🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chế Độ Quan Lại Triều Lê Sơ (1428-1527) Và Những Giá Trị Tham Khảo Cho Cải Cách Chế Độ Công Vụ, Công Chức Ở Việt Nam Hiện Nay
Ebooks
Nhóm Zalo
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Q. GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
PHẠM CHÍ THÀNH
Chịu trách nhiệm nội dung:
PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP TS. ĐỖ QUANG DŨNG
Biên tập nội dung: ThS. PHẠM THỊ KIM HUẾ TS. HOÀNG MẠNH THẮNG
ThS. HOÀNG THỊ THU HƯỜNG
ThS. HOÀNG NGỌC ĐIỆP
BÙI BỘI THU
Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Đọc sách mẫu:
LÊ THỊ HÀ LAN LÂM THỊ HƯƠNG NGỌC ĐIỆP
VIỆT HÀ
Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 4139-2020/CXBIPH/4-337/CTQG. Số quyết định xuất bản: 5355-QĐ/NXBCTQG, ngày 15/10/2020. Nộp lưu chiểu: tháng 10 năm 2020.
Mã số ISBN: 978-604-57-6099-4.
Biªn môc trªn xuÊt b¶n phÈm
cña Th viÖn Quèc gia ViÖt Nam
NguyÔn ThÞ Thu Hoµ
ChÕ ®é quan l¹i triÒu Lª s¬ (1428 - 1527) vµ nh÷ng gi¸ trÞ tham kh¶o cho c¶i c¸ch chÕ ®é c«ng vô, c«ng chøc ë ViÖt Nam hiÖn nay / NguyÔn ThÞ Thu Hoµ. - H. : ChÝnh trÞ Quèc gia, 2020. - 260tr. ; 21cm
ISBN 9786045754467
1. ChÕ ®é 2. TuyÓn chän 3. Quan l¹i 4. Nhµ Lª 5. 1428-1527 6. ViÖt Nam
352.609597 - dc23
CTM0348p-CIP
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, có nhiều giai đoạn, dưới sự trị vì của các bậc “minh quân”, kinh tế phát triển, xã hội ổn định, với các hoạt động hành chính luôn đạt hiệu quả cao. Thành quả đó có được là nhờ vào nhiều yếu tố, trong đó, phải kể đến vai trò của đội ngũ quan lại - bộ phận hữu cơ của hoạt động quản lý nhà nước. Nhiều triều đại trong giai đoạn thịnh trị đã ý thức được tầm quan trọng của đội ngũ quan lại, sử dụng đội ngũ đó như một công cụ quan trọng để nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý, đưa công tác quản lý nhà nước vào kỷ cương, nền nếp.
Trong lịch sử Việt Nam, triều Lê sơ (1428-1527) là giai đoạn đạt được những thành tựu rực rỡ nhất trong xây dựng và phát triển đất nước - được xem là đỉnh cao của sự phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam. Để có được vị thế đó, triều Lê sơ đã tập trung xây dựng nhà nước quân chủ trung ương tập quyền vững mạnh và thực hiện việc quản lý xã hội bằng pháp luật, gắn việc xây dựng, củng cố thể chế chính trị theo tư tưởng Nho giáo với việc thực hiện chế độ quan lại như một nhiệm vụ trọng tâm. Nhiều chủ trương, biện pháp, thể lệ liên quan đến đào tạo, tuyển chọn, sử dụng, thăng giáng, thưởng phạt, lương bổng... của quan lại đã được các vị vua triều Lê sơ ban hành nhằm đưa hoạt động quản lý
5
đội ngũ quan lại đi vào quy củ, nền nếp và mang lại những kết quả hữu hiệu. Chế độ quan lại triều Lê sơ thật sự đã góp phần tạo nên một trật tự điều hành quy củ, một hệ thống quan lại vững chắc, trở thành “rường cột” của quốc gia, trở thành “khuôn vàng thước ngọc” cho các triều đại sau học theo và làm theo. Những giá trị đó luôn là cơ sở, nền tảng, là bài học quý giá để thế hệ ngày nay rút kinh nghiệm, kế thừa và phát triển.
Nhằm cung cấp thêm tài liệu nghiên cứu, tham khảo về vấn đề nêu trên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Chế độ quan lại triều Lê sơ (1428- 1527) và những giá trị tham khảo cho cải cách chế độ công vụ, công chức ở Việt Nam hiện nay của TS. Nguyễn Thị Thu Hòa.
Cuốn sách hệ thống hóa các vấn đề lý luận về quan lại và chế độ quan lại thời phong kiến ở Việt Nam; luận giải cơ sở hình thành chế độ quan lại triều Lê sơ; tìm hiểu về chế độ tuyển chọn quan lại; tìm hiểu việc sử dụng quan lại (phân công, bố trí công việc, thăng - giáng, khảo thí - khảo khóa, kiểm tra, giám sát, văn hóa hành chính, đạo đức công vụ của quan lại, việc thực hiện chế độ đãi ngộ đối với quan lại)... triều Lê sơ; nhìn nhận, phân tích, đánh giá tình hình thực hiện chế độ quan lại triều Lê sơ trong mối liên hệ chặt chẽ với chế độ công vụ, công chức ngày nay; luận giải và đúc rút những giá trị tham khảo quý báu đối với việc hoàn thiện thể chế quản lý, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu cấp bách của cải cách chế độ công vụ, công chức nói riêng, công cuộc cải cách hành chính nói chung.
6
Đây là vấn đề chưa có nhiều công trình nghiên cứu, tư liệu chưa được đầy đủ, nên trong quá trình biên soạn và biên tập khó tránh khỏi còn hạn chế, thiếu sót. Nhà xuất bản và tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để nội dung cuốn sách được hoàn thiện hơn trong lần xuất bản sau.
Tháng 02 năm 2020
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 7
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ QUAN LẠI THỜI PHONG KIẾN VÀ CƠ SỞ XÂY DỰNG
CHẾ ĐỘ QUAN LẠI TRIỀU LÊ SƠ
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUAN LẠI,
CHẾ ĐỘ QUAN LẠI THỜI PHONG KIẾN
1. Khái niệm quan lại
Cho đến nay khái niệm “quan lại” vẫn còn có nhiều cách giải thích khác nhau trong giới nghiên cứu. Ở nước ngoài, nguồn gốc của từ quan lại là từ “mandarin” trong tiếng Pháp, từ này vay mượn từ từ “mandarim” của người Bồ Đào Nha xuất hiện từ năm 1581. Theo tiếng Bồ Đào Nha, “quan” dùng để chỉ các viên chức đứng đầu các cấp hành chính; các cơ quan chức năng trong bộ máy chính quyền ở Malaysia, Trung Quốc và Việt Nam từ năm 1514. Theo Từ điển lịch sử của ngôn ngữ Pháp, từ mandarim là biến dạng của từ mandar với nghĩa “ra lệnh, tống đạt”, gốc chữ Phạn mantrin qua trung gian tiếng Mã Lai mantari có nghĩa “cố vấn Nhà nước”. Tiếng Phạn xuất phát từ chữ
9
mantra “lời khuyên”, có từ gốc là man: “suy nghĩ”. Gốc này gắn với gốc tiếng Ấn-Âu chỉ sự vận động của tư tưởng, biểu hiện trong tiếng Latinh là mens, từ đó mà có chữ mental. Xuất hiện trong tiếng Pháp với nghĩa “cố vấn của vua, của quan thượng thư ở châu Á”, từ đó có ý nghĩa hiện tại là “viên chức cao cấp” được dùng ở Trung Quốc, Đông Dương hay Triều Tiên từ năm 1604. Còn chữ mandarinat (chế độ quan trường), biến thể của từ trên, ra đời năm 1700, mang hai ý nghĩa: chức trách, chức vụ của người làm quan; bộ máy quan trường1. Như vậy, chỉ những người làm quan chứ không phải tất cả những người làm việc trong bộ máy nhà nước phong kiến đều gọi là quan lại.
Ở Việt Nam, theo Sổ tay từ ngữ lịch sử (quan chế) thì “quan” là những người làm việc trong bộ máy nhà nước phong kiến, thực dân từ cấp trung ương đến cấp địa phương (trấn - tỉnh - phủ - huyện), có phẩm hàm, tước vị, chức sắc, được tuyển bổ chủ yếu bằng đường khoa cử hoặc bảo cử2.
Lại (còn gọi là lại viên, lại sử, lại điển, liêu thuộc, thuộc lại, thư lại, thông lại) là viên chức làm việc trong các cơ quan (nha môn) ở triều đình hoặc các cấp trấn (nếu ở thời Nguyễn là tỉnh), phủ, huyện; có nhiệm vụ thảo giấy tờ, công văn. Lại có thể chuyển thành quan nếu có công lao và thành tích làm việc3.
____________
1. Rey, A (ed): Dictionnaire historique de la langue françcaise, Dictionnaire Le Robert, Vo.2, Paris, 1992, p.1178.
2, 3. Xem Phạm Văn Hảo: Sổ tay từ ngữ lịch sử (mục quan chế), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2008, tr.175, 130.
10
Theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm “quan lại” là do hai thuật ngữ “quan” và “lại” hợp thành. “Quan” là viên chức có quyền hành trong bộ máy nhà nước phong kiến, thực dân1. “Lại” gọi chung là viên chức sơ cấp chuyên làm việc bàn giấy trong bộ máy nhà nước phong kiến2. Cũng trong Từ điển tiếng Việt còn có khái niệm “quan chức” - là người có chức vụ cao trong bộ máy nhà nước của chế độ phong kiến hoặc tư bản.
Theo Từ điển Hán Việt, “quan lại” là chỉ những kẻ cai trị trong nhà nước phong kiến nhưng vẫn có sự phân biệt chủ yếu trong bộ máy hành chính giữa “quan” (viên chức chịu trách nhiệm) với “lại” (kẻ thừa hành).
Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam định nghĩa “quan lại” là những người giữ các chức vụ từ cấp huyện trở lên trong bộ máy nhà nước phong kiến và thuộc địa. Những người điều hành gọi chung là quan; những người thừa hành gọi chung là lại.
Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục (1777) hay Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí (1821) định nghĩa “quan” là chỉ những người có chức có quyền làm việc trong nhà nước phong kiến, là rường cột thực sự của Nhà nước.
Theo Trương Hữu Quýnh, khái niệm quan lại là do hai thuật ngữ “quan” và “lại” hợp thành. “Quan” thời quân chủ phong kiến là khái niệm dùng để chỉ những người giữ
____________
1, 2. Xem Hoàng Phê: Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng, 2000, tr.799, 689.
11
một chức vụ ít nhiều quan trọng của nhà nước, có trách nhiệm quản lý một địa phương hay một hoạt động nhất định, lớn hay nhỏ. Một người làm Tể tướng cũng gọi là quan và một thầy giáo trường công cũng gọi là quan. “Lại” là khái niệm dùng để chỉ các nhân viên phục dịch trong các cơ quan nhà nước, có thể là thư ký, kế toán, giữ sổ sách, thu thuế, chạy giấy, ghi chép...1.
GS.TSKH. Vũ Minh Giang trong cuốn Những đặc trưng cơ bản của bộ máy quản lý đất nước và hệ thống chính trị nước ta trước đổi mới gọi quan lại là quan liêu. “Quan” có nghĩa gốc là một hệ thống cai trị hoàn bị bao gồm các chức vụ và các cơ quan có quyền ra quyết định; “liêu” là bộ phận tham mưu, giúp việc chuyên trách2.
Những khảo sát trên đây cho thấy quan niệm chung của nhiều người đều cho rằng quan là người giữ cương vị chỉ huy, điều khiển công việc, trị dân; còn lại là người thừa hành công việc, giúp quan. Quan do vua tuyển chọn, chỉ định, bổ dụng. Quan là người đứng đầu trong nha môn (hay còn gọi là cơ quan nhà nước phong kiến), là người quản lý, lãnh đạo. Lại là viên chức thừa hành, là nhân viên dưới quyền của quan. Lại do triều đình hoặc do quan lựa chọn, mang tính ổn định để phục vụ cho công việc vận hành bộ máy hành chính nhà nước thời phong kiến (sau ____________
1. Xem Trương Hữu Quýnh: Chế độ ruộng đất và một số vấn đề lịch sử Việt Nam, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2009, tr.17. 2. Vũ Minh Giang: Những đặc trưng cơ bản của bộ máy quản lý đất nước và hệ thống chính trị nước ta trước đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr.68.
12
đây gọi chung là quan lại). Việc phân biệt quan hay lại rất quan trọng, có ý nghĩa trong việc thiết lập cơ chế tổ chức và hoạt động của bộ máy; giới hạn quyền và nghĩa vụ cũng như phạm vi trách nhiệm của các đối tượng này.
2. Khái niệm chế độ quan lại
Chế độ quan lại hay còn gọi là quan chế là một trong những nội dung quan trọng của các triều đại quân chủ trong việc kiến tạo bộ máy nhà nước, xây dựng đường lối, chủ trương, thực hiện các chính sách của vua và triều đình. Sổ tay từ ngữ lịch sử (quan chế) cho rằng: “quan chế là những quy định về cách tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của hệ thống các cơ quan và quan chức từ trung ương đến địa phương của triều đình phong kiến nói chung”1.
Cuốn sách Phương sách dùng người của cha ông ta trong lịch sử của Phan Hữu Dật thì tiếp cận chế độ quan lại dưới góc độ phương thức dùng người. Tác giả cho rằng: “chúng tôi không dùng khái niệm chính sách dùng người vì cho rằng đó là khái niệm tương đối ổn định và rất có thể nó phải được quy định bằng văn bản có tính chất nhà nước, ít biến động trong thời gian và không gian, trong khi lịch sử dân tộc Việt Nam (...) lại diễn biến khá phức tạp”2.
____________
1. Xem Phạm Văn Hảo: Sổ tay từ ngữ lịch sử (quan chế), Sđd, tr.175.
2. Phan Hữu Dật: Phương sách dùng người của cha ông ta trong lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.57.
13
Theo Từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông, “quan chế là chế độ tổ chức quan lại thời phong kiến”1.
Như vậy, chế độ quan lại không chỉ là những quy định pháp lý riêng lẻ đối với quan lại mà còn bao gồm việc xây dựng, vận hành những quy định về đào tạo, tuyển chọn, sử dụng, quản lý, kiểm tra, giám sát, sát hạch, chế độ trách nhiệm chính trị, trách nhiệm đạo đức, chế độ đãi ngộ, xử phạt và khen thưởng đội ngũ quan lại như thế nào. Cụ thể hơn, chế độ quan lại bao gồm một quy trình từ tổ chức đến thực hiện các quy định về đào tạo, tuyển chọn, sử dụng mà các triều đại phong kiến Việt Nam thực hiện nhằm xây dựng một đội ngũ quan lại cho bộ máy hành chính nhà nước (trong sử dụng lại có phân công, bố trí công việc, kiểm tra, giám sát, sát hạch, chế độ trách nhiệm công vụ, đạo đức công vụ, chế độ đãi ngộ, xử phạt và khen thưởng đội ngũ quan lại...). Chế độ quan lại phản ánh trình độ tổ chức, tầm nhìn, sự sáng tạo, canh tân hay bảo thủ, trì trệ của một chế độ với thời đại mà yêu cầu lịch sử, đất nước giai đoạn đương thời đặt ra.
3. Phân loại quan lại
Việc phân loại quan lại không được quy định trong bất kỳ văn bản chính thức nào dưới các triều đại phong kiến ở Việt Nam, nhưng thông qua các sử liệu và cơ cấu tổ chức bộ máy của các triều đại phong kiến qua các thời kỳ, có thể phân loại quan lại như sau:
____________
1. Phan Ngọc Liên: Từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông, Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.342.
14
Thứ nhất, căn cứ vào phạm vi lãnh thổ có thể chia quan lại thành quan lại ở trung ương và quan lại ở địa phương (quan ngoại nhiệm). Quan lại ở trung ương làm việc trong các cơ quan chức năng của triều đình như các bộ, viện, tự... Quan lại ở địa phương là những người làm việc trong các nha môn trong tổ chức chính quyền ở địa phương (cấp trấn - tỉnh - phủ - huyện - châu), hay những nơi được vua biệt phái đến (trung du, miền núi, dinh - trấn không ổn định về chính trị)... Thông thường, những người đỗ đạt cao trong các kỳ thi Hội, thi Đình hoặc các kỳ thi sát hạch khác sẽ được bổ nhiệm để làm quan ở trung ương. Những người đỗ tam trường nhiều khoa kỳ thi Hội sẽ được bổ nhiệm làm quan lại ở địa phương. Quan lại ở trung ương có trách nhiệm quản lý các mặt của đời sống xã hội trong toàn bộ lãnh thổ quốc gia và quản lý các cấp chính quyền ở địa phương. Quan lại ở địa phương chỉ tham gia quản lý nhà nước trong phạm vi địa bàn lãnh thổ của địa phương mình.
