạt vạ một số tiɾn gấp 4, gấp 5 lɤn tiɾn bán con vɪt ; và m͗i lɤn phạt như thế, nhân viên thừa hành phɪn sͱ được hưởng một số hoa hồng từ 40 đến 45 phɤn trăm. Người bán có lo tiɾn hối lộ cũng chưa chɬc trả đủ số của các quan được Chánh phủ tặng thưởng, như vɪy, quan có ng͍ng gì thò tay nhɪn đʀ chʈu thiʄt thòi đủ thứ, vừa vɾ tiɾn mặt, vừa vɾ phɤn tưởng lʄ đʀ thăng chức, vừa sợ bʈ lộ tɦy mất chén cơm ! Nếu người bán chʈu trả đủ số tiɾn quan đòi thì tốt hơn tặng luôn con heo cho quan xơi còn hơn là chở sang Viʄt Nam, rồi phải chở vɾ Cao-Miên vì có ai dám mua với giá quá cao ! Vì lẽ đó, người bán phải dùng mưu thɤn, chước quʆ « cho » các quan bɬt một người chở hai hay ba con trên xuồng bơi đủng đʆnh trước mũi tàu tuɤn. Quan vồ lấy dɬt đem vɾ văn phòng làm thủ tục phạt tiɾn. Trong lúc ấy, hàng chục xuồng nấp kín tuông ra, bay qua bờ bên kia, chở từ hai đến ba trăm con. Bán xong, các chủ heo chia nhau trả số tiɾn phạt cho người đã dùng kế Điʄu h͕ ly sơn, dụ khʆ các quan, kèm theo tiɾn lời cũng như đã bán được hai hay ba con heo ấy. Nhờ đó hai tʆnh Châu-Đốc, Long-Xuyên mới có dư heo cung cấp cho Đô thành Saigon và được ban khen sốt sɬng, nhanh nhẹn phục vụ cho đồng bào Thủ đô có đɤy đủ thʈt heo tươi ăn m͗i ngày.
Tại nhà chứa cũng vɪy, người đɤu nɪu phải nhanh mɬt, nhanh tay khi thấy bóng tàu tuɤn vừa khuất dạng thì lɪp tức cho heo xuống ghe, xuồng chèo bay qua mặt sông. Rủi có chɪm đôi chút mà qua khỏi phân nͭa sông cũng kʀ như thoát. Heo Miên đã thành heo Viʄt rồi, không có luɪt pháp nào biến đ͕i chúng trở lại nguyên gốc được. Chủ heo bán cho một tay đɤu nɪu thứ nhì ở chợ Long-Bình, người nɤy bán lại cho người mua đem xuống Saigon. Từ chợ Long Bình, ông lái heo phải dùng ghe gɬn máy chở xuống chợ Ba Tiʄm phía dưới chợ Châu-Đốc, cạnh quốc lộ số 2. Tại đây, heo lên xe hơi vɾ lò Chánh-Hưng.
Người Miên cung cấp theo lối ấy quanh năm, nhưng nhiɾu nhất là trong mấy tháng trước ngɪp, h͍ chở heo bɮng xuồng dễ dàng di chuyʀn, chở được nhiɾu và trốn tránh các quan cũng tiʄn. Mùa nɬng ráo h͍ phải chở bɮng xe bò. Số heo sụt xuống rất ít, m͗i ngày người đɤu nɪu chʆ đem qua sông từ 10 đến 20 con, có ngày có từ 200 đến 300 con.
