🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Các Nhà Ngoại Giao Trong Lịch Sử Dân Tộc
Ebooks
Nhóm Zalo
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Q. GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PHẠM CHÍ THÀNH
Chịu trách nhiệm nội dung:
PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP TS. ĐỖ QUANG DŨNG
Biên tập nội dung:
Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Đọc sách mẫu:
ThS. CÙ THỊ THÚY LAN ThS. NGUYỄN THỊ HẢI BÌNH ThS. LÊ THANH HUYỀN NGUYỄN THU HƯỜNG TRẦN PHAN BÍCH LIỄU PHẠM THÚY LIỄU
HOÀNG MINH TÁM
NGUYỄN THU HƯỜNG BÙI BỘI THU
Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 1360-2020/CXBIPH/16-301/CTQG. Số quyết định xuất bản: 5009-QĐ/NXBCTQG, ngày 09/6/2020. Nộp lưu chiểu: tháng 6 năm 2020.
Mã số ISBN: 978-604-57-5669-0.
Biªn môc trªn xuÊt b¶n phÈm
cña Th− viÖn Quèc gia ViÖt Nam
Vò D−¬ng Hu©n
C¸c nhµ ngo¹i giao trong lÞch sö d©n téc / Vò D−¬ng Hu©n. - XuÊt b¶n lÇn thø 2. - H. : ChÝnh trÞ Quèc gia, 2017. - 164tr. ; 21cm
1. Nhµ ngo¹i giao 2. LÞch sö 3. ViÖt Nam
327.597 - dc23
CTM0186p-CIP
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Lịch sử bang giao của các vương triều phong kiến nước ta cho thấy, ngoại giao trong nhiều giai đoạn là một mặt trận đấu tranh không kém phần quyết liệt mà những vị quan được cử tiếp sứ hay đi sứ đều là những người “trí dũng song toàn”, nhạy bén về chính trị, dũng cảm trong mọi khó khăn, biết rõ đối phương và tuyệt đối trung thành với đất nước... Lê Văn Thịnh (thế kỷ XI), Đỗ Khắc Chung (thế kỷ XIII), Mạc Đĩnh Chi (thế kỷ XIV), Nguyễn Trãi (thế kỷ XV), Phùng Khắc Khoan (thế kỷ XVI), Giang Văn Minh (thế kỷ XVII), Lê Quý Đôn (thế kỷ XVIII), Ngô Thì Nhậm (cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX),... là những ví dụ cụ thể. Cốt cách, tài năng của họ làm cho kẻ đối diện phải kính phục.
Cùng với đấu tranh quân sự, hoạt động ngoại giao của tổ tiên ta cũng góp phần làm thất bại mưu đồ xâm lược của các thế lực ngoại bang, thể hiện phẩm chất tốt đẹp của một dân tộc anh hùng, đầy tính chiến đấu, đồng thời cũng rất yêu chuộng hòa bình, muốn thiết lập và duy trì quan hệ hữu hảo với láng giềng song kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền đất nước khi bị xâm phạm, nêu cao chính nghĩa,
5
kiên trì nguyên tắc nhưng mềm mỏng, linh hoạt trong ứng xử ngoại giao.
Nhằm cung cấp thêm cho bạn đọc những tư liệu minh họa một số hoạt động ngoại giao thực tiễn của ông cha ta trong đấu tranh chống phong kiến phương Bắc để bảo vệ chủ quyền, độc lập dân tộc và quốc thể nước ta, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật cho tái bản cuốn sách Các nhà ngoại giao trong lịch sử dân tộc. Các nhân vật ngoại giao được nêu trong cuốn sách cũng nói lên phần nào nền văn hiến lâu đời của dân tộc và phong cách ngoại giao Việt Nam thời xưa mà các sứ thần của nước ta là tiêu biểu cho tài cao, trí rộng và khí phách anh hùng của dân tộc.
Xin giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 11 năm 2017
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 6
ĐÔI ĐIỀU VỀ NGOẠI GIAO
TRUYỀN THỐNG CỦA CHA ÔNG
Nước Việt Nam ở đông nam lục địa châu Á, phía bắc giáp với Trung Hoa, phía đông là Biển Đông, phía tây giáp với Lào, Campuchia. Dân tộc Việt Nam có lịch sử dựng nước tương đối sớm ở
khu vực Đông Nam châu Á. Đại Việt sử lược được biên soạn vào thế kỷ XIII cho rằng, nhà nước đầu tiên của nước ta là nhà nước Văn Lang của các vua Hùng, ra đời vào thế kỷ VII trước Công nguyên, cùng thời vua Chu Trang Vương, nhà Chu (Trung Quốc). Tuy nhiên, theo truyền thuyết, thời đại Hùng Vương khởi đầu vào năm 2879 trước Công nguyên với Kinh Dương Vương và kéo dài đến năm 258 trước Công nguyên. Tiếp đó, là nhà nước Âu Lạc của An Dương Vương (257-207 trước Công nguyên). Năm 218 trước Công nguyên, nhà Tần đem 50 vạn quân xâm lược Âu Lạc, song bị thất bại, nhưng Âu Lạc lại bị Triệu Đà thôn tính và năm 111 trước Công nguyên bị nhà Hán xâm chiếm, biến thành quận, huyện của Trung Hoa. Những cuộc khởi nghĩa chống lại ách thống trị của các chế độ phong kiến phương Bắc đã lần lượt nổ ra. Tiêu biểu là khởi nghĩa của Hai Bà Trưng
7
năm 40 trước Công nguyên, khởi nghĩa của Bà Triệu năm 248. Năm 542, Lý Bí khởi nghĩa, lập ra nước Vạn Xuân độc lập (544), song không bao lâu nước ta lại rơi vào ách đô hộ của nhà Lương. Tiếp đó, là các cuộc khởi nghĩa của Triệu Quang Phục, Khúc Thừa Dụ,...
Chế độ Bắc thuộc kéo dài hơn 1.000 năm. Năm 938, chiến thắng lịch sử trên sông Bạch Đằng của Ngô Quyền mở ra một kỷ nguyên độc lập cho đất nước, khôi phục quan hệ bang giao với các nước láng giềng, trước hết là Trung Quốc. Kế tiếp là các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Lê, Mạc, Tây Sơn và Nguyễn. Tuy vậy, trước khi bị
nhà Hán đô hộ, nhà nước Văn Lang, Âu Lạc cũng đã tiếp xúc với Trung Hoa. Theo sử Trung Quốc, năm 2353 trước Công nguyên, sứ bộ đầu tiên của nước ta đã đến thăm vua Đường Nghiêu thứ V với quà tặng là một cụ rùa lớn trên mai có khắc chữ
khoa đẩu, ghi sự việc khi trời đất được mở mang. Vua Nghiêu rất trân trọng món quà này và cho chép những điều ghi trên mai rùa làm lịch. Ở phương Đông, rùa là biểu tượng của trường tồn, nên tổ tiên chúng ta muốn gửi một thông điệp mong muốn tạo dựng mối quan hệ bền vững với láng giềng. Sứ bộ thứ hai của nhà nước Văn Lang thăm kinh đô nhà Chu ở Cam Túc vào năm 1110 trước Công nguyên, gặp vua Thành Vương thứ VII nhà Chu. Tặng phẩm lần này là chim trĩ trắng,
8
linh vật của nước ta. Vua Chu tặng lại sứ đoàn năm cỗ xe gắn la bàn để đưa sứ bộ về nước1. Phát huy truyền thống trên, trong suốt thời gian dài dựng nước và giữ nước, cha ông ta đã có rất nhiều hoạt động ngoại giao nhằm giành độc lập dân tộc, bảo vệ và xây dựng đất nước, tạo nên bản sắc ngoại giao truyền thống Việt Nam.
Một vài đặc điểm ngoại giao của cha ông
Coi trọng hòa hiếu với các nước láng giềng Cha ông ta đã rất coi trọng hòa hiếu với láng giềng, nhất là Trung Quốc, thực hiện chính sách đối ngoại “thần phục thiên triều”, “trong xưng đế, ngoài xưng vương”, khôn khéo, mưu trí trong bảo vệ, củng cố nền độc lập dân tộc của mình. Đây là tư tưởng lớn, cơ bản, có tính chất chủ đạo của ngoại giao truyền thống Việt Nam. Ở Trung Quốc, nhà nước chiếm hữu nô lệ đầu tiên ra đời là nhà Hạ (thế kỷ XXII-XXI trước Công nguyên). Tiếp đến là nhà Thương. Đầu thế kỷ XI trước Công nguyên, Chu Vũ Vương diệt nhà Thương, lập ra nhà Tây Chu. Vua Chu phong hầu cho họ hàng, thân thích, các chư hầu ra đời từ đó. Nhà Chu đã
trở thành đế chế phong kiến rộng lớn. Một mặt, họ thiết lập chế độ thống trị rất hà khắc đối với nhân dân trong nước, mặt khác, lại ra sức bành trướng _______________
1. Sách Trung Quốc: Cương mục tiền biên, Thông chí, Việt hiện thứ.
9
lãnh thổ, xâm lược, đô hộ các dân tộc bên ngoài. Lúc đầu Trung Quốc có đến 1.700 quốc gia lớn, nhỏ. Từ thời đó, Trung Quốc đã gọi thế giới là thiên hạ, thiên hạ được chia làm chín châu: Kỷ, Duyên, Thanh, Từ, Dương, Kinh, Dự, Lương, Ung. Chia như thế để có căn cứ đánh thuế và quy định đồ cống nạp. Thiên hạ cũng được chia làm năm cõi: Diện phục, Hầu phục, Tuy phục, Yêu phục, Hoang phục để xác định chỗ nào là đất của vua, thái ấp của các quan đại phu, chư hầu, nơi sinh sống của người có tội đi đầy, các dân tộc “mọi rợ”,... Trong thiên hạ, Trung Quốc ở giữa, chung quanh là các chư hầu mà Trung Quốc gọi là phiên thuộc. Vì thế, người Trung Quốc tự coi mình là Hoa Hạ (Hoa là tinh hoa, còn Hạ là lớn mạnh nhất) Hoa Hạ làm chủ Trung Quốc còn các dân tộc khác là nhung, di, man, địch. Dưới ảnh hưởng của học thuyết Nho giáo, họ cho rằng làm chủ thiên hạ là thiên tử (con trời), thay trời trị dân; quyền của thiên tử là tuyệt đối. Các nước phải phục tùng nước tông chủ theo những quy định về quân sự, chính trị, kinh tế. Sách phong và triều cống là hai công cụ chính của thiên triều trong hàng nghìn năm để khuất phục chư hầu.
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng nên có chính sách ngoại giao khéo léo, mưu trí. Nhà sử học Phan Huy Chú rất đúng khi nhận xét: “Trong việc trị nước, hòa hiếu với láng giềng là việc lớn, mà những khi ứng thù lại rất quan hệ,
10
cho nên nghĩa tu hiếu (việc giao hiếu) chép ở Kinh Xuân Thu, đạo giao lân (giao thiệp với các nước láng giềng) chép ở Hiền truyện (sách Mạnh Tử), chính là đem lòng tin thực mà kết giao, người có quyền trị nước phải nên cẩn thận”1. Đứng trước một đối thủ mạnh, luôn thường trực tư tưởng bành trướng, bá quyền, nên để có được quan hệ
hòa hiếu, các triều đại phong kiến Việt Nam đã phải thực hiện chính sách đối ngoại “thần phục thiên triều”, “trong xưng đế, ngoài xưng vương”. Đây là chính sách vô cùng khôn ngoan, sáng suốt, sự lựa chọn duy nhất đúng trong hoàn cảnh lịch sử bấy giờ. Việc xin thần phục thiên triều được thể
hiện qua việc các vua Đại Việt đều xin được thiên triều phong vương và triều cống. Việc phong vương có ý nghĩa rất quan trọng, là sự khẳng định tính chính danh, tính hợp pháp của triều đại đó đối với thiên triều. Thiên triều có nghĩa vụ đảm bảo an ninh, toàn vẹn lãnh thổ cho quốc gia được phong vương. Chỉ có vậy mới có quan hệ hòa hiếu, ổn định để giữ vững độc lập, chủ quyền và xây dựng, phát triển đất nước. Ngoài ra, các triều đại Việt Nam còn cống cho Trung Quốc các sản vật địa phương như voi, ngà voi, tê giác, sừng tê giác, chim trĩ và lông chim trĩ, trầm hương, vàng bạc, châu báu và thợ lành nghề, thầy tu, thầy bói, v.v.. _______________
1. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, “Bang giao chí”, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2006, t. 2, tr. 533.
11
Việc triều cống được quy định ba năm một lần. Từ khi kinh đô của Trung Hoa chuyển lên Yên Kinh (Bắc Kinh) thì sáu năm một lần, song phải có hai lễ cống1. Trong lịch sử thế giới, các nước Ai Cập, Hy Lạp, La Mã, Ba Tư,... đều bắt các nước nhỏ phụ thuộc mình nhưng không ràng buộc các nước
phụ thuộc như phong kiến Trung Quốc. Quan hệ thần phục được thiên triều đáp lại ở nhiều mức khác nhau, từ chỗ được công nhận là người đứng đầu quận, huyện, đến được công nhận là phiên thuộc, rồi được đứng vào hàng chư hầu, triều hội nhà Minh Đường2 và sau cùng là được chấp nhận đứng đầu một nước với tư cách là quốc vương. Phan Huy Chú viết: “Nước ta thời Hùng Vương mới bắt đầu thông hiếu với Trung Quốc nhưng danh hiệu còn nhỏ, không được dự vào hàng chư hầu triều hội ở nhà Minh Đường. Rồi bị _______________
1. Ví dụ: Đồ cống năm 1431 của vua Lê cho nhà Minh gồm 1 người vàng (trả nợ việc Lê Lợi chém đầu Liễu Thăng tại trận Chi Lăng), 1 lư hương bạc, 1 đôi bình hoa bạc, 300 tấm lụa thổ sản, 14 đôi ngà voi, 20 lọ hương hun áo, 2 vạn nén tuyền hương, 24 khối tốc hương. Cũng năm này, Lê Lợi tạ ơn được phong vương nên cống 5 vạn lạng vàng. Đồ cống nhà Mạc gồm: lư hương và bình hoa vàng 4 bộ (nặng 100 lạng), rùa vàng 1 con nặng 90 lạng, hạc bạc và đài bạc mỗi thứ 1 cái nặng 50 lạng, bình hoa và lư hương bạc 2 bộ nặng 2.150 lạng, 12 chiếc mâm bạc nặng 64 lạng, trầm hương 60 cân (cân ta), tốc hương 148 cân.