Thứ hai, căn cứ vào chuyên môn có thể chia quan lại thành quan văn và quan võ. Quan văn được tuyển chọn chủ yếu từ chế độ đào tạo, thi cử, tuyển dụng (cách tuyển dụng quan lại chủ yếu và phổ biến khi có chế độ khoa cử từ năm 1075 đến năm 1919 thì chấm dứt). Quan võ được tuyển chọn chủ yếu từ các võ quan xông pha, chinh chiến trận mạc, có năng lực về quân sự, quốc phòng. Việc phân loại quan văn và quan võ được thể hiện rõ nhất thông qua định chế quan đại thần - một nhóm các chức quan cao cấp nhất không thể thiếu trong các triều đình phong kiến ở
15
Việt Nam. Tùy vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn, mỗi triều đại mà quan võ hay quan văn được coi trọng hơn. Thường thì cứ vào đầu mỗi triều đại, khi đất nước vừa xảy ra nguy biến, chiến tranh thì quan võ được trọng dụng hơn với trọng trách bảo vệ an ninh quốc gia, giữ vững sự tồn tại của chế độ; khi đất nước thanh bình là lúc cần các quan văn hiến kế thực thi các chính sách về kinh tế - văn hóa - giáo dục để đất nước phát triển phồn thịnh hơn.
Thứ ba, căn cứ vào chức năng có thể chia quan lại thành quan hành pháp và quan tư pháp. Trong nhà nước phong kiến với chính thể quân chủ, về nguyên tắc nhà vua thâu tóm cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; trong đó, coi trọng nhất là quyền lập pháp. Vì lẽ đó, quyền lập pháp sẽ thuộc về vua. Còn quyền hành pháp và tư pháp - với tính đa dạng và phức tạp của nó nên nhà vua không thể trực tiếp thực hiện mà giao cho đội ngũ quan lại thi hành. Quan hành pháp có nghĩa vụ triển khai, thi hành các đạo luật của nhà vua, giữ vai trò quản lý đất nước trên các lĩnh vực bằng các chủ trương, quyết sách của nhà vua. Quan tư pháp có chức năng xét xử các hành vi vi phạm pháp luật và kiểm soát các hoạt động xét xử của các nha môn. Việc phân loại này sẽ giúp cho việc đào tạo, tuyển chọn quan lại theo hướng chuyên môn hóa và đào tạo sát với lĩnh vực hoạt động quản lý của quan lại.
Thứ tư, căn cứ vào địa vị, vai trò của quan lại trong bộ máy sẽ có hai loại quan và lại. Về nguyên tắc, trong nhà nước phong kiến, mọi quyền hành thuộc về vua và người
16
trực tiếp xử lý công việc là đội ngũ quan lại ở các cơ quan chức năng. Quan chịu trách nhiệm trước nhà vua về việc điều hành, thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nha môn mình, còn lại chịu trách nhiệm trước quan và chịu sự phân công nhiệm vụ của quan. Quan và lại đều do triều đình trực tiếp bổ nhiệm hoặc phê chuẩn, sau khi trải qua các thủ tục tuyển chọn do bộ Lại phụ trách.
Tóm lại, có nhiều cách phân loại quan lại trong thời kỳ phong kiến. Việc phân loại quan lại như trên chỉ có ý nghĩa tương đối. Ví dụ, 1 viên quan, thời chiến được trọng dụng với vai trò quan võ, hết chiến tranh được sử dụng với tư cách quan văn; hoặc có viên quan ở bộ Hình lại thực hiện cả hai chức năng quản lý nhà nước là hành pháp và tư pháp (thi hành án, kiểm soát hoạt động xét xử).
4. Vị trí của quan lại trong xã hội phong kiến
Trong trật tự đẳng cấp của xã hội phong kiến: Sự phân tầng vua - quan - dân trở thành một trục quan hệ xã hội chủ đạo; trong đó, vua là người có toàn quyền cai trị thiên hạ, quan được trao sứ mệnh “chăn dắt” dân, là “cha mẹ dân” (dân chi phụ mẫu); còn dân (tứ dân: sĩ - nông - công - thương) là tầng lớp đông đảo trong xã hội, có nghĩa vụ phải đóng góp cho nhà nước để nuôi đội ngũ quan lại. Quan niệm tứ dân là quan niệm thứ bậc các giai cấp chính. Sĩ được xếp là tầng lớp đầu tiên - hàng thứ nhất, trên tất cả mọi tầng lớp khác, được xã hội trọng vọng. Sĩ là tầng lớp trí thức, những người có học, có hiểu biết về chữ nghĩa (thầy đồ, thầy thuốc, quan lại, học trò). Sự trọng
17
dụng nhân tài theo cách kén chọn qua khoa cử đã đưa nho sĩ lên vị trí đầu tiên trong 4 tầng lớp xã hội và đưa quyền uy của người thầy lên hàng thứ hai trong ba quyền lớn nhất (quân, sư, phụ).
Công thức Nho học + Thi cử = Quan trường trở thành kim chỉ nam cho những đấng tu mi nam tử rèn đức, luyện trí. Hướng danh vọng của họ là cố gắng phấn đấu thi đỗ để được triều đình tuyển chọn và bổ nhiệm vào một chức quan nhất định. Khoa cử là con đường trực tiếp và công bằng giúp người tài có thể thay đổi địa vị từ giai cấp bị trị vươn lên giai cấp thống trị. Các nhà khoa bảng là tầng lớp ưu tú có uy tín rất lớn và có ảnh hưởng đặc biệt đối với quần chúng, nắm giữ vai trò là tầng lớp trung gian giữa nhà vua và nhân dân. Người xưa còn quan niệm “một người làm quan cả họ được nhờ”. Ngoài việc có đời sống khá sung túc họ còn được xã hội trọng vọng và trở thành niềm tự hào của cả dòng họ, cả làng, cả tổng... Hơn nữa, được trở thành quan lại, chức dịch, họ hàng và gia đình sẽ tránh được tình trạng o ép, áp bức bởi nạn cường hào ở địa phương. Vì vậy, bất cứ người nào cũng ước muốn tìm cho mình một vị trí nào đó ở chốn quan trường, được gia nhập vào đội ngũ quan lại để trở thành người có chức vụ, quyền hạn nhất định trong bộ máy nhà nước.
Trong bộ máy nhà nước phong kiến, với cách nhìn của Nho giáo, giá trị của mỗi con người trong xã hội được đánh giá trước hết là vị trí của người ấy trong bộ máy quyền lực nhà nước, cụ thể là giữ chức vụ gì, có phẩm trật và tước gì. Quan lại luôn được coi là rường cột vững chắc của quốc gia.
18
Để trị quốc, vua - chúa phải dựa vào quan lại. Từ các vị minh quân cho đến những bậc kỳ sĩ và những người dân bình thường đều nhận thấy quốc gia không thể hưng thịnh nếu không có nhân tài. Muốn có được nhân tài, cha ông ta hiện thực hóa qua chính sách tuyển chọn và sử dụng quan lại của mình. Vào những thời kỳ thịnh trị, đội ngũ quan lại đã có nhiều đóng góp tích cực vào việc củng cố, xây dựng và phát triển quốc gia phong kiến Việt Nam. Đội ngũ quan văn - võ song toàn đã đồng lòng chung sức với triều đình và nhân dân đánh tan nhiều đạo quân xâm lược, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ đất nước, giữ vững nền độc lập dân tộc. Triều Lý có Lý Thường Kiệt đánh bại quân xâm lược Tống; triều Trần có Trần Hưng Đạo và các tướng lĩnh ba lần đánh thắng quân Nguyên - Mông; nhà Lê võ công - văn tài rực rỡ, đạt đến đỉnh cao của sự thịnh trị... Hết chiến tranh, các quan lại đã góp tài sức, trí tuệ để xây dựng, phát triển đất nước; hiến kế phát triển văn hóa - giáo dục, mở rộng giao lưu, buôn bán với nước ngoài, khai hoang, đắp đê, chống lụt, dẫn thủy nhập điền... thúc đẩy kinh tế đất nước.
Tóm lại, thời phong kiến, quan lại là một nghề rất được coi trọng, có một vị trí cao, thể hiện đẳng cấp của một con người. Làm quan - nghĩa là đạt tới thành tựu về nhiều mặt: kiến thức, địa vị, tiền tài, quyền lực, ở một đẳng cấp cao trong xã hội. Dù là quan hay lại thì đa số đều có một cuộc sống hơn hẳn so với người dân vì được nhà nước bảo đảm bằng chế độ lương bổng. Làm quan còn là một vinh dự lớn về tinh thần của bản thân, con cháu, của cả dòng họ
19
và tạo những điều kiện thuận lợi cho con cháu tiếp bước con đường của mình về sau. Sự hơn hẳn về quyền lợi của quan lại là tác nhân quan trọng hình thành tư tưởng địa vị ngôi thứ trong người Việt xưa.
Tư tưởng địa vị ngôi thứ tạo cho con người thời phong kiến một động cơ phấn đấu mạnh mẽ. Đó là sự phấn đấu rất chân chính, trong sáng, mang tính tích cực như gắng công dùi mài kinh sử, lập công ngoài mặt trận, tận tụy với công việc để được thăng bổ... Sự phấn đấu kiên trì này ở nhiều dòng họ, nhiều làng xã trở thành nền nếp, truyền thống, nhờ đó mà xưa kia xuất hiện những gia đình, dòng họ khoa bảng hay có truyền thống võ nghiệp, sản sinh cho đất nước những nhân tài, những vị quan đó đã đem hết tài năng, đức độ phục vụ đất nước. Còn trong làng xã, xuất hiện những lớp người đủ năng lực quản lý được đời sống cộng đồng.
5. Vai trò, chức năng của quan lại trong xã hội phong kiến
- Đối với vua, quan lại là đội ngũ giúp việc, cố vấn với hai chức năng: chức năng giúp vua cai trị và chức năng tư vấn cho nhà vua.
Thực hiện chức năng giúp vua cai trị. Các quan tại triều (trung ương) là những người giúp đỡ nhà vua đảm đương quốc chính; các quan ngoại nhiệm (địa phương: đạo, phủ, huyện, châu...) vâng mệnh thay mặt vua để cai trị nhân dân. Quan lại tùy theo chức, tước, địa vị của mình sẽ giúp nhà vua cai quản một vùng lãnh thổ hoặc một phạm vi
20
lĩnh vực công việc nào đó nhất định. Ở đó, quan lại có quyền thực hiện cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong phạm vi mình quản lý. Quan lại có trách nhiệm báo cáo với triều đình trung ương về việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ cai trị của mình.
Khi làm nhiệm vụ tư vấn, quan lại sẽ tham mưu, đề xuất cho vua những ý kiến về đường lối trị nước. Một số triều đại còn đặt chức quan “can gián đại phu” để can gián nhà vua khi vua đưa ra những chính sách quản lý chưa hợp lý. Khi một vị quan có ý tưởng sáng tạo hoặc muốn tư vấn cho vua một vấn đề nào đó thì vị quan phải trình cho vua bản tấu sớ và giải thích cho vua về nội dung tấu sớ của mình.
Để thực hiện vai trò là tôi trung của vua, quan lại phải trung thành với vua theo tư tưởng “trung quân - ái quốc”. Bên cạnh đó, quan lại phải triệt để tuân thủ và thực hiện mọi mệnh lệnh của vua theo tinh thần “quân xử thần tử, thần bất tử, bất trung”. Quan lại có tài, có đức là chuẩn mực để các quan lại khác tôn kính và thường lấy đó làm gương răn mình; là tấm gương giáo huấn cho con cháu noi theo. Đồng thời, họ cũng là đầu mối thu hút nhân tài, tiến cử nhân tài cho nhà vua. Vì vậy, trong triều đình phong kiến, trên dưới theo nhau giữ đạo, học tập và tu sửa bản thân, làm tròn đạo với vua và đất nước. Quan lại là bề tôi trung thành, phải tận tụy với vua, vì nước thương dân, hết mình vì công việc.
- Đối với dân chúng, quan lại là “dân chi phụ mẫu” - quan lại là cha mẹ của dân. Quan điểm ấy là hạt nhân của
21
“chế độ gia trưởng”. Đứng đầu một nhà là cha. Đứng đầu một nước là vua - tức là cha chung cả nước. Đã là cha chung của một nước thì vua nào cũng nêu cao bổn phận coi dân như con của mình. Vua trao cho các quan những đặc quyền xứng đáng với tư cách “dân chi phụ mẫu”.
Tóm lại, để thực hiện vai trò này, quan lại được đào tạo, giáo dục phải biết lo cho dân, luôn phải sống thanh - liêm, luôn phải giữ lễ giáo, phải thực hiện nếp sống của người quân tử và hành xử theo tư tưởng “chính danh” “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”... Đi liền với quyền lợi được hưởng, quan lại phải tuân thủ và làm tròn nghĩa vụ đối với nhà nước. Quyền lợi đi liền với nghĩa vụ sẽ gắn trách nhiệm của quan lại với nền công vụ. Quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của quan lại cũng là cách thức để triều đình kiểm soát hàng ngũ quan lại. Quan lại không thể ỷ thế mà sao nhãng việc công.
II. CƠ SỞ XÂY DỰNG CHẾ ĐỘ QUAN LẠI TRIỀU LÊ SƠ
1. Tình hình chính trị, kinh tế, xã hội và giáo dục - đào tạo
Hai mươi năm dưới ách đô hộ của nhà Minh, nhiều thành tựu về kinh tế - văn hóa - xã hội mà các vương triều độc lập trước đó gây dựng đã bị phá hủy. Cuộc kháng chiến chống quân Minh do Lê Lợi khởi xướng giành thắng lợi, đã đem lại độc lập cho đất nước. Từ năm 1428, triều Lê sơ bắt tay vào khôi phục kinh tế, xây dựng thể chế, tổ chức
22
bộ máy, tạo nền móng cho sự phát triển rực rỡ của một triều đại kéo dài suốt 100 năm sau đó. Có thể nói, triều Lê sơ là triều đại phát triển nhất, hưng thịnh nhất trong suốt hơn 1.000 năm tồn tại và phát triển thể chế quân chủ ở Việt Nam trên tất cả các mặt của đời sống kinh tế, chính trị, pháp luật, quân sự, văn hóa, xã hội...
1.1. Về chính trị
Sau khi đánh tan quân xâm lược nhà Minh, uy tín và vị thế của triều Lê sơ được nâng lên, nhân dân hết lòng ủng hộ. Các công thần mưu lược ra sức cùng vua Lê khôi phục và phát triển thể chế quân chủ trung ương tập quyền. Triều Lê sơ tồn tại 100 năm trải qua 10 đời vua, với 3 mốc quan trọng:
- Giai đoạn 1428 - 1460 là những năm hậu chiến nên đời sống chính trị cũng như các thiết chế về tổ chức bộ máy chưa thực sự phát triển mạnh.
- Giai đoạn 1460 - 1497 là những năm trị vì của vua Lê Thánh Tông, cũng là thời kỳ cực thịnh nhất trên tất cả các lĩnh vực không chỉ của nhà Lê sơ mà còn của hơn 1.000 năm phong kiến Việt Nam. Bộ Quốc triều hình luật của nhà Lê đã được hoàn thiện trong thời vua Lê Thánh Tông, nên còn được gọi là Bộ luật Hồng Đức. Với bộ luật này, Đại Việt đã hình thành một nhà nước pháp quyền sơ khởi thuộc loại sớm trên thế giới. Lê Thánh Tông đã lấy những quan điểm của Nho giáo làm hệ tư tưởng, chỉ đạo việc biên soạn, ban hành luật pháp, nhằm thể chế hoá các hoạt động của một nhà nước phong kiến, với truyền thống nhân nghĩa, lấy
23
dân làm gốc. Nội dung chính của bộ luật là bảo vệ quyền lợi của vua và hoàng tộc; bảo vệ quyền lợi của quan lại và giai cấp thống trị địa chủ phong kiến. Những quy định về trách nhiệm của hệ thống quan lại và một số nội dung khác nhằm quản lý theo pháp luật, xây dựng nhà nước quân chủ trung ương tập quyền vững mạnh.
- Giai đoạn 1498 - 1527 là giai đoạn nhà Lê sơ rơi vào trạng thái suy vong.
1.2. Về kinh tế
Để nhanh chóng phục hồi và phát triển nông nghiệp, ngay sau chiến tranh, vua Lê Thái Tổ cho 25 vạn lính (trong tổng số 35 vạn) về quê làm ruộng. Nhà Lê sơ kêu gọi dân phiêu tán trở về quê cũ làm ăn, đặt ra một số chức quan chuyên lo về nông nghiệp như Khuyến nông sứ, Hà đê sứ, Đồn điền sứ và định lại chính sách chia ruộng đất công làng xã gọi là phép Quân điền; cấm giết trâu bò bừa bãi, cấm điều động dân phu trong mùa cấy gặt... Triều Lê sơ còn đẩy mạnh việc lập đồn điền và khẩn hoang nhằm khai thác những vùng đất mới. Nhờ những chính sách tích cực, nông nghiệp đã bảo đảm tương đối đời sống nhân dân trong nước.