Các ông lái heo ở Long-Xuyên và Châu-Đốc thích mua heo Cao-Miên không phải vì giá rɸ hơn heo Viʄt-Nam, nhưng vì heo Miên ngày nào cũng có sɲn và hễ có là phải bán liɾn chứ không lẽ mang trở vɾ ! Vì thế, ảnh hưởng của giá cả ở Saigon có bʈ sụt chút ít vì heo đông lạnh cũng không gây thiʄt thòi cho giới buôn heo Miên. Ở trong tʆnh, m͗i khi nghe tin heo lên giá thì không ai chʈu bán cho lái ! Người có heo muốn giͯ lại đʀ chờ giá heo lên cao hơn nͯa, còn người bán heo Miên thì đã ăn chʈu trước với lái, m͗i con 200$ nhất đʈnh, không lên, không xuống. Có người muốn giͯ phɤn chɬc đưa tiɾn trước cho một người Miên hay Viʄt
kiɾu đi vào các sóc Miên đặt c͍c mua sɲn heo cho mình. Nhͯng vʈ đại diʄn này làm ăn thɪt thà vài chuyến từ vài mươi con heo đʀ lấy uy tín và được tăng dɤn tới vài trăm con. Rồi một ngày tốt trời các ông ôm gói bạc lên bờ đất Viʄt, xuống ghe sang Hɪu-Giang vừa ngâm câu « tráng sĩ nhất khứ »… của người hùng Kinh Kha khi vào đất Tɤn. Người mất tiɾn đành đứng ủ rũ trên bờ sông nhìn qua lãnh th͕ Miên mà văng nhiɾu câu chưởi thɾ cay độc nhất.
Nhiɾu ông lái bò ở Tʈnh-Biên, Châu-Đốc cũng dùng phương pháp này và cũng gặp hoàn cảnh này. Người lãnh tiɾn ôm gói tếch sang Nam-Vang lɪp nghiʄp, sống phè phỡn với vợ con. Luɪt pháp nào kết tội kɸ phản trɬc ấy được ? Vào cuối năm 1962, một tay trung gian Viʄt gốc Miên cu͗m năm số tiɾn c͍c của năm ông lái bò ở Châu-Đốc lên thủ đô Cao-Miên đʈnh làm giàu lớn. Nhưng chưa kʈp tr͕ tài, hɬn mon men ra hóng gió ở núi Bokor (ta g͍i là núi Tà-Lơn) thuộc tʆnh Kampot. Tại đây, Chánh phủ Cao-Miên có mở một sòng bạc vĩ đại đʀ dạy cho dân Miên biết nhͯng lối giỡn tiɾn theo người văn minh. Tên ăn cɬp tưởng rɮng có thʀ ăn bạc triʄu dễ dàng nên dốc túi ra thͭ thời vɪn. Và đúng theo lời Thánh Hiɾn răn dạy từ ngàn xưa, của phi nghĩa sang tay kɸ khác trong chớp mɬt. Mình trɤn, khố trụi, bơ vơ ở đất Miên, hɬn không dám trở vɾ Viʄt-Nam và sợ bʈ ăn đòn đến chết hoặc mang bʈnh suốt đời, đành ở lại Nam-Vang sống với nghɾ… đạp xích lô.
Đối với nhà cɤm quyɾn đʈa phương, viʄc kiʀm soát heo cũng giống như xét giấy bò ở chợ phiên Núi Sam và cá đen trái mùa ở d͍c biên giới.