2. Nhà Minh Đường: Lễ đường của nhà Minh, được xem như phòng khánh tiết, là nơi các chư hầu triều hội.
12
Triệu Đà kiêm tính, nhà Hán phong Đà làm Nam Việt Vương, chỉ được sánh với chư hầu của Trung Quốc, chứ chưa được nêu là một nước, về sau nội thuộc nhà Hán, nhà Đường, bèn thành quận, huyện (của Trung Quốc). Đến khi Đinh Tiên Hoàng bình định các sứ quân, khôi phục, mở
mang bờ cõi, bấy giờ điển lễ sách phong của Trung Quốc mới nhận cho đứng riêng là một nước”1. Việc phong vương không đơn giản, là cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt, phức tạp. Không phải vua Đại Việt nào cũng được phong vương ngay, nhất là khi quyền lực của dòng họ này chuyển sang dòng họ khác hoặc sau những lần chiến thắng các cuộc xâm lược, giết nhiều tướng tá của thiên triều, làm thiên triều mất mặt,... Ví dụ, Hoàng đế Lê Hoàn lên ngôi cuối năm 980, năm 981 đánh tan cuộc xâm lược của nhà Tống, uy danh lẫy lừng mà đến năm 986, vua Tống mới sai sứ sang phong cho Lê Hoàn chức Tiết độ sứ, rồi chức Kiểm hiệu Thái úy (năm 988), Đặc tiến (năm 990), Giao Chỉ quận vương (năm 993), Nam Bình vương kiêm Thị trung (năm 997). Tính từ khi Ngô Quyền giành lại độc lập (năm 938) đến tận năm 1175, vua Tống Cao Tông mới phong vua Lý Anh Tông làm An Nam quốc vương.
_______________
1. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, tr. 534-535.
13
Việc triều cống cũng là cuộc đấu tranh ngoại giao căng thẳng, không kém phần cam go của các triều đại Việt Nam đối với Trung Quốc. Triều Trần đã không chấp nhận yêu sách của nhà Nguyên đòi cống thợ và thầy thuốc giỏi. Đến tận năm 1718, sứ thần Nguyễn Công Hãng mới dùng lý lẽ để bác lệ triều cống này.
Mặc dù vua Đại Việt phải chấp nhận việc thiên triều phong vương, song bên trong thì các vua của nước ta đều xưng đế, coi mình ngang hàng các hoàng đế Trung Hoa, khẳng định Việt Nam là quốc gia độc lập, chủ quyền, không cho thiên tử can thiệp vào công việc nội bộ của nước Nam. Đó là tinh thần:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch thơ:
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời,
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời1
Nam quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt)
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
_______________
1. Bản dịch của Trần Trọng Kim.
14
Núi non, bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời
xây nền độc lập, Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên hùng cứ một phương1.
Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi)
Mặt khác, vào lúc hưng thịnh, vua chúa Đại Việt cũng coi mình là nước lớn, các nước nhỏ xung quanh như Chiêm Thành, Hỏa Xá, Thủy Xá, Vạn Tượng, Cao Miên đều phải thần phục. Năm 1815, vua Gia Long công bố danh sách 13 nước chư hầu.
Chế độ sách phong và triều cống đối với các vua Trung Hoa chấm dứt sau khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, buộc triều đình Huế ký Hiệp ước Hácmăng, ngày 25 tháng 8 năm 1883 và Hiệp ước Patơnốt, ngày 6 tháng 6 năm 1884, Việt Nam trở thành thuộc địa của thực dân Pháp. Ấn tín bị
nung chảy.
Kết hợp chặt chẽ đánh với đàm, kiên quyết bảo vệ độc lập chủ quyền đất nước khi bị xâm phạm
Trong lịch sử phong kiến Trung Quốc, triều đại nào cũng coi Việt Nam là phiên thuộc, luôn tìm cách thôn tính, chinh phục. Phong kiến Trung Quốc _______________
1. Bản dịch của Ngô Tất Tố.
15
đã tiến hành xâm chiếm, đô hộ Việt Nam 11 lần. Cuộc xâm lược đầu tiên là của nhà Tần (cuối thế kỷ III trước Công nguyên), rồi đến các cuộc xâm lăng của các nhà Hán, Ngô, Tống, Tề, Lương, Trần, Tùy, Đường, Lương, Nam Hán, Tống, Nguyên, Minh, Thanh. Dưới triều Lý, vào năm 1077, sau khi chặn đứng quân Tống ở sông Như Nguyệt, Lý Thường Kiệt đã “dùng biện sĩ để bàn hòa, không nhọc tướng, khỏi tốn xương máu, bảo an được tông miếu”. Ông đã cử Kiều Văn Ứng sang thương lượng với Quách Quỳ hạ chiếu rút đại binh và nhà Lý lập tức sai sứ sang “tạ tội” và triều cống. Đề nghị của Lý Thường Kiệt đã mở lối thoát cho quân Tống rút về nước trong danh dự. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, cha ông ta đã kết hợp đánh và đàm nhằm bảo vệ độc lập, chủ quyền. Tiếp đó, là cuộc đấu tranh lâu dài đòi sáu huyện, ba động và cử sáu sứ bộ sang Trung Quốc từ năm 1077 đến 1088 để đòi lại hai động Vật Dương và Vật Ác bị nhà Tống chiếm năm 1077. Trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên - Mông, nhà Trần đã kết hợp đấu tranh ngoại giao với đấu tranh quân sự nhằm giữ gìn hòa bình, tranh thủ thời gian chuẩn bị lực lượng. Cuộc đấu tranh ngoại giao cực kỳ gay go, phức tạp. Vua Trần đã chủ động cử sứ bộ Chu Bắc Lãm sang tận Thiểm Tây, Trung Quốc để gặp chúa Mông Cổ là Mông Kha xin ba năm triều cống một lần nhằm giữ quan hệ. Kết quả là vào năm 1261, Hốt Tất Liệt
16
đã chấp nhận đề nghị và cấm quân xâm phạm bờ cõi Đại Việt, khiến cho nền hòa bình tạm thời được giữ vững. Xen giữa ba lần Nguyên - Mông xâm lược Việt Nam, nhà Trần đã cử nhiều sứ bộ sang triều cống, thương lượng, bác bỏ các yêu sách vô lý của nhà Nguyên, giải quyết hậu quả chiến tranh. Đánh giá về ngoại giao triều Trần, tác giả Lịch triều hiến chương loại chí viết: “Trong khoảng hơn trăm năm ngăn được sự nhòm ngó của Trung Quốc mà tăng thêm thanh danh cho văn hiến nước nhà, đó là nhờ sự giao tiếp đắc nghị giúp sức vậy”1.
Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh, Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã kết hợp khéo léo giữa ngoại giao và chiến trường. Nghĩa quân Lam Sơn đã tiến hành thương lượng với quân Minh đầu năm 1423, để có được hai năm hòa hoãn, củng cố lực lượng; tiếp đó, đã kết hợp quân sự và ngoại giao, binh vận hạ thành Trà Long mà không tốn một mũi tên, hòn đạn nào; đặc biệt xuất sắc là kết hợp ngoại giao với quân sự buộc Tổng binh Vương Thông tham dự Hội thề Đông Quan, cam kết rút quân về nước theo điều kiện của nghĩa quân.
Dưới thời Tây Sơn, ngoại giao tiếp nối của quân sự, cha ông ta đã rất thành công trong việc giải quyết hậu quả chiến tranh, ngăn chặn âm _______________
1. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, tr. 618.
17
mưu tiến đánh nhằm báo thù của nhà Thanh. Tại Tam Điệp, khi chuẩn bị đưa quân ra Thăng Long, Quang Trung nói với các tướng: “Chúng là nước lớn gấp mười nước mình, sau khi bị thua một trận, ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế thì việc binh đao không bao giờ dứt, không phải là phúc cho dân, nỡ nào mà làm như vậy. Đến lúc ấy, chỉ có người khéo lời lẽ mới dẹp nổi việc binh đao, không phải Ngô Thì Nhậm thì không ai làm được”1. Thực hiện chủ trương sáng suốt trên, sau đại phá quân Thanh, nhiều sứ bộ ngoại giao đã được cử sang Trung Quốc vừa là để ngăn chặn nhà Thanh đánh báo thù, vừa bình thường hóa quan hệ sau chiến tranh. Vua Càn Long chấp nhận giảng hòa, hủy kế hoạch tấn công báo thù, phong vương và gả công chúa cho vua Quang Trung,... Hòa hiếu giữa hai nước nhanh chóng được khôi phục. Vua Càn Long lại cho vẽ tranh cảnh đón sứ bộ Nguyễn Quang Hiển, tự đề thơ vào tranh và đặc biệt là đón Quang Trung giả vô cùng long trọng. Thành viên sứ bộ, Đoàn Nguyễn Tuấn phải thốt lên: “Từ trước đến giờ, người mình đi sứ Trung Quốc, chưa có lần nào lạ lùng và vẻ vang như thế”2.
_______________
1. Ngô Gia Văn Phái: Hoàng Lê nhất thống chí, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1970, tr. 362-363.
2. Lưu Văn Lợi: Ngoại giao Đại Việt, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2000, tr. 188.
18
Nêu cao chính nghĩa, ngoại giao tâm công Trong bất kỳ một cuộc chiến tranh nào, mỗi bên đều tìm cách giành lẽ phải về mình. Về phía chúng ta, là người bị xâm lược, cuộc chiến tranh là chính nghĩa. Để giúp nhân dân hiểu và chống lại luận điệu lừa bịp của kẻ địch, cha ông ta đều coi trọng đấu tranh giành ngọn cờ chính nghĩa. Đào Tử Kỳ, sứ giả của vua Trần thế kỷ XIII, nói: “Sự trực vi tráng, khúc vi lão” (Lý thẳng thì thắng, lý cong thì thua, không phải lấy lẽ yếu, mạnh mà bàn được). Nguyễn Trãi trong Bình Ngô Đại cáo viết:
Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Tính chất chính nghĩa là cơ sở tiến hành phương pháp ngoại giao tâm công. Đó là cách đánh vào lòng người bằng chính nghĩa, lẽ phải, đạo lý và nhân tính. Điển hình của ngoại giao tâm công Đại Việt là Nguyễn Trãi. Ông tuyên bố: Ta mưu đánh vào lòng người, không chiến mà cũng thắng. Khi quân Minh bị bao vây trong thành Đông Quan, Nguyễn Trãi đã gửi hàng chục bức thư cho Vương Thông và các tướng lĩnh quân Minh, vạch rõ tính chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa, tinh thần nhân đạo của quân dân ta, khẳng định sự thất bại tất yếu của kẻ xâm lược, làm cho quân giặc hoang mang. Ông đã chỉ ra cho họ con đường duy nhất là hòa, rút quân trong danh dự. Trong một lá thư gửi Vương Thông,
19
Nguyễn Trãi phân tích hết sức thuyết phục những nguyên nhân tất yếu phải thất bại:
“... Nay tính hộ các ông thì có sáu điều phải thua: - Nước lụt chảy tràn, tường rào đổ lở, lương cỏ thiếu thốn, ngựa chết, quân ốm. Đó là điều phải thua thứ nhất.
- Nay những nơi quan ải hiểm yếu đều có quân và voi của ta đồn giữ nếu viện binh (của các ngươi) đến thế tất phải thua. Viện binh đã thua thế tất các ông bị bắt. Đó là điều phải thua thứ hai.
- (Ở nước các ông) Quân mạnh, ngựa tốt nay đóng cả ở miền Bắc để phòng bị quân Nguyên, không rỗi nhìn đến phía Nam. Đó là điều phải thua thứ ba.
- Luôn động can qua, liên tiếp đánh dẹp (người nước ông) nhao nhao thất vọng. Đó là điều phải thua thứ tư.
- Gian thần chuyên chính, chúa yếu giữ ngôi, xương thịt hại nhau, gia đình sinh biến. Đó là điều phải thua thứ năm.
- Nay ta dấy nghĩa binh, trên dưới đồng lòng, anh hùng hết sức, quân sĩ càng luyện, khí giới càng tinh, vừa cày ruộng vừa đánh giặc. Quân sĩ trong thành đều mệt mỏi, tự chuốc diệt vong. Đó là điều phải thua thứ sáu.
Nay giữ cái thành cỏn con để chờ sáu điều thất bại, ta lấy làm tiếc cho các ông lắm. Cổ ngữ có câu: “Nước xa không cứu được lửa gần”. Giá viện binh có đến cũng không ích gì cho sự bại vong”.
20
Nguyễn Trãi đã chỉ ra lối thoát duy nhất là rút quân về nước và Đại Việt cam kết sẽ tạo mọi điều kiện và đảm bảo an ninh cho việc rút quân. Đồng thời, Nguyễn Trãi khẳng định Đại Việt: “giữ
phận bề tôi, không thiếu chúc công...”1. Bằng ngoại giao tâm công, trước đó nghĩa quân Lam Sơn đã hạ được một loạt thành mà không phải đổ xương máu.
Ngoại giao tâm công đã trở thành bài học kinh nghiệm ngoại giao hay của cha ông ta, được vận dụng rất thành công trong ngoại giao thời đại Hồ Chí Minh.
Kiên trì nguyên tắc, song rất mềm mỏng, linh hoạt trong ứng xử ngoại giao
Quá trình đấu tranh ngoại giao của cha ông ta đã dần hình thành một cách ứng xử: rất kiên trì nguyên tắc, song cũng linh hoạt, mềm mỏng, khéo léo. Nhân tố chủ yếu dẫn đến sự ra đời của nguyên tắc ứng xử này xuất phát từ đặc trưng văn hóa của dân tộc Việt Nam. Trung Hoa xưa là nước lớn, có chung biên giới, lại luôn có dã tâm xâm chiếm, đồng hóa nước Đại Việt. Chúng ta chỉ có thể thay đổi được bạn bè, không ai thay đổi được láng giềng. Nói như Phan Huy Chú: “xét lý thế thực phải như thế”2.
