"
Cẩm Nang Đốt Nhà Các Văn Hào New England PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cẩm Nang Đốt Nhà Các Văn Hào New England PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
Brock Clarke
CẨM NANG
đốt nhà
các văn hào
NEW ENGLAND
ACE LE dịch
Phát hành: Nhã Nam | Nhà xuất bản Hà Nội
ebook©vctvegroup
PHẦN MỘT
1
Tôi, Sam Pulsifer, là kẻ đã lỡ tay đốt trụi Dinh thự Emily Dickinson* tọa lạc ở thị trấn Amherst, Massachusetts, nhân đó giết toi hai mạng người để rồi phải ngồi bóc lịch suốt mười năm ròng, và cũng vì vậy, theo lời các học giả văn học Mỹ viết thư chì chiết, sẽ còn phải trả giá đắt suốt quãng đường đời trầy trụa sau này. Sự vụ đó vùng này chẳng ai còn lạ gì, nên tôi sẽ không đi sâu vào nữa. Chỉ nói thêm rằng, nếu có một đỉnh Rushmore* phiên bản Massachusetts tạc lại những tấn bi kịch thảm khốc nhất thì sẽ có tượng nhà Kennedy, kế đến là Lizzie Borden* cầm rìu, rồi tới những phù thủy bị thiêu sống ở Salem, và đứng chót là thằng tôi đây.
Và thế là tôi vào tù, và nhờ vị thẩm phán rủ lòng thương mà tôi mới được đày vào một nhà khám với hàng rào an ninh tối thiểu tại thành phố Holyoke. Nơi này rặt những chuyên gia phân tích trái phiếu cùng luật sư, các nhà giao dịch nội nhật, quản đốc thành phố và giám hiệu trường học, thảy đều bị bắt vì tội biển thủ, chứ nào có ai như tôi, một thằng choai choẹt mười tám tuổi đầu chỉ vì lỡ tay làm cháy nhà, chết người, mà hai bàn tay bỗng lấm lem máu và bồ hóng, con tim trĩu nặng và cả đống bài học đường đời giáng xuống đầu trong khi đến mảnh bằng phổ thông còn chưa kịp giắt lưng. Thế là tôi dấn thân vào chốn ngục tù và ra sức cải tạo. Tôi đăng ký học lớp tự rèn luyện mang tên Trường học Bản thân diễn ra hai tuần một lần và tiếp thu được những đức tính đổi đời như lòng kiên
nhẫn, nết cần cù, thái độ lạc quan, và cũng ở đây tôi đã thi lấy bằng phổ thông. Tôi còn giao du với nhóm phạm nhân vốn là một đám phân tích trái phiếu ưu tú đến từ Boston, phải vào xà lim vì giao dịch nội gián. Sau song sắt, họ tụ họp nhau lại để viết những pho hồi ký dông dài về loạt can án tày đình, chuỗi phi vụ thác loạn và cả núi tiền - họ dùng từ như vậy đấy - kiếm được nhờ vét kiệt quỹ hưu trí của bao người già cả và đập tan tành khoản tiết kiệm cho đại học của tụi thanh niên. Ở đám này toát lên vẻ tinh tường mọi chuyện và họ có một lô từ vựng để tả những xơ múi béo bở trên đường đời, nên tôi đặc biệt chú tâm vào những buổi động não của họ về việc viết hồi ký, lắng nghe sít sao khi họ tranh luận liệu quần chúng độc giả có cần phải biết về những quãng tuổi thơ đọa đày của họ để thấu hiểu tại sao họ lại cần kiếm nhiều tiền như vậy theo cái cách họ đã làm hay không. Tôi cẩn thận ghi chú lại khi họ xẻ đôi thế giới thành nhóm chộp giật và nhóm bị chộp giật, loại người làm việc xấu theo cách hay ho - ung dung, nhàn nhã - và loại đầu lừa bị dắt mũi cả đời.
“Đầu lừa à,” tôi thắc mắc.
“Ờ,” một gã đáp. “Nghĩa là khù khờ, đờ đẫn ấy mà.” “Cho một ví dụ đi,” tôi hỏi, và bọn họ soi tôi chòng chọc với những luồng mắt quắc ánh kim xanh, bẩm sinh đã có chứ không cần phải luyện ở Choate hay Andover*. Họ cứ soi mãi cho đến khi tôi vỡ ra rằng chính mình là một ví dụ điển hình chứ chẳng đâu xa. Và bài học họ đã dạy tôi là thế đấy: tôi là một thằng đầu lừa. Vậy nên tôi đành cam chịu sự thật và thôi mơ mộng về việc phấn đấu trở thành một thứ gì khác - một nhà phân tích trái phiếu hay hồi ký
gia chẳng hạn - và cứ thế mà tiếp tục. Tiếp tục cuộc sống. Đáng nói là, ở mỗi người tôi đều học được một thứ gì đó, kể cả từ anh chàng đồng tính cùng dãy xà lim mà tôi toàn phải lẩn tránh, một tay kế toán doanh nghiệp lịch thiệp nhưng không thật thà lắm tại sở Arthur Andersen*, người đến lúc ấy mới chợt khám phá ra xu hướng tình dục thật của mình. Anh ta đã thổ lộ với tôi bằng giọng điệu nghẹn ngào đau đớn rằng anh ta ham muốn tôi - ham muốn tôi, vâng, cho tới lúc tôi thú nhận mình vẫn còn là trai tân, sự thật đấy ạ, và điều này, không rõ vì sao, lại khiến anh ta cụt hứng không ham tôi nữa, như thế hẳn là chẳng ai thèm ngủ với những gã trai hai mươi tám tuổi đầu mà vẫn còn tân, và tôi nghĩ đây cũng là kiến thức bổ ích đấy chứ nhỉ.
Sau cùng, tôi học được cách chơi bóng rổ từ một bác da đen nọ tên là Terrell, một trong những niềm vui lớn tô điểm quãng đời tù ngục của tôi, cũng là một niềm vui có kết cục đắng ngắt. Terrell, người đã tự biên hàng loạt ngân phiếu cho mình khi còn đảm nhiệm ghế thống đốc thành phố Worcester, nhập khám trước khi tôi mãn hạn tù ba năm, và bất cứ khi nào bác ta hạ gục tôi trong những trận đấu đơn (một việc có tần suất thấp ngay cả khi tôi mới học chơi, vì mặc dù khỏe như vâm nhưng Terrell lại lùn hơn tôi và sở hữu độ linh hoạt của một trụ cứu hỏa chôn trên vỉa hè; thêm nữa bác ta lại già gấp đôi tuổi tôi, hai đầu gối xập xệ và kêu lộp rộp như củi khô khi chạy) - bất cứ khi nào hạ gục được tôi, Terrell sẽ hò hét, “Đàn ông đích thực là ta đây.” Nghe rõ là hay, thế nên sau khi dễ dàng thắng ván đấu cuối cùng, tôi cũng la toáng lên, “Đàn ông đích thực là ta đây.” Terrell quả quyết rằng tôi đã đá đểu bác ta nên nhảy
vào thụi đầu tôi tới tấp, và vốn có tật trở nên bị động mỗi khi đối mặt với những cơn thịnh nộ, tôi cứ đứng đực ra đó chịu trận mà chẳng tự vệ gì. Khi bị toán bảo vệ lôi xềnh xệch vào phòng biệt giam, bác ta còn kịp thề thốt sẽ tẩn cho tôi biết tay khi được thả, đúng thật vạ miệng, bởi đương nhiên chính vì mấy câu la lối đó mà bác ta phải bị nhốt lâu hơn bình thường. Đến lúc Terrell được thả thì tôi đã xuất trại và về nhà với bố mẹ.
Sống với hai cụ, ấy cũng không phải một việc suôn sẻ lắm. Trước hết, vụ tôi đốt Dinh thự Emily Dickinson đã khiến họ tan nát tim gan rồi, vì mẹ tôi là giáo viên ngữ văn cấp ba còn bố là biên tập viên nhà xuất bản của một trường đại học trong thị trấn, nên thơ văn bay bướm với họ là tâm là túy; hai cụ chẳng thèm đếm xỉa gì đến phim ảnh hay truyền hình, nhưng hễ bạn xòe ra một bài thơ hay ho là thể nào họ cũng rơi lệ sụt sùi hoặc thở dài tư lự. Thêm nữa, cư dân Amherst làm sao vui vẻ nổi khi tôi thiêu rụi khu tư gia nổi tiếng nhất thị trấn và giết đứt mất hai công dân, thành thử lúc nào họ cũng làm khó dễ bố mẹ tôi. Các bạn sẽ chẳng gặp khó khăn gì khi đi tìm căn nhà cổ lỗ ọp ẹp của gia đình tôi trên con phố Chicopee: nó chính là căn có lối đi luôn bị phun sơn dòng chữ QUÂN GIẾT NGƯỜI! (cái này thì tôi hiểu) hoặc ĐỒ PHÁT XÍT (cái này thì tôi chịu), hoặc một câu nào đó của Dickinson ám chỉ sự trả thù, nhưng các bạn chẳng thể đoán được sự trả thù đó sẽ diễn ra thế nào, vì câu trích thì dài dằng dặc còn nét chữ thì nhòe nhoẹt chẳng ra hồn chữ, có thể là do kiệt sức hoặc quá phấn khích. Rồi khi tôi đi tù về thì còn tệ hại nữa. Chúng tôi bị xỉa xói bởi hội đồng nghệ thuật địa phương và một số bài báo đả kích không mời cũng viết, làm cho
những đứa trẻ láng giềng vốn chẳng quan tâm cóc khô gì đến Emily Dickinson hay ngôi nhà của bà cũng bắt đầu ném trứng và chăng giấy vệ sinh lên mấy cây bạch dương thanh cao trước sân, nên suốt một quãng thời gian dài ngày nào trông ngôi nhà cũng như thể là được trang trí cho Halloween vậy. Thế rồi mọi việc trở nên thực sự quá quắt khi có kẻ chọc thủng hết các lốp chiếc Volvo của hai cụ, và một lần nọ trong giây phút cuồng nộ hoặc bi ai vô hạn, ai đó đã liệng nguyên một chiếc dép hiệu Birkenstock qua cửa sổ hiên nhà. Một chiếc của nam giới, chân phải, cỡ mười hai.
Tất cả những việc trên xảy ra ngay trong tháng đầu tiên tôi quay về. Đến cuối tháng, hai cụ gợi ý tôi chuyển ra ngoài sống. Tôi vẫn nhớ đó là hồi tháng Tám, vì lúc đó ba chúng tôi đang ngồi ngoài hiên trước và dãy quốc kỳ được treo lên từ Ngày Độc Lập vẫn còn đang bay phần phật dưới nắng trời lung linh để tiện thể chờ luôn đến Lễ Lao Động, quang phổ rót xuyên qua những tán lá phong và bạch dương tạo nên một cảnh tượng tuyệt đẹp. Bạn có thể hình dung được việc bố mẹ yêu cầu tôi dọn ra ngoài ở đã làm tôi tổn thương đến mức nào, mặc dù Trường học Bản thân đã khuyến cáo rằng cuộc sống sau khi ra tù sẽ không dễ dàng gì và rằng tôi không nên tự đánh lừa mình tin vào điều ngược lại.
“Nhưng con đi đâu bây giờ?” tôi thắc mắc.
“Đi đâu cũng được con ạ,” mẹ đáp. Lúc đó tôi cứ nghĩ giữa hai bậc phụ huynh thì bà là người nghiêm khắc hơn và đã đặt nhiều kỳ vọng vào tôi nên sự thất vọng chất trên vai bà hẳn cũng trĩu nặng hơn nhiều. Tôi vẫn nhớ mắt bà đã ráo hoảnh như giếng khô trong phiên tòa xử tôi khi ban bồi thẩm công bố bản án, còn bố thì khóc
tu tu giàn giụa, và lúc này đây ông cũng đang bắt đầu mếu máo. Tôi ghét phải nhìn thấy họ thế này: một người lạnh giá, người kia lã chã. Tôi nhớ hồi mới lên sáu, tôi được bố mẹ dạy trượt băng trên một hồ nước trong khu sân golf công cộng của Amherst. Lớp băng đóng dày cộp, sạch muốt và loang loáng nắng đến độ lũ cá và những quả bóng golf đi lạc chắc hẳn phải rất hoan hỉ khi bị kẹt cứng trong đó. Mặt trời rọi xuyên qua đám mưa tuyết, sưởi ấm bầu không khí lên chút đỉnh. Cuối cùng khi tôi cũng trượt được vòng quanh rìa hồ mà không bị ngã, bố mẹ cùng thưởng cho tôi một tràng pháo tay giòn vang thật lâu; hai người đứng cùng nhau trên chiến tuyến của những bậc phụ huynh tự hào và hân hoan. Những giây phút đó đã xa rồi: xa, xa mãi, xa mãi mãi.
“Hay là con đi học đại học đi, Sam,” bố lên tiếng khi đã bình tâm lại.
“Ý kiến hay đấy,” mẹ tán đồng. “Bố mẹ không ngại trang trải chi phí cho con đâu.”
“Vâng,” tôi vô thức đáp, vì bấy giờ đang mải chăm chú ngắm hai bậc sinh thành lần đầu tiên kể từ khi trở về, và tôi nhận thấy mình đã khiến họ thay đổi thế nào. Trước khi tôi đốt Dinh thự Emily Dickinson, họ còn ra dáng những công dân Mỹ kiểu mẫu, khỏe mạnh, có phần hạnh phúc, thỉnh thoảng cũng đi nghỉ mát và làm vườn, đã vượt qua đôi lần sóng gió (khi tôi còn nhỏ, bố đã rời xa chúng tôi trong ba năm liền, và sau khi ông bỏ đi thì mẹ bắt đầu kể cho tôi nghe nhiều chuyện hoang đường về Dinh thự Emily Dickinson, và tất cả những chuyện này là một phần của câu chuyện lớn mà tôi rồi sẽ kể và dù có muốn cũng không thể không kể). Còn
bây giờ nhìn hai cụ chẳng khác gì một cặp khung xương mặc đồ nhung kẻ và xỏ giày lười. Đôi tròng mắt đã hõm sâu như muốn thoái lui vĩnh viễn vào trong xương sọ. Vài phút trước đó, tôi còn lải nhải với họ về sự trinh trắng của mình và anh chàng kế toán phóng đãng làm ở Arthur Andersen. Bố mẹ tôi, như tôi ngày đó đã ngỡ, đều là những người Yankee chân chất không hay tọc mạch về chuyện riêng tư của bất kỳ ai, song Trường học Bản thân đã quả quyết rằng việc kể cho người thân yêu của mình tất tần tật là lành mạnh và cần thiết. Giờ thì tôi hối tiếc điều đó. Tại sao ta cứ hay làm đau bố mẹ thế nhỉ? Chẳng có cách nào giải thích được việc này ngoài việc cứ coi như là đang luyện tập để sau này ta lại làm đau con cái theo đúng cái cách ấy.
“Vâng,” tôi nhắc lại. “Con sẽ đi học đại học.” Và nói: “Con yêu bố mẹ lắm.”
“Ôi, bố mẹ cũng yêu con,” bố thốt lên, rồi lại nức nở khóc. “Dĩ nhiên rồi,” mẹ tiếp lời rồi quay sang bố: “Bradley, đừng có khóc nữa.”
Đêm đó khi mẹ đã say giấc, bố rón rén vào phòng tôi mà không gõ cửa, cúi xuống trước giường - hẳn để nói gì đó với tôi hoặc kiểm tra xem tôi ngủ chưa. Tôi vẫn còn thức, đầu óc bộn bề những viễn cảnh lạc quan, rằng tôi sẽ đi học đại học rồi gây dựng một cuộc sống tinh tươm, thật thà, không đau đớn cho bản thân, và hai cụ sẽ tự hào thế nào khi tôi đạt được điều đó. Bố tôi, cúi gập người, trông tựa một chiếc cần cẩu đứng đó để chuẩn bị vực tôi dậy với cái móc câu hoặc đập cho tôi sụp sụn với quả sắt ngàn cân.
“Xuống nhà đi,” ông thầm thì trong bóng tối, cúi sát mặt tôi. “Bố
muốn cho con xem cái này.”
Tôi bèn trở dậy đi theo ông. Bố dẫn tôi xuống phòng làm việc của ông, căn phòng này - cũng như hầu hết những căn phòng khác trong nhà - từ sàn tới trần đâu đâu cũng xếp sách. Ông đặt người xuống ghế, mở ngăn kéo chiếc bàn con kề bên, rút ra một hộp giày hiệu Converse, thứ hộp mà người ta vẫn dùng để đựng tranh ảnh cũ hoặc thiệp Giáng sinh, rồi trao cho tôi. Tôi mở nắp thì thấy bên trong đầy ắp phong bì, tất cả đều đã được rọc bằng dao, và tất cả đều đề gửi cho tôi. Các lá thư vẫn còn nằm trong phong bì, nên tôi bèn rút chúng ra và lần lượt đọc.
Ít nhất cũng phải cả trăm lá. Một vài lá, như tôi đã đề cập, gửi từ những vị học giả văn học Mỹ, nguyền rủa cho tôi bị đày xuống địa ngục, vân vân và vân vân. Những lá thư cay độc đầy chất học thuật này đều có giọng điệu chán đời - nội dung rặt những điển cố bi ai, và nhất quyết từ chối cách thức dùng từ giản lược* - thành thử tôi chẳng để ý mấy đến chúng. Tôi còn nhận được vài bức từ một số kẻ cuồng mộ việc phóng hỏa, tất cả đều na ná như bài hát “Đốt đi, cưng, đốt nữa đi” thời Watt Riots. Chúng cũng chẳng làm tôi hứng thú. Sự thật rằng quả đất này lóc nhóc những tín đồ gàn dở thì có gì mới mẻ hơn việc nó vốn đã chật cứng những con người tẻ ngắt cơ chứ.
Nhưng còn có cả những lá thư khác, đến từ khắp trong và ngoài New England: từ Portland, Bristol, Boston, Burlington, Derry, Chicopee, Hartford, Providence, Pittsfield - từ cả các thị trấn và thành phố ở New York và Pennsylvania nữa. Chúng được viết bởi những người sống gần tư gia của các đại thi hào và bày tỏ nguyện
vọng muốn nhờ tôi tới đốt hết những ngôi nhà đó đi. Một ông ở New London, Connecticut mong tôi tới đốt nhà của Eugene O’Neill tại vì kịch tác gia này từng là một tay bợm rượu khướt khượt và sẽ ảnh hưởng xấu tới lũ học sinh đến tham quan nhà ông, mà xét cho cùng, bọn trẻ con cần nhất là những tấm gương xán lạn của ngày hôm nay để noi theo. Một phụ nữ ở thị trấn Lenox, Massachusetts, ao ước tôi châm đuốc thiêu trụi nhà của Edith Wharton vì những vị du khách tới tham quan luôn đậu xe ngay trước hộp thư nhà cô ta và thêm nữa, theo cô này thì Wharton chẳng qua chỉ là một mụ rởm đời suốt ngày ca thán. Lại có bác nông dân nuôi bò sữa ở làng Cooperstown, New York, khẩn khoản nhờ tôi trút xăng xuống ống khói của Dinh thự James Fenimore Cooper vì không thể chịu được việc ông nhà văn này xuất thân từ một dòng tộc sù sụ của nả như thế, trong khi gia đình của chính bản thân bác ta thì quá sức bần hàn. “Tôi đã nếm trải những cơn bĩ cực kinh khủng hơn tất cả những gì cái gã Cooper từng trải qua,” bác ta viết. “Cái gia tộc đó đã giàu nứt đố đổ vách như thế mà còn hét giá mười đô la một lần vào cửa, ấy thế mà thiên hạ vẫn nườm nượp kéo vào. Cậu có chịu đến giúp chúng tôi hóa vàng cái ngôi nhà của gã chó đẻ đó không thì bảo? Chúng tôi sẵn sàng mở hầu bao; tôi sẽ bán luôn lứa gia súc nếu cần. Mong chờ hồi âm từ cậu.”
Còn nhiều lá thư đều bày tỏ chung một mục đích: muốn tôi thiêu rụi tư gia của đủ các thể loại văn hào đã về nơi thiên cổ - nào Mark Twain, Louisa May Alcott, Robert Lowell, nào Nathaniel Hawthorne. Có những người muốn tôi đốt nhà của những văn sĩ tôi thậm chí còn chưa hề nghe tên. Tất cả đều háo hức chờ đợi tới ngày tôi mãn
hạn tù. Và tất cả đều sẵn lòng chi trả thù lao cho tôi. “Ái chà,” tôi thốt lên với bố khi đã đọc xong đống thư. Ông chẳng nói gì từ nãy đến giờ. Thật thú vị đấy chứ: khi mẹ ở bên, bố luôn tỏ ra yếu đuối và đa cảm - một con người mỏng manh, thừa thãi và gần như là ngốc nghếch. Song giờ đây, trong căn phòng này, bên chồng thư này, ở ông lại toát lên một vẻ thông thái - lặng lẽ và uy nghiêm như một đức Phật đeo kính gọng tròn. Tôi cảm nhận được tầm nghiêm trọng của vấn đề từ bên trong cổ họng, trên khuôn mặt và khắp toàn cơ thể mình. “Sao bố không kể cho con về những lá thư này lúc con còn trong tù?”
