🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cá Voi Trắng (Moby Dick) Ebooks Nhóm Zalo TỦ SÁCH VĂN HỌC THẾ GIỚI HERMAN MELVILLE MOBY DICK CÁ VOI TRẮNG Rockwell Kent minh họa TTVN dịch NHÀ XUẤT BẢN VĂN HỌC ebook©tudonald78 | 03/2022 Ebook này được thực hiện theo dự án “SỐ HÓA SÁCH CŨ” của diễn đàn TVE-4U.ORG TÁC GIẢ -------- HERMAN MELVILLE (1819-1891) Herman Melville (1819-1891) là tiểu thuyết gia, nhà văn viết truyện ngắn và nhà thơ thuộc thời kỳ văn học Phục hưng Mỹ. Hai tác phẩm ăn khách nhất của ông lúc sinh thời, Typee (1846) và Omoo (1847), đều dựa trên kinh nghiệm làm thủy thủ của chính ông. Văn chương của ông chuyển hướng với Moby Dick - Cá voi trắng (1851), nhưng sự dữ dội quá mức của cuốn tiểu thuyết đã khiến ông mất rất nhiều độc giả. Vào quãng ba mươi năm cuối đời, những cuốn sách của Melville hoàn toàn bị lãng quên. Trong tác phẩm Moby Dick - Cá voi trắng, Melville sử dụng biểu tượng cách điệu, ngôn ngữ, và ẩn dụ để khai mở các chủ đề phức tạp. Thông qua cuộc hành trình của nhân vật chính, các khái niệm của lớp và địa vị xã hội, thiện và ác, và sự tồn tại của Thiên Chúa là tất cả sự trải nghiệm như Ishmael phỏng đoán dựa trên niềm tin cá nhân của mình và vị trí của mình trong vũ trụ, cùng với các mô tả của ông về cuộc sống của một thủy thủ trên một tàu săn cá voi. Moby Dick - Cá voi trắng là một tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm của Herman Melville và được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1851, được coi là một tiểu thuyết Mỹ vĩ đại và một kho tàng văn học thế giới. MỤC LỤC CHƯƠNG I ẢO VỌNG CHƯƠNG II KHĂN GÓI CHƯƠNG III QUÁN CÁ VOI PHUN NƯỚC CHƯƠNG IV TẤM KHĂN TRẢI GIƯỜNG CHƯƠNG V BỮA ĐIỂM TÂM CHƯƠNG VI NGOÀI PHỐ CHƯƠNG VII NHÀ NGUYỆN CHƯƠNG VIII GIẢNG ĐÀI CHƯƠNG IX BÀI GIẢNG CHƯƠNG X MỘT NGƯỜI BẠN THIẾT CHƯƠNG XI ÁO NGỦ CHƯƠNG XII TIỂU SỬ CHƯƠNG XIII CHIẾC XE CÚT KÍT CHƯƠNG XIV NANTUKET CHƯƠNG XV MÓN XÚP CÁ ĐẶC CHƯƠNG XVI CON TÀU CHƯƠNG XVII LỄ RAMADAN CHƯƠNG XVIII CHỮ KÝ CỦA QUEEQUEG CHƯƠNG XIX NHÀ TIÊN TRI CHƯƠNG XX XÔN XAO HẾT THẢY CHƯƠNG XXI LÊN TÀU CHƯƠNG XXII GIÁNG SINH VUI VẺ CHƯƠNG XXIII BỜ BỂ KHUẤT GIÓ CHƯƠNG XXIV NGƯỜI BIỆN HỘ CHƯƠNG XXV TÁI BÚT CHƯƠNG XXVI HIỆP SĨ VÀ CẬN VỆ CHƯƠNG XXVII HIỆP SĨ VÀ CẬN VỆ CHƯƠNG XXVIII AHAB CHƯƠNG XXIX ÔNG AHAB RA SÂN KHẤU; STUBB NÓI VỚI ÔNG TA CHƯƠNG XXX TẨU THUỐC CHƯƠNG XXXI HOÀNG HẬU MAB CHƯƠNG XXXII CÁ VOI HỌC CHƯƠNG XXXIII NGƯỜI XẺO MỠ CHƯƠNG XXXIV CÁI BÀN TRONG CABIN CHƯƠNG XXXV CỘT BUỒM CHÍNH CHƯƠNG XXXVI BOONG LÁI CHƯƠNG XXXVII MẶT TRỜI LẶN CHƯƠNG XXXVIII HOÀNG HÔN CHƯƠNG XXXIX PHIÊN CANH ĐÊM ĐẦU TIÊN CHƯƠNG XL NỬA ĐÊM, BOONG MŨI CHƯƠNG XLI MOBY DICK CHƯƠNG XLII MÀU TRẮNG CỦA CON CÁ VOI CHƯƠNG XLIII HÃY LẮNG NGHE! CHƯƠNG XLIV HẢI ĐỒ CHƯƠNG XLV TỜ CHỨNG THƯ CHƯƠNG XLVI ỨC ĐOÁN CHƯƠNG XLVII NGƯỜI ĐAN NỆM CHƯƠNG XLVIII HẠ THUYỀN LẦN ĐẦU TIÊN CHƯƠNG XLIX CON LINH CẨU CHƯƠNG L THUYỀN ÔNG AHAB VÀ ĐOÀN THỦY THỦ CỦA FEDALLAH CHƯƠNG LI VÒI PHUN THẦN LINH CHƯƠNG LII TÀU HẢI ÂU CHƯƠNG LIII MỘT “GAM” CHƯƠNG LIV CÂU CHUYỆN VỀ TÀU TOWN HO CHƯƠNG LV VỀ NHỮNG HÌNH ẢNH CÁ VOI GỚM GUỐC CHƯƠNG LVI VỀ NHỮNG TRANH VẼ CÁ VOI ÍT SAI LẠC VÀ NHỮNG TRANH TẢ THỰC CÁC CẢNH SĂN CÁ VOI CHƯƠNG LVII VỀ NHỮNG CON CÁ VOI TRONG TRANH; VỀ RĂNG; VỀ GỖ; VỀ MIẾNG SẮT LÁ; VỀ ĐÁ; VỀ NÚI; VỀ SAO CHƯƠNG LVIII SINH VẬT PHÙ DU CHƯƠNG LIX CON MỰC CHƯƠNG LX DÂY CÂU CHƯƠNG LXI STUBB GIẾT CÁ VOI CHƯƠNG LXII NGỌN LAO CHƯƠNG LXIII CÁI CHẠC Ữ Ủ CHƯƠNG LXIV BỮA TỐI CỦA STUBB CHƯƠNG LXV MÓN THỊT CÁ VOI CHƯƠNG LXVI TÀN SÁT CÁ MẬP CHƯƠNG LXVII XẢ THỊT CHƯƠNG LXVIII TẤM CHĂN CHƯƠNG LXIX LỄ AN TÁNG CHƯƠNG LXX CON NHÂN SƯ CHƯƠNG LXXI CÂU CHUYỆN VỀ JEROBOAM CHƯƠNG LXXII DÂY THỪNG BUỘC KHỈ CHƯƠNG LXXIII STUBB VÀ FLASK GIẾT MỘT CON CÁ VOI CHÍNH CỐNG RỒI TRÒ CHUYỆN VỀ CON CÁ ĐÓ CHƯƠNG LXXIV ĐẦU CÁ NHÀ TÁNG - GÓC NHÌN TƯƠNG PHẢN CHƯƠNG LXXV ĐẦU CÁ VOI CHÍNH CỐNG - GÓC NHÌN TƯƠNG PHẢN CHƯƠNG LXXVI PHIẾN GỖ PHÁ THÀNH CHƯƠNG LXXVII THÙNG HEIDELBURGH KHỔNG LỔ CHƯƠNG LXXVIII VẠI CHỨA VÀ GÀU MÚC CHƯƠNG LXXIX ĐỒNG CỎ CHƯƠNG LXXX VẤN ĐỀ HÓC BÚA CHƯƠNG LXXXI TÀU PEQUOD GẶP TÀU TRINH NỮ CHƯƠNG LXXXII DANH DỰ VÀ VINH QUANG CỦA NGHỀ SĂN CÁ VOI CHƯƠNG LXXXIII JONAH NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN LỊCH SỬ CHƯƠNG LXXXIV CỌC ĐÂM CÁ CHƯƠNG LXXXV ĐÀI NƯỚC CHƯƠNG LXXXVI CÁI ĐUÔI CHƯƠNG LXXXVII TÀU ARMADA VĨ ĐẠI CHƯƠNG LXXXVIII TRƯỜNG VÀ THẦY GIÁO CHƯƠNG LXXXIX CON CÁ BỊ CỘT LẠI VÀ CON CÁ TUỘT DÂY CHƯƠNG XC ĐẦU VÀ ĐUÔI CHƯƠNG XCI TÀU PEQUOD GẶP TÀU NỤ HỒNG CHƯƠNG XCII LONG DIÊN HƯƠNG CHƯƠNG XCIII KẺ BỊ RUỒNG BỎ CHƯƠNG XCIV BÀN TAY BÓP CHẶT CHƯƠNG XCV CHIẾC ÁO THỤNG CHƯƠNG XCVI LÒ NẤU MỠ CHƯƠNG XCVII CÂY ĐÈN CHƯƠNG XCVIII XẾP GỌN VÀ DỌN DẸP CHƯƠNG XCIX ĐỒNG TIỀN VÀNG CHƯƠNG C CẲNG CHÂN VÀ CÁNH TAY. TÀU PEQUOD BẾN NANTUCKET GẶP TÀU ENDERBY BẾN LONDON CHƯƠNG CI BÌNH RƯỢU CHƯƠNG CII LÙM CÂY TRONG MIỀN ARSACID CHƯƠNG CIII KÍCH THƯỚC BỘ XƯƠNG CỦA CÁ VOI CHƯƠNG CIV CÁ VOI HÓA THẠCH CHƯƠNG CV ĐỘ LỚN CỦA CÁ VOI CÓ SUY GIẢM ĐI KHÔNG? NÓ CÓ DIỆT VONG KHÔNG? CHƯƠNG CVI CÁI CHÂN CỦA ÔNG AHAB CHƯƠNG CVII NGƯỜI THỢ MỘC CHƯƠNG CVIII AHAB VÀ NGƯỜI THỢ MỘC CHƯƠNG CIX AHAB VÀ STARBUCK TRONG CABIN CHƯƠNG CX QUEEQUEG TRONG QUAN TÀI CHƯƠNG CXI THÁI BÌNH DƯƠNG CHƯƠNG CXII NGƯỜI THỢ RÈN CHƯƠNG CXIII LÒ RÈN CHƯƠNG CXIV NGƯỜI MẠ VÀNG CHƯƠNG CXV TÀU PEQUOD GẶP TÀU CỜ ĐUÔI NHEO CHƯƠNG CXVI CON CÁ VOI HẤP HỐI CHƯƠNG CXVII CANH CHỪNG CÁ VOI CHƯƠNG CXVIII THƯỚC ĐO ĐỘ CHƯƠNG CXIX NHỮNG CÂY NẾN CHƯƠNG CXX BOONG TÀU VỀ CUỐI ĐÊM CANH CHƯƠNG CXXI NỬA ĐÊM - THÀNH TÀU BOONG MŨI CHƯƠNG CXXII TRÊN CAO LÚC NỬA ĐÊM - SẤM CHỚP CHƯƠNG CXXIII KHẨU SÚNG HỎA MAI CHƯƠNG CXXIV CÂY KIM CHƯƠNG CXXV KHÚC GỖ VÀ DÂY DỌI CHƯƠNG CXXVI PHAO CỨU SINH CHƯƠNG CXXVII BOONG TÀU CHƯƠNG CXXVIII TÀU PEQUOD GẶP TÀU RACHEL CHƯƠNG CXXIX CABIN CHƯƠNG CXXX CÁI MŨ CHƯƠNG CXXXI TÀU PEQUOD GẶP TÀU VUI SƯỚNG CHƯƠNG CXXXII BẢN GIAO HƯỞNG CHƯƠNG CXXXIII CUỘC SĂN ĐUỔI - NGÀY ĐẦU CHƯƠNG CXXXIV CUỘC SĂN ĐUỔI - NGÀY THỨ HAI CHƯƠNG CXXXV CUỘC SĂN ĐUỔI - NGÀY THỨ BA ĐOẠN CHÓT NGỮ NGUYÊN HỌC NGỮ NGUYÊN HỌC ĐOẠN TRÍCH CHÚ THÍCH Cuốn sách này dành tặng NATHANIEL HAWTHORNE Làm bằng chứng niềm ngưỡng tôi dành cho thiên tài của ông. CHƯƠNG I -------- ẢO VỌNG CỨ GỌI TÔI LÀ ISHMAEL. Cách đây ít năm - đừng bận tâm chính xác là bao lâu - hễ khi túi hẻo hay rỗng túi và chẳng có trò gì thật thú trên đất liền, tôi lại nảy ra ý tưởng đáp thuyền ra đi ít lâu để ngao du phần thế giới nước. Đó cũng là một cách để tôi gạt bỏ nỗi u uất và điều hòa khí huyết. Cứ mỗi khi tôi thấy mặt sưng mày sỉa; cứ mỗi khi tâm hồn là tháng Mười một mưa phùn ẩm ướt; cứ mỗi khi vô tình tôi thấy mình tần ngần trước những hàng bán quan tài và nhập vào cuối dòng người đưa tang ở bất cứ đám ma nào tôi gặp; và đặc biệt là cứ mỗi khi nỗi chán nản vô cớ thắng thế, đến độ cần phải có nguyên tắc đạo đức vững lắm mới ngăn được tôi lập tức bước ra phố, ngang nhiên hất mũ người ta - những khi đó tôi thấy cần phải ra khơi càng sớm càng hay. Đối với tôi đó là một cách thay thế cho khẩu súng và viên đạn. Tay bình thản vung gươm, Cato gieo mình vào lưỡi kiếm mà tự tận; tôi chỉ lặng lẽ xuống thuyền. Không có gì lạ. Giá mà người ta biết được, hầu hết mọi người, tùy mức độ, lúc này hay lúc khác, thảy đều mang những xúc cảm hướng về đại dương gần giống như tôi. Đây là thành phố đảo của dân xứ Manhatto1, bao chung quanh là những bến tàu hệt những rạn san hô quanh các hải đảo Tây Ấn - giao thương như sóng trào vây bọc lấy hòn đảo. Theo tay trái lẫn tay mặt, phố đều dẫn ta đi về phía nước. Ở cực Nam là khu Pháo Đội, nơi con đê hùng vĩ hằng ngày được sóng gột rửa và gió hong khô, những con sóng ngọn gió mà mây giờ trước còn hút bóng đất liền. Hãy nhìn nhưng đám người ngắm biển ở đó. Hãy dạo một vòng thành phố vào một buổi chiều Chúa nhật mơ màng. Đi từ mũi Corlears đến phố Coenties Slip, rồi từ đó đi tới Whitehall, về phía Bắc. Ta sẽ thấy gì? Ở khắp nơi hàng ngàn người đứng âm thầm như lính gác, đăm đăm thả hồn ra biển. Có người đứng tựa cột, có người ngồi trên đầu cầu tàu, có người ngó lên mạn các hải thuyền từ Trung Quốc tới, và có người lại ngồi cao chót vót trên các dây buồm, dường như đương cố gắng nhìn biển cho rõ hơn. Nhưng hết thảy nhưng người này đều là dân ở đất liền, suốt tuần bị nhốt sau bốn bức tường - buộc chặt vào quầy hàng, đóng đinh vào ghế ngồi, hay gắn chắc vào bàn viết. Chuyện này là thế nào đây? Phải chăng những đồng cỏ xanh tươi đã biến mất? Những người nọ tới đây làm gì? Kìa hãy trông! Lại thêm những đám đông khác đương xăm xăm đi ra phía biển và dường như muốn nhảy tòm xuống nước. Lạ nhỉ! Không có gì làm cho họ vừa lòng ngoại trừ giới hạn tột cùng của đất liền, đi dạo dưới bóng mát những kho hàng ở xa kia đối với họ không đủ. Không. Họ phải tiến tới sát mé nước, gần hết mức, miễn là đừng rớt xuống. Rồi họ đứng đó, hàng dặm dài bọn họ - hàng hải lý. Toàn là người ở nội địa, họ tới đây từ những ngõ và ngách, phố và đại lộ, từ khắp ngả Đông, Tây, Nam, Bắc. Nhưng ở đây họ thảy nhập làm một. Nói tôi nghe, phải chăng sức hút của cây kim la bàn trên những hải thuyền kia đã kéo họ tới đây? Một ví dụ nữa. Hãy tưởng tượng ta ở một vùng đồng quê, trên một cao nguyên nào đó có hồ nước. Chọn đường nào tùy thích, chín phần mười nó sẽ đưa ta xuống một thung lũng và bỏ ta lại bên một vụng suối. Có gì đấy thật huyền diệu trong chuyện này. Hãy để cho một người thuộc dạng đãng trí nhất mặc sức thả hồn trong mộng mị sâu kín, rồi dựng hắn dậy, để mặc hắn bước đi, chắc chắn hắn sẽ dẫn ta tới bên một bờ nước, trừ phi trong vùng ấy không có lấy một bờ nước nào. Giả như có bao giờ khát nước ở giữa vùng sa mạc Mỹ châu bao la, hãy thử thí nghiệm đó, nếu trong đoàn tình cờ có sẵn một vị giáo sư ngạch siêu hình. Thật vậy, như ai nấy đều biết, bờ nước và suy tư muôn đời đi đôi với nhau. Song đây là một nghệ sĩ. Anh muốn vẽ cho ta một góc mơ màng, âm u, lặng lẽ và quyến rũ nhất trong toàn thể phong cảnh thơ mộng vùng thung lũng Saco. Yếu tố cốt yếu của bức họa sẽ là gì nhỉ? Kia lừng lững những cái cây, mỗi thân cây rỗng tưởng chừng bên trong có chứa một tu sĩ với cây thập tự; đây mơ màng đồng cỏ, trên lim dim vài chú mục súc; và tỏa lên từ túp lều tranh ở xa một làn khói mơ màng. Đi sâu vào trong khu rừng xa, một con đường chạy ngoằn ngoéo, leo lên tận những mỏm núi trùng điệp tắm mình trong màu xanh của sườn núi. Nhưng mặc dù bức tranh khiến ta say đắm, mặc dù cây thông này buông rơi những lời than thở như lá rơi trên đầu gã mục đồng, thảy vẫn vô vị nếu trước con mắt đăm chiêu của chú mục đồng không có một làn nước huyền diệu. Hãy tới thăm vùng đồng cỏ ở Hoa Kỳ vào tháng Sáu để ngập bước tận đầu gối hàng mấy mươi dặm trong những đám ly da báo, yếu tố thu hút còn thiếu ở đây là gì? Nước - ở đó một giọt nước cũng không có. Nếu thác Niagara chỉ là một dòng cát liệu ta có băng ngàn dặm để tới chiêm ngưỡng? Tại sao thi sĩ nghèo ở Tennessee bỗng nhiên được đầy hai túi bạc lại do dự không biết nên sắm cái áo, buồn thay lại là vật anh hết sức cần, hay dùng tiền đó vào một cuộc tản bộ du ngoạn bãi biển Rockaway? Tại sao hầu hết những chàng trai mạnh khỏe và vạm vỡ, với một tâm hồn rắn rỏi ngang thân hình, lại có lúc thèm ra biển đến điên lên như vậy? Tại sao lần đầu tiên đáp tàu với tư cách hành khách bạn lại cảm thấy một xung động huyền diệu khi nghe nói bạn và con tàu đã rời xa không còn nhìn thấy đất liền nữa? Tại sao người Ba Tư lại thờ phụng biển cả như thần thánh? Tại sao người Hy Lạp lại gán cho biển một tư cách thần linh riêng biệt, anh em của thần Zeus chúa tể các vị thần? Chắc chắn tất cả không phải không có ý nghĩa. Và câu chuyện về chàng Narcissus kia còn có ý nghĩa sâu xa hơn: chính vì không nắm giữ được cái hình ảnh giày vò, đẹp đẽ của mình trong gương nước mà chàng đã nhảy xuống nước và chết đuối. Nhưng chính hình ảnh ấy, bản thân chúng ta cũng nhìn thấy trên mọi sông hồ và biển cả. Đó là hình ảnh cái ảo mộng mơ hồ của cuộc đời; và ra khơi chính là chiếc chìa khóa vạn năng. Còn thì khi tôi nói tôi đã nhiễm phải cái thói đi biển mỗi khi bắt đầu cảm thấy mờ mắt hay ngộp thở vì ở lâu trên đất liền, tôi không có hàm ý là tôi từng đi biển với tư cách một hành khách. Bởi vì đi với tư cách một hành khách bạn phải có túi tiền, mà một cái túi tiền chỉ là một miếng giẻ rách nếu như rỗng tuếch. Vả lại, hành khách thường hay bị say sóng, trở nên cáu bẳn, đêm lại khó ngủ và, nói chung không được hưởng thụ nhiều nhặn gì cho cam; không, tôi không đời nào ra đi với tư cách một hành khách, và mặc dù cũng là một thủy thủ vào loại lão luyện, tôi không bao giờ ra đi với tư cách thuyền trưởng hay thuyền phó, hay đầu bếp. Tôi nhường vinh quang và quyền lợi của các chức vụ ấy cho những ai ưa thích. Về phần tôi, tôi ghê tởm những khó nhọc, thử