_______________
1. Nguyễn Trãi: Quân trung từ mệnh tập, Nxb. Văn - Sử - Địa, Hà Nội, 1961, tr. 134.
2. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, tr. 533.
21
Để có thể giữ vững được độc lập, chủ quyền, chống lại được mưu đồ đồng hóa của phong kiến phương Bắc, ông cha ta đã thực hiện chính sách đối ngoại khôn khéo, thông minh là “thần phục thiên triều”, “ở trong thì xưng đế, mà đối ngoài thì xưng vương” như đã nói ở trên. Đồng thời, đi liền với đường lối ngoại giao đó là cách ứng xử mềm mỏng, linh hoạt, uyển chuyển. Khúc Thừa Dụ chỉ
nhận chức Tĩnh hải quân Tiết độ sứ Đồng bình chương sự của thiên triều. Thực tế, ông xây dựng cơ cấu chính quyền theo mô hình có sẵn của Trung Hoa, nhưng thực chất là bãi bỏ các quan lại Trung Hoa mà thay vào là quan lại Việt. Đinh Bộ
Lĩnh, Lê Hoàn khi lên ngôi đều đã xưng đế, song lúc đầu cũng chỉ xin “thiên triều” phong chức Tiết độ sứ,... Trừ Ngô Quyền, còn tất cả các vua Việt đều nhận sách phong của thiên triều.
Việc ứng xử mềm mỏng của cha ông còn thể hiện dù đánh thắng quân xâm lược, song đều nhận trách nhiệm về mình. Lê Lợi, Quang Trung đều nhận lỗi về mình và do sự khiêu khích của quan lại địa phương ở biên giới nên mới xảy ra chiến tranh giữa Trung Quốc và Đại Việt. Ví dụ như trong Biểu của Quang Trung gửi hoàng đế Càn Long của nhà Thanh, do sứ bộ Hám Hổ Hầu chuyển ngay sau chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa có viết: “... Mồng 5 tháng Giêng năm nay (1789) tôi tiến đến Lê thành những mong Tôn Sỹ Nghị nghĩ lại, họa may có thể đem ngọc lụa thay đồ can qua,
22
xoay binh xa làm hội xiêm áo. Tôi nhũn nhặn xin yết kiến, nhưng Nghị không hề trả lời. Qua bữa sau, quân Nghị xông vào đánh trước, vừa mới giao phong đã đổ vỡ, chạy tan bốn ngả,... Trộm nghĩ: binh đao là việc bất đắc dĩ của thánh nhân. Đại hoàng đế tham nghiêm ngự nơi cửu trùng. Những chuyện cương thường, Tôn Sỹ Nghị không hề tâu rõ từng việc một. Hắn che lấp tai, mắt của nhà vua đến nỗi làm cho sự thể rối ren đến thế. Châu chấu đá xe, tôi thật không dám. Song cửa nhà vua xa cách muôn dặm, hễ tôi nhúc nhích làm gì liền bị kẻ khốn thần hiếp đáp. Không sao nhịn nổi, nên hình tích mới dường như chống cự. Thiết nghĩ nước tôi từ Đinh, Lê, Lý, Trần trở đi thế đại đổi thay, chẳng phải chỉ có một họ. Nếu ai có thể làm rào giậu ở phương nam thì thiên triều lượng rộng như biển, thường vẫn làm ngơ lỗi nhỏ,... Nay lòng người đã chán nhà Lê, con cháu họ Lê đói kém, hèn yếu, không được lòng dân theo về. Tôn Sỹ Nghị vì cớ nông nổi; không thấu suốt sự tình và lý do... Hắn gây mối binh tranh khiến cho bọn sinh linh phải cay đắng, khốn khổ,... Tôi đóng quân ở thành Long Biên, nghển cổ ngóng trông về cửa trời,...
Tôi xin kính cẩn sai sứ sang cửa cung khuyết, xung phiên, sửa lễ cống. Lại đem số người hiện còn của nhà vua dâng nộp để tỏ tấc dạ thật này,...”1. _______________
1. Lưu Văn Lợi: Ngoại giao Đại Việt, Sđd, tr. 173-179.
23
Tờ biểu phân tích sâu sắc, lập luận vô cùng chặt chẽ, lời lẽ hết sức mềm dẻo, nhún nhường. Trong việc tiếp sứ thần Trung Quốc, hoàng đế Lê Hoàn cũng rất linh hoạt, uyển chuyển. Đối với những sứ thần có thái độ ngạo mạn, có tâm địa xấu như Tống Cảo và Vương Thế Tắc, ông có đối sách mạnh, biểu dương sức mạnh quân sự, sự giàu có, thịnh vượng, uy hiếp tinh thần sứ Tống. Còn đối với sứ thần có học thức, giỏi văn thơ như Lý Giác, ông đón tiếp với cách ứng xử khác: rất văn hóa, nêu bật Đại Việt có nhiều nhân tài,... Ứng xử của cha ông ta trong ngoại giao với Trung Quốc hết sức mềm dẻo, linh hoạt, uyển chuyển, song kiên quyết, không nhân nhượng nguyên tắc. Triều Lý đã kiên quyết, kiên trì đòi bằng được vùng đất bị nhà Tống chiếm trước là hai động Vật Dương, Vật Ác. Các vua Trần trước sau như một, bác bỏ những yêu sách phi lý của nhà Nguyên như: đòi vua Trần sang chầu, đòi kê khai dân số, quân dịch và đặt quan Darugatri (cố vấn), và kiên quyết chống thái độ hống hách của các sứ thần Mông Cổ.
Biết giành thắng lợi từng bước trong đấu tranh ngoại giao
Nước nhỏ rất khó có thể chiến thắng ngay trước đối thủ mạnh. Trong cuộc đấu tranh với đối thủ lớn hơn mình gấp nhiều lần là phong kiến Trung Hoa, phương cách tất yếu là phải biết giành thắng lợi từng bước. Đó là lấy yếu đánh mạnh,
24
lấy ít địch nhiều. Phương sách này đã từng bước hình thành và trở thành một nguyên lý trong đấu tranh ngoại giao của Đại Việt.
Năm 905, Khúc Thừa Dụ giành được quyền tự trị, song phải đến năm 1175, nghĩa là gần 300 năm sau, Trung Quốc mới chịu công nhận nước ta là một quốc gia có chủ quyền, sách phong vua Lý Anh Tông là An Nam quốc vương.
Lê Hoàn lên ngôi hoàng đế năm 980, song chỉ được phong chức Tiết độ sứ, một chức quan đứng đầu quận, huyện và sau 16 năm, đến tận năm 996 mới đấu được chức Nam Bình vương.
Nhà Lý phải đấu tranh suốt năm năm kể từ lúc quân Tống bị đánh bại mới thu hồi được đất Quảng Nguyên. Nhà Trần suốt 35 năm đấu tranh quân sự, ngoại giao, từng bước đẩy lùi những hành động ngang ngược, yêu sách láo xược và ba lần đập tan chiến tranh xâm lược mới buộc quân Nguyên bãi binh. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống quân Minh do Lê Lợi - Nguyễn Trãi lãnh đạo phải mất 10 năm mới giành được thắng lợi,...
Phẩm chất của các nhà ngoại giao Việt Nam trong lịch sử
Trong lịch sử bang giao thời phong kiến Việt Nam, việc chọn người đi sứ, nhất là đi sứ sang Trung Hoa rất quan trọng và yêu cầu rất cao. Mục đích của việc đi sứ thường là đề nghị phong vương, sang triều cống, sang đàm phán về đất đai, đàm
25
phán hòa bình, giải quyết hậu quả chiến tranh, mừng vua mới lên ngôi hay mừng phong Hoàng Thái tử, v.v.. Đi sứ sang Trung Quốc thường là những quan tài giỏi, đỗ đạt cao như: Lê Văn Thịnh, người đỗ đầu khoa thi đầu tiên trong lịch sử Việt Nam (thời Lý thế kỷ XI); Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi (thời Trần thế kỷ XIV); Trạng nguyên Nguyễn Trực và Trạng nguyên Phạm Đôn Lễ (nhà Lê thế kỷ XV); Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan (nhà Lê thế kỷ XVI - XVII); Trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo (nhà Lê thế kỷ XVII); nhà bác học Lê Quý Đôn (nhà Lê thế kỷ XVIII); Tiến sĩ Ngô Thì Nhậm (thời Tây Sơn thế kỷ XVIII); cử nhân Trịnh Hoài Đức (nhà Nguyễn thế kỷ XIX), v.v..
Các đại quan được triều đình cử tiếp sứ giả Trung Hoa cũng được coi là các nhà ngoại giao. Họ đều là những quan đỗ đạt cao, có kiến thức sâu rộng như: Trạng nguyên Nguyễn Hiền (nhà Trần thế kỷ XIII); Trạng nguyên Lương Thế Vinh (nhà Lê thế kỷ XV), v.v..
Các nhà ngoại giao Việt Nam đều là những nhà văn hóa lớn, có kiến thức uyên bác về lịch sử, văn hóa, địa lý của cả Việt Nam và Trung Quốc, hiểu sâu sắc về thời cuộc và giỏi thơ phú, v.v.. Mỗi người lại có những biệt tài riêng như Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, rất giỏi đánh cờ và đã đánh thắng Trạng cờ Trung Hoa; Trạng nguyên Lương Thế Vinh còn là nhà toán học tài hoa, đã thành công trong việc cân voi, đo tờ giấy mỏng theo yêu
26
cầu của sứ thần Trung Hoa; Nhà bác học Lê Quý Đôn có kiến thức uyên thâm về nhiều ngành khoa học từ lịch sử đến địa lý, pháp luật, chính trị, thiên văn, văn học, thơ ca. Ông còn là tác giả của 14 bộ sách như: Đại Việt Thông sử, Kiến văn Tiểu lục, Vân đài Loại ngữ,... và theo Phan Huy Chú, trong Lịch triều Hiến chương Loại chí thì ông còn là tác giả của 17 công trình khác.
Với tính chất “mang chuông đi đấm xứ người”, các nhà ngoại giao - sứ thần Việt Nam có trách nhiệm đại diện cho một quốc gia văn hiến, không thua kém gì văn hiến Trung Hoa để xóa bỏ thói quen của “Con Trời” gọi nước Việt Nam là “Man Di”. Đặc biệt sứ thần phải “không làm nhục mệnh Vua”. Muốn thực hiện tốt nhiệm vụ, các sứ thần phải có kiến thức uyên thâm và đặc biệt phải thông minh, có tài ứng đối. Lịch sử còn ghi lại tài ứng đối tuyệt vời của sứ thần Mạc Đĩnh Chi với quan lại triều Nguyên từ việc đáp lại câu đối ở cửa ải Nam Quan để được đi qua, đến xé màn mỏng chim sẻ đậu trên cành trúc, làm thơ vịnh chiếc quạt trước mặt vua Nguyên, đối đáp với các quan lại nhà Nguyên, v.v.. Do khâm phục kiến thức sâu rộng và biệt tài ứng đối của Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, vua Nguyên đã phong ông là Lưỡng quốc Trạng nguyên. Nhà bác học Lê Quý Đôn với tài trí thông minh tuyệt vời, mẫn tiệp, kiến thức uyên thâm về nhiều lĩnh vực, làm cho các quan lại nhà Thanh phải hết sức khen ngợi, kính phục mà
27
nói rằng: “Thượng quốc tôi có tiếng là văn hiến, nhiều nhân tài, nhưng so với sứ thần đây thì cũng chỉ được vài người”. Học vấn uyên bác của Lê Quý Đôn làm cho cả sứ thần Lưu Cầu cũng phải kính phục.
Các nhà ngoại giao - sứ thần Việt Nam trong lịch sử đều phải biết làm thơ, phú để thể hiện thần dân của một nước có học, có văn hiến. Các nhà ngoại giao thường làm thơ để thi và tiếp các quan lại địa phương ra đón trên đường đến thủ đô, để phụ họa với các quan trong triều, để chúc tụng vua, để tiễn biệt, v.v.. Lịch sử ngoại giao của cha ông ta đã ghi lại một số sự kiện tiêu biểu. Đỗ Pháp Thuận hay Sư Đồ Thuận là người học rộng, giỏi việc đối đáp nên được Hoàng đế Lê Hoàn mời vào triều bàn việc nước. Mùa Xuân năm 987, biết Lý Giác, một người giỏi văn thơ, được nhà Tống cử sang sứ nước ta, nên vua Lê Hoàn đã cử Đỗ Pháp Thuận giả làm người lái đò, đón sứ thần Trung Hoa. Thấy hai con ngỗng trời đang bơi, Lý Giác liền ngâm hai câu thơ. Sư Đỗ Thuận nghe xong, đọc tiếp luôn hai câu tạo thành bài thơ tuyệt hay. Lý Giác thấy người lái đò mà cũng giỏi làm thơ, hay chữ như vậy rất có ấn tượng và cảm phục. Một mẩu chuyện khác là về tài văn thơ của Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi khi đi sứ sang nhà Nguyên. Lúc ông đang có mặt ở Yên Kinh thì Công chúa Nguyên Thế Tổ mất (cũng có sách nói là Hoàng hậu). Lễ tang tổ chức trọng thể và các sứ thần
28
được mời dự. Sứ Việt Nam được vua Nguyên mời đọc văn tế viết sẵn chỉ có bốn chữ “Nhất”. Ông không hề bối rối và đọc ngay:
“Thanh thiên nhất đóa vân,
Hồng lô nhất điểm tuyết,
Ngọc uyển nhất chi hoa,
Dao trì nhất phiếm nguyệt,
Y!
Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết”. Dịch nghĩa:
Một đám mây trên trời xanh,
Một giọt tuyết trong lò đỏ,
Một cành hoa vườn thượng uyển,
Một vầng trăng Dao trì.
Than ôi!
Mây rã, tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết1.
Một bài văn tế quá đặc sắc, đã nói lên lòng thương tiếc sâu sắc đối với công chúa đã quá cố. Năm 1597, Phùng Khắc Khoan sang Yên Kinh để cầu phong cho vua Lê Thế Tông, đã phải chờ bốn, năm tháng mà không được vào chầu. Ông đã làm 36 bài thơ chúc thọ, dâng lên vua Minh. Vua xem xong khen là trung hậu, rồi đặc cách phong ông là trạng nguyên. Đây chính là những trường hợp ngoại giao bằng văn chương và đã thành công.