Một ông lái phát ngôn rɮng : « Heo Miên đâu có giấy thuế thân, làm sao biết nó sanh ở xứ nào mà quý thầy làm khó dễ bà con ? »
Gà Cao-Miên « bay » sang Viʄt-Nam hàng… trăm năm nay rồi. Đồng ruộng Cao-Miên rộng, lúa Cao-Miên thừa thãi, người Miên nuôi gà hàng trăm con m͗i gia đình, ăn làm sao hết kʈp ? Xưa kia ở tʆnh Svay Riêng có nhiɾu xe hàng, xe đò chuyên môn chở gà hàng ngày xuống Sài-Gòn. Từ ngày có Chợ-Trời, xe hết thông thương, người Miên quen lʄ đánh gà đến biên giới bán cho người Viʄt. Chánh quyɾn có ngăn chặn thì h͍ gánh đi vòng ngoài ruộng cách trạm kiʀm soát lối một cây số, rồi cũng đem vào đất Viʄt. Nhân viên Nhà nước ngó thấy rõ ràng và biết rõ ràng nhưng không lẽ bỏ tù hay bɬn chết một người công dân vɾ tội bán vài mươi con gà hay sao ? Cấm đoán không được, người ta cho tͱ do. Chợ-Trời có một món hàng sống đặc biʄt. Người bán phải chʈu thuế « nhɪp cảng » và « nhɪp thʈ ». Như thế thì cả hai chánh phủ đɾu có lợi hết cả hai chứ sao ! Ở ngay Chợ-Trời Tʈnh-Biên và d͍c theo biên giới, từ bến đò dài qua cͭa kinh Vĩnh-Tế phía trên chợ Châu-Đốc, cái sͱ gà Cao-Miên bay sang Viʄt-Nam là một sͱ kiʄn có thɪt hàng ngày. Chánh quyɾn đʈa phương không buồn ký giấy « Chứng thư nguyên xứ » làm chi cho mʄt vì gà Cao-Miên có khác gà Viʄt-Nam chút nào đâu ? Vả lại người Viʄt không biết nuôi gà hay sao, đất Viʄt không có giống gà ấy hay sao ? Bởi thế cho nên, ngay trong nhͯng tháng 8, 9, 10 nước sông Cͭu-Long dâng lên cao, gà thường hay trúng gió chết toi, hoặc không ch͗ đi đứng, người Viʄt không có nuôi gà mà ở Châu-Đốc, Long-
Xuyên đồng bào tha hồ ăn gà với giá rất rɸ. Xe hàng, xe đò chở hàng chục, hàng trăm giỏ gà m͗i ngày vɾ Saigon. « Chợ gà » trước bến xe đò Vĩnh-Long, M-Thuɪn đɤy nghẹt gà Cao-Miên, nếu chúng biết nói tha hồ kɸ bán người mua nghe chúng kʀ vɾ chuyʄn Nam-Vang bɮng tiếng Miên cho mà nghe. Giá có người ngoại quốc nào tò mò nhɪn xét vɾ điʀm này ɬt là phải cho là ở hai tʆnh trên đây có nhiɾu trại nuôi gà vĩ đại lɬm. Và giͯa khoảng thời gian nước ngɪp mênh mông, các trại gà ấy phải cất trên nhͯng sàn nhà cao, che kín gió và không chừng có cả máy điɾu hòa không khí đʀ các cɪu, các cô gà khỏi chết toi.
d) TÌNH TRẠNG BIẾN THIÊN QUA TͪNG GIAI ĐOẠN
Ngày xưa, con đò Tʈnh-Biên bɪn rộn vì nhͯng chiếc xe Saigon, Châu-Đốc đi Hà-Tiên và Nam-Vang hɮng ngày. Qua cơn khói lͭa, người Viʄt có quốc lộ số 17 từ Rạch Giá đi Hà Tiên nên đường số 2 bớt xe rất nhiɾu, m͗i ngày chʆ còn một chuyến xe chở khách từ Vĩnh Bình đi Nam-Vang và hôm sau trở vɾ mà thôi. Trục giao thông này biến thành nơi chạy hàng lɪu giͯa hai quốc gia mà Chợ-Trời cũng dͱ một phɤn lớn. Khi xe này đ͕i đường khác, bến Tʈnh-Biên hɤu như không còn xe nào qua lại nͯa. H͍a hoɮn mới có một chiếc xe mà chủ nhân cao hứng đi chơi biên giới, hoặc có viʄc khɦn cấp phải đi sang đất bạn với đủ giấy tờ hợp lʄ, ngoài ra thì còn đò kéo bɮng dây và chống bɮng sào chʆ chở bạn hàng Chợ-Trời, chở xe lôi ba bánh mà thôi.