Ông nhìn tôi, lặng im. Đây hẳn là một chiêu thử thách, vì đây, đương nhiên, là những gì mà những nhà thông thái làm: thử thách người kém thông minh để giúp họ bớt kém thông minh.
“Bố đã muốn bảo vệ con,” tôi phát biểu, và ông gật đầu. Tôi thấy phấn khởi khi biết mình có thể trả lời đúng, nên tiến tới. “Bố muốn bảo vệ con khỏi những kẻ chụp mũ cho con là một tên hỏa tặc.”
Câu nói này khiến bố tôi rơi vào một cuộc đấu tranh tư tưởng cam go, đôi môi ông hết mở ra rồi lại khép vào, đến cả hơn chục lần. Cứ như là xem thần Atlas lấy đà để nhấc bổng cái tảng đá khổng lồ mà chúng ta đang sinh sống bên trên. Rốt cuộc thì ông cũng nói ra, một cách thiểu não, muôn phần thiểu não, “Sam ơi, con là một tên hỏa tặc mà.”
Ôi, đau lòng quá! Nhưng đó là sự thật, và tôi cần phải được nghe rõ, phải được bố nói cho nghe, cũng như tất cả chúng ta ai cũng cần bố mình nói sự thật, để rồi một ngày ta cũng sẽ nói sự
thật cho con cái của mình. Và đến ngày đó con cái của tôi cũng sẽ làm cái việc mà tôi đã làm với bố: chối từ sự thật.
“Bố nhầm rồi,” tôi đáp. “Con là sinh viên đại học.” Tôi đóng nắp hộp thư, trao lại cho ông, và quay gót bước đi trước khi ông kịp thốt lên câu nào. Khi đã quay lại giường, tôi buộc bản thân phải hứa rằng sẽ không bao giờ nghĩ tới xấp thư đó nữa. Hãy quên chúng đi, tôi tự ra lệnh cho mình. Tôi đinh ninh là mình sẽ làm được. Vì xét cho cùng, đi học đại học để làm gì nếu không phải là để xóa sạch khỏi não bạn những gì bạn không muốn nhớ và lấp đầy nó với những điều mới mẻ trước khi những thứ cũ kỹ không ai muốn kia tìm đường quay về?
Hai tuần sau, tôi rời nhà, khăn gói lên ký túc; và mười năm sau tôi mới gặp lại hai cụ, mười năm sau tôi mới đọc lại những lá thư nọ, mười năm sau tôi mới chạm mặt một số tác giả của những bức thư, mười năm sau tôi mới phát hiện ra một số điều về bố mẹ mình mà tôi chưa từng mảy may nghi ngờ cũng như chưa từng mong muốn được biết, mười năm sau tôi mới quay lại chốn tù đày, mười năm sau những gì xảy ra mới xảy ra.
Nhưng sao tôi lại kể ngấu nghiến thế nhỉ. Hãy chậm lại đã. Đại học: vì đã cuối mùa nộp đơn xin học nên tôi đến với trường duy nhất chịu nhận mình - Đại học Bà Chúa Hồ ở thành phố Springfield, cách Amherst hai mươi dặm về phía Nam. Đó là một trường Công giáo, mới bắt đầu chấp nhận cho nam giới nhập học vì có vẻ như ở phương Tây bây giờ đang ít dần ít mòn những phụ nữ Công giáo chịu chi một khoản kếch xù để dấn thân vào một môi trường sư phạm tiệt bóng nam nhi, dĩ nhiên là không kể đến Chúa Jesus và
các linh mục. Mà thậm chí những linh mục có trách nhiệm vận hành trường cũng chẳng muốn dạy ở đây. Một vài ma-xơ không có nhiệm vụ gì ngoài việc chủ trì lễ ban thánh thể cho mấy mống lưa thưa lúc sáng sớm được đứng đảm nhiệm hai lớp - Tôn giáo Toàn cầu 101 và Tôn giáo Toàn cầu 102 - còn những môn khác đều được đảm nhiệm bởi các giáo viên bình thường, vô thần, những người chẳng kiếm được việc ở bất kỳ nơi nào khác.
Chuyên ngành đầu tiên tôi chọn là ngữ văn, vì tôi ý thức rõ mình đã làm bố mẹ thất vọng và sầu khổ đến mức nào và tôi muốn họ có thể tự hào về tôi bất chấp tất cả những thứ đã xảy ra. Thêm vào đó, hồi còn nhỏ tôi vẫn thường được mẹ đọc truyện cho nghe, nhỉnh hơn một chút thì bà bắt tôi ngốn tuốt luốt những tác phẩm quan trọng và viết bản thu hoạch phân tích tỉ mỉ vai trò tối quan trọng của mỗi cuốn, thế nên tôi kết luận rằng ít nhất mình cũng được dạy dỗ bài bản và có căn cơ để thành công. Thêm vào đó là bài học từ nhóm phân tích trái phiếu cùng với những pho hồi ký và những câu chuyện của họ; họ thao thao bất tuyệt kể về bản thân mà không biết mệt. Không nói về mình thì nói về ai? dường như là triết lý của họ, và có thể họ có lý. Tôi nghĩ có thể sau khi đọc những câu chuyện của người khác, tôi sẽ hiểu được cái gì đó về câu chuyện của mình.
Nhưng tôi đã nhầm to, vì đó không phải là cách mọi thứ vận hành. Làm sao bạn có thể lặp lại quá khứ? Và những cuốn sách tôi từng nghĩ là rất quan trọng và sâu sắc giờ đây chợt trở nên hết mực tầm thường và tôi không sao tập trung vào chúng được. Thay vì động não xem Gatsby có thực sự vĩ đại không, thì tôi lại ngồi đồng
ngắm những mẩu phô mai nướng đang ẩn náu trên chòm râu dê của tiến sĩ Melton. Rồi một lần, khi cả lớp đang đọc thơ Dickinson thì bà giáo tuyên bố lẽ ra sẽ đưa cả lớp tới tham quan Dinh thự Dickinson nhưng đáng tiếc nó đã bị hóa ra tro từ bao nhiêu năm nay rồi, và lúc bà ấy nặn óc cố nhớ ra tên gã hung thủ, tôi nhận ra tôi không muốn kể lại câu chuyện của mình - tôi đã hiểu quá rõ hậu quả. Thế là để chặn đứng cũng như tháo thân khỏi chuỗi thẩm vấn và tố cáo ngược chắc chắn rồi sẽ xảy ra, tôi bèn vờ ho sặc sụa rồi tẩu thoát vào nhà vệ sinh, và biến mất khỏi lớp đó nguyên cả học kỳ, và lý do duy nhất tôi được D mà không phải F cho môn này cũng chính là lý do vì sao tôi được D chứ không phải F cho các môn ngữ văn khác: trường không muốn cho bất kỳ sinh viên nào thôi học giữa chừng, vì đối với họ từng đồng học phí đều quý cả. Ngôi trường này quả thực đã lụp xụp lắm rồi. Hàng mảng vữa tường bong tróc rớt đầy hành lang. Trần nhà ọp ẹp đã trũng oằn cả xuống. Ngay cả thập giá treo trong các lớp cũng cần trùng tu gấp.
Điểm số đì đẹt là nguyên nhân làm tôi giã từ ngữ văn, nhưng còn có một nguyên nhân lớn hơn: tôi không thể rũ bỏ được cảm giác có một lĩnh vực khác mà tôi nên theo đuổi, một lĩnh vực tôi chưa từng thử hoặc cân nhắc tới, một lĩnh vực mới mẻ và hay ho hơn. Rồi tôi cứ ngồi đó, trong lớp Văn học Trung cổ, thay vì học thứ tiếng Anh cổ mà người hùng Beowulf và quái vật Grendel đã từng sử dụng, trong đầu tôi lại chỉ ong ong một giọng nói thôi thúc, Phải còn thứ gì khác hay ho hơn. Không ngừng tự hỏi, Còn gì nữa? Còn gì nữa? Đây quả là một bất ngờ, bởi xưa nay tôi đâu phải típ người gan to chí lớn, và câu hỏi - Còn gì nữa? - cũng chưa bao giờ được
cất lên từ miệng tôi. Nhưng giọng nói trong đầu đã giúp tôi đặt ra câu hỏi ấy.
Tóm gọn nhé: tôi chào tạm biệt ngữ văn và văn học cùng những người viết ra chúng - mãi mãi, tôi từng đinh ninh - để theo đuổi ngành kỹ nghệ đóng gói. Đây là một bước đi đúng đắn, vì ba lý do. Một, những nhà đóng gói học sẽ ít có khả năng biết được tôi đã đốt Dinh thự Emily Dickinson, hoặc biết Emily Dickinson là ai, hoặc quan tâm tìm hiểu. Hai, tôi vốn có sở trường nhớ rõ chất liệu đóng gói nào là tốt nhất cho vật dụng dễ vỡ nào, và tôi hiểu ngay tắp lự vì sao xé những túi khoai tây chiên cỡ nhỏ theo chiều dọc thì tốt hơn, trong khi những túi lớn cho cả gia đình lại nên xé theo chiều ngang, và cái băng xé phải nằm ở đâu cho phù hợp với từng cách xé. Tôi chưa bao giờ đạt điểm thấp hơn B+ cho môn kỹ nghệ đóng gói và rút gọn bốn năm học phần xuống còn nhõn hai năm, và ngay sau khi tốt nghiệp tôi được nhận vào làm việc theo đúng chuyên môn tại bộ phận phát triển và kiểm nghiệm sản phẩm của Công ty Đóng gói Tiên phong ở thành phố Agawam, ngay ngoại ô Springfield.
Đó là hai điều tốt đẹp tôi nhận được từ quyết định chuyển sang ngành kỹ nghệ đóng gói. Điều tốt đẹp thứ ba là tôi đã gặp được vị hôn thê của mình.
Tên nàng là Anne Marie, chúng tôi gặp nhau trong lớp chuyên đề cuối khóa ngành kỹ nghệ đóng gói, nơi mà bạn khẳng định vị thế và lựa chọn sự nghiệp, vân vân và vân vân. Anne Marie rất xinh xắn, ưa nhìn đến phi thường, thật đấy, và cao ráo, với đôi chân dài miên man nhìn cứ như chuẩn bị chạy trốn khỏi người nàng đến nơi, và mái tóc dễ thương đen nhánh xoăn lăn tăn lúc nào cũng được
bới cao lên tận đỉnh đầu, nụ cười thì đẹp rạng rỡ đến mức khiến cho bạn hóa ngây ngô nhưng chẳng vì vậy mà mảy may phiền lòng. Còn gì nữa? Trong những giây lát trầm tư, Anne Marie hút một loại thuốc thanh tú, phong cách mà theo kinh nghiệm của một người ngắm phụ nữ lành nghề như tôi, chỉ có những ai thanh tú, phong cách mới hay hút. Nói tóm lại, trông nàng hệt như một nữ thần người Ý, và đó là một liên hệ toàn toàn hợp lý, vì họ của nàng là Mirabelli còn quê thì ở Bologna.
Giờ thì đến lượt mã ngoài của tôi: hồi nhỏ tôi gầy cao lêu đêu với quả đầu đại bự, nhìn hệt một que diêm di động. Khi ở tù, tôi cũng có tập tạ đôi chút, luyện tập những bó cơ tôi không hề biết là mình có, và quá trình đó cũng lại là một ví dụ chứng minh tôi là thằng đầu lừa. Gương mặt là điểm nổi bật nhất ở tôi: nó đỏ dừ, đôi lúc nhìn hồng hào, dày dạn sương gió, có thể tạm gọi là căng tràn sức sống, và đôi lúc thì nó rực lửa. Tôi mà xấu hổ thì ngay cả trong đêm tối bạn cũng sẽ lấy mặt tôi ra mà soi được đường. Song Trường học Bản thân khuyến cáo rằng ta không nên khắt khe quá với chính mình, vì thế có thể nói rằng tôi cũng, xét một cách toàn diện, bảnh trai vừa vừa. Hàm răng tôi chỉ hơi hơi khấp khểnh, và hầu hết còn trắng tươm. Mái tóc thì hầu như còn dày nguyên bộ, loăn xoăn nâu. Khi còn nhỏ, ngực tôi bị hõm vào, nhưng nếu quan sát kỹ thì trẻ con hầu như đứa nào cũng thế và việc tập tạ trong tù đã giúp tôi cải thiện nên mặc dù ngực tôi không nở nang như chiếc thùng phuy thì chắc cũng phải được nửa thùng. Hai chân tôi giờ đã hết khẳng khiu và có cơ bắp rõ rành. Nếu đầu tôi nhỏ hơn một chút thì chắc tôi đã được coi là có một chiếc mũi La Mã. Mặc dầu gần
như mù dở, đôi mắt biếc xanh của tôi không cần ẩn mình sau đôi cặp mục kỉnh, vì đã có kính áp tròng. Mà đã đeo thứ ấy vào thì đôi mắt tôi cũng thuộc loại có thể nhìn xuyên thấu vào sâu thẳm tâm hồn bạn đấy nhé. Song kể cả thế thì tôi cũng vẫn không phải người được khen là có ngoại hình ngon lành. Thêm nữa là tôi vẫn còn tân, bạn đừng quên nhé, và tất cả những điều đó là lý do vì sao tôi không dám một lần bắt chuyện với Anne Marie, ngay cả khi chúng tôi học cùng nhau năm lớp liền: hiển nhiên là nàng xinh đẹp quá tầm với để tôi có thể bắt chuyện.
“Ngốc thế nhỉ,” nàng đáp khi tôi thổ lộ điều này sau khi cưới. “Em làm gì mà xinh quá đến mức anh không thể bắt chuyện được. Em chưa từng nghĩ vậy. Chưa một lần.”
“Thế nếu em không nghĩ rằng mình quá xinh đẹp,” tôi vặn vẹo, “thì tại sao em không tiến tới bắt chuyện với anh trước?” “Câu hỏi hay đấy,” nàng đáp, và tôi chưa bao giờ có được câu trả lời.
Nhưng quay trở lại với lớp chuyên đề, nơi chúng tôi định hướng tương lai của mình, và con đường Anne Marie chọn là cái nắp - cái nắp bằng nhựa dẻo bạn dùng để đậy lên tách cà phê và sô-đa khi đem đi ngoài đường ấy. Đó là học kỳ mùa xuân năm cuối khóa, và Anne Marie xui xẻo thay đã phải thuyết trình ngay sau James Nagali, nam sinh duy nhất ngoài tôi tại Bà Chúa Hồ, người đã trình bày một bài siêu đỉnh về kỹ nghệ xả xà phòng tân tiến. James tới từ Bờ Biển Ngà, và ngay sau khi tốt nghiệp đã đầu quân cho hãng xà phòng Ngà Ngọc, song tôi không nghĩ là có mối liên hệ nào ở đây.
Cầm trịch buổi chuyên đề là giáo sư Eisner, một ông già đầu hói
hoác nhìn hệt như một hình nhân quảng cáo cho các loại trán và theo đồn đại thì đã làm hỏng một thiết kế mang tính cách mạng về bao bì băng vệ sinh, khiến Procter & Gamble lỗ vài triệu đô - đó là lý do vì sao, lời đồn cho hay, ông này phải lui về làm giáo vườn cho lũ chúng tôi. Giáo sư Eisner trầm trồ tán dương bài thuyết trình của James, nhưng lại có thái độ khác hẳn với bài của Anne Marie. Ông ta moi móc những lỗi sai về cấu trúc trong thiết kế nắp của nàng; mỉa mai hỏi liệu nàng có biết cái cảm giác cà phê nóng được rót không phải vào miệng mà là xuống cằm và cổ không; vặn vẹo Anne Marie rằng có phải nàng đã chẳng cho vào đầu tí gì trong suốt bốn năm mài đũng quần tại Bà Chúa Hồ không; rồi cật vấn về kế hoạch dự phòng của nàng khi những lời mời làm việc ở các công ty uy tín không rủ nhau lăn tới chỗ nàng. “Bởi vì lẽ tất dĩ, có mà lăn vào mắt,” ông ta chốt lại như vậy.
Anne Marie quả thật không phải là một nhà đóng gói học bẩm sinh, và cũng đúng là những chiếc nắp của nàng, nếu thực sự được sản xuất, chắc hẳn sẽ làm giãy bỏng một vài khuôn mặt và đẻ ra vài vụ kiện. Nhưng gì thì gì, tôi vẫn không thích cái cách Eisner miệt thị nàng. Tôi quay qua Anne Marie. Dù trông nàng không có vẻ gì là bực bội hay nước mắt lưng tròng - nàng rất kiên gan, đến giờ vẫn vậy - nhưng Anne Marie rõ ràng đang mân mê chiếc vòng cổ có mặt thập giá vàng với vẻ bồn chồn, và tôi thấy có trách nhiệm lên tiếng bênh vực nàng.
“Này giáo sư Eisner,” tôi gọi. “Căng nó vừa thôi. Tử tế chút đi.” Thú thực, tôi không hẳn là đã lấy hết hơi trong phổi mà hét toáng lên, và cũng có thể giáo sư Eisner chả nghe thấy tôi nói, vì ông ta
đã nhảy ngay sang bài thuyết trình kế tiếp, song điều quan trọng là nó đã lọt vào tai Anne Marie.
“Cảm ơn anh,” Anne Marie nói với tôi sau giờ học.
“Vì gì cơ?” tôi hỏi, mặc dù biết rõ mình đã lên tiếng chỉ để cho nàng cảm ơn. Trên đời này chả có cái gọi là động cơ trong sáng, không cứ tôi mà ai cũng thế thôi, tôi tin vậy.
“Vì đã bênh em.”
“Có gì đâu,” tôi đáp. “Em có muốn đi ăn tối không?” “Với anh á?” nàng hỏi.
Đó là cách nàng vẫn thường nói chuyện - huỵch toẹt và luôn kiếm tìm sự thật giản đơn - không hề ám chỉ sự ác cảm nào dành cho tôi. Bằng chứng là, chúng tôi đã ăn tối cùng nhau trong một quán Đức ở Springfield có tên gọi Hoàng tử Sinh viên. Nàng là một cô gái Ý thon thả hiếm hoi thích ăn đồ Đức: bạn sẽ không làm sao có thể khiến nàng từ bỏ ý định gọi một đĩa xúc xích Munich, và đó chỉ là một trong nhiều lý do làm tôi chìm đắm trong tình yêu với nàng. Thế rồi một tháng sau chúng tôi ngủ với nhau trong căn hộ của tôi, tình cờ lại nằm ngay bên trên quán Hoàng tử Sinh viên. Nhưng chắc hẳn trong tôi có đôi chút ngượng ngùng thừa hưởng từ bố mẹ, nên tôi sẽ không tiết lộ thêm về đêm đó, trừ một điều rằng tôi đã rất khoái nó. Song cần phải nói thêm rằng tôi cũng nhớ quãng đời trai tân của mình, có lẽ vì tôi đã trinh trắng quá lâu rồi. Và ngay sau đó - gương mặt tôi nóng ran và đỏ rực như một lò hạt nhân - tôi thổ lộ với Anne Marie, “Đây là lần đầu của anh đấy.”
“Ôi, cưng,” nàng đáp, “với em thì không.” Nàng đặt tay lên hai gò má đang trào lửa của tôi, đôi mắt nàng chan chứa một nét buồn
ngọt ngào: sự mủi lòng cho cái kiếp trai tân ba mươi tuổi mà tôi vừa rũ bỏ. Cả đời tôi chưa từng thấy có một trái tim nào bao la mà yếu đuối với những xúc cảm chân thật như thế, nên tôi mở lời, “Em làm vợ anh nhé?”
“Vâng,” Anne Marie đáp. Có lẽ đằng sau sự chấp thuận đó là sự thương hại, nhưng còn có cả tình yêu nữa: theo kinh nghiệm của tôi thì ta không thể hy vọng là có thứ tình yêu không bị tác động bởi tình thương, mà ta cũng sẽ chẳng muốn vậy.
Tua nhanh câu chuyện: Chúng tôi tốt nghiệp. Vài tháng sau lễ cưới diễn ra tại nhà thờ Thánh Mary, còn tiệc được tổ chức ở nhà hàng Hoa hồng đỏ, khu South End. Gia đình của Anne Marie chi trả hết và có mặt đông đủ (rồi tôi sẽ kể về họ), nhưng bố mẹ tôi thì không, chủ yếu là vì tôi không thông báo cho họ biết. Khi Anne Marie hỏi, “Sao anh không mời bố mẹ anh đến đám cưới mình?” tôi đáp, “Vì họ mất rồi.”
“Sao mà mất?” nàng tò mò. “Từ bao giờ thế?”