_______________
1. Nguyễn Thế Long: Chuyện đi sứ, tiếp sứ thời xưa, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2001, tr.153-154.
29
Một đòi hỏi nữa đối với các sứ thần là lòng can đảm, không sợ chết, không sợ tù tội. Đào Tử Kỳ được vua Trần Nhân Tông cử sang sứ Nguyên, căm tức vì ba lần thất bại trong việc xâm lược Việt Nam, hòng kiếm cớ xâm lược lần nữa, vua Nguyên đe dọa sứ thần ta. Đào Tử Kỳ đã vạch mặt kẻ xâm lược, kiên quyết đấu tranh về việc vua Trần không sang chầu và bị giam một năm. Năm 1413, Nguyễn Biểu đi sứ bị tướng nhà Minh thết đãi bằng cỗ đầu người, hòng đe dọa, lung lạc tinh thần sứ giả. Ông không hề khiếp đảm, bình tĩnh ăn và làm thơ nói về sự kiện này. Quan quân nhà Minh thấy vậy rất kính phục khí phách, tài năng của Nguyễn Biểu và cho về. Sau đó theo lời xàm tấu của tên Việt gian, ông bị bắt lại và bị giết. Trước khi chết ông đã vạch trần bộ
mặt xâm lược, giả nhân, giả nghĩa của quân Minh. Năm 1637, Giang Văn Minh đi sứ sang nhà Minh. Trong buổi tiếp Sứ thần Đại Việt, vua Minh ra câu đối đầy khiêu khích, nhắc đến việc Mã Viện dựng cột đồng ở Giao Châu: “Đồng trụ
chí kim đài dĩ lục” (Cột đồng đến nay rêu đã phủ xanh). Giang Văn Minh đã dũng cảm, khảng khái đáp lại bằng vế đối: “Đằng giang tự cổ huyết do hồng” (Sông Bạch Đằng từ xưa máu còn đỏ) nói lên ba lần thất bại thảm hại của thiên triều trên sông Bạch Đằng nên đã bị vua Minh khép tội chết vì “khinh mạn thiên triều”...
30
Các sứ thần ta còn có tài quan sát, biết làm tình báo. Đặng Nhữ Lâm, sứ thần đời vua Trần Nhân Tông, bên cạnh công tác ngoại giao đã vẽ bản đồ về địa thế cung điện triều Nguyên, ghi chép tình hình quân sự, ký họa địa hình núi non trên đường đi và tìm mua sách về địa lý (loại sách cấm người nước ngoài). Phó sứ Trần Lư (thời Lê Hiển Tông), năm 1505 được cử đi sứ Trung Hoa đã nghiên cứu kỹ và đã học được kỹ thuật sơn son thếp vàng, thếp bạc, về truyền lại cho dân ta. Chánh sứ Phùng Khắc Khoan thì mang được hạt ngô, vừng giống về nước dạy dân ta gieo trồng, chăm sóc và học được kỹ thuật dệt the lụa bằng tơ
tằm qua lần đi sứ Trung Hoa. Và còn nhiều tấm gương như vậy trong lịch sử nước nhà.
Đôi điều về sứ thần
Các vua Đại Việt cử sứ thần sang Trung Hoa trước hết đều có mục đích triều cống, xin sách phong. Ngoài ra, việc đi sứ còn có các mục đích khác như mừng vua mới lên ngôi, phong hoàng thái tử, tạ ơn, báo tang, xin kinh Phật, sách,... Mặt khác, Đại Việt còn cử sứ thần sang Trung Hoa để
đấu tranh với thiên triều về vấn đề đất đai và thăm dò tình hình. Các vua quan Trung Hoa thường hay thử thách sứ thần Đại Việt bằng cách đe dọa, đặt ra thơ, phú, vế đối lắt léo, hoặc xỏ
xiên, khiêu khích, cốt thử trình độ học vấn, tài trí thông minh, tháo vát, đôi khi để làm nhục sứ ta.
31
Như vậy, việc đi sứ là việc hệ trọng quốc gia, là cuộc đấu lý, đấu trí, bảo vệ danh dự quốc gia. Chính vì vậy, người được cử đi sứ đều là những quan lại có học vị, có tri thức uyên bác, sâu rộng, có bản lĩnh kiên cường và khôn khéo, linh hoạt trong ứng xử. Đồng thời, sứ thần cũng phải là người không sợ khó khăn, gian khổ, có dũng khí và lòng dũng cảm như trạng nguyên Lê Văn Thịnh, Đào Tông Nguyên (nhà Lý), Đặng Nhữ Lâm, Mạc Đĩnh Chi, Giang Văn Minh (nhà Trần), Nguyễn Trãi, Nguyễn Đăng Cảo, Nguyễn Đăng Đạo, Nguyễn Công Hãng, Lê Quý Đôn (nhà Lê), Ngô Thì Nhậm, Vũ Văn Dũng, Võ Huy Tấn (nhà Tây Sơn), v.v.. Nhiều sứ thần triều Trần đi sứ sang Nguyên là như đi vào cõi chết, như Đỗ Khắc Chung vào trại Ô Mã Nhi. Nguyễn Biểu đến trại Trương Phụ (tướng nhà Minh) để dâng biểu thì bị thử thách tinh thần bằng cỗ đầu người và bị giết hại. Đào Tử Kỳ bị giam ở Giang Lăng 1 năm, Lê Quang Bí năm 1548 đi sứ bị giam lỏng 18 năm. Không ít sứ thần bị sát hại như Nguyễn Nhật Tư và Lê Ngân sang cầu phong cho Trần Quý Khoáng năm 1411 và bị giết. Sứ thần Giang Văn Minh cũng bị vua Thanh sát hại trong chuyến đi sứ năm 1637,...
Ngoài việc đi sứ sang Trung Hoa, việc đón tiếp các sứ thần Trung Hoa sang Đại Việt cũng là công việc bang giao hệ trọng. Các vua Trung Hoa thường cử sứ thần là thượng thư hoặc các đại quan như tổng đốc, tuần phủ các tỉnh biên giới
32
mang sắc phong và ấn tín sang Việt Nam. Vì vậy, các vua Đại Việt cũng cử các đại quan có kiến thức uyên thâm, có bản lĩnh và khôn khéo để tiếp sứ như sư Đỗ Thuận, trạng nguyên Nguyễn Hiền, Lương Thế Vinh,...
Sứ đoàn
Thành phần sứ đoàn thường phụ thuộc vào tình hình chính trị, bang giao và yêu cầu của chuyến đi. Theo Lê Quý Đôn, từ thời Lê, thành phần sứ đoàn gồm:
- 1 viên chánh sứ;
- 2 viên phó sứ;
- 5 viên thư ký của chánh sứ;
- 8 viên thư ký của 2 phó sứ;
- 3 viên thông ngôn;
- 2 thầy thuốc;
- 2 người có nhiệm vụ ghi chép.
Lộ trình sứ đoàn: Qua mục Nam Quan, sứ đoàn theo đường bộ qua các tỉnh miền Hoa Nam, sau đó đi thuyền lên kinh đô Trung Quốc. Khi Nam Tống chưa bị diệt, sứ đoàn nhà Trần đi theo đường Vân Nam. Hành trình trên đất Trung Quốc, tại Nam Quan, phía Trung Quốc cử đội Trường tống quan, qua các địa phương, các tỉnh cử Đoạn tống quan (trong địa phận của mình) đi theo tiếp đãi và hộ tống. Khi qua các tỉnh, sứ đoàn đều yết kiến tổng đốc sở tại để cho xem quốc thư, giấy thông hành và cống phẩm.
33
Quy trình trình quốc thư: quốc thư được trình ở bộ Lễ. Sứ đoàn tiến vào dinh thượng thư theo cửa bên trái và túc trực ở đó. Gian giữa đặt bàn to, trần thiết sang trọng. Sửa soạn xong, quan tham tri bộ Lễ mời chánh sứ tiến vào và bệ dâng quốc thư lên. Nhân viên phòng thông dịch đón và đưa lên thượng thư. Quan thượng thư trịnh trọng đặt quốc thư lên giữa bàn và quay về chỗ cũ. Chánh sứ, hai phó chánh sứ và sứ đoàn lần lượt khấn ba khấn, chín vái rồi lui ra. Bộ Lễ nhận quốc thư trình lên Hội đồng cơ mật.
Việc đón tiếp sứ thần Trung Hoa sang phong vương phải tuân thủ những quy định được đề ra trong các bộ luật lễ như Đại Minh tập lễ, Đại Thanh tập lễ. Các bộ luật lễ này quy định rất cụ
thể, chi tiết, ví dụ như khi vào bái kiến thiên tử thì phải vái lạy bao nhiêu, như thế nào,... Phan Huy Chú sau này đã ghi lại trong Lịch triều hiến chương loại chí, phần viết về “Bang giao chí”. Lời lẽ trong các bài biểu, trần tình, thư, công văn phúc đáp của các vua Đại Việt rất nhún nhường, hạ mình, song luôn giữ vững nguyên tắc là bảo vệ độc lập, chủ quyền, tự tôn dân tộc.
Cần phải thấy rằng, trong hàng ngàn năm phong kiến, các đế chế và sĩ phu Trung Hoa thường coi nước ta là ngoại phiên, di địch, có cái nhìn rất kỳ thị dân tộc ta. Ông cha ta trong những dịp bang giao sứ sự đã chứng minh một cách hùng hồn rằng, Việt Nam có một nền văn hóa riêng -
34
nền văn hóa ấy tuy có tiếp thu văn hóa Hán Đường, như Triều Tiên, nhưng không kém gì văn hóa Hán Đường ngay ở trên đất Trung Hoa. Thơ ca cũng vậy. Do hạn chế, bế tỏa của một vùng văn hóa đồng văn, ông cha ta chưa thể hình dung ra một nền văn hóa nào cao hơn và khác hơn văn hóa Trung Hoa. Hơn nữa, do sự nghiệt ngã trong quan hệ bang giao, sứ thần ta không dễ gì biểu dương nền văn hóa văn học chân chính, phong phú về
lòng yêu nước, tự hào dân tộc và nhân ái thương người, hình thành từ nền văn hóa, văn học dân gian giàu bản sắc, tâm hồn dân tộc và từ sự tiếp biến văn hóa, văn học nước ngoài. Nhưng điều chủ
yếu là ông cha ta đã có ý thức về tính độc lập, về lòng tự hào đối với trình độ văn hóa của một đất nước có nền văn hiến lâu đời.
35
ĐỖ THUẬN
(915 - 990)
Nhà sư nổi tiếng đời Tiền Lê, không rõ quê quán, tên thật là Đỗ Pháp Thuận, thường gọi là Đỗ Thuận.
Ông là người có tài thơ văn, giỏi chữ Hán, có tài ứng đối. Tham gia chính sự thời vua Lê Đại Hành, ông được vua quý trọng, phong làm pháp sư. Khi vua Lê Hoàn hỏi ông về kế sách trị quốc, ông đã làm bài thơ nổi tiếng “Quốc tộ” (Vận nước). Bài thơ chỉ có bốn câu, hàm súc, cô đọng, nói lên khát vọng của muôn đời, khát vọng hòa bình, hạnh phúc. Trong bài thơ ông cũng nêu lên việc ứng xử của nhà vua với muôn dân.
Quốc tộ như đằng lạc
Nam thiên lý thái bình
Vô vi cư điện các
Xứ xứ tức đao binh
Dịch thơ:
Vận nước như mây cuốn
Trời Nam mở thái bình
Vô vi trên điện các
Xứ xứ hết đao binh
Sau khi chúng ta chiến thắng quân Tống, mùa Xuân năm 987, vua Tống cử Lý Giác đi sứ sang
36
nước ta. Lý Giác vốn là một văn thần, học thức rộng, thơ văn giỏi. Vì vậy, để sứ Tống thấy nước ta có nền văn hiến cao, nhiều nhân tài, vua Lê Hoàn đã cử nhà sư Đỗ Thuận tiếp sứ.
Được lệnh vua, sư Đỗ Thuận giả làm người chèo thuyền trong đoàn thuyền lên đón sứ Tống gần chùa Sách (huyện Nam Sách, Hải Dương), Lý Giác được bố trí ở thuyền do sư Đỗ Thuận chèo. Tương truyền, một buổi chiều, đứng mạn thuyền ngắm sông nước, mây trời, thấy hai con ngỗng thong thả bơi, Lý Giác bất giác ngâm:
Nga nga lưỡng nga nga
Ngưỡng diện hướng thiên nha.
Dịch thơ:
Ngỗng kìa ngỗng một đôi
Ngửa mặt nhìn chân trời.
Sư Đỗ Thuận liền ngâm tiếp:
Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo bãi thanh ba.
Dịch thơ:
Lông trắng nhờ nước biếc
Rẽ sóng chèo hồng bơi1.
Bốn câu thơ trên hợp thành một bài thơ tuyệt hay. Lý Giác rất khâm phục người “lái đò” không những biết làm thơ, họa thơ, mà còn có kiến thức văn học uyên thâm. Hai câu thơ của Lý Giác _______________
1. Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Văn hóa - Thông tin, in lần thứ hai, Hà Nội, 2005, t.1, tr.230.
37
ngâm lấy ý trong bài thơ của Lạc Tấn Vương, nhà thơ nổi tiếng đời Đường và Lý Giác đã điều chỉnh vài chữ cho hợp. Vậy mà ông “lái đò” lại ngâm tiếp hai câu cuối, thay vài chữ cho hợp cảnh và hợp với hai câu của Lý Giác.
Lý Giác vô cùng khâm phục tài làm thơ và hiểu biết của sư Đỗ Thuận. Khi về đến Công quán đã làm một bài thơ tặng sư Đỗ Thuận, trong đó tỏ ý tôn trọng Lê Hoàn không khác gì vua Tống.
38
ĐINH BỘ LĨNH
(925 - 979)
Là vị vua sáng lập nhà Đinh, nước Đại Cồ Việt, quê ở động Hoa Lư, châu Đại Hoàng, nay là huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình, con quan thứ sử Châu Hoan (Nghệ An) Đinh Công Trứ.
