"
Cạm Bẫy - David Baldacci PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cạm Bẫy - David Baldacci PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
Tặng Jamie Raab,
Nhà xuất bản tuyệt hảo và người bạn tuyệt vời,
mong cho những nỗ lực trong tương lai của chị tràn đầy niềm vui và thành công!
Cảm ơn sự ủng hộ của chị trong hai mươi năm qua. Tôi mãi là người hâm mộ nhiệt thành của chị.
1
Bình thường thì đây là một trong những nơi an toàn nhất trên thế giới.
Nhưng hôm nay thì không.
Tòa nhà J. Edgar Hoover là trụ sở chính của Cục Điều tra Liên bang (FBI). Được đưa vào hoạt động từ năm 1975, đến nay vẫn chưa về hưu, nó trông giống một khối bê tông dài dựng đứng xiêu vẹo với những ô cửa sổ tổ ong. Chuông báo cháy lẫn nhà vệ sinh đều đã hư. Thậm chí trên đỉnh tòa nhà còn căng cả lưới an toàn để ngăn những tảng bê tông vỡ vụn rơi xuống đường làm ai đó vong mạng.
Cục Điều tra Liên bang vẫn đang cố gắng xây dựng thêm một cơ sở mới đủ sức chứa 11.000 nhân viên, nhưng vị trí cụ thể vẫn chưa được xác định. Thế là việc khai trương trụ sở mới còn chờ khoảng 2 tỷ đô-la và 7 năm nữa.
Hiện tại, nơi đây vẫn là nhà của nhân viên FBI.
Người đàn ông cao lớn đang sải bước dọc theo lề đường rợp bóng cây xanh ấy chính là Walter Dabney. Ông ta vừa bắt Uber đến tiệm cà phê dưới phố, gọi vài món và giờ đang rảo bước đi hết quãng đường còn lại. Ông này đã ngoài 60, với mái tóc muối tiêu mỏng dính rẽ ngôi lệch. Có vẻ Dabney mới cắt tóc gần đây vì sau gáy còn lộ vết bò liếm. Bộ vest ông đang mặc thuộc loại đắt tiền và được đặt may riêng để vừa vặn với thân hình đẫy đà. Một chiếc khăn cài áo sặc sỡ tô điểm cho mặt trước bộ vest tối màu của ông. Trên cổ ông là một dây đeo gắn đầy thẻ thông hành, cho phép ông tiến vào khu
vực nội bộ của tòa nhà Hoover với một người hộ tống. Dabney có đôi mắt xanh đầy vẻ cảnh giác, với dáng đi rõ là nghênh ngang và chiếc cặp táp vung như con lắc trên không.
Từ phía đối diện, một người phụ nữ đang tiến lại gần. Đó là Anne Berkshire, vừa bắt chuyến tàu điện ngầm tới đây. Bà ta sắp bước qua tuổi ngũ tuần, dáng người nhỏ nhắn, mái tóc xám ôm sát khuôn mặt trái xoan thon dài. Bà có vẻ lưỡng lự khi tiến gần đến tòa nhà Hoover. Trên cổ bà không đeo bất kỳ thẻ thông hành nào. Loại giấy thông hành duy nhất mà bà có là giấy phép lái xe nằm trong ví.
Lúc này đã quá trưa, phố xá không còn náo nhiệt như trước. Tuy nhiên, người đi bộ vẫn tấp nập và những dòng ô tô vẫn ngược xuôi trên con đường nhộn nhịp. Một vài chiếc xe đang tìm đường chạy xuống hầm giữ xe của tòa Hoover.
Dabney bước vội hơn, dường như cố tình nện đôi giày wingtip hiệu Allen Edmonds xuống vỉa hè ố màu. Ông bắt đầu huýt sáo một giai điệu hân hoan. Người đàn ông ấy có vẻ chẳng quan tâm gì đến thế gian này.
Lúc này, Berkshire cũng rảo bước nhanh hơn. Ánh nhìn của bà hết đánh qua trái lại ngoặt sang phải. Dường như, bà đang muốn thâu gọn tất cả mọi thứ chỉ trong một cái lướt mắt ấy.
Từ phía sau, cách Dabney khoảng 18 mét, Amos Decker đơn độc lê từng bước dài. Anh cao hơn mét chín, với thân hình cao to vạm vỡ của một cựu cầu thủ bóng bầu dục. Vài tháng gần đây, anh ăn kiêng nên cân nặng cũng giảm được kha khá nhưng anh không thể chấp nhận việc giảm thêm nữa. Decker mặc chiếc quần khaki bạc gấu, cộng với chiếc áo chui đầu in dòng chữ Ohio State Buckeys. Chiếc áo đủ dài để giúp che đi cả cái bụng lẫn khẩu Glock 41 thế hệ 4 được nhét trong bao súng đeo bên thắt lưng. Sau khi được nạp đầy 13 viên đạn tiêu chuẩn, khẩu súng này nặng khoảng 1 cân. Đôi giày cỡ 14 của anh nện bình bịch ầm ĩ xuống vỉa hè. Còn mái tóc, nói cho tế nhị, thì có hơi bù xù. Decker làm việc trong lực lượng đặc nhiệm phối hợp thuộc FBI. Anh đang trên đường đến buổi họp tổ chức tại tòa nhà Hoover.
Anh không hề trông đợi cuộc họp này. Decker cảm nhận được một sự thay đổi đang đến gần, mà anh thì lại không thích thay đổi. Suốt hai năm qua, anh đã nếm đủ mùi thay đổi cho cả đời rồi. Anh
chỉ vừa làm quen với lề lối làm việc mới tại FBI và muốn mọi chuyện cứ ổn định như thế. Nhưng tất nhiên, việc này nằm ngoài tầm kiểm soát của Decker.
Anh bước vòng qua một rào chắn vừa được dựng trên vỉa hè và có lấn sang đường chính một ít. Một nắp cống đang mở được bao quanh bởi lớp hàng rào màu cam và các công nhân bu kín xung quanh khu vực này. Ngay chỗ nắp cống mở, một người đàn ông đội mũ bảo hộ ngoi lên, nhận lấy công cụ từ một người khác. Trong khi, đa số những công nhân còn lại chỉ đứng quanh đó, nhâm nhi cà phê hoặc tán gẫu.
Nếu được nhận làm việc đó thì cũng khá quá, Decker nghĩ thầm.
Decker nhìn thấy Dabney phía đằng xa nhưng không mảy may để ý. Tuy nhiên, anh lại không thấy Berkshire vì anh không thể nhìn xa đến thế. Lúc đi ngang qua lối vào ga-ra, Decker gật đầu chào viên sĩ quan an ninh mặc đồng phục FBI đang ngồi trong buồng gác nhỏ có cửa sổ nhỏ đặt trên vỉa hè. Anh chàng đứng thẳng đơ gật đầu chào lại, đôi mắt được giấu sau cặp kính râm của anh đang làm nhiệm vụ theo dõi cả con phố. Tay phải anh đặt lên bao súng. Bên trong là khẩu 9mm dùng đạn Speer Gold Dot G2, loại đạn được FBI tin dùng bởi khả năng bắn xuyên của nó. Đạn sa người chết có thể được xem là khẩu hiệu của loại đạn này. Nhưng xét lại thì súng đạn nào chả làm được như thế, nếu nó bắn trúng mục tiêu đã định vào đúng vị trí trọng yếu.
Một con chim bay vụt qua mặt Decker, đậu trên cột đèn và tò mò nhìn xuống khách đi đường. Thời tiết khá lạnh nên dù đã mặc áo dày nhưng Decker vẫn hơi rùng mình. Mặt trời bị che khuất sau tầng mây đã tụ lại phía chân trời từ cả tiếng trước, mây vượt qua con sông Potomac, phủ lên Washington như một mái vòm xám xịt.
Ở phía trước, Dabney đang đến gần cuối dãy nhà, tại đây anh rẽ trái. Lối vào phòng họp của FBI nằm ở dưới đó. Nhiều năm trước,
người dân còn được tự do tham quan trụ sở của Cục Điều tra Liên bang, chiêm ngưỡng phòng thí nghiệm lừng danh và quan sát các đặc vụ luyện tập trên trường bắn.
Trong thời đại khủng bố mới, chuyện như vậy chỉ còn là dĩ vãng. Sau sự kiện ngày 11 tháng 9, các chuyến tham quan trụ sở FBI đều bị hủy bỏ, chỉ được mở lại vào năm 2008. FBI thậm chí còn bố trí cả trung tâm tập huấn cho khách tham quan. Tuy nhiên, nếu muốn vào đây thì bạn phải đăng ký trước ít nhất một tháng để FBI có đủ thời gian kiểm tra kỹ lưỡng các thông tin cơ bản. Đa phần các trụ sở liên bang giờ đây không khác nào những pháo đài, vào đã khó, ra còn khó hơn.
Đến gần góc đường, Dabney bước chậm lại.
Berkshire, ngược lại, bước nhanh hơn.
Decker tiếp tục phóng theo, những sải chân dài nhanh chóng ngốn hết quãng đường cho đến khi chỉ còn cách lưng Dabney khoảng 9 mét.
Từ phía còn lại, Berkshire cách Dabney khoảng 4 mét rưỡi. Một lúc sau, khoảng cách chỉ còn lại phân nửa. Thêm tích tắc nữa, họ chỉ còn cách nhau chưa đầy một mét.
Decker bây giờ đã trông thấy Berkshire bởi vì bà đã đến rất gần Dabney. Anh ở cách hai người họ khoảng ba mét khi bắt đầu rẽ hướng.
Berkshire liếc nhìn Dabney, có vẻ như đến lúc này bà mới chú ý đến ông ta. Dabney không nhìn bà, chí ít là không nhìn lại ngay.
Vài giây sau, ông chợt nhận ra người đàn bà kia đang nhìn mình chằm chằm. Ông nở nụ cười, lúc này, nếu đang đội mũ, dám chừng ông sẽ ngả mũ chào bà để tỏ sự lịch thiệp của mình.
Berkshire không cười lại. Tay bà tìm đến chỗ khóa gài ví. Dabney bước chậm lại một chút.
Bên kia đường, Decker chợt thấy một người bán bánh burrito ăn sáng trên một xe lưu động. Anh tự hỏi không biết có đủ thời gian
mua một phần trước khi vào họp không. Cuối cùng, Decker quyết định không mua bởi chiếc bánh có thể làm vòng eo anh xấu hơn; anh quay đi, lúc này Berkshire và Dabney đã đến sát cạnh nhau.
Decker không hề để ý sự việc đang diễn ra. Anh chỉ đơn giản cho rằng hai người họ có quen biết và gặp nhau tại nơi đã hẹn.
Decker nhìn đồng hồ để kiểm tra thời gian. Anh không muốn đi trễ. Vì nếu cuộc sống sắp phải thay đổi từ đây, anh vẫn muốn đến đúng giờ để đón nhận nó.
Khi quay lại nhìn, anh sững người.
Dabney bước dồn hai bước về phía sau người phụ nữ. Không để Berkshire phát hiện, ông ta chĩa khẩu Beretta nhỏ vào gáy bà.
Decker tìm lấy súng, sắp sửa kêu lên thì Dabney đã bóp cò.
Berkshire giật mạnh người về phía trước khi viên đạn bắn thẳng vào gáy bà theo góc hướng lên. Nó thổi bay tủy sống, xuyên thủng não, đập vào hộp sọ như một viên bi rồi bắn ra ngoài bằng đường mũi, để lại vết thương to gấp ba lần kích thước chỗ đạn bay vào do tác động của động năng. Bà ngã sầm xuống mặt đường, khuôn mặt gần như biến dạng hoàn toàn, nền bê tông bê bết máu.
Decker lôi khẩu súng lục ra, chạy lại, trong khi người trên phố la hét, bỏ chạy tán loạn. Dabney vẫn cầm vũ khí trong tay.
Tim đập thình thịch, Decker chĩa khẩu Glock về phía Dabney rồi thét lên, “FBI, bỏ súng xuống. Mau!”
Dabney quay lại. Ông ta vẫn chưa buông súng.
Từ phía sau, Decker nghe tiếng bước chân chạy lại. Anh lính gác lúc này đang chạy hết tốc lực về phía anh, tay cũng sẵn sàng khẩu súng.
Decker liếc nhanh về phía sau, dùng tay không cầm súng giơ tấm thẻ tên. “Đặc vụ FBI. Ông ta vừa bắn người phụ nữ kia.”
Anh bỏ thẻ xuống rồi dùng cả hai tay để ngắm bắn, họng súng nhắm thẳng vào ngực Dabney. Anh chàng mặc đồng phục FBI chạy tới, đứng sát bên Decker, đồng thời chĩa súng về phía Dabney. “Bỏ
súng xuống mau!” Anh cảnh vệ quát. “Cơ hội cuối, không chúng tôi bắn.”
Tình thế lúc này là hai chọi một. Những tưởng phản ứng từ tên tội phạm đã quá rõ ràng. Nằm xuống để không bị bắn chết vẫn hơn.
Dabney thoạt nhìn anh cảnh vệ rồi đến Decker.
Và mỉm cười.
“Đừng!” Decker thét.
Walter Dabney ấn họng súng vào dưới cằm, kéo cò lần thứ hai và cũng là lần cuối trong cuộc đời ông ta.
2
Bóng tối. Nó chực chờ tất cả chúng ta, từng người một, trong những khoảnh khắc cuối cùng của đời người. Dòng suy nghĩ ấy lướt qua đầu Amos Decker khi ngồi trên ghế và quan sát thi thể.
Thi thể của Anne Berkshire được đặt trên một chiếc bàn kim loại tại nhà xác của FBI. Người ta cởi bỏ hết quần áo bà và cất chúng trong những túi đựng vật chứng nhằm phục vụ công tác giám định sau này. Phủ lên trên cơ thể trần trụi, che lấp cả khuôn mặt biến dạng của bà là một tấm khăn mà giờ đây đã bị vấy bẩn bởi máu cùng các mô đã bị hủy hoại.
Mặc dù không còn điều gì đáng nghi ngờ về nguyên nhân cái chết, khâu khám nghiệm tử thi vẫn phải diễn ra theo quy định của pháp luật.
Trong khi đó, Walter Dabney, thật hy hữu làm sao, lại không chết. Chí ít là vẫn chưa chết. Bác sĩ tại bệnh viện nơi ông được đưa tới không còn hy vọng gì về việc ông sẽ hồi phục hay thậm chí lấy lại được nhận thức. Một viên đạn xuyên qua não; nó không khiến ông mất mạng ngay lập tức đã là một phép màu rồi.
Lúc bấy giờ, Alex Jamison và Ross Bogart, hai người đồng nghiệp của Decker trong một lực lượng đặc nhiệm phối hợp giữa dân thường và đặc vụ FBI, đang trực sẵn ở bệnh viện. Trong trường hợp Dabney có thể hồi phục nhận thức, họ muốn ghi lại tất cả những lời nói của ông để giải thích lý do tại sao ông lại bắn chết Anne Berkshire giữa thanh thiên bạch nhật và sau đó tự kết liễu mạng sống của chính mình. Tuy nhiên, theo lời của các bác sĩ, khả năng
ông có thể hồi phục để trả lời những chất vấn của họ là điều không thể.
Bởi vậy, lúc này Decker chỉ biết ngồi trong bóng tối và nhìn chằm chằm vào thi thể đã được che đậy.
Thực tế thì với anh căn phòng không quá tối.
Màu xanh tia lửa điện siêu thực mới chính là bóng tối của Decker. Cú va chạm xém trí mạng trong một trận bóng bầu dục đã làm đảo lộn các dây thần kinh cảm giác của anh—hội chứng cảm giác kèm synesthesia. Đối với Decker, màu xanh lửa điện là biểu tượng của cái chết. Anh đã nhìn thấy màu sắc ấy trên đường phố vào thời điểm Dabney giết chết Berkshire.
Và lúc này đây, anh lại đối diện với nó một lần nữa.
Decker vừa trình báo với cảnh sát của D.C. và FBI rằng ngoài anh ra còn một người cảnh vệ cũng có mặt tại hiện trường nơi xảy ra án mạng. Thật ra cũng không có nhiều thứ để khai báo. Dabney rút súng ra, bắn chết Berkshire rồi tự sát. Những tình tiết này đã rõ mồn một, ngoại trừ điều duy nhất là lý do đằng sau đó.
Đèn trần bật sáng, một người phụ nữ trong chiếc áo trắng của phòng thí nghiệm bước vào. Vị bác sĩ giám định pháp y này tự giới thiệu tên cô là Lynne Wainwright. Cô đã ngoài 40 với đường nét ám ảnh, dồn nén của một con người từng chứng kiến biết bao cách thức bạo hành mà nhân loại sử dụng với nhau. Decker bật dậy, trình bảng tên và giới thiệu mình thuộc lực lượng đặc nhiệm FBI. Đồng thời, anh tự nhận là nhân chứng của vụ án.
Decker liếc nhìn sang Todd Milligan, thành viên thứ tư của lực lượng đặc nhiệm phối hợp đang tiến vào căn phòng. Thành viên thứ năm, Lisa Davenport, một bác sĩ tâm lý qua đào tạo, đã không lựa chọn quay lại đội mà trở về Chicago hành nghề.
Milligan đã ngoài 30, cao khoảng một mét tám, có mái tóc cắt sát và vóc người trông như được chạm trổ từ đá hoa cương. Ban đầu, anh và Decker không ưa gì nhau, nhưng giờ đây cả hai đã hòa thuận như cách Decker có thể cư xử với tất cả mọi người.
Decker gặp khó khăn trong việc tương tác với mọi người. Trước kia thì chẳng vậy đâu nhưng anh không còn là con người anh đã từng nữa.
Ngoài hội chứng cảm giác kèm, Decker còn mắc chứng hyperthymesia hay còn gọi là chứng trí nhớ hoàn hảo—một di chứng khác của đợt chấn thương não do cú va chạm kinh hoàng trong sự nghiệp NFL ngắn ngủi. Tai nạn đó đã làm thay đổi tính cách Decker, biến anh từ một người hòa đồng, vui vẻ thành một kẻ hờ hững, thiếu khả năng nhận biết các dấu hiệu xã hội—một kỹ năng mà hầu hết mọi người đều xem như hiển nhiên phải có. Người nào mới gặp anh lần đầu hẳn sẽ đinh ninh rằng anh mắc chứng tự kỷ không nặng thì nhẹ.
Và điều họ nghĩ cũng không khác nhiều so với sự thật cho lắm.
“Anh ổn chứ, Decker?” Milligan hỏi. Như mọi khi, anh vẫn vận một bộ vest tối màu phối cùng sơ-mi trắng không tì vết và cà-vạt kẻ sọc. Kế cạnh anh là một Decker ăn mặc xuề xòa và trông như kẻ vô gia cư.
“Vẫn còn tốt hơn bà ta,” Decker đáp, chỉ vào thi thể Berkshire. “Chúng ta đã biết gì về bà ta rồi?”
Milligan móc ra từ túi áo một chiếc máy tính bảng và bắt đầu lướt màn hình. Trong khi đó, Decker quan sát Wainwright dịch tấm khăn ra khỏi thi thể Berkshire và chuẩn bị những dụng cụ cần thiết để tiến hành khám nghiệm tử thi.
“Anne Meredith Berkshire, 59 tuổi, độc thân, giáo viên dạy thay tại một trường Công giáo thuộc Hạt Fairfax. Bà ta sống, chính xác hơn là từng sống, tại Reston. Vẫn chưa có họ hàng nào đến nhận xác, và chúng tôi vẫn tiếp tục kiểm tra.”
“Tại sao bà ta lại đến tòa nhà Hoover?”