“Ngôi nhà cháy ra tro,” tôi trả lời, “họ đã về trời trong đám cháy,” điều này chứng tỏ mỗi người chúng ta đều có một giới hạn nhất định về mặt ý tưởng, và sau này bạn sẽ thấy điều đó hóa ra cũng khá là gần với sự thật. Dù gì đi nữa, câu trả lời của tôi có vẻ đã thỏa mãn được Anne Marie. Song sự thật thì phức tạp hơn thế. Sự thật là tôi có thể nghe thấy giọng nói trong đầu mình cất tiếng hỏi dồn dập, Còn gì nữa? Còn gì nữa? và tôi không chắc liệu đó là giọng nói của tôi hay của bố mẹ tôi.
Anne Marie và tôi đi hưởng tuần trăng mật ở thành phố Quebec, và bởi lúc đó là tháng Mười hai lạnh giá, chúng tôi quyết định chơi
trượt băng. Chuyến đi này đã làm tôi hồi tưởng lại lúc bố mẹ vỗ tay hoan hô khi tôi trượt trên mặt hồ sân golf nhiều nhiều năm về trước, và rằng khoảnh khắc đó mới tuyệt làm sao. Và lẽ ra nó cũng đã phải nhắc nhở tôi rằng quan hệ giữa mình và bố mẹ đã trở nên cay đắng thế nào, nhưng tôi là tôi, còn Anne Marie là Anne Marie, chúng tôi không phải là bố mẹ tôi, thêm nữa nơi đây cũng chẳng phải một hồ nước dớ dẩn nào đó mà là con sông Thánh Laurent kỳ vĩ đã lâu lắm rồi mới lại có một lần đóng băng, ai nấy đều nói tiếng Pháp, và sự khác biệt giữa hai hoàn cảnh đủ lớn để làm cho tôi nghĩ rằng lịch sử không nhất thiết phải tự lặp lại chính mình, và điều định đoạt số phận của một con người là tính cách chứ không phải bộ gien của anh ta. Đêm đó chúng tôi nằm thủ thỉ với nhau trong phòng khách sạn Château Frontenac, và Anne Marie thấy đủ chịu chơi nên chúng tôi quyết định sẽ cho ra đời một đứa nhóc.
Đứa nhóc ra đời; là một bé gái. Chúng tôi đặt tên con là Katherine, chẳng theo tên người nào cụ thể. Tới lúc con bé chào đời, tôi đã trở thành một ngôi sao sáng tại công ty Đóng gói Tiên phong, mải miết thiết kế những cái hộp chống đông có độ trong suốt đột phá. Katherine là một đứa bé ngoan: con bé tuy có khóc, nhưng chỉ là để thông báo cho bạn biết nó vẫn còn thở, điều này chẳng làm phiền chúng tôi, cũng chẳng khiến những người dưới quán Hoàng tử Sinh viên bận tâm. Họ thậm chí còn bưng lên hàng đĩa tẩm bột chiên giòn đã nguội cho con bé nhá lúc nó mới mọc răng. Mùa Giáng sinh đầu tiên, chúng tôi giăng đèn nhấp nháy quanh ô cửa sổ, và vào đêm Giáng sinh, ông bà Goerman, những vị chủ quán Hoàng tử Sinh viên trong suốt năm mươi năm, bê lên mấy
đĩa tú hụ cá hồi trắng xốt kem với mấy chai rượu Rhine rồi chúng tôi cùng nâng ly chúc tụng ngày Chúa Jesus chào đời, và giờ khi nghĩ lại, đó hẳn là quãng thời gian hạnh phúc nhất của chúng tôi.
Thế rồi hai năm sau chúng tôi tòi ra thêm một nhóc tì nữa, thằng bé tên là Christian, đặt theo tên bố của Anne Marie, và khiến cho căn hộ yêu thương thoắt cái đã trở nên chật chội và mùi nấu nướng từ dưới nhà hàng bốc lên đột nhiên trở nên ám ảnh, đến cả trong cơn mơ chúng tôi cũng bắt đầu thấy mình chỉ ngốn rặt món bánh kếp khoai tây. Một ngày nọ Anne Marie tới bên tôi, nhìn nàng như một phiên bản âu sầu mệt mỏi của trang tuyệt sắc tôi đã xe duyên ba năm về trước, đâu đó trong phòng có tiếng Christian ngằn ngặt tru tréo như một con khủng long bay đang cố cưỡng lại bờ vực tuyệt chủng, và nàng lên tiếng, “Mình cần một chỗ rộng hơn.”
Nàng nói đúng: chúng tôi quả là cần một chỗ rộng hơn. Nhưng đi đâu mới được? Ở Springfield cũng ổn, nhưng giờ nơi đây đã nhan nhản những người Puerto Rico, còn bố mẹ Anne Marie và những người Ý khác lại rời đi Tây Springfield và Ludlow… vậy nên dẫu không muốn ở gần họ, chúng tôi cũng chẳng muốn ở Springfield nữa - không hẳn là vì những vị hàng xóm tương lai đến từ Puerto Rico, mà vì những gì nhà Mirabelli sẽ nói về họ mỗi khi tới thăm chúng tôi. Đây là một trong những gì Trường học Bản thân đã nói tới - tránh gây đau tim, nếu cần thì hy sinh cả phép tắc - một trong vài điều mà tôi thấy trúng phóc.
Và thế là Springfield bị loại, song phải chuyển đi đâu bây giờ? Một ngày Anne Marie bảo tôi, “Em nghe nói Amherst cũng hay đấy. Anh nghĩ sao?”
Phải nói luôn rằng tôi chưa từng kể cho Anne Marie nghe về quá khứ của mình, và ngay lúc đó tôi đã nôn nóng muốn làm điều ấy: tôi muốn kể cho nàng nghe tuốt luốt - về Dinh thự Emily Dickinson, về việc tôi đã lỡ tay gây ra sao, và về những người tôi đã cướp đi mạng sống - mà nhân tiện cũng nói luôn, đây không phải lần đầu tiên tôi muốn kể tất cả cho nàng nghe. Lẽ ra tôi phải thú nhận với nàng ngay từ đầu mới phải, tôi biết lắm chứ, nhưng mối tình non trẻ là một thứ thật mong manh dễ vỡ, nên tôi cứ nghĩ mình sẽ đợi đến khi nó bền chắc hơn mới kể cho nàng. Nhưng rồi thời gian thấm thoắt trôi qua, và cho đến lúc này thì ngoài tội lỗi ban đầu của mình, tôi còn mắc thêm một tội mới là đã giấu giếm nàng bao nhiêu năm trời, và mọi chuyện trở nên rối rắm tới mức tôi chẳng thể cạy miệng mình mà phun ra sự thật được nữa.
Thế nên tôi gật đầu cái rụp. Amherst. Tại sao không chứ? Chúng tôi tống lũ nhóc lên chiếc xe tải mini và thẳng tiến tới Amherst. Suốt dọc đường đi tôi đã tự thuyết phục bản thân về rất nhiều điều, toàn những điều điên rồ. Tôi tự nhủ rằng tới thị trấn, chúng tôi sẽ kiếm một căn nhà cổ kính, xinh xắn xây theo kiểu New England tại mảnh đất Amherst cổ kính, xinh xắn của New England, dọn vào đó, rồi sẽ thưa chuyện về nhà tôi, vợ tôi, con tôi, công việc của tôi, và bản thân tôi cho hai cụ thân sinh, lúc này hẳn đã khắc khoải nhung nhớ cậu con trai. Con đã khác trước rồi, tôi sẽ nói. Và họ sẽ đáp, Bố mẹ cũng vậy. Chào mừng con về nhà. Bởi vì trái tim ta muốn những điều mà trái tim ta muốn*, và trái tim tôi đang thôi thúc, Đừng có gàn dở nữa, họ đã tha thứ cho cậu rồi, tất cả bọn họ. Và giục giã, Đã đến lúc, đã đến lúc, đã đến lúc.
Nhưng đã đến lúc đâu cơ chứ. Đó là một ngày thứ Sáu, Amherst vẫn khoác cái tấm áo nguyên sơ của nó: những con phố thâm nghiêm rợp bóng lá với hàng dãy xe thùng Volvo đậu tràn trạt như nấm mọc trong hang; những ngôi nhà hai trăm năm tuổi với những vạt cỏ rậm rì thanh nhã, những luống hoa loa kèn, hoa cúc đại đóa, rặng bạch dương và biển chứng nhận di tích lịch sử; những cậu sinh viên choai choai da trắng tóc lọn loăn xoăn đang chơi cái trò ném đĩa đầy phức tạp của chúng trên thảm cỏ trải dài trong thị trấn; những nhà thờ Tự trị Giáo đoàn lợp ván trắng tinh xen kẽ những nhà thờ Tân giáo lát đá hoa cương, những ngọn tháp của trường đại học nhô lên cao vút giữa các tán cây mà nhìn từ bất kỳ vị trí nào trong thị trấn cũng đều trông thấy; những cô sinh viên nuột nà mơn mởn trong bộ đồ tập gym có mặc cũng như không; những vị giáo sư đi giày thuyền và giày lười nhấp cà phê trên những bộ bàn ghế ngoài trời làm bằng thứ sắt rèn nghệ thuật trông quá sức mảnh dẻ để đặt mông xuống ngay cả khi người bạn mỏng dính như đa số các cô nữ sinh. Toàn bộ quang cảnh này quá đỗi quen thuộc với tôi, song lại không làm tôi thấy hân hoan, không làm tôi thấy như đang ở nhà. Tôi thấy mình giống như một cậu anh họ của một cậu anh họ, mà như thế, theo tôi nghĩ, chẳng còn phải là một cậu anh họ nữa: tôi như bị vĩnh viễn cắt lìa khỏi máu mủ của mình, và chiếc kéo thực hiện điều đó chính là sự kiện phóng hỏa ngôi nhà quan trọng nhất trong những ngôi nhà quan trọng, đẹp đẽ, cổ kính an tọa tại nơi này, và đồng thời giết béng mất hai công dân đi giày lười. Một ông anh họ của ông anh họ không còn là ông anh họ; một công dân vướng vòng lao lý không còn là một công dân nữa.
Điều này làm tôi thất vọng ghê gớm, nỗi thất vọng lớn nhất đời tôi, bởi vì tôi đã theo đuổi ngành kỹ nghệ đóng gói và quên đi văn chương, quên đi rằng tôi đã bị bịt đường về nhà, thế nên tôi cứ nghĩ rằng Amherst - thị trấn tuổi thơ của tôi, thị trấn tuổi thơ của cả bố mẹ tôi, thị trấn mà gia đình hai họ đã an cư trong hai trăm năm trời - sẽ vẫn là quê nhà của mình. Làm sao có thể khác được? Tôi không phải chính là một người con hoang tàn bị làm nhục của thị trấn này sao? Chẳng phải thị trấn nào cũng cần có một nhân vật như tôi đây - giống như trong lời hát ấy - một kẻ lầm đường lạc lối nhưng nay đã trở về? Vậy nhưng khi ngồi trên ghế tài xế trong chiếc xe tải mini, người tôi chợt gai lên một cảm giác như đinh đóng cột rằng Amherst sẽ không đời nào lại là thị trấn của tôi, rằng cả thị trấn sẽ không khi nào chịu dung túng tôi, rằng họ cóc cần một đứa con hoang tàn, rằng một đứa con hoang tàn mới chính là thứ họ cóc cần. Xe bon bon qua trường cũ của tôi: những khung cửa sổ trước kia vốn thông thoáng thì nay cắm chi chít chấn song, và đứng ngoài cổng là những tay lính canh mặc đồng phục trang bị vũ khí tận răng thay thế cho các bà già giám thị tuýt còi trước kia, khiến tôi cứ mường tượng rằng những song sắt và đám lính canh được nặn ra để bảo vệ đám học sinh khỏi chính tôi mà không phải là một đứa thiếu niên mất trí nào đó khoác áo choàng nhồi đầy chất nổ tự chế bên trong. Hai tai tôi lùng bùng vang lên tiếng ông hiệu trưởng trong buổi chào cờ sáng hôm đó: Chúng ta đã quá sơ suất, đã để hắn đốt trụi Dinh thự Emily Dickinson đồng thời cướp đi những hai mạng người. Song giờ ta đã sẵn sàng đối phó với hắn. Tôi cũng tưởng tượng đến cảnh, sau khi tan trường, đám học sinh và phụ
huynh, thế nghĩa là bao gồm cả thị trấn rồi còn gì, sẽ - giống như trong Frankenstein - giương cao những bó đuốc rực cháy cùng những ngọn bồ cào sấn sổ đuổi tôi ra khỏi thị trấn, khiến cho tôi - chân lảo đảo, miệng lải nhải, người chi chít sẹo và vết khâu, đầu đóng một cây bu lông, trông hệt như con quái vật - lết đi vô định, lạc lối trong thế giới u ám, kỳ dị, nghiệt ngã, và không một ai sẽ còn nghe còn biết tới nữa.
“Anh thấy sao anh?” Anne Marie hỏi tôi, gương mặt nàng sáng bừng hạnh phúc và háo hức, hẳn là hoàn toàn đối nghịch với khuôn mặt tôi lúc này.
“Bồ cào!” Tôi thốt lên. “Đuốc! Quái vật!”
“Hử?” nàng hỏi. “Là sao?”
“Không sao,” tôi đáp, và tiếp tục lái xe trong trạng thái gần như hôn mê, khiến cho những tiếng thất thanh của Anne Marie, “Gượm đã!” rồi “Anh lái đi đâu thế này?” và “Ta đã ngắm được nhà nào đâu - từ từ đã chứ!” nghe như từ quá khứ âm u bàng bạc vọng về, tôi không thể nghe ra. Vâng, tôi cứ lái, vụt qua con phố Chicopee nơi bố mẹ cư ngụ, rồi đâm thẳng ra khỏi thị trấn, và trong suốt năm năm sau đó tôi không hề hối tiếc về quyết định này. Chẳng mấy chốc, chúng tôi đã rong ruổi trên quốc lộ 116, bỏ lại Amherst hút bóng sau lưng, và ngay cả quang cảnh trước mặt tôi lúc này cũng vô cùng quen thuộc - những túp nhà gạch đỏ, nơi cư trú của đám sinh viên châu Á học ở trường công lập, những phòng giặt tự động cho sinh viên, những hiệu tạp hóa do các nhà ven đường mở ra, và những tiệm lẻ cho thuê băng đĩa với một danh mục sơ sài, nơi bạn chẳng bao giờ kiếm được những phim muốn xem. Nhưng không bao
lâu mọi thứ bắt đầu thay hình đổi dạng. Đầu tiên là dòng chảy ồ ạt của những siêu thị: siêu thị đồ làm vườn, siêu thị đồ chơi, siêu thị quần áo trẻ con, siêu thị đồ xây dựng, siêu thị đồ nội thất, siêu siêu thị, vân vân và vân vân. Những tòa nhà của các siêu thị này có điểm chung là vừa trông rẻ tiền vừa to đại tướng - nói đúng ra thì chẳng qua chỉ là những khu chuồng lợp mái tôn kích cỡ quá khổ, với bãi đỗ thì khủng tới mức toàn bộ thị trấn Amherst có thể thừa sức rúc vào. Amherst nào có đủ lớn về người và của để trang trải cho hết đống siêu thị và bãi đậu xe này; cứ như thể người ta đã láu táu xây ngoại trước khi đặt gạch xây thành vậy.
Nhưng những siêu thị này mới chỉ là phần điểm tâm cho những đổi thay thực thụ: những lô đất đằng sau các siêu thị, những lô đất mười năm trước còn là ruộng ngô cùng đồn điền thuốc lá, giờ đã là những cụm dinh thự treo biển đề KHU NHÀ MONACO hay STONEHAVEN, cùng những con phố mang tên Phố Công Chúa Kiều Diễm hay Bùng Binh Đồng Cỏ Cừu. Tôi lái một vòng quanh những lô này để kiếm xem có ai treo biển BÁN NHÀ không mà mãi chẳng thấy gì, cho tới khi xe đi đến một khu có đề chữ Camelot trên tấm biển gỗ tạc hình tòa lâu đài.
Camelot đẹp tuyệt vời. Tịnh không một bóng cây - như thể nơi này đã từng bị thả một quả bom hạt nhân hoặc là đứa con tinh thần của ngành công nghiệp xẻ gỗ - tất cả các căn nhà đều giống nhau y tạc, chỉ trừ có một vài căn ốp mica màu lam thủy tinh bên hông nhà thay vì màu nâu sa mạc như các nhà còn lại. Ở mỗi khoảnh sân sau là một khu cầu trượt công phu bằng gỗ, trên mỗi mái nhà là một cái ăng ten chảo loại mini, mỗi lối rẽ vào nhà là một tấm thảm nhựa
đường đen mượt, còn nhà để xe thì to bằng nguyên cả căn nhà. Tiếng xén cỏ rì rì êm tai luôn vẳng lại từ một nơi nào đó, từ mọi nơi có thể, mặc dù những bông cỏ trước hầu hết các căn nhà vẫn chưa chín hạt và tôi ngó nghiêng đỏ mắt cũng chẳng thấy cái máy xén nào, còn hệ thống vòi tưới tự động vẫn đang tất bật phun xoay bất chấp lúc này đã là cuối tháng Chín và ngày đã ngả muộn cho việc tưới tắm vườn cỏ, những tia nước uốn cong mình nhảy múa dưới ánh đèn đường - ở đây phải có đến 150 cột - tất cả đều bật sáng trưng mặc dù giờ mới xế chiều.
“Ái chà,” tôi thốt lên.
“Ái chà cái gì cơ?” Anne Marie thắc mắc. “Ý anh là cái kia á?” Nàng trỏ vào một căn nhà màu nâu giống y đúc những căn còn lại, trừ việc ngoài thảm cỏ có cắm biển BÁN NHÀ. Anne Marie và tôi xuống xe; lũ nhóc ngồi trên ghế đang gào inh ỏi về cái gì đó, về mọi thứ, song vì cửa kính xe đã đóng kín mít thành thử tiếng gào của chúng trở nên êm ái và vui tai như mưa rơi trên mái nhà.
“Anh đang nghĩ gì đó?” Rốt cuộc Anne Marie cũng lên tiếng. Nghe giọng nàng nhuốm màu chán nản, tựa như tiếng thở dài, tôi nghĩ đơn giản là vì nàng mệt, nhưng cũng có thể nó xuất phát từ sự cam chịu. Giờ tôi cứ ước giá như hồi đó mình đã chú ý đến nàng nhiều hơn. Ôi, tại sao tôi lại cứ bỏ lời nàng ngoài tai vậy nhỉ? Tại sao ta chẳng bao giờ lắng nghe những người ta thương yêu nhất? Có phải tại vì trong mỗi chúng ta luôn có quá nhiều điều để nghe, và quá nhiều điều tối quan trọng để tự nhủ với bản thân?
“Sam, anh đang nghĩ gì đó?” Anne Marie hỏi lại lần nữa, vì tôi vẫn chưa trả lời nàng, bởi đầu óc tôi lúc này vẫn đang mông lung
nghĩ về khu Camelot và căn nhà.
“Xin chào, cuộc sống,” tôi đáp.
“Anh đang khóc đấy à?” nàng hỏi.
“Ừ,” tôi trả lời. Đúng là tôi đang khóc thật, tôi thấy quá đỗi hạnh phúc, vì đây sẽ là ngôi nhà mới của tôi, nó thật tinh tươm và hoàn hảo và tôi không nghĩ là sẽ có người quen của tôi sống ở đây, hay một ai đó muốn làm quen với tôi. Những người hàng xóm nơi đây giả có muốn làm quen với tôi rồi hay rằng tôi là một tên hỏa tặc, một kẻ sát nhân, chắc hẳn sẽ cướp lời tôi để nói về việc trồng cỏ gà hay cỏ poa. Tôi không thể làm một người bình thường ở Amherst, nhưng ở Camelot thì hoàn toàn có thể. Tôi cảm thấy phấn chấn và hớn hở vô cùng. Tôi muốn cảm ơn ai đó. Nếu có người hàng xóm nào đi ngang qua, hẳn tôi đã ôm chầm lấy họ ngay rồi. Nhưng chẳng có ma nào sất; tất cả đều ở trong nhà, thân ai lo phận nấy và đó chính là một trong những điều làm tôi thấy hân hoan nhất.
“Cảm ơn cưng nhiều nhé,” tôi bảo Anne Marie.