Cha mất sớm, ông theo mẹ về quê nương thân với chú ruột là Đinh Dự. Thuở nhỏ, ông thường cùng bạn bè lấy cờ lau làm cờ tập trận và tỏ ra là người có tài chỉ huy. Ông kết thân với Đinh Điền, Nguyễn Bặc, những người sau này cùng ông tạo nên sự nghiệp. Do chú ghét bỏ, nên ông sang đầu quân vào đạo binh của sứ quân Trần Lãm ở Bố Hải Khẩu, được Trần Lãm gả con gái. Khi Trần Lãm mất, ông đưa quân về giữ Hoa Lư, hùng cứ
một phương.
Năm 963, ông dẹp được các sứ quân khác và năm Mậu Thìn 968 ông lên ngôi vua, lấy tôn hiệu là Đại Thắng Minh hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư, niên hiệu là Thái Bình.
Việc ông xưng đế về mặt đối ngoại có ý nghĩa khẳng định nền độc lập, tự chủ và tự đặt vị thế mình ngang với các hoàng đế Trung Hoa.
Không những “đế” mà ngay cả “đô” cũng vậy. Đô của Đại Cồ Việt có thể sánh với kinh đô hoàng
39
đế phương Bắc. Hàng loạt câu đối ở đền vua Đinh đã thể hiện tư thế đối ngoại đó: “Hoa Lư che đỉnh vô Tần Sở; Bông Sách xây nền tự Cảo Phong”, có nghĩa là kinh đô cờ lau dựng nghiệp đã ở vào thế so với Trường An của hoàng đế thời Hán, Đường và Bông Sách gần Bồ Đề, nên có thể sánh với Cảo Phong, đế đô nổi tiếng của nhà Chu.
Về ngoại giao, nhà sử học Phan Huy Chú nhận xét trong Lịch triều hiến chương loại chí, xét nước ta từ thời Hùng Vương mới bắt đầu thông hiến với Trung Quốc nhưng danh hiệu còn nhỏ, không được dự vào hàng các chư hầu triều hội ở
nhà Minh Đường (lệ nhà Chu). Rồi Triệu Đà kiêm tính, nhà Hán phong Đà làm Nam Việt vương chỉ được sánh với chư hầu của Trung Quốc, chưa từng được nêu là một nước,... Đến khi Đinh Tiên Hoàng bình định các sứ quân, khôi phục, mở mang bờ cõi bấy giờ sách phong của Trung Quốc mới chấp nhận cho đứng riêng là một nước.
Để tránh đụng độ, năm Nhâm Thân 972, Đinh Tiên Hoàng sai con là Đinh Liễn sang cống nhà Tống, Trung Quốc. Vua Tống sai sứ sang phong cho Tiên Hoàng làm Giao Chỉ quận vương và phong cho Nam Việt vương Đinh Liễn làm Tiết độ
sứ An Nam đô hộ. Từ đó, Đại Cồ Việt giữ lệ sang triều cống phương Bắc.
Năm Kỷ Mão 979, Đinh Tiên Hoàng và con cả Đinh Liễn bị hầu cận là Đỗ Thích giết hại.
40
LÊ HOÀN
(941 - 1005)
Là vị vua đầu tiên của nhà Tiền Lê, trị vì từ năm 980 đến năm 1005, quê ở thôn Trung Lập, xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Lê Hoàn sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, cha mẹ đều mất sớm, ông phải làm con nuôi.
Năm 956, ông theo con trai trưởng của Đinh Bộ Lĩnh là Đinh Liễn phò giúp nhà Đinh. Năm 971, ông được phong chức Thập đạo tướng quân - tổng chỉ huy 10 đạo quân trong nước. Năm 979, Đinh Tiên Hoàng và con cả là Đinh Liễn bị Đỗ Thích giết hại, con thứ Đinh Toàn mới sáu tuổi nối ngôi. Nhà Tống lợi dụng tình hình đó đưa quân sang xâm lược. Với sự ủng hộ của tướng sĩ, thái hậu Dương Vân Nga trao ngôi báu cho Lê Hoàn. Sau khi dựng triều đại mới và đánh tan quân Tống xâm lược, Lê Hoàn sai sứ sang Tống cầu phong. Tuy bị thua trận, song vua Tống chưa chịu công nhận ngay Lê Hoàn là vua nước Nam mà chỉ phong các chức quan đô đốc, thái úy, đặc tiến và mãi đến năm 993 mới chịu phong cho ông làm Giao Chỉ quận vương và năm 997 phong Nam Bình vương. Sở dĩ 16 năm sau chiến thắng quân Tống, vua Tống mới phong vương cho Lê Hoàn vì
41
Đại Cồ Việt đã đủ mạnh uy hiếp biên giới phía nam Trung Hoa. Muốn giữ yên bờ cõi phải phong vương cho Lê Hoàn, buộc Lê Hoàn theo nghĩa bề tôi. Trong cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng đất nước, Lê Hoàn không chỉ là nhà lãnh đạo tài ba, nhà quân sự lỗi lạc mà còn là nhà ngoại giao xuất sắc. Ông không chỉ đánh tan quân Tống, mà còn đẩy mạnh sản xuất, chấn hưng đất nước, rồi bình Chiêm Thành ở phía nam. Về đối ngoại, ông là nhà ngoại giao khôn ngoan, mềm dẻo, song rất kiên quyết.
Năm Canh Dần 990, vua Tống sai Tống Cảo dẫn đầu đoàn sứ mang chiếu thư phong cho Lê Hoàn hai chữ “Đặc tiến”. Vốn biết sứ Tống hống hách, ngạo mạn nên Lê Hoàn thay đổi cách đón tiếp. Ông sai Đinh Thừa Chính mang chín chiến thuyền, 300 quân sang tận Liên Châu (Quảng Đông) để đón và bảo vệ sứ đoàn. Đoàn sứ Tống đến Hoa Lư trong cảnh khác lạ: dưới sông thuyền chiến, tinh kỳ san sát; bên sườn núi quân lính võ phục chỉnh tề, gươm giáo sáng lòa, dưới cánh đồng hàng trăm ngàn trâu bò rong ruổi. Thấy nước ta hùng mạnh nên đoàn sứ giả đã bớt kiêu căng.
Khi nhận chiếu thư, theo nghi lễ triều Tống, vua các nước phải lạy, song lấy cớ đau chân do ngã ngựa, Lê Hoàn không chịu lạy mà sứ Tống cũng phải chịu.
Lê Hoàn cho mở yến tiệc ngoài bãi biển để chủ, khách vừa ăn vừa múa hát, lấy trò đâm cá
42
làm vui. Tuy là vua, song Lê Hoàn cởi mũ, giày, lội xuống đâm cá, các quan đều làm theo. Sứ Tống tỏ ra lúng túng, vì cởi hia, mũ, áo, cân đai thì không còn ra thể thống “thiên sứ”, nhưng cứ ngồi thì không khỏi sượng sùng và thất lễ. Lê Hoàn còn tự mình hát mời rượu sứ thần, Tống Cảo lại càng khó xử.
Sau tiệc vui, Lê Hoàn sai người khiêng con trăn lớn đến nói sứ Tống nếu ăn được sẽ giết thịt. Sứ Tống khiếp sợ từ chối. Ông lại sai mang đến hai con hổ chờ để sứ Tống thưởng ngoạn. Sứ thần lại một phen mất vía. Khi Tống Cảo về, ông báo nếu có quốc thư thì trao luôn ở biên giới, không phiền sứ đến kinh đô.
Lê Hoàn mất năm 1005, tại điện Trường Xuân, thọ 63 tuổi, làm vua 24 năm.
43
LÝ THƯỜNG KIỆT
(1019 - 1105)
Là một danh tướng dưới thời nhà Lý, có công lớn trong việc đánh bại quân nhà Tống vào năm 1075-1077. Ông được xem là người đã viết ra bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc - “Nam quốc sơn hà”. Tên thực là Ngô Tuấn, tự Thường Kiệt, được mang họ vua, quê ở phủ Thái Hòa, thành Thăng Long, tức Hà Nội ngày nay.
Ông có tài văn, võ, làm đến thái úy, phục vụ ba triều vua Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông và Lý Nhân Tông, có công đánh tan quân xâm lược của nhà Tống, bình Chiêm. Tháng 1-1077, mấy chục vạn quân Tống do Quách Quỳ, Triệu Tiết cầm đầu sang xâm lược nước ta. Ông chặn giặc trên phòng tuyến Như Nguyệt (sông Cầu), đang đêm ông cho người giả làm thần đọc vang bài thơ “Thần” từ đền thờ Trương Hống, Trương Hát (huyện Yên Phong, Bắc Giang), làm nhụt ý chí xâm lược của quân Tống, động viên quân ta. Bài thơ được xem là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc ta.
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
44
Trong bối cảnh quân Tống ở thế tiến thoái lưỡng nan và thấy sức mình cũng đã mỏi mệt, cầm cự lâu không phải là kế sách hay, Lý Thường Kiệt đã quyết định “dùng biện sĩ để bàn hòa, không nhọc tướng tá, khỏi tốn xương máu mà bảo toàn được tổng miếu” (Nghĩa là: dùng ngoại giao kết hợp với quân sự, lui được giặc mà không phải đánh). Ông cử sứ thần Kiều Văn Ứng sang doanh trại Quách Quỳ đề nghị “rút binh, thì sẽ lập tức sai sứ sang tạ tội và tu cống”.
Đầu tháng 2-1077, Quách Quỳ chấp nhận rút quân. Chủ trương dùng biện sứ bàn hòa của Lý Thường Kiệt giành thắng lợi, để lại bài học quý cho ngoại giao Việt Nam: đánh kết hợp đàm. Chiến lược này được chúng ta vận dụng rất tài tình trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước.
45
ĐÀO TÔNG NGUYÊN
(Thế kỷ XI)
Danh thần đời Lý Nhân Tông (1072-1127), không rõ năm sinh, năm mất, không rõ quê quán. Đào Tông Nguyên là một nhà ngoại giao tài giỏi, hết lòng sửa sang chính trị, văn hóa. Đầu năm 1078, ông được vua Lý Nhân Tông cử đi sứ sang nước Tống để đòi lại đất Quảng Nguyên. Với tài ngoại giao của mình, ông đã buộc nhà Tống trả lại Quảng Nguyên, đổi lại chúng ta đã trao trả cho nhà Bắc Tống 221 tù binh bị bắt trong chiến trận. Tuy vậy, chúng đã giữ lại một số vùng đất do các tù trưởng của nhà Lý nộp cho nhà Bắc Tống, trong đó có động Vật Dương, Vật Ác. Năm 1082, ông lại được cử đi sứ lần thứ hai để đòi đất, rồi dự Hội nghị Vĩnh Bình tháng 6-1083 về vấn đề Vật Dương, Vật Ác. Tại hội nghị, ông đã đấu tranh quyết liệt đòi nhà Bắc Tống trả đất song không thành. Ông đã bỏ hội nghị ra về. Nhà Lý đã sáu lần cử sứ đi đòi hai vùng Vật Dương, Vật Ác.
46
LÊ VĂN THỊNH
(Thế kỷ XI)
Văn thần đời Lý, không rõ năm sinh, năm mất. Quê ở thôn Đông Cửu, huyện Gia Định (nay là huyện Gia Lương, Bắc Ninh).
Lúc nhỏ thông minh, nhớ lâu, học giỏi. Năm 1075, nhà Lý mở khoa thi đầu tiên ở nước ta, ông đỗ trạng nguyên, được cho vào cung hầu vua học, rồi được phong thị lang bộ Binh. Tháng 7-1084, ông được vua Lý cử làm chánh sứ cùng với Nguyễn Bồi tới trại Vĩnh Bình, Châu Ung, Quảng Tây, Trung Quốc thương nghị với đại diện nhà Bắc Tống đòi trả lại nước ta các động Vật Dương, Vật Ác, thuộc châu Quảng Nguyên (nay là Cao Bằng), mà Nùng Chí Cao, tù trưởng địa phương đã nộp cho nhà Bắc Tống. Trong lúc bàn việc cương giới, nhà Bắc Tống khẳng định chỉ trả đất quân Bắc Tống lấy, còn đất mà quan lại địa phương nộp cho nhà Tống để thần phục nhà Bắc Tống là hai động Vật Dương, Vật Ác thì không chịu trả. Lê Văn Thịnh đã dùng lý lẽ pháp luật biện luận để phân biệt việc ủy nhiệm cho quản lý khác với quyền sở hữu. Các tù trưởng chỉ có quyền quản lý, chứ không có quyền sở hữu, quyền sở hữu đều thuộc vua. Vậy tù trưởng nộp đất là bất hợp pháp.
47
Với lời lẽ khiêm nhường, sắc bén, ông buộc phía Bắc Tống trả lại đất sáu huyện và hai động, nhưng nhà Tống vẫn giữ Vật Dương và Vật Ác. Trở về nước, ông được cất lên chức thái sư.
Làm thái sư 12 năm, năm 1096, một hôm, ông đi chơi thuyền Hồ Tây cùng vua, không may vua bị ngã xuống nước. Ông bị ghép vào tội mưu đồ giết vua nên bị đày lên thượng lưu sông Thao (sông Hương, Thanh Hóa) (có tài liệu là sông Thao, Vĩnh Yên).
48
NGUYỄN HIỀN
(1234 - 1255)
Nhà hoạt động chính trị, ngoại giao dưới thời vua Trần Thái Tông; quê ở thôn Dương A, huyện Thượng Hiền, phủ Thiên Trường, nay là xã Nam Thắng, Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Lúc nhỏ, Nguyễn Hiền học rất thông minh, nổi tiếng là thần đồng. Ông chỉ học ở trường làng song học đâu nhớ đấy. Năm 1247, dưới thời Trần Thái Tông, triều đình mở khoa thi lấy thái học sinh (tiến sĩ). Bài thi đình do nhà vua đích thân ra đề. Đó là bài phú nói về con vịt từ giã mẹ đi chơi hồ. Nguyễn Hiền không chỉ hiểu sâu sắc đề, mà còn viết thành một bài phú có tính nghị luận rất xuất sắc, vừa tỏ
rõ khả năng văn chương, vừa thể hiện hiểu biết về cuộc sống. Ông đỗ trạng nguyên lúc mới 13 tuổi, cùng khoa này Lê Văn Hưu 17 tuổi đỗ bảng nhãn và Đặng Ma La đỗ thám hoa cũng 13 tuổi. Hôm dự lễ mừng các vị tân khoa, vua ngạc nhiên thấy vị trạng nguyên nhỏ tuổi, hỏi ông học với ai mà giỏi thế. Ông đáp: không có thầy dạy, chữ nào không biết thì hỏi các sư. Thấy trạng có vẻ tự phụ, vua cho rằng còn quá trẻ, bèn cho về học “lễ”, ba năm sau sẽ cho làm quan. Ông về quê lao động, giúp mẹ.