“Chúng ta chưa rõ. Chưa có gì để chắc chắn rằng liệu bà ta có ý định tới tòa nhà hay không. Thêm nữa, hôm nay Berkshire không có lịch dạy tại trường.”
“Thế còn Walter Dabney?”
“61 tuổi, đã kết hôn, có bốn người con gái đã lớn. Sở hữu một doanh nghiệp kinh doanh thành công chuyên ký kết hợp đồng với Chính phủ. Doanh nghiệp của ông ta có hợp tác với Cục cũng như các cơ quan khác. Trước đó, ông ta từng làm việc cho NSA được 10 năm. Sống tại McLean trong một căn nhà rộng lớn. Có thể xem là một người thành đạt.”
“Nói đúng hơn là từng thành đạt,” Decker chỉnh lời anh. “Vợ con ông ta đâu?”
“Chúng tôi đã liên hệ với người vợ. Bà ấy tưởng chừng như phát điên. Những người con thì sống rải rác ở nhiều nơi. Có người còn ở Pháp. Họ đều đang trên đường đến đây.”
“Có ai trong số bọn họ nghĩ được tại sao ông ta lại làm vậy không?”
“Chúng ta vẫn chưa trao đổi hết với tất cả bọn họ, nhưng cho đến hiện tại vẫn chưa có thông tin gì mới. Rõ ràng, họ đều đang rất hoảng loạn.”
Decker đề cập đến vấn đề mấu chốt. “Thế thì Berkshire và Dabney có mối quan hệ gì với nhau?”
“Chúng ta chỉ mới bắt đầu thôi, vẫn chưa có nhiều manh mối. Anh có nghĩ là Dabney đang tìm kiếm ai đó để ra tay trước khi tự kết liễu đời mình thì tình cờ bà Berkshire là người gần ông ta nhất?”
“Bà ta chắc chắn là người gần nhất,” Decker trả lời. “Nhưng thử nghĩ xem nếu anh muốn tự kết liễu bản thân, tội gì phải cướp thêm mạng sống của một người vô tội khác? Thế thì có lý gì?”
“Có lẽ ông ta phát điên. Biết đâu hồ sơ y tế sẽ giải thích được lý do đằng sau tâm thần bất ổn của ông ta.”
“Dabney mang theo cặp táp và bảng tên. Có vẻ như lúc đó ông ta đang tiến lại tòa nhà Hoover. Ông ta đến tham dự một cuộc họp chăng?”
“Đúng vậy. Đã xác nhận là ông ta đang tới buổi họp để trình dự án cho Cục. Theo đúng thủ tục.”
“Nghĩa là tâm thần của ông ta bất ổn đến mức tự sát nhưng vẫn còn đủ tỉnh táo để vận đồ và đi đến trung tâm thành phố để dự họp theo đúng lịch trình sao?”
Milligan gật đầu. “Tôi thừa nhận những giả thuyết chúng ta đưa ra chưa có tính xâu chuỗi. Nhưng chúng vẫn có khả năng xảy ra.”
“Mọi giả thuyết đều có khả năng đúng, cho đến khi nó được chứng minh là sai.” Decker đáp.
Decker bước lại đứng gần Wainwright. “Hung khí giết người là khẩu Bretta 9mm. Viên đạn đi theo quỹ đạo hướng lên và tạo ra một vết thương tại cổ nạn nhân. Bà ta chết ngay lập tức.”
Wainwright đã cầm sẵn trong tay chiếc cưa Stryker dùng để mổ hộp sọ của Berkshire. “Rõ ràng trùng khớp với các vết thương bên ngoài,” cô kết luận.
“Nếu Dabney chết cô có khám nghiệm không?”
Wainwright gật đầu. “Cục đang đảm trách việc điều tra vụ này. Cũng dễ hiểu thôi vì Dabney từng là nhà thầu của họ và hơn nữa vụ án xảy ra ngay trước thềm nhà họ. Vậy nên tôi là cô gái của anh.”
Decker quay đi và hỏi Milligan, “FBI đã phân công đội nào nhận vụ này chưa?”
Millligan gật đầu.
“Đội nào thế? Cậu có biết không?”
“Tôi biết rất rõ nữa là đằng khác, bởi vì đó chính là chúng ta.” Decker chớp mắt. “Nói lại coi?”
“Đội của Bogart, tức là đội chúng ta, được phân công phá vụ án này.”
“Nhưng chẳng phải chúng ta chuyên các vụ án nguội sao?”
“Thì… đó là chủ đề của cuộc họp hôm nay đấy. Họ vừa thay đổi nhiệm vụ cho chúng ta. Từ nguội sang nóng. Hơn nữa, vì anh cũng là nhân chứng của vụ án, thì việc phân cho chúng ta vụ này là quá hợp lý. Vậy nên chúng ta phải làm thôi.”
“Kể cả khi tôi là nhân chứng của vụ giết người ư?”
“Anh cũng thấy là vụ án khá tỏ tường, không gì đáng nghi ngờ về sự việc đã xảy ra, Decker à. Họ có hàng loạt nhân chứng. Họ không cần anh đâu.”
“Nhưng tôi chỉ đến đây để tham gia vào các vụ án nguội.” Decker phản kháng.
“Chúng ta không phải là những người có quyền quyết định. Đây là ý kiến chỉ đạo từ cấp trên.”
“Vậy là họ đột ngột đâm sau lưng chúng ta. Và không hề nói trước?”
Milligan cố gắng nở một nụ cười, nhưng nét mặt lo lắng của Decker khiến sắc mặt anh thay đổi. “Chế độ là vậy rồi, Decker à, chúng ta phải tuân theo mệnh lệnh thôi. Chí ít là tôi và Ross phải chấp thuận. Tôi đoán là anh và Jamison có thể thôi việc. Tôi xác định sự nghiệp của mình sẽ gắn chặt với Cục rồi.” Anh dừng một hồi. “Nhưng sứ mệnh truy lùng kẻ xấu của chúng ta vẫn như vậy, chỉ là đổi sang các vụ gần đây hơn thôi. Anh vẫn làm những việc mà trước giờ anh đang làm rất tốt.”
Decker gật đầu nhưng anh có vẻ không mấy hài lòng trước những lý lẽ của Milligan. Anh nhìn xuống thi thể của Berkshire. Những xung ánh sáng xanh cứ bủa vây và tấn công anh từ mọi phía. Anh thấy nôn nao.
Wainwright liếc mắt và để ý thấy bảng tên của Decker. “Khoan đã. Amos Decker. Gã không thể quên được bất cứ thứ gì chính là anh ư?”
Decker không kịp đáp, Milligan đã nhanh nhảu trả lời, “Còn ai vào đây nữa.”
Wainwright tiếp tục, “Tôi nghe bảo các anh đã phá được khá nhiều vụ cũ rích trong vài tháng gần đây. Điển hình như vụ Melvin Mars.”
“Đó là nỗ lực của cả đội,” Milligan trả lời. “Nhưng đúng là chúng tôi sẽ không thể hoàn thành nhiệm vụ nếu thiếu Decker.”
Decker quay sang chỉ vào vết tím mờ trên mu bàn tay Berkshire. “Vết này là gì đây?”
“Để tôi nhìn kỹ hơn,” Wainwright bảo. Cô nắm chặt một chiếc kính lúp loại gắn trên tay quay và xoay nó về phía mục tiêu. Cô bật đèn lên, rọi vào bàn tay của người phụ nữ xấu số. Quan sát qua lớp kính, cô bảo, “Có vẻ đây là vết đóng dấu.”
Tới lượt Decker tự mình quan sát. “Nhà an dưỡng Dominion.” Anh nhìn Milligan, người đang gõ trên máy tính bảng.
Milligan đọc kết quả vừa tìm được. “Ra rồi. Gần khu vực Bệnh viện Reston. Họ phụ trách các ca bệnh giai đoạn cuối, rõ ràng là vậy.”
Decker nhìn xuống Berkshire. “Nếu vết đóng dấu vẫn còn trên tay, có thể bà ta đã đến đó trong hôm nay. Bởi chỉ cần tắm qua là vết đó cũng trôi mất rồi.”
“Anh có nghĩ là bà ta đến để thăm ai đó không?” Milligan hỏi.
“Chà, cuộc đời bà ta không đến giai đoạn cuối cho đến khi Dabney bắn chết bà.”
Đột nhiên, anh bước ra ngoài mà không nói lời nào.
Sau giây phút đột ngột ấy, Wainwright đã nhướng mày nhìn Milligan.
“Anh ta hay làm vậy… nhiều lần rồi,” Milligan bảo. “Dần dần tôi cũng quen.”
“Vậy ra anh là người dễ chịu hơn tôi đấy,” Wainwright đáp. Dứt lời, cô giơ chiếc cưa Stryker lên. “Bởi vì nếu anh ta cứ bỏ rơi tôi như thế, tôi nhiều khả năng sẽ đập vào mặt anh ta bằng thứ này.”
3
Lồng ngực của Walter Dabney hết trồi lên rồi lại xẹp xuống, kèm theo đó là tình trạng co giật của một con người đang gần đất xa trời. Phổi của ông không khác nào một gã hộ vệ đang chiến đấu hết mình để giữ cho linh hồn không thoát ly khỏi thể xác.
Alex Jamison sắp bước sang tuổi 30, dáng dấp cao ráo, thanh mảnh và một khuôn mặt xinh xắn cùng với mái tóc dài màu nâu đỏ. Cô ngồi phía bên mé phải giường bệnh tại khu chăm sóc đặc biệt. Còn người đàn ông đang đứng thẳng đơ như khúc gỗ đằng kia là Ross Bogart, một đặc vụ FBI tuổi đã gần ngũ tuần với mái tóc sẫm màu chỉ điểm vài sợi bạc được chải chuốt gọn gàng. Các ngón tay của anh dính chặt thành giường của người bệnh.
Dabney nằm trên giường, người được nối vào một mớ hệ thống theo dõi và ống dẫn thuốc chằng chịt. Mắt phải giờ đây là một hố trống vì viên đạn bắn từ cằm đã phát nổ tại đó ngay sau khi xuyên qua một số vùng của não. Da mặt xám xịt như thây ma, trừ những chỗ bị sưng tấy hay tím tái do dao động vỡ. Hơi thở không đều, các chỉ số sinh hiệu thay đổi liên hồi trên máy đo. Cũng hợp lý thôi, ông đang trong phòng chăm sóc đặc biệt, nơi chỉ dành riêng cho bệnh nhân có tình trạng và thương tích trầm trọng nhất tại bệnh viện.
Nhưng Dabney không đơn giản chỉ bị thương; ông đang hấp hối.
Các bác sĩ ra vào đều đặn cả ngày. Tất cả đều khẳng định rằng vấn đề bây giờ chỉ là thời gian cho đến khi não bộ ra lệnh cho tim ngừng bơm máu. Ngoài ra, họ không còn làm được gì thêm. Không có một loại thuốc hay phương pháp phẫu thuật nào có thể giúp ông tái sinh. Họ chỉ đang đếm ngược cho đến giây phút ông lìa đời.
Bà Eleanor Dabney, hay còn được gọi là Ellie, có mặt tại bệnh viện 30 phút ngay sau khi FBI báo tin. Đáng lẽ ra FBI phải tiến hành chất vấn bà, nhưng ngay lúc này, người sắp trở thành góa phụ kia đã đủ khốn khổ rồi. Chỉ mới rồi, bà còn nôn mửa trong phòng tắm và cần được y tá chăm sóc.
Bogart nhìn Jamison. Dường như cô cảm nhận được anh đang chú ý đến mình nên liếc mắt nhìn lên.
“Có tin gì từ Decker không?” Anh hỏi nhỏ.
Cô mở điện thoại kiểm tra và lắc đầu. “Anh ấy bảo sẽ đến nhà xác canh chừng thi thể của Berkshire.” Cô trả lời tin nhắn Decker và bảo, “Tôi cũng cử Todd đến đó rồi.”
Bogart gật đầu. “Thế thì ổn. Cậu ta sẽ giúp Decker đi đúng hướng.”
Họ đều hiểu Decker không phải lúc nào cũng giỏi giao tiếp. Thực tế, anh cực kỳ tệ ở lĩnh vực này.
Bogart lại nhìn Dabney. “Lý lịch của ông ta không có gì đáng nghi ngờ. Chúng ta cũng chẳng tìm thấy mối liên hệ nào giữa Berkshire và ông ấy.”
Jamison bảo, “Chắc chắn phải có mối liên hệ gì đó, chẳng lẽ sự việc này lại hoàn toàn ngẫu nhiên? Thế chẳng hợp lý tí nào.”
Bogart gật đầu đồng ý rồi liếc nhìn máy đo sinh hiệu. Nhịp tim và nhịp thở của người đàn ông sắp chết cứ nhún nhảy như đôi chân trần trên mặt than nóng hổi.
“Khả năng cao là ông ta sẽ lìa đời trước khi kịp nói ra điều gì.”
“Nhưng nếu ông ấy nói ra điều gì thì đã có chúng ta ở đây rồi,” Jamison đáp lại.
Cửa phòng tắm mở toang, y tá và Ellie Dabney bước ra. Bà Ellie là một người cao ráo, có bờ vai rộng và đôi chân dài, eo thon, hông hẹp. Đường nét thu hút, khuôn hàm thanh thoát, gò má cao và rắn rỏi, đôi mắt bà to và có màu xanh nhạt dễ chịu. Mái tóc bà để dài và bạc tự nhiên. Có vẻ như bà từng là một vận động viên khi còn trẻ.
Giờ đây khi đã ở đầu tuổi 60, là mẹ của bốn người con gái lớn với ba đứa cháu ngoại và có một ông chồng bị thương trí mạng, người đàn bà khốn khổ này nhìn cứ như sắp chết đến nơi.
Bogart đặt một chiếc ghế cạnh giường bệnh trong khi Jamison đứng lên phụ y tá đỡ Ellie ngồi xuống. Chính xác là ngã quỵ xuống ghế.
Y tá kiểm tra máy đo sinh hiệu, rồi nhìn Bogart với vẻ mặt quan ngại, sau đó bước ra ngoài và đóng cửa lại. Ellie chồm người qua thành giường để nắm lấy tay chồng, trán bà tựa vào đầu thành giường.
Bogart bước lùi lại còn Jamison thì quay về chỗ ngồi. Họ liếc mắt nhìn nhau khi lắng nghe từng tiếng nức nở yếu ớt từ người đàn bà.
“Bà Dabney, chúng tôi có thể sắp xếp để các con bà đến bệnh viện ngay khi họ đến nơi,” Bogart lên tiếng sau một hồi im lặng.
Thoạt đầu, bà không đáp lại nhưng cuối cùng bà cũng gật đầu đồng ý.
“Bà có bất kỳ thông tin liên hệ hay ai đó có thể…?”
Bà ngẩng đầu nhưng không nhìn anh và nói, “Con gái tôi, Jules, nó biết.” Bà móc điện thoại trong túi ra, gõ gõ và đưa cho Bogart. Anh viết lại số điện thoại rồi trả lại cho Ellie và bước ra khỏi phòng.
Jamison đặt tay lên vai người góa phụ và nói, “Tôi rất lấy làm tiếc, bà Dabney.”
“Có phải… Walt thật sự đã sát hại ai đó không? Bên FBI… họ… họ bảo…”
“Chúng ta không nhất thiết phải bàn về việc đó lúc này.”
Ellie quay mặt về phía Jamison, nước mắt giàn giụa. “Ông ấy không thể nào tự sát. Cô có chắc là không phải ai đó đã bắn chồng tôi chứ? Cô thấy đấy, Walt không thể hại ai cả. Ông ấy…” Giọng bà yếu dần rồi bà quay lại dựa trán vào thành giường.
Máy đo đột nhiên phát ra tiếng bíp. Ngay lập tức, họ liếc nhìn. Nhưng rồi âm thanh từ thiết bị nhỏ dần.
“Chúng tôi chắc chắn, bà Dabney ạ. Tôi cũng mong tôi có thể nói điều ngược lại với bà. Nhưng thật sự đã có rất nhiều nhân chứng.”
Bà Ellie xì mũi vào khăn giấy và nói với giọng cương quyết hơn. “Ông ấy sẽ khó lòng mà hồi phục, đúng không?”
“Vâng. Bác sĩ cũng không hy vọng gì.”
“Tôi… tôi thậm chí còn không biết rằng ông ấy có súng.”
Sau khi thăm dò người đàn bà vài giây, Jamison hỏi, “Bà có để ý thấy điều gì bất thường ở chồng bà dạo gần đây không?”
“Về điều gì mới được?” Ellie lơ đãng hỏi lại.
“Tâm trạng? Các mối bận tâm trong công việc? Khẩu vị thay đổi? Hoặc uống rượu nhiều hơn bình thường? Bất kỳ biểu hiện trầm cảm nào không?”
Ellie ngồi lại vào ghế, vùi mớ khăn giấy vào tay và nhìn chằm chằm xuống đùi mình.
Tiếng bước chân ngoài cửa vọng vào, thỉnh thoảng còn nghe thấy tiếng chân chạy, âm thanh từ chuông báo động, giọng nói phát ra từ hệ thống truyền thanh, từ thiết bị và bệnh nhân dọc ngang hành lang. Tất cả chúng như bao trùm cả bệnh viện. Không khí toàn mùi thuốc sát trùng đặc trưng và lúc nào cũng lạnh lẽo đến rợn người. Chưa kể đến nỗi căng thẳng cứ ám ảnh trong phòng chăm sóc đặc biệt—chỉ cần tiếng cảnh báo đột ngột rít lên từ máy đo sinh hiệu cũng đủ để chia cắt người sống và kẻ chết.
“Walt không hề đề cập đến công việc kinh doanh khi ở nhà, cũng ít khi uống rượu tại gia. Mặc dù vậy, tôi biết rằng, ông ấy vẫn uống chút ít trong các bữa tối với đối tác và tại các sự kiện trong ngành, đại loại như vậy thôi. Tôi từng có dịp tham dự cùng. Nhưng ông ấy chỉ uống đủ để xã giao hoặc để đàm phán và ký kết hợp đồng, kiểu vậy, cô biết đấy.”
“Tôi hiểu. Liệu rằng ông ấy đang gặp khó khăn về tài chính chăng?”
“Tôi chưa từng biết tới. Nhưng nếu có thì Walter cũng có thể xoay xở được. Chúng tôi chưa bao giờ mắc nợ đến mức có người đến tận nhà gõ cửa đòi, nếu tôi không hiểu sai ý cô.”
“Bà có cảm thấy tâm trạng ông ấy gần đây thay đổi không?”
Bà đưa mắt nhìn chồng mình trước khi nhanh chóng quay đi, như thể bà cảm thấy không thoải mái khi phải tiết lộ thông tin về chồng với một người xa lạ. “Ông ấy có nhiều tâm trạng. Những lúc phải làm việc cật lực và công việc kinh doanh phát triển thuận lợi, ông ấy khá vui vẻ. Nhưng đến lúc công ty gặp vấn đề, ông ấy rơi vào chán nản như bao người khác.”
“Nghĩa là không có gì bất thường cả?”
Ellie vo tròn tờ khăn giấy rồi quăng vào sọt.
Một cách dứt khoát.
Bà quay sang Jamison, người đang đợi chờ trong kiên nhẫn. Nếu có điều gì cô học được từ Amos Decker trong thời gian làm việc cùng anh, thì đó hẳn là tính kiên nhẫn, cả vì lý do tích cực lẫn tiêu cực.
“Gần đây ông ấy có đi công tác.”
“Ở đâu?”
“Đó là điều khác lạ. Ông ấy không kể cho tôi nghe. Ông ấy chưa từng như vậy bao giờ cả.”
“Ông ấy đi trong bao lâu?” Jamison hỏi.