thách và khổ não đủ loại, dù cao cả đáng trọng đến đâu. Chỉ lo thân thôi đã là quá đủ rồi, hơi đâu chăm sóc nào tàu thủy, thuyền ba cột buồm, thuyền hai cột buồm lớn, thuyền hai cột buồm nhỏ, thôi thì đủ loại. Chẳng hạn như đi biển với tư cách đầu bếp - mặc dù tôi thú nhận đó là một chức vụ ít nhiều vinh quang vì đầu bếp là một loại sĩ quan trên tàu, nhưng chẳng hiểu sao tôi chẳng bao giờ thích nấu nướng gà vịt - dù một khi các con vật đó được nấu lên, phết bơ cho đúng cách, ướp muối tiêu cho vừa phải, thì tôi sẽ là kẻ ca tụng các món ăn đó một cách kính cẩn, nếu không nói là tôn sùng hơn ai hết. Lời ca tụng đó xuất phát từ sự sùng bái của người Ai Cập thời xưa đối với món cò quăm nướng và hà mã quay giòn, xác ướp của những sinh vật ấy ta vẫn còn thấy trong các bếp lò vĩ đại kim tự tháp. Không, mỗi khi tôi đi biển là đi với tư cách thủy thủ đơn thuần, được ở ngay trước cột buồm, tuột thẳng xuống boong đằng mũi, ngất ngưởng trên ngọn cột buồm chính. Đúng, bọn họ hay sai phái tôi loanh quanh việc này việc nọ, bắt tôi nhảy từ đầu cột buồm này sang đầu cột buồm khác, như một chú châu chấu trên đồng cỏ tháng Năm. Và mới đầu, loại công việc này cũng khá khó chịu. Nó chạm tới vấn đề danh dự, nhất là nếu ta xuất thân từ một trong những gia đình lâu đời trong vùng, như nhà Van Rensselaer, Randolph hay Hardicanute chẳng hạn. Khó khăn hơn hết thảy là nếu trước khi phải thò tay vào một thùng dầu hắc ín, ta từng là một ông giáo làng vẻ vang, khiến cho những học trò lớn phổng nhất cũng phải kính sợ. Sự chuyển hướng từ địa vị một ông giáo sang một thủy thủ là một sự chuyển đổi kịch liệt, xin đảm bảo với bạn thế, và nó đòi hỏi ta phải uống một thang thuốc sắc đậm đặc của triết thuyết Seneca và phái khắc kỷ rồi mới có thể nhăn nhó mà chịu đựng được. Nhưng cả chuyện này rồi cũng nhạt dần với thời gian. Có sao đâu, nếu lão thuyền trưởng bủn xỉn nào đó bắt tôi cầm chổi quét boong tàu? Sự mất phẩm giá đó đáng kể ra sao, ý tôi là nếu đo theo thang bực giá trị của Tân Ước? Bạn có cho rằng tổng thiên thần Gabriel sẽ coi rẻ tôi, vì tôi đã phục tòng lão già bủn xỉn ấy trong trường hợp đặc biệt đó? Ai mà không là nô lệ? Nói tôi hay xem. Chao, vậy nên, dù lão thuyền trưởng già có ra lệnh cho tôi, có đánh đấm tôi chăng nữa, tôi cũng biết tự thỏa mà cho thế là thường; cho là ai nấy đều được đối xử cùng một lối theo cách này hay cách khác - ý là trên phương diện hoặc thể chất hoặc siêu hình; nên miếng đòn của tạo hóa truyền quanh chẳng từ một ai, mọi bàn tay đều chà xát xương đòn của nhau và thảy đều bằng lòng. Lại nữa, tôi luôn luôn đi biển với tư cách thủy thủ, vì họ phải trả tiền để làm phiền tôi, trong khi, theo chỗ tôi biết, họ không hề trả một xu nhỏ nào cho hành khách. Trái lại, hành khách phải tự trả tiền. Mà trên cõi đời này trả tiền và nhận tiền là hoàn toàn khác biệt. Hành động trả tiền có lẽ là hình phạt khó chịu nhất mà hai kẻ trộm táo truyền lại cho chúng ta. Còn được người ta trả tiền cho ư - thú nào sánh được đây? Thái độ lịch sự của con người lúc nhận tiền thật phi thường sao, xét nỗi chúng ta thành thật tin tưởng rằng tiền là cội rễ của hết thảy mọi sự xấu xa trên dương thế, và rằng không bao giờ một người có tiền lại có thể lên thiên đường. Chà, chúng ta tự dấn thân vào tội lỗi mới vui vẻ làm sao! Cuối cùng, tôi luôn luôn đi biển với tư cách thủy thủ, vì được tập tành lành mạnh và hít thở không khí trong sạch nơi boong mũi. Vì trên thế gian này, những ngọn gió từ phía trước thổi lại vẫn thường xuyên hơn ngọn gió từ sau lưng thổi đến (ấy là nếu bạn không vi phạm định lý của Pythagoras), thành thử thường thường ông thuyền trưởng kỳ cựu ở boong lái bao giờ cũng phải hưởng thừa luồng không khí đã thổi qua những thủy thủ ở boong đằng mũi. Ông ta lại cho rằng mình đã được thở luồng không khí ấy trước tiên, nhưng không phải thế. Chẳng khác gì tập thể thường dẫn dắt những người lãnh đạo trong nhiều việc mà những người này không hề biết. Vì sao mà sau khi đã nhiều lần nếm mùi biển cả, với tư cách một thủy thủ trên tàu buôn, giờ đây tôi lại tơ tưởng đến chuyện đi săn cá voi? Điều này thì chỉ có tay sĩ quan cảnh sát vô hình là Định mệnh, kẻ luôn luôn kiểm soát tôi, ngấm ngầm bám gót tôi, chi phối tôi một cách không tài nào hiểu nổi, là có thể trả lời hay hơn bất cứ ai. Và chắc chắn, việc tôi du hành trong chuyến đi săn cá voi này cấu thành một phần cái chương trình vĩ đại mà ông trời đã vạch trước từ lâu. Chuyến đi được xen vào, như một quãng giải lao ngắn hay một bản độc tấu giữa các tấn tuồng dài hơn. Theo tôi, phần này trên áp phích quảng cáo có thể được ghi như sau: “Cuộc đại tranh cử tổng thống Hoa Kỳ “CHUYẾN SĂN CÁ VOI CỦA MỘT NGƯỜI TÊN ISHMAEL “CUỘC XUNG ĐỘT ĐẪM MÁU TẠI AFGHANISTAN” Mặc dù tôi không thể nói tại sao những vị quản tuồng đời là Định mệnh lại giáng cho tôi vai trò cực nhọc tàn tệ này trong một hành trình đánh cá voi, trong khi dành cho bao kẻ khác những vai hoa lệ trong các bi kịch cao siêu hay những vai ngắn dễ dàng trong các hài kịch thượng lưu, hoặc những vai tươi vui trong những vở trào lộng; song giờ đây đã kiểm điểm lại mọi tình huống hoàn cảnh, tôi cho rằng có thể thấy rõ một phần nào những căn nguyên và động cơ xảo trá, ngụy trang muôn hình dạng, đã xui khiến tôi tự nguyện tiến hành cái phân vai tôi đã đóng, và hơn nữa còn phỉnh phờ tôi đến nỗi tôi tin vào cái ảo tưởng rằng đó là một lựa chọn kết quả của ý chí không thành kiến và óc suy xét sáng suốt của riêng tôi. Trong những lý do này, động cơ chính là ý tưởng không thể gạt bỏ đi được về bản thân con cá voi to lớn kia. Con quái vật huyền bí và vĩ đại kích thích toàn thể óc tò mò của tôi. Rồi đến nhứng miền biển hoang vu, xa vắng, nơi nó cuộn tấm thân to như hải đảo; những nguy hiểm không tên và không sao mô tả được mà cá voi gây ra; bấy nhiêu thứ, cộng với mọi kỳ quan hiện hữu của nghìn phong cảnh lẫn thanh âm vùng Patagonia, đã thúc đẩy tôi đến với ước mơ của mình. Có lẽ, với những người khác, những chuyện đó không kích thích cho lắm, nhưng với tôi, niềm háo hức muốn được biết những thứ xa xăm luôn giày vò tôi không ngớt. Tôi vốn ưa đáp thuyền tới những miền cấm hải hay cấm địa, tới những bờ biển man dã. Tôi không phải là không biết tới cái hay, nhưng cũng rất mau ý thức được cảm giác kinh hoàng, và có thể vẫn quen chơi với cảm giác đó - nếu không bị ai ngăn cản - bởi đành phải thân thiện với những kẻ sống ở cái nơi mà mình đến sống. Vậy nên, bởi những lý do này, chuyến đi săn cá voi được hoan nghênh nhiệt liệt; các cửa lũ vĩ đại của thế giới huyền bí đã rộng mở, và trong số những ý niệm kỳ quái thúc giục tôi theo đuổi công cuộc của mình, có hai hình ảnh phảng phất trong đáy sầu tâm hồn tôi, đó là những đám rước cá voi dài vô tận và, ở giữa chúng, một bóng ma khổng lồ có chỏm tựa hồ một đồi tuyết lơ lửng trong không. CHƯƠNG II -------- KHĂN GÓI TÔI NHÉT VỘI một hai chiếc sơ mi vào trong cái túi hành lý cũ kỹ, rồi, túi kẹp nách, tôi khởi hành đi mũi Sừng và Thái Bình Dương. Rời khỏi thành phố Manhatto tốt đẹp cũ kỹ, tôi đến New Bedford rất đúng thời hạn. Đó là một đêm thứ Bảy tháng Mười hai. Tôi hết sức thất vọng khi hay tin chiếc tàu nhỏ đi Nantucket đã nhổ neo và không có cách nào đi tới đó trước thứ Hai tuần tới được. Trong khi đa số những chàng trai đã quyết nếm trải đau thương và kham khổ của nghề đánh cá voi đều dừng lại ở chính New Bedford này chờ lên tàu thực hiện hành trình, cũng nên nói thêm là riêng tôi không hề nghĩ sẽ làm như vậy. Lòng tôi đã quyết không đáp một chiếc tàu nào khác ngoài tàu Nantucket, bởi hòn đảo xưa cũ nổi tiếng ấy có một vẻ gì đó vừa đẹp vừa dữ dội, khiến tôi hài lòng ghê gớm. Hơn nữa, mặc dù New Bedford dần dần chiếm độc quyền về ngành đánh cá voi, và mặc dù về ngành này bến Nantucket già nua tội nghiệp đã bị vượt xa, Nantucket mới là cội nguồn vĩ đại - giống như thành Tyre so với thành Carthage - bến cảng nơi đón nhận xác con cá voi đầu tiên của Mỹ quốc. Còn nơi nào khác ngoài Nantucket, nơi những người đánh cá voi đầu tiên, người da đỏ, đã ra khơi trên những chiếc xuồng nhỏ để đuổi theo loài thủy quái Leviathan2 kia? Và cùng còn nơi nào khác ngoài Nantucket, nơi những chiếc thuyền con một buồm lần đầu tiên mạo hiểm ra khơi, chở nặng những đá cuội nhập cảng - như câu chuyện người ta thường kể - để ném cá voi, chờ lúc nào men tới đủ gần là liều phóng ra một mũi lao từ rầm néo buồm? Giờ đây có một đêm, một ngày và một đêm sau nữa trước khi tôi phải ở New Bedford, trước khi tôi có thể xuống tàu tại bến cảng dự định, thì việc ăn ở đâu ngủ ở đâu trong lúc đó trở thành cả một vấn đề. Đêm ấy là một đêm hết sức đáng ngại, nói cho đúng, đó là một đêm tối tăm và buồn, trời rét như cắt và ảm đạm. Tôi không quen biết một ai ở đây. Tôi lo âu moi móc mãi trong túi mà chỉ được có vài đồng bạc. Vì vậy, trong lúc đứng ở giữa phố buồn, vai vác bao hành lý, mắt đăm chiêu so sánh vẻ ảm đạm đằng Bắc với bóng tối đằng Nam, tôi đã tự nhủ lòng rằng: Vậy nên đi đâu thì đi, Ishmael thân mến ơi, cho dù ở bất cứ nơi nào trí khôn của mày cho là có thể trú ngụ qua đêm nay được, mày cũng hãy nên hỏi cẩn thận giá cả trước đã, và đừng có khó tính quá. Bước ngập ngừng, tôi đi qua những con phố, ngang bảng hiệu “Cặp Lao Bắt Tréo” - song có vẻ đắt và nhộn quá nên không dừng lại. Xa hơn chút nữa, từ mấy cửa sổ sáng đỏ đèn “Quán Cá Kiếm” hắt ra những tia sáng nồng nhiệt đến nỗi có cảm tưởng là chúng đã làm nóng tan cả lớp tuyết và băng dồn ụ khỏi mặt tiền quán, vì ở mọi nơi khác lớp băng dày tới hai mươi lăm phân trên mặt đường tráng nhựa - mệt cho tôi là lúc tôi đưa chân vào khoảng giữa những tia sáng chói lọi đó thì đế giày của tôi, vì đã không tiếc thân vất vả phục vụ chủ, bấy giờ lại đang ở vào một tình trạng hết sức khốn đốn khó coi. Quá đắt và quá nhộn, tôi nghĩ như vậy một lần nữa, trong lúc dừng lại một lát để ngắm làn ánh sáng tỏa ra tận giữa đường và nghe những tiếng ly cụng nhau lanh canh bên trong quán. Sau cùng tôi tự nhủ: Ôi thôi nào, Ishmael, chưa nghe rõ à? Tránh ra đừng chầu trước cửa nữa, đôi giày rách tả tơi của mày đương chặn lối đi kia. Thế là tôi lại tiếp tục bước đi. Tôi lúc này cứ dựa vào linh tính mà men theo những con đường đi về mé biển, vì ở đó chắc chắn là có những quán rẻ tiền nhất, ấy là chưa nói có khi vui vẻ nhất. Những con phố thê lương sao! Những hình khối tối tăm, không nhà cửa ở bên này bên kia đường, thỉnh thoảng đó đây leo lét một ngọn nến, giống ngọn nến lập lòe loanh quanh trong một nấm mồ. Ban đêm vào giờ này, trong một ngày cuối tuần, khu này của thành phố hoàn toàn hoang vắng. Nhưng, chẳng bao lâu sau tôi đến trước một vùng ánh sáng mờ khói phát ra từ tòa nhà rộng thấp tè, cánh cửa mở rộng như mời chào. Ngôi nhà có vẻ không được chăm sóc mấy, như thể bỏ mặc cho công chúng tha hồ sử dụng, vì vậy lúc mới bước vào nhà tôi ngã nhào xuống một thùng tro3 để bên trong hiên. Trong lúc bụi tro bay lên làm tôi suýt nghẹt thở, tôi chợt nghĩ: Ha, tro bụi này phải chăng là của thành phố Gomorrah bị tàn phá xưa kia? Nhưng còn “Cặp Lao Bắt Tréo” và quán “Cá Kiếm”? Vậy, đây hẳn là quán “Cái Bẫy”. Tuy nhiên tôi cũng chống tay đứng lên và, nghe có tiếng nói to bên trong, tôi bèn dấn bước và mở một cánh cửa thứ hai, ở bên trong. Chẳng khác gì Hắc Nghị viện đông đảo đang họp ở Tophet. Một trăm khuôn mặt đen, từ trong hàng ghế cùng quay ra nhòm tôi; xa xa, một vị Thiên Thần Diệt Vong, cũng đen thui, đương đánh vật với một cuốn sách đặt trên kệ giảng. Đó là một giáo đường của người da đen; và bài giảng là về cái đen đặc của bóng tối, cùng những khóc lóc, than van, nguyền rủa. Ha, Ishmael ơi, tôi vừa thối lui vừa tự nhủ thầm, giải trí mới thật thảm hại tại quán trọ “Cái Bẫy” này! Tiếp tục dấn bước, sau cùng tôi gặp một thứ ánh sáng lờ mờ không mấy xa bến tàu, và nghe có tiếng kêu cót két ủ rũ ở trên không; ngước nhìn lên tôi thấy một bảng hiệu sơn trắng lắc lư giăng ngang một khung cửa, mờ mờ ẩn hiện trong làn sương mù lơ lửng bay cao, cùng hàng chữ này bên dưới - “Quán Cá Voi Phun Nước - Peter Coffin”. Coffin4? Cá Voi Phun Nước? Tạo nên liên tưởng khá xúi quẩy, tôi nghĩ. Nhưng nghe nói ấy là một cái tên rất thông thường ở đảo Nantucket, nên tôi đoán anh chàng Peter Coffin này là dân di cư từ nơi đó. Vì ánh sáng chiếu hết sức tờ mờ, và nơi này lúc bấy giờ nom khá yên lặng, ngôi nhà gỗ nhỏ bé xiêu vẹo tự nó trông như thể đã được chở tới đây từ những phế tích hoang tàn của một khu dân cư cháy nào đó, còn cái bảng hiệu lắc lư cót két thì mang một vẻ bần cùng, nên tôi cho rằng đây chính là chỗ trọ rẻ tiền có món cà phê giả bằng đậu ngon nhất. Đó là một nơi kỳ lạ - một ngôi nhà cũ kỹ có mái dốc, một đầu trông như bị tê liệt, cúi xuống ủ rũ. Nhà đứng ở một