Nhóm người tͱ xưng là tʈ nạn chánh trʈ khi dùng ngã nɤy đʀ thoát sang Cao-Miên và từ Saigon đến quɪn l͵ Tʈnh-
Biên xa gấp 5 lɤn đến quɪn Gò-Dɤu-Hạ. Hơn nͯa, vấn đɾ lén lút trà trộn với đồng bào sang đò không thʀ áp dụng vì số thân chủ của Chợ-Trời không bao nhiêu, lại quen mặt với các viên chức kiʀm soát như sống trong một nhà, kɸ lạ mặt bʈ nhɪn diʄn ngay tức khɬc. Ví như có kɸ mạo hiʀm dùng các nɸo tɬt vượt ngang kinh Vĩnh-Tế, băng đường ruộng qua lɮn ranh gặp một toán lính tuɤn tiễu Cao-Miên thì đi đời.
Ảnh hưởng của tình hình chánh trʈ ở Cao-Miên gây tai hại cho đồng bào ta ở Chợ-Trời không ít. Đó là nạn thu thuế của một b͍n bất lương. Chợ-Trời thành một vú sͯa cho chúng mua sɬm các món vɪt dụng và thu thuế bạn hàng. Người nào không đóng thì chúng đem cái chết ra đe d͍a, hoặc xúi lính Miên bɬt cóc đòi thân nhân chuộc tiɾn. Chúng theo sát từng người một, đánh thuế nhiɾu ít tùy theo số vốn của nạn nhân. Người nào tải hàng theo lối tɬt thì được chúng đɾ nghʈ đi theo và bảo đảm với một số tiɾn to hơn số thuế. Bảo đảm này là che chở cho thuyɾn hàng an toàn đến bờ kinh, không bʈ lính Miên cướp giͱt. Người nào từ chối thì y như rɮng có ngay toán lính Miên chặn đường vét sạch sành sanh, không khác nào chúng dùng điʄn thoại báo tin cho người anh em Miên biết vɪy.
Tình cảnh trên búa dưới đe này làm hao hụt ngân sách gia đình của đồng bào buôn bán ở Chợ-Trời mà không có phương pháp nào giải quyết. Vì chén cơm manh áo, đồng bào lỡ đâm lao phải theo lao nên trải qua nhiɾu n͗i đɬng cay, Chợ-Trời vɨn còn tồn tại đʀ thi gan cùng… tuế nguyʄt.
*
Trong lúc ấy, đồng bào Châu-Đốc, An-Giang vɨn có hàng hóa Chợ-Trời xài hɮng ngày. Từ bến đò Vàm-Cống, du khách đã thấy một sạp chén dĩa bɮng sứ của Trung Cộng bày bên lɾ đường. Chén úp xuống, ngay cái trôn có con dấu chͯ Anh đɾ MADE IN SHANGHAI đỏ choét. Đi lɤn vào chợ Long
Xuyên và Châu-Đốc, các nhà buôn có vɸ « k lưỡng » hơn, không ai bày một món hàng… lɪu ra ngoài ! Người lạ mặt hỏi thì sẽ được trả lời nhã nhặn : « Không có ! Tuyệt không ! Bán thì bị bắt chết, ai dám ? »