“Tôi nghĩ khoảng bốn ngày. Đáng ra là lâu hơn. Ông ấy đang trong một chuyến công tác ở New York và đã xuất phát từ đó. Ông ấy gọi cho tôi và nói rằng có vấn đề đột ngột phát sinh, cần có mặt
để trực tiếp giải quyết. Và cũng không chắc mình sẽ đi trong bao lâu.”
“Máy bay, tàu điện? Ra nước ngoài?”
“Tôi thật sự không biết. Ông ấy có nói đó là một đối tác tiềm năng và mình cần xử lý gì đó. Qua cách diễn tả, tôi cảm thấy vấn đề
không quá quan trọng. Tôi chỉ đoán rằng, công ty đã sắp xếp việc đi lại.”
“Được rồi, thế là ông ấy không đề cập thêm gì với bà khi quay về sao?”
“Hoàn toàn không. Tôi cho rằng đơn thuần đó chỉ là công việc làm ăn. Nhưng từ hôm đó trở đi, tôi có một cảm giác rất lạ, tôi không rõ đó là gì nữa.”
“Chuyện đó xảy ra từ khi nào?”
“Khoảng một tháng trước.”
“Chồng bà sở hữu một doanh nghiệp chuyên ký hợp đồng với Chính phủ, đúng vậy chứ?”
Ellie gật đầu. “Walter Dabney và Cộng sự. Công ty đặt tại Reston. Mọi thứ họ đang làm đều tuyệt mật. Khởi điểm chỉ có mỗi chồng tôi, nhưng hiện tại đã có đến 70 con người làm việc tại đây. Ngoài Walter ra còn có các cộng sự khác, nhưng ông ấy vẫn là chủ tịch và nắm quyền kiểm soát cổ phần.” Đôi mắt bà mở to. “Ôi trời ạ. Tôi đoán rằng, bây giờ chúng sẽ thuộc về tôi.” Bà nhìn Jamison với vẻ hốt hoảng. “Nghĩa là tôi sắp phải điều hành công ty sao? Tôi không biết gì về việc kinh doanh cả. Tôi thậm chí còn không có cả quyền miễn trừ an ninh.”
Jamison nắm chặt tay bà. “Tôi nghĩ bà không cần phải lo lắng về những việc đó lúc này đâu, bà Dabney.”
Ellie thả lỏng người và quay nhìn lại chồng mình. “Cô có thể nhắc lại tên người ấy lần nữa không? Người mà Walter đã…? Họ từng nói với tôi, nhưng tôi không thể nhớ nổi. Lúc này mọi thứ với tôi đều mù mịt cả.”
“Anne Berkshire. Một giáo viên thay thế tại trường trung học Công giáo ở Fairfax. Bà có biết bà ta không?”
Ellie lắc đầu. “Tôi chưa bao giờ nghe tới. Và tôi cũng không biết Walt có biết bà ấy hay không. Giáo viên trung học ư? Walt và tôi có con khá sớm. Jules, đứa con lớn, năm nay đã 37 tuổi. Đứa cháu trai
lớn nhất của chúng tôi mới vào lớp một. Và chúng còn không sống ở Virginia nữa là. Chúng tôi cũng không phải người Công giáo. Chúng tôi theo Giáo hội Trưởng lão.”
“Được rồi. Rất cảm ơn thông tin từ bà. Bà đã giúp ích rất nhiều cho chúng tôi.”
“Tôi có cần phải nhờ đến luật sư không?” Ellie thốt lên.
Jamison có vẻ không được thoải mái. “Tôi thật sự không phải người có thể đưa ra lời khuyên cho bà về vấn đề này. Nếu bà hoặc chồng bà từng có luật sư riêng, bà nên hỏi ý kiến vị ấy.”
Ellie đờ đẫn gật đầu trong câm lặng và lại với qua thanh vịn để nắm lấy tay chồng mình thêm lần nữa.
Một phút sau, Bogart quay lại. “Tất cả đã được lo liệu xong xuôi, bà Dabney,” anh nói. “Theo lời con gái bà, mọi người sẽ có mặt vào tối nay trừ Natalie.”
“Natalie đang sống tại Paris. Tôi đã gọi điện cho con bé nhưng không ai nhấc máy. Và không… không thể báo với con bé chuyện như thế này qua hộp thư thoại hay email được.”
“Cô Jules con gái bà đã liên hệ được với Natalie và thông báo tình hình. Natalie đang cố bắt chuyến bay đến đây nhanh nhất có thể.”
“Tôi vẫn không thể tin nổi chuyện này lại xảy ra,” Ellie thốt lên. “Khi Walt rời đi vào sáng nay mọi chuyện vẫn… còn tốt đẹp. Thế mà giờ đây?” Bà ngước lên nhìn Bogart và Jamison. “Tất cả mất hết rồi. Quá đột ngột.”
Quá đột ngột, Jamison thầm nghĩ.
4
Họ di chuyển từ một nơi ngập xác người sang một nơi đầy người hấp hối.
Sau khi hỏi thăm thông tin tại quầy lễ tân, Decker và Milligan được dẫn đến gặp Sally Palm, giám đốc của viện an dưỡng Dominion. Bà thật sự sốc khi nghe tin về cái chết của Anne Berkshire.
“Sáng nay, bà ấy còn ở đây,” bà nói trong khi ngồi đối diện với họ, cách nhau cái bàn trong căn phòng làm việc nhỏ bé, chật chội.
“Đó là những gì mà chúng tôi biết,” Decker nói. “Và cũng là lý do chúng tôi đang ở đây. Chúng tôi đã phát hiện tay bà ấy có đóng dấu của nơi này.”
“Vâng, đó là một phần của thủ tục an ninh.”
“Nơi đây cần đảm bảo an ninh chặt chẽ thế ư?” Milligan hỏi.
Palmer nhìn anh một cách cứng rắn. “Bệnh nhân của chúng tôi khá yếu và đang phải sử dụng rất nhiều thuốc. Họ không thể tự bảo vệ chính mình. Vì vậy, chúng tôi là người làm việc đó. Và chúng tôi xem nhiệm vụ này rất quan trọng. Tất cả khách thăm đều được kiểm tra nghiêm ngặt khi đi qua cửa trước. Loại dấu đóng vào tay này rất dễ nhìn thấy và chúng tôi thay đổi màu sắc hàng ngày. Bằng cách này, chỉ với một cái liếc mắt, nhân viên của chúng tôi cũng có thể xác nhận khách viếng thăm đã được kiểm tra an ninh hay chưa.”
Decker hỏi, “Bà Berkshire có người thân nào là bệnh nhân tại đây không? Vì vậy, bà ta mới đến đây sáng nay?”
“À, không. Anne là một tình nguyện viên. Bà ấy đến đây để chơi cùng một vài bệnh nhân thôi. Thông thường, gia đình của những bệnh nhân này không ở gần đây, nên họ hiếm khi đến chăm nom thân nhân của họ. Chúng tôi có tình nguyện viên, tất nhiên phải qua chọn lọc cẩn thận, đến đây để nói chuyện với bệnh nhân, đọc sách cho họ nghe, và có khi chỉ cần ngồi với họ. Các anh biết đấy, đối mặt với cái chết đang cận kề không hề đơn giản, huống chi là phải đối mặt một mình.”
“Cụ thể Berkshire đã nói chuyện với bệnh nhân nào hôm nay?” Milligan hỏi.
“Tôi chắc chắn có thông tin này. Chờ tôi ít phút.”
Palmer đứng dậy và rời đi.
Milligan móc điện thoại ra và kiểm tra tin nhắn. “Vợ Dabney đang ở tại bệnh viện với chồng mình. Alex bảo rằng ông ta vẫn chưa hồi phục nhận thức và có thể là sẽ không bao giờ.”
“Người vợ có nói điều gì không?”
“Bà ta không quen biết Anne Berkshire và dám chắc rằng chồng bà cũng không. Bà không biết gì về công việc làm ăn của Dabney và càng không thể nghĩ ra bất kỳ lý do nào giải thích cho hành động của chồng mình. Nhưng Alex có nhắn thêm. Bà Dabney nói chồng bà có một chuyến đi hơi khó hiểu vào khoảng một tháng trước và sau khi quay về, ông ta đã không như trước.”
“Không như trước là như thế nào?”
“Thay đổi tâm trạng. Và ông ta không nói với bà vợ rằng mình đã đi đâu.”
“Tôi hiểu rồi.”
Milligan nhìn xung quanh văn phòng nhỏ. “Anh có thật sự nghĩ rằng chúng ta sẽ tìm được manh mối từ chỗ này không?”
“Người ta vẫn có thể bị giết bởi kẻ hoàn toàn lạ, nhưng đa phần các trường hợp đều quen biết hung thủ.”
“Chà, điều đó luôn giúp an ủi phần nào đấy nhỉ?” Milligan buồn bã đáp.
Hai người đàn ông chìm vào trong im lặng cho đến khi Palmer quay trở lại vài phút sau đó.
“Berkshire đã gặp ba bệnh nhân sáng sớm hôm nay. Dorothy Vitters, Joey Scott, và Albert Drews.”
“Họ có phải là những người bà ta thường đến viếng thăm không?” Decker hỏi lại.
“Đúng vậy.”
“Bà bảo Berkshire đã đến đây vào sáng sớm. Trước đó, bà ta có hay đến đây vào khung giờ này không?”
“Chà, nghĩ lại thì không. Bà ấy thường đến vào tầm trưa. Vào lúc đó bệnh nhân của chúng tôi sẽ tỉnh táo hơn.”
“Chúng tôi có thể nói chuyện với họ không?” Decker hỏi.
Palmer có vẻ hơi sốc. “Tôi không chắc họ có thể cung cấp thông tin gì được cho ông. Họ bệnh rất nặng. Và đã rất yếu.”
Decker đứng dậy.”Tôi hiểu điều đó. Nhưng Anne Berkshire đã bị ám sát sáng nay và nhiệm vụ của tôi là phải tìm ra được lý do. Và nếu đúng thật là bà ta đã đến đây vào khoảng thời gian bất thường ngay trước khi xuống phố và bị giết, thì chúng tôi phải tìm hiểu đến cùng manh mối đó. Tôi mong bà hiểu cho.”
Milligan lập tức tiếp lời, “Chúng tôi sẽ cố gắng khéo léo nhất có thể.”
“Các anh có nhất thiết phải nói cho họ nghe sự thật rằng Anne bị giết không? Điều đó sẽ làm họ buồn rất nhiều.”
Milligan bảo, “Chúng tôi sẽ làm hết mọi cách để tránh.”
Decker không nói thêm gì. Anh đã chuyển hướng nhìn về phía hành lang.
Dorothy Vitters đã sắp bước sang tuổi 90, ốm yếu, teo tóp, đang nằm ở chiếc giường cuối đời. Bởi vì quyền bảo mật thông tin của
bệnh nhân, Palmer không cho họ biết cụ thể cụ Vitters mắc bệnh gì. Bà đưa họ tới ngưỡng cửa và quay lại văn phòng.
Decker đứng ở cửa, bắt đầu nhìn quanh không gian nhỏ hẹp và được bài trí thưa thớt.
“Anh ổn chứ?” Milligan hỏi khẽ.
Decker không ổn, thật sự không ổn.
Thứ anh đang nhìn thấy tại nơi này không phải là tia lửa điện xanh khiến anh liên tưởng đến sự chết chóc, mà là màu xanh navy. Đây là lần đầu tiên việc này xảy ra. Nhưng khi anh nhìn cụ Vitters mắc bệnh nan y, anh hiểu được lý do tại sao. Dễ thấy, trong tâm trí anh sự cận kề cái chết đơn giản được đại diện bằng một dạng thức khác của màu xanh.
Được thôi, khá thú vị đầu. Cái tâm trí biến đổi này cứ liên tục làm mình bất ngờ.
Anh không muốn ở đây khi Vitters qua đời, vì anh không muốn màu xanh dương lại đột nhiên chuyển thành màu xanh lửa điện.
“Tôi ổn,” cuối cùng anh cũng trả lời.
Anh bước vào phòng, kéo ghế ra và ngồi sát bên giường bệnh. Milligan đứng kế bên.
“Cụ Vitters, tôi là Amos Decker và đây là Todd Milligan. Chúng tôi ở đây để nói chuyện với cụ về Anne Berkshire. Chúng tôi được biết bà ấy đã ở đây với cụ vào sáng nay.”
Vitters nhìn lên anh với đôi mắt lõm sâu thấy rõ. Da bà cụ tái xám, đôi mắt ươn ướt và hơi thở hơi nông. Decker có thể nhìn thấy dấu tiêm thuốc giảm đau gần xương đòn của cụ.
“Anne đã đến đây,” cụ chậm rãi trả lời. “Tôi đã cảm thấy ngạc nhiên khi cô ấy đến sớm hơn mọi ngày.”
“Cụ có nhớ câu chuyện hai người đã nói với nhau không?” “Mà các anh là ai?”
Decker sắp móc bảng tên ra thì Milligan đã kịp ngăn lại. Milligan bảo, “Chúng tôi là bạn của Anne. Bà ấy bảo chúng tôi hôm nay ghé qua đây vì đáng lẽ bà ấy muốn quay lại để nói chuyện với cụ nhưng chợt nhận ra là không thể được.”
Đôi mắt ngấn lệ của cụ ánh lên một tia cảnh giác. “Cô ấy… cô ấy có bị làm sao không? Cô ấy không bị ốm chứ?”
“Bà ấy hoàn toàn không bị thương gì cả,” Decker đáp với giọng điệu khá thành thật. Anh mong rằng bất kỳ thứ thuốc nào cụ Vitters đang dùng có thể làm giảm hẳn khả năng xử lý của não. Nếu không thì cụ có thể nhận ra rằng những lời nói của họ thật vô lý làm sao.
“Ừ thì, cũng toàn nói chuyện đời thường. Nào là thời tiết, quyển sách cô ấy đang đọc và cô ấy nói chuyện với tôi về… con mèo của tôi.”
“Con mèo của cụ?” Milligan hỏi lại.
“Sunny đã mất rồi. Cứ như mới hôm qua thôi. À, Anne thích mèo lắm.”
“Không có gì khác ngoài những chuyện đó?” Decker hỏi. “Không, tôi nhớ thế. Cô ấy cũng không ở đây lâu.”
“Cụ có cảm thấy bà ấy bình thường như mọi ngày không? Có điều gì không ổn không?”
Giọng cụ trở nên cao hơn, cụ hỏi, “Các anh có chắc là cô ấy không sao không? Tại sao các anh lại hỏi tôi những câu này? Tôi có thể sắp chết thật, nhưng vẫn chưa đến mức ngu ngốc đâu.”
Decker đã nhìn thấy đôi mắt ngấn lệ chuyển thành hai hòn đá lửa trước khi chúng vụt tắt.
“Được rồi, nếu cụ muốn nghe sự thật, thì nó là—”
Milligan cắt ngang. “Chúng tôi biết cụ vẫn còn minh mẫn, cụ Vitters ạ. Anh đồng nghiệp tôi đang định nói với cụ là hôm nay Anne vừa bị té và đầu bị va chạm. Bà ấy rồi sẽ ổn thôi, nhưng hiện tại bà bị mất trí nhớ ngắn hạn. Và bà ấy cần lấy lại mật khẩu điện thoại, mật khẩu hệ thống cảnh báo của căn hộ và mật khẩu máy tính. Bà
ấy nhờ chúng tôi đến đây để ghi nhận lại những gì bà đã nói trong hôm nay, sau đó kể lại với bà và có thể nhờ vậy bà sẽ khôi phục được trí nhớ. Bác sĩ cũng nói rằng cách này hiệu quả đấy.”
Cụ Vitters như được giải tỏa. “Ôi, thật không may cho cô ấy.”
Decker liếc nhìn Milligan thật nhanh trước khi quay lại nhìn chằm chằm cụ Vitters rồi nói, “Chính vì vậy bất kể điều gì cụ kể cho chúng tôi nghe đều sẽ giúp ích cho bà ấy.”
“Chà, như tôi đã nói, chúng tôi không nói nhiều chuyện lắm. Cơ mà hôm nay Anne có vẻ bận tâm điều gì đó. Bình thường cô ấy là người chủ động dẫn dắt cuộc trò chuyện giữa chúng tôi nhưng hôm nay tôi đã phải giục cô ấy vài lần.”
Milligan liếc một ánh nhìn sắc bén về phía Decker, nhưng Decker vẫn chưa rời mắt khỏi Vitters.
“Cụ có hỏi bà ấy rằng có chuyện gì không ổn không?”
“Tôi có hỏi. Nhưng cô ấy nói mọi chuyện đều ổn cả, rằng cô ấy có vài thứ bận tâm, nhưng không nói là chuyện gì.”
“Cụ có biết rằng liệu cụ là người đầu tiên mà Anne đã đến thăm hôm nay, hay là bà ấy đã đến thăm vài người trước cụ?”
“Tôi nghĩ tôi là người cuối cùng. Cô ấy có nói mình phải rời đi ngay sau khi gặp tôi. Cô ấy phải đến một nơi.”
“Bà ấy đã không nói cụ nghe nơi đó là đâu ư?”
“Không.”
Decker đứng dậy và xoay người bỏ đi.
Milligan nói trong vội vàng, “Cảm ơn cụ đã giúp chúng tôi. Chúng tôi có thể giúp gì được cho cụ không?”
Cụ Vitters mỉm cười đáp ngay, “Hãy nói vài lời tốt đẹp về tôi với ông bạn ở lầu trên.”
Sau khi rời đi, Milligan thì thầm với Decker, “Này, Decker, anh nên giữ mọi thứ thật nhẹ nhàng với những con người này, được chứ? Họ đang chết đấy.”
Anh đi ngang qua Decker, người lúc này đang quay nhìn lại cụ Vitters nằm trên giường, mắt giờ đây đã nhắm. Anh quay lại chỗ bà cụ và nhìn xuống. Màu xanh dương trong đầu anh bắt đầu chuyển thành màu xanh lửa điện. Decker không thể tin rằng anh có thể tiên đoán cái chết của một con người, nhưng rõ ràng lần này tâm trí anh vừa thực hiện một sự thay đổi màu sắc rất hợp lý, dự báo cái chết của cụ Vitters, người đang mắc bệnh nan y.
Anh cúi xuống và chỉnh lại chiếc gối để đầu cụ thoải mái hơn. Tay vuốt qua mái tóc bạc trắng của cụ, anh khẽ nói, “Tôi xin lỗi, cụ Vitters.”
Anh không biết Milligan đang quan sát mình từ ngưỡng cửa. Vị đặc vụ FBI vội vã rời đi trước khi Decker kịp quay lại nhìn.
5
Joey Scott là một trường hợp thậm chí còn đáng buồn hơn cả Dorothy Vitters.
Decker và Milligan đứng ở ngưỡng cửa cùng với Palmer. Scott chỉ mới mười tuổi, thế mà cuộc sống ngắn ngủi của cậu đã sắp đến hồi kết. Bỏ qua quyền bảo mật thông tin bệnh nhân, Palmer, người đã hộ tống họ đến đây, lên tiếng như để đáp lại cái nhìn ngây ngô của hai người họ, “Bệnh bạch cầu. Loại không thể chữa được.”
Milligan hỏi, “Nhưng tại sao Berkshire lại phải đến thăm cậu bé? Bố mẹ cậu nhóc đâu?”
Palmer nói với vẻ phật lòng. “Cậu bé đang chuẩn bị các thủ tục để được nhận nuôi từ nhà tình thương. Khi cậu đổ bệnh, bố mẹ ‘nuôi’ của cậu đã bỏ đi. Tôi đoán là họ muốn nhận một đứa trẻ khỏe mạnh hơn,” bà khinh bỉ nói thêm. “Và vấn đề là họ cũng dễ dàng đạt được điều đó. Anne đến thăm cậu ít nhất hai lần một tuần. Bà ấy là tất cả những gì Joey có.”