góc trống lộng ngoặt gấp, nơi luồng gió bão Euroclydon liên tục gào rít dữ dội hơn bao giờ hết kể câu chuyện trận gió xưa kia đã làm lật con tàu nhỏ của tông đồ Paul đáng thương. Tuy nhiên, luồng gió Euroclydon chỉ là một làn gió Tây hiu hiu vô cùng dễ chịu cho bất cứ ai ở-yên-trong-nhà, gác cao chân lên tấm chắn lò sưởi lặng lẽ sưởi ấm trước khi vào giường ngủ. “Để nhận xét về trận gió dữ dội Euroclydon ấy, một nhà văn hồi xưa đã viết - các trước tác của ông này hiện giờ tôi chỉ còn giữ được một bản in độc nhất - “thì có một sự sai biệt rất huyền diệu, giữa việc ta nhìn ngắm cơn gió từ sau khung cửa kính còn sương sa lạnh lẽo thảy ở bên ngoài, hay là ta quan sát nó trước một khung cửa mở không kính chắn, sương giá đọng vào cả hai bên, chỉ cái Chết rành rành như sinh vật sống là tay thợ kính duy nhất.” Đúng làm sao, tôi tự nhủ, lúc đoạn văn này hiện ra trong trí – chữ Gothic cổ, anh suy luận quả hợp lý. Thật vậy, khung cửa kia là đôi mắt và thân xác ta đây chính là ngôi nhà nọ. Đáng thương cho ta là không có ai bít giùm những đường nứt nẻ, buộc giùm chút băng cứu thương ở đó đây. Nhưng bây giờ đã quá muộn và không thể thực hiện được một sự cải tiến nào nữa. Vũ trụ đã hoàn thiện, hòn đá cuối cùng đá được đặt xuống, những mảnh vụn đã được chở đi cách đây hàng triệu năm rồi. Thánh Lazarus đáng thương kia đương nghiến răng gối đầu lên mô đá ở vỉa đường, run rẩy từng cơn cố quên sự thể rách rưới của mình, song cho dù có lấy giẻ rách nút tai hay nhét những lõi ngô vào miệng chăng nữa, cũng không cách nào giữ cho cơn gió Euroclydon ào ạt kia khỏi phạm tới mình. Euroclydon! Phú ông thốt lên, trong tấm áo choàng lụa là đỏ rực - (về sau lão còn có một tấm áo khác đỏ rực hơn) úi chà úi chà! Đêm giá băng mới đẹp làm sao; vầng sao Orion chói lọi, cực quang đẹp sao! Cứ kệ chúng huyên thuyên về miền khí hậu mùa hè phương Đông với những nhà kính ấm áp đời đời; hãy cho ta đặc quyền tạo lấy mùa hè riêng ta bằng than hồng của chính ta! Nhưng thánh Lazarus nghĩ sao? Người có thể sưởi ấm được chăng đôi bàn tay xanh mướt của Người bằng cách giơ chúng ra trước ánh cực quang huy hoàng? Chẳng phải thánh Lazarus sẽ muốn ở Sumatra hơn là ở đây? Chẳng phải ngài thà nằm dài trên đường xích đạo; trời hỡi, hay là đâm đầu xuống chính hỏa ngục kia để tránh được sương sa lạnh lẽo này? Giờ đây Lazarus nên nằm đó gối đầu trên tảng đá lát hè đường trước cửa nhà Phú ông; điều này còn kỳ diệu hơn cả một núi băng neo lại bên một hòn đảo trong quần đảo nhiệt đới Maluku. Tuy nhiên, Phú ông vẫn sống như một Nga hoàng trong cung điện băng đắp nên bằng những tiếng thở dài đông giá, và vì giữ chân chủ tịch một hội bài trừ uống rượu, ông ta chỉ đành uống những giọt nước mắt nóng hổi của lũ trẻ mồ côi. Nhưng giờ hãy thôi màn khóc lóc này đi, ta sắp đi săn cá voi và còn nhiều chuyện đắng cay sẽ đến. Ta hãy gạt bỏ chút tuyết đọng nơi chân tê cóng, và thử xem cái nơi mang tên là quán Cá Voi Phun Nước này là nơi như thế nào. CHƯƠNG III -------- QUÁN CÁ VOI PHUN NƯỚC BƯỚC VÀO QUÁN TRỌ Cá Voi Phun Nước mái dốc ấy, ta thấy mình ở trong một tiền sảnh thấp, rộng và lộn xộn, với những ván ốp chân tường cổ lỗ khiến ta liên tưởng tới một trong những máng ván thành của một con tàu cũ kỹ bị thái đi nào đó. Trên một vách tường có treo bức tranh sơn dầu to tướng ám khói tổng thể, tứ bề nhòa gần hết, đến nỗi qua ánh sáng xiên chéo không đều ta phải ngắm nghía mãi, rồi nhớ hết sức chú ý xem đi xem lại nhiều lần một cách có hệ thống, sau đó hỏi lại những người xung quanh cẩn thận mới có thể tạm đi đến cho biết trong tranh vẽ gì. Những khối bóng nhạt bóng đậm không tài nào hiểu nổi, khiến thoạt nhìn ta suýt thì nghĩ chàng họa sĩ trẻ tuổi đầy tham vọng nào đó, sống trong thời đại phù thủy ở New England, đã cố gắng mô tả trạng thái hỗn độn khi bị bỏ bùa. Nhưng sau khi đã lặng ngắm rất kỹ càng nghiêm chỉnh, và liên tục nghiền đi ngẫm lại nhất là sau khi đẩy cửa sổ nhỏ ở cuối gian tiền sảnh, cuối cùng ta đi đến kết luận rằng một ý tưởng như vậy, dù điên rồ, có lẽ cũng không hoàn toàn là không có lý do xác đáng. Nhưng cái bối rối nhất, khó hiểu nhất cho ta, chính là đống gì đen dài, mềm mềm, quái gở lơ lửng ở giữa bức tranh bên trên ba đường xanh mờ thẳng rẵng, bập bềnh như một bãi bọt nước không tên. Đó là một bức họa lầy lội, ẩm ướt, lép nhép một cách chân thực, đủ khiến cho một kẻ hay bực bội phải quẫn trí. Tuy vậy có một vẻ hùng vĩ vô biên, nửa vời, không sao tưởng nổi nơi bức tranh khiến ta hoàn toàn tê liệt trước nó, đến khi vô tình thề với bản thân phải cố làm sao tìm cho ra ý nghĩa của bức tranh huyền diệu đó mới thôi. Thảng hoặc một ý tưởng sáng rõ nhưng lừa mị xẹt qua ta. Có thể là cảnh Hắc Hải trong một trận bão đêm. Là cuộc chiến bất thường của bốn đại nguyên tố. Là một bãi đất hoang trời đánh thánh vật. Là cảnh mùa đông ở miền Bắc Cực. Là cảnh băng tuyết tan dần trên dòng Thời Gian. Nhưng cuối cùng, hết thảy những ảo cảnh đó đều nhường chỗ cho cái quái gở gì đó kia chính giữa bức tranh. Cái đó một khi ta luận ra, hết thảy những nét còn lại sẽ rõ rành. Nhưng hãy khoan; chẳng phải nó có dáng dấp hao hao một con cá khổng lồ hay sao? Có lẽ chính là con thủy quái Leviathan ấy cũng chưa biết chừng? Thực ra, ý định của nhà họa sĩ có lẽ là như thế này: một giả thuyết cuối cùng của bản thân tôi, phần nào căn cứ trên cơ sở các ý kiến góp nhặt được từ nhiều ông già mà tôi có dịp nói chuyện về vụ này. Bức tranh mô tả mũi Sừng trong một trận bão lớn; con tàu vật lộn trên biển đang chìm dần chỉ còn một nửa nhô trên mặt nước, trông thấy lấp ló ba cột buồm; và một con cá voi tức khí đương thực hiện cái hành động kỳ vĩ là tự nhào mình lên đỉnh ba cây cột buồm, nhằm xóa sổ con tàu. Bức tường đối diện của gian tiền sảnh có treo la liệt một dãy hết sức không văn minh những gậy tày và lao móc đồ sộ. Một số khí giới đó gắn đầy những chiếc răng lấp loáng trông như những lưỡi cưa bằng ngà; số khác trang trí những nút thắt từ tóc người; và một dụng cụ hình lưỡi liềm có cán to xòe chung quanh như một mảng cỏ do một người thợ hái tay dài mới cắt. Nhìn vào đó ta rùng mình không hiểu thứ mọi và giống ăn thịt người quái dị nào có thể sát phạt sinh linh bằng loại dụng cụ rạch chém đáng sợ như vậy. Lẫn giữa những khí giới đó là những lưỡi giáo và mũi lao săn cá heo cũ mòn hoen gỉ, thảy đã oằn mũi hay biến dạng. Một vài món còn có cả câu chuyện đi kèm. Chẳng hạn bằng chiếc lao một thời dài đẹp, nay còng queo đến dị dạng kia, cách đây năm chục năm Nathan Swain đã giết mười lăm con cá voi giữa khoảng mặt trời mọc và mặt trời lặn. Và mũi lao kia - giờ quăn tít như cái đồ mở nút chai - đã từng được phi ra trên các vùng biển Java và sau chót từng bị một con cá voi kéo đi, nhiều năm sau con cá này bị giết ngoài khơi mũi Blanco. Mũi lao ban đầu đâm vào gần đuôi con cá, rồi, như một cây kim không ngừng nghỉ lưu trú khắp bên trong cơ thể một con người, chu du khắp cả tấm thân không dưới bốn mươi bộ của con quái vật, để cuối cùng được tìm thấy cắm trong cục bướu trên lưng nó. Băng qua tiền sánh tối tăm này, rồi tiếp tục tới lối đi mái vòm thấp đằng xa - cắt xuyên qua một nơi xưa kia hẳn từng là ống khói trung tâm đồ sộ với các lò sưởi ở chung quanh - ta bước vào gian phòng chung. Tối tăm hơn nữa chính là chỗ này, với những xà nhà thấp nặng dường kia bên trên, và những mảnh ván sàn cũ kỹ gồ ghề xô xệch dường này bên dưới, đến nỗi ta suýt thì tưởng mình đang bước nơi buồng lái một con tàu cổ xưa nào, nhất là trong một đêm gió thét mưa gào như đêm nay, khi mà con tàu cũ kỹ neo ở góc này đang lắc lư dữ dội. Ở một phía đuôn đuỗn một cái bàn thấp dài như kệ để đồ, bên trên đầy những hộp thủy tinh rạn nứt, bên trong đựng những của lạ bám bụi thầu thập về từ mọi xó xỉnh xa xăm nhất của thế giới bao la này. Nhô ra từ góc trong xa hơn của căn phòng là một cái hang tối om - quầy rượu - một thứ nỗ lực thô lậu ở cái đầu một con cá voi chính cống. Chẳng biết có đúng hay không, ta thấy lừng lững nơi đó một bộ xương quai hàm cá voi cong cực lớn, rộng đến nỗi một cỗ xe ngựa cùng có thể chui lọt. Bên trong là những giá để đồ tả tơi, sắp bày chung quanh cùng những chai lọ bình vò cũ rích; và ở phía bên trong cái xương quai hàm có khả năng hủy diệt chớp nhoáng ấy, trông tựa một gã Jonah5 bị nguyền rủa nữa (mà hóa ra người ta cũng gọi lão bằng cái tên đó thật), lăng xăng đi lại một lão già nhỏ thó, gầy đét, kẻ nhận tiền để trìu mến bán cho các thủy thủ những cơn mê sảng và cái chết. Đáng kinh tởm là những cái ly không chân dùng để chứa thứ độc dược của lão. Mặc dù bên ngoài có hình trụ, nhưng bên trong, những chiếc ly màu xanh xấu xa này lại gian trá thon lại ở phía dưới thành một cái đáy lừa đảo. Những vạch mức song song được khắc thô thiển bao quanh những cái ly kẻ cướp này. Hễ rượu lên tới vạch này thì số tiền ta phải trả là một cắc, tới vạch này nữa thì thêm cắc nữa; và cứ thế tiếp tục cho tới đầy ly - đó là đơn vị đo lường của mũi Sừng, nuốt ực cả ly mất tong một shilling. Vừa lúc bước vào tôi trông thấy một đám thủy thủ trẻ bao quanh một cái bàn, mải mê quan sát dưới ánh đèn mờ những mẫu vật hầm bà lằng chạm trổ từ xương cá voi. Tôi tìm lão chủ nhà, bảo lão tôi muốn một gian phòng để ở, thì nhận được câu trả lời là nhà lão đã đủ người, không còn một cái giường nào bỏ trống. Nhưng gượm đã,” lão vỗ trán ra dáng suy nghĩ và tiếp, “Chắc ông bạn không phản đối nằm chung với một anh bạn chuyên nghề đâm cá, chứ hẳn? Tôi đoán chắc ông bạn sắp đi đánh cá voi, thiết tuồng ông bạn nên làm quen với lối ăn nằm đó.” Tôi bảo lão tôi không bao giờ thích ngủ chung hai người một giường; mà kể cả tôi có thuận thì cũng còn tùy nơi người bạn chuyên nghề đâm cá kia, còn như nếu ông ta (chủ quán) thật tình không dành được một chỗ ngủ nào khác cho tôi, và người bạn kia không phản đối dứt khoát mấy, thì tội gì tôi còn phải lang thang thêm nữa nơi đô thị xa lạ giữa một đêm rét mướt thế này, tôi thà chịu nằm chung với bất cứ ai miễn là người tử tế. “Tôi cũng nghĩ như vậy. Được rồi; ngồi đi. Ăn tối à? Ông bạn muốn ăn tối? Bữa tối sẽ dọn lên ngay.” Tôi ngồi xuống một ghế tủ cũ, chạm trổ tứ phía như kiểu ghế băng ở khu Pháo Đội. Ở một đầu ghế một thủy thủ tư lự đang dùng con dao gấp trang điểm thêm nữa cho chiếc ghế, cúi người chăm chú khắc chạm ở khoảng giữa hai chân. Anh chàng đang ra sức chạm hình một con tàu đang căng buồm, nhưng tôi thấy công việc không tiến triển được mấy. Sau cùng người ta mời bốn năm người bọn tôi qua ngồi ăn bên một gian kế cận. Gian phòng lạnh lẽo như băng đảo - không chút lửa sưởi - lão chủ quán nói lão không trang trải nổi. Không có gì ngoài hai cây nến sáp mỡ bò tù mù, mối cầy gắn trong một cái lồng chắn gió. Bọn tôi đành phải cài nút áo khoác chẽn kín tận cổ, và đưa chén trà nóng lên môi bằng những ngón tay gần tê cứng. Nhưng món ăn lại có phần thịnh soạn - không những có món thịt bò khoai tây, mà còn thêm món sủi cảo nữa; chà, có món sủi cảo vào bữa tối! Một gã trai trẻ bận áo bành tô xanh lập tức tấn công món này với cung cách rất ư khốc liệt. “Này chú,” lão chủ quán nói, “chú mày chắc chắn sẽ gặp cơn ác mộng chết giấc.” “Ông quán ơi,” tôi thỏ thẻ hỏi, “không phải là anh bạn chuyên nghề đâm cá đấy chứ?” “Ồ, không,” lão đáp, coi bộ tức cười đến quái dị, “anh bạn chuyên nghề đâm cá là một tay da ngăm ngăm cơ. Anh ta không bao giờ ăn sủi cảo, không đâu – chẳng ăn gì ngoài món bít tết, mà phải là bít tết tái mới khoái.” “Quỷ quái thật,” tôi đáp. “Thế anh bạn đâm cá đâu? Có ở đây không?” “Hắn sẽ về đây sớm thôi,” có người đáp. Tôi không dừng được mà bắt đầu cảm thấy nghi ngờ về anh chàng đâm cá “có nước da ngăm đen” kia. Dù sao tôi cũng nhất quyết rằng nếu chúng tôi có phải ngủ chung thì hắn sẽ phải thay quần áo và lên giường nằm trước tôi. Ăn tối xong, cả bọn trở về gian phòng có quầy rượu, chẳng biết làm gì khác, tôi quyết định dành cả phần còn lại của buổi tối làm khán giả. Ngay sau đó nghe có tiếng ồn ào hệt một vụ đánh lộn bên ngoài. Lão chủ quán giật mình, la, “Thủy thủ tàu Grampus đấy. Tôi thấy tàu đó trở về đến ngoài khơi từ sáng nay; hành trình ba năm, đầy nhóc một tàu. Hoan hô, mấy chú ạ; tụi mình sắp có tin tức mới nhất về quần đảo Feegee6.” Có tiếng giậm nặng nề của những chiếc ủng đi biển từ phía của vào; cánh cửa bật mở và ồ vào một đoàn thủy thủ hoang dại. Trùm kín áo choàng canh bờm xờm, đầu ủ khăn che kín mũi miệng, thảy vá víu và rách tả tơi, hàm râu cứng băng tuyết, trông họ giống như một đàn gấu phun trào từ miền Labrador. Họ vừa đổ bộ từ tàu xuống và đây là căn nhà đầu tiên họ bước vào. Chẳng trách họ lại rẽ lối tới thẳng miệng con cá voi - tức quầy rượu này - bởi ở đó lão Jonah già nhỏ thó và nhăn nheo đang thực thi bổn phận vội