49
Hồi ấy, tuy chưa cho quân xâm lược nước ta, nhưng Mông Cổ thường hay cho sứ sang dò xét tình hình. Một lần sứ thần Mông Cổ sang ta mang theo hai câu đố để thử xem nước Nam có nhân tài không. Khi vua Trần mở quốc thư ra chỉ thấy có bốn câu thơ chữ Hán:
Lưỡng nhật bình đầu nhật,
Tứ sơn điên đảo sơn
Lưỡng vương tranh nhất quốc,
Tứ khẩu tung hoành gian.
Dịch nghĩa là:
Hai mặt trời bằng đầu nhau
Bốn hòn núi nghiêng ngả
Hai vua tranh một nước
Bốn miệng ngang dọc trong đó.
Thật là một bài thơ kỳ quặc, vua và các văn thần luận bàn mãi không giải được. Còn câu đố thứ hai: sứ thần Mông Cổ gửi cho ta một chiếc vỏ ốc xoắn và sợi chỉ mảnh thách tìm được cách xâu sợi chỉ qua vỏ ốc xoắn. Không ai xâu sợi chỉ qua vỏ ốc xoắn được. Các quan đề nghị cho người đi mời Nguyễn Hiền đang ở quê nhà vào kinh. Đối với bài thơ, Nguyễn Hiền nói ngay: đó chỉ là chữ “điền” và ông giải nghĩa bài thơ như sau:
Hai nhật bằng đầu để sóng hàng
Bốn sơn xáo lộn dọc cùng ngang
Hai vương nghiêng ngửa lo tranh nước Bốn khẩu liền nhau khép chữ vàng.
50
Việc thứ hai: xâu chỉ qua con ốc xoắn thì trạng trả lời bằng bài hát:
Tích tịch tang, tích tịch tang!
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng Bên thì lấy giấy mà bưng
Bên thì bôi mật kiến mừng kiến sang.
Sứ Nguyên thấy triều đình Đại Việt giải đáp được bài thơ và xỏ được chỉ qua vỏ ốc xoắn thì vô cùng kinh ngạc, biết nước ta có nhân tài, không dám coi thường, bớt kiêu căng, hách dịch. Sứ
Mông Cổ phục tài, triều đình thở phào. Vua phong cho ông tước Kim Tử Vinh Lộc đại phu, sau này được thăng thượng thư bộ Công. Khi ông mất, vua cho dân làng lập đền thờ, đổi tên huyện ở quê thành huyện Thượng Hiền.
51
TRẦN THÁNH TÔNG
(1240 - 1290)
Tên thật là Trần Hoảng, con trai thứ hai của vua Trần Thái Tông, là vị hoàng đế thứ hai của nhà Trần. Ông lên ngôi năm 1258, lấy hiệu là Trần Thánh Tông. Trần Thánh Tông trị vì được 21 năm (1258 - 1278), làm thái thượng hoàng ba năm thì qua đời, thọ 51 tuổi. Ông là vị vua nhân từ, trung hậu.
Về đối nội, ông dốc lòng xây dựng đất nước thái bình, thịnh trị. Vua quan tâm đến giáo hóa dân, khuyến khích việc học hành, thi cử chọn nhân tài cho đất nước như trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, sử thần Lê Văn Hưu... Vua cũng quan tâm đến dân nghèo bằng cách ra lệnh chiêu tập người nghèo khai hoang, lập trang hộ, nhờ đó họ
có cuộc sống ổn định.
Về đối ngoại, ông có chính sách ngoại giao mềm dẻo, song cũng rất cứng rắn, kiên quyết. Sau thất bại trong cuộc xâm lược nước ta lần thứ nhất (1258), nhà Nguyên - Mông buộc phải hòa hoãn với Đại Việt, song thường xuyên cử sứ thần sang ta để hạch sách và dò xét tình hình. Trần Thánh Tông đã khôn khéo tìm cách kéo dài thời kỳ hòa hoãn. Vua Nguyên bắt Đại Việt ba năm phải cống
52
một lần và phải cống cả nho sĩ, thầy thuốc, thầy bói, thầy tướng số, nghệ nhân giỏi; đồng thời đòi đặt quan giám sát tại các châu, quận, huyện của nước ta. Vua Trần Thánh Tông biết dã tâm của nhà Nguyên nên bên ngoài tỏ ra thần phục song bên trong chuẩn bị lực lượng sẵn sàng đối phó. Vua Trần Thánh Tông đã đấu tranh quyết liệt đòi bỏ tục cống người và đặt quan giám sát. Vua Nguyên phải chấp nhận bỏ tục cống người, song bắt Đại Việt thực hiện sáu điều ngang ngược: vua phải đích thân sang chầu, phải cho con em sang làm con tin, nộp sổ hộ khẩu, phải chịu binh dịch, phải nộp thuế và giữ lệ đặt quan giám sát. Trần Thánh Tông đã đấu tranh khôn khéo. Ông không sang chầu, nêu đủ lý do, không kê khai hộ khẩu, không thực hiện binh dịch, chấp nhận quan giám sát song làm vô hiệu hóa quan giám sát,... Ông còn kiên quyết chống lại thái độ hống hách của sứ thần, không lạy chiếu thư.
53
LÊ PHỤ TRẦN
(Thế kỷ XIII)
Là danh tướng đời Trần Thái Tông, quê ở Ái Châu, Thanh Hóa, không rõ năm sinh, năm mất. Có sách chép, ông tên thật là Lê Tân hoặc Lê Tân Trần, sau được Trần Thái Tông ban tên “Phụ
Trần” để tặng thưởng công lớn trong công cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ nhất (1258), làm quan đến chức ngự sử đại phu, tước bảo văn hầu dưới thời nhà Trần.
Trước khi quân Nguyên xâm lược Đại Việt, ông đã làm ngự sử trung tướng. Năm 1257, ông nổi tiếng trong nhiệm vụ bảo vệ vua rút lui qua sông Lô an toàn, kháng cự mãnh liệt quân Nguyên. Đầu năm 1258, quân Mông Cổ do Ngột Lương Hợp Thai cầm đầu sang xâm lược nước ta. Để tránh thế mạnh, thế hung hăng của giặc, quân ta tạm thời rút lui khỏi Thăng Long về đóng giữa vùng Thiên Mạc (Khoái Châu, Hưng Yên).
Gần một tháng sau vào ngày 29-1-1258, dưới sự chỉ huy của Trần Thái Tông và Lê Phụ Trần, quân ta đã phản công địch, đánh một đòn quyết liệt tại Đông Bộ Đầu. Sau thất bại ở Đông Bộ Đầu, chúng phải rút lui khỏi Thăng Long, tìm đường tháo chạy. Cuộc kháng chiến chống quân Nguyên
54
lần thứ nhất thắng lợi. Đây không chỉ là thắng lợi về mặt quân sự mà còn là thắng lợi về mặt ngoại giao, vì chúng định dùng nước ta làm bàn đạp đánh Nam Tống và bành trướng xuống phía Nam.
Vua Trần cho rằng, mặc dù bị thất bại, song nhà Nguyên chưa từ bỏ âm mưu chiếm nước ta. Do đó, một mặt vẫn tiếp tục đường lối ngoại giao kiên quyết, mặt khác dùng sách lược mềm dẻo, linh hoạt.
Thực hiện nhiệm vụ trên, vua Trần Thái Tông cử Lê Phụ Trần làm chánh sứ và Chu Bác Lâm làm phó sứ sang Mông Cổ. Việc cử Lê Phụ Trần đi sứ hàm ý nhắc nhở Nguyên - Mông về thất bại trong cuộc xâm lược lần thứ nhất.
Nhiệm vụ chính của Lê Phụ Trần là phát huy thế thắng, tìm cách hòa giải với địch, tìm hiểu tình hình quân sự và chính trị của Mông Cổ để có quyết sách thích hợp. Kết quả, sứ thần Đại Việt và Mông Cổ đã thỏa thuận định lệ ba năm cống một lần, góp phần kéo dài thời kỳ hòa hoãn đến hơn 25 năm (1258-1284).
55
TRẦN QUANG KHẢI
(1241 - 1294)
Danh tướng đời Trần, con thứ ba của vua Trần Thái Tông, em ruột Trần Thánh Tông, hiệu là Lạc Đạo tiên sinh. Quê ở thôn Tức Mặc, phủ Thiên Trường, tỉnh Nam Định.
Ông học rộng, biết nhiều, có tài văn chương, quân sự, chính trị. Khi 18 tuổi, ông đã được phong Chiêu minh vương, năm 1274 được giao chức tướng quốc thái úy, năm 1282, dưới triều vua Trần Nhân Tông, được cử làm thượng tướng thái sư
nắm toàn quyền nội chính. Trong kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ hai và thứ ba, ông là vị tướng chủ chốt thứ hai sau Quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo, lập nhiều công lớn.
Trần Quang Khải được nhớ đến như một nhà ngoại giao lớn đời Trần, ông được ủy thác công việc giao thiệp với phương Bắc. Bài thơ mà ông để lại “Tống Bắc sứ Sài Trang Khanh” phần nào nói lên tài ngoại giao của ông.
Tống quân quy khứ độc bàng hoàng,
Mã thủ xâm xâm chỉ đế hương.
Nam Bắc tâm tinh huyền phản bái,
Chủ tân đạo vị phiếm ly trường.
Nhất đàm tiếu khoảnh, ta phân duệ,
56
Cộng xướng thù gian, tích đối sàng.
Vị thẩm hà thời trùng đổ diện,
Ân cần ác thủ tự huyên lương.
Tống Bắc sứ Sài Trang Khanh
Dịch nghĩa:
Tiễn ông trở về riêng những bâng khuâng, Ngựa xăm xăm nhằm thẳng nẻo quê hương nhà vua.
Nỗi lòng kẻ Nam người Bắc lưu luyến trên ngọn cờ về,
Tình khách chủ dạt dào trong chén rượu ly biệt.
Vừa nói cười đó mà thoắt đã ngậm ngùi chia tay,
Cùng nhau xướng họa, tiếc những lúc hai giường đối diện.
Chưa biết bao giờ lại được gặp mặt,
Để cầm tay ân cần tỏ nỗi hàn huyên.
Bài thơ này Trần Quang Khải làm năm 1281, khi tiễn sứ Sài Thung nhà Nguyên về nước. Vào năm đó, nhà Nguyên lập Trần Di Ái - một tôn thất nhà Trần làm An Nam quốc vương, sai Sài Thung và một nghìn quân hộ tống đưa về nước hòng lật đổ vua Trần Nhân Tông. Nhà Trần một mặt ngầm sai quân đón đánh ở biên giới khiến Trần Di Ái phải bỏ chạy, mặt khác vẫn cử người tiếp đón Sài Thung. Đến Thăng Long sứ thần đã ngang ngược cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương Minh,
57
quân ngăn lại bị hắn dùng roi ngựa đánh bị thương. Sau đó trong lúc triều kiến, Sài Thung đã hoạnh họe vua, tôi nhà Trần đủ điều ngang ngược.
Là một chính khách, Trần Quang Khải biết rõ sứ mệnh đen tối của Sài Thung, song trong bài thơ tiễn biệt chúng ta chỉ thấy những tình cảm ân cần, tha thiết như hai người bạn thân tiễn đưa nhau.
Vì sao lại có bài thơ như vậy? Vào lúc đó, nước ta đang cố gắng duy trì hòa bình với nhà Nguyên được 23 năm (từ cuộc xâm lược lần thứ nhất năm 1258) nhưng bang giao hai nước đã tới giai đoạn vô cùng căng thẳng vì nhà Nguyên quyết tâm xâm lược nước ta, chiến tranh chỉ là câu chuyện một sớm một chiều. Trước tình hình đó, vua tôi nhà Trần chủ trương kiên quyết bảo vệ chủ quyền dân tộc, đồng thời phải rất kiềm chế trước thái độ nước lớn, hống hách của bọn sứ thần, để kéo dài thời gian hòa hoãn.
Do những cố gắng chung của nhà Trần, nguy cơ chiến tranh tạm thời lùi được thêm vài năm. Không có lòng yêu nước sâu sắc, không có bản lĩnh cao cường, thử hỏi có thể hạ được những vần thơ đầy tình người trong bối cảnh ngang trái như vậy chăng?
58
TRẦN NHẬT DUẬT
(1255 - 1330)
Là con thứ sáu của vua Trần Thái Tông và là người văn võ song toàn. Ông sống dưới bốn triều vua, lập nhiều chiến công trong kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ hai (năm 1285).
Trần Nhật Duật quê gốc ở Nam Định.
Ông được vua Trần Thánh Tông phong là Chiêu văn vương. Chiêu văn vương giỏi ngoại ngữ, có kiến thức sâu rộng, uyên bác về nhiều lĩnh vực, sành âm nhạc, thông Nho đạo. Ông là người hòa nhã, độ lượng, dù mừng hay giận không bao giờ lộ
ra nét mặt. Ông thường được giao nhiệm vụ tiếp sứ thần Mông Cổ. Ông trao đổi với sứ thần không cần phiên dịch. Sứ thần Nguyên cứ nghĩ ông là người Trung Quốc.
Do thông thạo ngôn ngữ và phong tục tập quán của nhiều dân tộc, nên ông cũng thường được giao nhiệm vụ thu phục các dân tộc thiểu số. Tháng 10-1280, Trịch Giác Mật ở đạo Đà Giang làm phản, vua sai Chiêu văn vương đến dụ hàng. Ông mang vài tiểu đồng tay không đi ngựa đến trại Man, nói tiếng nói Man, cùng với người Man ăn bằng tay, uống bằng mũi. Người Man bái phục và xin hàng. Nhà Trần nhờ đó giữ yên được biên giới phía tây bắc để tập trung chống quân Nguyên - Mông.