Sau đó, bà quay người rời đi, khuôn mặt ngập tràn thất vọng.
Decker nhìn xuống cơ thể bé nhỏ đang nằm trên giường và suy nghĩ của anh lại quay ngược về với đứa con gái mà mình đã từng có. Molly bị sát hại trước sinh nhật mười tuổi của con bé. Decker là người đã phát hiện ra thi thể con gái và vợ tại căn nhà cũ của họ. Và cũng vì hội chứng trí nhớ siêu phàm, anh nhớ rõ mồn một từng chi tiết của bi kịch như thể nó chỉ vừa xảy ra trong khoảnh khắc này.
Đối với Decker, không có gì khủng khiếp và tệ hại hơn việc tận mắt phát hiện gia đình mình bị sát hại. Nhưng nhìn thấy cảnh tượng
này thì cũng gần như vậy.
Anh ngồi xuống bên cạnh cậu bé, cậu từ từ mở mắt ra nhìn anh. Hệ thống tiêm tĩnh mạch và đường truyền theo dõi chằng chịt phủ kín khắp thân hình héo hon của cậu.
Với một cái liếc nhìn thật nhanh về phía Milligan, Decker bảo, “Chào Joey, chú là Amos. Còn đây là bạn chú, Todd.”
Joey giơ tay lên vẫy nhẹ.
“Chú có nghe nói bạn cháu, bà Anne đã đến đây hôm nay. Có đúng thế không?”
Joey gật đầu.
“Cháu và bà ấy có trò chuyện với nhau không?”
“Bà Anne đọc sách cho cháu nghe,” Joey thì thầm trả lời. “Một quyển sách?”
Cậu bé gật đầu. “Harry Potter và tên tù nhân ngục Azkaban. Nó nằm ở kệ phía bên kia kìa. Bà bảo ngày mai sẽ quay lại để đọc hết cho cháu nghe.”
Decker với tới lấy quyển sách, lật qua vài trang cho đến khi bắt gặp một thẻ đánh dấu tại trang thứ mười tính từ trang cuối ngược trở lại. Anh liếc nhìn Milligan trước khi quay lại nhìn Joey. “Tuyệt vời. Đó là tất cả những gì bà ấy đã làm nhỉ? Chỉ đọc sách?”
Joey lắc đầu. “Cháu và bà còn trò chuyện một tí.”
“Về chuyện gì hả cháu?”
“Mà hai chú có phải là bạn của bà Anne không?”
Decker bảo, “Chú mới gặp bà ấy sáng nay. Vì bà ấy mà hai chú đến đây để gặp cháu. Bà muốn hai chú đến gặp những người bạn của mình ở đây.”
“À, cháu hiểu rồi.”
Milligan hỏi, “Thế cháu đã ở đây bao lâu rồi?”
Joey chớp mắt nhìn anh. “Cháu không biết nữa.”
Milligan bước lùi lại, chống tay vào tường. Anh nhìn Decker vẻ tuyệt vọng.
Decker hỏi tiếp, “Cháu có nhớ những gì cháu và bà Anne đã nói với nhau không? Có thể là điều gì đó về cuốn sách?”
“Bà ấy hỏi cháu từng thấy mặt trời mọc chưa.”
Decker nhìn về phía cửa sổ lớn trổ về hướng đông. Anh chậm rãi quay nhìn lại Joey. “Cháu đã thấy rồi đúng không?”
Joey gật đầu. “Cảnh tượng đó thật đẹp.”
“Chú cũng từng thức dậy vào sáng sớm để ngắm bình minh khi còn nhỏ,” Decker bảo, lời anh nói khiến Milligan không khỏi ngạc nhiên. “Chú sinh trưởng tại Ohio, bình minh ở đó đến chậm hơn nơi đây.”
Trên chiếc tủ cạnh giường ngủ Joey là một khung ảnh. Decker cầm lên xem. Thì ra là bức ảnh chụp Peyton Manning.
“Cháu thích Manning à?”
Joey gật đầu. “Trước đó, cháu từng xem bóng bầu dục nhiều lắm. Cháu cũng từng chơi trên sân trước khi bị ốm.”
“Chú cũng từng chơi.”
Joey đưa mắt nhìn khắp thân hình đồ sộ của Decker, “Chú nhìn rất giống một cầu thủ bóng bầu dục. Cháu cũng muốn lớn lên sẽ cao to như chú.”
Milligan dụi mắt. Lấy lại được bình tĩnh, anh nói, “Này Joey, chú Decker đây từng thi đấu tại giải NFL đấy. Chú ấy chơi cho đội Cleveland Browns.”
Đôi mắt cậu bé mở to hẳn ra, và một nụ cười nho nhỏ nở dần trên khuôn mặt cậu. “Thật thế ạ?”
Decker gật đầu. “Sự nghiệp của chú ngắn ngủi và cũng không hẳn là ngọt ngào.” Anh đặt khung hình xuống. “Trước đó, chú là một
thành viên của đội Ohio State Buckeyes. Đó là những năm tháng tuyệt vời nhất đời chú.”
“Chà,” Joey tấm tắc. “Vậy chú có biết Peyton Manning không?”
“Không, nhưng anh ấy đúng là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất. Ứng cử viên hàng đầu của Đại lộ Danh vọng.” Anh ngồi xuống. “Thế cháu còn nói gì khác với bà Anne không?”
Nụ cười của cậu bé nhạt dần. “Cháu nghĩ là không.”
“Bà ấy có bảo cháu là sẽ đi đâu sau khi gặp cháu không?” Joey lắc đầu.
Decker đứng dậy, liếc nhìn Milligan, và bảo, “Cảm ơn cháu, Joey, cháu đã giúp ích rất nhiều cho tụi chú.”
“Dạ, không có gì ạ.”
Milligan nhìn xuống cậu và nói, “Này cháu, chú có thể lại đến thăm cháu lần nữa không?”
“Tất nhiên rồi ạ. Chú có thể đi cùng bà Anne.”
Millgan nói, “Được rồi, để chú xem.” Nói rồi anh móc trong ví ra tấm danh thiếp và đặt nó trên bàn kế bên khung ảnh của Peyton Manning. “Nếu cháu cần bất cứ điều gì, cháu cứ nhờ người gọi điện cho chú bằng số điện thoại này, được chứ?”
“Dạ rõ.”
“Cảm ơn cháu lần nữa.”
“Cháu có thể bắt tay chú không?” Joey hỏi, mắt hướng về Decker. “Cháu chưa từng gặp cầu thủ NFL nào trước đây.”
Decker chìa tay ra và chầm chậm bắt lấy bàn tay nhỏ nhắn của cậu bé. Cảnh tưởng lúc này trông giống như một con cá voi đang nuốt lấy một con cá tuế.
“Chú rất vinh dự khi được gặp cháu, Joey à.” Decker đặt lại quyển sách lên kệ và bước ra ngoài, Milligan cũng nối gót theo.
“Chết tiệt,” Milligan nói. “Tôi không chắc tôi có thể mỉm cười thêm lần nữa.”
“Rồi cậu sẽ,” Decker bảo. “Nhưng hễ cảm thấy tệ về điều gì đó, hãy nghĩ đến Joey và rồi mọi chuyện sẽ trở nên tích cực hơn rất nhiều.”
Albert Drews tầm 40 và tự nói mình mắc ung thư tuyến tụy giai đoạn cuối. Anh nhìn xanh xao, gầy guộc, da vàng và nứt nẻ.
“Vào thời điểm các triệu chứng xuất hiện, đã quá muộn để cứu chữa,” anh nói sau khi nghe họ giới thiệu và trình bảng tên. “Hóa trị liệu, bức xạ đã giúp tống cái thứ quái ác đó ra khỏi cơ thể. Sau đó, bệnh tình tôi thuyên giảm. Được khoảng hai tháng thì căn bệnh quay lại như vũ bão, và giờ đây thành ra thế này.”
Anh dừng lại và bắt đầu thở một cách nặng nhọc như thể việc nói chuyện làm anh kiệt sức.
Khi hơi thở đã dịu lại, anh nói, “Thật may mắn khi các anh gặp tôi lúc này. Vì sau khi được tiêm thuốc giảm đau, tôi sẽ ngơ như cây cờ. Morphine. Tôi không thể hình dung tôi sẽ ra sao nếu không có nó. Các cơn đau… chà, không dễ chịu tí nào,” anh nói thêm với vẻ cam chịu.
“Tôi xin lỗi vì đã làm phiền, anh Drews,” Decker nói.
Drews bác bỏ, “Các anh thấy đấy, tôi chẳng có việc gì khác để làm ngoài việc nằm đây và chờ chết.”
“Tôi được biết rằng Anne Berkshire đã đến đây nói chuyện với anh hôm nay, có đúng thế không?”
“Vào sáng nay. Sao vậy?”
Decker quyết định nói ra sự thật. “Bà ấy đã bị bắn chết sáng nay tại D.C. không lâu sau khi rời khỏi chỗ này.”
“Sao?” Drews thở hổn hển, chống khuỷu tay bật dậy. Anh bắt đầu ho. Milligan rót một cốc nước từ cái bình trên bàn và giúp Drews
uống. Anh giận dữ nhìn Decker và lùi lại với chiếc cốc cạn nước trên tay.
Drews cuối cùng cũng bình tĩnh lại và nhìn chằm chằm họ một cách bất lực. Anh vừa thở hổn hển vừa nói, “Anne bị bắn ư? Như thế nào và tại sao lại thế?”
“Chúng tôi chưa rõ nguyên nhân. Và vì vậy mà chúng tôi đến đây.”
“Nhưng tôi không biết điều gì cả.”
“Thật ra anh có thể biết nhiều hơn mình nghĩ đấy,” Decker bảo. “Hai người đã nói gì hôm nay?
Lông mày nhíu lại, anh kể, “Bà ấy quả là một người phụ nữ tốt. Bà ấy bắt đầu đến thăm tôi vào khoảng bốn tuần trước. Chúng tôi chỉ nói… những chuyện linh tinh. Không có gì đặc biệt. Không có gì nghiêm trọng. Chỉ là những chuyện để giết thời gian và giúp đầu óc tôi quên đi… hoàn cảnh hiện tại.”
“Bà ấy có kể gì về bản thân mình không?”
“Thỉnh thoảng. Bà ấy bảo mình là giáo viên. Không kết hôn. Và cũng không có con cái.”
“Anh đã làm gì trước khi đổ bệnh?” Milligan hỏi.
“Tôi là kỹ sư phần mềm, làm việc cho một công ty công nghệ ở địa phương.” Đôi mắt anh khép lại và bắt đầu thở nặng nhọc hơn.
“Anh ổn chứ?” Milligan hỏi.
Drews mở mắt ra và cáu kỉnh gắt, “Không. Tôi không ổn chút nào! Tôi mắc bệnh ung thư, được chứ! Tôi đang chết dần!”
“Tôi thành thật xin lỗi, anh Drews à, tôi không có ý đó. Tôi xin lỗi,” Milligan ôn tồn giải thích.
Decker hỏi tiếp Drews, “Anh có bao giờ đề cập với bà Berkshire về công việc đã từng làm không?”
“Không hề. Thế thì có ích gì?”
“Chỉ tán gẫu thôi sao?”
“Không. Và chuyện đó như xảy ra từ đời thuở nào rồi. Tôi chẳng nhớ gì nữa.”
“Anh không lập gia đình.”
“Sao anh lại biết?”
“Anh không đeo nhẫn cưới, cũng không có dấu vết nào trên ngón tay cho thấy anh đã từng đeo nhẫn cưới.”
Một hồi sau anh trả lời vẻ cam chịu. “Tôi đã không gặp được người phụ nữ thích hợp, tôi đoán vậy.”
“Cha mẹ anh vẫn còn sống chứ?”
Drews lắc đầu. “Tôi có một đứa em trai. Nhưng nó đang sống ở Úc. Nó đến đây khi tôi đổ bệnh và ở lại được một khoảng thời gian. Sau đó, nó phải quay về. Nó có năm người con cần chăm sóc.” Drews dừng một hồi. “Tôi nghĩ nó sẽ quay lại vào lễ tang và sẽ là người thi hành di chúc của tôi. Rồi tôi sẽ được hỏa táng. Làm như vậy mọi thứ sẽ dễ dàng hơn rất nhiều.”
Drews nhắm mắt lại, môi anh rung rung. Nhưng rồi anh lại mở mắt ra và thở dài. “Các anh không thể tưởng tượng được rằng rồi sẽ có ngày các anh dám nói chuyện thẳng thắn về cái chết đang đến gần. Nhưng khi đã không còn lựa chọn nào, các anh phải… làm điều đó thôi.”
“Bác sĩ bảo thế nào?” Decker hỏi.
Drews nhún vai. “Một ngày nào đó, có thể là ngày mai cũng không chừng. Đôi khi tôi hy vọng ngày đó là ngày mai.”
“Chúng tôi rất tiếc vì đã làm phiền, anh Drews à. Chúng tôi rất trân trọng sự hợp tác của anh.”
Decker nhổm dậy, Drews chìa một tay ra và nhẹ nhàng nắm mấy ngón tay của Decker. Làn da của người đàn ông không khác gì đá lạnh.
“Anne thật sự rất tử tế. Bà ấy không cần phải đến đây và làm những việc này, nhưng bà ấy muốn đến. Tôi… tôi hy vọng các anh sẽ tìm ra được hung thủ giết bà ấy.”
“Chúng tôi đã tìm ra, anh Drews à,” Decker đáp. “Chúng tôi chỉ đang tìm hiểu lý do vì sao ông ta làm vậy.”
6
“Giáo viên dạy thay cơ đấy?” Decker nói.
Anh ngạc nhiên khi nhìn quanh căn hộ cao cấp của Anne Berkshire nằm ở tầng mái của một tòa nhà sang trọng đối diện Trung tâm Reston.
Milligan gật đầu. “Đó là thông tin trong hồ sơ của bà ta.”
“Cậu thông thạo nơi này hơn tôi, cậu nghĩ một căn như thế này sẽ đáng giá khoảng bao nhiêu?”
Milligan nhìn xung quanh. Căn hộ có nhiều cửa sổ dài, trần nhà cao, sàn gỗ cứng, với khoảng không gian rộng chừng 280 mét vuông được trang trí chuyên nghiệp, tầm nhìn bao quát cả khu vực và ban công riêng rộng rãi có bồn tắm nước nóng.
“Hai triệu đô-la, hoặc hơn.”
“Và người quản lý tòa nhà còn cho hay bà ta sở hữu một chiếc Mercedes SL600 đang đậu ở ga-ra tầng hầm.”
“Chà, nó phải ngốn hơn cả trăm ngàn đô-la đấy.” Milligan nói. “Thừa kế?”
“Tôi không biết. Đó là điều mà chúng ta cần phải điều tra đây.” “Bà ta làm giáo viên được bao lâu rồi?”
“Giáo viên thay thế được bốn năm rồi.”
“Còn trước đó thì sao?”
“Bà ta sống tại Atlanta khoảng ba năm.”
“Bà ta làm gì ở đó?”
“Không có thông tin về nghề nghiệp của bà ta tại đó, chỉ có địa chỉ.”
“Còn trước khi đến Atlanta?”
“Seattle.”
“Và cũng không có công việc gì tại đó luôn sao?”
“Không có thông tin gì mà ta biết.”
“Thế trước đó nữa thì sao?”
“Không tìm được bất kỳ điều gì khác về bà ta.”
“Hồ sơ của bà ta được ghi lại trong khoảng bao lâu?” “Tính tổng hết thì khoảng mười năm.”
“Nhưng bà ta đã gần 60 tuổi. Nghĩa là hồ sơ chỉ giúp chúng ta lần về khoảng thời gian bà ta ngoài 40. Còn trước đó thì sao?”
“Không có thêm bất cứ thông tin nào. Nhưng ta chưa có nhiều thời gian để tìm kiếm. Rồi sẽ có gì đó thôi. Và có thể nó sẽ lý giải được được chuyện tiền nong. Biết đâu bà ấy đã bị thương trong một vụ tai nạn và nhờ vậy mà nhận được khoảng tiền đền bù kếch xù. Hoặc có thể là nhờ một vụ kiện về hành vi bất cẩn khi hành nghề nào đó. Quỷ thần ơi, có khi nào bà ta trúng vé số.”
Decker có vẻ không được thuyết phục.
“Bà ấy thật sự sống rất ngăn nắp,” Milligan nhận xét.
“Tôi nghĩ cậu nên sử dụng thuật ngữ sống tối giản mới đúng,” Decker nói khi anh để ý thấy số đồ đạc ít ỏi. Anh bước vào phòng ngủ chính, nhìn vào phòng chứa quần áo.
“Bốn đôi giày, một vài chiếc ví và túi xách, không có một món đồ trang sức nào. Không có két an toàn nào để đồ trang sức luôn.” Anh nhìn Milligan. “Chúng tôi không được tính là giàu nhưng nếu áng chừng thì vợ tôi có khoảng 30 đôi giày, cũng tầm đấy ví và túi xách. Và cô ấy cũng có vài món trang sức.”
Milligan gật đầu. “Vợ tôi cũng vậy. Anh có nghĩ rằng Berkshire là dạng đặc biệt không, hay là còn lý do gì khác?”
“Tôi vẫn chưa nhìn thấy dù chỉ một tấm hình của bất kỳ ai. Kể cả Berkshire. Hoặc gia đình, hoặc bạn bè của bà ta. Tuyệt nhiên không. Nói đúng ra, toàn bộ nơi đây nhìn như phòng mẫu vậy. Tôi cá là bà ta đã mua căn hộ này với đầy đủ nội thất bên trong, và thậm chí không có một thứ gì ở đây là của bà ta.”
“Việc này nói lên điều gì?”
“Nghĩa là con người thật của bà ta không giống như những gì bà thể hiện ra ngoài.”
“Anh nghĩ Dabney thật sự biết bà ta?”
“Có thể lắm. Có phải bà ta đã được xác nhận rằng đang trên đường đến trụ sở FBI trước khi bị bắn không? Dựa vào vị trí lúc đó của bà mà tôi phán đoán vậy. Nhưng hiện tại chúng ta cần nhiều hơn là những phán đoán.”
“Chúng ta vừa được xác nhận rằng bà ta không hề có lịch gặp bất kỳ ai tại Hoover. Thêm nữa, du khách nếu muốn tham quan nơi này đều phải nộp đơn đăng ký trước một khoảng thời gian để Cục có thể tiến hành kiểm tra thông tin sơ bộ. Và không hề có bất kỳ lưu trữ nào về yêu cầu tham quan của bà ta.”
Decker ngồi lên giường và nhìn xung quanh căn phòng. “Bà ấy rời khỏi đây, đi đến viện an dưỡng và rồi xuống trung tâm thành phố. Thẻ tàu điện ngầm trong ví ghi nhận bà đã xuống tàu tại trạm dừng Federal Triangle khoảng 10 phút trước khi bị giết.”
“Và một camera giám sát đã ghi được hình ảnh bà rời khỏi trạm tàu này.”
“Sau đó, Dabney bắn chết bà ta.”
Milligan nhìn chằm chằm Decker. “Nếu ông ta cố tình lên kế hoạch bắn chết Berkshire, bằng cách nào ông ta biết được khoảng mấy giờ Berkshire sẽ tới đó? Hoặc làm sao đảm bảo bà ta chắc chắn sẽ đến đó?”
“Rất có khả năng ông ta là lý do Berkshire ở đó,” Decker gợi ý.
“Gì chứ? Ông ta đã trao đổi với Berkshire và yêu cầu bà gặp ông ta bên ngoài tòa nhà FBI?”