“Ừ thì có gì đâu,” nàng đáp, chẳng mảy may hỏi tôi một lời xem tôi cảm ơn vì cái gì, bởi tình yêu của chúng tôi lúc nào cũng như vậy. Chúng tôi gọi tay môi giới địa ốc, mua ngôi nhà, chào tạm biệt căn hộ ở Hoàng tử Sinh viên (đó không phải là lời vĩnh biệt, dù mãi sau tôi mới biết được điều này), chuyển vào khu Camelot, và trong năm năm chúng tôi an cư ở đây, tôi dành nửa tiếng mỗi ngày để tới chỗ làm, lũ trẻ phổng phao hơn một tẹo, còn Anne Marie kiếm được công việc giám sát bán thời gian cho một siêu thị đồ gia dụng, và trong năm năm đó chẳng có chuyện gì đáng kể, chúng tôi hạnh phúc như những người hạnh phúc. Ừ thì đúng là Anne Marie phải
mất một khoảng thời gian mới tìm thấy hạnh phúc: năm đầu tiên nàng khóc vì phát hiện ra cái lò sưởi hóa ra chỉ mang tính trang trí và sẽ mãi mãi như vậy; năm thứ hai nàng khóc khi thấy chẳng khó gì để chọc ngón trỏ xuyên qua cái vách tường mỏng tang bằng mica và đã điên cuồng chọc trong cơn bấn loạn, làm cho ngôi nhà giờ vẫn còn mang đầy thương tích; năm thứ ba nàng khóc khi láng giềng đến lúc này vẫn không biết nàng tên gì và nàng cũng chẳng hay tên của họ. Lần này nàng khóc thực sự, mãi chẳng ngừng, khiến tôi phải gửi lũ trẻ đến nhà ông bà ngoại cho nàng có thời gian trấn tĩnh lại. Nhưng sau một thời gian thì ngay cả Anne Marie cũng thấy hạnh phúc, và nếu như nhà tù là nơi đầu tiên không hoàn toàn khiến tôi khốn khổ, thì đây là nơi kế tiếp, và không có lấy một lần tôi bị phát hiện là thủ phạm đốt Dinh thự Emily Dickinson, không có lấy một lần trong đầu tôi vang lên giọng nói ám ảnh cật vấn, Còn gì nữa? Còn gì nữa? Không có lấy một lần, cho tới một ngày nọ, khi cậu con trai của cặp vợ chồng bị tôi ngộ sát trong Dinh thự Dickinson đột nhiên lù lù xuất hiện trước thềm nhà, và rồi giọng nói trở lại trong đầu tôi, tôi chuyển về ở với bố mẹ và lôi chồng thư nọ ra đọc lại, rồi đám chuyên gia phân tích trái phiếu lù lù xuất hiện và rao giảng cho tôi những bài học kiểu Chúa-và-đất-nước, rồi người ta (không phải tôi! không phải tôi!) bắt đầu châm lửa phóng hỏa tư gia của các đại thi hào khắp vùng New England, thì đó là khi mọi rắc rối khởi sự.
2
Đầu tiên là sự xuất hiện của con trai người hướng dẫn viên du lịch của Dinh thự Emily Dickinson, người đang cùng chồng mình chia sẻ những phút giây tư tình sau giờ làm việc, một điều tôi không hề hay biết, ngay trên chiếc giường của Emily Dickinson trong khi tôi lỡ tay đốt ngôi nhà và khiến họ chầu trời nhiều năm về trước. Cậu ta mọc ra vào một thứ Bảy đầu tháng Mười một, hoàn toàn đúng thời điểm, vì ở Camelot này chẳng bao giờ có chuyện gì xảy ra vào những ngày trong tuần. Vào những ngày trong tuần ai nấy đều quần quật làm lụng, ngủ sớm và dậy sớm, đến nỗi bạn chẳng dám ngồi cắt móng chân ngoài hiên trước vì sợ gây tiếng động làm phiền người ta.
Đến cuối tuần thì khác, đó chính là lúc ta có cơ hội chứng tỏ rằng mình vẫn còn cái quyền đổ xăng từ vòi vào lỗ rồi kéo dây điện cho máy nổ ầm ầm để bắt đầu xén cỏ. Và khi ấy tôi vừa xén xong mảnh sân của mình. Cũng chẳng có gì đáng nói. Cỏ không cao lắm và tôi đã xén bằng máy xén, loại máy tất cả hàng xóm của tôi đều dùng: cái loại tự vận hành nhìn như trong phim khoa học viễn tưởng mà ta đứng trên bục để điều khiển cần lái. Cái máy di chuyển nhanh như bay, về cơ bản là thay bạn làm tuốt luốt. Tuy thế tôi vẫn đánh vật đến toát cả mồ hôi khi điều khiển nó và đã phải cởi áo ra, một điều gây cho tôi chút rắc rối với mấy người hàng xóm, mấy ông này (ở Camelot chẳng có phụ nữ nào động tay vào xén cỏ, hệt như
một khu Hồi giáo) khi xén cỏ đều đeo những cái tai nghe đại tướng, loại chụp đầu mà người ta hay dùng trong phòng thu âm, rồi những chiếc mũ mềm rộng vành đại tướng, kính bảo hộ lao động, găng tay làm vườn hạng nặng, áo sơ mi dài tay và quần kaki dính đầy vết sơn với hai ống quần được giắt vào đôi ủng hầm hố. Chỉ trừ vài mảng trên má và cổ, còn lại thì trên người họ tịnh không hở ra một chút da nào. Việc tôi cởi trần vô hình trung đã vi phạm vào một phép tắc bất thành văn của tiểu khu này và khiến mấy ông hàng xóm quăng cho tôi những tia soi mói đầy vẻ bất bình và kinh tởm. Thứ Bảy nào tôi cũng tự nhắc mình phải nai nịt thật kỹ, song một khi mồ hôi đã bắt đầu vã ra thì tôi chẳng còn bận tâm nổi ba cái chuyện áo với xống, và lại một lần nữa vô ý nổi loạn. Tôi giống như cái kẻ yêu nước cứ liên tục quên không khuân bao trà của hoàng đế vứt xuống biển. Nhưng kể ra chuyện tôi đã đổ mồ hôi và cởi áo và vô ý nổi loạn không phải là để chứng minh rằng tôi hơn hàng xóm của tôi. Tôi không hơn họ. Tuy chẳng nhớ nổi tên ai, nhưng tất cả hàng xóm của tôi đều là người tốt. Tôi mong họ được mạnh giỏi.
Khi ấy tôi đang ngồi trên hiên nhà, thực ra chỉ là một phiến bê tông chúng tôi gọi là hiên vì thích ngồi lên đó. Tôi vừa tắt cái máy xén cỏ, trong tai vẫn còn ong ong tiếng động cơ, thành thử đã không nghe thấy cậu con trai oan nghiệt nọ lái xe tới, đậu chiếc Jeep ngoài hè rồi bước lên lối vào nhà, đã không mảy may để ý gì cho đến khi cậu ta lù lù hiện ra ngay trước mặt tôi. Tên cậu ta là Thomas, Thomas Coleman, mặc dù lúc đó tôi vẫn còn chưa biết. Khi ấy đang cúi đầu mặc tưởng mông lung nên tôi đã nhìn thấy hai cẳng chân cậu ta trước tiên. Cậu ta đi một đôi ủng leo núi, loại
chống thấm.
“Anh có phải Sam Pulsifer?” cậu ta lên tiếng. Ngay khi nghe thấy tiếng nói này, cổ họng tôi lập tức nghẹn cứng, bởi tôi nghĩ mình biết giọng nói ấy, đôi giày ấy thuộc về ai. Tôi cứ chắc mẩm đó là một tay phóng viên. Đã nhiều năm không nói chuyện với tay phóng viên nào, nhưng tôi vẫn khắc ghi cái cách bọn họ khơi chuyện, luôn luôn dẫn bạn ra xa khỏi sự thật của bạn để nhích gần hơn về “sự thật” của họ; tôi nhớ rõ lắm chứ những cuốn sổ gáy lò xo và những gương mặt hau háu chất vấn bạn một đống câu hỏi mà họ đã nắm sẵn lời đáp và tuyệt đối thất vọng với cách bạn trả lời.
“Vâng, tôi Sam đây,” tôi ngước mắt lên đáp và nhận ngay ra rằng đây không phải tay phóng viên nào cả, đơn giản vì chẳng có cuốn sổ, cây bút máy hay bút chì nào sất. Và khác với những tay phóng viên trong trí nhớ của tôi, dù đã hỏi một câu hỏi và được tôi trả lời, cậu ta chẳng có vẻ gì muốn hỏi câu tiếp theo, mà thay vào đó cứ chôn chân nhìn tôi chòng chọc. Tôi cứ để yên, và nhìn lại cậu ta. Cậu ta không cao lắm, nhưng lại khẳng khiu, rất khẳng khiu; tôi nhìn là biết, ngay cả khi cậu ta nai nịt rất kỹ. Cậu ta bận một chiếc quần bò lót vải (tôi có thể ngó thấy mẩu vải flannel đỏ lấp ló ở gấu quần, bên trên đôi giày leo núi) và một chiếc sơ mi flannel, bên ngoài khoác sơ mi nhung và gi lê lông cừu, bất chấp tiết trời tháng Mười một nóng như chảy mỡ, và nếu thân thiết hơn một chút chắc tôi đã bỡn rằng nếu ráng tẩm bổ nhiều hơn thì cậu ta đã chẳng phải mớ ba mớ bảy thế kia. Tôi đây chính là nhân chứng sống mình trần của chân lý đó. Và chưa dừng ở đấy, khuôn mặt cậu ta hốc hác và lợt lạt, lợt lạt quá đỗi, lại rỗ lỗ chỗ; nếu mặt tôi mà là mặt trời rừng
rực lửa, thì mặt cậu ta hẳn là mặt trăng đầy hố thiên thạch. “Tôi là Thomas Coleman,” cậu ta nói.
“Vâng, rất vui được gặp cậu,” tôi chìa tay ra song Thomas không chịu bắt lấy. Cơ hàm cậu ta giật giật như thể đang lấy đà để nhổ toẹt một bãi nước bọt vào bàn tay tôi, nên tôi bèn rụt tay lại.
“Chắc anh không nhận ra tên tôi?” cậu ta hỏi. Quả là vậy, trí nhớ tôi chẳng mảy may lóe lên điều gì, chỉ tuyền một sự yên ắng lặng thinh và êm đềm.
“Chậc, tôi cũng có nghe nói đến tên Thomas,” tôi đáp, cố tỏ ra lịch sự. “Nhưng phải nói rằng đó là một cái tên khá phổ biến.” Và quả đúng thế thật, tôi không nói điêu, thế mà cậu ta lại cho rằng tôi có ý châm chọc. Chẳng khó để nhận ra điều đó vì cơ hàm cậu ta lúc này đang thi nhau giật. Đúng là một anh chàng cáu bẳn, và có lẽ chính vì thế nên mới gầy đét gầy đe: hẳn cậu ta mải nhai nghiến cục giận đến mức cạn ráo cả thời gian, năng lượng và khẩu vị để nhai những thứ khác.
“Thomas Coleman,” rốt cuộc cậu ta cũng lên tiếng. “Bố mẹ tôi là David Coleman và Linda Coleman. Anh đã giết chết hai người họ trong đám cháy Dinh thự Emily Dickinson.”
“Ồ!” tôi thốt lên, vì chẳng biết phải nói gì khác. Và bởi hoàn cảnh lúc này đã trở nên đột ngột trang trọng, tôi đành vớ lấy chiếc áo mặc vào. Bên ngoài đã gọn ghẽ chỉnh tề nhưng bên trong vẫn cảm thấy kiến bò lổm ngổm, tôi tuôn ra một màn chào hỏi ào ạt: tôi bắt tay cậu ta - lần này thì tôi chủ động đưa tay ra nắm lấy tay cậu ta, không để mình bị từ chối - vỗ vỗ lên vai cậu ta, hỏi vồn vã, “Khỏe không cậu? Gặp cậu tôi mừng quá. Mọi chuyện ra sao rồi?” liền tù tì
một tràng. Việc này xem ra khiếm nhã kinh khủng, nhưng tôi còn có thể làm gì khác? Chẳng có cuốn sách dạy ứng xử nào giảng về trường hợp này - ngay lúc này đây, người viết nên nó chính là tôi. Thêm nữa, hình như Thomas cũng không nghĩ tôi khiếm nhã đến mức ấy - có lẽ khi bạn chẳng may kết liễu đời bố mẹ của người ta thì những sự xúc phạm khác sẽ trở nên quá đỗi lẻ tẻ trong mắt họ. Thậm chí gương mặt cậu ta còn ửng lên phần nào khi được tôi mời uống nước - bia, nước hoa quả, tôi bảo Thomas cậu ta muốn uống gì cũng được - cho dù đó có thể là ánh đỏ trên mặt tôi đang soi rọi những vết sẹo rỗ trên mặt cậu ta. Mà đúng là tôi đang nóng rực cả lên; lúc này mà mất điện thì người ta hoàn toàn có thể mang tôi ra làm máy nổ cho cả khu.
“Giờ thì anh nhận ra tên tôi rồi chứ?” cậu ta hỏi. “Anh có nhận ra tên bố mẹ tôi không?”
“Cũng mang máng,” tôi đáp, mặc dù chả nhớ tí nào, thậm chí hôm ở phiên tòa tôi còn cố để không phải nghe thấy tên họ, bởi tương lai tôi dường như sẽ suôn sẻ hơn rất nhiều nếu tôi quên được những tiểu tiết từ quá khứ. “Trí nhớ tôi không được tốt cho lắm,” tôi bảo cậu ta, và như tôi đã nói ở trên, điều này chính là một năng khiếu trời ban cho tôi. Ngay cả lúc này, khi Thomas đang đứng lù lù trước mắt, những ký ức về đám lửa, cột khói và thi thể cháy đen của bố mẹ cậu ta vẫn quá xa xôi với tôi, như thể là một cơn ác mộng của ai khác chứ không phải của tôi, nói ra điều đó có lẽ là quá nghiệt ngã, nhưng nó lại hoàn toàn ăn khớp với con người tôi.
“Mang máng à?” Cậu ta nhại lại, mặt ửng thêm một sắc nữa, và tôi thấy mình cũng có ích cho sức khỏe cậu ta ra phết đấy chứ, cứ
đà này không khéo tôi còn khiến cậu chàng chịu lót bụng vài miếng thức ăn cũng nên. “Mang máng à? Anh không cảm thấy mảy may dằn vặt vì đã giết bố mẹ tôi ư?”
“Là lỡ tay mà,” tôi đáp. Thomas đứng thẳng người lên, mặt cau lại, và công bằng mà nói, chính tôi cũng hiểu vì sao cậu ta chẳng tin nổi lời tôi: nếu mỗi khi động đến vụ cháy nhà, giết người do bạn gây ra mà bạn lại tấu lên điệp khúc, “là lỡ tay mà”, thì nghe sẽ như thể một lời rên rỉ ỉ ôi, và nếu nó nghe giống như một lời rên rỉ ỉ ôi thì có nghĩa đó chẳng còn giống một sự lỡ tay nữa, và thế là dù nó có phải là lỡ tay hay không thì cũng chẳng còn quan trọng. Khi bạn bào chữa cho tội lỗi tày đình của mình bằng cái câu “là lỡ tay mà”, thì trông bạn sẽ giống một kẻ hèn nhát và một tên dối trá chập lại làm một. Tôi hết sức thông cảm với Thomas. Nhưng gì thì gì, sự thật vẫn là sự thật. “Là lỡ tay mà,” tôi lại nhắc lại lần nữa.
“Chẳng có lỡ tay lỡ tiếc gì sất,” Thomas nói.
“Ái chà, thật là hay khi nghe cậu nói vậy,” tôi đáp. Anne Marie đã nói chính câu đó không biết bao nhiêu lần: trong quãng đời sum vầy của hai đứa, tôi đã từng làm hỏng nhiều hơn một bữa tiệc bất ngờ, đã từng nhoài người ra sau và làm gãy vụn nhiều hơn vài cái ghế gia bảo mà các gia đình hàng xóm nâng niu, đã từng bô bô kể những mẩu chuyện châm biếm chủng tộc khi có người thuộc chủng tộc đó lù lù đứng kế bên, và cứ sau mỗi sự cố ngoài ý muốn và không hề chủ tâm này là Anne Marie lại cáo buộc tôi cố tình làm vậy: “Đó đâu phải là lỡ tay đâu,” nàng sẽ căn vặn. “Anh cố ý thì có.” Tôi luôn luôn phân trần, “Không có mà! Quả thật không có!” Rồi nàng sẽ nói, “Chẳng có lỡ tay lỡ chân gì sất.” Và tôi sẽ khăng khăng,
“Có mà, có mà!” Nhưng cũng có thể là không có sự lỡ tay nào thật. Tôi hiểu rõ vì sao nàng nói vậy, và cả Thomas nữa.
“Tôi nhớ bố mẹ tôi,” Thomas nói. “Đã hai mươi năm ròng kể từ khi anh sát hại họ, thế mà đến giờ tôi vẫn nhớ họ đếch chịu được.” “Ôi, tôi hiểu mà,” tôi an ủi, sâu thẳm trong lòng tôi là một niềm cảm thương, nhìn cậu ta nhớ bố mẹ chợt khiến tôi cũng nhớ hai cụ thân sinh, và theo cách nào đó thì cả hai đứa tôi đều đồng cảnh ngộ cút côi. “Này, nghe này,” tôi nói, “có chắc cậu không muốn uống chút gì đó không?” Bởi vẫn còn khát sau khi xén cỏ, và hơn nữa, cũng bắt đầu thấy gần gũi hơn với cậu ta và thấy mình mắc nợ vì những gì đã gây ra cho bố mẹ và cuộc đời cậu ta, tôi sẵn sàng kiếm cho cậu ta bất kỳ thứ gì cậu ta muốn.
“Không,” cậu ta đáp. Rồi tiếp: “Anh có biết tụi trẻ ở trường đã làm gì tôi không?”
“Khoan nào,” tôi ngắt lời. “Ai cơ? Lúc nào cơ? Trường nào cơ?” Một khi tôi muốn quan tâm, thực sự quan tâm, thì tôi phải được biết tường tận những chi tiết của câu chuyện đó. Khi còn nhỏ tôi chẳng thông cảm gì cho ba con lợn con và ba túp nhà của chúng vì tôi nào có biết mấy túp nhà đó - bằng rơm, bằng gạch hay gì gì đi nữa - nằm ở một thị trấn, một thành phố hay là một ngôi làng, và liệu khu dân cư đó có tên có tuổi hay không, mà nếu không có tên có tuổi thì tôi chịu không thể quan tâm được.
“Là trường Williston Country Day,” Thomas đáp, “ngay sau khi anh sát hại bố mẹ tôi.” Cậu ta chậm chạp nói, như thể đầu óc tôi cũng chậm chạp nên phải nói vậy nó mới hiểu và khắc ghi được - một hành động khiến tôi cảm kích. “Tụi nhóc đồng lứa, thậm chí là
cả bạn bè, ai cũng đem bố mẹ tôi ra mà giễu cợt.”
“Cậu không đùa chứ,” tôi nói. “Tồi tệ quá Thomas nhỉ. Bạn bè gì lũ ấy.”
“Nhưng đó lại là bạn bè của tôi đấy. Chúng nó bêu riếu chuyện bố mẹ tôi chết, anh biết đấy, trên giường ngủ.” Cậu ta lắp bắp khi nói đến mấy chữ cuối, hiển nhiên vẫn còn bị giày vò và ám ảnh bởi nỗi đau quá lớn, ôi cậu trai tội nghiệp.
“Suốt một khoảng thời gian dài,” cậu ta tiếp tục, “tôi thấy hổ thẹn vì là con của họ, căm hận họ vì cái việc họ đang làm dở dang khi bị anh hại chết.”
“Điều này cũng dễ hiểu.”
“Có một con bé cùng lớp tôi đã mất bố mẹ trong một tai nạn ô tô,” cậu ta nói. “Cả hai đều bị nghiến mất đầu. Tôi ghen tức với con bé đó. Suốt một quãng thời gian dài tôi cứ ước sao bố mẹ mình cũng chết như thế.”
“Hoàn toàn dễ hiểu,” tôi đáp.
“Suốt một quãng thời gian dài,” cậu ta hít một hơi sâu nghe lép nhép tiếng nước bọt, “tôi chỉ muốn tự tử quách cho xong.” “Đừng có nói thế chứ, Thomas, dù chỉ là nghĩ đến thôi cũng không nên,” tôi đáp. Nói nghiêm chỉnh ra thì tôi sẵn lòng làm bất cứ điều gì vì cậu trai này. Nếu cậu ta xòe một mớ dao lam ra rạch cổ tay thì tôi sẽ không ngần ngại xé áo mình ra băng bó; nếu cậu ta tống một vốc thuốc ngủ xuống họng thì tôi sẽ chẳng chần chừ mà lao vào rửa ruột cho cậu ta dẫu cóc có mẩu kiến thức chuyên môn hay thiết bị y tế nào. Có lẽ tôi muốn cứu cậu ta hệt như tôi muốn tự cứu mình, chẳng khác nào một tấm gương muốn cứu vớt kẻ đang
soi gương để có thể cứu lấy luôn cả cái bóng trong gương. Thật là một mớ cảm xúc hỗn độn mà ngay bản thân tôi cũng chẳng thể hiểu nổi, và chính thế tôi mới biết nó hỗn độn đến thế nào.
“Rồi khi tôi không còn muốn kết liễu đời mình nữa,” Thomas nhìn tôi từ dưới hai hàng lông mày vàng hoe cũng mỏng dính như tóc cậu ta, “thì tôi muốn kết liễu đời anh.”
“Ừ thì,” tôi chẳng biết nói gì hơn ngoài việc thấy nhẹ nhõm vì cậu ta đã không làm vậy. Không giết phắt tôi đi.