vã rót những ly đầy có ngọn cho cả bọn. Một ai đó than đầu bị dính lạnh ác, Jonah liền pha ngay cho anh ta một liều rượu gin mật mía đen như hắc ín, mà lão thề sống thề chết là một món thuốc thần hiệu trị hết thảy mọi chứng cảm hàn và chứng ho đờm thôi thì đủ loại, chẳng kể đã mắc từ bao lâu, mắc nơi bờ biển Labrador hay phía lộng gió của một vùng băng đảo nào. Rượu mạnh chẳng bao lầu đã bốc lên đầu họ, kể cả những tay uống thùng uống vại nhất mà vừa đổ bộ thì cũng vậy, rồi bọn họ bắt đầu nhảy cỡn ồn ĩ tột bực. Tuy nhiên, tôi quan sát thấy, một người trong bọn có vẻ hơi tách biệt, và dẫu người này xem ra không muốn đem bộ mặt đứng đắn phá cuộc liên hoan của các bạn cùng thuyền, suốt cả cuộc chơi anh cũng cố không ồn ào như mọi người. Tôi lập tức lưu ý tới anh; và vì chưng các thủy thần đã định rằng chẳng bao lâu nữa anh sẽ trở thành đồng đội của tôi (mặc dù không phải là kiểu đồng đội chung giường, như chừng mực liên quan đến câu chuyện này), tôi xin phép tả qua con người anh. Anh cao chừng sáu bộ, vai rộng, ngực trông như một con đê quai. Tôi ít khi thấy người đàn ông nào vai u thịt bắp như vậy. Da mặt anh nâu sậm và sạm nắng khiến cho hàm răng trắng chói sáng vì tương phản; còn trong những vung bóng tối sâu thẳm của mắt anh lại phảng phất những kỷ niệm dường như không cho anh mấy niềm vui. Giọng anh tỏ ngay anh là dân miền Nam, và ngó tầm vóc đẹp đẽ của anh tôi cho anh hẳn là một anh chàng miền núi cao lớn đến từ rặng Allegheny ở Virginia. Giữa lúc các bạn của anh vui nhộn nhất thì anh lẩn mất không ai hay biết, và tôi không gặp lại anh nữa cho tới khi anh trở thành người bạn đồng hành của tôi trên biển. Nhưng, chỉ vài phút sau đồng bạn đã nhận ra sự vắng mặt của anh - có lẽ vì lý do nào đó mà đồng bạn quý hóa anh lắm, bọn họ bèn la lên “Bulkington! Bulkington! Bulkington đâu rồi?” rồi chạy ùa ra ngoài để đuổi theo anh. Lúc đó chừng chín giờ, căn phòng trở lại yên tĩnh một cách siêu thường sau cuộc huyên náo và tôi bắt đầu tự chúc mừng bản thân, vì ngay trước khi đám thủy thủ ào vào tôi đã nảy ra một dự tính nho nhỏ. Không ai thích ngủ hai người một giường. Thật tình ngủ chung ngay với thằng em ruột cũng không thích. Tôi chẳng hiểu vì sao, nhưng người ta ai cũng muốn được riêng tư một mình khi nằm ngủ. Đằng này lại là ngủ chung với một người lạ, trong một quán lạ, ở một thành phố lạ, và tay người lạ đó lại chuyên nghề đâm cá, thì sự khó chịu càng tăng bội phần. Cũng không lý đâu mà cho rằng tôi là thủy thủ thì hơn bất cứ ai càng nên ngủ hai người một giường; bởi lẽ các thủy thủ không còn ngủ hai người một giường ngoài bể nữa, cũng như các vua chúa còn độc thân trên bờ thì không ngủ một mình vậy. Đã đành là mọi người ở chung một phòng, nhưng anh có võng riêng, trùm thân anh bằng mền riêng và tự ngủ riêng mình anh. Càng ngẫm nghĩ về anh chàng chuyên nghề đâm cá này bao nhiêu tôi càng ghê tởm với ý nghĩ phải ngủ chung với anh ta bấy nhiêu. Cũng hợp lý giả như ta đoán chuyên nghề đâm cá thì chăn nệm của anh ta không thể là thứ sạch sẽ hạng nhất, càng chẳng lấy đâu ra mà đẹp đẽ hạng nhất được. Tôi bắt đầu nhăn nhó. Với lại, đã khuya lắm rồi, anh chàng đâm cá kia mà tử tế ra tất phải quay về đi ngủ rồi chứ. Giả sử bây giờ nửa đêm nửa hôm anh ta nhào lên người tôi - thì tôi biết được anh ta ở lỗ nào chui ra đây? “Ông chủ quán ơi, tôi đã đổi ý về người đâm cá kia. Tôi không ngủ chung với hắn đâu. Tôi tính nằm ngay trên cái ghế băng này.” “Tùy ý ông bạn; tôi rất tiếc không đưa cái khăn bàn nào cho ông bạn dùng làm nệm được, mà mặt ghế thô nhám gớm thật,” - sờ sờ những mắt gỗ với đường khía. “A mà chờ chút, ông bạn Chạm Trổ Xương, tôi có sẵn cái bào thợ mộc trong quầy này - tôi bảo đợi hẵng mà, để tôi giúp ông bạn được dễ chịu.” Dứt lời lão lấy cái bào ra, và sau khi rút chiếc khăn lụa cũ phủi bụi trên ghế, lão ra sức bào mặt băng ghế cho tôi, vừa làm vừa cười nhe nhởn như đười ươi. Dăm bào bay sang hết trái lại phải, cho đến lúc lưỡi bào đụng phải một mắt gỗ lồi cứng không chịu đi. Lão chủ quán thiếu chút nữa thì trẹo tay, tôi bèn xin lão vì Chúa hãy thôi đi - mặt giường kể ra đối với tôi cũng đã khá êm, tôi vẫn biết trên thế gian này làm sao biến một tấm ván thông thành êm như lông chim được. Lão bèn vừa nhe răng cười thêm cái nữa vừa thu gọn những mảnh dăm bào, liệng vào lò lửa ở giữa phòng, rồi bỏ đi lo công việc riêng mặc tôi đứng đó đăm chiêu suy nghĩ. Bấy giờ tôi thử xem bề dài của cái ghế băng thì thấy ngắn hơn người tôi chừng một bộ; nhưng khoảng ngắn đó có thể lấp bằng một cái ghế dựa. Nhưng cái ghế băng cũng lại hẹp thua đâu một bộ, còn cái ghế băng thứ hai trong phòng lại cao hơn cái thứ nhất một vài tấc - thành ra không sao ghép chúng cho vừa được. Tôi bèn kê cái ghế thứ nhất dọc theo khoảng trống duy nhất ở sát tường, chỉ để một khoảng cách nhỏ ở giữa, đủ cho lưng thu xếp vừa vào. Nhưng tôi mau chóng nhận ra nguyên một luồng gió buốt lạnh từ bậu cửa sổ thổi xộc vào người, cho nên sắp đặt như vậy không đời nào ổn, nhất là bởi một luồng gió nữa từ cánh cửa ra vào lung lay gặp luồng gió từ bậu cửa sổ, và cùng nhau chúng hợp thành một đoàn những cơn lốc nhỏ ở quanh nơi tôi dự tính ngủ qua đêm. Quỷ tha ma bắt gã đâm cá kia đi, tôi chợt nghĩ, nhưng gượm nào, sao tôi không giành lấy cờ trước - khóa chặt cửa ở bên trong, leo lên giường hắn và cứ lờ đi những tiếng đập cửa dữ dội nhất? Ý tưởng đó không hề dở; nhưng sau vài giây lưỡng lự tôi đã gạt bỏ hẳn. Bởi ai dám nói chắc sáng mai, khi tôi vừa ra khỏi cửa phòng, gã đâm cá không đứng đợi ở hành lang, sẵn sàng hạ tôi đo ván! Rồi, lại ngắm quanh phòng một lượt, không thấy có tí hy vọng qua một đêm dễ chịu nào ngoài cách leo lên giường người khác, tôi bắt đầu nghĩ rằng xét cho cùng tôi rất có thể đang khư khư ôm những thành kiến không đẹp đẽ gì với anh chàng đâm cá không quen biết này. Tôi nghĩ, mình sẽ chờ thêm một lát, hẳn không bao lâu nữa hắn sẽ trở về. Tôi sẽ ngó hắn thật kỹ và không chừng kết cuộc chúng tôi sẽ thành đôi bạn cùng giường tốt - ai mà biết được. Trong khi những khách trọ khác, từng nhóm một, hai, rồi ba người vào đi ngủ, tôi vẫn không thấy tăm hơi anh chàng đâm cá. Tôi hỏi: “Ông chủ quán ơi, hắn ta là tay thế nào? Hắn luôn về khuya như thế này hả?” Lúc đó đã sắp mười hai giờ đêm. Lão chủ quán lại cười, vẫn cái lối cười khùng khục khô khốc, xem ra lão thấy cực kỳ tức cười vì một cớ gì mà tôi không hiểu. “Không,” lão đáp, “thường thường anh ta như con gà lên chuồng sớm - ngủ sớm và dậy sớm - đúng là một thứ chim siêng bắt sâu. Nhưng đêm nay chắc anh ta thích đi lang thang, ông bạn biết đấy, tôi cũng không hiểu có vụ quái gì giữ anh ta ở bên ngoài lâu đến thế, không chừng lại đem cái đầu đi bán mãi không được.” “Đem cái đầu đi bán không được? Ông đang nói cái chuyện kỳ quái gì với tôi vậy?” Tôi phát cáu. “Có phải ông định nói rằng tay đâm cá đang mất cả đêm thứ Bảy quý hóa này, hay cả sáng Chủ nhật nữa, để đem cái đầu của hắn đi rao bán ngoài phố?” “Chính xác thế,” chủ quán đáp, “chính tôi có bảo với anh ta là không đem bán ở đây được vì chợ đầy nghẹt rồi.” “Đầy nghẹt những gì?” tôi la lên. “Dĩ nhiên là những đầu người; trên mặt đất này chả toàn những đầu người là đầu người?” “Nói cho ông nghe nhé, chủ quán,” tôi bình tĩnh nói tiếp, “tốt hơn là ông hãy tốp cái chuyện đó lại, tôi không phải tay mơ đâu.” “Có nhẽ là không,” lão lấy ra một cái que vót thành cây tăm và đáp. “Nhưng tôi e rằng ông bạn sẽ bị bịp nếu anh bạn đâm cá ấy hay tin ông bạn phỉ báng cái đầu của anh ta.” “Tôi sẽ đập nát nó ra hộ anh ta,” đương bực mình vì cái mớ hổ lốn úp mở khó chịu của lão chủ quán, tôi nổi tam bành. “Nó đã vỡ sẵn rồi còn gì,” lão nói. “Vỡ,” tôi hỏi, “ông nói vỡ nghĩa là sao?” “Quỷ thần ơi, đó chính là nguyên do anh ta không bán được đấy, chắc vậy.” “Ông chủ quán,” tôi vừa nói vừa lạnh lùng như ngọn núi Hecla giữa cơn bão tuyết tiến lại gần lão chủ quán. “Ông chủ quán này, hãy ngừng vót tăm. Tôi với ông cần phải hiểu nhau đã, ngay lập tức không chần chừ nữa. Tôi đến trọ nhà ông và cần một cái giường, ông nói với tôi là chỉ có thể dành cho tôi một nửa giường, nửa kia thuộc về một tay chuyên nghề đâm cá nào đó. Và về cái anh chàng đâm cá mà tôi chưa hề gặp ấy, ông cứ nói mãi những chuyện bí ẩn và khó chịu, cốt gây cho tôi một cảm tưởng bất an về người mà ông định cho làm bạn chung giường với tôi - một mối quan hệ mà, ông chủ quán ạ, vào dạng gắn bó và tin cậy ở cấp độ cao nhất. Giờ đây tôi yêu cầu ông nói trắng ra, cho tôi biết, anh chàng đâm cá đó là ai, là hạng người gì, nếu tôi ngủ chung giường cả đêm với anh ta, liệu tôi có được vô sự về mọi phương diện hay không. Nhất là ông làm ơn đừng nói chuyện bán đầu anh ta nữa, vì nếu có thật, chuyên đó khiến tôi tin rằng tay đâm cá này hiển nhiên là một kẻ điên. Tôi không bao giờ nghĩ tới chuyện ngủ chung với một kẻ điên. Còn ông, ông chủ quán ạ, nếu ông cứ cố tình xúi giục tôi làm việc đó thì ông có thể tự vác xác ra trước tòa đại hình được rồi đấy.” “Ố ồ,” lão chủ quán đáp, hít một hơi, “bài thuyết giảng quá dài cho một tay cũng từng nay đây mai đó đấy. Nhưng yên trí, yên trí đi, anh bạn đâm cá tôi đang kể với ông đây mới từ vùng biển miền Nam tới, anh ta mang theo rất nhiều đầu người ướp dầu thơm New Zealand (kỳ lạ lắm, ông bạn ạ), và đã bán được hết trừ một cái còn lại mà đêm nay anh ta cố bán nốt, vì ngày mai là Chủ nhật, đem đầu người đi bán rong ngoài phố trong khi mọi người đi lễ thì quả thật khó coi. Chủ nhật tuần trước, anh ta cũng tính đem bán nhưng tôi cản lại được đúng lúc anh ta dợm bước ra cửa với bốn cái đầu treo lủng lẳng vào một sợi dây như xâu hành vậy.” Câu chuyện đã làm sáng tỏ điều bí ẩn kỳ quặc kia và chứng tỏ rằng dù sao lão chủ quán cũng không có ý trêu chọc tôi, nhưng đồng thời, tôi cũng không biết nghĩ sao về một người chuyên đâm cá lại la cà suốt đêm thứ Bảy rạng ngày Chúa nhật thiêng liêng để lo thứ công việc của bọn ăn thịt người như là dạm bán đầu của những kẻ chuyên sùng bái ngẫu tượng. “Ông chủ quán ạ, nghe vậy thì gã đâm cá này là một tay nguy hiểm lắm.” “Anh ta trả rất sòng phẳng,” lão trả lời. “Nhưng thôi, đêm đã khuya rồi, tốt hơn là ông bạn đánh một giấc đi - giường tốt lắm; tôi với Sal nằm trên cái giường đó vào đêm tân hôn. Thừa chỗ cho hai người quậy cựa, một cái giường hết sức rộng đấy. Chao, trước khi chúng tôi thôi nằm cái giường đó, Sal hay đặt thằng lớn Sam và thằng nhỏ Johnny nằm ngủ dưới cuối giường. Thế rồi một đêm tôi mê ngủ không biết đạp thế nào mà thằng Sam bị văng xuống sàn thiếu chút nữa thì gãy tay. Từ đó Sal mới bảo thôi, thế không ổn. Theo tôi nào, tôi sẽ cho ông bạn ngó qua.” Nói rồi lão chủ quán châm một ngọn nến đưa về phía tôi rồi đề nghị tôi đi theo. Tôi do dự đứng đó. Lão nhìn đồng hồ ở góc nhà và la lên: “Chủ nhật - đêm nay ông bạn sẽ không gặp anh chàng đâm cá này đâu. Anh ta đã thả neo nơi nào rồi - theo tôi nào. Nào ông bạn có đi theo tôi hay là không đây?” Tôi suy nghĩ một chút, rồi chúng tôi đi lên thang, và tôi được đưa vào một căn phòng hẹp, lạnh như một cái vỏ hến, và quả vậy, được trang bị một cái giường kỳ lạ, rộng cỡ bốn người đâm cá cùng nằm ngủ thoải mái. “Đây,” lão chủ quán nói, đặt cây nến trên mặt chiếc rương thủy thủ cũ mèm quái gở vừa dùng làm kệ rửa mặt vừa dùng làm bàn, “đây, ông bạn cứ tự nhiên, ngủ kỹ nhé.” Tôi vừa ngắm cái giường xong quay lại thì lão đã biến mất. Lật tấm khăn trải, tôi cúi xuống ngắm mặt giường. Dù không lịch sự nhất hạng gì nhưng săm soi thấy cũng được lắm. Rồi tôi ngó quanh phòng; ngoại trừ cái giường và cái bàn giữa nhà không thấy có đồ đạc gì khác hợp cảnh cả, mà chỉ có một cái kệ thô kệch, bốn bức tường và một tấm ván chắn miệng lò sưởi dán giấy có vẽ hình một người đang đâm cá voi. Trong số những đồ đạc không hợp cảnh còn có một chiếc võng máng lòng thòng ở một góc tường, còn một cái bao hành lý cỡ lớn của thủy thủ, đựng quần áo của người chuyên đâm cá kia, chắc chắn thay thế cho rương. Ngoài ra, còn những cái móc câu kỳ dị bằng mảnh xương bày ở kệ trên mặt lò sưởi và một cây lao dựng ở đầu giường. Nhưng còn cái gì ở trên mặt rương kia? Tôi cầm lên, giơ ra gần ánh sáng, sờ mó, đưa lên mũi ngửi và cố gắng bằng đủ mọi cách để đi tới một kết luận khả quan về vật đó. Tôi không thể so sánh vật đó với cái gì khác hơn là một tấm thảm chùi chân cỡ lớn có viền những mảnh sắt nhỏ leng keng trang trí giống như những cái lông nhím quanh một chiếc giày mọi của dân da đỏ. Ở giữa tấm thảm có một lỗ hổng hay một chỗ xẻ, giống như ta vẫn thấy trên áo choàng của người Nam Mỹ. Nhưng thử hỏi có người đâm cá đứng đắn nào lại chui đầu qua một tấm thảm như vậy, để rồi diễu khắp phố phường một thành phố Thiên Chúa giáo trong cái lốt ấy không? Tôi chui