“Có thể.”
“Chúng ta đang kiểm tra điện thoại, email, tin nhắn, fax,… tất cả các cách liên lạc phổ biến, để kiểm tra xem họ có mối quan hệ nào với nhau không.”
“Họ có thể gặp mặt trực tiếp để bàn chuyện gặp nhau lần sau. Nếu là như vậy, chúng ta khó mà tìm được bất kỳ hồ sơ hay chứng cứ nào. Giả sử ông ta đã không lên kế hoạch để bà ta đến đó, chỉ có hai trường hợp giải thích hợp lý cho việc này. Rằng, bằng một cách nào đó ông đã biết bà chắc chắn sẽ đến đó—”
“—hoặc đơn thuần chỉ là sự trùng hợp,” Milligan dứt lời. “Và ông ấy cũng có thể dễ dàng giết một ai đó khác mà không phải Berkshire.”
“Nếu vậy thì động cơ là gì chứ? Tại sao lại phải giết một người lạ mặt theo một cách ngẫu nhiên như vậy? Hay là ông ta bị điên rồi?”
Milligan lắc đầu. “Tôi không có một manh mối nào.”
Decker bật dậy khỏi giường và cầm lấy chùm chìa khóa xe. “Hẳn là chìa khóa của chiếc Mercedes. Chúng ở trong ngăn kéo tủ đồ. Bắt đầu kiểm tra thôi.”
Chiếc Mercedes của Berkshire là một chiếc xe mui trần màu bạc, đậu tại một chỗ kín đáo gần thang máy. Decker dùng chìa khóa từ xa để mở cửa xe, và Milligan bắt đầu lục soát bên trong. Chiếc xe có khoảng không gian khá nhỏ, không đủ để một Decker cồng kềnh có thể dễ dàng di chuyển. Milligan chuyền cho Decker một tập tài liệu anh lấy ra từ hộp đựng găng tay và tiếp tục tìm kiếm.
Năm phút sau, Milligan rời khỏi xe và lắc đầu. “Không tìm thấy gì cả. Nghe mùi như thể nó chỉ mới được xuất xưởng.”
Decker cầm lấy phong bì Milligan vừa chuyển cho anh. “Giấy đăng ký có ghi chiếc xe chỉ mới ba năm tuổi. Kiểm tra đồng hồ đo quãng
đường xem.”
Milligan làm theo. “Khoảng hơn 8000 kilomet.”
“Nghĩa là bà ta rất hiếm khi lái nó. Tôi băn khoăn không biết bà ấy đi làm bằng cách nào. Phương tiện công cộng sao?”
“Không có một trạm dừng Metro nào có thể đi bộ được từ chỗ này và cũng không có trạm nào ở gần trường học của bà ta. Mà tại sao phải đi xe bus trong khi có thể cưỡi trên bé cưng này chứ?”
“Hãy thêm nó vào danh sách những câu hỏi đáng để tò mò và chưa có lời giải đáp thỏa đáng.”
Milligan đóng sập cửa xe và Decker khóa xe bằng khóa từ.
Milligan kiểm tra đồng hồ. “Trời tối rồi. Vậy tiếp theo chúng ta đi đâu?”
“Đến gặp một người đàn ông sắp chết khác,” Decker trả lời.
7
Từng nhịp thở đổ dồn thật chậm rãi như thể hơi thở tiếp theo cũng sẽ là hơi thở cuối cùng.
Thỉnh thoảng, Decker ngó xuống Walter Dabney, trong khi đầu óc quay về với cảnh tượng ban sáng khi bắt gặp người đàn ông này đi xuống phố, điệu bộ dường như vô ưu cho đến khi ông ta rút súng ra và bắn chết Anne Berkshire trước mặt Decker cùng hàng tá người đi đường khác. Trí nhớ không tì vết của Decker lướt qua từng chi tiết của chuỗi sự việc. Mặc dù vậy, khi đã đi đến đoạn cuối, anh vẫn không được khai sáng như anh hằng mong muốn.
Ellie Dabney vẫn không rời khỏi chiếc ghế mà bà ngồi từ nãy đến giờ. Milligan thì đứng cạnh cửa ra vào. Phía bên kia giường bệnh là Bogart và Jamison. Còn Ellie vẫn nắm chặt lấy tay chồng bà.
Decker đã hiểu rằng người đàn ông bị thương trầm trọng này không thể nói được gì. Thậm chí sẽ không bao giờ lấy lại được nhận thức.
Decker quỳ cạnh bên Ellie. “Bà Dabney này, khi chồng bà rời khỏi nhà vào sáng nay bà đã tỉnh giấc chưa?”
Bà gật đầu, rồi thả lỏng một chút tay nắm ông chồng. “Tôi pha một ít cà phê cho ông ấy. Sau đó thì ăn sáng. Trứng, thịt xông khói, khoai tây nướng và bánh mì nướng,” bà thêm vào và mỉm cười nhẹ nhàng. “Tôi chẳng bao giờ làm được món nào tử tế hơn cho ông ấy.”
“Ông Dabney dùng bữa có ngon miệng không?”
“Ông ấy ăn sạch sẽ và còn uống thêm ba cốc cà phê.”
“Bà chưa từng thấy một cây súng nào ư?”
Ellie lắc đầu. “Chiếc cặp táp của ông ấy luôn được đóng kín, tôi đoán là khẩu súng chắc ở đó, chỉ là tôi chưa bao giờ nhìn thấy. Như tôi đã trình bày với những đặc vụ khác, tôi không hề biết ông ấy có súng. Tôi chỉ biết chắc rằng ông ấy thậm chí còn chẳng thích chúng. Tôi chắc chắn là vậy. Khi bọn trẻ còn nhỏ, chúng tôi có một người hàng xóm, ông này có một khẩu súng. Một dạo, con chúng tôi qua nhà ông ta chơi. Ông ấy để khẩu súng đã được nạp đạn ở bên ngoài, một đứa trong đám con ông nghịch khẩu súng và không may bắn trúng chị nó. Thế là chị nó chết. Walter và tôi bị một phen choáng váng. Điều duy nhất tôi có thể nghĩ đến lúc đó chỉ là đứa bé thiệt mạng kia có thể là con chúng tôi.”
“Tôi hiểu. Chắc bà đã được hỏi về vấn đề này rồi, nhưng tôi vẫn muốn hỏi lại lần nữa. Vào sáng nay, chồng bà không hề tỏ ra buồn bã hay có bất kỳ biểu hiện nào ám chỉ rằng có điều gì đó bất thường sao?”
“Không gì cả. Ông ấy có một buổi họp cần phải tham dự. Tôi đoán đó là buổi họp với FBI. Tôi biết rằng hiện tại ông ấy đang làm một vài việc cho họ. Trước khi đi, ông ấy vẫn hôn tạm biệt tôi.”
“Nghĩa là không có bất cứ điều gì khác thường cả, đúng thế chứ?” Decker vẫn kiên trì hỏi.
Ellie hơi đơ người một ít. “Chà, nghĩ lại thì ông ấy đã không bảo sẽ gặp lại tôi vào bữa tối.” Bà nhìn Decker. “Ông ấy luôn nói sẽ gặp lại tôi vào bữa tối. Ý tôi là mỗi khi ông ấy ra ngoài mà không có hẹn trước, mà hôm nay tôi biết là không có.”
“Vậy là ông ấy đã không bảo sẽ gặp lại bà vào tối nay?” Decker bảo.
“Không.” Bà lắc đầu một cách chán nản. “Dù chỉ là một hành động nhỏ thôi nhưng nó luôn làm tôi cảm thấy… hạnh phúc. Tôi không hiểu tại sao mãi đến giờ tôi mới nghĩ đến chi tiết này.”
“Cũng dễ hiểu. Bà đang phải đương đầu với rất nhiều thứ, bà Dabney à.”
“Nghĩa là ông ấy đã biết trước ông sẽ không bao giờ quay về nhà nữa,” bà nói một cách trống rỗng. “Và tôi đã không phát giác được việc đó.” Thình lình bà giật nảy người. “Lạy Chúa tôi, giá như lúc đó tôi đã—” Trông bà như thể sắp bắt đầu nức nở.
Bogart bước đến gần, đặt tay mình lên tay bà và nói, “Không có việc gì bà có thể làm để ngăn việc này xảy ra đâu.”
Decker đứng dậy nhìn Bogart. Vị đặc vụ FBI lên tiếng, “Bà Dabney ạ, tôi biết có thể lúc này không phải lúc, nhưng chúng tôi bắt buộc phải cử một đội điều tra đến khám xét nhà bà. Chúng tôi cũng đang làm điều tương tự với văn phòng của chồng bà.”
Ellie không phản đối. Bà chỉ đơn giản gật đầu, siết chặt lấy tay chồng và bảo, “Các anh có biết khi nào Jules sẽ đến đây không?”
“Chuyến bay của cô ấy sẽ hạ cánh trong khoảng một giờ nữa. Chúng tôi đã cử người hộ tống cô ấy trực tiếp đến đây.”
“Cảm ơn,” bà nói đều đều.
Decker bước đến cuối góc phòng và ra hiệu để Bogart tới gần. Anh nói nhỏ, “Tôi muốn đến nhà và văn phòng của Dabney khi họ khám xét.”
Bogart gật đầu. “Todd sẽ ở đây với tôi. Anh có thể đi cùng với Alex. Có điều gì thú vị về Berkshire không?”
“Bà ta dành thời gian chăm sóc người hấp hối. Mọi người đều có điều gì đó tốt đẹp để kể về bà ta. Bà ta sống tại một nơi mà khó lòng tin rằng có thể trang trải được bằng đồng lương của một giáo viên thay thế. Căn hộ đó nhìn như không có ai từng ở vậy. Hơn nữa, chúng tôi cũng không tìm thấy thông tin gì về tiểu sử của bà kể từ mười năm về trước.”
“Nói tóm lại thì là kỳ lạ, đúng không?”
“Khác biệt, hay gì cũng được,” Decker nhấn mạnh.
“Cậu có nghĩ Dabney đã chọn bà ta là mục tiêu từ trước?”
Decker nhún vai. “Còn khá sớm để nói điều gì. Nhưng tại sao nạn nhân được lựa chọn ngẫu nhiên này cũng ngẫu nhiên có nhiều điều
bất thường trong cuộc sống cá nhân? Tôi không biết. Có thể là tình cờ, có thể là một manh mối để giải thích cái chết của bà ta.”
“Dựa vào điều gì mà anh cho là Dabney có mối liên hệ với bà ta cơ chứ?”
Decker nhún vai lần nữa. “Giả sử tài sản của bà ta là nhờ thừa kế hay một vụ kiện tụng nào đó, thì có thể mối liên hệ nằm ở đó, mặc dù tôi không biết nó có thể là gì. Đó có thể là vấn đề riêng tư giữa hai người họ.”
“Bà Dabney lại chắc chắn rằng chồng bà không hề biết Berkshire.”
“Nhưng tôi nhớ anh có bảo bà ấy không biết một chút gì về công việc kinh doanh của chồng mình. Nghĩa là nếu hai người đó có mối quan hệ làm ăn với nhau, bà ta có thể cũng sẽ không biết.”
“Nhưng có thể ai đó ở chỗ làm của ông ta sẽ biết,” Bogart gợi ý. “Chúng ta chỉ có thể hy vọng vậy thôi.”
Decker nhìn Jamison, lên tiếng, “Đi thôi nào.”
Văn phòng Walter Dabney và Cộng sự nằm tại khu Fairfax County Parkway, thuộc Reston, bang Virginia. Khu vực này là nơi đặt trụ sở của hàng loạt nhà thầu Chính phủ, từ những ông trùm trong ngành như Lockheed Martin cho đến những công ty một thành viên. Doanh nghiệp của Dabney không phải là một doanh nghiệp kếch xù nằm trong danh sách Fortune 500, nhưng khi Decker và Jamison bước vào quầy lễ tân sáng sủa, thông thoáng, và được trang bị nội thất hợp thời trên tầng thượng của một tòa nhà sáu tầng bóng loáng, hai người hiểu rằng Dabney đã xây dựng được một cơ ngơi thật sự thành công. Dù đã muộn, nhưng tin tức đã lan nhanh qua mạng thông tin địa phương và quốc gia, còn những người làm việc tại đây vẫn chưa đến giờ ra về. Họ tụ tập ở hành lang với vẻ mặt nhợt nhạt, hoang mang và buồn rầu.
Sau khi trình bảng tên, Decker và Jamison được một người phụ nữ trẻ hộ tống đến một phòng họp nhỏ. Lúc sau, một người phụ nữ gần 40 tuổi mở cửa bước vào. Cô cao khoảng một mét sáu lăm, với
vóc dáng của một người chạy bộ thường xuyên, mái tóc vàng ánh đỏ dài ngang vai, và một gọng kính vuông vức trên khuôn mặt đầy tàn nhang.
“Tôi là Faye Thompson, đối tác chính làm việc ở đây. Điều đó… điều đó có phải là sự thật không?”
Decker bảo, “Tôi e là vậy.”
“Walter vẫn còn…?”
“Ông ấy vẫn còn sống, nhưng tình hình không khả quan lắm,” Jamison trả lời.
Decker nói tiếp, “Chúng tôi muốn hỏi cô một vài câu hỏi.”
“Đương nhiên là được, mời ngồi. Hai người muốn uống gì không? Cà phê, nước?”
Jamison chọn nước, Decker thì cà phê đen. Thompson gọi cho mình một ly trà nóng.
Thức uống đã được chuẩn bị xong, cánh cửa đóng lại phía sau người trợ tá, Decker nhấp một ngụm cà phê và bảo, “Hãy kể chúng tôi nghe về Walter Dabney.”
Jamison móc ra từ túi một chiếc máy thu âm nhỏ và đặt lên bàn. “Cô có phiền nếu tôi ghi âm không?”
Thompson lắc đầu và ngồi xuống. “Tôi không biết nên bắt đầu từ đâu. Walter là một người tốt. Tôi gia nhập công ty ngay sau khi tốt nghiệp được một năm. Tôi đã ở đây làm gần 15 năm rồi, 8 năm trước thì trở thành đối tác. Ông ấy là một người thầy tuyệt vời và là một người bạn của tôi. Và cũng là người đàn ông tốt nhất mà tôi từng gặp. Tôi không thể tin nổi vào chuyện đã xảy ra.”
“Nghĩa là cô chưa từng thấy điều gì lạ lùng có thể giải thích được hành động của ông ta?” Decker hỏi.
“Việc Walter đã bắn chết ai đó trên phố? Không. Không đời nào. Chuyện đó với tôi là điều không tưởng.”
“Chúng tôi biết ông ta đã đi đến trung tâm thành phố vào sáng nay để tham dự một cuộc họp tại FBI. Cô có biết chuyện đó không?”
“Có. Chúng tôi đang đảm nhiệm công tác tư vấn cho Cục trong một vài dự án. Chúng tôi cộng tác với vài nhà thầu chính, gửi đi các chuyên gia để Cục có được nguồn nhân lực tốt nhất. Nhờ vậy họ có thể đảm bảo hiệu quả công việc ở mức độ tối ưu.”
Decker bảo, “Một lời chào hàng kiểu mẫu.”
Thompson nhìn chằm chằm anh với vẻ thách thức. “Và cũng là sự thật. Chúng tôi được đánh giá rất cao trong ngành của mình. Uy tín của chúng tôi là không cần bàn cãi.”
“Vậy là ông ta đã không đến văn phòng vào hôm nay?” Decker hỏi.
“Tôi không để ý đến chuyện đó. Chúng tôi bắt đầu làm việc chính thức từ 8:30. Nhưng bất kỳ ai có thẻ chìa khóa đều có thể ra vào tùy ý.”
“Nhưng nếu ông ấy có đến thì hệ thống an ninh sẽ ghi nhận, đúng không?”
“Vâng. Tôi có thể kiểm tra.”
“Cảm ơn cô. Ông ấy có đến văn phòng vào hôm qua không?” Decker hỏi.
“Có. Tôi có gặp ông ấy. Lúc đó, tôi vừa đi công tác nước ngoài về và gặp để cập nhật tình hình công việc. Tôi vẫn đang bị hội chứng lệch múi giờ đây. Giờ thì còn chuyện này nữa.”
“Công tác nước ngoài là ở đâu?”
Cô mím môi. “Điều đó thì liên quan gì đến vụ án?”
“Có thể là không. Nhưng tôi muốn có cái nhìn toàn diện.”
Thompson vẫn không rời mắt khỏi Decker trong khi nhấp một ngụm trà. “Vùng Trung Đông. Tôi chỉ có thể nói được như vậy.”
“Có bất kỳ dự án nào ông ấy đang đảm nhiệm có thể giải thích được sự việc xảy ra sáng nay không?”
“Tôi nghi ngờ khả năng đó. Và tôi thật sự không cho là như vậy. Hầu hết các dự án của chúng tôi đều là tuyệt mật. Và đa phần những người làm việc ở đây cũng như tất cả đối tác của chúng tôi đều có quyền miễn trừ an ninh mức cao nhất. Anh được miễn trừ an ninh ở cấp độ nào?”
“Thậm chí còn không có hệ thống an ninh nào tại nơi tôi sống.”
Thompson nhướng chân mày và liếc nhìn Jamison. “Thế còn gì khác mà hai người muốn biết không?”
Jamison hỏi tiếp, “Ngày hôm qua, ông ấy như thế nào? Bình thường? Hay lo lắng?”
“Bình thường.”
“Hoàn toàn không có gì gợi sự nghi ngờ trong cô hay sao?” “Ví dụ như việc gì?”
Decker nói, “Những cụm từ khác thường. Trạng thái kích động. Hoặc không được tập trung.”
“Không, không có gì tương tự.”
“Có thể ông ấy đã sử dụng ma túy?”
Sắc mặt cô biến đổi. “Walter ư? Tuyệt nhiên không có. Tôi chỉ thấy ông ấy thỉnh thoảng uống một cốc rượu thôi.”
“Có phải ông ấy là người duy nhất trong công ty cô tham gia cuộc họp ngày hôm nay không?” Decker hỏi.
“Phải. Walter nắm rõ mặt kỹ thuật của doanh nghiệp chúng tôi không thua kém bất kỳ ai ở đây. Nhưng cuộc họp ngày hôm nay mang tính cấp cao chiến lược. Walter thường vẫn tham dự một mình, nhất là trong những dịp ông ấy cần gặp gỡ với những người đứng đầu bên phía khách hàng.”
“Có bất kỳ điều gì bất thường trong hành vi của ông ấy trong một tháng gần đây không?” Jamison hỏi.
“Không hẳn. Ý tôi là không có điều gì đáng phải chú ý.”
“Vợ ông ta bảo rằng Dabney đã thực hiện một chuyến đi không dự định khoảng một tháng trước. Và sau khi quay về, ông cũng không bảo lại với bà rằng ông đã đi đâu. Và đối với bà, kể từ thời điểm đó trở đi ông ta dường như đã thay đổi.”
Thompson nghe vậy ngạc nhiên. “Một tháng trước sao? Tôi không biết ông ấy đã đến đâu. Nếu đó là chuyến công tác do người của chúng tôi lên lịch, họ ắt hẳn đã lưu trữ thông tin.”
“Chúng tôi rất cảm kích nếu như cô kiểm tra giúp cho,” Jamison bảo.
“Tất nhiên là được.” Cô móc điện thoại ra và soạn tin nhắn. “Xong rồi. Họ sẽ báo lại với tôi sớm nhất có thể. Tôi sẽ nhắn cho hai người.”
Decker đứng dậy đi vòng quanh phòng trong khi Thompson quan sát anh.
“Công ty này quả thật rất thành công,” Decker nhận xét.