Nhưng nếu có người đʈa phương giới thiʄu, nhất là Hoa Kiɾu, thì hỏi gì cũng có ngay dưới sạp, trong hộc tủ, trong nhà riêng. Chén dĩa làm từ bên Tàu, gào-mên (cà mèn) tráng men, son, thau tráng men, viết mͱc hiʄu Héros, dép cao su kiʀu Nhɪt, bình thủy đͱng nước nóng, giỏ tre, giỏ sɬt hiʄu Diamond, Lion, chén kiʀu hột dưa vẽ hình tứ quý, bình thủy đͱng nước đá từ 5 ký đến 10 ký, quɤn áo xá xɦu nguyên bộ, khăn lông, áo lạnh bɮng nʆ, áo sơ mi ngɬn tay. Có người bán chén đĩa bɮng cách đem kiʀu đến từng nhà, giá cả trả xong hàng giao ngay, mấy chục, mấy trăm cũng có. Thức ăn từ Cao-Miên đem qua không thiếu : đɪu xanh, tiêu Kampot nguyên hột, đường hũ (đường thốt nốt nấu chảy đͱng trong hũ), lạp xưởng đͱng trong bao nylon có in chͯ Miên, chͯ Tàu với nhãn hiʄu giấy đỏ, cá sấy, cá khô Biʀn-Hồ đủ loại. Lạp xưởng bán nguyên bao, m͗i bao một ký. Bao có đục l͗ thông hơi cho lạp xưỡng khỏi mốc. Có người bán rɸ từng cặp và quảng cáo ngon hơn lạp xưởng ở Ba-Xuyên. Lạp xưởng của người Viʄt gốc Hoa làm tại Sóc Trăng đã n͕i tiếng ngon nhất Long-Xuyên, Châu-Đốc từ mấy
năm qua nay bʈ lạp xưởng của Hoa kiɾu ở Nam-Vang đè bẹp. Đồ hộp của Trung Cộng không thiếu : cá, thʈt, cải Bɬc thảo. Đồ ăn, đồ uống của Pháp có lu bù : nước suối Vichy, rượu Martell, Champagne, xì dɤu Maggi loại ve lớn một lít, ve nhỏ một phɤn tư lít, bơ Bretel hộp to, hộp nhỏ. Các quán nhɪu ở Long-Xuyên và Châu-Đốc câu khách bɮng món ếch chiên bơ chấm với Maggi, M͗i khi d͍n bàn, ông chủ quán trʈnh tr͍ng bê hủ Maggi hạng đại ra xʈt vào dĩa, xem khá hấp dɨn khách « ve chai » và làm thèm thuồng các bà nội trợ ở Saigon vốn đã vɬng bóng loại xì dɤu ngon này hàng chục năm dài ! Theo cái đà ấy, quán n͍ cạnh tranh với quán kia biến thành một phong trào chiên xào thức ăn với đồ gia vʈ của Pháp như thời xa xưa còn mồ ma ông Tây. Hỡi ! Hỡi dân làng nhɪu Saigon và các tʆnh khác có muốn nhâm nhi mùi vʈ Phá-lang-sa hãy du lʈch một chuyến đến hai tʆnh biên giới này mà xem. Viʄt kiɾu hồi hương có thʀ thưởng thức các món ăn ở Nam-Vang đʀ hoài niʄm nhͯng ngày sống trên xứ chùa Tháp.
Ấy thế mà hồi còn T͕ng Ngô, nhà báo có đăng bài phóng sͱ loại nɤy và ghi rɮng hàng hóa Trung Cộng và Cao Miên tràn ngɪp các chợ Long-Xuyên, Châu-Đốc, Tân-Châu, Hồng-Ngͱ thì y như rɮng quý vʈ Tʆnh trưởng, Quɪn trưởng sẽ nhảy dͱng lên gởi bài đính chính om sòm. Nhưng nếu ai tò mò vào tư dinh của quý quan sẽ thấy các món ấy đɤy dɦy từ trong tủ đến phòng khách, ra tuốt đɮng nhà sau. Và thân nhân của quý quan ở Saigon tha hồ mà xài các loại hàng « quốc cấm » ấy !
Bên cạnh nhͯng chuyʄn không thʀ buồn cười ấy, giới đồng bào sống nhờ Chợ-Trời đã trúng phải một số vố đáng buồn cười !