Triều Lê sơ còn quan tâm đến việc phát triển kinh tế công nghiệp và thương nghiệp. Kinh đô Đông Kinh sầm uất, nhộn nhịp và phát triển với nhiều nghề mới. Các ngành nghề thủ công truyền thống ở các làng xã như kéo tơ, dệt lụa, đan lát, làm nón, đúc đồng, rèn sắt, làm đồ gốm... ngày càng phát triển. Nhiều làng thủ công chuyên
24
nghiệp nổi tiếng ra đời. Các công xưởng do nhà nước quản lý gọi là Cục Bách tác, chuyên sản xuất đồ dùng cho nhà vua, chế tạo vũ khí, đóng thuyền, đúc tiền đồng. Triều đình khuyến khích lập chợ mới, ban hành những điều luật cụ thể quy định việc thành lập chợ và họp chợ. Việc buôn bán với nước ngoài được duy trì. Thuyền bè các nước láng giềng qua lại buôn bán ở một số cửa khẩu như Vân Đồn, Vạn Ninh (Quảng Ninh), Hội Thống (Hà Tĩnh) và một số địa điểm ở Lạng Sơn, Tuyên Quang được kiểm soát chặt chẽ.
1.3. Về xã hội và giáo dục - đào tạo
Trong xã hội, giai cấp nông dân chiếm tuyệt đại đa số và sống chủ yếu ở nông thôn. Họ có rất ít hoặc không có ruộng đất nên phải cày ruộng đất công nộp tô thuế, đi phục dịch cho nhà nước (đi lính, đi phu...) hoặc phải cày cấy ruộng thuê cho địa chủ, quan lại và phải nộp một phần hoa lợi (gọi là tô) cho chủ ruộng. Nông dân là giai cấp bị bóc lột nghèo khổ trong xã hội. Tầng lớp thương nhân, thợ thủ công ngày càng đông hơn. Họ phải nộp thuế cho nhà nước và không được xã hội phong kiến coi trọng. Nô tì là tầng lớp thấp kém nhất trong xã hội bao gồm cả người Việt, người Hoa và một số dân tộc thiểu số khác. Pháp luật nhà Lê sơ hạn chế nghiêm ngặt việc bán mình làm nô tì hoặc bức dân tự do làm nô tì. Nhờ vậy, số lượng nô tì giảm dần. Nhờ chính sách khuyến nông, cuộc sống của nhân dân được ổn định, dân số ngày càng tăng. Nhiều làng mới được thành lập. Các nhà nghiên cứu lịch sử
25
Việt Nam nhận xét rằng Đại Việt thời kỳ này đã trở thành một quốc gia có uy thế trong khu vực Đông Nam Á1. Giáo dục - đào tạo là chính sách được triều Lê sơ rất quan tâm. Ngay sau khi lên ngôi, vua Lê Thái Tổ cho dựng lại Quốc Tử Giám ở Đông Kinh, mở trường học ở các lộ, mở khoa thi Minh kinh và cho phép người nào có học đều được dự thi. Đa số người dân đều có thể đi học, đi thi, trừ những kẻ phạm tội và làm nghề ca hát2. Ở các đạo - phủ có trường công. Nhà nước tuyển chọn người giỏi, có đạo đức để làm thầy giáo. Nội dung học tập, thi cử là sách của nhà Nho. Mặc dù vậy, 30 năm sau khi giành được độc lập, triều Lê sơ vẫn rơi vào tình trạng khủng hoảng “nhân tài”. Do đó, các phương thức tuyển chọn quan lại đã được thực hiện như một biện pháp cấp bách hàng đầu; trong đó, phương thức thi tuyển là phương thức chủ yếu. Những quy chế về học hành dưới triều Lê sơ mở rộng hơn các thời trước, không cấm con em thường dân đi học như thời Lý. Lê Thánh Tông khởi xướng và lần đầu tiên cho lập bia tiến sĩ ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám vào năm 1484. Các đời vua sau này tiếp tục bổ sung thêm các tấm bia vinh danh mới. Cùng với việc xây dựng thiết chế mới, vua Lê Thánh Tông đẩy mạnh phát triển giáo dục, đào tạo nhân tài. Ngoài
____________
1. Xem Hồ Xuân Phương: Tài chính Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, Viện Nghiên cứu tài chính, 2001.
2. Xem Vũ Thị Phụng: Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam (từ nguồn gốc đến trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990, tr. 62.
26
Hàn lâm viện, Quốc sử viện, nhà Thái học, Quốc Tử Giám... là những cơ quan văn hóa, giáo dục lớn, vua Lê Thánh Tông còn cho xây kho bí thư chứa sách, đặc biệt đã sáng lập Hội Tao Đàn bao gồm những nhà văn hóa có tiếng đương thời mà vua Lê Thánh Tông là Tao Đàn chủ soái. Việc thi cử, học tập được tiến hành thường xuyên và có rất nhiều người đỗ đạt, thành danh.
Như vậy, có thể nói, hệ thống quan lại vừa hiền, vừa tài của triều Lê sơ đã được xây dựng trên nền tảng chính trị, kinh tế, xã hội và bối cảnh rất thuận lợi trên. Ngược lại, chính đội ngũ quan lại hiền tài ấy đã trở thành rường cột vững chắc, đóng góp nhiều công sức, đưa triều Lê sơ phát triển đến độ cường thịnh nhất trong 1.000 năm lịch sử nhà nước phong kiến Việt Nam.
2. Yêu cầu cải cách bộ máy chính quyền và đội ngũ quan lại
2.1. Những hạn chế từ đội ngũ quan lại sau chiến tranh
Khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo (có sự đóng góp của nhiều tầng lớp khác nhau) đã đánh đuổi quân xâm lược nhà Minh về nước, giành lại độc lập cho nước Đại Việt, mở ra một thời kỳ mới cho đất nước ta dưới triều Lê sơ. Ngay sau thắng lợi, vua, quan và thần dân cả nước đã bắt tay vào xây dựng kinh tế, củng cố bộ máy hành chính. Mùa xuân năm 1428 - giữa bộn bề công việc của ngày đầu giải phóng, khi chưa bàn đến định công, ban thưởng thành tích kháng chiến, vua còn ở điện tranh bên
27
bến Bồ Đề, quân, dân còn chưa quen với việc viết đúng niên hiệu, quốc hiệu, đô hiệu của thời kỳ mới thì Lê Lợi đã hạ lệnh cho các quan Tư không, Tư đồ, Tư mã, Thiếu úy, Hành khiển bàn định pháp lệnh cai trị quân dân để người làm tướng biết phép trị quân, quan các lộ biết phép trị dân. Mọi công việc đều có cơ quan phụ trách riêng... Danh sách công thần khai quốc lên đến 221 người (chưa kể những người có học ứng nghĩa vào giai đoạn cuối cuộc khởi nghĩa), khi đất nước độc lập, họ trở thành những quan chức đầu tiên của triều đại mới.
Song, những vấn đề đặt ra đối với nhà nước triều Lê sơ không như trước. Kinh nghiệm và tài năng của các tướng quân thời kỳ chiến tranh giải phóng dẫu rất phong phú và quý báu nhưng không còn phù hợp với thế và lực mới của đất nước đương thời. Hơn nữa, đa phần các quan đại thần của triều Lê sơ đều là các võ tướng cầm quân, chưa bao giờ biết đến văn án giấy tờ. Ba mươi năm sau khi Lê Lợi mất, văn hoá của các đại thần trong triều vẫn rất hạn chế - nhà sử học Ngô Sĩ Liên đã viết:“Tể thần như Lê Sũng, Lê Sát thì dốt đặc, không phân biệt lục súc; Chưởng binh như Lê Điên, Lê Luyện thì mù tịt, chẳng hiểu rõ bốn mùa. Người giỏi như Trịnh Khả, Khắc Phục thi vội giết đi, người tài như Nguyễn Mộng Tuân thì ném vào họa hại”1... Đứng trước yêu cầu cấp bách mà thực tế đất nước đặt ra, các vua triều Lê sơ đều nhận thấy: “hiền tài là rường cột của triều
____________
1. Ngô Sĩ Liên và sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2004, t.2, tr.235.
28
đình”, “Nhân tài là nguyên khí của nhà nước, nguyên khí mạnh thì trị đạo mới thịnh; khoa mục là đường chính của các quan, đường chính mở thì chân nho mới nhiều”1. Và vấn đề cốt lõi nằm ở con người, vì trăm quan là nguồn gốc của trị, loạn. Người có đức, có tài nhậm chức thì trị. Người
vô tài, thất đức nắm giữ quyền hành thì loạn. Như vậy, các vương triều trước (Lý - Trần) ra đời sau sự chuyển giao quyền lực, sự kế thừa bộ máy hành chính đã có từ trước, còn triều Lê sơ là vương triều ra đời sau một cuộc khởi nghĩa lâu dài, bộ máy chính quyền và đội ngũ quan lại hoàn toàn phải thiết lập mới. Từ nhu cầu xây dựng hệ thống quan lại mới đến việc bộc lộ những hạn chế trong hệ thống quan lại này sau mấy chục năm vận hành đã đặt ra yêu cầu cấp bách đối với triều Lê sơ là phải cải cách bộ máy, xây dựng đội ngũ quan lại và thực hiện chế độ tuyển chọn, sử dụng hợp lý, quy mô. Đây chính là cơ sở, là nền tảng, là mục tiêu thôi thúc dẫn đến sự thành công của triều Lê sơ trong thực hiện chế độ quan lại.
2.2. Yêu cầu một đội ngũ quan lại cho các vị trí trong bộ máy chính quyền trong cải cách
Hệ thống chính quyền nhà Lê sơ từ trung ương xuống đến địa phương được xếp đặt hoàn bị nhất sau cải cách hành chính của vua Lê Thánh Tông (1460-1497). Lê Thánh Tông ban bố lời dụ Hiệu định quan chế, tiến hành
____________
1. Ngô Sĩ Liên và sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.2, tr.457.
29
cuộc cải cách hành chính, cải tổ lại bộ máy chính quyền trung ương, quy định rõ trách nhiệm của các chức quan, bãi bỏ chức Tể tướng, trực tiếp nắm hết quyền bính vào tay; bãi bỏ các chức quan trung gian, thu gọn đầu mối, trực tiếp nắm bắt thông tin và điều hành hoạt động quản lý từ trung ương xuống đến tận các địa phương thông qua Lục bộ. Lục bộ có các cơ quan giúp việc là Lục tự, các cơ quan giám sát là Lục khoa. Hệ thống các cơ quan văn phòng, giúp việc được quy định rõ chức năng, nhiệm vụ. Ở địa phương, vua Lê Thánh Tông chia nhỏ các đơn vị thành 13 đạo thừa tuyên, phân định rõ chức trách và nhiệm vụ của các cấp chính quyền địa phương này. Có thể nói, bộ máy hành chính thời Lê Thánh Tông là bộ máy điều hành có cơ cấu hoàn chỉnh hơn tất cả các bộ máy điều hành của các triều đại trước đó. Chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ hỗ trợ, giám sát lẫn nhau giữa các bộ phận trong bộ máy nhà nước được phân định tương đối rõ ràng, không có hiện tượng chồng chéo lẫn nhau; gọn nhẹ nhưng hoạt động có hiệu quả cao và thật sự trở thành “khuôn vàng, thước ngọc” để các triều đại sau đó học theo, làm theo. Để có được đội ngũ quan lại đáp ứng yêu cầu cải cách bộ máy đó, buộc triều Lê sơ phải thực hiện các chế độ tuyển chọn và sử dụng quan lại như một biện pháp cấp bách.
3. Kế thừa thành tựu của các triều đại trước
Trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú và một số ghi chép khác của các sử gia thời phong kiến có ghi “đặt quan chức, cách đối đãi bề tôi, dùng người làm quan,
30
việc cũ của các triều đại thế nào, chép ra từng điều, chia rõ từng mục”. Theo Lịch triều hiến chương loại chí, “từ Đinh về sau cho đến Lý - Trần, tên các quan đặt ra mới biết được đại khái”, thời Trần “các chức trong ngoài lớn nhỏ đều có thống thuộc. Về danh hiệu các quan có phần hay hơn đời Lý, nhưng về chức sự diên cách thì đại lược cũng có tham chước theo trước. Trong khoảng 160 năm, duy trì được chính trị giáo hóa, kể cũng là chế độ hay của một đời”, “đến đời Lê, quy chế dựng đặt mới rõ ràng”, “chức vụ chuyên giữ của các ty từ đời Hồng Đức sửa định về sau, thể thống nối nhau thành phép nhất định, vì phàm công việc quan trọng thì quy về cả sáu bộ mà sáu khoa thì xét bác, sáu tự thì thừa hành, cả trăm quan đều tuân giữ chức vụ, phép tắc nghiêm minh. Những kẻ cận thần được chuộng và kẻ thân thích có quyền chưa từng được trộm phép lộng quyền, thực là chế độ hay của một đời”. Nhưng từ thời Lê Trung Hưng trở về sau chính quyền thuộc về nhà chúa... lại đặt quan lại ở sáu phiên, thì chính sự của các bộ bị lấn cướp mất hết, đến cả các bực ở khoa, ở tự cũng chỉ là những chức hàm hư không và nhàn tản. Tuy phẩm thì còn theo cũ, nhưng danh hiệu quy chế rối lẫn, thể thống lộn xộn, không phải như giường mối của triều đình ở buổi quốc sơ nữa1. Như vậy, theo Phan Huy Chú thì chỉ ở thời Lê sơ, việc sắp đặt quan lại mới quy củ, nền nếp.
____________
1. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí (Quan chức chí - Lễ nghi chí), Nxb. Sử học, Hà Nội, 1961, t. II.
31
Trong tuyển chọn, thời nhà Lý mới đặt quan trường (nhưng suốt 216 năm chỉ tổ chức được 7 kỳ thi), đường làm quan chủ yếu lấy tuyển cử làm trọng, rồi đến nhiệm tử (dùng con các quan), sau nữa mới đến nộp tiền. Người nộp tiền, bắt đầu bổ làm lại, nộp lần hai được bổ làm thừa tín, làm việc xứng chức thì bổ tri châu. Đến thời Trần, khoa cử tiến hành thường xuyên hơn, nhưng khi bổ dụng cũng không bắt buộc phải có khoa cử, các chức ở sảnh, viện, quán, cục đều dùng những nho sĩ hay chữ hoặc dùng học sinh vào trung thư sảnh, hoặc dùng người bình dân lên làm mật viện - làm việc ở địa vị cao quý không câu nệ ở tư cách. Làm quan ở lâu một chức, có người xuất thân ở quán các mười năm, có người xuất thân ở sảnh viện mười lăm năm. Nhận xét về cách dùng người của triều Trần, Phan Huy Chú viết: Triều Trần dùng người thật công bằng. Tuy đã đặt khoa mục mà trong việc kén dùng chỉ cốt tài là được, cho nên những nho sĩ có chí thường được trổ tài của mình, không đến nỗi bị bó buộc hạn chế vì tư cách (...) chỉ cần người dùng được, chứ không câu nệ đường xuất thân1. Đến triều Lê, thi cử chọn được rất nhiều người, bấy giờ quan trong ở đài viện và quan ngoài ở địa phương, đều dùng người đỗ tiến sĩ. Còn giám sinh, nho sinh có trúng trường chỉ bổ các chức phủ huyện2.
Trong đãi ngộ, ở triều Lý, các quan lại đều không có lương bổng. Quan trong thì bất thần vua ban thưởng cho,
____________
1, 2. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí (Quan chức chí - Lễ nghi chí), Nxb. Sử học, Hà Nội, 1961, t. II.
32
quan ngoài thì giao cho dân một vùng để đặt người thuộc liêu thu thuế ruộng đất, hồ ao đánh vào dân cày để thu hoa lợi. Đến thời vua Trần Thái Tông bắt đầu định lệ cấp bổng cho các quan văn võ trong ngoài và các quan ở điện lăng miếu, chi tiền thuế ra và theo thứ bậc để ban cấp. Phan Huy Chú nhận xét: “Lệ bổng lộc buổi đầu nhà Trần, cấp bậc chưa tường, nói là theo thứ lớp ban cấp, quy chế cũng không khảo được. Có lẽ lấy ở thuế công, định làm lệ thường, cũng như ngụ lộc ở đời gần đây chăng?”1. Đến triều Lê, nhất là thời vua Lê Thánh Tông trở về sau, việc định bổng lộc có quy chế phân biệt nhiều việc, ít việc, cân nhắc công lao và tài năng để định bổng lộc. Việc phong cấp ruộng đất là chế độ đãi ngộ được các triều đại quan tâm. Nếu như các vương hầu, quý tộc nhà Trần được mở phủ đệ và trang trại riêng, khi có lễ vào chầu thì mới tới kinh, xong việc lại lui về phủ đệ của mình, thì đến thời Lê sơ, các quan được cấp đất làm nhà và định lệ cấp theo thứ bậc. Các chế độ đãi ngộ khác như cơ hội thăng tiến, chế độ thưởng phạt, chế độ hưu trí cũng được ghi chép như sau: “lệ về hưu triều Trần đã có rồi, nhưng thể cách không biết rõ được. Đến triều Lê sơ mới định hạn tuổi”2.