đầu vào thử mặc, và nó kéo trì tôi xuống như một cái hòm mây trĩu nặng vì nó dày và bờm xờm bất thường; tôi thấy nó còn ẩm, ý chừng anh chàng đâm cá kỳ lạ này mới mang nó vào một ngày mưa. Tôi tiến lại gần mảnh gương soi gắn ở vách tường và chưa bao giờ trong đời lại chứng kiến một hình ảnh như vậy. Tôi vội vã gỡ bỏ vật đó ra, thiếu chút nữa thì trẹo cổ. Tôi ngồi bên thành giường bắt đầu ngẫm nghĩ tới anh chàng đâm cá rao bán đầu người với tấm thảm chùi chân của anh ta. Sau khi suy nghĩ một lúc lâu ở bên thành giường, tôi đứng lên cởi chiếc áo khoác chẽn, rồi cứ đứng ở giữa phòng mà suy nghĩ một chập nữa. Tôi lại cởi thêm áo bành tô, cứ bận sơ mi trần đứng đó suy nghĩ mãi. Nhưng rồi tôi bắt đầu thấy lạnh vì đã cởi bỏ gần hết áo ngoài và chợt nhớ ra rằng lão chủ quán có nói chắc người đâm cá đêm nay không về, đêm, tôi không ngần ngại gì nữa, cởi nốt quần và tháo giày rồi thổi tắt nến, nhào vô giường, phó mặc cho Bề Trên lo phù hộ cho tôi. Tôi không thể nói chắc tấm nệm giường được nhồi bằng lõi bắp hay mảnh sứ bể, nhưng tôi trằn trọc mãi, lâu lắm chưa ngủ được. Lúc tôi sắp thiêm thiếp thì bỗng nghe có tiếng chân bước ngoài hành lang và thấy chút ánh đèn lọt từ chân cửa vào phòng. Tôi thầm cầu Chúa che chở cho tôi vì chắc hẳn anh chàng đâm cá bán đầu người kia đã về. Tôi nằm yên, định tâm không nói chờ người kia hỏi trước. Một tay cầm ngọn nến, tay kia cầm cái đầu người New Zealand, người lạ mặt bước vào phòng, không ngó ngàng chỉ tới chỗ giường ngủ. Anh ta đặt ngọn nến xuống sàn ở một góc xa, và rồi bắt đầu loay hoay tháo gút cái bao hành lý lớn mà ban nãy tôi có nói là đang ở trong phòng. Tôi nóng lòng muốn ngó mặt anh ta, nhưng anh ta quay mặt đi trong lúc mải tháo gút sợi dây cột miệng bao. Tuy nhiên, gỡ xong sợi dây anh ta quay lại. Trời ơi! Cảnh tượng gì vậy trời! Khuôn mặt gì đây! Da mặt tối màu vàng pha màu tía, đây đó dán những miếng vuông màu đen. Đúng như tôi đã tiên đoán, anh ta là một thứ bạn đồng sàng đáng sợ; anh đã vừa ẩu đả, bị chém nhiều nhát và hình như mới từ nhà phẫu thuật ra. May thay, lúc anh ta tình cờ quay mặt lại phía ánh đèn, tôi mới nhìn rõ là chúng hoàn toàn không phải những miếng cao dán, lũ ô vuông hai bên má ấy. Chúng là những vết màu thuộc một loại khác. Ban đầu tôi còn phân vân, sau mới chợt hiểu ra sự thực. Tôi nhớ lại chuyện một người da trắng - cũng một thợ đâm cá voi - bị rơi vào tay bọn mọi ăn thịt người và bị bọn người này xăm hình vào. Tôi kết luận rằng anh chàng đâm cá này, nhân những chuyến đi xa, đã gặp một vụ phiêu lưu tương tự. Tôi nghĩ, xét cho cùng điều này có nghĩa gì đâu! Chỉ là bề ngoài; một con người có thể rất lương thiện cho dù có bộ mặt như thế nào. Nhưng còn nước da dễ sợ của anh ta thì phải hiểu ra sao nhỉ, cái phần ấy của gương mặt, ý tôi muốn nói cái phần ở chung quanh hoàn toàn không liên quan chi tới những ô vuông xăm đó. Rất có thể đó chỉ là lớp da cháy rám vùng nhiệt đới; dù tôi chưa hề nghe nói ánh nắng gay gắt làm cháy rám một người da trắng tới vàng tía được. Tuy nhiên, tôi chưa bao giờ tới các vùng biển miền Nam; và có lẽ mặt trời ở đó gây nên kết quả phi thường như vậy trên da mặt. Trong khi tất cả những ý nghĩ này xẹt qua trong đầu tôi như tia chớp, người đâm cá không hề lưu ý tới tôi. Sau khi loay hoay mãi mới mở được cái bao, anh ta bắt đầu lục lọi trong ấy, và lát sau lôi ra cái gì như một chiếc rìu của người da đỏ cùng một cái ví da hải cẩu còn nguyên lông. Bày hai món đồ trên mặt cái rương giữa phòng, rồi anh ta vớ cái đầu người New Zealand - thứ trông thật ma quái - nhồi vào trong bao. Anh ta lại lật chiếc mũ ở trên đầu xuống - mũ mới tinh làm bằng lông hải ly - khiến cho tôi gần như muốn hét lên vì kinh ngạc. Trên đầu anh ta không có một sợi tóc nào - chí ít cũng không còn sợi nào đáng nói - trơ sọ ngoại trừ một cái gút xoắn lại ở ngay trán. Cái đầu hói da tía quả tình bấy giờ trông như một cái sọ người mục nát. Giả sử người lạ mặt đó đứng ở khoảng giữa tôi với cánh cửa thì tôi đã lao vọt ra ngoài, còn nhanh hơn là tôi lùa một bữa ăn. Tuy chỉ vậy chẳng có sự gì, tôi cũng đã đại khái nghĩ đến cách tuột ra bằng lối cửa sổ, song khốn nỗi lại là cửa sổ tầng hai hướng sau nhà. Tôi không phải là đồ hèn, nhưng phải hiểu ra sao về kẻ da tía chuyên nghề bán đầu người này thì lại hoàn toàn vượt tầm hiểu biết của tôi. Dốt nát vốn bà con với sợ hãi, bởi lẽ hoàn toàn bối rối và sửng sốt vì con người lạ mặt này, tôi thú thật là lúc đó tôi sợ anh ta khác nào sợ hiện thân quỷ dữ chợt nhảy vào phòng tôi giữa đêm khuya. Thật tình là tôi sợ anh ta đến không đủ can đảm để ngỏ lời đòi hỏi một lời giải đáp thích đáng về những gì khó hiểu nơi anh ta. Trong khi đó anh ta tiếp tục bận rộn cởi đồ, để lộ bộ ngực và hai cánh tay. Chính mắt tôi trông thấy những chỗ trên người anh có bận áo che đi cũng có kẻ những ô vuông như trên mặt, đằng lưng cũng vậy, đều có xăm những ô vuông sậm màu; anh ta trông như thể đã tham gia cuộc chiến Ba mươi năm và vừa thoát về được mang theo trên mình một tấm áo choàng bằng cao dán. Hơn nữa cả hai cẳng chân anh cũng có những vết tích giống như một đàn ếch màu lục sậm đương leo lên hai cây cọ non. Giờ thì đã rõ anh ta phải thuộc về một giống người dã man hay một giống người nào khác đã đáp tàu đi đánh cá voi từ vùng biển miền Nam, và đổ bộ lên xứ Thiên Chúa giáo này. Tôi run lên khi nghĩ như vậy. Đúng là một tay chuyên nghề đem đầu người đi bán dạo - không chừng đó là đầu của anh em nhà hắn. Hắn rất có thể muốn cái đầu của tôi. Trời ơi! Cứ trông chiếc rìu kìa! Nhưng không còn thời giờ đâu mà run rẩy nữa, vì kẻ mọi rợ kia đương loay hoay gì đó khiến cho tôi mười phần chăm chú, và tin chắc rằng anh ta quả là một kẻ vô thần. Tiến tới gần chiếc áo khoác, hay áo choàng toàn thân hoặc áo vải bố thô dày gì đó, mà khi nãy anh ta máng trên lưng ghế, người đâm cá moi móc trong túi áo, cuối cùng rút ra một hình thù nhỏ, méo mó kỳ dị, với một cục bướu trên lưng, còn màu sắc thì đúng là nước da một hài nhi ba ngày tuổi xứ Congo. Nhớ lại cái đầu người ướp, ban đầu tôi đinh ninh rằng hình nhân màu đen kia đúng là một hài nhi được tẩm ướp cách nào tương tự. Nhưng nhận ra vật đó có vẻ cứng đơ, lại bóng láng như bằng gỗ mun đánh bóng, cho nên tôi kết luận rằng đó không là gì khác một ngẫu tượng bằng gỗ, và xem ra quả đúng như vậy. Kẻ mọi rợ đó đi đến bên lò sưởi trống không, rồi gạt tấm chắn lò sưởi bồi giấy sang bên, đoạn dựng cái hình thù nhỏ có bướu sau lưng như một cây ky giữa hai cái giá để củi. Miệng lò sưởi và gạch xây bên trong đầy những bồ hóng ra dáng một ngôi mộ hơn là một miếu đường cho ngẫu tượng Congo của anh ta. Tôi dán mắt về phía cái hình thù bị che lấp một nửa đó, rất nóng lòng chờ xem những gì sẽ xảy tới. Thoạt tiên anh ta lấy từ trong túi áo khoác ra độ hai nắm dăm bào, cẩn thận đặt lên trước pho tượng; rồi để một miếng bánh quy khô dùng dưới tàu lên trên đống dăm bào và châm lửa ở ngọn nến sang thành một ngọn lửa cúng tế. Liền sau đó, sau nhiều lần quơ nhanh vào đám lửa, rồi rút tay ra còn nhanh hơn (coi bộ như mấy ngón tay bị lửa làm bỏng nặng), cuối cùng anh ta cũng khều được miếng bánh ra; thổi tắt lửa và bớt tro dính, anh ta cung kính đưa miếng bánh tới trước chú mọi đen tí hon kia. Con quỷ nhỏ xem ra không thú gì bữa ăn ít ỏi vì không hề thấy môi nó mấp máy. Tất cả những nghi thức kỳ dị này lại được kèm theo những tiếng lầm rầm lạ tai thốt ra từ miệng người cúng tế, dường như anh ta đương tụng niệm một bài kinh hay đương hát một bản ca tà giáo nào đó, trong khi nét mặt nhăn nhó hết sức bất thường. Sau cùng anh ta thổi tắt đèn, cung kính nâng cao ngẫu tượng, đoạn cất vật đó vào trong túi áo một cách lơ đãng như anh ta là một người đi săn đương bỏ con gà rừng chết vào trong bao. Bấy nhiêu nghi thức kỳ dị đã làm tăng thêm nỗi bất an của tôi, giờ trông thấy anh ta tỏ dấu hiệu rành rành đã chấm dứt mọi hoạt động, sắp nhảy lên giường với tôi đến nơi, tôi cho rằng lúc này, hay là không bao giờ nữa, trước khi ánh sáng tắt, đã đến lúc tôi phải giải bùa chú đã ám vào tôi quá lâu. Nhưng khoáng ngưng mà tôi dùng để suy nghĩ xem nên nói gì thật tai hại. Cầm cây rìu trên bàn lên, anh ta ngắm lưỡi rìu một lát, rồi đưa nó ra trước ngọn nến, và trong khi miệng ngậm cán rìu anh ta thổi phù một hơi đặc khói thuốc lá. Liền sau đó nến tắt anh chàng mọi miệng vẫn ngậm cán rìu nhào vào giường tôi. Tôi la lên vì không nhịn được nữa và phát ra một tiếng càu nhàu vì ngạc nhiên, anh ta bắt đầu nhận thấy có tôi. Lắp bắp cà lăm những gì chính tôi cũng chẳng biết, tôi lăn ra xa tới sát tường và yêu cầu anh ta, dù là ai hay là thứ gì nữa, cũng yên lặng, để cho tôi đứng dậy đi thắp lại nến. Nhưng những lời đáp từ cổ họng anh ta thốt ra lại khiến cho tôi yên tâm ngay rằng anh ta chỉ không hiểu ý tôi. “Anh lè thèng quỷ nèo?” - mãi sau anh ta nói - anh nói không tui dít.” Vừa nói anh ta vừa múa cây rìu sáng loáng lượn quanh tôi trong bóng tối. “Chủ quán, lạy Chúa tôi, ông Peter Coffin!” tôi la lớn. “Ông chủ quán ơi, coi kìa, ông Coffin! Các thiên thần ơi! Cứu tôi với!” “Nói è! Nói è tui biết là ai è, nếu không tui dít è!” tên ăn thịt người lại gầm gừ, đồng thời cứ quơ cây rìu dễ sợ làm bay tung những tàn thuốc nóng quanh tôi khiến cho tôi cứ ngỡ là chăn nệm sắp cháy hết. May thay vừa lúc đó lão chủ quán bước vào phòng, tay cầm đèn, tôi liền nhảy xuống sàn chạy tới bên lão. “Giờ ông không phải sợ,” lão lại nhăn nhởn cười và nói, “ông Queequeg đây sẽ không động tới một sợi tóc trên đầu ông bạn đâu.” “Ông thôi cười đi,” tôi la lên. “Tại sao ông không nói cho tôi biết tay đầm cá ghê gớm ấy là một tên ăn thịt người?” “Tôi tưởng ông bạn đã biết rồi chứ; tôi đã chẳng nói anh ta chuyên bán dạo đầu người trong thành phố này là gì? Nhưng ông bạn hãy đánh một giấc đi. Queequeg, xem này - tôi bít anh, anh bít tôi - người này ngủ anh - anh bít chưa?” “Tui bít nhiều rùi…” Queequeg ngồi nhổm dậy trên giường, rít bập bập tẩu thuốc, lẩm bẩm đáp. “Ông cứ vèo,” miệng nói tiếp như vậy, tay anh ta cầm cái rìu ra dấu cho tôi và hất áo quần sang bên. Cử chỉ của anh ta không những văn minh nhã nhặn mà còn rất có vẻ tử tế hiền lành. Tôi đứng ngó anh ta giây lát. Dù với bấy nhiêu vết xăm trên người, anh ta xét ra vẫn là một tên ăn thịt người sạch sẽ và ân cần. Tôi tự nhủ mình làm loạn lên làm chi nhỉ - người này cũng là một người như tôi chứ có gì khác: anh ta cũng có khối lý do để sợ tôi, cũng như tôi phải sợ anh ta. Ngủ chung với một anh ăn thịt người đứng đắn còn hơn là với một anh Thiên Chúa giáo say rượu. “Ông chủ ơi”, tôi bèn nói, “bảo anh ta cất cái rìu kia đi, hay cái tẩu thuốc lá hay cái gì gì đó ông gọi sao cũng được; tóm lại ông bảo anh ta đừng hút thuốc nữa thì tôi sẽ vào với anh ta. Tôi không thú ngủ chung giường với một người đương hút thuốc. Nguy hiểm lắm. Với lại tôi không yên tâm.” Ông chủ quán bảo lại với Queequeg xong, anh ta liền nghe theo; và một lân nữa lễ phép mời tôi lên giường nằm - còn né hẳn về một phía như muốn nói, Tôi sẽ không đụng tới lông chân ông. Chúc ông ngủ ngon, ông chủ quán,” tôi nói. “Bây giờ thì ông có thể ra được.” Tôi trở lên giường và trong đời chưa bao giờ ngủ ngon như đêm đó. CHƯƠNG IV -------- TẤM KHĂN TRẢI GIƯỜNG THỨC GIẤC HÔM SAU lúc trời vừa sáng, tôi thấy cánh tay của Queequeg quàng lên người tôi ra vẻ thân thiết và âu yếm. Hẳn bạn cho rằng tôi đã thành vợ anh ấy chứ. Tấm khăn trải giường là một tấm vải vá víu, đầy những ô vuông và những miếng tam giác đủ màu sắc, còn cánh tay anh xăm kín như một mê cung đảo Crete vô cùng tận, mà không có lấy hai phần trên ấy chính xác đồng màu - theo tôi đoán hẳn do khi ở biển anh đã không biết giữ gìn cánh tay đúng cách khi ở trong bóng râm lẫn lúc phơi ra ngoài nắng, tay áo xắn lên thất thường lúc cao lúc thấp, thành ra tôi có thể nói là cánh tay ấy không khác gì một dải chăn chắp vá. Quả vậy, vì lúc tôi tỉnh giấc thì một phần cánh tay ấy đặt trên tấm chăn, tôi khó lòng phân biệt được nó với tấm chăn màu sắc hòa quện, mà phải nhờ sức nặng và lực đè của tay tôi mới biết là Queequeg đương ôm tôi. Cảm giác của tôi lúc đó rất lạ lùng. Để tôi thử giải thích xem sao. Hồi còn trẻ con, tôi nhớ có một trường hợp tương tự đã xảy đến với tôi, đó là thật hay mơ thì tôi chưa bao giờ hoàn toàn hiểu được. Trường hợp đó như thế này. Một bữa tôi làm trò dại dột nào đó - hình như tôi đã leo trèo tính bắt chước chú nhóc thợ nạo ống khói mà mấy bữa trước đó tôi ngó thấy làm việc. Bà mẹ ghẻ của tôi, người vẫn hay tìm cách này cách khác đe đánh đòn tôi suốt ngày hoặc phạt tôi phải nhịn ăn tối mà đi ngủ, bèn nắm chân tôi lôi ra khỏi ống khói và bắt tôi phải vào giường ngủ, tuy lúc đó mới hai giờ chiều ngày 21 tháng Sáu, ngày dài nhất trong một