Một hôm, một gã khoảng hơn 30 tu͕i, mặt mày sáng sủa, tướng đi khoan thai, mặc thường phục vào yết kiến một ông Quɪn trưởng vùng giáp giới, tͱ xưng là Đại úy An ninh Bộ Quốc phòng phải lên « nɮm vùng » trong 2 tʆnh Châu-Đốc, Long-Xuyên. Anh ta nói năng thế nào không hiʀu mà ông Quɪn trưởng tin thɪt, không hỏi giấy tờ, căn cước, lại hứa sẽ giúp đỡ anh ta khi nào cɤn vɾ công vụ. Thế rồi từ đó anh ta la cà ở quán rượu, nhà hàng với một đám em út chuyên đi làm tiɾn nhͯng người buôn bán hàng lɪu. Anh ta không có gia đình, không có ch͗ ở nhất đʈnh, nay đi chợ nɤy, mai quɪn khác, hoặc bɮng xe nhà binh, hoặc bɮng ghe gɬn máy (hors bord) do các ông Quɪn trưởng cung cấp. Đồng bào thường thấy anh ta trên khán đài dͱ các bu͕i lễ chánh thức trong tʆnh càng tin rɮng anh ta là « tay gộc » ở Trung ương ! Nghe đâu các nhân viên chánh quyɾn có ăn của đút cũng cấp tiɾn cho anh ta xài, g͍i là chia lời với nhau đʀ trám h͍ng anh ta ! Còn nói gì đồng bào sống Chợ-Trời, anh ta bảo gì lại chɰng cải lʈnh ?
Anh ta sống phê phởn như thế đến hơn hai năm mới bʈ cơ quan an ninh Long-Xuyên phát giác, sau khi gởi công văn vɾ Bộ Quốc phòng hỏi. Thì ra anh ta giả sĩ quan đʀ trốn quân dʈch ở Saigon ! Đồng bào thấy anh ta bʈ còng tay, ủ rủ bước theo toán binh sĩ, bấy giờ mới vỡ mộng ra.
Người ta đồn rɮng sở dĩ tên đại bʈp ấy sống lâu như thế là vì hɬn đã điɾu tra được một số t͕ chức buôn lɪu « hạng
cha » dưới thời T͕ng Ngô. Các tay t͕ nɤy làm ăn từng vố lớn, với số vốn rất to trong một hʄ thống hoạt động rất ăn khớp từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên như một bộ máy tinh vi. Món hàng đặc biʄt của các ông lại rất nhỏ vɾ sức nặng cũng như vɾ hình tích. Đó là nhͯng hộp tròn bɮng khu chén làm bɮng thau, bʈt kín, trong đͱng chất đen đen, sɾn sʄt sản xuất từ trên đất Lào xa xôi, lạnh lẽo, được bí mɪt tải xuống Cao-Miên bɮng xe hàng hoặc bɮng máy bay thả dù từng bao bố lớn. Từ nhͯng đʈa điʀm bí mɪt ấy, hàng được cho vào bao nhỏ vừa sức một người mang trên vai đi theo các ngã bí mɪt vượt tuyến sang Viʄt-Nam. Thường thường các ông nhờ tuyến xe đò Nam-Vang – Châu-Đốc giấu trong các hốc, kẹt, thùng hay đáy, hoặc cho xen lɨn vào nhͯng món hàng ở Chợ-Trời Tʈnh-Biên mà « đi » vào tʆnh Châu Đốc. Rồi từ Châu-Đốc vɾ Long-Xuyên, các ông dùng một loại xe đặc biʄt không ai dám ngờ, dám xét mặc dɤu có được mɪt báo trước. Ở Long-Xuyên cũng vɪy, các ông đem vɾ Saigon cũng theo phương pháp ấy, chót l͍t hàng trăm, ngàn lɤn.
Tên Đại úy giả nɬm được đɤu dây, chʆ cɤn nheo mɬt, chìa tay, búng búng hai ngón vài cái là « đương sͱ » biết điɾu ngay. Tức thì trong ngân qu của phɤn hùn bʈ hao đi một phɤn thù lao cho hɬn hàng tháng hoặc từng chuyến một.