Như vậy, chế độ tuyển chọn, sử dụng quan lại không phải là sản phẩm do triều Lê sơ đặt ra mà là sự kế thừa từ các triều đại trước đó trong lịch sử. Song có thể khẳng định, đến triều Lê sơ các quy định về tuyển chọn, sử dụng
____________
1, 2. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí (Quan chức chí - Lễ nghi chí), Sđd, t.II, tr.71, 82.
33
quan lại rất rõ ràng, chặt chẽ, có nhiều điểm mới rất riêng và độc đáo. Việc thực hiện chế độ quan lại của triều Lê sơ được đánh giá là đạt đến mức hoàn chỉnh, trở thành chế độ của nhà nước mà các triều đại trước đó chưa làm được và các triều đại sau luôn bảo lưu, gìn giữ, phát huy.
4. Nền tảng tư tưởng văn hóa và tiêu chí xây dựng hệ thống quan lại
4.1. Nền tảng tư tưởng văn hóa
Giáo lý Phật giáo với tư tưởng từ bi, độ lượng, hành thiện trừ ác rất phù hợp với tính cách và văn hóa người Việt yêu hòa bình, ghét chiến tranh, sống chan hòa, nhân hậu, đoàn kết tương thân, tương ái. Chính vì thế, trải qua hàng trăm năm dưới các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Phật giáo đã trở thành nền tảng tư tưởng ăn sâu trong tâm thức và văn hóa của người Việt với một niềm tin sâu sắc. Hạn chế lớn nhất của Phật giáo là ở giáo lý dung tâm, chủ quan, thần bí đã khiến con người không hướng vào hiện thực để tìm ra sự giải đáp cho hiện thực, mà hướng vào nghiệp, vào quả báo, vào thần linh để mong được sự phù hộ. Đến giữa thế kỷ XIV, trước những vấn đề mới của lịch sử, đặc biệt là các vấn đề chính trị, xã hội phức tạp, Phật giáo tỏ ra kém hiệu quả và bất lực, Phật giáo trở thành nơi để con người trốn tránh hiện thực, tìm một nơi yên ổn sống qua ngày. Từ đó đạo Phật sa sút dần để nhường địa vị thống trị về mặt ý thức hệ cho Nho giáo. Nho giáo bao gồm các quan niệm về triết học, luân lý, xã hội, là một học thuyết chính trị. Nhờ học thuyết ấy, nhiều
34
triều đại phong kiến của Trung Quốc quản lý xã hội rất hiệu quả. Du nhập vào Việt Nam, Nho giáo đã dần dần chiếm được vị trí quan trọng. Nếu triều Lý - Trần xây dựng đường lối và phương thức cai trị là đức trị và pháp trị, thì triều Lê sơ lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng chính để xây dựng các thể chế chính trị và luật pháp, đường lối và phương thức cai trị là ngoại Nho, nội Pháp (bên ngoài thì hướng con người sống theo những giáo lý Nho giáo, thực chất bên trong nhà nước sử dụng pháp luật để quản lý). Do đó, người làm quan trước hết phải tu thân theo nguyên tắc Nho giáo (tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ). Muốn tu thân, trước hết người quân tử phải thực hiện theo nguyên tắc Nho giáo - nguyên tắc của tam cương (vua tôi, cha con, vợ chồng), nguyên tắc ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Nếu nhà nước thời Lý - Trần là nhà nước quân chủ phong kiến quý tộc thì nhà nước thời Lê sơ lại là nhà nước quân chủ chuyên chế quan liêu. Đặc điểm của nhà nước quân chủ chuyên chế quan liêu là: Thứ nhất, quan lại xuất thân từ tầng lớp trí thức, mà cụ thể là Nho sĩ, được giáo dục, học hành bài bản theo giáo lý Nho học, được tuyển chọn và sử dụng theo quy trình. Thứ hai, việc bố trí sắp xếp, bổ nhiệm quan lại dựa trên tiêu chuẩn tài năng, việc thiết kế xây dựng tổ chức bộ máy được kiện toàn theo xu hướng tập trung quyền lực. Xuất thân từ tầng lớp Nho học, thấm nhuần giáo lý Khổng - Mạnh, các vua Lê cũng như bộ phận quan liêu Nho học mới hình thành lúc bấy giờ sục sôi nhiệt huyết thay đổi bộ máy chính quyền, tích cực đóng góp cho triều đình. Đặc biệt,
35
trong các triều đại phong kiến, pháp luật trở thành công cụ đắc lực bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền, bảo vệ địa vị của vua và tầng lớp thống trị, là công cụ để duy trì trật tự, kỷ cương và xã hội. Do đó, việc sử dụng pháp luật trong đời sống chính trị của triều Lê sơ cũng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tư tưởng Nho giáo đương thời.
4.2. Tiêu chí xây dựng hệ thống quan lại của triều Lê sơ
Mục đích lớn nhất của giáo dục Nho học là tạo ra những con người hiền tài, đức độ, có lòng trung quân, giúp vua trị nước theo con đường đức trị, nhân trị. Để có được một quốc gia thái bình thịnh vượng, lý tưởng thì cần phải có thật nhiều người hiền tài phò giúp nhà vua thực hiện công cuộc cai trị và giáo hóa dân chúng. Người hiền tài được Nho giáo quan niệm chính là người am hiểu về đạo lý Nho giáo và có đức độ theo các chuẩn mực. Khổng Tử đã xây dựng mẫu nhân tài điển hình là người quân tử. Quân tử là người có đức nhân ở địa vị thống trị, hành xử đúng lễ, theo đạo trung dung, không thái quá, không bất cập. Người quân tử dùng cái đức của mình để cai trị dân chúng. Bậc quân tử làm việc cho đời, không có việc gì mà người cố ý làm, không có việc gì mà người cố ý bỏ, hễ hợp nghĩa thì làm. Giáo dục Nho giáo đi theo các bước cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ... là nhằm mục đích đào tạo những người tài đức hội đủ các đức nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Ở nhà có thể cai quản gia đình, dòng tộc, ra ngoài có khả năng giúp vua
36
trị nước, thực hiện lý tưởng chính trị vua sáng, tôi hiền, con dân thuần hậu, đất nước thái bình.
Dưới triều Lê sơ, những tiêu chuẩn đó đã được cụ thể hóa với những tố chất cơ bản như khả năng tham chính, trung thành và thanh liêm như sau:
Thứ nhất, quan lại phải có trình độ học vấn. Trình độ học vấn (trước, trong và cả sau khi thi) thể hiện ở việc am hiểu giáo lý Nho giáo trong Tứ thư, Ngũ kinh; ở tài năng thơ phú, đối đáp, soạn thảo các loại văn bản hành chính như chiếu, chế, biểu...; ở việc có kiến thức cai trị theo tư tưởng Nho giáo, hiểu biết về các vấn đề tư tưởng và những vấn đề chính trị - xã hội quan trọng nhất của đất nước. Ngoài ra, trình độ học vấn của quan lại còn là sự thông hiểu pháp luật mới có thể thực hiện đầy đủ, đúng chức trách, nhiệm vụ quản lý mà nhà nước giao cho họ. Quan lại phải có năng lực chuyển tải pháp luật vào cuộc sống. Họ phải biết giảng dạy cho dân hiểu biết pháp luật để dân tự nguyện tuân theo pháp luật.
Các triều đại phong kiến - nhất là từ triều Lê sơ, đặt ra những quy định nghiêm ngặt, đòi hỏi cao về học vấn và chủ trương lấy trình độ học vấn làm cơ sở để tuyển chọn quan lại. Vì vậy, người làm quan phải được đào tạo cơ bản, học hành đầy đủ thông qua giáo dục và thi cử Nho học để từng bước tri thức hoá, văn hoá hoá đội ngũ quan lại. Sau khi thi cử, họ sẽ được bổ nhiệm vào các chức vụ tương xứng với trình độ của mình. Sử gia Phan Huy Chú cho rằng kẻ sỹ có văn học (khoa cử) thì được bổ làm quan ở các quán các (các cơ quan trọng yếu của triều đình); người giỏi
37
việc giấy tờ, sổ sách thì bổ làm thuộc lại ở các ty. Khi được bổ làm quan, quan lại luôn phải tự bổ sung kiến thức, hiểu biết xã hội, cập nhật những quy định mới của pháp luật của triều đình trung ương.
Thứ hai, quan lại phải có đạo đức, tư cách.
Ngay từ buổi đầu đến học thầy, học trò đã phải học các giáo lý Nho giáo và suốt cuộc đời đi học, cả khi đã ra trường, thành đạt vẫn phải tu luyện, rèn giũa để sống theo các nguyên tắc đạo đức đó. Trước khi thi, sĩ tử phải được bảo đảm là người có đạo đức. Tất cả những người đi thi đều phải trải qua thể lệ bảo kết và thi khảo hạch, tức là phải đủ tư cách. Tư cách đây chính là tài và đức. Chính vì vậy mà những người nào không đi thi muốn được bảo cử ra làm quan đều phải là những người có tài có đức. Khi đã ra làm quan, đạo đức của quan lại trước hết thể hiện ở tấm lòng tận trung với vua và triều đình. Theo tư tưởng chính trị của Nho giáo, là bề tôi, quan lại phải tận trung với vua, tận trung với triều đình trong mối quan hệ hàng đầu là “vua - tôi”: Đạo đức của quan lại thể hiện ở sự tận tụy với công việc được giao; thể hiện ở nỗ lực trở thành tấm gương sáng về đạo đức cho nhân dân noi theo; thể hiện ở tấm lòng thương dân, biết lo cho dân; thể hiện ở sự liêm khiết, công bằng; ở việc biết tránh xa thói xu nịnh, nói bừa hoặc kiêu căng, thiếu nhân cách; hành vi lợi dụng chức vụ của mình để mưu lợi ích riêng. Quan thanh liêm sẽ bảo đảm cho bộ máy nhà nước luôn trong sạch. Có thể nói, các chuẩn mực đạo đức Nho giáo đã trở thành khuôn vàng thước ngọc cho việc đánh giá đạo đức quan lại triều Lê sơ...
38
Thứ ba, quan lại phải có năng lực làm việc (trong thời gian tập sự làm quan và trong quá trình làm quan). Ngoài việc có kiến thức, quan lại cần phải có kỹ năng và kinh nghiệm nhất định để vận dụng pháp luật cho đúng. Đồng thời, họ phải tuân thủ chặt chẽ những thể chế, những quy định của pháp luật thì mới bảo đảm cho pháp luật có giá trị tối cao trong hoạt động của nhà nước. Điều đó sẽ ngăn chặn được sự lạm quyền, sử dụng quyền lực một cách tuỳ tiện ở các cấp chính quyền, nhằm làm trong sạch, vững mạnh bộ máy nhà nước.
Lại viên phải biết viết chữ, làm toán, hình luật... Đây là những yêu cầu căn bản mà quan lại thời phong kiến phải có. Họ phải có kỹ năng soạn thảo văn bản, chiếu, biểu (viết chữ), phải biết tính toán để thu thuế ruộng, kiểm kê dân đinh (làm toán); phải biết pháp luật để xét xử các vụ kiện tụng (hình luật).
Như vậy, tài - đức là tiêu chí, là tiêu chuẩn quan trọng hàng đầu để các nhà nước phong kiến xây dựng đội ngũ quan lại. Đặc biệt là triều Lê sơ - vương triều lần đầu tiên (từ cải cách hành chính của vua Lê Thánh Tông) lấy tư tưởng Nho giáo làm nền tảng cho việc xây dựng thể chế chính trị, xây dựng đường lối và phương thức cai trị ngoại Nho - nội pháp, thực hiện việc tuyển chọn và sử dụng quan lại đem lại hiệu quả cao.
5. Tiếp thu có sáng tạo từ các chế độ quan lại triều Minh, Trung Quốc (1368-1644)
Có nhiều ý kiến cho rằng chính quyền triều Lê là kết quả 39
của quá trình tiếp nhận sáng tạo có sàng lọc, gọt đẽo từ mô hình bộ máy Trung Hoa, thích dụng với điều kiện thực tế của Việt Nam1. Do đó, bộ máy chính quyền triều Lê sơ lấy từ khuôn mẫu của nhà Minh. Ví dụ 13 đạo thừa tuyên của triều Lê sơ gần giống với cấu trúc và số lượng 13 tỉnh của Trung Quốc đương thời. Hoàng đế nhà Minh hay các vua triều Lê sơ đều tổ chức các phương thức tuyển chọn quan lại; đều tăng cường phong tước và ban cấp đất đai cho con cháu trong hoàng tộc, công thần thân tín để làm chỗ dựa cho triều đình...
Song, từ bộ máy đến chế độ quan lại triều Lê sơ cũng có những điểm sáng tạo riêng như sau:
Thứ nhất, dù mô phỏng bộ máy chính quyền triều Minh nhưng cho đến sau cải cách của vua Lê Thánh Tông thì bộ máy chính quyền triều Lê sơ gọn nhẹ hơn rất nhiều và một số chức quan do nhà Lê sơ sáng tạo hoàn toàn. Các cơ quan hành chính trung ương của nhà Minh được đặt tại hai nơi là Bắc Kinh và Nam Kinh. Nhiều cơ quan trực thuộc như viện, sở, vệ, cục, ty... của nhà Minh không có trong bộ máy triều Lê sơ. Một số cơ quan quan trọng của nhà Minh đều đặt hai viên tả, hữu (ví dụ tả đô ngự sử và hữu đô ngự sử, tả tham chính và hữu tham chính...) trong khi triều Lê sơ chỉ đặt một chức. Năm 1380 nhà Minh đặt Đô sát viện quản lý Lục khoa ở trung ương và hình thành đơn vị hành chính cấp tỉnh, nhưng triều Lê sơ phải một
____________
1. Xem Phạm Đức Anh: “Biến đổi của mô hình tổ chức nhà nước ở Việt Nam (thế kỷ X-XIX)”, Luận án tiến sĩ Lịch sử, 2014, tr. 84.
40
thế kỷ sau mới đặt Lục khoa và vẫn sử dụng tên gọi Đạo thừa tuyên cho hành chính địa phương. Lục bộ triều Minh được tổ chức thành hai loại: với các bộ ít phải làm việc trực tiếp với địa phương như Lại, Lễ, Binh, Công thì nhà Minh chỉ tổ chức các cơ quan này ở trung ương; các bộ thường trực ở trung ương (Bộ Hộ, Hình) với các cơ quan Thanh lại ty còn phải trực tiếp đặt tại mỗi tỉnh. Các quan ở tỉnh chịu sự chỉ đạo trực tiếp của các bộ ở triều đình. Ở cấp tỉnh, Trung Quốc lúc đó đặt Thừa tuyên Bố chính sứ ty, Đô chỉ huy sứ ty, Đề hình án sát sứ ty, trong khi ở Việt Nam chỉ gọi ngắn gọn là Đô ty, Thừa ty, Hiến ty. Một số chức quan hoàn toàn do triều Lê sơ sáng tạo ví dụ như các chức quan phụ trách lăng tẩm (lăng quan), các chức quan coi ngục (ngục thừa), các chức quan làm ở sở đồn điền, sở tầm tang (dâu tằm), lúa gạo, phục vụ đê điều (hà đê sứ), cục bách tác...
Thứ hai, chế độ quan lại của triều Lê sơ cũng mô phỏng chế độ quan lại triều Minh song cũng có những điểm khác biệt sau: triều Lê sơ có ít chức quan cực phẩm hơn so với nhà Minh (chánh, tòng nhất phẩm), trong khi đó các chức quan bát, cửu phẩm lại nhiều hơn. Việc khác biệt đó thể hiện ý tưởng của triều Lê sơ là muốn xây dựng bộ máy gọn nhẹ hơn, hiệu quả hơn; coi trọng đội ngũ quan lại cấp thấp - những người thừa hành trực tiếp công việc cụ thể (Xem phụ lục 1). Trong khi đó lại giảm số lượng quan đại thần nhằm giảm gánh nặng ngân sách chi trả lương bổng, giảm những ưu đãi tinh thần khác. Các phương thức tuyển chọn, sử dụng quan lại cũng có những
41
điểm riêng độc đáo. Ngoài ra, hệ thống phẩm hàm nhà Minh chủ yếu dành cho các quan ngạch văn, còn ngạch võ quan chỉ đặt tới lục phẩm. Còn triều Lê sơ, quan chế định phẩm trật cho tất cả các quan văn - võ. Rõ ràng, bên cạnh bộ máy hành chính thì quân đội cũng được triều Lê sơ chú trọng.