“Anh không phải lo,” cậu ta chuyển sang một giọng trầm đục tương phản với vóc người mỏng tang, như thể gợi ý rằng tôi vẫn nên lo thì hơn. “Bác sĩ tâm thần đã thuyết phục tôi dứt bỏ ý nghĩ đó rồi.”
“Cậu đi khám bác sĩ tâm thần ư?”
“Tôi từng khám qua cả mớ bác sĩ rồi.” Thomas đáp như thể đã chán ngấy nỗi đau buồn của mình, như thể sự tang thương đó là một bộ đồ hóa trang cậu ta vẫn còn mặc dù ngày lễ Halloween đã kết thúc và có muốn cũng không tài nào trút bỏ được, và đột nhiên tôi như nhìn được xuyên suốt cuộc đời cậu ta, một cuộc đời tôi đã góp phần tạo dựng, như với cuộc đời mình. Tôi như tận mắt chứng kiến cảnh cậu ta thất thểu đi gõ cửa hết bác sĩ này đến bác sĩ nọ, và nếu không có mấy vị bác sĩ đó cùng nỗi tang thương và quá khứ hãi hùng thì cậu ta chỉ còn một mình trên cõi đời này. Tôi đồ là cậu ta chắc chưa vợ con gì, và rồi tôi nghĩ tới Anne Marie và hai đứa nhóc vừa ra ngoài tranh thủ làm mấy việc vặt chiều thứ Bảy, đi hái táo trong vườn ăn quả hoặc vuốt ve lũ thú nuôi trong sở thú hay ngồi nghe kể chuyện ở thư viện trong giờ đọc truyện, và tôi bỗng
ngộ ra rằng chỉ có bốn người chúng tôi mà thôi, thế giới này chẳng cần phải rộng lớn quá mà làm gì. Tôi thấy nhớ gia đình nhỏ của mình, và những muốn nhảy phắt lên chiếc xe tải mini - nhà tôi có hai chiếc - rồi bon bon đến sở thú nuôi, duy chỉ có điều chiếc xe đã sắp cạn xăng còn tôi thì nào hay biết cái sở thú đó tọa lạc phương nào.
“Gì thì gì,” Thomas lên tiếng, đầu lắc lắc như để giữ bản thân ra khỏi cơn mộng mị, “đó là lý do vì sao tôi tới đây. Bác sĩ nói tôi nên tìm anh và yêu cầu một lời xin lỗi. Vì đã hại chết bố mẹ tôi.”
“Ồ vâng, tôi xin lỗi, tôi thành thực xin lỗi,” tôi đáp. “Và hết sức lấy làm tiếc.” Tôi vừa hối lỗi mà vừa thấy vui vì ít ra còn có thể làm được điều gì đó cho Thomas sau bấy nhiêu năm đằng đẵng. Đúng là chuyện hiếm có, được cho phép xin lỗi sau khi đã gây ra một tai ương quá khủng khiếp, vô phương cứu chữa. Cũng không khác gì việc Abel đội mồ trở dậy để cho anh trai Cain* cơ hội xin lỗi vì đã giết chết mình. “Ôi, tôi hết sức xin lỗi vì đã hại chết bố mẹ cậu,” tôi ăn năn tới mức quỳ mọp người xuống trong tư thế van lơn. “Tôi thành thực xin lỗi - điều kinh khủng ấy đã ảnh hưởng tới không biết bao nhiêu số phận, tôi chỉ ước sao nó chưa từng xảy ra.”
Thomas cúi đầu xuống trong khi tôi sám hối. Lúc tôi đã xong xuôi, cậu ta vẫn cứ cúi nhìn, như thể đợi nghe thêm hoặc đang mải đánh giá lời tôi nói. Rốt cuộc cậu ta cũng ngẩng lên ném cho tôi một tia nhìn cay nghiệt. “Anh xin lỗi thế hử?” cậu ta vặc lại. “Thế là xong á?”
“Vâng,” tôi đáp, và rồi lại nói, “Xin lỗi cậu,” cho nó đủ câu. “Đó là một lời xin lỗi quá sức tệ.” Cặp mắt Thomas lồi ra như
muốn bung khỏi hốc mắt, hai nắm tay siết lại: cậu ta giận tới mức bốc hỏa, chẳng còn nghi ngờ gì nữa. Cậu ta giống hệt những người có người thân bị giết và được đối chất với hung thủ trong tòa án, có dịp nói với kẻ giết người những lời dồn nén bấy lâu, trong đầu đinh ninh rằng phải nói cho hết thì sau này họ mới có thể tiếp tục một cuộc sống bớt nặng nề, vân vân và vân vân, nhưng chỉ để nhận ra rằng những lời nói ấy chẳng có ý nghĩa gì và xét cho cùng thì đó cũng chẳng phải lời của họ, thế nên rốt cuộc họ lại trở nên tuyệt vọng và tan nát còn hơn cả lúc chưa nói câu nào. Nhìn Thomas hệt như thế đấy. “Anh chẳng có vẻ gì thật lòng,” cậu ta nói.
“Tôi có mà, tôi có mà,” tôi đáp, tôi ăn năn thật nhưng lại chẳng biết nói gì hơn để thuyết phục cậu ta, bởi rắc rối của việc xin lỗi chính là nằm ở đây: để chứng minh bạn chẳng hối lỗi tẹo nào thì dễ hơn nhiều so với chứng minh điều ngược lại.
“Anh là đồ con c*c,” cậu ta chửi.
“Ơ kìa, hãy khoan,” tôi đáp. “Việc gì phải thế.”
“Đồ con c*c khốn nạn,” Thomas dấn người lên trước, và trong phút chốc tôi cứ ngỡ cậu ta chuẩn bị nhảy xổ lên người mình, nhưng lại không phải vậy, có thể là vì cậu ta nhìn hoặc ngửi thấy lớp mồ hôi khô bết trên người tôi vì xén cỏ, hoặc vì tôi to con hơn cậu ta chắc cũng ngót nghét hai chục cân. Thomas nào có biết cậu ta hoàn toàn có thể tẩn cho tôi dừ người mà chẳng nhọc công: tôi cảm thấy cái tật bị động cố hữu đang quay lại với mình, và quả tim tôi đập thình thịch, Đánh tôi đi, đánh tôi đi, tôi đáng bị đánh lắm và sẽ không đánh trả đâu, nên cứ đánh đi. Nhưng Thomas làm sao nghe được tim tôi nói gì - một trong những lý do khiến tôi thấy nhẹ nhõm
vì có một quả tim. Thay vào đó, cậu ta bước lui lại một bước, khuôn mặt cũng theo đó mà lui lại một bước, dần chuyển sang vẻ đăm chiêu nhưng vẫn đầy nộ khí.
“Tôi đang tự hỏi không biết có bao nhiêu người hàng xóm quanh đây biết rằng anh là một kẻ sát nhân và một tên hỏa tặc,” cậu ta nói. “Liệu bạn bè anh có hay biết. Đồng nghiệp của anh nữa…” “Ừ thì…” tôi ngần ngừ.
“Tôi cược rằng ngay cả với gia đình anh anh cũng giấu tiệt chuyện này,” khi cậu ta thốt lên những lời này, quang cảnh chung quanh tôi bỗng hóa mờ mịt như bị phủ một lớp khí nóng rừng rực, khiến tôi không còn nhận ra nó, cái thế giới này, cũng như không còn dám chắc rằng nó là của tôi.
“Tôi biết anh chẳng ăn năn gì việc đã giết bố mẹ tôi.” Thomas tiếp lời. “Nhưng cứ đợi đấy.”
Nói đoạn cậu ta quay người, sải bước dọc lối đi, chui vào con Jeep đen đậu ở vỉa hè rồi phóng đi mất dạng. Khi cậu ta đã khuất hẳn, tim tôi mới dần dần đập chậm lại, đầu tôi mới dần dần quang đãng và tai tôi mới dần dần nghe thấy tiếng hàng xóm xén cỏ rì rì. Tôi biết rằng không ai nhìn thấy Thomas cả, ngay cả có thấy thì họ cũng chẳng nghi ngờ hoặc quan tâm làm gì. Mới tuần trước, bà vợ đã ly thân của ông hàng xóm ở đối diện con phố đã không ngừng đập cửa nhà chồng cũ lúc ba giờ sáng, miệng bai bải quát tháo và dọa nạt sẽ cắt béng của quý của ông ta bằng cây bảo kiếm của ông nội từ thời Nội chiến, và ông ta đã gọi cảnh sát đến bắt bà ta, tạo nên những tiếng huyên náo om sòm, nhưng lại đủ xa xôi để làm chúng tôi tưởng nhà ai để ti vi to tiếng, đến sáng hôm sau đọc báo
mới hay sự tình. Khẩu hiệu bất thành văn ở khu Camelot này là “Đèn nhà ai nhà nấy rạng”, miễn là không cởi trần đi loăng quăng. Lúc này khi Thomas đã đi khỏi, khung cảnh lại trở về như một ngày thứ Bảy bình dị ở Camelot. Như thể những gì mới xảy ra chưa từng xảy ra vậy.
Nhưng không phải vậy. Quá khứ một khi đã dội lại thì sẽ cứ tiếp tục ùa về, không chỉ một phần mà toàn bộ ký ức: cái đám đông bị quên lãng trong đời bạn sẽ bung ra khỏi căn phòng trưng bày để sấn sổ đuổi theo bạn, và trốn chạy sẽ chẳng ích gì, rồi chúng cũng sẽ tìm ra bạn; bởi đó là đám đông của bạn, nên chúng chẳng truy tìm ai khác ngoài bạn cả.
Phải ba giờ chiều Anne Marie và hai đứa nhóc mới về nhà, và bây giờ mới là hai giờ. Vậy là tôi sẽ có đủ thời gian để cuốc bộ một lúc lâu, gom góp dũng khí để tiết lộ sự thật về quá khứ cho gia đình biết. Tôi hiểu rằng đây là việc tôi cuối cùng cũng phải làm: phơi bày sự thật. Và do đâu mà tôi lại thấu hiểu được điều này?
3
Là nhờ mẹ tôi đấy: bà có khiếu kể chuyện, và những câu chuyện bà kể trong thời gian bố tôi bỏ đi lúc nào cũng xoay quanh Dinh thự Emily Dickinson. Thí dụ hồi tôi lên tám, bà kể cho tôi nghe một câu chuyện về hai cô bé cậu bé vừa khéo trạc tuổi tôi lúc bấy giờ. Hai cô cậu ấy thường nắm tay nhau chạy nhảy tung tăng, luôn miệng ném cho nhau những câu châm chích mỉa mai học được từ phim ảnh, truyền hình hay đám bạn cùng trang lứa, mà bọn này chắc cũng chẳng học từ nguồn nào khác, chỉ khác cái là đã biến báo đi để thành của mình.
Cả hai đều là những đứa bé ngoan: chúng đến chơi nhà nhau sau giờ tan học, vào cuối tuần hay những ngày nghỉ lễ; tặng thiệp cho nhau vào dịp sinh nhật và nấu cháo điện thoại hàng tiếng đồng hồ. Rồi một ngày nọ khi hai đứa đi ngang qua Dinh thự Emily Dickinson và thấy thật lạ là cửa sau đang mở toang, chúng quyết định bước vào dò la. Nhưng ngay khi chúng vừa đưa chân qua bậc thềm thì, mẹ tôi kể, hai cánh cửa đột nhiên đóng sầm lại sau lưng và cả tòa nhà rung rền như cái máy nén rác quá khổ đang hồi khởi động. Người ta nghe thấy tiếng gào thét bên trong ngôi nhà, tuy nhỏ mà rõ, và khi mẹ kể xong câu chuyện thì tôi buông một hơi thở dài, nhăn nhó kêu ca: “Sao lại chẳng công bằng gì thế.” Và mẹ tôi sẽ gật đầu đáp: “Dinh thự Emily Dickinson giống như lỗ cuối cùng trên một sân golf mini vậy. Còn hai đứa bé là quả bóng golf, chúng
lọt thỏm vào đó, để rồi ngôi nhà lại tiếp tục chờ đợi người kế tiếp.” Quả là một phép so sánh tai hại, vì quãng thời gian đó mẹ và tôi vẫn thường hay chơi trên sân golf mini cùng nhau.
Câu chuyện mẹ kể là như thế đấy (tôi quên chưa nói thêm là nó chẳng bao giờ làm hai mẹ con tôi vui lên được chút nào), nhưng giờ thì sắp đến lượt tôi kể câu chuyện của mình, và đó là câu chuyện có thật. Tôi sẽ nói thật cho Anne Marie và các con nghe về chuyện của mình và Dinh thự Emily Dickinson, việc tôi đã đốt trụi thùi lụi nó và giết mất hai vợ chồng tội nghiệp nhà Coleman thế nào. Tôi đã gian dối một thời gian quá dài. Giờ đây khi Thomas Coleman đã ló mặt ra và dọa sẽ khều cái kim trong bọc thì tôi hiểu rằng mình phải kể với gia đình sự thật này khi nó còn có cơ hội cứu vãn tôi và khi tôi tạm có khả năng kiểm soát nó. Mà biết đâu đấy, có khi sự thật lại làm tôi hạnh phúc hơn thì sao. Đã chẳng có lần một tay phân tích trái phiếu bảo một tay khác khi cả đám đang công não viết hồi ký: “Có gì kể nấy đê ông tướng ơi,” (họ nói năng theo kiểu đó đấy: như là những tay lướt sóng bận vest hiệu Brooks Brothers). “Cho nó nhẹ người.” Nghe như thể tất cả chỉ là chuyện nhân quả, khiến cho tôi, một nhà đóng gói học, hoàn toàn hiểu và thấm thía. Nhưng tôi cũng biết việc này chẳng dễ dàng gì. Khi tôi cuốc bộ ra khỏi Camelot, dọc theo quốc lộ 116, và lượn vòng vòng quanh bãi đậu xe ngoài siêu thị đồ làm vườn (lẽ ra tôi có thể đi dọc vỉa hè quốc lộ 116 hoặc trong khu Camelot, nhưng làm gì có vỉa hè mà đi), và mường tượng ra khuôn mặt hai thiên thần nhỏ khi bố của chúng cố gắng giải thích mình là một kẻ sát nhân và một tên hỏa tặc, chưa kể còn là một gã dối trá trường kỳ, tôi phần nào bị lung lay. Nhưng sẽ ổn thôi, vì tôi biết
mình sắp làm một việc đúng đắn, và tôi đang có thừa quyết tâm đây, nên bớt đi một chút cũng chẳng hại gì.
Thế rồi tôi quay gót trở về Camelot, bước lên lối vào nhà, và đánh mất thêm một ít quyết tâm nữa. Chiếc xe tải mini của Anne Marie đã đậu ở đấy tự bao giờ. Cũng giống như Camelot, căn nhà, lũ trẻ và bản thân Anne Marie, chiếc xe được chăm sóc rất cẩn thận và tôi yêu nó, yêu gia đình, yêu căn nhà quá đỗi, tôi cảm thấy tình yêu ấy trong người lớn dần lớn dần, thấy trái tim trong ngực như muốn nở to lên, to nữa lên cho tới khi căng phồng yêu thương đến mức nổ tung tóe vương vãi khắp nơi khiến tôi lìa đời luôn mà chẳng phải bận tâm gì nữa. Tôi lượn vòng ra sau nhà theo lối cửa hậu, bước vào bếp, nơi lát những viên gạch nung lấp lóa nắng. Tôi chẳng hiểu gạch nung là cái thứ gạch gì, chỉ biết nó có liên hệ gì đó tới những người da đỏ và đất sét, đất nện, mà mấy thứ đó dường như chả có liên quan gì đến cái thứ được lát trên nền bếp nhà tôi đây. Mặt sàn này và tên gọi của nó thật bí ẩn, không thể giải nghĩa được, có khác nào tình yêu đâu, và con tim tôi cứ phồng to lên, thách thức sự chịu đựng của những vách ngăn. Tôi quỳ xuống hôn lên sàn bếp, đặt môi lên nền gạch lạnh mát. Mày là của tao. Đó là ý nghĩ tôi dành cho cái sàn gạch. Mày là của tao, và tao yêu mày lắm. Nhưng liệu cái sàn có còn yêu lại tôi không sau khi tôi kể cho nó nghe về sự thật đời mình? Chỉ nghĩ đến đó môi tôi đã có thể cảm nhận thấy lớp gạch đang co lại để né khỏi mình. Liệu gia đình tôi có giống thế không? Làm sao có thể khác được? Ôi, tôi lo sợ, không chỉ một thứ, mà tất cả mọi thứ, dù chưa tới một phút trước đây tôi còn tràn trề lòng dũng cảm và quyết tâm. Ngay cả lớp gạch sàn cũng
còn làm tôi sợ và muốn cao chạy xa bay trước khi bị nó hoàn toàn cạch mặt. Tôi lau xong vết môi hôn trên sàn và chống gối đứng dậy thì cũng là lúc Katherine con gái tôi bước vào bếp.
Katherine nay đã tám tuổi rồi, cao gầy khẳng khiu giống hệt mẹ nó hồi xưa - kiểu con gái chẳng mặc gì ngoài quần yếm trong suốt thời gian du hành từ vóc dáng lộc ngộc như con trai sang vẻ yêu kiều đầy nữ tính. Con bé đã học từ mấy chương trình truyền hình hoặc đám bạn cái cách chào hỏi người ta không theo lối thông thường, “Hế nô,” con bé đang nói với tôi trong bếp lúc này đây, và tôi muốn đáp lại: Ôi, cục cưng, con gái rượu đầu lòng, bố sắp nói với con điều này, chắc con sẽ ghét bố lắm, nhưng ngay cả nếu có ghét thì ít nhất con cũng hứa với bố là đừng bao giờ chào “Hế nô” như thế nữa nhé? Nhưng thay vì vậy thì tôi lại hỏi, “Mẹ đâu rồi con?”
“Mẹ ở trên gác tập thể dục.” Vào giờ này hằng ngày Anne Marie vẫn thường leo lên phòng ngủ trên tầng, bận đồ thể thao, những mảng vải trơn bóng thít lấy những mảng da trắng, tóc búi cao, nhân trung lấm tấm mồ hôi, vừa xem ti vi vừa guồng cật lực chiếc xe đạp cố định. Đôi khi tôi tự hỏi nếu nàng cứ guồng mãnh liệt thế kia thì chiếc xe còn cố định được thêm bao lâu nữa. Tim tôi nhói buồn khi nghĩ tới cảnh phải vén mở cho nàng biết về con người thật của mình; và rồi, bởi tôi không phải là kẻ e ngại những câu hỏi lớn, tôi băn khoăn không biết liệu nàng có hạnh phúc hơn khi lấy một người khác hay không, một người không đầu lừa như tôi. Trong quan hệ của chúng tôi có không ít lần tôi thể hiện cái sự đầu lừa ấy. Chẳng hạn như lần chúng tôi ăn tối với vợ chồng cậu đồng nghiệp, lan man
thế nào lại tán sang chuyện người Do Thái, hoặc ít nhất là về tôn giáo của người Do Thái, và Anne Marie hỏi cô vợ (vốn mang quốc tịch Mỹ) xem cô ta có phải người Do Thái không, cô ta đáp không phải, rồi tôi quay sang bảo cậu đồng nghiệp: “Tôi thì biết chắc cậu không phải người Do Thái.” Tôi nói vậy vì tôi biết cậu ta là người Đức, đến từ nước Đức - tên cậu ta là Hans - nhưng nói vậy thì chẳng khác nào ngầm ám chỉ rằng vì cậu ta là người Đức, chắc hẳn cậu ta phải là một tên Phát xít: sau này Anne Marie đã phân tích như thế. Và tôi thanh minh với nàng rằng tôi nào có ngụ ý đó, nhưng rõ ràng hai vị khách đã hiểu theo hướng Anne Marie nói: họ giục nhau cáo từ, ngay cả khi món tráng miệng còn chưa bưng lên. Sau khi họ đi khỏi, Anne Marie nổi đóa với tôi - nổi đóa, người anh họ cáu bẳn của sự cam chịu, thứ cảm xúc nàng thường xuyên cảm nhận thấy khi ở bên tôi. Tôi bèn xin lỗi nàng. Nhưng tội của tôi cũng có to đâu: sau này tôi phát hiện ra cậu chàng đó đúng là chẳng phải người Do Thái!
Nhưng chắc đó không phải là điểm mấu chốt ở đây. Anne Marie có hạnh phúc không? Tôi đã bao giờ làm cho nàng thấy hạnh phúc chưa? Hay là chỉ toàn làm nàng bận bịu: vừa chạy theo bọn trẻ như cờ lông công, vừa đi làm, vừa nai lưng làm hết những việc nhà mà tôi chẳng mó tay vào - nghĩa là (trừ việc xén cỏ và vài buổi tối xem ti vi với lũ trẻ) tất tần tật mọi thứ - kể cả việc dọn dẹp những điều tôi lỡ tay gây ra, nhiều đến mức nàng chẳng còn tin được liệu chúng có phải là sự lỡ tay hay không nữa? Tôi chỉ là một trong những thứ khiến nàng bận bịu, ừ thì, nói đúng ra là tôi và cái xe đạp cố định. Gần đây nàng có vẻ ít phiền não và khóc lóc hơn trước, liệu đó là vì
nàng hạnh phúc hay vì nàng bận bịu? Tôi khiến nàng hạnh phúc hay chỉ đơn thuần quá bận bịu? Mà hai cái đó có gì khác nhau không?