Thʆnh thoảng các ông thay đ͕i kế hoạch đʀ làm lạc hướng nhà cɤm quyɾn bɮng cách dùng ghe gɬn máy theo sông Cͭu-Long đến một nơi nào gɤn quốc lộ có xe hơi chờ sɲn. Phương pháp này nghe đâu có mòi « dễ ăn » hơn đi
đường bộ cho nên đến ngày nay hình như có người bɬt chước các bɪc tiɾn bối, dùng « Tɬt-Rán » « chạy » d͍c trên mặt Hɪu-Giang.
Tɬt-Rán là một danh từ mới có vài năm nay ở các tʆnh Kiên Giang, An-Giang, Châu-Đốc, Kiến-Phong. Trên bản đồ Viʄt-Nam, Tɬt-Rán là một con kinh ở tʆnh Kiên Giang, khoảng giͯa Rạch-Sỏi và Cái-Sɬn. Tại đây có một người Viʄt gốc Miên sáng chế một loại ghe nhỏ gɬn máy kiʀu đẹp, chở nhiɾu người, nhẹ nhàng, chạy nhanh, có thʀ dùng làm đò đưa hành khách hoặc chở hàng rất tiʄn. Người sáng chế chʆ đʀ dùng trong gia đình, nhưng sau đó nhiɾu người đặt mua nên làm thêm đʀ bán, gây thành một ngành tiʀu công nghʄ mới mɸ và rất thʈnh vượng. Đồng bào ở các tʆnh lân cɪn đɾu dùng loại ghe này thường ngày, nhất là trong nhͯng tháng nước dâng cao. Tên con kinh Tɬt-Rán được dùng đặt cho chiếc ghe đʀ đánh dấu nơi sản xuất và thành hɰn danh từ đʈa phương.
Từ khi xuất hiʄn Tɬt-Rán, đồng bào trên bờ sông Cͭu Long thʆnh thoảng được chứng kiến nhiɾu cảnh rượt bɬt sôi n͕i và hấp dɨn như trên màn ảnh, giͯa tàu tuɤn Thương Chánh với các tay buôn hàng tɬt ! Ví như ngày 23-10-67, nhân viên chánh quyɾn ở đồn Cá-Hố, ngang cù lao Ông Chưởng, tʆnh An-Giang như được mɪt báo nên phái hai chiếc tàu phục hai bên bờ sông. Lát sau, quả nhiên có một chiếc Tɬt-Rán từ trên hướng Cao-Miên bay xuống. Hai chiếc tàu tuɤn lɪp tức rượt theo vừa kéo còi ra lʈnh ngừng lại. Người đứng trên bờ thấy dưới chiếc Tɬt-Rán chʆ có một người ngồi phía sau cɤm lái, nhưng khi bʈ tàu tuɤn rượt thì một người
nɮm ở giͯa vụt ngồi dɪy thu d͍n các bao hàng. Người cɤm lái vội cho ghe đi sát bờ đʀ đồng b͍n quɰng một bao, còn một bao ôm chặt trong mình phóng lên chạy biến vào xóm. Trɸ con thấy của trời cho, xúm lại chia nhau nhͯng bao thuốc hút hiʄu Ara, dép cao-su và lạp xưởng, toàn là nhͯng loại rɸ tiɾn. Thủ tiêu tang vɪt xong, người lái Tɬt-Rán ngừng lại chờ nhân viên công lͱc đến khám như một công dân lương thiʄn nhất nước Viʄt-Nam. Lẽ cố nhiên các quan chʆ lượm vài món đồ còn sót trên bờ sông và thấy trong chiếc ghe chʆ có m͗i một người lái với bộ quɤn áo mặc trong mình.
Sau đó, vɾ kʀ lʀ công lao với… vợ nhà, tay buôn lɪu tͱ khen mình đã khéo dùng kế « Thoát bào nhượng vʈ » đúng theo Binh thơ của Tôn-Tͭ ! Thà chʈu mất một bao hàng nhỏ đʀ cứu bao hàng to mà tránh được tù tội, phạt vạ, tʈch thu tang vɪt, v.v…
"""