59
ĐINH CỦNG VIÊN
(? - 1294)
Danh thần dưới đời vua Trần Thánh Tông (1258 - 1278), giỏi biện thuyết, không rõ năm sinh, không rõ quê quán.
Diệt xong và thôn tính nhà Nam Tống rộng lớn, nhà Nguyên tiếp tục âm mưu đánh Đại Việt nên thường cử sứ sang hạch sách, bắt ba năm triều cống một lần, đồ cống gồm người và của cải, đòi lập chức quan để giám sát, bắt vua Trần đích thân sang chầu, cho con em sang làm con tin, nộp sổ hộ khẩu, chịu binh dịch, v.v..
Năm 1275 (có sách nói năm 1270), vua Trần cử Lê Đà và Đinh Củng Viên sang Nguyên để bác bỏ các yêu sách quá đáng, bảo vệ quốc thể. Khi sứ ta vào chầu, Hốt Tất Liệt hét, gọi sứ thần ta là sứ Nam man.
Đinh Củng Viên đã bình tĩnh phân tích: vua mọi rợ mới gọi là man. Nước Đại Việt là nước văn hiến, xưa nay chưa từng tranh bờ lấn cõi nước nào, cũng không hà hiếp ai, không thể gọi là man được. Chúng tôi là sứ thần Đại Việt chứ không phải là sứ thần Nam man.
Thấy sứ Đại Việt trả lời bình tĩnh và hiên ngang nên Hốt Tất Liệt càng tức tối, đe dọa: man chúa các ngươi không biết sức mình hay sao lại dám ngạo nghễ với thiên triều?
60
Đinh Củng Viên bình tĩnh phân tích: Do vẫn thần phục “thiên triều” mới sang cống, sao gọi là ngạo nghễ?
Hốt Tất Liệt xoay sang chuyện cũ, chất vấn tại sao không lạy khi nhận chiếu và cũng không trọng đãi “thiên sứ”. Đinh Củng Viên giải thích: lễ bái chẳng qua chỉ là hư văn che mắt thiên hạ. Chúa chúng tôi kính trọng thiên triều cốt ở trong lòng. Nếu “thiên triều” xử nhân đạo thì dù nước ngoài chẳng giữ lễ, cũng kính trọng muôn phần. Khi không kính trọng thì dù hương án, áo mũ, lễ nghi thì thụp cũng là gì? Vả lại, sứ thần chỉ là một người do “thiên triều” phái sang. Chúa chúng tôi là vua một nước... lẽ nào lại kém bày tôi “thiên triều”.
Nguyên Thế Tổ rất tức giận và đe dọa: quân trẫm đi đến đâu san bằng đến đấy, chỉ sông sông cạn, chỉ núi núi tan. Cớ sao vua tôi nhà ngươi dám chống cự lại?
Đinh Củng Viên vẫn ung dung tâu: nếu hoàng đế bệ hạ đem nhân nghĩa ra trị thiên hạ, tất ai cũng phải kính phục. Nhưng chỉ cậy binh hùng tướng mạnh thì nước nào chẳng có binh có tướng, có sông núi hiểm trở. Vì thế, nước chúng tôi tuy nhỏ nhưng cũng sẵn sàng chống lại quân “thiên triều”.
Thấy ông đàng hoàng biểu dương tinh thần bất khuất của dân tộc Đại Việt, Hốt Tất Liệt cảm phục. Việc binh đao tránh được một thời gian.
Ông làm quan ở Viện Hàn lâm, nổi tiếng giỏi thơ, văn. Sau chuyến đi sứ, ông được ca tụng là trọng biện sứ.
61
ĐÀO TỬ KỲ
(Thế kỷ XIII)
Đại thần thời vua Trần Nhân Tông (1279 - 1293), có nhiều công lao trong cuộc đấu tranh ngoại giao với nhà Nguyên. Đào Tử Kỳ không rõ quê quán, không rõ năm sinh, năm mất.
Sau thất bại lần thứ ba, nhà Nguyên có ý đồ đem quân đánh Đại Việt báo thù, song do đang đối phó với dòng họ khác muốn cướp ngôi và các bộ lạc phía tây nam, nên Hốt Tất Liệt phải giữ quan hệ với nước ta, liên tiếp cử sứ giả sang bắt vua Trần vào chầu.
Năm Quý Tỵ (1293), nhà Nguyên lại cử thượng thư bộ Lại là Lương Tằng, thượng thư bộ Lễ là Trần Phu thúc giục vua Trần sang chầu. Vua Trần không đi mà cử Đào Tử Kỳ và Lê Văn Táo đi thay, mang cống vật và tìm cách biện bạch.
Khi sang Trung Quốc, Đào Tử Kỳ được thượng thư bộ Lễ lúc đó là Trương Đạo tiếp. Căm tức vì những thất bại vừa qua, mặt khác, để kiếm cớ xâm lược nước ta một lần nữa, đồng thời lấp liếm những thất bại thảm hại nên khi tiếp Đào Tử Kỳ, Trương Đạo lên giọng trịch thượng: “Lúc đầu thiên triều chỉ muốn mượn đường đi đánh Chiêm Thành, đã trái mệnh không cho mượn, khi hỏi tội, lại không
62
tạ tội, dám đem quân chống lại. Vua tôi nước ngươi thực như ếch ngồi đáy giếng, coi trời nhỏ, được bao nhiêu sức người, sức của và có địa lợi hiểm yếu gì mà dám chống lại thiên triều? Cái thành Thăng Long nhỏ xíu của nước ngươi, nếu quân thiên triều lại tới, chỉ một cái đạp nữa là san bằng”.
Trương Đạo còn nói nhiều câu hỗn xược khác, song Đào Tử Kỳ đáp lại với thái độ ung dung, mềm mỏng nhưng kiên quyết: “Các ông là nước lớn, chúng tôi là nước nhỏ, chúng tôi chỉ muốn yên ổn, bao giờ chúng tôi lại muốn sinh sự. Chỉ vì các ông cậy có người đông, sức mạnh đến đè đầu đè cổ chúng tôi nên vì lẽ phải giữ mình, chúng tôi mới chống lại. Người xưa có nói: “Sự trực vi tráng, khúc vi lão” (nghĩa là, lý thẳng thì thắng, lý cong thì thua). Chúng tôi vì tự vệ nên chúng tôi thắng, các ông vì ăn cướp nên các ông thua. Đó là lẽ tất nhiên, không thể lấy thế mạnh yếu, nước to nhỏ
mà bàn được. Thành Thăng Long kia chỉ là vật nhỏ mọn, để phòng những kẻ trộm cắp vặt, phá tan nó có khó gì. Còn như với kẻ địch bên ngoài đến chực cướp nước chúng tôi thì chúng tôi đã có cả một tòa thành vững vàng như núi, không thể
nào phá được, đó là sức mạnh của toàn thể quân dân chúng tôi”.
Tức vì bị vạch mặt xâm lược, hơn nữa muốn kiếm cớ gây sự với nước ta lần nữa, nhà Nguyên vin vào việc vua Trần không sang chầu để bắt giam sứ ta. Nhà Nguyên còn ra lệnh chuẩn bị
63
quân binh đánh Đại Việt. Chúng sai Trần Ích Tắc đi theo đường Trường Sa (thủ phủ tỉnh Hồ Nam ngày nay) để đánh úp quân ta. Song Hốt Tất Liệt chết, triều đình Nguyên thấy ba lần đánh Đại Việt đều thất bại, vả lại tình hình trong nước rối ren, bị uy hiếp từ phía bắc nên phải hủy bỏ kế hoạch đánh Đại Việt.
Tô Mua lên thay buộc phải hạ lệnh bãi binh và trả Đào Tử Kỳ cùng sứ bộ ta về nước. Danh tiếng của Đào Tử Kỳ mãi được triều đình và nhân dân ngưỡng mộ.
64
ĐẶNG NHỮ LÂM
(Thế kỷ XIII)
Danh thần dưới thời vua Trần Nhân Tông (1279 - 1293) và vua Trần Anh Tông (1293 - 1314), có nhiều công lao trong kháng chiến chống quân Nguyên và làm đến chức đại phu. Không rõ năm sinh, năm mất.
Đặng Nhữ Lâm là một vị quan tận tụy lo việc nước, thương dân.
Năm 1299, vua Trần Anh Tông cử Đặng Nhữ Lâm đi sứ sang Nguyên. Ngoài công việc ngoại giao, ông còn tìm hiểu một số mặt khác của nhà Nguyên như vẽ bản đồ về địa thế cung điện triều Nguyên, tìm mua những bản đồ địa dư và sách mà nhà Nguyên cấm bán cho người nước ngoài. Dọc đường đi, ông còn ký họa địa hình núi non và ghi chép tình hình quân sự của nhà Nguyên.
Nhưng việc đó bị lộ, thừa tướng nhà Nguyên là Hoàn Trạch tâu lên vua Nguyên. Hoàng đế nhà Nguyên cử thượng thư Mã Hợp Mưu và thị lang Kiều Tôn Lượng đi sứ sang Đại Việt để truy vấn việc này. Nhưng vì đang trên đà suy yếu, nên trong quan hệ với Đại Việt, nhà Nguyên không dám hống hách như trước. Vì vậy, họ cũng chỉ tra xét cho qua chuyện. Trong chiếu gửi vua Trần có
65
ghi: “Đáng lẽ (nhà Nguyên) sẽ tra xét kỹ để trị tội, nhưng thiên tử lấy độ lượng bao dung nên đã hạ lệnh tha cho về nước. Vậy từ nay cử sứ thần thì phải lựa chọn cẩn thận, nếu có tâu bày thỉnh thác việc gì phải hết lòng thành thực, chứ nếu chỉ trang sức bằng danh từ khéo léo bề ngoài thì không có ích gì cả”.
Năm Tân Sửu (1301), Đặng Nhữ Lâm và phái đoàn được trở về nước.
66
ĐỖ KHẮC CHUNG
(? - 1330)
Võ tướng đời vua Trần Nhân Tông (1279 - 1293), Trần Anh Tông (1293 - 1314), quê ở Anh Sơn (có sách chép Giáp Sơn), tỉnh Hưng Yên.
Đỗ Khắc Chung xuất thân là chi hậu cục thủ, một chức nhỏ. Ông là người có tài. Mùa Xuân năm 1285, quân Nguyên xâm lược nước ta lần thứ hai, đóng quân ở Đông Bộ Đầu nên Trần Nhân Tông muốn cử người đi giảng hòa đồng thời do thám tình hình giặc. Ông xin đi. Vua khen: Biết đâu trong ngựa kéo xe muối lại có ngựa kỳ, ngựa ký (hai loại ngựa quý nhất) như thế. Đến nơi, khi Ô Mã Nhi trách hỏi về hai chữ “Sát thát”, cho đó là vô lễ, khinh nhờn quân thiên triều, là tội tày đình, Đỗ Khắc Chung trả lời: “Chó trong nhà cắn người lạ, vì không phải là chủ nó. Do lòng trung thành tức giận, họ tự thích mực lấy, quốc vương tôi có biết đâu. Tôi là kẻ hầu gần, sao việc ấy lại không có?”. Bèn giở cánh tay cho xem.
Ô Mã Nhi lại hạch: “Đại quân ta ở xa đến đây, nước ngươi sao không trở ngược giáo, đều đến ra mắt mà lại chống cự mệnh lệnh? Càng con bọ ngựa chống lại bánh xe, rồi sẽ ra sao?”.
67
Đỗ Khắc Chung bình tĩnh đáp: “Hiền tướng không theo kế sách của Hàn Tín bình nước Yên ngày xưa, đóng quân ở đầu địa giới, đưa thơ tín trước, nếu không chịu hòa hiếu mới là có lỗi; nay đem quân bức nhau, tức như người ta nói: “Muông cùng phải đánh lại, chim cùng phải mổ lại”, huống chi là người!”.
Ô Mã Nhi đuối lý quay ra dụ dỗ và đe dọa: “Đại quân của ta mượn đường nước ngươi để đi đánh Chiêm Thành, vua nước ngươi nếu đến gặp nhau, thì trong cõi yên ổn, không xâm phạm mảy may, nếu cứ chấp nê thì trong khoảng giây phút, núi sông sẽ thành đất bằng, vua tôi sẽ thành cỏ mục”.
Sau khi Đỗ Khắc Chung về rồi, Ô Mã Nhi nói với các tướng của mình rằng: “Người ấy đương lúc bị uy lực áp chế mà lời nói, sắc mặt vẫn tự nhiên, không hạ thấp chủ là Chích, không nịnh nọt ta là Nghiêu, nước họ có người giỏi, chưa dễ chiếm được”.
Đỗ Khắc Chung khi đó đã ngủ ở trại giặc một đêm, sáng hôm sau trở về. Ô Mã Nhi sai người đuổi theo để giết ông, nhưng không kịp.
68
MẠC ĐĨNH CHI1
(1280 - 1350)
Danh sĩ đời Trần Anh Tông, tự Tiết Phu, quê ở thôn Lũng Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Năm Giáp Thân (1304), ông đỗ trạng nguyên khi mới 24 tuổi. Vua thấy tướng mạo xấu, có ý chê, không trọng dụng. Ông dâng bài phú “Ngọc tỉnh liên” (Sen giếng ngọc), khiến vua khâm phục, để ông đỗ trạng và quyết định trọng dụng ông. Ông làm quan dưới ba triều vua Trần Anh Tông, Trần Minh Tông và Trần Hiến Tông, thăng đến tả bộc xạ đại liêu ban (tể tướng). Ông là người liêm khiết, được sĩ phu trọng vọng. Ông đi sứ Trung Quốc hai lần vào năm 1308 và 1324, đều tỏ ra là nhà ngoại giao đặc biệt xuất sắc. Chuyến đi sứ lần đầu do chính nhà Nguyên gợi ý nhằm thử tài nhân sĩ Đại Việt.