“Trái đất gọi bố,” Katherine nhắc. Con bé đã đủ cao để với tay lên cốc đầu tôi, như thể kiểm tra xem hồn tôi đã nhập về chưa, và nó vừa làm thế, với tay lên cốc vào trán tôi, nhẹ nhàng thôi, gần như không đau và chỉ thoắt một giây. “Bố có ở đó không?”
“Có,” tôi đáp. “Em con đang làm gì?”
“Nó đang ở trên phòng xem ti vi ấy.”
Tôi có thể vẽ ra cái cảnh Christian đang dán mắt vào chiếc ti vi (mỗi thành viên trong gia đình tôi đều có một chiếc trong phòng mình, cộng thêm một cái ở dưới nhà, và một cái đặt dưới tầng hầm - với cả đống màn hình như thế này, chúng tôi chẳng khác gì những kẻ điều khiển một điệp vụ mật). Khi Christian phóng trên chiếc xe scooter, thằng bé thường kêu lên những tiếng kêu thích thú như hồi nó còn bé xíu, tựa như là tiếng “Wheeee.” Còn khi chăm chú vào ti vi thì trông thằng bé như đang bối rối và tức giận với những thứ xảy ra trên màn hình, nhìn hệt một đứa đần độn hung tợn. Tôi chỉ ước sao thằng bé đang chơi xe scooter, chơi trong nhà cũng được, điều chúng tôi bình thường vốn không cho phép, để giờ tôi có thể mường tượng cảnh thằng bé đang chơi trò đó thay vì ngồi đần độn và câm lặng trước màn hình ti vi. Tôi cũng ước giá mình có thể để lại cho Christian và Katherine một thứ gì đó để nhớ về bố chúng. Đó là một mong ước của mọi phụ huynh, tôi biết vậy. Mẹ tôi chẳng hạn, trong quãng thời gian vắng chồng, bà đã kể tôi nghe mấy câu chuyện về Dinh thự Emily Dickinson để tôi còn có một cái gì đó,
ngoài một người cha biệt tích. Và đến giờ tôi vẫn còn có chúng; tôi đã giữ chúng suốt bấy lâu nay, trong đầu mình, vì đó là những câu chuyện quá là hấp dẫn.
Những câu chuyện mẹ kể xoay quanh Dinh thự Emily Dickinson bao giờ cũng kết thúc với những hơi thở cuối đời của nạn nhân, những đứa trẻ mất tích và bị chìm vào quên lãng, những thi thể người, lớn nhỏ mới cũ đủ cả, rơi lả tả xuống một kẽ nứt cô quạnh nghiệt ngã. Năm tôi chín tuổi, mẹ bắt đầu kể một loạt những câu chuyện, ngày một dài và kinh dị, về những gã lạ mặt lai vãng tới thị trấn: toàn những kẻ có quá khứ mờ ám, lưng giắt một mớ tiền án tiền sự, quần bò bạc thếch, miệng phì phèo Marlboro, hoặc vẫy xe xin đi nhờ hoặc rong ruổi trên xe buýt để vào thị trấn hòng kiếm một chỗ đặt lưng, một công việc vài xu đút túi, cóc cần biết bầu cử hay thuế má là gì. Đám người này có coi Dinh thự Emily Dickinson ra cóc khô gì ngoài một nơi tạm trú qua đêm: chẳng qua đó cũng chỉ là một ngôi nhà to cộ, bụi bặm, ổ khóa thì lỏng lẻo và chỉ ban ngày mới có bóng người. Những gã này đột nhập vào căn nhà một cách dễ dàng, nhưng chính vì vậy mới khiến sự mất tích sau đó (theo như những câu chuyện của mẹ thì người ta chỉ có thể loáng thoáng nghe thấy những tiếng rú của họ khi bị ngôi nhà địa ngục cựa mình răng rắc nuốt trọn) trở nên đáng sợ hơn gấp bội: bởi đám người này đã trải nghiệm và sống sót qua biết bao điều kinh hoàng ngoài đời, nhưng lại không sao thoát khỏi bóng tối của ngôi dinh thự này. Nó vừa rùng rợn, vừa cuốn hút như thế đấy, mà nó lại còn tọa lạc lù lù ngay đầu phố mới sợ chứ. Trong khi đó bố tôi, cả đời không đụng đến điếu thuốc, bận quần kaki thay vì quần bò mốc,
chưa từng biết rắc rối là gì: ông hẳn sẽ không thể nào sống sót mà quay trở về Amherst và Dinh thự Emily Dickinson; ông sẽ bị cuộc đời nuốt chửng trước khi đặt chân về tới nhà. Khi tôi nói rằng tôi thấy lo lắng cho những kẻ du đãng trong câu chuyện của mẹ, thì thực ra là tôi đang lo cho bố của mình, người hẳn đang cô quạnh ở thế giới bên ngoài rặt những hung hiểm tàn nghiệt, tôi đã tin như vậy. Những câu chuyện về Dinh thự Emily Dickinson của mẹ chẳng qua chính là nói về bố tôi, vì vậy nên tôi mới nghĩ ngợi về nó (Dinh thự Emily Dickinson ấy) và bố mẹ tôi nhiều đến như vậy - hồi đó và cả bây giờ nữa.
Nhưng thế đủ rồi. Còn hằng hà sa số những câu chuyện khác, những món quà mẹ đã tặng tôi, và hãy xem chúng đã dẫn tôi đến bến bờ nào - đó mới là vấn đề. Tôi không hề muốn để lại cho hai đứa nhóc tì của mình một thứ tương tự như vậy; nhưng đồng thời tôi chợt nhận ra rằng mình cũng chẳng muốn cho chúng biết sự thật, một hành động nguy hiểm và có thể sẽ làm tổn thương cả gia đình nhỏ này và chẳng giúp được ai sất. Trong lúc tôi đang vơ vẩn nghĩ xem nên tặng chúng món quà gì an toàn hơn, thì bé Katherine đã mở tủ lạnh, thò tay vào móc ra một chiếc cốc xốp cỡ lớn rồi đưa lên miệng mút chùn chụt chiếc ống hút cắm trên miệng cốc.
“Con uống gì đấy?”
“Sinh tố,” con bé đáp.
“Có giống sữa lắc không?”
“Không,” con bé đáp.
“Thế sinh tố với sữa lắc khác nhau thế nào?” tôi hỏi. Con bé đắn đo trong giây lát: “Sinh tố thì không bị lắc.”
“Giỏi,” tôi khen, khen thành thực. Tôi vốn định về nhà để kể cho gia đình nghe về sự thật của mình, nhưng thay vào đó lại cho con gái mình một cuộc trò chuyện lý thú về sinh tố, một thứ con bé sẽ chẳng đời nào nhớ, và có lẽ đây là điều tốt nhất ta có thể để lại cho con cái mình: chẳng để lại cái gì cả. “Tốt lắm,” tôi khen thêm lần nữa.
“Cái gì tốt?” Anne Marie bước vào bếp sau lưng tôi. Tôi quay lại nhìn nàng. Tóc nàng ướt sũng; rõ là mới tắm xong. Buồn cười lắm nhé: nàng chẳng bao giờ chịu sấy tóc cho khô, dù mái tóc nàng dày và dài như cuộn thừng, đến công chúa Rapunzel chắc cũng phải ghen tị, nhưng nàng chưa từng mua cái máy sấy tóc nào bao giờ, ấy thế mà vẫn làm khô tóc được mớỉ lạ. Khi rỗi việc, tôi vẫn thường nghĩ, bên trong mái tóc nàng hẳn phải có những sợi dây xoắn gia nhiệt, và chỉ cần nhìn nàng cũng đủ khiến tôi cảm thấy những sợi dây xoắn gia nhiệt bên trong mình tỏa hơi ngùn ngụt, ngọn lửa phừng phừng liếm từ hai chân lên chỗ kín, qua ngực rồi lên khuôn mặt tôi. Tôi phải cưỡng lại cái thôi thúc muốn nhảy vào ngấu nghiến nàng ngay tại đây trong tình ái và đam mê. Điều này tôi đã từng làm một lần, trong một tiệm giày ở trung tâm mua sắm Thung lũng Tiên Phong, khi Anne Marie đang ướm thử một đôi bốt đen cao lút gối, xoay người bên này bên nọ như một cô người mẫu mà nàng hoàn toàn có thể trở thành nếu muốn, và lửa dục trong tôi đã cháy bừng đến mức tôi chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài việc đâm bổ vào nàng. Và tôi đã làm y hệt như thế, xô dạt đống thùng đựng đồ và kệ trưng bày và các thượng khách khác trong quầy. Sau khi phải dọn dẹp đống bừa bãi, xin lỗi chủ tiệm và nhận mua đôi bốt, Anne
Marie đã buộc tôi phải hứa sẽ tuyệt đối không bao giờ được lặp lại chuyện đó nữa. Thế nên lúc này tôi đành đáp: “Sinh tố.” “Sinh tố gì cơ?”
“Katherine đang uống thứ đó. Hai bố con anh vừa mới tán dóc xem sinh tố với sữa lắc thì khác nhau thế nào.” Anne Marie nhìn tôi đầy khó hiểu như thể tôi vừa nói một thứ ngoại ngữ tôi chưa từng được học vậy. Nên tôi bèn giải thích. “Hai thứ khác nhau mà.”
“Hôm nay thế nào anh?” Anne Marie hỏi. “Ở nhà có gì lạ không?”
Đương nhiên đây là thời khắc để tôi kể nàng nghe cái sự thật lúc này đang án ngữ trước mặt tôi như thể là một thành viên của gia đình. Tôi lại nhớ tới đám phân tích trái phiếu, nhớ tới những trang hồi ký của họ bay lật phật như cao su dẻo: Có gì kể nấy, có gì kể nấy đê; như thế sẽ làm ta cảm thấy tốt hơn, ông tướng ạ. Tôi hoàn toàn có khả năng làm việc này chứ, phải không nào? Tôi sẽ kể Anne Marie nghe về vụ hỏa hoạn ở Dinh thự Emily Dickinson và gia đình Coleman và quãng đời tù tội của mình; tôi sẽ kể nàng nghe về bố mẹ tôi, rằng tôi đã làm họ đau đớn, và rồi vì thế họ đã gửi tôi đi học đại học; tôi sẽ kể nàng nghe về cuộc viếng thăm vừa mới đây thôi của Thomas Coleman. Tôi sẽ cho nàng biết rằng những lời lừa dối trước đây chẳng qua đều là do tôi yêu nàng quá và sợ mất nàng đấy thôi, và giờ đây tôi kể sự thật cho nàng cũng chính vì nỗi sợ đó, và xin nàng làm ơn làm phúc hãy tha lỗi cho tôi, tôi sẽ không bao giờ hở thêm một lời dối trá nào nữa.
Và rồi rốt cuộc thì tôi đã nói gì với nàng? Thêm một lời dối trá nữa. Bởi vì khi bạn là một kẻ dối trá thì bạn luôn làm như vậy: bạn
nói dối, rồi nói dối thêm nữa, và sau một chặp thì bạn chỉ hy vọng là những lời dối gian sẽ ít đau đớn hơn sự thật, hoặc ít ra thì đây là lời nói dối bạn tự nói với bản thân.
“Chẳng có gì lạ,” tôi đáp. Và rồi, trước khi nàng kịp hỏi tôi thêm câu nào để tôi lại phải trí trá đáp lại, tôi bèn thốt ra một câu hoàn toàn chân thật: “Anh yêu em nhiều lắm, Anne Marie ạ. Em có biết không cưng?”
Nàng mỉm cười, áp bàn tay lên má tôi, cử chỉ âu yếm yêu thích của nàng, và đáp: “Em biết rõ mà. Em biết mà.”
“Anh đói ngấu rồi,” tôi nói. “Mình nấu bữa tối đi thôi.” Thế là chúng tôi lăn vào bếp: Katherine tách cây xà lách, rửa bằng vòi rửa rồi cho vào rổ quay rau, con bé mắm môi mắm lợi ấn tay thật lực, mỏi tay này thì chuyển tay khác; tôi thì dọn bàn ăn, sắp đặt dao nĩa đĩa thìa theo thứ tự mà tôi cho là đúng; còn Anne Marie mới là người đóng vai chủ đạo, tôi không nhớ cụ thể bữa tối hôm đó gồm những gì nhưng chắc chắn là có đầy đủ những nhóm thức ăn quan trọng nhất. Christian đi xuống, vẫn còn lờ đờ vì xem ti vi, và cũng cố làm tròn bổn phận của mình, tức là ngồi im trên ghế và không làm phiền đến ai.
Khi chúng tôi bận nấu nướng, căn bếp đầy ắp những câu chuyện thường nhật: Anne Marie nói về câu lạc bộ sách nàng mới tham gia, Katherine khoe mình đang là ngôi sao trong đội bóng đá nữ, Christian kể lại bộ phim hoạt hình thằng bé vừa xem nhưng chỉ hiểu lõm bõm. Còn tôi, chẳng mở được mấy lời, chủ yếu là vì bị phân tâm bởi giọng nói oang oang ấy, Còn gì nữa? Còn gì nữa? Đã rất nhiều năm rồi nó mới quay trở lại, mà tôi cũng không hiểu vì sao nó
lại xuất hiện. Tôi đã đạt được những gì mình muốn, chính là những gì đang hiện diện cùng tôi trong căn phòng này và bao gồm cả căn phòng nữa. Có lẽ nào ta nghe thấy giọng nói đó không phải vì ta còn muốn gì khác nữa, mà là vì ta sợ mất những thứ ta đang có? Giọng nói đó vang to đến mức tôi phải đập tay vào thái dương hòng xua nó đi, làm nhóc Christian nhìn thấy và bắt chước, nhưng lại làm quá tay, nên thằng bé bắt đầu mếu máo khiến tôi phải dỗ dành, nhưng ít ra làm vậy cũng giúp tôi tạm thời gạt được giọng nói kia qua một bên.
Cuối cùng cả nhà cũng ngồi vào bàn ăn. Sau một ngày đầy sóng gió, việc cả nhà vẫn còn quây quần được quanh bàn ăn đối với tôi chẳng khác gì một phép mầu. Mà phép mầu thì phải được phúc đáp bằng những lời cầu nguyện, hồi học đại học tôi được dạy thế, duy chỉ có điều tôi chẳng thuộc lời cầu nguyện nào cả, những lời hiếm hoi mấy xơ bắt chúng tôi học giờ đã bay biến đi đâu mất. Vậy nên tôi chỉ đơn giản nói thế này: “Tôi là nguời chồng, người cha may mắn nhất trên thế gian này.” Mà đúng là như vậy; vận may đã đi theo tôi suốt mười năm trời, và nó sẽ nán lại với tôi thêm bốn ngày nữa trước khi mất tích và tôi sẽ làm một điều không nên chút nào.
4
Tôi đi công tác xa nhà. Các sếp cắt cử tôi đi Cincinnati để chào hàng một loại hộp đựng xúc xích mang tính đột phá cho ban lãnh đạo tập đoàn thức ăn đóng hộp Kahn’s. Tôi rời nhà tổng cộng ba mươi sáu tiếng đồng hồ và mọi thứ đều ổn thỏa (vì khuôn sản phẩm đã tuyệt sẵn nên chẳng cần thuyết phục gì nhiều). Vấn đề duy nhất là sau khi hạ cánh xuống sân bay, lấy xe ra khỏi bãi đậu dài ngày và lái về Amherst, tôi đã dừng lại cách nhà hai dặm để đổ xăng và để quên chìa khóa trong xe. Tôi không muốn thuê người mở khóa nên đành điện cho Anne Marie lái xe tới đưa tôi chiếc chìa sơ cua.
Anne Marie nhấc điện thoại. Đó là một chiều thứ Tư, vào khoảng bốn giờ. Nàng thường hút một điếu thuốc vào buổi sáng, một điếu trước bữa tối, còn điếu thứ ba thì trước giờ đi ngủ, và lúc này chắc hẳn nàng vừa hút xong một điếu nên giọng nàng nghe như tiếng xinh xịch của xe lửa từ xa vọng lại, một điệu khàn khàn dễ thương rót vào tai qua đường truyền khiến tôi thấy thật hạnh phúc và lạc quan khi nghe nàng nói hai tiếng: “A lô?”
“Này, Anne Marie cưng ơi,” tôi nói, “anh Sam đây.”
“Sam,” nàng hỏi, “anh đang tòm tem phải không?” Câu hỏi này như một gáo nước lạnh dội vào óc tôi. Ôi, niềm hân hoan có thể chuyển sang nỗi hãi hùng thật nhanh đến mức quả là một phép mầu khi ta không bị bong gân hay trật khớp bởi sự bất thình lình.
Tôi đã định nói, Không, đương nhiên là không rồi, em nghĩ vớ vẩn gì thế, nhưng chợt nhận ra rằng việc mình giấu Anne Marie chuyện đốt Dinh thự Emily Dickinson hay chuyện về Thomas Coleman và bố mẹ anh ta thì cũng chẳng khác nào là tôi đang quan hệ lăng nhăng rồi, một mối quan hệ với sự phản bội và tội lỗi, thay vì với một người đàn bà và chuyện chăn gối. Vâng, tôi đang ở vào một tình trạng tồi tệ, đầu óc thì mụ mị, thế nên chẳng có gì khó hiểu khi tôi đã ngập ngừng không đáp lại câu hỏi của Anne Marie trong vài giây, mà có thể là tận nửa phút, khiến nàng phải thốt lên: “Thôi đúng rồi, đúng là anh đang tòm tem rồi!”
“Ờ,” tôi đáp, và đây đúng là một hành động đầu lừa. Tôi định bụng kêu lên “Ớ?” nhưng chẳng hiểu sao lại thốt ra “Ờ”, nghe cứ như một lời khẳng định, một lời thú nhận, bởi lúc này Anne Marie bắt đầu gào khóc to hơn nữa.
“Không, không,” tôi chợt tỉnh, vội vàng thanh mình. “Đương nhiên là anh không tòm tem rồi. Sao em nghĩ vớ vẩn thế?” “Thì, thứ nhất,” nàng đáp, “anh đi công tác xa nhà.” “Ừ,” tôi đáp, “thì đúng thế mà. Anh chẳng nói thế với em là gì. Em đã biết đấy thôi.”
“Sam này,” nàng cao giọng nói với vẻ đạo đức kẻ cả mà người ta thường dùng khi đủ quá hiểu người còn lại. “Tôi nghĩ nát óc từ lúc anh ra đi. Cả đời anh chưa từng một lần đi công tác ra khỏi cái thị trấn này.”
Điều này không hẳn đúng. Khi mới đầu quân vào Công ty Đóng gói Tiên phong, tôi đã từng được cử đi giới thiệu sản phẩm, một loại lọ siêu chịu lực đựng xốt mayonnaise, và đã có một màn trình diễn
náo nhiệt tơi bời, hết ném cái lọ từ các nơi cao thấp khác nhau lại đập mạnh cho nó nẩy trên sàn xi măng và mặt đường, mải mê đến quá nửa ngày làm cho những vị khách tương lai người ngợm uể oải, mắt thâm quầng và chẳng buồn ký cái đơn đặt hàng nào sất. Từ đó trở đi các sếp ở công ty luôn cắt cử những nhân viên khác đi vi vu khắp quả đất để chào hàng và dự hội nghị, duy có thằng tôi là luôn ở nhà trấn giữ công ty. Thế nên trong cái án ngoại tình này Anne Marie về mặt từ ngữ thì sai nhưng về tinh thần thì trúng phóc, và càng nghĩ tôi càng thấy toàn bộ câu chuyện có thật này của mình nghe chẳng khác gì một vụ trí trá. Nhưng tôi vẫn ngoan cố.
“Nhưng đúng thế mà, đúng là như thế mà,” tôi bắt đầu kể nàng nghe về mẫu hộp đựng xúc xích tôi đã thiết kế, rằng khả năng bảo quản thịt của nó khác hẳn những thứ trên thị trường, nhưng Anne Marie cắt ngang: “Anh nói dối. Tôi không tin được anh.”
“Anne Marie,” tôi thanh minh, “cục cưng ơi em nhầm rồi. Tất cả chuyện này chỉ là hiểu lầm thôi em à. Anh yêu em nhiều lắm lắm.” “Anh thôi ngay đi,” nàng cự. “Gã đó bảo tôi rằng anh sẽ lải nhải y hệt như thế.”
“Gượm đã,” tôi hỏi. “Ai cơ? Gã nào nói là anh sẽ lải nhải vậy?” “Cái gã có vợ đang hú hí với anh ấy. Gã nói rằng anh sẽ kêu chuyện này chẳng qua chỉ là hiểu lầm thôi. Đấy là lý do thứ hai làm cho tôi biết anh đang nhăng nhít. Vì gã đã nói cho tôi nghe.” “Gã đó là gã nào thế?” Tôi mừng thầm vì giờ đã có một gã dối trá khác để chĩa mũi dùi. “Tên gã là gì?”