năm ở bán cầu này. Tôi bực bội lắm. Nhưng không có cách nào khác nên tôi đành lên căn phòng nhỏ của mình ở tầng ba, cởi quần áo thật chậm để giết thì giờ và thở dài chua chát chui vào chăn. Tôi buồn bã nằm đó, nhẩm tính rằng phải mười sáu giờ đằng đẵng nữa trôi qua rồi tôi mới có hy vọng được hồi sinh. Mười sáu giờ đồng hồ trên giường! Nghĩ vậy tôi cảm thấy đau nhói ở ngang lưng. Bên ngoài còn sáng quá; mặt trời chiếu vào cửa sổ, những tiếng xe ngựa nhộn nhịp ngoài phố và những tiếng cười nói ồn ào ở quanh nhà. Tôi cảm thấy càng lúc càng bực dọc, sau cùng tôi ngồi dậy, mặc quần áo và chân mang tất nhè nhẹ xuống nhà dưới tìm tới bên bà mẹ ghẻ, thốt nhiên quỳ mọp dưới chân bà, van lơn bà hãy đánh đòn một trận vì tội của tôi, hay bất cứ một hình phạt nào khác, chứ đừng đày ải tôi phải nằm trên giường lâu đến không chịu nổi như vậy. Nhưng bà là một bà mẹ ghẻ đúng mực vào bậc nhất nên tôi phải quay về phòng. Tôi nằm tỉnh queo hàng mấy tiếng đồng hồ, cảm thấy cực khổ hơn bao giờ hết, hơn có nhẽ đến cả những tai họa lớn lao nhất về sau này. Sau cùng hẳn tôi đã chìm lịm trong một giấc ngủ mộng mị không yên; lát sau tỉnh dậy - nửa tỉnh nửa mê - tôi mở mắt ra thấy căn phòng ban nãy đầy ánh sáng giờ bị bao trùm trong bóng tối từ bên ngoài. Lập tức tôi thấy chấn động khắp toàn thân; tôi không trông thấy, không nghe thấy gì hết, nhưng dường như có một bàn tay siêu nhiên đang đặt trong tay tôi. Cánh tay tôi buông sõng trên tấm khăn phủ giường, và cái hình thù hay con ma lặng lẽ, không thể tưởng tượng, không thể gọi tên ra, dính liền với bàn tay kia, hình như đang ngồi sát bên giường tôi. Suốt một lúc lâu dường như bằng nhiều thế kỷ chồng chất, tôi nằm đó, tê cóng trong mối lo âu rùng rợn nhất, không dám rút bàn tay ra; chẳng hề dám nghĩ rằng cục cựa chỉ một phân thôi cũng đủ phá tan cơn mê hãi hùng. Tôi không hiểu rốt cuộc cảm thức đó đã trôi qua như thế nào; nhưng sáng hôm sau thức dậy tôi rùng mình hồi tưởng lại hết, và bao nhiêu ngày tháng về sau tôi vẫn mụ mị cố giải thích sự bí ẩn. Cho đến ngay lúc này tôi vẫn còn hay băn khoăn về chuyện ấy. Giờ đây, gạt bỏ mối hãi hùng kia đi, mọi giác quan của tôi khi cảm thấy có bàn tay siêu nhiên kia đặt trên bàn tay tôi cũng tương tự, về phương diện kỳ lạ, như lúc tôi tỉnh dậy và thây cánh tay tà giáo của Queequeg ôm ngang người tôi. Nhưng dần dà, mọi biến cố trong đêm trước được khơi lại thật rõ rệt, chính xác như thực xảy ra, và rồi tôi nằm đó chỉ thấy đây là một tình trạng đáng tức cười. Tôi kiếm cách di chuyển cánh tay anh - tính gỡ vòng tay khít chặt của tân lang - nhưng, đang say giấc, anh càng ghì chặt lấy tôi, tưởng như chỉ có cái chết mới có thể chia lìa được chúng tôi đôi ngả. Tôi vỗ vai anh dật – “Queequeg!” Nhưng đáp lại chỉ có tiếng ngày. Tôi bèn lật mình, cổ tuồng như bị tròng trong một chiếc vòng cổ ngựa; thì bỗng cảm thẩy bị cào nhè nhẹ. Lật chăn sang bên tôi thấy chiếc rìu nằm ngay bên anh mọi ăn thịt người, khác nào một đứa bé sơ sinh mặt-lưỡi-rìu. Tôi nghi đây đúng là một hoàn cảnh kỳ cục, nằm trên giường trong một ngôi nhà lạ, bên một kẻ ăn thịt người và cây rìu. “Queequeg! Lạy Chúa tôi, Queequeg, dậy đi!” Mãi sau, nhờ cứ tiếp tục cựa quậy và to tiếng trách móc mãi vì sự bất nhã của cái nỗi ôm hoài một đực rựa như là ôm vợ, tôi khiến cho anh phải càu nhàu một tiếng, bấy giờ anh mới rút tay về, rung toàn thân như con chó Newfoundland mới từ dưới nước lên, ngồi nhỏm dậy trên giường, cứng đơ như cán gáo, vừa ngó tôi vừa dụi mắt như thể anh không hắn nhớ ra được tại sao lại có tôi ở đây, tuy chút ý thức về sự có mặt của tôi cũng đã bắt đầu tỏ lộ. Trong khi đó, tôi nằm im lặng nhìn anh, giờ đây không còn một chút lo ngại nào, nên tôi chăm chú quan sát tường tận sinh vật kỳ quặc nhường kia. Sau cùng khi tâm trí anh dường như đã ý hội được trọn vẹn về người bạn chung giường, anh trở nên, phải nói là, cam chịu hoàn cảnh; anh vội nhảy xuống sàn và, bằng một vài dấu hiệu hay tiếng động, ngỏ cho tôi biết rằng, nếu tôi muốn, anh sẽ mặc quần áo trước tôi và ra ngoài để tôi một mình ở lại độc chiếm căn phòng. Tôi tự nhủ: Queequeg ạ, trong những hoàn cảnh thế này đó là một đề nghị rất ư văn minh; mà sự thật là những người man rợ này được phú tính biết tế nhị lắm, dẫu ta muốn nói gì chăng nữa; thật là tuyệt diệu, họ thực tình mới lễ phép làm sao. Tôi phải đặc biệt ngợi khen Queequeg như vậy, vì anh đối xử với tôi nhã nhặn và kính nể, trong khi ngược lại tôi mắc tội vô lễ tột cùng; cứ chằm chằm từ trên giường mà ngó mọi chuyển động mặc quần mặc áo của anh; lúc đó trí tò mò đã lấn át mọi nề nếp giáo dục nơi tôi. Vả chăng, một người như Queequeg không thể ngày nào ta cũng gặp, anh và cung cách của anh đáng được lưu ý lắm. Anh bất đầu mặc trang phục từ trên xuống bằng cách chụp cái mũ lông hải ly, tiện thể mà nói đó là một cái mũ rất cao, và rồi - vẫn chưa bận quần - anh chụp lấy đôi giày. Tôi không thể nói tại sao anh lại làm như thế, chỉ biết rằng cử chỉ tiếp theo của anh là tay cầm giày đầu đội mũ chui xuống gậm giường; sau đó, qua những tiếng thở hào hển, tiếng gân cốt căng giãn, tôi độ chừng anh đang cố sức nhét hai chân vào giày; mặc dù cứ theo những điều tôi hay biết thì không có luật lệ nào buộc mọi người phải lánh riêng ra một nơi khi mang giày. Nhưng Queequeg, bạn biết đấy, thuộc loại sinh vật đang ở giai đoạn chuyển tiếp - không còn là nhộng nhưng chưa thành bướm. Anh chỉ vừa đủ văn minh để che bớt những dị dạng của mình bằng cung cách kỳ lạ nhất. Nền giáo dục của anh chưa được hoàn bị. Anh chẳng có bằng cấp chi hết. Nếu không có chút văn minh, chắc chắn anh chẳng cần bận lòng chuyện đi giày xỏ dép làm gì, nhưng đồng thời, nếu không còn là một người mọi rợ, chẳng khi nào anh nghĩ đến chuyện núp dưới giường để mang giày. Sau đó anh trồi dậy với chiếc mũ nhăn nhúm sụp xuống tận mắt, cót két đi cà nhót quanh phòng, coi bộ không quen mang giày, đôi giày da bò ẩm ướt và méo mó của anh - chắc chắn không được đóng vừa theo chân - hẳn khá vướng chật và làm anh đau khi mới xỏ chân vào, lại đúng phải một buổi sáng lạnh cóng. Bấy giờ nhận thấy cửa sổ không có rèm che, và đường phố lại rất hẹp, nhà đối diện có thể nhìn thấu trong phòng, với lại càng quan sát càng thấy vẻ dị hợm của Queequeg khi chạy qua chạy lại mà trên người hầu như chăng có gì ngoài chiếc mũ lông và đôi giày, tôi hết sức xin anh vệ sinh cá nhân nhanh lên chút đỉnh và nhất là bận quần vào càng sớm càng tốt. Anh tuân lời, và bắt đầu rửa ráy. Thời đó sáng nào một người theo Thiên Chúa cũng đều rửa mặt, nhưng tôi ngạc nhiên thấy Queequeg chỉ hài lòng mà gột rửa hạn chế ở bộ ngực, cánh tay và bàn tay. Rồi anh bận áo gi lê và lấy một miếng xà phòng cứng ở trên chiếc bàn rửa mặt giữa phòng, nhúng vào nước và chà khắp mặt. Tôi đang đợi xem anh cất dao cạo ở đâu thì lạ chưa kìa, anh vớ lấy cây lao đâm cá ở đầu giường, rút cái cán dài bằng gỗ ra, tuốt trần lưỡi dao, liếc sơ vào chiếc giày, bước mau tới trước mảnh gương gắn ở vách và bắt đầu cào mạnh trên hai má, hay nói đúng hơn đâm lướt hai má. Tôi nghĩ, Queequeg ạ, đúng là giết gà dùng dao mổ bò. Sau này tôi bớt hẳn băn khoăn về vụ này khi tôi biết được thứ thép hảo hạng nào được dùng làm lưỡi lao và hai cạnh dài thẳng của lưỡi lao được mài cực bén ra sao. Phần sắm sửa còn lại chốc lát đã xong, anh hiên ngang bước ra khỏi phòng, mình bận chiếc áo chẽn nỉ to xù, chưng cây lao như cây gậy ông thống chế. CHƯƠNG V -------- BỮA ĐIỂM TÂM TÔI MAU CHÓNG theo sau anh, và đi xuống chỗ quầy rượu, vui vẻ chào lão chủ quán đang nhăn nhở. Tôi không để bụng bực tức lão chút nào, mặc dù lão đã đùa dai với tôi không ít về người bạn chung giường của tôi. Tuy nhiên, cười vui sướng là một điều hết sức lợi lộc, một điều lợi lộc khá là hiếm có; hiếm có hơn nữa thì chỉ có lòng thương. Bởi vậy, nếu ai tự xét có thể cống hiến một trò vui cho bất cứ người nào, thì xin đừng thối thoái, hãy cứ để người đó tự cho phép bản thân mua vui cho người khác, và nhờ thế cũng mua được niềm vui cho mình. Và kẻ nào có điểm gì đáng để cười nhạo, ta hãy cứ tin chắc kẻ ấy có nhiều điều hay ho hơn ta tưởng. Quầy rượu lúc đó đầy những khách trọ có mặt ở đó đêm qua, mà tôi chưa có dịp nhìn rõ mặt. Hầu hết đều là dân đi săn cá voi; họ là những thuyền phó, thuyền phó nhì, thuyền phó ba, những thợ mộc tàu, thợ đóng thùng tàu, thợ rèn tàu, người đâm cá, người trông coi tàu; một đoàn người nâu sạm và lực lưỡng, râu ria xồm xoàm; tóc tai bờm xờm, không hớt; ai nấy đều bận áo khoác chẽn thay vì áo khoác dài bận buổi sớm. Có thể thấy rõ mỗi người đó lên bờ đã được bao lâu. Đôi má bầu bĩnh của cậu kia trông tựa quả lê chín mọng dưới ánh nắng và như phảng phất mùi xạ hương; chắc chắn cậu lên bờ chưa quá ba ngày sau chuyến đi Ấn Độ. Người đàn ông ngồi bên cậu nom da sáng hơn vài sắc; có thể nói ở y phảng phất màu gỗ sơn tiêu. Da mặt người thứ ba còn lưu sắc nâu sạm vùng nhiệt đới nhưng đã phai nhạt bớt, ý hẳn anh ta đã nấn ná nhiều tuần lễ trên đất liền. Nhưng ai có được đôi má như Queequeg? Đôi má có vạch những sọc đủ màu, giống như sườn phía Tây dãy Andes, phô ra thẳng thừng liền một dải nhiều miền khí hậu tương phản, từng miền từng miền một. “Ô hô, chén nào!” lão chủ quán bỗng mở toang cửa, la lên, thế là chúng tôi đi vào ăn sáng. Người ta nói rằng những người đã nhìn ngắm thế giới nhiều, phong thái theo đó cũng trở nên ung dung, rất biết tự chủ khi giao tế. Không phải lúc nào cũng đúng: chẳng hạn Ledyard, nhà lữ hành nổi tiếng ở New England, và Mungo Park, lữ khách người Scotland, là hai người thiếu bình tĩnh nhất tại các khách thính. Song có lẽ nội cuộc thám hiểm băng ngang Siberia trên cỗ xe trượt tuyết do chó kéo của Ledyard, hay cuộc đi bộ một mình đường dài bụng rỗng, ở trung tâm Phi châu da đen - tóm tắt lại thành quả của Mungo tội nghiệp thì là thế - loại du hành đó, tôi dám nói, có lẽ không phải là phương cách tốt nhất để đạt tới một trình độ tao nhã cao trong giao tế xã hội. Lại nữa, phần đa mà nói, cái thứ kiểu đó đâu chả kiếm được. Những suy nghĩ này đây chợt đến trong bối cảnh chúng tôi đã được xếp ngồi đâu đấy bên bàn ăn, và tôi thì đương sắp sẵn tai chờ nghe đôi mẩu chuyện hay ho về đánh cá voi; tôi đã ngạc nhiên không ít thấy hết thảy mọi người đều trầm ngâm im lặng. Không những thế, họ còn tỏ ra bối rối. Phải, đây là một bầy hải cẩu, nhiều chú không chút rụt rè từng tấn công những cá voi đồ sộ ngoài khơi - những sinh vật xa lạ hoàn toàn - đọ chết chúng không buồn chớp mắt; vậy mà bọn họ ngồi đây bên bàn ăn sáng quây quần - toàn bọn đồng hội đồng thuyền, thảy những khẩu vị như nhau - nhìn quanh sang nhau cùng ngơ ngác như chưa từng đi xa quá cái chuồng cừu nơi triền Núi Xanh. Một quang cảnh kỳ lạ; những con gấu e lệ này, những chiến binh săn cá voi bẽn lẽn này! Còn về phần Queequeg - chao ôi, anh ngồi đó ở giữa bọn họ - tình cờ cũng chỗ đầu bàn; lạnh lùng như cục nước đá. Chắc chắn là tôi không thể nói tốt cho lắm về phép lịch sự của anh. Kể cả người thán phục anh nhất cũng không thể thân ái mà biện minh cho việc anh đem cây lao vào bàn điểm tâm cùng, và ngang nhiên đem ra sử dụng; anh vươn cây lao ra giữa bàn, làm cho nhiều cái đầu phải cảm thấy nguy hiểm, để xiên những miếng bít tết đưa về trước mặt mình. Nhưng anh làm điều đó một cách rất ngầu; mà ai cũng biết rằng, theo ý kiến của số đông, làm việc gì đó một cách rất ngầu tức là làm việc đó một cách lịch sự. Ở đây chúng ta sẽ không nói tới những điểm lập dị của Queequeg; chẳng hạn như anh không uống cà phê, không ăn bánh sữa, mà tập trung quan tâm tới những miếng bít tết. Như vậy đã đủ rồi, và khi bữa điểm tâm chấm dứt, cũng như mọi người anh lui về căn phòng chung, châm cái tẩu hình rìu, im lặng ngồi đó tiêu hóa và hút thuốc, trên đầu vẫn đội chiếc mũ lông ít khi xa rời, còn tôi thì ra ngoài dạo phố. CHƯƠNG VI -------- NGOÀI PHỐ NẾU TÔI CÓ LẤY LÀM NGẠC NHIÊN khi thoáng nhìn thấy một kẻ nào kỳ dị cỡ Queequeg ở giữa đám đông lịch thiệp nơi một thành phố văn minh, sự ngạc nhiên đó sẽ biến mất ngay sau chuyến đi dạo buổi ban ngày đầu tiên qua các con phố ở New Bedford. Trên những con đường lớn gần bến tàu, bất cứ một hải cảng đáng kể nào cũng thường bày ra cho ta thấy đủ loại người nom kỳ dị nhất từ bốn phương đưa tới. Ngay cả ở trên các đường phố Broadway hay Chestnut đám thủy thủ Địa Trung Hải đôi khi còn xô đẩy các phụ nữ sợ sệt. Phố Regent đâu có xa lạ gì đối với các thủy thủ người Mã hay Đông Ấn; và tại Bombay, nơi bến cảng Apollo Green, những chàng Yankee hùng hổ cũng hay làm cho dân bản xứ khiếp vía. Nhưng New Bedford còn vượt xa phố Water lẫn khu Wapping. Tại những nơi ghê gớm vừa kể ta chỉ gặp thủy thủ, còn ở New Bedford, những kẻ ăn thịt người đích thực đứng tán chuyện