“Chúng tôi làm việc rất chăm chỉ, và đúng vậy, công sức cuối cùng đã được đền đáp. Chúng tôi vừa nhận được hai hợp đồng lớn mà chỉ riêng chúng thôi cũng đã đem lại gấp đôi tổng doanh thu năm trước.”
Decker nhìn cô. “Và nếu không có Dabney, chuyện gì sẽ xảy ra với doanh nghiệp này?”
Thompson nhìn mông lung. “Chúng tôi là một doanh nghiệp hợp danh trách nhiệm hữu hạn, nhưng Walter là một thành viên hợp danh nắm giữ đa số cổ phần. Tôi chắc cũng có các điều khoản văn bản liên quan trong trường hợp ông ấy… ông ấy qua đời, nhưng ngay lúc này thì tôi không biết được. Có thể cố vấn nội bộ của chúng tôi biết rõ hơn.”
“Chúng tôi cần những văn bản đó,” Decker bảo.
“Những tài liệu này có liên quan đến lý do tại sao ông ấy lại làm vậy không?” Thompson hỏi.
“Tất cả đều liên quan cho đến khi chúng không còn liên quan nữa,” Decker trả lời.
Điện thoại anh rung lên. Anh đọc tin nhắn và gật đầu với Jamison. Cô đứng dậy và cất máy ghi âm vào túi. “Cảm ơn, cô Thompson. Chúng tôi sẽ giữ liên lạc.”
“Và xin đừng quên kiểm tra xem ông Dabney có đến đây vào sáng sớm hôm nay hay không?” Decker bảo.
Cô trả lời ngắn gọn, “Tôi có trí nhớ rất tuyệt vời, đặc vụ Decker.” “Tôi cũng vậy đấy,” Decker trả lời. “Tôi sẽ ghi dấu việc này.” Họ bước ra ngoài đến khu vực thang máy.
“Có chuyện gì vậy?” Jamison hỏi.
“Dabney đã chết.”
“Ôi trời. Dù sao thì điều này cũng không ngoài dự tính.” “Nhưng ông ấy đã lấy lại được nhận thức trước khi chết.” “Ông ấy có nói gì không?” Cô phấn khởi hỏi.
“Có.”
“Nói gì?” Jamison hỏi dồn.
“Có vẻ là một chuỗi từ hoàn toàn vô nghĩa đối với mọi người ở đó.”
“Vô nghĩa ư? Bởi vì tổn thương não?”
“Chà, từ kinh nghiệm của một người đã từng bị tổn thương não, tôi có thể đảm bảo rằng lời nói vô nghĩa đối với một người lại là sự khai sáng đối với một người khác.”
8
Mười hai lần. Decker đã nghe đoạn băng ghi âm lời trăn trối của Dabney cả tá lần như vậy nhưng vẫn chưa có gì giúp anh phát hiện ra manh mối. Không có khai sáng. Một tia sáng le lói cũng không.
Anh đang ngồi trong văn phòng thuộc tòa nhà Hoover nhìn chằm chằm vào máy ghi âm. Đối diện là Jamison và Milligan.
Milligan với chiếc cà-vạt nới lỏng, dáng người đứng thẳng mọi khi chùng xuống đôi chút. Anh ngồi phịch xuống ghế và bảo, “Chúng ta có ngồi nghe thêm mười năm nữa thì đoạn băng này vẫn chẳng có ý nghĩa gì. Gã này đã tự bắn bay mất một phần não. Ông ấy đã mất khả năng tư duy logic, Decker. Việc chúng ta đang làm thật không có nghĩa lý gì.”
“Bà Dabney có mặt lúc đó không?” Decker hỏi.
“Có. Ở đó cho đến phút cuối cùng.”
“Và câu nói ấy cũng chẳng có ý nghĩa gì với bà ấy sao? Có thể có điều gì đó chỉ mỗi bà ấy hiểu? Một thứ gì đó riêng tư giữa hai người họ?”
“Chà, bà ấy bật khóc dữ dội khi ông ta bắt đầu nói, thật sự khá khó để biết bà ấy có nghe rõ những gì Dabney nói hay không. Chúng tôi còn phải lọc tiếng nức nở của bà ấy ra khỏi đoạn ghi âm.”
“Nhưng từ lúc bà ấy ổn định lại thì sao?” Decker kiên trì hỏi. “Vẫn không có gì à?”
Milligan trả lời, “Tôi cho rằng bà ấy đã nghĩ Dabney có thể ngồi dậy và bắt đầu nói chuyện với bà. Nhưng rồi Dabney tắt thở. Những
chiếc máy cứ như phát cuồng, đội cứu trợ y tế khẩn cấp chạy vào với hy vọng có thể hồi sức cấp cứu cho ông ấy, nhưng đã quá muộn. Ông đã qua đời.”
Ross Bogart bước và ngồi đối diện Decker. “Có điều gì mới không?” Anh hỏi.
Decker trả lời, “Cho đến giờ thì nạn nhân đáng quan tâm hơn là kẻ giết người. Bà ấy sống trong một căn hộ hàng triệu đô-la và sở hữu một chiếc xe trị giá cả trăm ngàn nhưng lại ít khi dùng đến, tất cả có được từ tiền lương của một giáo viên thay thế. Và khi anh tìm về hồ sơ mười năm trước, không hề có một ghi chép nào về một Anne Berkshire.”
“Anh đề cập đến việc này trước đó rồi. Một sự trùng hợp đáng ngờ, như anh nói, khi giả sử rằng bà ta là một nạn nhân được lựa chọn ngẫu nhiên.”
“Có thể bà ta đã thay tên đổi họ.” Jamison gợi ý. “Đó cũng có thể là lý do tại sao chúng ta không thể tìm thấy thông tin nào từ mười năm về trước.”
“Tôi nghĩ rõ ràng bà ta đã thật sự thay đổi tên họ,” Decker bảo. “Câu hỏi lại quay về lý do tại sao.”
Bogart bảo, “Anh từng nghĩ bố mẹ Melvin Mars đã ở trong Chương trình Bảo vệ Nhân chứng. Có thể bà Berkshire cũng vậy.”
“Chà, chúng ta cần phải điều tra cho ra. Nếu trước đó bà ta đúng là có một danh tính khác thì con người đó có thể có mối quan hệ với Dabney. Và mấu chốt này rất có thể sẽ giải thích được vì sao ông ta nhắm vào bà để ra tay.”
“Tôi sẽ tìm người xử lý này,” Bogart đáp. Anh đứng dậy và rời khỏi phòng.
Jamison nói với Milligan, “Theo tôi biết thì đội chúng ta đã chính thức chuyển từ Quantico đến văn phòng Washington tại D.C.”
“Đúng như vậy.”
Decker thôi nhìn chằm chằm chiếc máy ghi âm, quay sang liếc nhìn Milligan. “Chuyển đến Văn phòng Washington sao?”
Milligan bảo, “Vì chúng ta không còn đảm trách những vụ nguội, nên đã được luân chuyển từ Quantico sang Văn phòng Washington. Đó là một sự thăng tiến. Cấp cao hơn, trân trọng thành quả công việc của chúng ta hơn.”
Decker đáp, “Khoan đã, nghĩa là chúng ta sẽ không thể sống ở Quantico nữa?”
“Anh không muốn đi làm xa mỗi ngày đúng không?” Milligan bảo. “Xa lộ Liên bang 95 đúng là ác mộng đấy. Tôi thật may mắn khi sống tại Springfield. Tôi vẫn đi ngược chiều giao thông mỗi ngày. Bây giờ tôi chỉ phải chuyển sang luồng giao thông hướng lên phía bắc. Ross thì đã ở D.C. đó giờ. Vì vậy, đường đi làm của anh ấy chắc sẽ dễ dàng thôi.”
Decker bảo, “Tôi không có nơi nào khác để ở.”
Jamison lên tiếng. “Thật buồn cười khi anh đề cập chuyện này.” “Tại sao lại buồn cười?” Decker trả lời vẻ gay gắt.
“Tôi đã định nhắc anh chuyện này vào một thời điểm nào đó, khi đúng lúc. Nhưng lại một lần nữa, điều này diễn ra thật tình cờ.”
“Cô đang nói cái quỷ gì vậy Alex?” Decker hỏi với giọng thật sự bực bội.
“Được thôi, anh không được bực đấy nhé.”
“Tôi đang bực rồi đấy.”
“Thật ra tôi đang làm một công việc khác ở ngoài.”
Milligan nở nụ cười và nói, “Sao cơ, làm việc cho FBI là chưa đủ à?”
“Một công việc khác sao?” Decker bảo.
“Có một tòa nhà tại Anacostia.”
“Một tòa nhà,“ Decker thốt lên.
“Vâng, ờ, nói thật lòng thì, vài tháng gần đây tôi đang săn lùng một tòa nhà cần được trùng tu. Và tôi đã tìm được một tòa như ý.”
“Gần đây cô đang tìm kiếm một tòa nhà sao?” Decker ngơ ngác hỏi. “Tôi không cần một tòa nhà. Tôi chỉ cần một phòng. Phòng nhỏ thôi. Nhưng trước hết, tại sao cô lại đi tìm nhà vậy?”
“Như một khoản đầu tư thôi. Một cách làm việc tốt nữa.” “Và giờ cô mới đề cập đến việc này?”
“Chà, tôi đã định bảo anh từ sớm rồi đấy chứ. Gần đây, chúng tôi mới chốt.”
“Chúng tôi mới chốt? Chúng tôi gồm những ai cơ chứ?” “Chà, đúng hơn là anh ấy đã chốt.”
“Cô đang nói về người nào vậy?” Milligan hỏi.
“Chờ tí,” Decker bảo. “Cô làm gì có tiền để đầu tư cho một tòa nhà. Cô cứ than phiền mãi rằng cô không thể chi trả nổi tiền xăng xe.”
“Chà, cảm ơn anh đã quan tâm tôi,” Jamison nói trong khi liếc nhìn Milligan một cách ngượng ngùng. “Nhưng tôi chỉ là người đại diện của anh ấy thôi.”
“Người đại diện của ai chứ?” Milligan hỏi.
Nét mặt của Decker như chùng cả xuống ngay khi nhận ra sự thật. “Melvin chứ còn ai vào đây.”
“Melvin?” Milligan hỏi. “Melvin Mars?”
Decker chĩa ánh nhìn trực diện về phía Jamison. “Anh ấy đã mua một tòa nhà sao? Sử dụng khoản tiền từ vụ thương lượng với Chính phủ?”
Jamison gật đầu. “Đúng vậy. Anh ấy đã mua. Nhưng tôi mới là người tìm ra nó.”
“Việc này xảy ra từ khi nào thế?” Milligan hỏi.
“Melvin có một số vốn nhưng không biết phải làm gì với nó. Vì vậy, tôi đã gợi ý nên đầu tư gì đó vừa tạo ra tiền vừa có thể giúp người khác, đó là điều mà anh ấy luôn mong muốn.”
“Làm thế nào mà mua một ngôi nhà lại có thể giúp ích cho người khác?” Milligan hỏi.
“Thì tòa nhà đã, chà, có nhiều người thuê rồi. Và họ trả tiền thuê nhà.”
“Rồi sao nữa?” Milligan hỏi. “Vợ tôi và tôi cũng đóng tiền nhà. Nó không giống như một khoản nhỏ dễ chi trả. Rất ư là đắt đỏ.”
“Nơi này có hơi khác một tí. Chúng tôi mua được nó với giá khá hời. Mặc dù nó cần được tu sửa một ít, nhưng không sao, chúng tôi vẫn đủ khả năng cho những người khó khăn thuê.”
“Ý cô là nó giống như dạng nhà thuê cho người thu nhập thấp,” Milligan bảo.
“Gần như vậy, nhưng không phải kiểu anh ấy được yêu cầu làm điều này theo luật. Melvin làm vì anh ấy chỉ không quan tâm đến việc lấy lại được khoản tiền khủng từ việc cho thuê như những chủ nhà khác. Anh ấy chỉ thu lại một khoản hợp lý mà những người đáng lẽ ra không đủ khả năng thuê nhà có thể trả. Một tình thế đôi bên cùng có lợi thôi.”
“Nghĩa là chỗ này đã có người thuê,” Decker hỏi. “Nhưng như vậy thì tôi sẽ ở đâu?”
“Trong tòa nhà. Tầng trên cùng. Rồi anh sẽ có một căn phòng. Và tôi cũng vậy. Chúng ta cũng có nhà tắm riêng, một văn phòng và một nhà bếp lớn, phải nói là thật sự rộng rãi.”
Decker chỉ biết nhìn chằm chằm cô.
Cô gấp gáp thêm lời, “Tôi đã không biết chúng ta phải di chuyển từ Quantico đến D.C., mặc dù vậy tôi luôn nghĩ rằng chúng ta có thể sống ở D.C. Nếu chúng ta tiếp tục làm việc tại Quantico, chúng ta sẽ đi ngược luồng giao thông. Giờ thì lại tiện quá rồi.”
“Ý cô là rồi chúng ta sẽ sống chung?“ Decker chậm rãi hỏi lại, rõ ràng anh đã không hề lắng nghe những lời cô ấy vừa nói.
“Ôi, tôi có nói sống chung đâu. Chúng ta sẽ là bạn cùng nhà. Như kiểu ở trường đại học vậy.”
“Bạn cùng nhà hồi đại học của tôi là một kẻ thích bắt nạt.” Decker bảo. “Hắn bừa bộn, kinh tởm. Nhưng mà, hắn là một gã đàn ông.”
“Chà, xin lỗi nhé, tôi là một cô gái, nhưng tôi còn biết nấu ăn, rồi sao nào?” Jamison hỏi vặn lại.
“Cô có thể nấu ăn?” Decker hỏi lại với giọng điệu nghi ngờ. “Ừ thì, một ít.”
Anh vẫn không ngừng nhìn chằm chằm vào cô.
“Tôi có thể quay lò vi sóng mọi thứ,” cô cáu kỉnh đáp lời. Decker nhắm mắt, không nói thêm gì.
Jamison tập trung về phía Milligan. “Và điều tốt nhất là, Melvin cho phép Amos và tôi ở đó miễn phí, nếu trông coi công việc ở đó giúp anh ta.” Cô thêm lời, “Bên cạnh công việc của chúng ta tại FBI.”
Decker mở mắt ra, đáp lời một cách chắc nịch, “Tôi sẽ không trông coi tòa nhà. Tôi thậm chí còn không biết mình có muốn bạn cùng phòng không. Quá nhiều thay đổi cùng lúc,” anh nói bằng một giọng điệu khó chịu.
“Nhưng tôi đã bảo với anh ấy rằng chúng ta sẽ giúp trông nom tòa nhà, Decker à. Tôi đã hứa với Melvin.”
“Thế thì cô làm đi.” Decker trả lời. “Một công việc đã đủ nhiều với tôi rồi.”
Cô nhìn Decker với vẻ dò xét. “Được rồi, nếu anh muốn tự tìm một chỗ ở cho riêng mình thì cứ việc. Nhưng hãy nhớ rằng D.C. là một trong những thị trường bất động sản đắt đỏ nhất ở đất nước này. Anh không có xe, vậy nên cũng chẳng ở xa rồi đi đi lại lại hàng ngày được đâu. Thành ra, anh sẽ cần vay tiền để thuê nhà, có thể lắm. Tôi chỉ nói thế thôi.”
Decker tiếp tục nhìn chằm chằm cô.
Jamison bảo, “Này, tôi có thể thương lượng với những người thuê nhà, như vậy ổn chứ? Và thu xếp những thứ khác nữa. Anh sẽ không phải làm gì mấy đâu.”
Milligan bảo, “Coi bộ đây là một thỏa thuận anh không thể từ chối rồi, Decker.”
Decker không nói gì thêm trong một khoảnh khắc. “Ít nhất tôi có thể đến xem xét chỗ đó trước khi quyết định không?”
“Tất nhiên là được. Chúng ta có thể đến đó luôn. Tôi cá là anh sẽ thích nó thôi. Nó tuyệt lắm.”
“Đó có phải cách nói khéo cho việc cần nhiều sửa chữa không?” Anh hỏi.
“Nó chỉ cần một tí sửa chữa thôi,” cô thừa nhận. “Nhưng Melvin đã nhờ tôi thuê chuyên gia đến để giải quyết.”
Decker lại nhìn chằm chằm Jamison, “Còn điều gì khác mà cô chưa nói tôi nghe không?”
“Tôi không nghĩ vậy,” Jamison bảo, cố gắng né ánh mắt anh. “Đó không phải là một phản hồi tự tin,” anh đáp với vẻ gắt gỏng.
9
Decker nhìn chằm chằm vào tòa nhà dưới ánh trăng.
Jamison đứng bên cạnh, quan sát kĩ càng người bạn của cô.
Sau một hồi, Decker quay lại nhìn cô, cô lại quay mặt đi. “Nhìn này, đây là toàn bộ những gì tôi đã bảo với anh,” cô vừa bảo vừa mỉm cười nhìn về phía mặt đường nhựa.
“Rồi lại có một số thứ khác nữa,” Decker gọn lỏn đáp lời.
Tòa nhà từng là một nhà kho bằng gạch cũ kỹ với những cửa sổ lớn; Jamison đã cho anh biết rằng tòa nhà đã được ngăn cách ra thành nhiều căn hộ nhỏ. Decker hít một hơi thật sâu, mùi con sông Anacostia gần đó lấp đầy phổi anh. Một bên của nhà kho là tòa nhà bỏ hoang. Bên còn lại là một đống đổ nát. Bên con phố đối diện là một dãy nhà nhìn như đã khoảng một trăm tuổi đời. Chúng thật sự chỉ dựa vào nhau mà đứng và trông như bị bỏ hoang không người ở.
Bãi giữ xe của nơi từng là nhà kho dường như có nhiều vết nứt hơn cả mặt đường, và cỏ mọc đầy khe hở. Hàng rào dây xích cũ bao phủ quanh tòa nhà đã bị đứt tại nhiều chỗ, cổng cũng không còn, chỉ còn sót lại những tấm bản lề gỉ sét. Có một vài chiếc xe đang đậu trong bãi. Chiếc mới nhất cũng đã 20 tuổi. Hai trong số đó dùng túi rác nylon và keo dính để che đậy những cửa sổ vỡ.
“Melvin đã thấy nơi này rồi chứ hả?” Anh hỏi.
“Anh ấy đã nhìn hình. Anh ấy nhờ tôi tìm kiếm, và tôi đã làm. Cuối cùng thì được nơi này.”
Decker liếc nhìn cô. “Thế cô đã ‘kiếm’ trong bao lâu thế?”
“Melvin không muốn một tòa nhà trong khu vực sang trọng, Decker à, mặc dù anh ấy hoàn toàn có đủ khả năng chi trả. Anh ấy muốn một nơi mà tại đó anh ấy có thể tạo ra sự thay đổi. Giá thuê những chỗ này thường ở mức khá thấp so với giá thị trường. Mọi người sống ở đây đều có công việc cả. Hầu hết còn làm nhiều việc cùng lúc. Họ chăm chỉ làm ăn vì ai cũng muốn có cuộc sống tốt đẹp hơn cho bản thân và gia đình. Đây quả thật là một nơi khá. Trong khoảng cách có thể đi bộ được, hàng tá nhà hàng đang mọc lên, tất cả đều là các mô hình kinh doanh gia đình. Cũng có nhà thờ và công viên và…” Giọng cô nhạt dần khi thấy Decker không phản ứng gì trước những điều cô nói.
Jamison nói thêm, “Thế anh có thích nơi này không? Tôi biết chắc chắn nó không phải Taj Mahal.”
“Tôi đã từng sống trong thùng carton tại bãi đậu xe Walmart, sau đó là một phòng nhỏ ở một nhà trọ. Nên nếu ở đây có nhà vệ sinh riêng thì rõ ràng là một bước tiến rồi.”