“Chẳng việc gì tôi phải hạ mình trả lời câu hỏi đấy cả. Anh lại chẳng biết thừa rồi còn hỏi.”
“Không, anh có biết gì đâu,” tôi cãi. “Gã ấy tên là gì? Nói cho anh đi mà. Xin em đấy.”
Có thể vì giọng tôi toát lên vẻ thành khẩn; ý tôi là, tôi thành khẩn thật, nhưng hình như Anne Marie cũng cảm thấy được điều đó từ tôi. Vì qua điện thoại giọng ta đâu còn ra cái hồn gì nữa, đúng là đồ máy móc quỷ quái, và tôi sẽ ngừng dùng nó ngay, ai cũng thế thôi, một khi không còn khoảng cách ngút ngàn giữa ta và người cần trò chuyện. Nhưng dù vậy, việc giọng tôi toát lên vẻ thành khẩn vẫn không phải là bất khả thi. Hoặc cũng có thể Anne Marie đang níu kéo chút tia hy vọng, rằng tôi không phải là kẻ lăng nhăng và dối trá như nàng đang nghĩ. Thế nên nàng mới tiết lộ tên của gã phá bĩnh, như thể tôi chẳng biết gã là ai. Nhưng hóa ra tôi lại biết quá đi chứ.
“Thomas,” nàng dịu giọng lại. “Thomas Coleman.”
“Ôi không. Chết tiệt,” tôi thốt lên. Rõ ràng đây không phải là những lời sẽ thuyết phục được Anne Marie rằng tôi vô tội. “Biết ngay mà,” giọng nàng đanh trở lại, cũng giống như khi bạn đã khóc khô cả nước mắt rồi phát hiện ra lý do mình khóc thật xác đáng.
“Gã nói dối đấy,” tôi phân trần. “Em đừng có tin lời nào gã nói.” “Gã nói rằng anh sẽ nói câu đó với em, và kêu em cứ hỏi anh vì sao gã lại nói dối.”
Ôi, đau đớn thay! Thomas đã vượt mặt tôi rồi, thế có điên không! Thật đau khổ khi phát hiện ra ta ngu hơn kẻ khác. Nhưng nói đi thì phải nói lại, trên đời kiểu gì chả có kẻ láu hơn ta; ta cứ nghĩ rằng ta chắc sẽ lăn ra chết vì nỗi đau liên miên do bộ óc kém
cỏi gây ra, chỉ có điều ta thường quá ngốc để cảm nhận được là mình kém cỏi. Vâng, tôi biết Thomas Coleman khôn hơn tôi, và giờ thì vợ tôi cũng biết điều này.
“Biết ngay mà,” Anne Marie nhai lại. “Gã còn nói rằng anh sẽ kêu là toàn bộ mớ bòng bòng với vợ gã chỉ là một sự lỡ tay, rằng anh sẽ chẳng bao giờ cố ý gây ra một chuyện như vậy.”
“Nghe cũng giống anh đấy,” tôi thú nhận. Phải bái phục Thomas: cậu ta thực sự hiểu tôi từ trong ra ngoài, và làm sao để lợi dụng những hiểu biết này để phá tôi. Tôi lại chẳng hiểu vì sao cậu ta lại bảo Anne Marie rằng tôi đang phản bội nàng, thay vì kể tồng tộc luôn chuyện tôi đã đốt Dinh thự Emily Dickinson và hại chết bố mẹ cậu ta, nhưng chắc chắn phải có một lý do nào đó, một lý do xác đáng, và cậu ta đủ trí khôn để biết nó là gì còn tôi thì không. Làm sao cậu ta có thể ranh mãnh và quả quyết thế nhỉ? Hay là vì nỗi đau tôi gây ra đã khiến cậu ta hóa ra như vậy, và nếu đó là sự thật, thì chính tôi đã tiếp tay cho sự láu cá xảo quyệt của cậu ta. Một mặt, tôi bắt đầu thấy ghét cậu này thật sự, mặt khác lại hơi hơi tự đắc, như cảm giác của bác sĩ Frankenstein khi bị tên quái vật trả thù, vì nói cho cùng thì bác sĩ Frankenstein chính là người đã ban cho hắn đủ sức mạnh và trí khôn để trả thù mình.
“Anh biết gã còn nói gì không?” Anne Marie hỏi.
“Nói anh nghe đi,” tôi đáp. Đương nhiên tôi chẳng muốn nghe, nhưng rồi kiểu gì nàng cũng sẽ kể tôi biết, nên tốt hơn hết cứ đón đầu trước cho xong, chẳng thế mà trong phim ta cứ thấy ma cà rồng toàn được các nạn nhân mời mọc vào nhà, và muôn đời sẽ vẫn thế.
“Gã nói rằng xét cho cùng thì hai đứa mình cũng chẳng phải là một nửa của nhau. Gã bảo tôi quá xinh đẹp để đánh cặp với một kẻ như anh.”
“Ơ kìa, Anne Marie, anh chẳng nói với em chính điều đó không biết bao nhiêu lần rồi còn gì.” Đúng thế mà. Nhưng khi thốt ra từ miệng Thomas thì nó lại có một sắc thái khác hẳn. Khi tôi nói Anne Marie đẹp quá tầm với của mình, thì có vẻ như chỉ có mình tôi biết và nhận thấy sự thật. Nhưng giờ khi Thomas đã nói ra thì tôi như có thể thấy hai người bọn tôi qua cặp mắt của thiên hạ: chúng tôi là một cặp mà ai ai cũng phải thắc mắc. Gã này thì có gì hay mà cô kia lại thích nhỉ? Một câu hỏi không lời đáp.
“Nghe này,” tôi nói. “Anh biết em không tin anh. Nhưng đừng tin lời gã Thomas này; gã chỉ toàn rắc rối thôi.”
“Anh thì biết quá đi rồi,” nàng đáp.
“Sao cơ?”
“Thì rắc rối mới đánh hơi được rắc rối,” nàng đáp. Tôi như nghe được tiếng nàng bật lửa châm thêm một điếu thuốc, nghĩa là nàng đang trên đà vượt định mức ba điếu mỗi ngày. Nàng không muốn hút bên cạnh lũ trẻ, nên tôi nghĩ tôi có thể nói chuyện với chúng trong khi nàng hút dở điếu thuốc. Tôi đã mất nàng; chưa gì tôi đã cảm thấy như vậy rồi. Nhưng tôi còn chưa mất lũ trẻ. Có vẻ như khi vừa đánh mất một người thân yêu thì bạn sẽ nháo nhào tìm kiếm để khỏi vuột mất thêm ai khác.
“Này,” tôi nói, “bọn trẻ có nhà không?”
“Có.”
“Cho anh nói với chúng nhé.”
“Không,” nàng đáp.
Kéo theo sau là một khoảng lặng phăng phắc, uể oải, dài dằng dặc đến nỗi quãng đường hai dặm từ trạm xăng về ngôi nhà tôi ở phía Tây bỗng chẳng thấm vào đâu. Vết nứt đã quá lớn, khiến tôi cảm thấy mình bất lực không thể nào hàn nó lại được nữa, không thể nào. Thật là cảm giác khốn khổ nhất trên thế gian. Hãy thử nghĩ đến một ngày khi California bị tách rời ra khỏi toàn nước Mỹ, và những cư dân tại Nevada đứng ngây ra nhìn cảnh tượng ấy trên rìa bờ biển mới. Đó là cảm giác của tôi đấy.
Vậy tôi đã làm gì? Có phải tôi, vì cùng đường, sẽ làm theo lời khuyên của đám phân tích trái phiếu? Có phải tôi sẽ kể cho Anne Marie biết sự thật? Không. Làm thế chẳng khác gì thò tay xuống thực quản mà bứt nội tạng mình ra - gan, lá lách hay một cái gì đó - và tôi không có đủ dũng khí. Nhưng tôi có thể kể cho Anne Marie điều mà nàng nghĩ là sự thật. Và ngay lúc đó, tôi đã quyết định thế này: tôi sẽ thú nhận với nàng rằng mình đã ngoại tình với vợ Thomas Coleman. Xét cho cùng thì ai nặng tội hơn, một kẻ lang chạ hay một tên đốt nhà giết người? Có phải tôi đang cảm thấy nhẹ nhõm hơn khi vợ chỉ nghĩ mình là một tên lăng nhăng thay vì một thứ gì khác khủng khiếp hơn? Có phải tốt hơn là - một khi vợ bạn đã nghĩ rằng bạn chỉ là một tên lăng nhăng và không tin bất cứ lời nào của bạn - cứ thú nhận cái tội nàng gán cho bạn, rồi ăn năn hối cải và cầu xin sự tha thứ, để nàng có thể dần dà nguôi ngoai và mọi thứ sẽ trở lại bình thường? Đó là dòng suy nghĩ trong đầu khi tôi thú nhận với Anne Marie: “Ừ đúng thế đấy, anh đã ngoại tình sau
lưng em em ạ. Anh vô cùng xin lỗi em. Xin hãy cho anh về nhà và ta sẽ nói về chuyện này nhé.”
Tôi có thể nghe thấy nàng hít một hơi sâu, một, hai, ba lần, như thể nàng đang hít vào ba từ tình yêu, danh dự, và nâng niu trước khi thở hắt vào điện thoại, trả lại những chữ đó cho tôi qua những sợi cáp quang huyền bí đang kết nối hai người chúng tôi.
“Vĩnh biệt,” nàng nói. “Đừng gọi lại nữa. Tôi nói nghiêm chỉnh đấy. Cũng đừng có bén mảng về cái nhà này nữa.” Nàng lại im lặng, đầy kịch tính, hít thêm một hơi dài, rồi hắt ra: “Lần này thì quả thực anh đã phá be bét mọi thứ rồi Sam.”
“Gượm đã…” tôi gọi với theo, nhưng nàng chẳng thèm đếm xỉa mà dập luôn máy.
Tôi đứng lọt thỏm giữa trạm đổ xăng. Đó là một trạm xăng lớn nằm ngay rìa quốc lộ, cắm đầy ống dẫn xăng. Đột nhiên nơi này bỗng lố nhố bao nhiêu là gia đình lớn nhỏ, bố mẹ và con cái, có vài gia đình còn đèo bòng cả ông bà nội ngoại, những người vì bàng quang già nua mà đã luôn miệng đòi nghỉ chân, ai nấy đều hoan hỉ với con đàn cháu đống của mình. Sao tôi ghét họ đến thế, như khi ta ghét buổi ban mai sau một đêm trắng trằn trọc bởi cái sự nửa tờ mờ, nửa sáng sủa của nó. Chuyện này khiến tôi như muốn ngửa mặt lên trời mà tru như sói - một tiếng tru dành cho cái thế giới đã không còn là của tôi và niềm căm ghét tôi dành cho nó, một tiếng tru dành cho sự thật và nỗi hèn nhát không dám đưa sự thật ra ánh sáng - và thế là tôi làm luôn: đứng ra giữa trạm đổ xăng mà tru lên một tiếng dài, khiến những vị khách khác hoảng hồn né dạt ra xa.
Nhưng tiếng tru lại có hiệu ứng bất ngờ: gọi anh gác trạm xăng
tới. Tôi ngừng tru và kể cho anh ta việc mình để quên chìa khóa trong xe, và anh ta đã dùng một lát kim loại mỏng mở khóa cho tôi một cách tài tình. Tôi trả tiền, trèo lên xe, nổ máy rồi ngồi yên như phỗng, với bình xăng đầy ắp mà chả có nơi nào để đi. Biết đi đâu bây giờ! Tôi lại tru lên từng chặp, có điều cửa xe đã đóng kín nên chẳng khác gì là đang rú lên trong hầm mộ của chính mình, với tiếng động cơ kêu xinh xịch. Ôi, nỗi bơ vơ này! Tôi bỗng thấy cảm thông cho Thomas Coleman, mặc dù chính gã đã phá tan hoang đời tôi. Bởi nỗi bơ vơ này là nỗi bơ vơ của một sinh linh cô độc, nỗi bơ vơ của một kẻ mồ côi mồ cút.
Nhưng tôi có mồ côi đâu. Ý nghĩ này khiến tôi ngừng tru, vì gì thì gì tôi vẫn còn bố còn mẹ, và như tôi được biết thì hai cụ vẫn còn sống sờ sờ. Thế nên dù họ có muốn hay không thì tôi cũng cứ về gặp. Hơn nữa, tôi chẳng còn biết đi đâu cả.
5
Chuyện đó lý giải vì sao tôi lại quay lại với những con phố Amherst, lần đầu trong năm năm trở lại đây, dù tôi chỉ sống cách trung tâm thị trấn nhõn hai dặm đường. Tôi đã nhận ra rằng mình có thể lái xe đến sở làm bằng cách men theo rìa thị trấn, và trường học của Katherine, Tiểu học Amherst, thực ra lại là một tòa nhà dài lát gạch đỏ mới xây nằm ở ngoại ô thị trấn, các siêu thị tôi vẫn đến mua sắm cũng không nằm trong địa phận Amherst mà trải dọc quốc lộ 116, nói cách khác là chúng chẳng nằm ở đâu cả. Thời đại này nó vậy đấy: bạn có thể định cư ở một địa phương mà chẳng cần phải có một cuộc sống bản địa.
Rồi giọng nói kia lại quay về, vang vọng hơn lúc nào hết, giục giã tôi: Còn gì nữa? Còn gì nữa? Chiếc xe trở nên im ắng và cô quạnh kinh khủng khi vắng tiếng lũ nhóc phá phách và tiếng Anne Marie liên tục nhắc nhở các con, thế nên để khỏa lấp nỗi trống vắng này tôi bèn chú tâm lắng nghe giọng nói nọ, có thể là quá chú tâm, mà chẳng thèm để ý đến việc lái xe nên rốt cuộc đã đâm thẳng vào một chiếc K-Car đằng trước. May sao chỉ là cú huých nhẹ: bà lão lái xe không bị thương và chiếc xe thật ra cũng chẳng hề hấn gì, và sau một chặp hiểu lầm ban đầu thì bà chợt nhớ ra cái ba đờ sốc đã long ra khỏi khung xe từ trước khi bị tôi đâm. Tuy vậy, tôi cũng đã húc đổ đống túi ở ghế sau, nên bèn chui vào xe bà để sắp đồ lại vào túi. Nhưng mấy chiếc túi đã bục mất rồi, nên đống rau quả lại
lăn tùng phèo khắp trên ghế và dưới sàn xe. Dù vậy, bà lão vẫn tỏ vẻ rất ôn hòa, và dù tôi biết chắc là mình đã biết bà từ khi còn nhỏ, bà lão không hề nhận ra tôi chính là thằng choai choai đã đốt nhà, vân vân và vân vân, khiến tôi thấy lạc quan ra phết. Chúng tôi trao đổi thông tin liên lạc - theo luật thì phải làm vậy - rồi ai đi đường nấy. Nhìn chung, đó là một sự lỡ tay khá là dễ chịu và văn minh. Khi bà lão lái xe đi khuất, đầu tôi còn lởn vởn hình ảnh đám rau quả lăn lông lốc trên ghế sau, và nhớ ra bố tôi yêu thích rau quả tươi ra sao, ông từng có lần thử trồng hẳn một khoảnh vườn nhưng cuối cùng đã thất bại.
Vâng, giờ thì tôi sẽ kể bạn nghe sơ qua về bố tôi và mảnh vườn xấu số. Ông làm biên tập cho một nhà xuất bản cỡ nhỡ của một trường đại học trong thị trấn, chủ yếu biên tập sách lịch sử Mỹ, nhưng tiểu chuyên ngành của ông lại là về quan hệ giữa âm nhạc đại chúng và văn hóa Mỹ. Ngoài biên tập sách ra, ông còn chắp bút cho phóng sự thường niên về ngày hội đàn accordion toàn vùng cho tờ báo địa phương.
“Sam này,” có lần bố hỏi tôi, “con có biết vì sao chiếc phong cầm lại đóng vai trò quan trọng như vậy không? Con có biết không?” Lúc đó tôi bảy tuổi, nào có biết đâu vào đâu, nên chẳng nói được gì mấy.
“Bởi vì nó là một phần của lịch sử âm nhạc và di cư,” ông giảng. “Những người vùng Acadia chơi loại nhạc cụ đó, và khi di cư từ Canada qua Louisiana họ đã mang theo nó. Đàn phong cầm là nhạc cụ đặc trưng của họ, và là món quà họ tặng cho cả thế giới.”
“Ôi nhưng nghe nó đau tai lắm,” tôi đáp.
Lời bình luận đơn giản, tưởng chừng như thơ ngây này đã làm bố tôi sụp đổ. Ông không thể chịu được việc con trai chẳng coi nghề nghiệp của mình ra gì. Mà nhắc lại nhé, tôi mới bảy tuổi đầu chứ mấy, có hiểu quái gì về sự liên hệ giữa sự nghiệp và lòng tự trọng bản thân, và lẽ ra bố nên mặc kệ tôi mới phải. Nhưng thay vào đó, ông lại bỏ béng cái nghề biên tập và âm nhạc học để đi kiếm việc khác, một việc mà thằng nhóc tôi chắc sẽ ngưỡng mộ. Bằng cách nào đó, bố quyết định rằng tôi sẽ tôn trọng ông nếu ông trở thành một lão nông. Amherst nào có phải vùng làm nông, nhưng bố tôi vẫn cứ hô biến mảnh vườn nửa mẫu sau nhà thành một khu canh nông tí hon. Trong sáu tháng liền tù tì - từ tháng Năm tới tận tháng Mười - bố tôi trồng nào củ cải đường, nào bí ngòi, cà chua, rồi bí ngô, rồi tỏi. Khoảnh vườn dần dà đầy lên nhong nhóc. Thế nhưng chúng tôi chưa ăn được miếng nào, vì bố không cho. Bố bảo cả nhà phải đợi đến thời điểm chín muồi mới được “thu hoạch”.
“Nhưng bao giờ thì mới chín muồi ạ?” tôi thắc mắc.
Khi được hỏi, bố nhìn tôi với vẻ ngạc nhiên tột độ, cứ như thể trong suốt thời gian vừa qua ông cứ hy vọng rằng chính tôi sẽ là người mách cho ông thời điểm xác đáng để thu hoạch. Lúc này tôi mới tám tuổi, nhưng ngay cả thế thì tôi vẫn nhận ra rằng bố chẳng biết mình đang làm cái gì, và đang rơi vào một trạng thái hoảng loạn tâm lý. Mà cũng có thể ông không muốn thu hoạch vì ông sợ đám rau củ ăn chẳng ra gì. Dù gì đi nữa, đêm đó ông đã bảo mẹ tôi (sau này bà kể cho tôi) rằng ông phải đi chu du thiên hạ để kiếm tìm một việc gì đó đáng làm, một việc sẽ làm cho hai người - mẹ và tôi - tự hào.
Và mẹ thẳng thừng đáp trả rằng nếu ông tự rạch bụng mình ra để nhét đám đàn accordion, đàn concertina và lũ rau củ rữa nát rồi treo mình lên cái cọc cắm ở chính giữa rẻo vườn tí hin khốn khổ kia thì chắc ông sẽ đóng được vai con bù nhìn thô kệch vô tích sự.
Ngày hôm sau bố tôi ra đi biệt tích, ba năm sau mới về, và lại được nhà xuất bản nọ nhận vào làm. Nhưng ngay sau khi ông bỏ nhà đi thì mẹ bắt đầu kể tôi nghe những câu chuyện về Dinh thự Emily Dickinson cùng những bí ẩn được thêu dệt nên, và nếu những câu chuyện này cốt là để chỉ đường dẫn lối cho tôi nửa đêm nửa hôm đột nhập vào trong ngôi dinh thự, nhỡ tay đốt nó và ngộ sát bố mẹ Thomas Coleman - nếu những câu chuyện mẹ tôi kể cốt là để làm nhiệm vụ này, đồng thời tống tôi vào nhà giam và từ đó cắt phứt mất mười năm đời tôi - thì quả thật chúng đã thành công mỹ mãn.
Càng nghiền ngẫm quá khứ gia đình mình tôi càng thấy cáu tiết, và lúc về đến cửa nhà cũ thì tôi đã sẵn sàng trút cơn giận của mình lên một người hoặc một vật nào đó. Thế là tôi trút hết lên cánh cửa nhà, đập nện liên hồi cho đến khi nắm tay tôi đau buốt. Chẳng có ai ra mở cửa, nên tôi gào lên: “Con đây! Sam đây! Con về rồi đây!” Vẫn chẳng có ai đáp tiếng nào, và cơn giận hóa thành nỗi sợ hãi, nỗi sợ khi bạn về nhà và băn khoăn không biết liệu mọi thứ đã thay đổi hay vẫn chẳng có gì đổi thay.