42
Chương 2
CHẾ ĐỘ QUAN LẠI TRIỀU LÊ SƠ (1428-1527)
Trong suốt gần 100 năm tồn tại và phát triển, triều Lê sơ đã từng bước đề ra quy chế, thể lệ, trở thành một chế độ quy củ, nền nếp và đầy tính khoa học từ khâu đào tạo, bồi dưỡng cho đến khâu tuyển chọn, sử dụng để xây dựng một đội ngũ quan lại hùng mạnh. Trong phạm vi cuốn sách, xin được đề cập tới khâu tuyển chọn và sử dụng quan lại của triều Lê sơ.
I. CHẾ ĐỘ TUYỂN CHỌN QUAN LẠI TRIỀU LÊ SƠ
1. Chế độ nhiệm tử (tập ấm)
Nhiệm tử (hay còn gọi là tập ấm) là hình thức tuyển chọn quan lại xuất hiện sớm nhất ở nước ta, trở thành một tập quán chính trị theo kiểu "con vua thì lại làm vua". Ấm là phúc đức, ân huệ của cha ông để lại1. “Tập ấm là việc gia ân của vua đối với con cháu của quan lại có công tích, sau khi chết tùy vào chức tước, phẩm trật của cha ông mà
____________
1. Xem Hoàng Phê: Từ điển tiếng Việt, Sđd, tr.17.
43
được cấp bằng ấm sinh, ấm thụ, ấm tôn để đào tạo làm quan, thường là có kỳ hạn”1. Theo lệ này, con cháu nhờ vào ân trạch của cha ông mà được tuyển bổ vào một chức quan nào đó. Trường hợp không có con trai thì được phép nhận nuôi một người thân thích trong họ để cho hưởng tập ấm. Ví dụ, năm 1478, nhà Lê định lệ bổ dụng con cháu quan viên. Phàm cháu trưởng các tước công, hầu, bá, tử, nam và con trưởng quan văn võ nhị tam phẩm thì bổ làm tản quan từ ngũ lục thất bát phẩm. Hoặc có người ít tuổi chăm học thì tuyển vào sùng văn quán, Lại bộ chọn bổ làm các chức điển nghĩa tư huấn.
Chế độ tuyển chọn này không chỉ kịp thời khắc phục tình trạng thiếu hụt tạm thời đội ngũ quan lại, nhất là sau khi đất nước trải qua cuộc chiến tranh khốc liệt, chưa đủ điều kiện để đào tạo quan lại quy củ mà còn có những ưu điểm sau:
Thứ nhất, những gia đình quan lại thường là những gia đình có điều kiện kinh tế khá giả hơn dân thường. Họ có điều kiện mời thầy giỏi về tư gia hoặc cho con học ở trường tư có thầy nổi tiếng, ở trường công của Nhà nước (Trường Quốc Tử Giám), được học cùng con cháu hoàng tộc và các Nho sinh xuất sắc.
Thứ hai, là con cháu quan lại, từ nhỏ họ đã được làm quen với môi trường nha môn, lớn lên được phép đến công đường phụ giúp cha, ông trong việc cai trị. Qua đó
____________
1. Phạm Văn Hảo: Sổ tay từ ngữ lịch sử (mục quan chế), Sđd, tr.204.
44
họ học được kỹ năng hành chính, quy tắc cai trị và tích cóp kinh nghiệm.
Thứ ba, hầu hết con cháu quan lại đương triều thường là con cháu của những tôi trung, các năng thần, lương tướng có đóng góp lớn cho triều đình. Nếu được hưởng tập ấm như một hình thức “thưởng công, tri ân” họ sẽ vì danh dự, vì truyền thống gia đình, vì quyền lợi của gia tộc mà hết lòng cống hiến, cố gắng và vươn lên. Phần nhiều người tập ấm sẽ được tạo điều kiện rèn luyện, phấn đấu trở thành một vị quan tốt, làm rạng danh tổ tiên, dòng tộc; trở thành tấm gương cho con cháu, tạo ra nền nếp giáo dục khuôn mẫu trong gia đình theo tinh thần “tiên trị kỳ gia, hậu trị kỳ quốc”1.
Hạn chế lớn nhất của chế độ tập ấm là một số người làm quan không trải qua các kỳ thi hay sát hạch, chưa được đào tạo, trang bị kiến thức, kỹ năng cơ bản, năng lực chưa được kiểm chứng,... nên dễ tha hóa, biến chất, biến con đường hoạn lộ trở thành phương tiện để tư lợi. Sử gia Phan Huy Chú nhận xét rằng: “Phép nhiệm tử thì thực chẳng ra làm sao. Chỉ lấy tư cách con quan mà được hơn tư cách người thường. Những công tử sang trọng chơi bời thường không có thực tài mà được lạm tuyển, thì phép chọn tài bổ quan không khỏi bị hỏng vì thiên tư; đó là phép tuyển bổ không được tốt vậy”2.
____________
1. Trước phải xây dựng gia đình, sau mới xây dựng được đất nước. 2. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí (Quan chức chí - Lễ nghi chí), Sđd, t.II, tr.93.
45
Để phát huy mặt tích cực và hạn chế tối đa các tiêu cực của chế độ tập ấm này, pháp luật triều Lê sơ có nhiều quy định chặt chẽ về điều kiện, thủ tục tập ấm làm quan. Điều 50, Chương Vi chế, Quốc triều hình luật quy định việc các quan sảnh, viện phê cho tập ấm, bổ tước mà chiếu thứ tự con trưởng, con thứ không đúng thì sẽ bị xử tội đồ hay tội lưu; Điều 118 quy định về việc quan lại mượn cháu người khác làm cháu mình để được ấm; Điều 14 Chương Trá ngụy quy định về việc giả mạo tập ấm của người khác để được làm quan thì sẽ bị xử tội đồ và phạt tiền 50 quan1. Ngoài ra, triều Lê sơ còn đưa ra những quy định thể lệ ấm sung. Ấm sung là hình thức ban chức trước cho con cháu quan lại, công thần có công trong triều đình hoặc được hưởng một số quyền lợi nào đó (được làm ấm sinh - con quan sau khi sát hạch được vào học ở Quốc Tử Giám)2. Cứ 3 năm một lần, các viên Tư huấn (thầy dạy học ở đây) phải tâu bày một cách đầy đủ về tư cách, phẩm hạnh, học vấn của các học sinh kể trên rồi chuyển sang Bộ Lễ để thi khảo. Ai trúng tuyển cho vào các chức trong ngạch quan văn. Tiêu chuẩn để tuyển cũng rất cụ thể “học sinh ba xá ở Quốc Tử Giám, 30 tuổi trở lên, bản quan mới được bảo cử để cất dùng...”3.
____________
1. Xem Quốc triều hình luật, Nxb. Pháp lý, Hà Nội, 1991, tr.190. 2. Phạm Văn Hảo: Sổ tay từ ngữ lịch sử (quan chế), Sđd, t.II, tr.18. 3. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí (Quan chức chí - Lễ nghi chí), Sđd, t.II, tr.90.
46
Như vậy, chế độ tuyển chọn nhiệm tử (tập ấm) triều Lê sơ một mặt bổ sung đội ngũ quan lại còn thiếu sau chiến tranh; mặt khác phản ánh sự ghi nhận công trạng của đội ngũ quan lại với triều đình Lê sơ theo tinh thần "trọng thị công thần". Đồng thời, để bảo đảm tính pháp chế và mục đích của chế độ tập ấm, pháp luật xử lý nghiêm hành vi tùy tiện, trái luật. Vì lẽ đó mà chế độ tập ấm triều Lê sơ đã phát huy được những ưu điểm, góp phần hỗ trợ các phương thức tuyển chọn quan lại khác.
2. Chế độ tiến cử
Tiến cử có hai loại: tự tiến cử và được tiến cử. Tự tiến cử là bản thân người tự tiến cử thấy mình có đủ tài năng, đức độ, đáp ứng được yêu cầu của công việc thì tự tiến cử mình. Triều đình quyết định chọn người có tài đức hơn chứ không căn cứ vào thân phận. Được tiến cử (hay còn gọi là bảo cử) là một người muốn ra làm quan cần phải có người khác (có danh vọng, đang làm quan trong triều) giới thiệu và chịu trách nhiệm bảo đảm về tài đức của người mình tiến cử trước triều đình.
Đối với tự tiến cử, những người tài đức có nguyện vọng gánh vác công việc chung sẽ được nhà vua trọng dụng mà không phải trải qua bất cứ kỳ thi hay sát hạch nào. Điều này rất quan trọng và có ý nghĩa to lớn nhằm khắc phục kịp thời việc khuyết người làm việc trong bộ máy nhà nước, nhất là trong giai đoạn mới lập nên triều đại, hay trong những hoàn cảnh xã hội biến động, còn nhiều rối ren không thể tổ chức khoa cử. Đối với được tiến cử, với việc
47
bảo đảm bằng uy tín và trách nhiệm của người tiến cử, người được tiến cử phải là những người có tài năng, đức độ thực sự, đã có kinh nghiệm quan trường cũng như khả năng thực tế đáp ứng được yêu cầu công việc đặt ra.
Chế độ bảo cử hay được tiến cử phải tuân thủ các quy định sau:
+ Các quan đứng đầu nha môn, thấy có chức khuyết, giới thiệu người mình thấy xứng đáng với chức đó lên Bộ Lại, các quan ở Lại khoa và Ngự sử đài phải ghi chép bản đề nghị đó rõ ràng để sau này nếu người được giới thiệu mà không xứng đáng thì sẽ trị tội người giới thiệu bừa.
+ Bộ Lại xem xét, thấy được mới tâu lên vua, đợi chiếu chỉ của vua ban xuống, chuyển qua các quan chính đường tra xét lại, Lại khoa xem xét một lần cuối cùng, Bộ Lại làm sắc mệnh bằng khám hợp1 cho viên quan được đề cử ra làm việc.
Năm 1482, vua Lê Thánh Tông định lệnh bảo cử quan Thừa ty rằng: “Thừa ty các xứ, chức vụ rất trọng, khi chọn bổ nên được nhiều người hài lòng. Từ nay quan thừa ty các xứ có khuyết, Lại bộ tâu lên rồi đưa xuống cho triều thần, như lệ bảo cử hai ty Đô Hiến, bảo cử cả quan trong, quan ngoài, ai đương được chức ấy thì đưa sang Bộ Lại thi hành”2.
____________
1. Giấy dùng để viết chiếu chỉ, sắc lệnh.
2. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí (Quan chức chí - Lễ nghi chí), Sđd, t.II, tr.96.
48
Buổi đầu triều Lê sơ, tổ chức bộ máy nhà nước còn rất đơn giản, người tài giỏi trong thiên hạ còn nhiều nhưng vì các lý do khác nhau nên chưa dốc sức ủng hộ triều đình. Vì thế, năm 1429, sau khi lên ngôi được một năm, vua Lê Thái Tổ đã ra sắc chỉ cầu người hiền tài, chỉ dụ rằng: "Ta nghĩ việc thịnh trị tất do dùng được người hiền; muốn có người hiền phải có người tiến cử, là vua thiên hạ phải lấy việc ấy làm trước đã... Nay ta gánh công việc nặng, ngày đêm lo sợ như đến chỗ vực sâu, chỉ vì chưa tìm được người hiền giúp nước nên hạ lệnh cho đạo thần văn võ, công hầu đại phu từ tam phẩm trở lên mỗi người tiến cử một người, hoặc ở triều đình hoặc ở thôn quê, hoặc đã làm quan hoặc chưa làm quan, nếu có tài văn võ, tri thức, có thể cai trị dân chúng, tâu lên ta sẽ tuỳ tài bổ dụng”. Vua còn nói: “người tài ở đời vốn không ít mà cách tìm người tài không phải chỉ có một con đường, hoặc có người có tài giúp nước mà khuất ở chức thấp không ai tiến cử hoặc có người hào kiệt ẩn ở đồng quê lẫn vào quân lính, nếu không tự đạt thì ta làm sao biết được. Từ nay về sau các bậc quân tử ai muốn theo ta, đều cho tự tiến... Ngay hôm chiếu xuống tất cả các quan đều nên hết lòng thành, dốc lòng tiến cử. Còn những kẻ sĩ ở thôn quê hẻo lánh cũng đừng cho là đem ngọc bán rao mà xấu hổ, để ta phải phàn nàn về sự thiếu người tài”1.
____________
1. Phạm Trọng Báu: Nền giáo dục Việt Nam thời cận đại, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994, tr. 105.
49
Năm 1477, vua Lê Thánh Tông ban sắc chỉ cho phép các quan trong triều mỗi người được đề cử một người có tính tình cương trực để làm quan huyện. Năm 1482, ông ra một sắc chỉ khác về việc bảo cử chức quan thừa ty ở đạo, rằng: "Thừa ty các xứ chức vụ rất quan trọng, khi chọn bổ nên được nhiều người hài lòng. Từ nay các quan Thừa ty các xứ có khuyết, Lại Bộ tâu lên rồi đưa xuống cho triều thần luận bàn. Đô ty và Hiến ty bảo cử cả quan trong và quan ngoài, ai đương được chức ấy thì đưa sang Lại Bộ thi hành”1.
Tuy nhiên, hình thức tuyển dụng này dễ phát sinh tiêu cực, nhũng nhiễu giữa người đề cử và người được đề cử nên pháp luật đã quy định chặt chẽ tiêu chuẩn của các bên. Vua Lê Thái Tổ giao nhiệm vụ cho các quan tam phẩm trở lên tiến cử những người có đức, có tài ra làm quan. Nếu “tiến được người tài sẽ được thưởng to, đạo đời xưa vẫn thế, nếu cử được người trung tài sẽ được thăng chức 2 bậc, hoặc cử được người đủ tài, đức, hơn hẳn mọi người, tất được trọng thưởng”. Đồng thời, quy định trách nhiệm của người đề cử; nghiêm khắc xử phạt những người "cống cử phi nhân" (đề cử người không đủ phẩm hạnh) theo nguyên tắc: “bấy giờ việc ấy làm thận trọng, mà trừng phạt lại nghiêm, cho nên không ai dám bảo cử thiên
____________
1. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí (Quan chức chí - Lễ nghi chí), Sđd, t.II, tr.96, 97.
50
tư, các chức đều xứng đáng, rốt cùng thu được hiệu quả là chọn được người”. Điều 714 Quốc triều hình luật quy định: "Những người làm nhiệm vụ cử người mà không cử được người giỏi thì bị biếm hoặc phạt theo luật nặng nhẹ; nếu vì tình riêng hoặc lấy tiền thì xử tội nặng thêm hai bậc"1. Điển hình dưới thời vua Lê Thánh Tông, năm 1467 có Đào Bảo tiến cử Hán Đình và Nguyễn Đức là những người không có thực tài. Sau khi vua phát hiện, Đào Bảo bị xử tội chết nhưng sau đó được tha và bị bắt đi cày ruộng, còn Hán Đình và Nguyễn Đức bị bãi chức và đuổi về quê. Năm Quang Thuận thứ 8 (năm 1467), Lương Như Hộc tiến cử Trần Quý Huyên không phải là người giỏi, vua xuống chiếu giam Lương Như Hộc vào ngục và thu lại văn bằng của Quý Huyên,... Với việc quy định thưởng phạt nghiêm minh này đã hạn chế được phần lớn tệ "mua quan bán chức", lợi dụng việc tiến cử để tư lợi ở thời Lê sơ.
Nhìn chung, với lệ bảo cử, triều Lê sơ đã không bỏ sót nhân tài, người thực sự tài giỏi có điều kiện tham gia triều chính mà không phải trải qua thủ tục phức tạp nào. Có lẽ đây là một trong những nguyên nhân lý giải cho sự thịnh vượng chung của triều đại Lê sơ. Nhận xét về lệ bảo cử, Phan Huy Chú viết: "Lệ bảo cử bắt đầu xuất hiện vào thời Hồng Đức. Bấy giờ việc ấy làm thận trọng mà trừng phạt ____________
1. Quốc triều hình luật, Sđd, Điều 714.
51
lại nghiêm, cho nên không ai dám bảo cử thiên tư, các chức đều xứng đáng, cuối cùng thu được hiệu quả là chọn được người "1.
3. Chế độ khoa cử
Mục đích tuyển chọn quan lại của triều Lê được thể hiện rất rõ với quan điểm: "Muốn có người giỏi, trước hết là chọn người văn học. Chọn người văn học lấy khoa mục làm đầu" 2. Vì thế, nếu như khoa cử thời Lý chủ yếu là chế khoa (những khoa thi mở bất thường theo chiếu chỉ của nhà vua, suốt 216 năm triều Lý chỉ tổ chức có 6 kỳ thi) thì sang triều Lê sơ, khoa cử chủ yếu là thường khoa (mở theo thông lệ). Vua Lê Thái Tông đã biết kết hợp ba yếu tố tạo nên nhân tài, đó là: học tập ở sách vở, trường lớp; thi cử nghiêm túc; thực tiễn tham chính. Ba yếu tố này kết hợp với nhau thúc đẩy xã hội trọng thị giáo dục, văn hóa, sự rèn luyện tài năng cá nhân. Người làm quan đã qua học hành sẽ biết cách cai trị dân, tạo ra một trình độ quản lý cao và thống nhất.