“Thế được hả?” cô hỏi lại với giọng ngập ngừng. “Nghĩa là anh hài lòng với chỗ này?”
“Có hết thảy bao nhiêu người thuê nhà?”
“Đã cho thuê 15 phòng rồi. Có hai người độc thân. Còn lại đều đã có gia đình.”
“Cô đã gặp tất cả bọn họ?”
“Vâng. Tôi sẽ không đề xuất với Melvin nếu không đảm bảo đã thẩm định kỹ lưỡng. Anh ấy muốn dùng tiền vào việc tốt, nhưng không phải vì vậy mà tôi sẽ dồn anh ấy vào tình thế mất sạch khoản đầu tư. Và tòa nhà này có khung sườn tốt. Một khi phần còn lại tu sửa xong, mọi thứ sẽ rất tuyệt. Và xung quanh khu vực này, mặc dù tôi thấy nó vẫn chưa ổn lắm, nhưng tất cả đang bắt đầu thành hình. Như tôi có nói đấy, nhà hàng sẽ được mở, những tòa nhà tương tự như tòa nhà này sẽ được sửa sang. Ôi, toàn những thứ đầy triển vọng.”
“Và rồi giá nhà sẽ tăng thôi, thuế cũng vậy. Những cư dân mà hai người đang cố gắng giúp đỡ rồi cũng sẽ không thể chi trả nổi nữa.”
“Chà, chúng tôi sẽ không tăng giá thuê nhà đâu. Vì chúng tôi đã thỏa thuận với chính quyền địa phương rồi. Họ đang cho phép Melvin hưởng chính sách giảm thuế và các khoản ưu đãi khác để anh ấy có thể giúp đỡ cho những người thật sự cần.”
“Chính sách giảm thuế và các khoản ưu đãi sao? Chính xác là cô làm những thứ này vào khi nào?”
“Trong thời gian rảnh rỗi thôi. Tôi biết tôi là một nhà báo trước khi chúng ta gặp nhau, Decker. Nhưng trái tim tôi lúc nào cũng hướng đến những việc như vậy.”
Decker gật đầu và quay nhìn lại tòa nhà. “Thế chúng ta rồi sẽ ở đâu đây?”
“Như tôi nói, ở tầng trên cùng. Khung cảnh tuyệt vời. Và đã xây xong.”
“Nó đã có nội thất chưa, hay chúng ta phải sắm?”
“Tôi đã tự ý trang trí một số thứ. Nếu anh không ưng, chúng ta luôn có thể bắt đầu lại từ đầu.”
“Nơi đó có chỗ để ngồi và chỗ để ngủ không?”
“Có chứ.”
“Thế thì ổn với tôi.”
“Anh có muốn đi vào trong xem thử không?”
Anh ra hiệu cho cô dẫn đường.
Jamison bấm mật khẩu trên một chiếc hộp nằm gần cửa ra vào và đẩy cửa. Decker theo sau cô đến chân cầu thang.
“Phải leo lầu,” cô giải thích. “Không có thang máy.”
Đi bộ được sáu lầu, họ đã đến nơi. Jamison mở cửa trong khi Decker dựa lưng vào tường và thở dốc. Cô quay lại nhìn anh.
“Tôi nghĩ rằng anh có tập luyện chứ,” cô bảo.
“Tôi vừa tập đấy thôi.”
Anh theo chân cô bước vào và dừng lại. Trần nhà cao khoảng sáu mét, lộ ra ngoài các thanh kim loại và cột bê tông dùng để làm khung chống đỡ cho cả tòa nhà. Tất cả đều được sơn đen. Không gian rộng mở, với một khu vực tiếp khách rộng rãi nằm gần cửa sổ cao tầm 3,6 mét, và một nhà bếp hiện đại với các thiết bị bằng thép không gỉ cùng quầy bếp bằng đá hoa cương. Có hai phòng ngủ lớn với nhà tắm riêng. Hướng ngược lại có một phòng làm việc lớn, nơi đặt bàn làm việc, kệ sách và cửa sổ với cánh cửa bằng gỗ. Ngoài ra, còn có một laptop đã được để sẵn trên bàn.
“Đây là phòng làm việc của anh. Chỗ của tôi nằm ở gian bên cạnh. Bên đó còn có cả bồn tắm Jacuzzi.” Cô thêm lời, chỉ thẳng vào cánh cửa phía bên trái. “Và một phòng xông hơi. Nhưng tôi vẫn chưa từng thử dùng cái nào. Tôi không chắc chúng có hoạt động tốt hay không.”
“Trời ạ, Jamison,” Decker bảo. “Khi cô miêu tả chỗ này chỉ cần thêm chút sửa chữa, tôi đã không ngờ nó lại như vậy!”
Cô nhìn anh có chút tội lỗi. “Đây là căn hộ của người chủ cũ. Ông ta dồn hết tiền vào không gian này, những chỗ khác toàn đồ rẻ thôi. Các căn hộ còn lại không như thế này đâu.”
“Chuyện gì đã xảy ra với ông ấy?”
Cô nhìn có vẻ lo lắng. “Tôi nghĩ mình không nên nói ra.” “Tại sao lại không nên?”
“Đơn giản là không nên thôi.”
“Alex!”
“Được rồi. Ông ta đã bị bắn tại bãi đỗ xe bởi một tên buôn ma túy mà ông đã lừa tiền.”
“Bắn nghĩa là chết rồi hả?”
“Chà, đúng vậy. Tôi nghĩ nói thế là đủ hiểu rồi.”
Decker nhìn quanh. “Có phải ông ta đã dùng số tiền đáng lẽ phải trả cho tên buôn thuốc để xây nên nơi này không?”
“Không rõ nữa. Nhưng tôi không lo lắm. Ý tôi là, chúng ta không phải người nợ tiền tên buôn ma túy đó.”
“Nghĩa là tên đó vẫn chưa bị bắt?”
“Chà, cảnh sát đã nhảy vào điều tra, nhưng vì không có nhân chứng nào đến làm chứng nên họ phải thả hắn đi. Tòa nhà bị phá sản và rồi Melvin mua nó. Anh ấy đã mua được với giá rất hời, thật sự rất hời. Rõ ràng là cũng không có nhà thầu nào khác cạnh tranh.”
“Ngạc nhiên làm sao,” Decker đáp.
“Nhưng anh thích nó mà hả?”
“Ừ, tôi thích. Không nghi ngờ gì, đây là cung điện đối với tôi nếu đem so với những chỗ tôi từng ở trước đó.”
“Tôi đã mang đồ đến rồi. Anh có thể chuyển đến đây bất cứ lúc nào.”
“Tất cả tài sản của tôi gói gọn trong một chiếc túi, nên việc chuyển nhà hiển nhiên không có gì to tát.”
Cô dang rộng hai tay. “Chào mừng đến với ngôi nhà mới của chúng ta, bạn cùng nhà.”
Trước khi bắt tay cô, Decker bảo. “Nhớ sắm thêm vài cái khóa cho cửa ra vào.”
10
Buổi sáng hôm sau, Decker chớp mắt choàng tỉnh dậy, lướt mắt nhìn khung cảnh lạ lẫm xung quanh.
Nói cho đúng thì cũng không mấy xa lạ. Chỉ là một căn hộ mới. Một nơi rộng lớn, và không phải là thùng carton. Nhưng ở chung với những người thuê khác. Không chừng một tên buôn ma túy chết tiệt
nào đó đang rình rập cũng nên. FBI vừa chuyển số vật dụng cá nhân ít ỏi của anh từ Quantico tới đây tối khuya hôm qua. Decker chỉ tốn năm phút để sắp xếp đồ đạc.
Anh ngồi dậy và trèo xuống giường. Rồi bước đến cửa sổ và nhìn ra ngoài. Trời vẫn còn tối, nhưng mặt trời sẽ sớm ló dạng.
Vẫn tiếp tục nhìn ra ngoài, Decker phát hiện một người đàn ông nhỏ người nhưng nhìn mạnh khỏe đang đi bộ bên ngoài cùng một đứa bé con. Sau đó, họ chui vào chiếc xe có kính sau được phủ kín bởi túi nhựa và băng keo. Người đàn ông mặc quần jeans, mang giày ống và áo len. Anh đội một chiếc mũ bảo hộ vàng. Còn cậu bé đeo một chiếc túi lớn vòng qua vai. Họ lái xe đi, ống xả của xe thải ra khỏi đen mù mịt.
Bên dưới con đường nằm song song với tòa nhà, Decker nhìn thấy hai người một nam một nữ, đang bước đi loạng choạng dưới ánh đèn đường lập lòe. Họ nhìn không giống dân vô gia cư, nhưng theo mắt nhìn người của một Decker dạn dày kinh nghiệm, thời điểm họ lâm vào cảnh vô gia cư cũng không còn xa. Người đàn ông bạt tai người phụ nữ khiến cô ta ngã nhào. Gã ta tiếp tục đi. Cuối cùng thì người phụ nữ cũng choàng dậy được và đuổi theo. Cô này
lôi từ trong túi ra một thứ gì đó, rồi đưa tay lên miệng và nhai ngấu nghiến bất kể thứ đó là gì.
Decker quan sát cho đến lúc họ đi khuất, sau đó đi tắm rửa, thay đồ. Bây giờ vẫn chưa tới 7 giờ. Anh đi qua hành lang xuống nhà bếp để pha một tách cà phê và một tô ngũ cốc. Lúc đi ngang qua phòng Jamison, anh nghe rõ tiếng cô ngáy nhè nhẹ qua cánh cửa chính còn
hé mở.
Anh ngồi nhâm nhi cà phê và dùng ngũ cốc, nhưng hầu hết thời gian anh nhìn qua cửa sổ hướng về phía ánh đèn mập mờ.
Anh đã tiến xa so với cuộc sống trước đây ở Burlington, Ohio. Anh mất gia đình, công việc và nơi ở.
Anh đã trả được thù cho vợ, con gái, và anh rể. Nhưng điều đó cũng chẳng thể xóa nhòa đi mất mát và nỗi đau. Không gì có thể. Thời gian đã không giúp Decker xoa dịu vết thương. Dòng thời gian dường như không liên quan gì đến cái tâm trí đặc biệt của anh. Mọi thứ anh từng trải qua trong đời đều mới nguyên như thuở ban đầu.
Đây chính là mặt trái của việc có một trí nhớ hoàn hảo. Anh có vô vàn chuyện muốn quên đi. Nhưng không thể.
Vẫn chưa hết đâu.
Anh đã không còn là Decker như ngày nào. Anh cũng biết mình làm một số chuyện gây khó chịu cho người khác. Ví dụ như rời khỏi phòng một cách đột ngột. Khép mình lại và trở nên lãnh đạm. Và anh cũng không đủ thấu cảm như kỳ vọng của mọi người.
Và như anh kỳ vọng.
Anh xoa xoa đầu. Những thứ bên trong này đã thay đổi. Nghĩa là anh cũng thay đổi dần theo nó. Không có gì ngăn cách giữa hai thực thể này: bộ não và phần còn lại của Amos Decker. Đó chỉ đơn thuần là cách chúng vận hành.
Và đó cũng là cách mà mày vận hành lúc này đây.
Anh xếp bát đĩa bẩn vào máy rửa bát, rồi ngồi xuống và bắt đầu suy nghĩ về vụ án.
Berkshire—nạn nhân. Dabney—kẻ thủ ác.
Quá khứ mờ mịt của Berkshire. Có khi nào câu trả lời nằm đó chăng?
Hay là sự thật nên được lần ra từ phía Dabney?
Hay nên là sự phối hợp của cả hai?
Anh nhớ lại phát súng. Anh lướt qua từng khung ảnh trong đầu, tìm kiếm bất kỳ chi tiết nào có thể dẫn mình đi đúng đường.
Họ đã lần được lộ trình của Dabney vào ngày hôm đó. Ông ta bắt Uber từ nhà ở McLean đến một quán cà phê gần tòa nhà Hoover. Decker đoán rằng ông ta đã đi bộ từ đó đến tòa nhà FBI, nơi ông bắn chết Berkshire.
Khi những khung ảnh đang cuộn đều trong đầu anh, một sự mâu thuẫn đột nhiên xuất hiện.
Decker yêu thích những chi tiết mâu thuẫn. Vì chúng thường sẽ hướng anh đi đúng đường để tìm ra sự thật, hay chí ít cũng dẫn tới một manh mối.
Và ngay lúc này đây, anh muốn có một manh mối vô cùng.
Ellie Dabney đã kể với Decker rằng bà đã làm bữa sáng cho chồng với trứng, thịt xông khói, bánh mì nướng và khoai tây nướng. Dabney đã ăn hết sạch, bà bảo như vậy. Và còn uống thêm ba ly cà phê.
Vậy thì tại sao còn phải ghé quán cà phê trên đường đi đến nơi ông ta cần đến?
Cũng có khi không vì lý do gì cả. Có thể ông chỉ muốn giết thời gian trước khi tham dự buổi họp. Hoặc là ông muốn nhâm nhi với một tách cà phê trong lúc đọc lại ghi chú.
Tuy nhiên, việc gì phải làm vậy trong khi ông thừa biết ông sẽ không bao giờ có mặt tại buổi họp? Decker dám chắc rằng người đàn ông không thể lên kế hoạch giết người giữa thanh thiên bạch nhật trước sự chứng kiến của biết bao nhiêu người, rồi sau đó lại còn có thể thản nhiên tham dự buổi họp với FBI như thể không có
chuyện gì xảy ra. Và càng không có khả năng kế hoạch này lại được sắp xếp trong một khoảnh khắc ngắn ngủi ngay sau khi ông rời khỏi quán cà phê. Ông giữ khẩu súng trong cặp táp. Họ đã phát hiện trong cặp dấu vết của dầu dùng cho súng và các chứng cứ pháp y khác chứng minh cho điều đó.
Decker ghi nhớ trong đầu rằng phải đến quán cà phê để tìm ai đó đã nhìn thấy Dabney. Có thể ông ta đã gặp người nào đó tại đây. Họ đã thử kiểm tra lịch sử cuộc gọi của ông ta. Dabney không gọi điện cho ai vào buổi sáng hôm đó, cũng không gửi bất kỳ tin nhắn hay email nào.
Có phải ông làm vậy là vì ông sắp phạm tội giết người? Và ông đã cố gắng tự tôi luyện mình để thực hiện hành vi thủ ác? Nhưng nếu ông ta thật sự quen biết Berkshire, bằng cách nào ông ta biết Berkshire sẽ đến đó vào buổi sáng? FBI khẳng định rằng bà ta đã không gọi điện hay lên lịch hẹn với bất kỳ ai. Thêm nữa, bà ta có thể đã đến đó không báo trước vì một vài lý do. Cũng có thể bà ta muốn trình báo gì đó với FBI.
Và Dabney đã ngăn bà ta làm việc đó. Thật là một giả thuyết thú vị.
Mặc dù vậy, rất có khả năng Berkshire không hề định đi đến tòa nhà Hoover. Có thể, tại đó, bà ta sẽ chuyển hướng đi đến một nơi khác.
Có vô số giả thuyết nhưng không thể kết luận được. Nhưng hầu hết các vụ án đều bắt đầu như thế. Sự thật luôn luôn ẩn khuất sâu bên trong, tại cốt lõi, Decker nghĩ vậy. Và bạn phải gỡ bỏ từng lớp một thì mới len lỏi vào được phần lõi bên trong.
Anh nhìn lên thấy Jamison mắt lờ đờ, mặc quần đùi tập gym và chiếc áo sơ-mi U2 đang nhìn mình chằm chằm.
“Anh dậy sớm thế?” cô hỏi với giọng khàn khàn.
“Tôi luôn dậy sớm. Cô sẽ thấy là như thế, vì chúng ta sống chung, bạn cùng nhà ạ.”
Cô bước đến máy pha cà phê, cho bình cà phê vào và đặt cốc xuống dưới. Trong khi chờ đợi, cô dựa người vào quầy bếp và hỏi, “Có ánh sáng nào trong bóng tối không?”
“Dễ thấy Dabney đã có đến hai bữa ăn sáng. Tôi đang tìm hiểu tại sao.”
“Được đấy.”
Máy pha cà phê kêu ầm ĩ và Jamison cho thêm ít đường thô và kem vào ly, sau đó nhấp một hớp.
“Chúng ta có lịch đến nhà Dabney để kiểm tra vào sáng nay.” Decker gõ ngón tay trên mặt bàn, không đáp.
“Tôi đoán chừng con cái họ cũng sẽ ở đó,” cô nói thêm. “Cậu bé con và bố nó.”
“Gì cơ?” Cô thốt lên vẻ hoang mang. “Dabney chỉ có bốn cô con gái.”
“Chiếc xe với cửa sổ phủ túi nhựa đặt trong bãi giữ xe của tòa nhà này. Chiếc Sentra màu xám.”
“À, có chuyện gì liên quan đến họ à?”
“Họ là ai?”
“Tomas Amaya và con trai Danny, 11 tuổi.”
“Thằng bé đi học ở một trường gần đây à?”
“Vâng. Anh thấy hai người họ sao?”
“Họ rời đi trước 6 giờ sáng nay.”
“Tomas đưa thằng bé đến trường. Họ có chương trình trước giờ lên lớp để hỗ trợ các bậc phụ huynh phải đi làm sớm. Tomas làm công việc xây dựng nên phải có mặt tại chỗ làm tầm 6:30.”
“Còn mẹ thằng bé?”
“Theo tôi biết thì chỉ có Tomas và Danny thôi.”
“Làm sao cô biết điều đó?”
“Tôi từng bảo là tôi đã gặp qua tất cả người thuê phòng rồi đấy. Tôi tự giới thiệu mình với tất cả bọn họ sau khi Melvin mua tòa nhà. Tôi muốn đảm bảo với họ mọi thứ đều ổn. Rằng họ sẽ không bị đuổi khỏi nhà hay bất kỳ điều gì khác. Thế là tôi đã gặp gỡ Tomas và Danny. Tomas dành trọn vẹn tâm sức cho đứa con trai. Và Danny cũng rất sáng dạ. Cậu bé biết vẽ. Tôi đã xem qua các bức ký họa của cậu. Quả thật cậu bé có năng khiếu ở mảng này.”
“Tất cả người cho thuê đều tốt hết chứ hả?”
“Chà, đó là một thuật ngữ tương đối, anh biết chứ?” “Vậy thì cho tôi một câu trả lời tương đối.”
“Một vài người thì tốt hơn số còn lại. Và tôi nắm được thông tin về xuất thân của họ. Họ đều là người da màu. Tôi không chắc tất cả họ đều cư trú hợp pháp. Và tôi chính là người phụ nữ da trắng đến gõ cửa từng phòng để bảo với họ rằng có một nhà đầu tư giấu mặt đã mua lại tòa nhà, và tôi sẽ là chủ coi nhà. Tôi cũng đáng ngờ quá.”
Decker thở dài. “Năm nay đã là 2017, nhưng lại không giống như vậy chút nào. Ngày tôi còn bé, chương trình truyền hình đã bàn về thế giới tương lai sẽ trông ra làm sao. Robot quét dọn nhà cửa, con người cưỡi xe bay đi làm. Nhưng nhìn xem, thay vào đó chúng ta đang ở tại… đây.”
“Tôi cũng thấy thế, Decker. Này, Melvin nói là sẽ đến để gặp mọi người và xem xét khu nhà.”
Decker mừng rỡ. “Thật tốt khi được gặp lại anh ấy.” “Tôi biết hai người rất ăn ý mà.”
“Anh ấy là người bạn tốt nhất của tôi.”
Jamison hơi cau mày khi nghe câu nói đó nhưng cô chọn không phản hồi.