nơi góc phố, những kẻ man rợ trăm phần trăm, rất nhiều trong bọn họ mang trên bộ xương những thớ thịt uế tạp. Họ khiến cho kẻ lạ phải kinh ngạc ngó trừng trừng. Ngoài những người Feegee, Tongatabooarr, Erromangoa, Pannanggia, Brighggia, cũng như ngoài những kiểu mẫu man mọi thuộc các tàu đánh cá voi mà không ai để ý tới thường loạng choạng ngoài đường, ta còn gặp lắm cảnh kỳ quái và chắc chắn tức cười hơn nhiều. Thường thường cứ mỗi tuần lại có vài chục trai tráng xứ Vermont và New Hampshire kéo đến, ai nấy đều khát khao kiếm được nhiều tiền và nổi tiếng trong nghề săn cá voi. Phần đông họ trẻ trai vạm vỡ, những tiều phu đốn rừng đang tính bỏ rìu mà cầm lấy cây lao đâm cá voi. Phần đông đều xanh non mơn mởn như triền Núi Xanh nơi quê hương họ. Ở vài mặt ta còn nghĩ họ mới chỉ vài giờ tuổi ấy chứ. Nhìn coi! Cái anh chàng đang nghênh ngang ở góc phố kia. Anh ni đội chiếc mũ bằng lông hải ly và bận áo khoác đuôi tôm nịt sát vào người bằng dây lưng thủy thủ có máng dao găm. Kia là một anh chàng khác với chiếc mũ vải dù trùm gáy và áo choàng đen bằng vải bombazine. Không một chàng công tử ở tỉnh nào có thể so sánh được với một chàng công tử sinh trưởng ở thôn quê; tôi muốn nói thứ công tử chất phác, chân phương nhà quê, một anh chàng vào những ngày đại thử cắt được tới hai mẫu cỏ nhưng tay lại mang găng da vì sợ sạm nắng. Nếu thứ công tử dân quê đó nhồi sọ ý định gây sự nghiệp bằng cách gia nhập ngành công nghiệp săn cá voi lớn lao kia, khi mới tới hải cảng tất sẽ gây ra nhiều trò đáng nực cười. Khi đặt mua trang phục đi biển thế nào anh chàng cũng đặt may áo gi lê khuy lục lạc và quần vải bạt có dây đai. A, nhưng anh chàng Cục Mịch kia ơi! chỉ trận cuồng phong đầu tiên là bao nhiêu dây đai cũng sẽ đều bựt tung khốn khổ, khi anh bạn bị xô đẩy cuồng nhiệt, những dây đai, khuy cùng hết thảy mọi thứ, sẽ xuống cái cổ họng bão tố kia hết. Nhưng đừng nghĩ rằng thành phố nổi tiếng này chỉ có những kẻ đâm cá, những mọi ăn thịt người và những gã nông dân cục mịch để chưng ra cho du khách. Hoàn toàn không phải vậy. New Bedford còn là một nơi kỳ lạ nữa. Nếu không nhờ có dân đánh cá voi chúng tôi, hẳn dải đất này ngày nay đã ở trong cảnh hoang vu như bờ biển Labrador. Thực tế thì vài vùng nông thôn ở New Bedford này đủ khiến cho người ta hoảng hồn vì nom quá gồ ghề, khúc khuỷu. Riêng thành phố thì có lẽ là nơi đáng sống nhất trong toàn khu vực New England. Đây là đất dầu, đúng vậy: nhưng không như Canaan - vốn còn là đất ngô và rượu nho.7 Ngoài phố chẳng lênh láng sữa; về mùa xuân cũng chẳng được lát đường bằng trứng tươi. Song, dẫu vậy, không nơi nào khác trên toàn nước Mỹ ta lại thấy nhiều ngôi nhà có vẻ quý phái, nhiều hoa viên hay vườn cây phong nhiều hơn New Bedford. Những ngôi nhà đó từ đâu đến? Tại sao lại được dựng lên ở xứ khô cằn này? Cứ tới ngắm những cây lao tượng trưng bằng sắt cắm chung quanh những ngôi nhà cao ráo đây kia, bạn sẽ hết thắc mắc ngay. Thật vậy, hết thảy những ngôi nhà hiên ngang và những thửa vườn đầy hoa kia đều từ Đại Tây Dương, Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương đưa tới cả. Từng nhà và hết thảy đều được xâm bằng lao và kéo lên đây từ đáy biển. Liệu Quý Ngài Alexander có được một thành tích tương tự không? Ở New Bedford, người ta kể, cha thường dùng cá voi làm của hồi môn cho con gái, còn chia phần mấy con cá heo cho những cô cháu gái. Bạn phải tới New Bedford mới thấy những đám cưới thật lung linh; vì, theo mọi người kể, nhà nào cũng có kho dự trữ dầu cá, và hằng đêm người ta vô tư thắp cạn những cây nến sáp làm từ dầu cá nhà táng. Về mùa hạ, thành phố trông rất ngọt ngào, vô số những cây phong đẹp đẽ - những đại lộ dài dặc xanh um pha vàng chói. Còn tháng Tám, cao vút trên không trung, những cây dẻ gai tươi đẹp và um tùm, tựa những ngọn bạch lạp, bày ra trước mắt du khách những chùm hoa hình nón thẳng rẵng nhòn nhọn. Nghệ thuật thật vạn năng; nghệ thuật đã thêm cho nhiều khu phố ở New Bedford những bồn hoa tươi sáng trên những mô đá trọc bỏ thừa lại từ ngày sáng thế cuối cùng. Và phụ nữ ở New Bedford cũng tươi thắm như những bông hồng thắm của họ. Nhưng hoa hồng chỉ nở về mùa hạ, còn màu hồng trên đôi má các cô gái ở đây cũng bất diệt như ánh nắng trên tiên giới vậy. Sắc tươi thắm của chúng bất cứ đâu khác cũng không thể so sánh, ngoại trừ ở thành phố Salem, người ta đồn rằng tại đấy các cô gái thở ra toàn mùi xạ hương, thơm đến độ những thủy thủ tình nhân của họ ngửi thấy từ nhiều dặm xa tít ngoài khơi, cho nên những người này ưa cập những bến thơm tho trong quần đảo Maluku hơn là tới những bến bờ Thanh giáo. CHƯƠNG VII -------- NHÀ NGUYỆN CŨNG TẠI thành phố New Bedford này có một Nhà Nguyện của Dân Săn Cá Voi, và dù còn vài ngày nữa là sẽ lên đường qua Ấn Độ hay Thái Bình Dương, hiếm có người săn cá rầu rĩ nào lại quên một bữa Chủ nhật tới viếng nơi này. Tôi thì chắc chắn là không quên rồi. Trở về sau cuộc ngao du buổi sáng đầu tiên, tôi lại ra phố ngay vì công việc đặc biệt này. Trời vừa chuyển từ lạnh lẽo trong trẻo có nang sang mưa tuyết và sương móc. Khoác chiếc áo ngắn bờm xờm may bằng thứ vải gọi là da gấu, tôi lần bước giữa cơn bão tuyết cứng đầu. Bước vào nhà nguyện, tồi thấy lác đác một nhóm thủy thủ cùng những vợ thủy thủ và góa phụ. Sự yên lặng nghèn nghẹt ngự trị, chỉ thỉnh thoảng bị phá tan bởi những tiếng rít của cuồng phong. Mỗi tín đồ yên lặng xem ra chủ tâm ngồi tách riêng, như thể mỗi nỗi buồn phiền thầm kín thảy đều biệt lập, không cởi mở chia sẻ được. Mục sư chưa đến, những người đàn ông và đàn bà như những hòn đảo im lặng này ngồi chăm chú nhìn những tấm đá hoa cương có viền đen, gắn vào tường ở hai bên giảng đài. Ba trong số các tấm bia ấy có ghi đại khái như sau, nhưng tôi cũng không có ý dám trích nguyên văn: Giữa những vụn tuyết trên mũ áo óng ánh vì băng đọng, tôi đến ngồi gần cửa ra vào và lúc quay sang bên cạnh, kinh ngạc thấy Queequeg gần mình. Ảnh hưởng bởi vẻ tôn nghiêm nơi nhà nguyện, ánh nhìn băn khoăn đầy vẻ tò mò hoài nghi vẫn hiện trên mặt anh. Kẻ man rợ ấy là người duy nhất hiện diện ở đầy tỏ ra nhận thấy tôi vào, vì riêng anh không biết chữ nên không mải đọc những tấm bia lạnh ngắt trên tường kia. Không hiểu trong đám người đến xem lễ có ai bà con với những thủy thủ có tên ghi trên đó hay không, nhưng nhiều tai nạn trong nghề đánh cá không được ghi chép lại, và rõ ràng vài phụ nữ có mặt ở đó mang gương mặt còn mắc míu nỗi buồn khồng sao nguôi được nào đó, khiên tôi cảm thấy chắc rằng những người tụ tập phía trước tôi đều là những kẻ mà trong quả tim bị thương chưa lành, hình ảnh những tấm bia buồn thảm kia đã khơi gợi lại làm bật máu tươi những vết thương xưa. Ôi chao! Hỡi các anh chị - những người thân yêu của anh chị đều được chôn vùi dưới đám cỏ xanh; anh chị có thể đứng giữa hoa cỏ mà nói: “Đây, chính ở đây, an nghỉ người tôi mến yêu,” anh chị không hiểu nổi nỗi sầu muộn nung nấu tâm can những con người ở đây đâu. Còn sự trống rỗng chua chát nào hơn là bên dưới những tấm đá hoa viền đen kia không bao phủ nắm tro xương nào cả. Còn gì thất vọng hơn những hàng chữ khắc bất di dịch kia! Còn trống rỗng nào chết chóc hơn, còn bạc bẽo nào vô tình hơn những hàng chữ tưởng như đã nuốt trọn Đức tin, và phủ nhận sự phục sinh cho những kẻ thác nơi vô định, không mộ địa! Những tấm bia đó có được đặt dưới quần thể hang động Elephanta thì cũng chẳng khác gì đặt ở đây. Có cuộc điều tra nào về số lượng sinh vật sống lại tính cả người chết hay không; tại sao lại có câu ngạn ngữ phổ thông rằng người chết, họ thôi kể chuyện, dù giữ nhiều bí mật hơn cả bờ cát Goodwin; tại sao ta lại thêm một tiếp đầu ngữ ý nghĩa và ngoại đạo như vậy vào cái tên của người vừa hôm qua đi sang thế giới bên kia, ấy vậy mà chẳng ban cho y một tiếp đầu ngữ nào cả nếu việc y làm chỉ là đáp tàu tới miền Ấn Độ xa xăm nhất của thế gian này; tại sao những công ty bảo hiểm nhân thọ lại trả tiền tử tuất cho các linh hồn bất tử; cái ông Adam cổ lỗ sĩ, người đã chết từ tròn sáu mươi thế kỷ trước, nằm trong tình trạng tê liệt vĩnh cửu không xáo độn, trong trạng thái hôn mê tuyệt vọng chết chóc kiểu gì vậy; tại sao ta cứ không chịu khuây khỏa khi nghĩ đến những người mà mặt khác ta vẫn khăng khăng rằng đang sống trong niềm hạnh phúc không thốt nên lời; tại sao hết thảy người sống lại cố gắng bịt miệng kẻ đã chết; vì cớ gì mà chỉ nội lời đồn về một tiếng gõ trong mộ cũng đủ làm cho cả một thành phố kinh hoàng. Bấy nhiêu điểm này không phải là không có ý nghĩa. Nhưng Đức tin như một con chó rừng kiếm ăn giữa các ngôi mộ, thâu thập nguồn hy vọng căn bản nhất ngay cả từ những hoài nghi chết chóc này. Khỏi phải nói vào cái đêm bắt đầu hành trình Nantucket, tôi đã cảm thấy thế nào khi nhìn những tấm bia đá hoa cương kia, và dưới ánh sáng ầm u của cái ngày tối tăm buồn bã ấy đọc thấy số phận của những người săn cá voi đã ra đi trước tôi. Phải đấy, Ishmael ạ, một số phận như vậy rất có thể là của mày. Nhưng, bằng cách nào đó, tôi vẫn vui vẻ trở lại. Những thúc giục hân hoan phải xuống thuyền, cơ may tốt đẹp tựu thành sự nghiệp, chắc vậy - phải, một chiếc thuyền thủng đáy sẽ cho tôi lên tầm bất tử. Chính thế, có sự chết chóc trong công việc săn cá voi này - một con người bị tống cổ vào Vĩnh cửu một cách lẳng lặng, nhanh chóng và hỗn loạn. Nhưng rồi sao? Tôi nghĩ chúng ta đã lầm to về vấn đề Sinh - Tử này. Tôi nghĩ cái mà người ta gọi là cái bóng của tôi ở thế gian này chính là bản chất đích thực của tôi. Tôi nghĩ trong lúc nhìn sâu vào tinh thần của sự vật, chúng ta quá giống những con hàu quan sát mặt trời qua làn nước, nhầm tưởng khối nước dày kia là không khí mỏng manh. Tôi nghĩ nhục thể tôi chỉ là những cặn bã của bản thể tôi tốt đẹp hơn. Sự thực là cứ lấy nhục thể tôi đi nếu muốn, xin cứ lấy đi, đó không phải là tôi đâu. Vì vậy tôi ba lần hoan hô mừng cuộc du hành sang Nantucket; muốn thì tới đây con thuyền thủng đáy và nhục thể hư nát kia, vì băng hoại linh hồn tôi, ngay cả thần Jupiter cũng không thể. CHƯƠNG VIII -------- GIẢNG ĐÀI TÔI NGỒI CHƯA ĐƯỢC BAO LÂU thì một người đàn ông coi bộ tráng kiện và đạo mạo bước vào; vừa lúc cánh cửa bị trận cuồng phong sập lại đánh rầm lúc đón ông vào; mọi người trong giáo đoàn thoáng nhìn và nhận ngay ra ông già rắn rỏi kia là vị giáo sĩ. Đúng, đó là cha Mapple nổi tiếng, những người săn cá voi gọi ông như vậy, và ông rất được họ yêu mến. Lúc thiếu thời ông đã từng là thủy thủ và chuyên đâm cá, nhưng từ bao năm nay đã dành trọn cuộc đời cho công việc truyền giáo. Thời kỳ tôi đang viết đến này, cha Mapple đang ở vào một mùa đông rét buốt của tuổi già tráng kiện, thứ tuổi già như vừa trỗi dậy thành một thời hoa niên thứ hai, vì giữa những nét nhăn của ông có chói lên ánh sáng dịu hiền của một thời nảy nở mới, tựa như chồi lá xanh um mùa xuân đang bật lên từ dưới lớp tuyết tháng Hai. Không một ai đã nghe tiểu sử của ông mà không đặc biệt lưu ý ngay đến cha Mapple từ lần gặp đầu tiên, vì con người ông được lồng ghép những tính chất tăng lữ kỳ dị, chuyện này có thể quy cho cuộc đời phiêu lưu trên biển trước kia. Khi ông bước vào, tôi nhận thấy ông không mang dù, và chắc chắn là ông không đi xe ngựa đến, vì từ cái mũ vải dầu của ông tuyết tan chảy ròng ròng, và cái áo khoác vải xanh thủy thủ như muốn kéo ông trĩu xuống sàn vì nước thấm quá nặng. Tuy nhiên, mũ áo và giày chống nước được cởi bỏ lần lượt từng cái một, treo ở một chỗ con con trong góc kề cận. Khi đã phục sức tề chính, ông lặng lẽ tiến đến đài giảng. Theo kiểu xưa, đài giảng này rất cao, và bởi một cái cầu thang bình thường cho một nơi cao như vậy sẽ vì cái góc chéo dài của nó với sàn nhà mà làm phương hại rất nhiều tới diện tích vốn đã nhỏ hẹp của giáo đường này, cho nên kiến trúc sư có lẽ đã không lấy ý kiến của cha Mapple, xây một đài giảng không có cầu thang, mà thay bằng một dây thang thẳng dựng đứng một bên, kiểu như thang bắc từ thuyền nhỏ trèo lên thuyền lớn ngoài bể. Vợ của một thuyền trưởng tàu đánh cá voi đã cúng cho nhà nguyện một cặp chão bằng len đỏ rất đẹp dùng làm tay thang, dây thang vốn đã được bịt đầu rất đẹp, lại nhuộm màu gỗ đào, thành ra tổng thể cũng không đến nỗi tệ, xét theo đây là nhà nguyện kiểu gì. Dừng lại một thoáng ở chân thang, tay nắm lấy hai quả nắm tô điểm cho thang, cha Mapple ngưới nhìn lên phía trên, rồi nhanh nhẹn như một thủy thủ tuy vẫn có vẻ cung kính, tay tiếp tay, bước lên thang như bước lên chòi cao nhất trên con tàu của ông. Hai dãy dọc của chiếc thang bên sườn này, như mọi chiếc thang đu, đều bằng dây thừng bọc vải, chỉ có những thanh tròn ngang là bằng gỗ, để cho mỗi bậc thang có một gút nối. Thoạt ngó lên đài giảng tôi đã lư ý thấy những gút ấy, tuy tiện cho một con