Đến thời Lê Thánh Tông với mục tiêu là tuyển bổ cho được một tầng lớp quan lại mới có nguồn gốc xuất thân từ Nho giáo thông qua con đường khoa mục, ông đã tiến hành cải cách mạnh mẽ khâu tuyển chọn quan lại.
____________
1. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí (Quan chức chí - Lễ nghi chí), Sđd, t.II, tr.96.
2. Ngô Sĩ Liên và sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.2, tr.130.
52
Lê Thánh Tông muốn thay thế tầng lớp quan lại quý tộc (tầng lớp cựu thần) bằng tầng lớp quan lại quan liêu tri thức Nho học; qua đó, hạn chế sự hình thành và phát triển đội ngũ quan lại theo mô hình gia đình trị và tạo ra được một đội ngũ quan lại tuyệt đối trung thành, có thực tài để đảm đương công việc cai trị đất nước. Vua Lê Thánh Tông dụ các quan lại rằng:“Ta và các ngươi đã thề với trời đất dùng người quân tử, bỏ kẻ tiểu nhân, ngày đêm chăm chắm không lơi, các ngươi chớ lãng quên"1.
- Việc tổ chức các kỳ thi
Từ khi vua Lê Thái Tông ban lệnh cho các quan soạn thảo lại thể lệ thi cử “Trẫm nối theo chí trước, mong được hiền tài để thỏa lòng chờ đợi. Nay định thể lệ về khoa thi kỳ thi: Bắt đầu từ năm Thiệu Bình thứ 5, thi hương ở các đạo, năm thứ 6 thi hội ở sảnh đường tại Kinh Đô. Từ đấy về sau cứ 3 năm một lần thi làm lệ thường. Ai đỗ đều cho tiến sỹ xuất thân”2 thì khoa cử trở thành nền nếp và là nguồn quan trọng để cung cấp nhân lực, nhân tài cho bộ máy nhà nước. Như đã đề cập ở trên, để có thể trở thành người có chức vụ trong đội ngũ quan lại, về nguyên tắc họ phải học và đỗ đạt trong các cuộc thi. Đây là điều kiện bắt buộc đối với quan lại từ cấp huyện trở lên. Nhà nước Lê sơ đã lần lượt ban hành các thể lệ, nguyên tắc về thi cử, trở thành chế độ của nhà nước. Theo Lê triều quan chế,
____________
1, 2. Ngô Sĩ Liên và sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.2, tr.256, 130.
53
Lê triều hội điển và một số tư liệu trong các bộ sử lớn như Đại Việt sử ký toàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí... thời phong kiến có 3 kỳ thi chính trong chế độ khoa cử là thi Hương, thi Hội và thi Đình. Trong suốt gần 100 năm, với nguyên tắc "hữu giáo vô loài"1, triều Lê sơ đã xây dựng đội ngũ quan lại bằng khoa bảng nổi trội hơn các giai đoạn phong kiến trước và sau đó, cả về chất lượng lẫn số lượng. Và đã tổ chức được 31 khoa thi (với 1.007 tiến sĩ) trong tổng số 182 khoa thi (với 2.898 tiến sĩ) của cả thời kỳ lịch sử phong kiến Việt Nam. So sánh với tỷ lệ chung, số lượng khoa thi Đình do triều Lê sơ tổ chức không nhiều (chiếm 17%), nhưng lượng tiến sĩ đỗ đạt chiếm gần 35% (xem Phụ lục 2).
Ngoài các kỳ thi tuyển tiến sĩ như trên, triều Lê sơ còn tổ chức các kỳ thi Minh kinh, thi Hoành tứ, thi Lại viên... Việc tổ chức các kỳ thi Lại viên là độc quyền của triều đình và giao cho Bộ Lễ đề xuất tâu lên vua, nhà vua ra quyết định cuối cùng. Ở triều Lê sơ, những người được bổ làm Lại sử ở các nha môn thường phải thi đỗ trong các kỳ ____________
1. Nguyên tắc "hữu giáo vô loài" được Khổng Tử đưa ra tuy có sự giải thích khác nhau, nhưng đều mang hàm ý cần phải mở rộng diện giáo dục, khiến những người được tiếp thụ giáo dục không chỉ giới hạn ở giới quý tộc là điều không thể tranh cãi. Khổng Tử đã thực tiễn chủ trương "hữu giáo vô loài" của mình, ông nói "miễn là cho tôi 10 bị thịt để làm học phí thì tôi chả bao giờ lại không ăn năn hối lỗi". Nguyên tắc giáo dục của Khổng Tử đã kết thúc sự độc quyền về sự học của phái quý tộc, mở ra sự truyền thụ tư thục về học vấn toàn dân.
54
thi thư toán. Khi muốn tuyển các chức Lại sử, trước hết Bộ Lại phải để ý xem người định tuyển có thi đỗ khoa thư toán hay không. Nếu thi đỗ khoa thư toán thì khi được tuyển sẽ được gọi là Lại sử có xuất thân được hưởng những đặc quyền hơn hẳn người không có bằng của khoa thi này (tức là Lại sử không có xuất thân). Khi tuyển dụng những người có bằng trong kì thi thư toán (có xuất thân) thì những người đó ban đầu được giữ chức Thư lại (người giữ việc giấy tờ, thư từ ở nha môn) sau 3 năm làm việc được thăng làm Đạt lại (cũng là người giữ việc giấy tờ nha môn nhưng hơn Thư lại một cấp), lại làm việc 3 năm nữa, nếu không có khuyết điểm thì được thăng lên làm Đô lại (chức quan lại trong một huyện).
Những người không có bằng thư toán (tức không có xuất thân) thì lúc mới được tuyển sẽ được giữ chức Thông lại (người giữ việc đưa giấy tờ, công văn) làm việc trong 9 năm thì được thăng làm Đề lại (người giữ việc biên chép sổ sách ở các huyện), làm việc thêm 3 năm nữa nếu xét thấy xứng chức thì được thăng làm Đô lại. Các vị quan làm ở các nha môn thường là những Lại sử có xuất thân.
Những người thi Hội trúng nhị, tam trường thì cũng được bổ làm Thuộc lại. Sử cũ chép rằng: “Thái Tông, năm Quang Thuận thứ 8 (1467), ai trúng trường (trúng các trường) thi Hội được sung vào ba loại xá sinh. Lại định thi Hội trúng nhị tam trường thì bổ làm thuộc lại các nha môn. Khảo thí các viên giáo chức, ai trúng cách được bổ các chức kinh lịch. Lại sai Lại bộ khảo học sinh cận thị
55
(hầu gần) để bổ làm huyện thừa các huyện và khảo thuộc lại các nha môn để bổ làm giáo chức các phủ”1. Về cách thức tuyển dụng Nha lại các nha môn, Phan Huy Chú có nhận xét như sau:“Chức lại ở các nha môn tuồng như là thấp kém. Đầu nhà Lê, lấy giám sinh trúng trường bổ chức ấy, xem ra cũng là quan trọng... Sổ sách, tính toán vốn đều là việc của nhà Nho. Theo Chu Lễ thì những việc bếp núc, viết chữ, tính toán đều không dùng kẻ Nho làm cả. Đầu thời Lê dùng Nho bổ lại cũng là noi theo ý người xưa, không nên cho là không phải. Vả lại, đặt lại viên lúc đầu chưa từng phức tạp, nha nào lắm việc chẳng qua hơn 10 người, nha nào ít việc chỉ 2, 3 người, cho nên quan trường trong sạch mà công việc gọn gàng”2. - Quy chế kiểm soát hoạt động tuyển chọn bằng thi cử
Một là, xử lý nghiêm người vi phạm trong thi cử. Để việc thi cử diễn ra nghiêm túc, chọn được nhân tài cho đất nước và loại trừ các hành vi tham nhũng trong các kỳ thi (nhận hối lội hay nhũng nhiễu tiêu cực), việc thi cử dưới triều Lê sơ được tổ chức rất chặt chẽ. Quốc triều hình luật triều Lê sơ quy định và xử lý nghiêm các hành vi gian lận trong khi thi hay mượn người thi hộ. Giám sát trường thi không được cho sĩ tử mang sách vở vào trường thi3, pháp luật nghiêm cấm việc sao chép, đánh tráo bài làm
____________
1, 2. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí (Quan chức chí - Lễ nghi chí), Sđd, t.II, tr.87, 88.
3. Xem Quốc triều hình luật, Sđd, Điều 99, Điều 101.
56
của thí sinh. Tính khách quan trong việc tuyển chọn quan lại một mặt thúc đẩy mọi người trong xã hội học tập, đồng thời góp phần triệt tiêu những điều kiện tồn tại của tệ tham nhũng, lợi dụng việc coi thi, chấm thi để nhũng nhiễu sĩ tử. Triều Lê sơ còn áp dụng Luật hồi tỵ nghiêm ngặt trong các kỳ thi Hương, thi Hội. Những người có quan hệ nhân thân với thí sinh sẽ không được làm giám khảo để bảo đảm tính khách quan trong đánh giá kết quả thi. Các quan chấm thi cùng người dự thi có thân thuộc thì cần phải tránh đi, nếu phạm điều này thì “phạt 50 roi, biếm một tư”, nếu là các quan di phong (phong kín những quyển thi trong những cuộc thi Đình để dâng vua), đằng lục (sao chép quyển văn của thí sinh để cho các khảo quan chấm mà không biết được chữ của thí sinh) phạm phải đều bị “phạt 80 trượng”1.
Mặt trái của việc thừa nhận hình thức tuyển chọn bằng thi cử là phát sinh nạn "mua quan, bán chức", nhận hối lộ để làm sai lệch thông tin theo hướng có lợi cho người dự thi tuyển. Những vị quan đại thần thường được nhà vua giao quyền quản lý việc tuyển bổ, thi cử, sát hạch quan lại có thể lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm sai lệch thông tin hay cấu kết với quan lại khác hoặc với người đưa hối lộ để làm sai lệch kết quả thi cử hay cho người thi hộ. Đại Việt sử ký toàn thư còn lưu nhiều vụ án nói về các tiêu cực như: vua Lê Nhân Tông đã xử tử hình quan đại thần Lê Sát vì tội nhận hối lộ trong thi cử;
____________
1. Xem Quốc triều hình luật, Sđd, Điều 98.
57
năm 1447, quan Nội mật viện Lê Cảnh Xước nhận hối lộ 20 lạng bạc của một đương sự để được tuyển chọn vào đội ngũ quan lại, chuyện bị bại lộ nên bị vua Lê Nhân Tông bãi chức, cho về làm dân thường; năm 1448, Tư khấu Trịnh Khắc Phục nhận hối lộ của Duy Khiêm để người này trở thành giám sinh vào học ở Quốc Tử Giám...
Tóm lại, giai đoạn đầu của việc áp dụng chế độ tuyển chọn quan lại bằng thi cử, bên cạnh mặt tích cực đã không tránh khỏi hiện tượng một số quan lại thoái hoá, biến chất đã tiếp tay cho vấn nạn mua quan, thi hộ... Nhưng, bằng những quy định chặt chẽ, triều Lê sơ đã hạn chế được vấn nạn này.
Hai là, bảo đảm về nhân thân, đạo đức của sĩ tử qua lệ bảo kết thi Hương.
Theo quy định này, địa phương phải xác nhận tư cách, đạo đức của sĩ tử thi Hương trong bảng kê khai lý lịch ba đời. Thí sinh phải có lý lịch rõ ràng, có đức hạnh, không phân biệt xuất thân, đẳng cấp. Việc sơ xét này do xã quan và huyện quan đảm trách. Các xã quan và huyện quan phải lập danh sách, xét duyệt lý lịch, theo đó, người nào không đạt chuẩn (con nhà phường chèo, con hát, kẻ phản nghịch và người có tiếng xấu: bất hiếu, bất mục loạn luân, điêu toa thì bản thân và con cháu đều không được đi thi), dẫu có học vấn văn chương cũng không được vào thi...
Quy định này của triều Lê sơ vừa tạo điều kiện để có thể thu hút nhân tài một cách rộng rãi, vừa bảo đảm chặt chẽ trong việc tuyển chọn quan lại để những người được chọn vừa có tài, vừa có đức, biết chăm lo cho đời sống
58
người dân và không dễ bị tha hóa bởi lợi ích cá nhân1. Sau khi qua lệ bảo kết thi Hương, thí sinh phải qua một kỳ thi khảo hạch hay còn gọi là thi ám tả nhằm loại bớt và chọn lựa người có đủ trình độ kiến thức dự thi. Ngoài ra, để sàng lọc nhằm có lượng thí sinh phù hợp và đồng đều về chất lượng, triều đình phân định số thí sinh ở các địa phương. Điều này được ghi chép chi tiết hơn trong Lịch triều hiến chương loại chí như sau: Đến khoa thi, xã trưởng các xứ làm giấy đoan bảo học trò trong xã mình, trừ những người Tú lâm Sinh đồ, còn các quân sắc, nhân dân, quả là con nhà lương thiện có hạnh kiểm học vấn, viết nổi văn bốn trường đều cho làm giấy đoan bảo. Riêng 4 xứ Hưng Hóa, Yên Bang, Tuyên Quang, Lạng Sơn, học trò sức làm văn đủ ba trường cũng cho vào thi. Số người đi thi thì xã lớn 20 người, xã trung 15 người, xã nhỏ 10 người. Xã nào ít người học tập thì không buộc lệ ấy. Xã trưởng lại khai họ tên học trò, rồi phủ, huyện, châu sát hạch từng người một thi ám tả một bài, ai trúng thì hai ty Thừa, Hiến theo lệ khảo thi lại. Nếu xã trưởng đoan khai không thực; phủ, huyện, châu sát hạch không đúng, đến nỗi học trò vào thi làm bài không thành văn lý, hay có người vì con em thân thích mà gởi gắm quan trường, thì khoa đài (Lục khoa và Ngự sử đài) sai người đi dò xét thực hư, đều đưa ra xét hỏi trị tội. Đối với thí sinh vốn đã có chân thư lại, cước sắc trong các cơ quan nhà nước mà
____________
1. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1998, t. I, tr. 37.
59
muốn đi thi thì cũng phải làm đơn và trải qua sơ tuyển, rồi nhận giấy về bản quán để đi thi thì mới có tư cách ứng thí. Quy định này được định rõ từ triều Lê sơ như sau: Những quan viên hiện làm việc ở Thừa ty, cùng các Nho sinh, điển lại gặp lúc đương phiên làm việc hoặc đương ở kinh thành làm việc mà muốn đi thi, thì tự người ấy làm đơn, xét thực có đủ sức làm văn tứ trường mới cấp cho giấy về bản quán để thi. Không được cấp giấy nhận cho thi ở ngay thừa ty và phủ Phụng Thiên như trước. Làm trái đều phải đưa trị tội1.
Trái lại, nếu các Nho sinh có đủ trình độ, khả năng đi thi mà không tham dự hoặc không khai báo, điểm mục dù bất cứ lý do gì thì đều bị phạt tội. Điều này cũng đã được chính sử ghi lại tương tự. Đến kỳ vào trường thi Hương, các Nho sinh có tang cha mẹ mà ở nhà, đều phải đến bản phủ khai tên điểm mục, nếu thiếu người nào mà quan phụ trách tâu lên sẽ bắt tội sung quân ở bản phủ. Ai tự tiện vào cửa ngoài trường thi để đi thi thay cho người khác thì bị xử tội đồ, suốt đời không được đi thi và không được bổ dụng. Nếu xã trưởng nhận diện biết là gian mà đồng tình dung túng, đến nỗi người thi thay vào trường bị bắt thì người xã trưởng cũng phải tội sung quân hạng ba ở bản phủ. Rõ ràng tư cách người đi thi tuyển đã được lựa chọn khá kỹ theo trình độ học vấn và tiêu chí phẩm hạnh đương thời.
____________
1. Xem Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí (Quan chức chí - Lễ nghi chí), Sđd, t.II.
60
Ba là, giám sát hoạt động thi cử.
Bộ Lại và Quốc Tử Giám là những cơ quan chịu trách nhiệm chính về hoạt động đào tạo, tuyển chọn nhân tài bằng khoa cử. Tuy nhiên, để bảo đảm công bằng, khách quan, tránh tiêu cực trong thi cử, hoạt động của những cơ quan này vừa chịu trách nhiệm trước nhà vua, đồng thời chịu sự giám sát của Bộ Lễ và Lại Khoa. Lại Khoa được nhà vua đặc trách giao phó việc kiểm tra hoạt động thi cử, tuyển chọn. Nếu phát hiện những biểu hiện gian lận, tiêu cực thì trước hết, Lại Khoa có quyền đàn hạch (chất vấn) Bộ Lại, đồng thời báo cáo và tham mưu, tư vấn cho nhà vua biện pháp xử lý.