Điện thoại Decker kêu. Đó là Bogart. Decker lắng nghe được một lúc rồi tắt máy.
“Thay đổi kế hoạch, Bogart muốn chúng ta ở nhà xác.”
“Tại sao?”
“Họ vừa hoàn tất khám nghiệm tử thi của Dabney.”
“Nhưng chúng ta đã biết rõ nguyên nhân tử vong rồi. Một vết thương do tự sát bằng súng gây ra.”
“Đúng vậy, nhưng có một điểm chúng ta đã không ngờ tới.” “Gì mới được?”
“Người đàn ông đó chắc chắn sẽ chết ngay cả khi ông ta không tự bắn mình”
11
Vẫn là vị bác sĩ giám định pháp y ấy, Lynne Wainright, cô quan sát Decker trong khi Decker nhìn chằm chằm thi thể đã qua phẫu thuật của Walter Dabney với vết khâu hình chữ V để đóng khép lồng ngực.
Bogart đứng sát bên Decker và Jamison đứng ngay sau họ, đôi mắt cô hướng thẳng đến cái xác người đàn ông này đã được cắt xẻ.
Không lâu trước đó, người đàn ông còn là một doanh nhân thành đạt với một gia đình hạnh phúc. Giờ đây, ông chỉ còn là một đống xương và thịt trên chiếc bàn kim loại, vô hồn và đã bị mổ xẻ.
“Cô chắc chứ hả?” Bogart hỏi.
Wainwright cầm lấy tấm phim X-quang và áp nó lên một hộp đèn lắp trên tường. Cô chỉ tay vào khu vực tối màu.
“Một khối u não khổng lồ, loại không thể phẫu thuật được vì vị trí quái gở và vì nó đã ăn sâu đến những vùng cực kỳ quan trọng của não. Trước đó, tôi đã phát hiện có thứ gì đó tại khu vực này qua phim X-quang. Nhưng tới lúc mổ hộp sọ ông ta, tôi không thể tin nổi khối u có thể trầm trọng đến như vậy.”
“Ông ta còn bao nhiêu thời gian?” Decker hỏi.
Vị bác sĩ pháp y tỏ vẻ cân nhắc trước khi lên tiếng. “Anh có thể cần nghe thêm ý kiến từ một người khác. Riêng tôi thì phỏng chừng khoảng sáu tháng hoặc ít hơn thế. Khả năng là ít hơn. Bởi vì, ông ta
có một vị trí bị phình động mạch đang sắp sửa nổ tung ngay tại đây,” cô thêm lời, trong khi tay chỉ một điểm khác trên phim X quang. “Thật sự, tôi bất ngờ khi ông ta vẫn sinh hoạt bình thường.”
“Không chừng ông ta cần phải chiến đấu đến phút cuối vì một điều gì đó quan trọng,” Decker bảo. “Giống như việc cần phải giết chết Anne Berkshire chẳng hạn.”
Bogart nói một cách sắc bén, “Anh tin thế ư?”
“Tôi không hẳn không tin điều đó.”
“Các anh có nghĩ là vợ ông ta biết không?” Jamison hỏi. “Về khối u ấy?”
“Có lẽ là không,” Bogart trả lời. “Ý tôi là, nếu có bà ta đã nói rồi.”
“Có khi nào đây là lý do ông ta thực hiện chuyến đi bất ngờ một tháng trước,” Decker bảo. “Để đi chẩn đoán bệnh tình.” Anh quay về phía vị bác sĩ pháp y, “Có khả năng ông ta không hề biết về khối u không?”
“Mọi chuyện đều có khả năng xảy ra,” Wainwright đáp với vẻ cẩn trọng. “Nhưng sẽ có những triệu chứng bên ngoài. Ví dụ như vài chức năng vận động bị suy giảm nhẹ. Hay mạch suy nghĩ bị ngắt đoạn. Tôi đoán chừng, với một người ở vị trí như ông ta, có học thức, khá giả, với bảo hiểm sức khỏe tốt, ông ta chắc đã đến gặp bác sĩ. Chỉ cần một lần kiểm tra MRI đơn giản thôi cũng đủ để xác nhận sự hiện diện của khối u trong não. Và thêm một vài bước kiểm tra nữa là đủ để biết khối u có ác tính hay không.”
Bogart bảo, “Tôi đang thắc mắc tại sao không một ai trong số các cộng sự của ông ta phát hiện ra điều bất thường. Họ ắt phải là những người thân cận với ông ta nhất.”
“Về việc này, sao không phải là bà vợ chứ?” Jamison nói.
Vị bác sĩ pháp y bảo, “Nói chung với loại ung thư này, cái chết đến rất nhanh chóng. Nhưng ông ta chỉ có thể làm việc bình thường đến một mức độ nhất định, cho đến khi các tế bào ung thư lan rộng. Khi nhìn vào não của ông ta, tôi đoán rằng thời điểm đó cũng không còn lâu đâu.”
“Nghĩa là ông ấy đã cố che giấu bệnh tình với gia đình, bạn bè và đồng nghiệp?” Decker bảo.
“Tôi nói rồi, mọi giả thuyết đều có thể có khả năng. Ông ta có thể đã sử dụng thuốc.”
“Liệu xét nghiệm máu có biết ông ta đã dùng loại thuốc nào không?” Bogart hỏi.
“Tôi đã gửi vài mẫu đi phân tích,” Wainwright bảo.
Decker lại nhìn xuống thi thể. “Tự sát khi biết mình không còn sống được bao lâu cũng khá hợp lý đấy chứ. Giúp ông ta và gia đình khỏi phải đau khổ hàng tháng trời. Nhưng điều đó vẫn không giải thích được hành động sát hại Berkshire.”
“Chà, thẳng thừng mà nói, tôi thì cho rằng gia đình thà chịu hàng tháng trời đau khổ do tật bệnh còn hơn những chuyện đã xảy ra,” Jamison phản đối.
“Điều đó có nghĩa là vẫn còn một lý do thật sự thuyết phục nào đó khiến ông ta làm vậy,” Decker vặn lại. “Và chúng ta cần tìm ra lý do đó.”
Decker bỏ ra ngoài.
“Anh đi đâu đấy Decker?” Jamison gọi theo.
“Làm một tách cà phê.”
Cửa hàng cà phê mà Dabney đã ghé vào trước khi giết chết Berkshire nằm ở cuối con phố gần tòa nhà FBI. Nó thuộc một chuỗi cửa hàng cà phê, bên trong rộng rãi, ngập tràn ánh sáng và được trang bị dãy bàn ghế thoải mái để khách ngồi làm việc. Các ổ điện để gắn các thiết bị sạc được gắn dọc trên tường.
Decker và Jamison bước đến quầy bar, trong khi Bogart ở lại trò chuyện cùng vị bác sĩ pháp y và gọi vài cuộc điện thoại. Decker giơ tấm thẻ tên về phía người phụ nữ trẻ đang làm việc quầy. Cô này trạc 20 tuổi với mái tóc nâu được thắt gọn phía sau bởi một sợi dây thun. Cô mặc quần trắng và áo polo đen có in logo của cửa hàng, cùng cặp kính tròn trên mặt.
Sau khi kêu một tách cà phê, Decker lên tiếng hỏi, “Ngày hôm qua cô có đi làm không?”
Người phụ nữ gật đầu.
Decker giơ lên tấm ảnh của Walter Dabney, “Camera trên phố xác nhận rằng người đàn ông này đã vào cửa hàng lúc 10 giờ và rời đi 50 phút sau đó.”
“Ông ấy có phải là thủ phạm đã bắn chết người phụ nữ không? Tôi đã thấy trên tin tức.”
“Đúng vậy, chính ông ta. Cô có thấy ông ấy ở đây hôm qua không? Cô có ghi đồ cho ông ta không?”
“Có và có.”
“Ông ấy gọi gì?”
Người phụ nữ suy nghĩ trong giây lát. “Trà nóng và một bánh scone nhân quả mâm xôi. Chí ít tôi nhớ là vậy. Thú thật tôi đã phục vụ rất nhiều thức ăn và nước suốt cả ngày.”
“Cô thấy ông ta thế nào? Lo lắng không?”
“Không, không có gì đặc biệt cả. Ông ấy dường như, chà, bình thường.”
“Ông ấy đã ngồi ở đâu?”
Cô chỉ về hướng chiếc bàn đặt gần cửa sổ phía trước.
Decker nhìn xung quanh không gian và ghi nhớ vị trí của từng chiếc bàn. “Cửa hàng có tấp nập khách lúc ông ấy đến đây không?”
“Không, giờ cao điểm buổi sáng đã kết thúc. Lúc đó hình như chỉ có hai bàn có khách thôi.”
“Bàn nào?”
Cô chỉ mấy cái bàn gần quầy.
Decker hỏi, “Cô có để ý thấy ai đó tiếp cận ông ấy không? Nói chuyện chẳng hạn?”
“Tôi khá bận với công việc ở kho, nên khó mà nói chắc được. Tôi nhớ là có lần tôi nhìn sang thì thấy ông ấy chỉ ngồi lặng thinh và nhìn ra ngoài qua cửa sổ.”
“Có ai đó làm việc ở đây ngoài cô ra có thể thấy điều gì đó không?”
“Hôm qua Billy cũng trong ca làm. Anh ấy có thể biết gì đó. Anh ấy là người giao đồ và dọn bàn.”
Jamison chuyển cho cô gái vài tấm danh thiếp. “Xin hãy bảo Billy gọi điện cho chúng tôi. Cô cũng vậy, nếu nhớ ra bất kỳ điều gì, xin báo chúng tôi biết.”
Trong khi Jamison nói, Decker ngồi xuống ngay bàn Dabney đã ngồi. “Chiếc ghế này?” Anh hỏi.
Người phụ nữ trẻ nhìn sang. “Không phải cái đó, cái bên trái cơ.”
Decker đổi ghế và nhìn xung quanh trong khi Jamison lại gần và ngồi xuống chiếc ghế anh vừa bỏ trống.
“Anh đang suy nghĩ gì vậy?”
Decker nhìn chằm chằm qua cửa sổ. Từ chỗ này, anh có thể nhìn thấy tòa nhà FBI. Và buồng gác. Có ai đó đang trực trong buồng gác, nhưng anh không chắc đó có phải anh cảnh vệ lần trước không.
Anh bảo, “Lúc đó nơi này trống trơn, nghĩa là ông ta có nhiều bàn để chọn. Ông ta đã bỏ qua nhiều chiếc bàn trống để tìm đến chiếc bàn này. Và vị trí này cho ông một góc nhìn rất rõ về phía tòa nhà FBI. Suy ra ông ta đến để quan sát thứ gì đó? Hoặc để tìm gặp ai đó? Hay là còn lý do nào khác?”
“Làm cách nào chúng ta xác định được lý do thật sự?” “Tiếp tục hỏi han thôi.”
Điện thoại Decker rung lên. Anh nghe trong giây lát và bảo, “Chúng tôi sẽ đến đó sớm nhất có thể.” Anh tắt máy, quay sang nói với Jamison, “Là Bogart. Con gái Dabney—Jules có vài thứ cần nói với chúng ta.”
“Nói chuyện gì?”
“Chuyện gì đó mà bố cô ấy đã nói một tuần trước.”
12
Walter Dabney đã rất thành đạt.
Decker đang đứng ngay giữa tất cả những thứ này.
Ngôi nhà ở McLean có thể trị giá bốn đến năm triệu đô-la. Khu đất rộng rãi, có vườn được chăm sóc, thiết kế một cách chuyên nghiệp. Một đội nhân công đã ở sẵn bên ngoài xén bụi rậm, cắt tỉa những thước cỏ to lớn và sang trọng, nói chung là họ đang làm cho cảnh quan phía ngoài tòa nhà trở nên tươm tất hơn. Một đội nhân công khác thì đang làm việc trong một bể bơi nước nóng tiêu chuẩn Olympic. Ngoài ra, còn có một nhà chứa dụng cụ cạnh bể bơi với kích cỡ của một ngôi nhà bình thường. Chỉ tính chi phí hằng năm để bảo trì khu nhà này cũng đã lớn hơn rất nhiều tiền lương Decker nhận được tại FBI.
Anh chuyển ánh mắt đang nhìn qua cửa sổ sang Jules Dabney. Cô này là một tổ hợp thú vị của bố mẹ. Cao ráo, sở hữu dáng vóc vận động viên của người mẹ và khuôn hàm, trán dài, đôi mắt xanh lục nhạt của người bố. Mái tóc thẳng của cô vàng hoe, dài chấm vai.
Cô nhanh nhẹn, toát lên phong thái của một người làm kinh doanh. Từ lúc Decker và những người khác đến nơi, cô chưa từng rơi một giọt nước mắt nào. Theo như cô bảo, mẹ cô đã an vị trong phòng ngủ, dùng thuốc an thần liều mạnh.
Nghĩa là: Bà ấy không nói chuyện với anh được.
Ngay lập tức, Jules gây ấn tượng mạnh lên Decker như một người quản lý vi mô có đủ khả năng xử lý những tình huống bất lợi nhất.
Decker tự hỏi không biết điều này sẽ giúp ích hay cản trở công tác điều tra của họ.
Họ đang ở trong thư phòng, ba dãy tường toàn sách là sách như mạnh mẽ tuyên bố chức năng chính của căn phòng. Bogart ngồi trên một chiếc ghế tựa bọc da êm ái, Jamison lựa cho mình chiếc ghế trường kỷ bọc nệm và Jules thì ngồi trên một thứ gì đó giống như một chiếc ghế bành theo lối cổ. Còn Decker thì đứng ngay giữa gian phòng.
Bogart lên tiếng, “Tôi có thể hiểu những điều khó khăn này đang ảnh hưởng tới cô thế nào, cô Dabney ạ.”
Jules bác bỏ. “Không phải là khó khăn, mà đây là điều bất khả. Nhưng chúng tôi buộc phải vượt qua nó, và sẽ vượt qua.”
“Cô đã ở đâu trước khi đến đây?” Decker hỏi cô.
Cô nhìn anh cứ như hoang mang không biết việc cô từ đâu đến thì có liên quan gì.
“Palm Beach, sao vậy?”
“Cô làm gì ở đó?”
Cô trở nên cau có. “Điều đó quan trọng không? Có thích hợp để hỏi không?”
“Cũng khó nói, do cô vẫn chưa cho chúng tôi biết.”
Môi cô mím lại, rồi cô bảo, “Tôi có công ty riêng. Về tư vấn chăm sóc sức khỏe.”
Jamison bảo, “Tôi có thể tưởng tượng được Florida là một nơi tốt để kinh doanh ngành đó. Với một số lượng lớn người đã nghỉ hưu.”
“Hầu hết bọn họ đều tham gia chương trình bảo hiểm, tất nhiên, nhưng đúng thật nơi đó tụ hợp một lượng lớn người giàu có với các loại bảo hiểm bổ sung. Bảo hiểm sức khỏe khá phức tạp. Mọi người khó có thể nắm hết được. Và chúng tôi cũng đang tư vấn cho các
doanh nghiệp. Nói thật, phần lớn doanh thu của chúng tôi đến từ chỗ đó. Với 20 nhân viên, công ty tôi tăng trưởng hai con số mỗi năm.”
“Thật ấn tượng,” Decker đáp. “Khi tôi ở tuổi cô, tôi còn khó lo lắng được cho bản thân.”
Cô đáp một cách cộc lốc, “Bố tôi đã truyền cho các con ông một tinh thần làm việc tuyệt vời. Kèm theo đó là hoài bão.”
Đột nhiên cô quay đi, trong một khoảnh khắc, Decker nghĩ rằng cô có thể đã bật khóc. Nhưng cô xoa miệng và quay về phía họ.
“Bố tôi từng… có ảnh hưởng rất lớn đến tôi.”
Decker bảo, “Chắc rồi. Và cô muốn gặp chúng tôi bởi vì bố cô đã nói cho cô nghe điều gì đó?”
“Nhiều điều,” cô đáp. “Tôi đã viết lại những điều đó trên máy bay đến đây.”
Cô chuyền tờ giấy đến Decker. Anh nhìn xuống.
Bogart bảo, “Anh có thể đọc những gì ghi trên đó được không, Decker?”
Decker có vẻ không hề nghe thấy Bogart.
Jules nhìn chằm chằm có vẻ mất kiên nhẫn với sự im lặng của Decker trong một hồi rồi sau đó nói những lời chắc nịch, cứ như cô đang thuyết trình kinh doanh, “Thứ nhất, ông bảo tôi phải chăm lo
cho mẹ. Thứ nhì, ông khuyên tôi nên lập gia đình và vun đắp nó. Bởi vì cuộc sống rất ngắn ngủi. Thứ ba, ông bảo tôi quan trọng hơn hết thảy là hãy nhớ rằng ông ấy yêu tôi.”
Bogart hỏi, “Như vậy có bình thường không?”
“Bố tôi rất ân cần và quan tâm đến tôi, nhưng đúng vậy, những lời này không bình thường bởi vì ông chưa bao giờ nói với tôi những điều này trước đó. Ít nhất là không phải kiểu như vậy.”
Jamison hỏi, “Thế cô có cảm thấy lo lắng khi nghe ông ấy nói vậy?”
“Tôi hỏi thẳng bố tôi phải chăng có điều gì đó không ổn. Ông bảo không. Chỉ là ông đang suy ngẫm chung chung về cuộc đời và muốn
tôi biết những điều này. Ông đùa rằng chắc là ông già rồi, nhưng thật ra việc đó vẫn khiến tôi cảm thấy lạ thường.”
“Cô có nói ai nghe những điều này chưa?” Bogart hỏi.
“Không. Tôi đã định gọi điện hỏi chị em tôi xem ông có trò chuyện giống như vậy với họ hay không, nhưng rồi lại bận. Và đến lúc tôi quay lại nghĩ về ý định đó, cũng là lúc tôi nhận được cuộc gọi báo tin bố.”
Decker giơ danh sách lên. “Cô có ký hiệu một số 4 ở đây nhưng không có nội dung nào bên cạnh.”
Jules thọc tay vào túi, lôi ra một chiếc chìa khóa, “Ông đã gửi cho tôi vật này vào hôm sau đó.”
Decker cầm lấy chiếc chìa khóa và xem xét nó, “Nhìn giống như chìa khóa của một hộp kí gửi an toàn,” anh bảo, tay chuyển chìa khóa sang cho Bogart.
“Đúng vậy,” Jules đáp. “Bố tôi có một hộp an toàn ở một ngân hàng tại McLean. Ông đã giữ nó hàng năm trời.”
“Cô có biết thứ gì bên trong đó không?”
“Tôi chỉ đoán chừng đó là những thứ mà người ta vẫn bỏ trong hộp kí gửi an toàn thôi. Tôi chưa từng thấy qua nó bao giờ.”
“Tại sao ông ấy lại gửi cô chiếc chìa khóa?”
“Tôi không biết. Tôi đã định gọi điện cho ông, nhưng rồi, như tôi bảo đấy, tôi bị phân tâm bởi công việc kinh doanh bận rộn. Tôi cứ tưởng rằng tôi có khối thời gian để nói chuyện với ông về điều này. Tôi chỉ nghĩ rằng có thể nó liên quan đến kế hoạch kinh doanh bất động sản của ông. Cũng hợp lý nếu ông muốn tôi tham gia cùng vào việc đó. Ông đã chọn tôi là người thi hành di chúc vài năm về trước.” Cô thêm vào một vài giải thích, “Vì tôi là con cả. Tất nhiên mấy việc kiểu đó rơi vào tay tôi cũng là chuyện thường tình.”
“Nhưng rõ ràng bố cô cũng đã rất tin tưởng cô,” Jamison nói. “Tôi hy vọng thế.”
"""