Năm 1308, Mạc Đĩnh Chi được cử đi sứ mừng vua Nguyên lên ngôi để củng cố hòa hiếu trong quan hệ bang giao giữa hai nước. Theo lịch trình, sứ bộ của chúng ta đến cửa ải vào ngày giờ đã định. Do trục trặc nên đoàn lỡ hẹn. Khi đoàn đến nơi trời đã tối, cửa ải đã đóng. Quân Nguyên canh _______________
1. Có tài liệu cho là ông sinh năm 1284, mất năm 1346.
69
gác bắt sứ bộ phải chờ đến ngày hôm sau. Sứ bộ kiên trì biện bạch và cuối cùng đã thuyết phục được viên quan canh ải mở cửa với điều kiện: phải đối được một câu đối.
Câu đối như sau: “Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan”. Có nghĩa là: “Tới cửa ải trễ, cửa quan đóng, mời khách qua đường cứ qua”. Đây quả thật là vế đối quá hóc búa vì có tới bốn chữ “quan” và ba chữ “quá”. Mạc Đĩnh Chi liền dùng mẹo để đối lại vế đối như sau: “Xuất đối dị đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối” (Ra câu đối dễ, đối câu đối khó, xin mời ông đối trước). Tưởng lâm vào thế bí, mà hóa ra lại là vế đối rất hay, rất chuẩn, khiến người Nguyên bái phục. Họ liền mở cửa ải cho sứ bộ Mạc Đĩnh Chi qua.
Hôm vào yết kiến, vua Nguyên muốn đích thân thử tài ông, dò xét khí tiết của sứ thần Đại Việt, nên ra câu đối: “An nữ khứ, thỉ nhập vi gia”.
Đây là cách chơi chữ, trong chữ “an” bỏ chữ “nữ” thay chữ “thỉ” vào thành chữ “gia”. Vua Nguyên tưởng sẽ làm cho sứ Đại Việt lúng túng, nhưng Mạc Đĩnh Chi liền đối ngay: “Tù nhân xuất, vương lai thành quốc”.
Chữ “tù” bỏ chữ “nhân” ra, thay chữ “vương” vào thành chữ “quốc”.
Thấy ông không chịu thua, vua Nguyên ra câu đối tiếp: “Nhật hỏa, vân yên, bạch đản thiêu tàn ngọc thỏ”. Có nghĩa là: Mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày đốt cháy vầng trăng.
70
Biết vua Nguyên kiêu căng, tự coi mình là mặt trời, coi Đại Việt là mặt trăng, ban ngày phải bị mặt trời che lấp. Mạc Đĩnh Chi đối ngay: “Nguyệt cung, tinh tiễn, hoàng hôn xa lạc kim ô”. Có nghĩa là: Trăng là cung, sao là tên, chiều tối bắn rơi mặt trời.
Vế đối của Mạc Đĩnh Chi rất chỉnh về ý, về chữ và cả tích cũ, đồng thời thể hiện tinh thần quật cường của dân tộc.
Một lần khác, Mạc Đĩnh Chi vào thăm vua Nguyên, nhân có sứ ngoại quốc dâng đôi quạt quý, vua Nguyên đưa cho Mạc Đĩnh Chi một chiếc, sứ Cao Ly một chiếc, bảo đề bài tán lên quạt. Lát sau sứ Cao Ly đề các câu:
Uốn long trùng trùng, Y Doãn, Chu Công. Vũ tuyết lê thê, Bá Di, Thúc Tề.
Dịch nghĩa:
Đang lúc nóng thì ích lợi như hai ông Y Doãn, Chu Công.
Lúc lạnh thì như hai ông Bá Di, Thúc Tề ở ẩn. Về phía Mạc Đĩnh Chi, cũng ý ấy, nhưng ông đã thảo hẳn một bài:
Lưu kim thước thạch, thiên địa vi lô, nhĩ ư tư thời hề u, Chu cự nho!
Bắc Phong kỳ lương, vũ tuyết tái đồ, nhĩ ư tư thời hề Di, Tề ngã phu!
Y! dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng, duy ngã dữ nhĩ hữu thị phu.
Dịch nghĩa:
Nắng chảy vàng tan đá, trời đất như lò lửa, người lúc ấy như ông Y, ông Chu.
71
Gặp khi gió bấc lạnh lẽo, mưa tuyết đầy đường người ví như ông Bá Di, Thúc Tề chịu chết đói! Than ôi! Khi dùng đến thì đem ra, lúc không cần thì cất đi. Ta với ngươi chỉ có thế mà thôi. Mạc Đĩnh Chi viết nhanh, dâng lên trước, bài lại hay, nên vua Nguyên tấm tắc khen mãi rồi khuyên chữ “y” vào dưới và còn phong ông là “lưỡng quốc trạng nguyên”.
Một lần nhân lúc thư thả, Mạc Đĩnh Chi cưỡi ngựa dạo xem phong cảnh, ngựa của Mạc Đĩnh Chi đụng phải ngựa của một viên quan người Hán ở phía trước, tên này bực tức đọc một câu đối:
- “Chạm phải ngựa của ta, ấy là tên mọi phương Đông hay là tên mọi phương Tây vậy?”. Thấy tên này hỗn láo lên mặt nước lớn, coi thường nước nhỏ, Mạc Đĩnh Chi điềm nhiên đối lại, để cho tên này bài học:
- “Chặn đường lừa chơi thử xem người phương Nam khỏe hay người phương Bắc khỏe?”. Câu đối này của ông ám chỉ người Hán đã chịu để cho Mông Cổ thống trị bấy lâu. Còn Đại Việt thì đã ba lần đánh tan quân Nguyên xâm lược. Trong một lần tiếp các sứ thần ngoại quốc, trong đó có sứ thần Việt Nam và Cao Ly, vua Nguyên muốn thử tài văn thơ các sứ thần. Đề bài là trong một hồi trống, các sứ thần phải dâng một bài thơ, theo luật một câu có năm hoặc bảy chữ. Mạc Đĩnh Chi đã làm xong bài thơ của mình. Sứ Cao Ly còn đang lúng túng thì hồi trống đã
72
dứt, vua Nguyên đề nghị các sứ thần đọc bài thơ của mình. Sứ Cao Ly bèn giật bài thơ mà sứ Việt Nam vừa làm xong và đọc dõng dạc.
Động phòng hoa chúc dạ.
Hữu bảng nhất danh đề.
Thiên hạn phùng cam vũ.
Tha hương ngộ cố tri.
Dịch nghĩa:
Tuyệt vời đêm tân hôn.
Sướng nhất đứng đầu danh sách.
Trời hạn mà có mưa.
Ở nơi xa quê hương gặp bạn cố tri.
Bài thơ rất hay, được vua Nguyên khen ngợi. Tiếp đó là đến lượt Mạc Đĩnh Chi. Do bài đã bị sứ Cao Ly lấy mất, không thể giành lại bài thơ trước mặt vua Nguyên, cũng không còn thời gian làm bài mới, nên ông đã bổ sung vào ngay bài thơ sứ Cao Ly vừa đọc một ý thơ mới:
Hòa thượng động phòng hoa chúc dạ.
Thiếu sinh hữu bảng nhất danh đề.
Thất niên thiên hạn phùng cam vũ.
Vạn dặm tha hương ngộ cố tri.
Bài thơ của Mạc Đinh Chi còn hay hơn bởi các từ: hòa thượng, thiếu sinh (thí sinh trẻ), thất niên (bảy năm) và vạn dặm. Vua Nguyên vô cùng khâm phục.
Khi Mạc Đĩnh Chi sắp về nước, gặp lúc công chúa nhà Nguyên mất, sứ thần các nước đều đến điếu tang dự tế. Sứ Cao Ly thì hiến hương, còn sứ
73
Đại Việt đọc văn tế. Người đọc văn tế bao giờ cũng phải đàng hoàng, đĩnh đạc, giọng đọc phải hay. Nhưng khi cầm đến bản văn, chỉ thấy có bốn chữ “Nhất”.
Không một chút lúng túng, ông dõng dạc đọc: Thanh thiên nhất đóa vân,
Hồng lô nhất điểm tuyết,
Ngọc uyển nhất chi hoa,
Dao trì nhất phiếm nguyệt.
Y!
Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết. Dịch nghĩa:
Một đám mây trên trời xanh,
Một giọt tuyết trong lò đỏ,
Một cành hoa vườn thượng uyển,
Một vầng trăng Dao trì.
Than ôi!
Mây rã, tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết1. Đó là một bài thơ của Dương Ức thời Tống, nhưng Mạc Đĩnh Chi ứng đối nhanh và đọc lên lúc này để tỏ sự thương tiếc người con gái đẹp đã chết, thật là hợp, thật là hay. Bài thơ đó lại có đủ bốn chữ nhất ở bốn câu. Vì vậy, vua Nguyên hết lòng ca ngợi sự thông minh, học rộng và nhanh trí của sứ thần Đại Việt. Bài thơ được khắc vào đá đặt lên mộ của công chúa.
_______________
1. Xem Nguyễn Thế Long: Chuyện đi sứ, tiếp sứ thời xưa, Sđd, tr.153-154.
74
Vậy là đi sứ sang phương Bắc, Mạc Đĩnh Chi đã luôn luôn phải đối đáp và đương đầu với mọi thủ đoạn xảo trá của vua quan nhà Nguyên. Với trí thông minh và học vấn uyên bác, ông đã không bị làm nhục, trái lại, đã làm cho bọn chúng nhiều lần bẽ bàng, hổ thẹn. Do đó, quốc thể và uy tín của nước ta, một nước có nền văn hiến lâu đời, vẫn được bảo vệ và đề cao.
75
ĐOÀN NHỮ HÀI
(1280 - 1335)
Nhân tài nổi tiếng dưới triều Trần. Có tài chính trị, ngoại giao, quân sự. Ông chưa hề đỗ đạt, song thông minh, tài giỏi nên được trọng dụng.
Đoàn Nhữ Hài quê ở làng Trường Tân, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.
Sử sách ghi lại, trong quan hệ với Chiêm Thành, Ai Lao, ông đóng vai trò quan trọng. Trong lần đi sứ Chiêm Thành, ông là người đầu tiên thay đổi được nghi lễ lạy vua Chiêm trước khi lạy chiếu thư Đại Việt. Đại Việt sử ký toàn thư chép: Trước đây, sứ ta sang Chiêm đều lạy vua Chiêm trước, rồi sau mới mở chiếu thư. Khi Nhữ Hài đến, bưng ngay chiếu thư để lên trên án và bảo vua Chiêm rằng từ khi mang chiếu thư đến, xa cách ánh sáng lâu ngày, nay mở chiếu thư ra, hình như trông thấy mặt thiên tử, tôi phải lạy chiếu thư đã, rồi tuyên đọc sau. Khi về nước, vua rất khen ngợi. Trong cuộc chinh chiến chống Chiêm Thành năm 1313, Đoàn Nhữ Hài được vua giao trọng trách chiêu dụ sứ. Đến trại Chiêm, quân Đại Việt dừng lại. Ông cho người vào trại dụ vua Chiêm ra hàng. Vua Chiêm nghe lời ông đã xin hàng. Trận này Đại Việt bình được Chiêm mà không tốn mũi tên, hòn đạn nào nhờ công của Nhữ
Hài. Năm 1335, ông chết đuối khi đi đánh Ai Lao. 76
NGUYỄN TRUNG NGẠN
(1289 - 1368)
Ông nổi tiếng là thần đồng, làm quan dưới năm đời vua Trần, được cử giữ nhiều trọng trách. Nguyễn Trung Ngạn quê ở làng Thổ Hoàng, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.
Năm 16 tuổi, ông đậu hoàng giáp, năm 24 tuổi làm giám quân. Ông có tài trên các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, văn hóa. Ông được vua cử đi sứ và tiếp sứ thần Trung Quốc. Năm 1314, mới 26 tuổi ông được cử đi sứ sang Trung Quốc. Ở độ tuổi đó chưa phải có nhiều kinh nghiệm, nhất là ngoại giao, song ông đã được triều đình tin cậy. Ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Năm 1324, sứ thần nhà Nguyên là Mã Hợp Mưu và Dương Tông Thụy sang nước ta tỏ ý ngang ngược, cưỡi ngựa đến tận khu vực cấm mà không chịu xuống, không theo quy định của Đại Việt. Nhiều người vâng mệnh vua thuyết phục sứ, song vẫn không có kết quả. Nguyễn Trung Ngạn bấy giờ làm thị ngự sử được vua cử tiếp sứ. Bằng kiến thức và khả năng thuyết phục tài tình, sứ Nguyên phải chịu tuân theo quy định của ta.
Ông làm quan dưới năm đời vua Trần. Dưới triều Trần Dụ Tông (1341 - 1369), ông được cử giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều như đại doãn kinh sư, đại học sĩ trụ quốc khai huyện bá, thân quốc công...
77
NGUYỄN TRÃI
(1380 - 1442)
Anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa tiêu biểu của Việt Nam, hiệu là Ức Trai, quê ở thôn Chi Ngại, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sau dời đến làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Tây (nay là Hà Nội).
Năm 1400, ông đỗ thái học sinh dưới triều Hồ lúc 20 tuổi, làm ngự sử đài chánh chưởng. Năm 1407, nhà Minh sang xâm lược nước ta, cha ông bị bắt giải về Trung Quốc. Tương truyền lúc đó, Nguyễn Trãi muốn giữ tròn đạo hiếu đã cùng em trai là Nguyễn Phi Hùng theo cha sang Trung Quốc. Nhưng đến ải Nam Quan, theo lời khuyên của cha phải tìm cách báo thù cho cha, rửa nhục cho nước, ông đã trở về và bị giặc Minh bắt giữ ở Đông Quan. Năm 1418, ông cùng Trần Nguyên Hãn trốn vào Lam Sơn tham gia khởi nghĩa của Lê Lợi và dâng Bình Ngô sách. Suốt 10 năm kháng chiến, ông đã trổ tài về chiến lược quân sự, ngoại giao, đóng góp to lớn vào thành công của khởi nghĩa.
Năm 1427, ông được liệt vào hàng đại phu, coi sóc công việc chính trị và Viện khu mật. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi vua, phong cho ông tước quan phục hầu. Khi vua Lê Thái Tổ mất, do bị bọn gian thần gièm pha nên ông cáo quan về ẩn dật ở Côn Sơn,
78