Các vua Lê còn đặc biệt lưu ý đến cách ra đề thi. Đề thi các khoa thi luôn thay đổi về nội dung, thể cách, phát huy được tính sáng tạo ở người học: Thời vua Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức (1470-1497) thi kinh nghĩa không cứ chương nào, không nệ thiên nào. Học trò nếu không học rộng kinh nghĩa thì không làm nổi. Tứ lục, thơ, phú, có khi ra ở cổ sử, có khi ra ngoài sách, hoặc hỏi về chính sự đương thời, về chính sách mà các triều vua trước thực hiện... (Xem phụ lục 3). Nhận xét về chế độ thi cử triều Lê sơ, Phan Huy Chú viết: “Vì bây giờ ra đề thi vụ hồn hàm đại thể, không trợ bằng những câu hiểm sách lọc, chọn người cốt lấy học rộng học thực tài, không hạn định ở khuôn khổ mực thước. Cho nên kẻ sĩ bấy giờ học được rộng rãi mà không cần phải tìm tòi tỉ mỉ, tài được đem ra ứng dụng mà không bị bỏ rơi. Trong nước không để sót nhân tài, triều đình không dùng lầm người kém. Bởi thế điển
61
chương được đầy đủ, chính trị ngày càng thịnh hưng”1. Bốn là, lệ vinh quy bái tổ và bia đá đề danh. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, năm 1484, vua Lê
Thánh Tông ban lệ Bia đá đề danh và Vinh quy bái tổ. Theo lệ, các tiến sĩ tân khoa được vua ban yến tiệc, mũ, áo, cân, đai, được khắc tên lên bia đá, có lính hầu đưa về làng vinh quy bái tổ. Dân chúng trong tỉnh, huyện, làng, xã hãnh diện đón rước vị tân khoa với cờ, lọng, chiêng, trống rầm rộ. Nếu vị tân khoa đã có gia đình thì người vợ cũng được đón rước cùng với chồng theo đúng lệ "ngựa anh đi trước, võng nàng theo sau". Cha mẹ và ông thầy dạy học mỗi người ngồi một cái võng trần, khi về tới làng, vị tân khoa sẽ đến nhà thờ tổ của dòng họ và đình làng bái tạ tổ tiên, rồi về bái tạ thầy dạy và cha mẹ. Vinh quy bái tổ không chỉ là vinh dự cho vị tân khoa, cho cha mẹ, họ hàng, làng xóm mà còn là dịp để vị tân khoa bày tỏ lòng biết ơn đối với tổ tiên, cha mẹ và thầy dạy theo đúng đạo lý Việt Nam "công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy".
Như vậy, tuyển chọn quan lại ở triều Lê sơ bằng con đường thi cử là cách thức tuyển chọn chủ yếu mà so với hình thức bảo cử, tiến cử, tập ấm thì có ưu điểm hơn cả. Phần lớn quan lại nhà nước ở trung ương và địa phương của triều Lê sơ xuất thân từ con đường này. Trong tuyển chọn quan lại từ thi cử, triều Lê sơ đã thực hiện rất chặt chẽ, nghiêm túc, mang tính tổ chức và khoa học.
____________
1. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí (Quan chức chí - Lễ nghi chí), Sđd, t.II. tr.61.
62
4. Một số chế độ tuyển chọn khác
- Chế độ bầu cử
Chế độ bầu cử được áp dụng đối với chức danh xã trưởng. Hình thức bầu xã trưởng là mới so với các triều đại trước. Ở triều Lý, Trần, người đứng đầu xã là xã quan do triều đình trung ương cử xuống. Thời vua Lê Thánh Tông, xã quan đổi thành xã trưởng phải do dân thuộc làng xã đó bầu ra. Việc bầu xã trưởng căn cứ theo tiêu chuẩn mà nhà nước đặt ra.
Người được đưa ra bầu xã trưởng phải có xuất thân Nho học, là giám sinh, sinh đồ, có hạnh kiểm, phải trên 30 tuổi và làm việc cẩn thận, chu đáo. Người trúng xã trưởng phải được triều đình trung ương công nhận. Xã trưởng vừa là người đại diện cho nhân dân trong làng xã, vừa là tai mắt của triều đình trung ương trông coi việc thu thuế, kiểm tra dân đinh cho nhà nước.
Việc bầu cử thể hiện tính chất dân chủ rộng rãi đối với cấp chính quyền cơ sở, thể hiện tầm nhìn xa trông rộng của vua Lê Thánh Tông và hiểu biết của ông về đặc điểm cơ cấu kinh tế, xã hội, văn hoá làng xã. Bầu xã trưởng là để phát huy thế mạnh của lối sống làng xã và thông qua đó để thực thi chính sách quản lý của nhà nước.
- Chế độ mua bán
Ngoài các hình thức tuyển chọn trên, những năm đầu mới lên ngôi vua, Lê Thánh Tông còn cho phép áp dụng chế độ mua quan. Người mua quan chỉ được ban chức quan nhàn tản, hoặc khi có việc mới cho làm. Hình thức
63
này không ảnh hưởng nhiều đến chất lượng quan lại của triều Lê sơ. Hơn nữa, chế độ mua bán chức quan ở triều Lê sơ cũng có những đặc điểm riêng như: Năm 1460 vua có chỉ dụ cho các hạng quân dân ở các động, sách, trang trong các huyện, phủ, lộ, trấn, người nào chứa được nhiều thóc, tình nguyện dâng lên, đến trình với ty cai quản làm sổ tâu trình, tùy theo số thóc nhiều ít, ban cho quan tước. Nộp thóc từ 200 thạch thì cho tản chức chánh thất phẩm, 150 thạch thì cho tản chức tòng thất phẩm, 100 thạch thì cho tản chức tòng bát phẩm, con đều được miễn đi lính. Còn 70 thạch thóc thì thưởng 1 tư, tha thuế thân”. Phan Huy Chú nhận xét: “Chức phẩm là trọng, không thể mua bán được. Thế mà đem vật quý của nhà nước để làm mối lợi, vốn không phải là việc nên có ở đời thịnh trị. Song đời Quang Thuận quan phẩm trao cho người dâng thóc còn là chức tản quan bực thấp, chưa làm hại lắm1.
- Chế độ tiến triều
Chế độ này quy định tuyển người đi thi đỗ tam trường nhiều kỳ thi Hội, nhưng không đỗ tiến sĩ. Gia đình người đi thi là gia đình danh giá, làm quan hoặc bản thân người đi thi thật sự tài năng... sẽ được bổ nhiệm ngang hàng tiến sĩ sau khi được các quan trong triều bảo đảm. Đây là chế độ không phổ biến nhưng đã xuất hiện dưới triều Lê sơ. Ví dụ trường hợp Trần Ích Phát quê ở làng Triều Dương, huyện Chí Linh, phủ Hạ Hồng, thừa tuyên Hải Dương
____________
1. Xem Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí (Quan chức chí - Lễ nghi chí), Sđd, t.II, tr.93-95.
64
(nay thuộc Chí Linh, Hải Dương), xuất thân trong một gia đình thường dân không có truyền thống khoa cử. Nhưng ông là người thông minh hiếm thấy. Từ nhỏ Trần Ích Phát đã nổi tiếng thông tuệ, những điều hay chuyện lạ chỉ một lần biết là nhớ ngay; khi đi học, các sách vở, kinh sử chỉ xem qua là thuộc, đến tuổi trưởng thành đã nức tiếng văn chương, tiếng tăm uyên bác càng lừng lẫy. Cũng như các nho sinh đương thời, Trần Ích Phát dốc chí theo đường khoa cử, thế nhưng câu “học tài thi phận” dường như ứng vào ông. Khi triều đình tổ chức thi Hương, Trần Ích Phát dự thi và đỗ Giải nguyên, khi thi Hội, cứ lận đận mãi, mấy lần cất công đi thi nhưng khoa nào cũng hỏng. Quá chán nản, lại thấy đường khoa cử không toại nguyện Trần Ích Phát bèn về quê mở trường dạy học. Biết tiếng người thầy tài giỏi, học trò khắp nơi tìm đến xin học rất đông. Trần Ích Phát không phải là người có nhiều học trò nhất, mà là người đào tạo được nhiều học trò đỗ đạt cao nhất. Theo thống kê, học trò của Trần Ích Phát có tới 74 người đỗ đại khoa, trong đó có 3 người đỗ Trạng nguyên, 4 người đỗ Bảng nhãn, 6 người đỗ Thám hoa, 10 người đỗ Hoàng giáp và 51 người đỗ Tiến sĩ. Đây là một kỷ lục mà trong lịch sử Việt Nam không thầy giáo nào vinh dự có được. Trong hai khoa thi năm Đinh Mùi (năm 1487) và Bính Thìn năm (1496) toàn bộ những người thuộc bảng Tam khôi, từ Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa đều là học trò của thầy giáo họ Trần. Do đó, Trần Ích Phát được vua Lê Thánh Tông đặc cách xếp vào hàng Tiến sĩ, ngang với các bậc đại khoa. Sau đó Trần Ích Phát được cử
65
giữ chức Giám sát ngự sử rồi thăng dần lên đến chức Hiến sát sứ, Đông các đại học sĩ.
Như vậy, qua các cách thức tuyển chọn quan lại trên có thể thấy: chế độ tuyển chọn quan lại dưới triều Lê sơ rất phong phú, đa dạng với nhiều hình thức mới như bảo cử, bầu cử, tiến triều... Các quy định về tuyển chọn có quy trình chặt chẽ, nghiêm ngặt. Thi cử thì nghiêm minh. Tiến cử thì minh bạch, hiệu quả. Tiêu chí tài và đức là tiêu chuẩn hàng đầu để tuyển chọn quan lại. Công tác tuyển chọn quan lại được tiến hành thường xuyên, kịp thời, cung cấp những người có năng lực thực sự vào làm cho các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Điều đó cho thấy sự tiến bộ vượt trội trong nhận thức về cách thức tuyển chọn quan lại của triều Lê sơ so với các triều đại trước đó.
Trong tuyển chọn quan lại, triều Lê sơ đạt được sự thống nhất về tư tưởng, ổn định mục tiêu và kiên quyết trong biện pháp, cách làm. Các vua Lê lấy tư tưởng Nho giáo làm đường lối chỉ đạo và xác định mục tiêu xuyên suốt là làm trong sạch bộ máy hành chính, phát huy hiệu lực, hiệu quả trong quản lý điều hành, xây dựng nhà nước quân chủ chuyên chế vững mạnh toàn diện. Muốn vậy, các biện pháp thực hiện phải quyết đoán, cứng rắn, bỏ chức tể tướng, tuyển cho được người tài, kiên quyết không dùng người trong hoàng tộc nếu họ không thực tài... Sự thống nhất từ ý chí đến hành động là điều kiện tiên quyết bảo đảm thành công trong tuyển chọn người tài - đức của triều Lê sơ.
66
Những cải cách trong tuyển chọn quan lại triều Lê sơ mang tính đồng bộ, gắn kết chặt chẽ với nội dung cải cách bộ máy, cải cách thể chế (đặc biệt được biểu hiện trong cải cách của vua Lê Thánh Tông). Bằng nhiều phương thức khác nhau, bảo đảm không để sót, không dùng nhầm người, cách tuyển chọn quan lại của triều Lê sơ đã thu phục nhân tâm, chiêu mộ nhân tài, không hạn chế thành phần xuất thân. Và vì thế, ai có tài năng, có học đều có thể tham gia triều chính nếu vượt qua một trong số các cách thức tuyển chọn đã nêu.
Bãi bỏ chế độ bổ dụng các vương hầu quý tộc vào các trọng chức trong triều đình. Tiêu chuẩn để được bổ dụng làm quan là phải có trình độ học vấn đã được kiểm tra qua thi cử, không phân biệt thành phần xuất thân. Các thân vương, công hầu được ban cấp bổng lộc nhiều nhưng nếu không đỗ đạt, không có tài năng thì cũng không được làm quan. Các quan địa phương (từ cấp đạo đến xã) đều phải có trình độ học vấn (các quan cấp châu - huyện là những người có chân thi Hội, đỗ tam trường; cấp xã phải xét những người có chữ, có tài cán mới được bổ nhiệm. Nếu không biết chữ thì cho nghỉ. Nếu ỷ thế nhà quyền quý để cầu cạnh xin quan tước thì bị tội biếm hoặc đồ).
Cách thức tuyển chọn quan lại ở cấp chính quyền địa phương của triều Lê sơ có nhiều cải cách tiến bộ, chấm dứt tình trạng cát cứ, phân tán, ly tâm; bảo đảm tập trung quyền lực ở trung ương, thống nhất trong chỉ đạo điều hành từ cấp trung ương tới cấp cơ sở.
67
Những thành tựu trong chế độ tuyển chọn quan lại của triều Lê sơ đã góp phần tạo nên một đội ngũ quan lại đạt cả về số lượng và chất lượng. Quan được chuẩn hoá kiến thức, chuẩn hoá các chức danh, Lại là đội ngũ giúp việc chuyên nghiệp, thành thạo về chuyên môn, dày dạn về kinh nghiệm, có trách nhiệm với công việc và trung thành với vương triều. Cải cách trong cách thức tuyển chọn của triều Lê thực sự đem đến sự thay đổi đồng bộ, toàn diện, sâu sắc đội ngũ quan lại. Phan Huy Chú đã nhận xét về các chế độ tuyển chọn quan lại triều Lê sơ như sau: Phép tuyển bổ quan lại thời Hồng Đức đại khái căn cứ vào niên hạn và thi cử. Niên hạn là để lấy nhiều người từng trải, thi cử là để lấy người giỏi văn học... Hạn định năm tháng phải lâu, từng trải phải nhiều thì người cầu cạnh không tiến xằng vào được, đó là cái hay của phép chọn người1. Riêng đối với chế độ tuyển chọn qua thi cử, Phan Huy Chú ca ngợi: Khoa cử các đời thịnh nhất là thời Hồng Đức. Cách lấy đỗ rộng rãi, cách chọn người công bằng trong nước không để sót nhân tài, triều đình không dùng lầm người kém mà dụng nhân duy hiền2. Hầu hết số người đỗ đại khoa ở triều Lê sơ đều tham gia vào bộ máy quan chức của triều đình. Điều đó cho thấy sự thịnh trị cũng như vai trò của giáo dục khoa cử trong đời sống chính trị - xã hội của đất nước thời đó.
____________
1, 2. Xem Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí (Quan chức chí - Lễ nghi chí), Sđd, t.II.
68
II. CHẾ ĐỘ SỬ DỤNG QUAN LẠI CỦA TRIỀU LÊ SƠ
1. Phân công, bố trí công việc cho quan lại của triều Lê sơ
Sau khi tiến hành các chế độ tuyển chọn quan lại, có kết quả tuyển chọn, triều Lê sơ đã xử lý kết quả tuyển chọn như sau:
Một là, lần đầu tiên, dưới thời vua Lê Thánh Tông, triều Lê sơ thực hiện chế độ thử việc - hay còn gọi là tập sự đối với quan lại. Người tập sự được giao để thể hiện khả năng đáp ứng yêu cầu về tư cách, phẩm chất, chuyên môn, nghiệp vụ của vị trí công việc trong một tổ chức nhất định. Nghĩa là trước khi được bổ dụng chính thức, người trúng tuyển phải trải qua một thời kỳ tập sự trong hệ thống chính quyền. Thời gian tập sự dài hay ngắn tùy theo năng lực của vị tân quan, tùy vào vị trí cần thử nghiệm để bổ dụng và vị quan được cử ra để theo dõi, kèm cặp vị tân quan. Cách thức tổ chức tập sự cho các vị tân quan thường là bổ nhiệm họ làm nhiệm vụ tòng sự.
Có hai cách thức tòng sự. Hoặc là vị tân quan sẽ được bổ về tòng sự tại một viện, một bộ nào đó trong chính quyền trung ương. Tại đó họ không được trao giữ một chức vụ chính thức nào, mà tập làm quen với công việc thông qua sự giúp đỡ, hướng dẫn của các vị quan đương nhiệm. Sau khoảng ba năm, vị tân quan sẽ được sát hạch và có thể bổ dụng chính thức vào một chức vụ nào đó trong chính quyền trung ương. Cách thứ hai là vị tân quan sẽ được bổ về tòng sự tại một tỉnh hoặc huyện nào đó. Tại
69
tỉnh/huyện đó, vị tân quan được bổ nhiệm vào cùng một chức vụ với một vị quan đương nhiệm với vai trò thí chức1 (gọi là tá nhị, tòng...). Hằng ngày, vị tân quan sẽ xử lý, điều hành công việc ở vị trí của vị quan đương nhiệm, vị quan đương nhiệm có trách nhiệm hướng dẫn, giúp đỡ vị quan tập sự kia và phải chịu trách nhiệm về mọi quyết định. Sau một thời gian vị quan đương nhiệm sẽ tâu rõ với triều đình về đức hạnh và năng lực của vị quan tập sự kia. Tùy vào đức hạnh và năng lực mà vị quan tập sự có thể được bổ nhiệm chính thức.