Rồi tôi mở cửa - cửa không khóa - và phát hiện ra mọi thứ đều đã thay đổi: trông nó chẳng giống căn nhà trong ký ức tôi tẹo nào. Căn nhà trong ký ức tôi có cái vẻ bừa bộn vừa ngăn nắp đặc trưng của giới trí thức học rộng đọc nhiều: phải có sách và tạp chí vương
vãi tứ tung, nhưng tất cả những thứ khác - bát đĩa, cốc chén, quần áo - đều nằm đúng chỗ đâu vào đấy. Còn căn nhà này, trái lại, nhìn cứ như đã bị càn quét bởi đám người Viking vậy. Rải khắp nhà là những chai lọ rỗng - nào rượu gin, nào bia, nào vang đỏ. Thậm chí còn có cả những bình rượu schnap vị đào rỗng không, xô ướp lạnh, và những chai vang nho xuất hiện ở mọi ngóc ngách - giữa những cái gối ôm, trong lò sưởi, trên nắp lò vi ba - khiến tôi không khỏi thắc mắc liệu hai cụ đã chè chén trong nhà này cùng với đám nữ sinh trung học hay là hội chị em kết nghĩa ở trường đại học. Trước kia bố mẹ tôi mê mẩn đồ gỗ tự nhiên - nào là ván lát chân tường, nào là rào bao lơn rồi bậu cửa sổ rộng rinh - nhưng giờ đây những ván gỗ ngả màu bợt bạt tang tóc như thể đã hóa thành gỗ công nghiệp. Rồi trên bề mặt hầu hết mọi thứ đều đặt một chiếc gạt tàn - loại nông lòng làm bằng thứ kim loại mỏng tang mà cách duy nhất để kiếm được là thó từ nhà hàng, quán ăn - nhưng vì tất cả những chiếc gạt tàn đều đã đầy tràn nên bên trong một vài cái chai tôi trông thấy có cả những mẩu đầu lọc thuốc lá nổi lều phều trên chút chất cồn còn thừa. Trong bồn rửa ngồn ngộn một núi bát đĩa, còn bếp chất hàng chồng nồi niêu xong chảo, cái nào cái nấy nhơ nhơ nhuốc nhuốc; thức ăn thừa bên trên đã két lại và khô queo đến mức đám nước xốt spaghetti, vụn rau củ và những mẩu thịt trông chẳng khác nào một bộ phận tự nhiên của đống nồi niêu, giống như là tay cầm và nắp vung vậy. Dãy kệ bếp trống huếch trống hoác vỏn vẹn vài thứ như đường làm bánh mứt kẹo, tăm xỉa răng, và những chiếc kẹo dẻo bé tí, những thứ mà muôn đời không thể vứt bỏ, cộng thêm một lô lốc những hộp đựng cái thứ nhìn giống hệt thanh kẹo, gọi là thanh Lima, mà tôi đồ là một thứ đồ ăn tốt cho sức khỏe
phụ nữ bởi bìa hộp in hình minh họa cách điệu những phụ nữ chạy bộ quanh mặt trăng. Những thứ duy nhất có trong tủ lạnh là một chai nước tonic hai lít còn một nửa và một lọ mayonnaise ít béo hẳn đã định cư ở đây ít cũng phải vài kỳ tổng thống. Cả ngôi nhà sực lên một mùi như mùi con chó xịt nước hoa, dù theo trí nhớ của tôi thì bố mẹ chưa từng nuôi con chó nào, mà cũng chẳng bao giờ xài nước hoa. Có một chiếc xe đạp cố định đặt phía trước một màn hình ti vi to tổ chẳng và mỏng khủng khiếp nằm nghễu nghện trên giá giữa của cái kệ sách đã trống hoác - sạch trơn sách báo và thậm chí chẳng còn cả những kệ nhỏ bên trong. Đây là thay đổi ghê gớm nhất: ngôi nhà trong ký ức tôi tràn ngập sách vở, thế mà giờ đây tìm đỏ mắt cũng chẳng còn cuốn nào, đến cả cuốn Cẩm nang Ti vi cũng không có luôn. Khi bắt đầu phân vân không biết mình có vào nhầm nhà không thì tôi chợt nghe có tiếng động - một tiếng khò khè hoặc cọt kẹt - phát ra từ phòng ngủ dành cho khách. Tôi bèn mon men đi theo cái âm thanh ấy thì phát hiện ra bố tôi.
Dù chỉ nhìn thoáng qua cũng có thể thấy rõ ông cụ ốm đau quặt quẹo như thế nào. Gương mặt ông tóp đi và lõm sâu, trên đùi phủ một mảnh chăn len kẻ ca rô. Khi nhìn thấy tôi, ông rên lên một tiếng như con thú bị trọng thương, mà tôi đồ rằng một phần ba tỏ ý ngạc nhiên, một phần ba là Chào con đã về, và một phần ba là Đừng có nhìn bố trong bộ dạng gớm guốc thế này, rồi tấm chăn trượt khỏi đùi ông rơi xuống sàn, làm bay lên một đám bụi, chúng lơ lửng trong ánh nắng như thể một thứ vô cùng đẹp đẽ và quý giá, để rồi lại đáp xuống mặt sàn gỗ thông.
Tôi nhặt tấm chăn đắp lại lên đùi ông và hỏi: “Ôi, bố ơi, bố bị
làm sao thế này?” mặc dù nguyên do đã quá ư rõ ràng: một cơn đột quỵ. Một nạn nhân đột quỵ thì không thể lẫn đi đâu được, kể cả khi bạn chưa từng gặp ai bị như vậy bao giờ, như tôi đây. Tôi chẳng biết nói gì hơn, nên đành lặp lại: “Ôi bố ơi.” Dường như bố cũng hiểu được sự khó xử của tôi, bởi ông lại rên lên như con thú bị trọng thương, nhưng lần này nghe có phần xoa dịu, làm tôi cũng trấn tĩnh lại.
“Thôi bố không phải nói gì đâu,” tôi bảo ông. “Bố cứ nằm nghỉ. Để con kể bố nghe.” Rồi tôi kể ông nghe chuyện tôi đi học đại học và chuyển chuyên ngành từ ngữ văn sang kỹ nghệ đóng gói, chuyện lập gia đình với Anne Marie rồi chuyện hai nhóc Katherine và Christian, rồi công việc của tôi ở Công ty Đóng gói Tiên phong và ngôi nhà ở Camelot và việc tôi đã nhớ bố và nhớ mẹ đến mức nào. Nhưng tôi không kể ông nghe về giọng nói trong đầu Còn gì nữa? luôn giục giã tôi và chuyện Thomas Coleman cũng như việc Anne Marie tống cổ tôi khỏi nhà, bởi tôi nghĩ ông đã có đủ thứ để lo. Nhưng ngay cả vậy thì lượng thông tin chắc hẳn cũng đã quá khủng với ông, nên khi tôi kể xong thì ông dường như đã thiêm thiếp đi rồi. Tôi lắc cánh tay ông, ban đầu còn lay khe khẽ, rồi mạnh dần, mạnh dần cho đến lúc ông choàng tỉnh với một tiếng khịt mũi. Từ lúc đó tôi chỉ dám hỏi những câu ngắn gọn, vào thẳng vấn đề, rồi tôi hỏi “Mẹ đâu rồi ạ?” và nhận được một tiếng lè nhè hai âm tiết mà tôi đoán có nghĩa là Đi vắng.
Chúng tôi ngồi im một lúc lâu. Trời nhá nhem tối, tôi bèn bật đèn lên. Tôi cảm thấy không việc gì phải trò chuyện thêm, bởi những gì tôi vừa tuôn ra chắc cũng không khôn khéo hơn sự im lặng. Với tôi,
bố có phẩm chất của một thánh nhân: ở ông toát lên một vẻ thông tuệ sâu sắc mà những người tàn phế thường có được từ những ngày tháng tàn phế, khiến tôi sẵn sàng ngồi yên ở đó, hứng lấy bất kỳ giọt hiểu biết nào mà ông phát tiết ra. Thật dễ chịu. Nhưng căn nhà quả thật quá sức bừa bãi. Ngay cả phòng ngủ của bố cũng vương vãi đầy vỏ lon bia và chai rượu rỗng, thậm chí còn có vài thùng rượu có vòi rót nữa chứ. Chắc chắn là của mẹ tôi, bởi bà luôn nhấm nháp rượu cùng bữa tối trong khi bố thì chẳng đụng đến một giọt. Thêm nữa, đã đến mức này thì tôi không thể tưởng tượng được bố lại uống được bất kỳ thứ gì mà không có ống hút, mà quanh đây làm gì có cái ống hút nào.
Nhân nhắc đến mẹ tôi, bà đang mất hút ở xó xỉnh nào thế nhỉ? Sao lại đi đâu mà để kệ bố dặt dẹo ở nhà một mình thế này, và mặc cho nhà cửa như vậy? Chẳng lẽ người chồng tàn phế của bà không xứng đáng một tí quan tâm, một tẹo vệ sinh nào hay sao? Càng ngẫm nghĩ tôi càng thấy đó đúng là bản tính mẹ tôi. Xưa nay bà lúc nào cũng là người sắt đá, ngay cả khi chồng bỏ đi biền biệt ba năm trời cũng chăng nhỏ nước mắt một lần. Khi ông quay về, bà chẳng thèm mảy may chào mừng, và bố tôi đã phải cố gắng trầy trật để chắp vá lại hình tượng của mình trong mắt bà. Giờ nghĩ lại thì tôi thấy có một mối liên hệ trực tiếp giữa cú đột quỵ của ông và quãng thời gian chật vật đó. Và rồi còn cả những câu chuyện về Dinh thự Emily Dickinson bà đã kể cho tôi nữa, những câu chuyện đã phá hỏng nhiều hơn một cuộc đời, khiến tôi bắt đầu thấy quạu bà, bà mẹ nhẫn tâm của tôi, lúc này dường như đã ruồng bỏ bố tôi khi ông cần bà nhất. Bà lượn đi chỗ quái nào rồi? Hẳn tôi đã thốt câu này ra
thành tiếng, bởi tôi thấy bố nhướng đôi lông mày lên, trong tích tắc tôi cứ nghĩ ông chuẩn bị phạt tôi vì vô lễ với mẹ, nhưng thay vào đó ông lại khò khè: “Cứng.”
“Cứng gì cơ ạ?” tôi hỏi.
“Cáp,” bố nói, hoặc tôi đoán ông nói vậy, rồi nhấc ngón tay như thể trỏ vào tôi. Hoặc điều đó chỉ có trong suy đoán của tôi. Ngón tay nhấc khỏi đùi được chừng một tấc rồi lại rơi xuống. Đương nhiên, rất có thể tôi hiểu lầm. Nhưng nói đi thì phải nói lại, có khi sự hiểu lầm lại chính là lý do để ta ở lại với gia đình mình. Dù sao đi nữa, khi mới tám tuổi tôi đã đi guốc trong bụng bố rồi: ông quá sợ hãi nên phải bỏ nhà ra đi. Mẹ thì quá lẻ loi và uất ức vì bị bố rời bỏ nên mới kể những câu chuyện về Dinh thự Emily Dickinson cho tôi nghe. Tôi cũng hiểu rõ điều đó. Có khi nào chúng tôi đã hiểu nhau quá mức cần thiết không; có khi nếu chúng tôi hiểu lầm nhau, thì gia đình này đã chẳng tan đàn xẻ nghé. Mà nếu gia đình này vẫn còn tồn tại thì tôi đã được gặp bố trong mười năm qua và ông đã chẳng bị choáng ngợp vì sự trưởng thành của tôi. Có khi nào, có khi nào, có khi nào.
“Vâng, con đã cứng cáp,” tôi đáp. Và rồi, chợt nhớ đến bác Terrell trong tù, tôi đính chính: “Một người đàn ông đích thực.” Bố nhìn tôi chòng chọc phải đến nửa phút, cho đến khi tấm chăn lại trượt khỏi đùi. Ông khẽ nghiêng người khỏi ghế để chụp lấy tấm chăn trước khi nó chạm đất, và động tác này, dù rất khẽ, cũng khiến tôi chợt nhớ lại cái điều tôi tự bắt mình quên đi trong bao nhiêu năm nay: thời khắc khi bố cúi người xuống để mở ngăn kéo bàn, rút ra hộp giày Converse, và cho tôi xem những lá thư yêu cầu
tôi thiêu trụi nhà của một loạt đại danh hào. Giờ đây chiếc bàn con vẫn nằm ở vị trí cũ; ngăn kéo vẫn đặt trong bàn. Vậy còn hộp giày thì sao, nó còn nằm trong ngăn kéo không? Những lá thư có còn nằm trong hộp không? Đã bao nhiêu năm rồi, tôi không còn tơ tưởng về chồng thư nọ, nhưng giờ chúng đang bay về nhảy múa loạt soạt trong đầu tôi, hòa vào điệp khúc xén cỏ rì rì của những nhà hàng xóm cũ, của lưỡi lửa lách tách liếm trọn Dinh thự Emily Dickinson và những âm thanh khác vọng lại từ quá khứ. Trong số những âm thanh đó còn có lời bố nói từ nhiều năm trước, “Sam ơi, con là một tên hỏa tặc mà,” đó là lý do vì sao lúc này, sau bao nhiêu năm trời, tôi mới đột ngột buột miệng thốt lên, “Bố nhầm rồi.”
“Nhầm,” bố tôi lặp lại, ráng bắt kịp tôi.
“Vâng, nhầm rồi ạ,” tôi đáp. “Con làm việc ở Công ty Đóng gói Tiên phong. Con thiết kế hộp đựng hàng, hàng xịn hẳn hoi.” Bố tôi bĩu môi phì một tiếng chế giễu, làm văng một mớ dãi ra cằm, khiến tôi phải kiềm chế không chùi nó đi.
“Con biết thế vẫn chưa là gì,” tôi tiếp lời. Và đúng vậy thật, ngay cả khi tôi kể ông nghe chi tiết về mẫu hộp đựng bóng tennis tôi mới thiết kế xong, một mẫu hộp được đóng chân không bằng nắp nhựa dẻo chứ không phải loại nắp kim loại sắc ngọt vẫn hay cứa đứt tay con nhà người ta. Bố lại trề môi phì thêm tiếng nữa, cằm nhễu nhão nước bọt.
“Hộp… bóng… ten… nis… thì… có… gì… vĩ… đại,” phải đến nửa tiếng đồng hồ ông mới thều thào xong. Vĩ đại! Tôi! Thằng con nào chẳng muốn được bố nói rằng mình có khả năng làm nên việc lớn? Thằng con nào chẳng mơ làm nên trò nên trống! Có gì mà một
thằng con không dám làm, không dám hy sinh, để được bố công nhận tài cán, nhất là một thằng con như tôi trong cái thời điểm này, thời điểm bí bét nhất và chỉ cần một vài lời động viên từ bố? Tôi thấy như thể là mình đã rút ra những lời muốn nghe nhất nhét vào miệng bố, và xem chúng tuôn ra từ từ, ngắt quãng, bọc trong đờm dãi.
“Bố đang khen con vĩ đại?” tôi hỏi.
“Không,” ông rành mạch đáp, hết sức rành mạch. Rồi tiếp, “Nhưng… có… tiềm… năng.”
“Vậy con phải làm sao?”
“Con… hãy… giúp… người,” ông đáp.
Công nhận là ý tưởng giúp người nghe cũng bùi tai thật, bởi cho đến lúc này thì cuộc sống của tôi cũng chỉ là qua ngày đoạn tháng, mà những lúc không phải như vậy thì tôi lại chỉ rặt gây ra những nỗi phiền não bực mình cho mọi người. Nào là vụ Dinh thự Emily Dickinson, tất nhiên rồi, và nỗi đau mất mát mà ai nấy đều đã tường tận. Rồi cả Thomas Coleman, bao nhiêu năm rồi vẫn còn quằn quại - tôi không làm sao quên cậu ta đi được, nhất là từ khi cậu ta quyết tâm phá nát đời tôi như tôi từng phá nát đời cậu ta. Và còn Anne Marie nữa chứ, người vợ đã bị tôi gạt xuống vực thống khổ và cũng đã tập dượt cái sự hành hạ trong suốt những năm qua. Thí dụ như có lần sang nhà hàng xóm sát vách dự tiệc mừng hè sang, tôi phát hiện ra Sheryl (tôi chẳng còn nhớ họ của cô này là gì, mà nếu tôi nhớ đúng thì cô ta thậm chí còn chẳng có họ) đang rấm rứt khóc trong nhà kho vì (theo như tôi phát hiện ra) bị chồng bỏ đi theo bồ, và đang mường tượng ra viễn cảnh phải một mình lủi thủi
trong những buổi chiều muộn nhá nhem mà không biết làm sao cho đành. Tôi ôm lấy cô - có vẻ như đó là cử chỉ bác ái nên làm - và rồi để dứt ra khỏi cái ôm, tôi bèn thơm cô. Đó chẳng qua là một cái thơm an ủi kiểu “thôi nào, thôi nào”, nhưng tôi cũng xỉn thú nhận rằng khi lướt môi tới má cô thì hình như tôi cũng có chạm phải đôi môi cô, thoáng qua. Điều này quá sai trái, hết sức sai trái, thế nên để trút bớt gánh nặng khỏi con tim và bộ não, tôi bèn đi kiếm Anne Marie trong đám tiệc, cắt ngang câu chuyện dang dở của nàng, và kể nàng nghe - trước mặt cả nửa tá con người - rằng tôi đã hôn Sheryl, rằng đó chỉ là một sự lỡ tay và bắt nguồn từ ý tốt, nhưng tôi quyết định phải bảo cho nàng biết vì tôi cảm thấy tội lỗi khi đôi môi hai bọn tôi cọ phải nhau và thậm chí còn nấn ná trong giây lát - ngay cả khi đó chỉ là một sự lỡ tay bắt nguồn từ hảo ý - và tôi có thể nghe thấy những tiếng thì thầm ái ngại phát ra từ một vài vị khách đang dỏng tai nghe. Những lời đó cộng thêm nét đau đớn trên gương mặt Anne Marie ngay trước khi nàng bỏ lơ tôi và quay trở lại cuộc hội thoại dở dang của mình, ngay lập tức khiến tôi nhận ra mình đã làm một việc không phải. Một nỗi đau tương tự đã thấm đẫm trong giọng nói của nàng, trên điện thoại, khi chì chiết tôi là đồ lăng nhăng và cấm tôi bén mảng về nhà. Tôi đã nặn ra nỗi đau của Anne Marie, một chuyện rõ rành rành như việc tôi đã nặn ra cái lọ đựng xốt mayonnaise không hẳn là nhựa mà cũng không hẳn thủy tinh, lại còn siêu chịu lực. Có điều cái lọ thì có hình hài, còn nỗi đau thì không. Vâng, vậy nên việc giúp được người ta thay vì hành hạ họ nghe hay ho quá đi chứ.
“Nhưng hãy gượm,” tôi chợt hoàn hồn, quay về với con người
đích thực của mình. “Con thì giúp được ai. Con chỉ là một thằng đầu lừa.” Bố tôi có vẻ không hiểu khái niệm này lắm - đôi mắt ông càng thêm nhòa đục - thế nên tôi giải thích, “khờ khạo ấy mà.”
“Khờ khạo,” bố hổn hển, “không… phải… bệnh… mãn… tính.” “Thì nhất định bố sẽ nói vậy rồi,” tôi đáp. Bôi tôi đang nghĩ về rẻo vườn bố đã vun xới như một kẻ đầu lừa và việc ông đã bỏ chúng tôi trong ba năm chỉ để cố chứng minh ông không phải là một kẻ đầu lừa.
Và trong ba năm đó thì ông đã đi những đâu? Ông đi chu du khắp thiên hạ, làm đủ mọi trò, và còn gửi bưu thiếp để chúng tôi biết đích xác ông đã ở đâu và làm gì.
Điểm dừng chân đầu tiên của ông là South Carolina, vì ông chưa từng đến đó bao giờ và giọng nói trong đầu ông cứ thúc giục ông nhất định phải đi - phải đi! - thăm thú đủ năm mươi bang trước khi nhắm mắt xuôi tay. Ông tới xem đấu bóng ở tất cả những sân bóng lớn của đất nước. Ông tham quan Yosemite, Badlands, Sequoia và tất cả những vườn quốc gia có tiếng khác. Ông đặt chân tới di tích của mọi trận đánh chủ chốt thời Nội chiến, đặc biệt những trận máu đổ xương rơi nhiều nhất. Ông định bụng sẽ lắng tai hứng lấy những lời thở than của bao vong hồn đã bỏ mạng khi xông pha vào các cuộc đại chiến ở Gettysburg, Antietam, Vicksburg, nhưng rốt cuộc chỉ nghe thấy tiếng rè rè của những cuộn băng cát xét ghi âm lời hướng dẫn viên đặt sẵn trong mấy chiếc xe đồng hành với ông khi tất cả trườn đi với một tốc độ tỏ lòng tôn kính dọc theo các bãi chiến trường và khu nghĩa địa. Bố tôi săm soi tấm Road Atlas của nhà xuất bản Rand McNally và rồi quyết tâm sẽ bon bon trên mọi
"""