Về chế độ tập sự (thử việc): Người có chức vụ không chính thức (thí chức), sau một thời gian thử việc nếu thấy không phạm lỗi gì thì được thăng cấp cho nhậm chức chính thức (thực thụ2). Đối với các viên quan tân tiến sĩ sau khi nhậm chức giám sát hoặc chức cấp sự trung thì sẽ được làm thử trong một năm, nếu sau một năm xét thấy đủ tư cách đảm nhiệm được công việc thì sẽ cho tiếp tục, nếu không thì sẽ bị bãi miễn: “Từ nay cấp sự trung sáu khoa và giám sát ngự sử có khuyết thì Lại bộ chọn các quan trong ngoài, viên nào do tiến sĩ xuất thân, thanh liêm, siêng năng ngày tháng, có chính tích thì tạm bổ vào. Sau một năm cấp sự trung sáu khoa cộng đồng xét lại việc làm của viên đó, tâu lên đợi chỉ, có thể làm nổi việc thì cho lưu nhiệm, không làm nổi việc thì đổi bổ chức khác”3. Đối ____________
1. Thí chức: là chức vụ không chính thức.
2. Thực thụ: được nhận chính thức.
3. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí (Quan chức chí - Lễ nghi chí), Sđd, t.II.
70
với các chức quan trong kinh, người nào mới được bổ thí chức thì chỉ được cấp cho 1/3 tiền lương, con cháu vẫn như dân thường, sau ba năm mà xứng chức và không phạm lỗi gì thì được thăng cấp cho nhậm chức chính thức; còn nếu không xứng chức thì đuổi về làm các hạng quân sắc cũ. Đối với giám sinh, nho sinh, học sinh, án lại, lại viên các nha môn thi Hội đã trúng nhiều kỳ làm việc lâu năm, biết việc, siêng năng và có quân công sau khi được trao các chức Tri huyện, Tri châu, Huyện thừa,... phải đủ ba năm không phạm lỗi gì thì mới cho thực thụ. Điều này được quy định rõ trong sắc chỉ năm Hồng Đức thứ 2 (năm 1471): “Các chức quan văn, võ trong Kinh (trung quan cũng thế), người nào mới được bổ thí chức thì Lại bộ tâu lên để ban cấp cho giấy khám hợp, cho mũ, đai và cấp cho một phần ba tiền lương, con cháu vẫn như dân thường. Sau ba năm mà xứng chức và không phạm lỗi gì thì được thăng cấp cho thực thụ. Người nào không xứng chức thì đuổi về làm các hạng quân sắc cũ. Nếu là người có tài năng lỗi lạc được bổ dụng theo đặc ân thì không phải theo lệ này”1.
Hai là, phân công, bố trí công việc cho người trúng tuyển vào các vị trí trong bộ máy phù hợp với trình độ học vấn, tài năng và đức độ của họ.
Nhà nước thời Lê Thánh Tông chủ trương và có nhiều quy định, biện pháp cụ thể để đưa tầng lớp nho sĩ vào nắm hệ thống quyền lực, thực hiện bổ nhiệm những người có
____________
1. Ngô Sĩ Liên và sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.2, tr.335-336.
71
khả năng vào các vị trí khác nhau trong bộ máy chính quyền nhằm coi trọng thực lực, phát huy sở trường, sở đoản của từng người. Đối với những người thi đỗ trong các kỳ thi Hội, thi Đình, tức là có bằng tiến sĩ, nhà nước quy định như sau: Sau khi đã yết bảng vàng thì viên Thị lang Bộ Lại căn cứ vào đấy mà giao Ty Thuyên khảo, ty này viết đủ quan hàm để tâu, do Ty Thông chính dâng nộp, phụng mệnh ban hành “khám hợp” đóng ấn của bản bộ, cử hành lễ khâm ban ở ngoài cửa Đoan môn, các tân tiến sĩ đến phủ đường đợi lệnh, cử hành lễ phụng ban. Tiến cử vinh quy rồi trở về Kinh, lúc ấy triều đình mới trao cho quan chức. Đây là lần trao chức đầu tiên: “Trạng nguyên trao cho chức thị giảng. Bảng nhãn trao cho chức thị thư. Thám hoa chức thị chế. Hoàng giáp chức hiệu lý. Còn các tiến sĩ khác thì trao cho chức giám sát hoặc chức cấp sự trung. Trong số này, người nào ít tuổi được trao chức hiệu thảo, người nào ứng thí Chế khoa (khoa thi đặc ân của vua ban ra, không có thể lệ nhất định) được trúng cách cũng trao cho chức hiệu thảo”1. Theo số liệu thống kê, triều Lê sơ lấy đỗ 1.011 tiến sĩ, trong đó có 902 người - không kể tuổi tác được vua Lê và nhà nước trọng dụng bổ nhiệm vào những chức quan quan trọng và giao những trọng trách đối với quốc gia (xem Phụ lục 4). Việc sử dụng những người có trình độ học vấn của triều Lê sơ cho chúng ta thấy, những hiền sĩ học rộng tài cao không kể tuổi tác đều
____________
1. Lê Quý Đôn: Kiến văn tiểu lục, Đại Việt thông sử, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977, tr. 128.
72
được giao nhiệm vụ chính theo ba hướng: tham gia các chức quan cao cấp ở tất cả các ngành, bộ, các công việc khác nhau của triều đình; tham gia công tác đối ngoại, “đem chuông đi đánh nước ngoài” (chủ yếu là đi sứ phương Bắc); tham gia phụ trách giảng dạy tại cơ quan đào tạo nhân tài cao nhất của nhà nước. Mục đích của triều đình phong kiến là tìm được những vị quan đảm đương tốt những nhiệm vụ được giao. Vì vậy, mỗi vị quan khi được đặt vào một vị trí nào đó phải được xem xét có đủ thực tài và thực đức, có tương xứng với vị trí, chức trách hay không.
Cũng theo quy định, những người đỗ hương cống thường được bổ nhiệm làm tri phủ, tri huyện ở địa phương. Cá biệt có những người chỉ đỗ hương cống nhưng có tài năng cũng được giữ chức vụ quan trọng trong triều. Tuy nhiên, họ phải mang danh hiệu Tiến triều với nghĩa hàm sự chiếu cố (xem chế độ tuyển chọn tiến triều).
Ba là, tùy đặc điểm, tính chất công việc mà xếp đặt quan lại vào vị trí và số quan, lại viên phù hợp. Năm 1472, vua Lê Thánh Tông chính thức định lệ tư cách cho những người đỗ đại khoa (tiến sĩ). Theo đó, trạng nguyên được hàm chánh lục phẩm, được ban 8 tư; bảng nhãn được hàm tòng lục phẩm, được ban 7 tư; thám hoa được hàm chánh thất phẩm, được ban 6 tư; hoàng giáp được hàm tòng thất phẩm, được ban 5 tư; đệ tam giáp tiến sĩ được hàm chánh bát phẩm, được ban 4 tư. Những người này lúc đầu “nếu vào Hàn lâm viện thì được gia 1 cấp; nếu bổ làm giám sát ngự sử hay tri huyện thì giữ nguyên
73
phẩm cũ mà bổ”1. Năm 1477, vua định lệ tư cách của lại sử ở các nha môn trong Kinh và ngoài các đạo phải lấy từ những giám sinh, nho sinh, sinh đồ và những người trúng tuyển kỳ thi viết chữ và làm toán. Ngay cả ở cấp xã, chức danh xã trưởng tuy không phải là chức quan theo quy định của quan chế nhưng vua Lê Thánh Tông cũng chủ trương lựa chọn từ những người con nhà danh giá (lương gia đệ tử), biết chữ, có tài cán. Những người nào được bổ dụng làm quan đều phải có sự xác nhận về gia đình, đạo đức của xã trưởng. Đến năm 1496, vua hạ chiếu quy định tuyển chức quan ở Hiến sát sứ ty và chức quan ở phủ, huyện, châu. Theo đó, chức hiến sát phó sứ thì “chọn người đỗ tiến sĩ, quan văn, võ các nha môn, chỉ huy các vệ, ty đã trúng các kỳ thi Hội, thực đúng là đã giữ phép công, làm việc giỏi, cương trực, không né sợ kẻ quyền quý, không phạm lỗi”2, còn thuộc quan ở các nha môn lấy người đã trúng thi Hội một, hai hoặc ba kỳ và là người siêng năng, mẫn cán, cứng rắn, thẳng thắn; giám sinh, nho sinh và học sinh đã làm lại điển lâu năm, siêng năng, mẫn cán ở các nha môn sau khi đã trúng một, hai hoặc ba kỳ các khoa thi Hội thì trao chức tri huyện, tri châu. Quan điểm dùng quan chức rõ ràng, linh hoạt, không nhất thiết chức phải tương xứng với tước phẩm. Có thể lấy quan chức cao để cai quản nha môn thấp; có quan chức ở bản nha nào biết việc ở đó (sắc tri), giữ một chức và kiêm chức khác (lục
____________
1, 2. Ngô Sĩ Liên và sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.2, tr.459, 429.
74
kiên); chức quan thấp nhưng nắm chức quan cao, quan trọng (tự thự); lấy phẩm cao mà giữ chức thấp (tri hành) hoặc lấy phẩm thấp tạm giữ chức cao (nghĩa quyển). Những người đỗ đạt qua các kỳ thi, với các mức độ khác nhau, phần lớn đều được nhà nước sử dụng, theo các chức vụ khác nhau. Nhìn chung, người đỗ cao sẽ được và có cơ hội được bổ nhiệm vào các vị trí cao và ngược lại. Song, vẫn có người không đỗ cao mà chỉ đỗ thấp hơn (hương cống) nhưng lại được bổ nhiệm, được đề bạt lên các chức vụ cao, thậm chí là các chức vụ chủ chốt của bộ máy nhà nước; ngược lại, có người tuy đỗ tiến sĩ, đứng hàng tam khôi (trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa), nhưng lại chỉ làm đến chức quan Tri huyện. Bởi vì, việc sử dụng quan lại căn cứ vào kết quả thi cử mà còn thông qua nhiều yếu tố khác, quan trọng nhất là hiệu quả công việc có xứng chức hay không. Nguyên tắc này nhằm bố trí quan lại vào đúng công việc theo “sở trường, sở đoản".
Bốn là, việc sắp xếp, bố trí quan lại được tuân theo một luật lệ rất nghiêm ngặt là luật hồi tỵ (law of avoidance). Hồi tỵ là một từ Hán - Việt cổ, “hồi” là trở về, “tỵ” là lánh ra. Hồi tỵ nghĩa là tránh ra, hay lánh đi. Theo đó, những người có quan hệ huyết thống, đồng hương, thầy trò, bạn bè không được cùng làm quan hay làm việc ở một địa phương, công sở. Nội dung chính của “hồi tỵ” là: quan lại không được lấy vợ, kết làm thông gia với người ở nơi mình cai quản; không đưa quan lại về quê hương, bản quán nhậm trị; quan lại không được tậu đất, vườn, ruộng, nhà tại nơi cai quản; quan lại không được lấy người cùng
75
quê làm người giúp việc; người có quan hệ thầy trò, bạn bè không được làm việc tại cùng một nơi. Nếu phát hiện được một trong những trường hợp trên thì phải tâu báo lên để thuyên chuyển những người thân thuộc đó đi các nơi khác nhau. Đây là một chính sách quản lý quan lại quan trọng với mục đích ngăn chặn tệ lợi dụng quan hệ thân tộc để gây bè, kéo cánh, thao túng quyền lực và tránh kiểu làm việc không khách quan, né tránh hoặc bao che, nâng đỡ cho nhau, gây ra nhiều tiêu cực trong bộ máy nhà nước.
Trong lịch sử, không phải triều đại phong kiến nào cũng áp dụng luật hồi tỵ trong bố trí, sử dụng quan lại. Ví dụ nhà Đinh và nhà Lý thường có xu hướng trọng quan là người địa phương, ai am hiểu địa phương nào thì điều đến địa phương đó nhậm chức. Song, cũng có quan điểm khác vì nhìn ra cái hạn chế, tiêu cực của nguyên tắc dùng người địa phương cai trị địa phương. Đó là tư tưởng và căn bệnh cục bộ, địa phương; sự thiên vị và làm việc trước hết là vì lợi ích của gia đình, dòng họ. Mỗi một chính sách quan lại đều có hai mặt và có thực tế lý lẽ riêng. Chỉ có những vị vua anh minh và công tâm mới có thể dùng luật và chính sách để phát huy được mặt tích cực và đồng thời hạn chế mặt tiêu cực. Lê Thánh Tông là vị vua đầu tiên ban hành, hiện thực hóa chính sách hồi tỵ như là một nguyên tắc cơ bản trong sắp xếp, bố trí quan lại.
Để tránh tạo lập sự liên kết giữa quan địa phương và dân sở tại, Điều 316 Quốc triều hình luật quy định:“Các quan ty ở trấn ngoài mà lấy đàn bà con gái ở trong hạt mình, thì xử phạt 70 trượng, biếm ba tư và bãi chức”.
76
Điều 334, Quốc triều hình luật quy định quan lại ở biên trấn kết thông gia với tù trưởng ở vùng đó sẽ phải tội đồ hay lưu. Tháng 4/1497, Hoàng thái tử của vua Lê Thánh Tông có lệnh: với các viên quản quân, quản dân ở Nghệ An, nếu người nào có quê quán ở ngay phủ, huyện mình cai trị, có nhà gần nha môn mình làm việc thì Lại bộ điều động đi nơi khác, chọn người khác bổ thay; tiếp đó ban chiếu rằng: “Các viên có quản quân quản dân ở các xứ, bộ Lại không được bổ dùng người quán ở bản xứ cùng là có nhà ở gần liền với địa phương mình cai quản”1. Luật Hồi tỵ thời Lê Thánh Tông còn được thực thi nghiêm ngặt trong các kỳ thi Hương, thi Hội. Triều Lê sơ còn áp dụng luật hồi tỵ nghiêm ngặt với cả độ ngũ quan lại ở cấp xã. Năm Hồng Đức thứ 19 (năm 1488), nhà vua xuống chiếu: “Từ nay, các quan phủ, huyện, châu xét đặt xã trưởng, hễ là anh em ruột, anh em con chú, con bác và bác cháu, cậu cháu với nhau thì cho một người làm xã trưởng, không được cho cả hai cùng làm để trừ mối tệ bè phái hùa nhau”2. Năm 1496, quy định này được mở rộng ra với cả những người là con cô, con cậu, con dì, con già và những người có quan hệ thông gia “Châu huyện chọn đặt xã trưởng, nếu là con cô con cậu, đôi con dì với nhau, con trai con gái cùng gả bán cho nhau làm thông gia, đều không được làm xã trưởng trong cùng một xã. Nếu đã làm xã trưởng rồi, nên chọn người nào có thể làm được việc thì lưu lại, còn thì tâu lên để cho về hạng cũ”3. Biện pháp này ____________
1, 2, 3. Ngô Sĩ Liên và sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.2, tr.444, 412, 430.
77
có tác dụng ngăn chặn tệ lợi dụng quan hệ thân tộc, gây bè kéo cánh cả về phía họ ngoại và thông gia trong việc nắm giữ các chức danh trong bộ máy hành chính nhằm thao túng làng xã.
2. Trách nhiệm và đạo đức công vụ của quan lại triều Lê sơ
2.1. Trách nhiệm thực hiện văn hóa hành chính của quan lại triều Lê sơ
Văn hóa hành chính ra đời rất sớm, gắn với sự xuất hiện của các nền hành chính trong thời kỳ cổ đại ở phương Tây và phương Đông. Ở Trung Hoa cổ đại, người ta từng biết đến những tư tưởng đầu tiên về văn hóa quản lý nhà nước trong các tác phẩm của Khổng Tử, Tôn Tử, Hàn Phi Tử. Với bản chất của mình, văn hóa hành chính vừa là biểu hiện đặc thù của văn hóa nói chung, văn hóa công quyền nói riêng, lại vừa là nhân tố bao trùm lên các bộ phận cấu thành của một nền hành chính. Có thể xem văn hóa hành chính là một tổng thể các giá trị, niềm tin, truyền thống, tâm lý, thói quen, tiền lệ được tạo lập và biểu hiện trong các bộ phận cấu thành của nền hành chính như thể chế, tổ chức bộ máy, đội ngũ quan lại. Ở Việt Nam, với gần 1 thế kỷ tồn tại và phát triển, triều Lê sơ đã xây dựng được văn hóa hành chính mang đậm bản sắc riêng. Văn hóa hành chính ấy thể hiện rõ nét trên các khía cạnh cụ thể sau:
Thứ nhất, văn hóa hành chính được thể chế hóa trong các quy định, tạo ra một hành lang pháp lý thống nhất, ổn
78