tàu, có vẻ không cần thiết mấy trong trường hợp này. Vì tôi không ngờ sẽ thấy cha Mapple sau khi leo lên đã từ từ quay lại, khom người qua đài giảng thong thả kéo chiếc thang lên theo từng bậc một, cho đến lúc toàn thể cây thang đều được cuộn vào bên trong đài giảng, bỏ lại ông ở trên con tàu Québec nhỏ của ông, không ai động tới được. Tôi suy nghĩ lâu mà không tìm ra được lí do của vụ này. Cha Mapple vẫn được tiếng là chân thành và sung tin, thành thử tôi không thể nghi ngờ ông tìm cách thâu phục nhân tâm bằng bất kỳ chiêu trò sân khấu chẳng đáng gì. Không, tôi nghĩ, hẳn có một lí do đứng đắn nào cho vụ này; hơn nữa, còn phải tượng trưng cho một cái gì đó vô hình. Như vậy, phải chăng bằng cử chỉ có sự tách biệt thể chất kia, ông muốn tuyên bố rằng trên phương diện tinh thần, ông tạm thời rút lui khỏi mọi ràng buộc và mọi liên lạc với thế giới bên ngoài? Phải rồi, vì tràn đầy những lời hay ngon như rượu thịt, đài giảng này, theo tôi hiểu, là một pháo đài để kiềm chế bản thân dành cho người trung thành với Thượng đế kia, một pháo đài Ehrenbreitstein cao ngất, với một giếng nước vĩnh cửu bên trong những lớp tường thành. Nhưng, dây thang bên sườn ấy không phải là đặc điểm kỳ lạ duy nhất của nơi này mượn ý tưởng từ những cuộc đi biển trước kia của vị giáo sĩ. Giữa những tấm bia tưởng niệm bằng đá hoa cương ở hai bên đài giảng, bức tường tạo thành phía sau đài giảng trang trí một bức tranh lớn vẽ một con thuyền tráng lệ đang vẫy vùng giữa cơn phong ba khủng khiếp ngoài khơi một bờ biển toàn những đá đen và sóng lớn bạc đầu. Nhưng cao phía trên những làn mây đang cuồn cuộn u ám và vùn vụt bay nhanh, lững lờ trôi một đảo nhỏ rực ánh mặt trời, từ đó rạng rỡ hiện ra một gương mặt tiên đồng, và gương mặt sáng sủa này chiếu một điểm hào quang rõ rành trên boong của con tàu bị sóng dời, như chiếc đĩa bạc gắn vào ván chiến thuyền Victory nơi đô đốc Nelson ngã xuống. “A, con thuyền cao quý kia”, vị thiên thần dường như nói, “vượt nữa, vượt nữa, con thuyền cao quý nhà ngươi, giữ lái cho vững, vì coi kia! Mặt trời đã ló dạng, mây đã cuộc đi, và bầu trời trong xanh trong trẻo sắp sửa hiện ra.” Ngay đài giảng cũng không khỏi phảng phất vị bể khơi tương tự như cái vị tựu thành nơi dây thang và bức họa. Mặt trước đài ốp ván gỗ có hình giống như mũi tàu dáng bầu, và quyển Thánh Kinh đặt trên một chi tiết trang trí hình cuộc nhô ra, mô phỏng kiểu đầu tàu dạng đuôi vĩ cầm. Còn gì nhiều ý nghĩa hơn thế nữa? Vì đài giảng này là phần đầu tiên của thế gian; hết thảy phần còn lại đều đi sau nó; đài giảng này dẫn dắt thế giới. Từ đây ta phát hiện ra cơn phong ba cuồng nộ của Thượng đế trước bất kỳ nơi nào khác, và cái mũi tàu phải cú tấn công đầu tiên. Từ đây ta bắt đầu cầu khẩn gió lành hay thần gió chướng để cho gió được thuận hòa. Quả vậy, thế giới là một con tàu đang giữa hành trình ra biển khơi, và đài giảng là mũi tàu. CHƯƠNG IX -------- BÀI GIẢNG CHA MAPPLE đứng lên, và bằng giọng ôn hòa của một người có uy quyền mà khiêm tốn, ra lệnh cho những người rải rác ngồi quy tụ lại. “Các anh chị em bên tả, ở đàng kia kìa! Hãy ngồi xen về bên hữu - các anh em bên hữu, hãy dịch qua bên tả! Ngồi vào giữa thuyền! Vào chính giữa thuyền!” Có tiếng sột soạt nhè nhẹ của những đôi giày đi biển nặng nề bước giữa đám ghế dài, và tiếng sột soạt nhẹ hơn nữa của giày đàn bà, rồi yên lặng trở lại, ai nấy đều ngó thầy giảng. Giáo sĩ yên lặng một lát, rồi quỳ ở phía trước đài giảng, chắp hai bàn tay to sạm nắng trước ngực, ngước đôi mắt nhắm và đọc một bài kinh, ông thành kính đến nỗi tưởng như ông đang quỳ cầu nguyện dưới đáy bể. Đọc kinh này xong, bằng một giọng kéo dài đầy vẻ trang nghiêm, như tiêng chuông điểm liên hồi của một con tàu đang chìm dần giữa bể trong sương mù - ông khởi sự hát ban thánh ca sau đây; song thay đổi tông giọng vào những khổ thơ kết, ngâm rộ lên với vẻ hân hoan và mừng rỡ vang rền: “Bộ xương sườn và nỗi kinh hoàng trong con cá voi, Phủ lên đầu tôi bóng tối buồn, Trong lúc những đợt sóng ngập nắng của Thượng đế trôi qua, Nhận sâu tôi xuống cái chết. “Tôi nhìn thấy cái mõm địa ngục há ngoác, những đau thương buồn khổ bất tận; chỉ những kẻ từng trải qua mới miêu tả được… Ôi, tôi đang chìm vào tuyệt vọng. “Trong khốn cùng đen tối, tôi kêu cầu Thượng đế của tôi, Khi tôi khó lòng tin được rằng Ngài là của tôi, Ngài nghiêng tai nghe những lời tôi than thở… Con cá voi không còn giam hãm tôi nữa. “Ngài bay vụt đến cứu tôi, Như cưỡi trên một con cá heo tươi sáng; Dễ sợ, nhưng sáng như một tia chớp nhoáng Là gương mặt của đấng Thượng đế đã giải thoát cho tôi. “Bài ca tôi hát mãi mãi ghi ơn Giờ phút ghê gớm ấy, giờ phút hân hoan ấy; Tôi hiến dâng vinh quang cho Thượng đế, Nơi hết thảy từ tâm và uy lực của Ngài.” Hầu như tất cả mọi người đều hòa giọng theo bài ca, tiếng ca vang lên cao, át cả tiếng rít của cuồng phong. Tiếp sau đó là một khoảng yên lặng ngắn; thầy giảng từ từ lật từng trang Thánh Kinh, và cuối cùng đặt tay trên trang sách thích hợp, ông nói, “Anh em đồng thuyền thân mến, hãy nhớ kỹ câu cuối cùng của chương đầu tiên trong sách Jonah - ‘Và Thượng đế đã chuẩn bị một con cá lớn để nuốt chửng Jonah.’ “Hỡi anh em đồng thuyền, sách này, gồm vẻn vẹn có bốn chương - bốn sợi chỉ - là một trong những đoạn dây nhỏ nhất trong sợi thừng bền chắc của Thánh Kinh. Song le dây biển sâu của Jonah dò được đến chiều sâu nào của tâm hồn người! Lời tiên tri này cho ta bài học mới nhiều hàm ý làm sao! Bài ca trong bụng cá ấy mới cao quý chừng nào! Thật là vĩ đại như gió gào sóng cuộn! Chúng ta cảm thấy nước dâng tràn ngập, chúng ta dò cùng Jonah tới tận đáy nước đầy rong; rong bể và bao nhiêu bùn lầy cặn bã của bể đều ở quanh mình chúng ta! Nhưng bài học sách kinh Jonah dạy cho ta là gì? Hỡi anh em thủy thủ, đó là một bài học hai thành phần; một cho hết thảy chúng ta - những kẻ có tội, và một cho tôi với tư cách hoa tiêu của Thượng đế bất diệt. Đối với những kẻ có tội, đó là một bài học cho hết thảy chúng ta, vì đó là một câu chuyện về tội lỗi, về lòng nhẫn tâm, về nỗi thảng thốt sợ sệt, về sự trừng phạt mau chóng, sự hối cải, về những lời cầu nguyện và cuối cùng về sự giải thoát và niềm vui của Jonah. Cũng như với hết thảy những kẻ tội lỗi giữa loài người, tội của người con trai của Amittai kia là do y cố ý không vâng lệnh Thượng đế - bất kể lệnh đó là gì, và được chuyển đạt như thế nào - một lệnh mà y cho là gay gắt. Nhưng hết thảy những điều mà Thượng đế muốn chúng ta làm đều gay gắt - hãy nhớ kỹ điều đó - và bởi thế, Ngài thường truyền phán cho ta hơn là cố gắng thuyết phục ta. Và nếu vâng lời Thượng đế, chúng ta phải không vâng lời bản thân mình, đó chính là điểm khó khăn trong việc vâng lời Thượng đế. “Mang tội không vâng lời, Jonah sau còn xúc phạm tới Thượng đế, bằng cách cố tình trốn tránh Ngài. Jonah cho rằng chiếc thuyền do con người làm ra sẽ đưa mình đến những miền đất nơi Thượng đế không ngự trị, mà chỉ có những thuyền trưởng của thế gian này. Jonah lẩn quất quanh các cầu tàu xứ Joppa, kiếm một tàu sắp sửa đi Tarshish. Có lẽ ở đây ẩn giấu một nghi vấn cho tới nay người ta không chịu chú ý đến. Theo những gì đọc được, Tarshish không thể là một thành phố nào khác hơn là thành phố Cadiz hiện nay. Đó là ý kiến của những học giả. Vậy Cadiz ở đâu, hỡi anh em bạn thuyền? Cadiz ở Tây Ban Nha; cách khá xa Joppa theo đường thủy, bởi Jonah rất có thể đã đáp thuyền mà đi vào những ngày xa xưa đó, thưở Đại Tây Dương còn là một đại dương chưa ai biết đến. Bởi vì Joppa, tức Jaffa hiện nay, các bạn thuyền ạ, nằm trên bờ bể cực Đông Địa Trung Hải, tức vùng Syria; và Tarshish hay Cadiz thì cách đó hơn hai ngàn dặm về phía Tây, gần eo biển Gibraltar. Anh em bạn thuyền không thấy Jonah đã tìm cách trốn lánh Thượng đế rất xa ư? Một kẻ khốn khổ khốn nạn! Ôi chao! Kẻ đê tiện nhất, xứng đáng mọi điều khinh bỉ; với chiếc mũ sụp vành và cặp mắt tội lỗi, rình mò lẩn quất giữa đám thuyền bè như một tên vô lại vội vã tìm cách vượt bể, lẩn tránh Thượng đế của y. Hoảng hốt và như tự kết tội là vẻ mặt của y, đến độ, thời đó nếu có cảnh sát viên, thì Jonah, chỉ bị tình nghi có phạm tội gì thôi, cùng đã bị tóm cổ trước khi bước lên được một boong tàu rồi. Y mới rành rành là một kẻ đi trốn làm sao! Không hành lý, không hộp đụng mũ, không va ly hay túi du lịch, không bạn bè đi theo tiễn chân ở bến tàu. Cuối cùng, sau khi tìm kiếm đu cách, Jonah gặp con tàu Tarshish đang chất lên những món hàng cuối cùng; và khi Jonah bước lên boong để gặp thuyền trưởng trong cabin riêng, tất cả thủy thủ trong một lúc thảy nghỉ tay kéo hàng lên, chăm chú đến cặp mắt xấu xa của người lạ. Jonah nhận thấy như vậy; y hoài công cố tỏ vẻ tự nhiên và vững tin; y mỉm cười thiểu não, cũng chẳng ích gì. Trực giác sắc bén đoan quyết với các thủy thủ rằng Jonah không thể là người hiền lương. Đùa cợt nhưng vẫn giữ vẻ đứng đắn, họ thì thầm với nhau rằng: ‘Jack à, thằng cha đó mới chớp được một mụ góa’ hay là ‘Joe ơi, mày có để ý đến hắn không, đúng là một thằng đa thê’, hay là ‘Nhóc Harty này, ta đoán thằng cha là tội phạm thông gian vượt ngục ở thành cổ Gomorrah, hay có lẽ hắn là một tên sát nhân trốn khỏi thành Sodom’. Một anh khác chạy lại đọc tờ thông cáo dán ở cái cọc trên bến, chỗ con tàu đang đậu, thông cáo hứa thưởng năm trăm đồng tiền vàng cho ai bắt được một kẻ giết cha, kèm bản mô tả hình dạng người này. Anh kia đọc, nhìn Jonah, rồi lại nhìn tờ thông cáo, trong lúc đồng bạn của anh ta bao vây quanh Jonah, chuẩn bị tóm cổ y. Jonah sợ run lên, và thâu thập hết mọi gan dạ của mình để phô bày ra nơi mặt, nhưng chỉ tổ càng nom nhát gan hơn. Jonah sẽ không tự nhận là kẻ bị tình nghi, nhưng chính vậy càng có vẻ đáng ngờ. Cho nên y cố hết sức xoay xở thoát khỏi tình cảnh, và khi các thủy thủ nhận thấy y không phải là người bị nêu trên thông cáo, họ để cho y đi và Jonah bước xuống cabin thuyền trưởng. “‘Ai đó?’ thuyền trưởng cất tiếng hỏi từ bàn làm việc bận rộn, ông ta đang vội vã điền giấy tờ ra để trình hải quan - ‘Ai đó?’ Ôi chao! Câu hỏi vô hại đó mới giày vò Jonah làm sao! Ngay phút ấy y đã suýt quay lưng chạy trốn một lần nữa. Nhưng y trấn tĩnh lại. ‘Tôi muốn kiếm một chỗ trên tàu này để đi Tarshish, ông khởi hành sớm sủa không, thưa ông?’ Nãy giờ ông thuyền trưởng bận việc kia không ngước nhìn Jonah, dù y đang đứng ngay trước mặt; nhưng vừa nghe giọng nói ồ ồ, ông ta lập tức ném cho y một cái nhìn dò xét. Cuối cùng ông ta chậm rãi đáp: ‘Chúng tôi sẽ dong buồm vào con nước triều tới,’ trong khi mắt vẫn chằm chằm nhìn y. ‘Không sớm hơn ư, thưa ông?’ ‘Hành khách lương thiện thì đáp tàu giờ ấy là cũng đủ sớm rồi.’ Ha! Jonah ơi, một nhát đâm nữa đó! Nhưng Jonah vội đánh lạc hướng ông thuyền trưởng. ‘Tôi sẽ đáp tàu của ông, y nói. ‘Tiền hành khách hết bao nhiêu vậy? Tôi sẽ trả ngay bây giờ.’ Bởi sách vở đã chép rõ rành, hỡi anh em bạn thuyền, như thể đó là một điểm không được bỏ qua trong toàn bộ chuyện này, rằng ‘Jonah vậy là đã trả tiền tàu’ trước khi tàu khởi hành. Và xét tới bối cảnh, thì điều này vô cùng ý nghĩa. “Vị thuyền trưởng của Jonah, hỡi anh em bạn thuyền thân mến, là một người mà óc nhận xét sáng suốt có thể khám phá ra bất cứ trọng tội nào, nhưng lòng tham khiến ông ta chỉ thể hiện sự sáng suốt đó nơi những kẻ không xu dính túi thôi. Trên thế gian này, hỡi anh em bạn thuyền, Tội lỗi mà trả lộ phí thì có thể du hành tự do như thường, không cần giấy thông hành nào cả, trong lúc Đạo đức, nếu là kẻ nghèo nàn, sẽ bị ngăn lại ở mọi biên giới. Vì vậy thuyền trưởng của Jonah rắp tâm dò bằng được túi tiền của Jonah trước khi công khai phán xét về y. Ông ta tính cho y gấp ba lần số thường phải trả, và mọi việc được an bài. Khi đó thuyền trưởng biết rằng Jonah là một kẻ bôn đào, nhưng đồng thời cũng quyết định sẽ giúp sức cho một cuộc trốn tránh được bọc hậu bằng vàng. Tuy nhiên, khi Jonah rõ rành lôi túi tiền ra thì những nghi ngờ vì thận trọng hẵng còn mắc míu trong lòng lão thuyền trưởng. Ông ta gõ từng đồng tiền để xem có đồng nào giả. Dù sao cũng không có đồng nào giả, ông ta lẩm bẩm; và Jonah được ghi tên vào sổ hành khách. ‘Xin ông chỉ giùm phòng ngủ của tôi,’ Jonah nói. ‘Tôi là người đi đường hay nhọc; tôi cần ngủ.’ ‘Anh trông như vậy thật,’ thuyền trưởng nói, ‘Có phòng anh đây.’ Jonah bước vào, toan đóng cửa lại, nhưng ổ khóa không có chìa. Nghe tiếng y mò mẫm trong đó một cách ngớ ngẩn, thuyền trưởng cười thầm và lẩm bẩm gì đó về những gian phòng giam kẻ bị kết án không bao giờ được phép khóa bên trong. Để nguyên quần áo và bụi bặm, Jonah gieo mình vào chiếc giường con, và nhận thấy trần của gian phòng này gần đụng trán y. Không khí ngột ngạt, Jonah thở hổn hển. Rồi, trong cái lố chật chội đó, cũng tụt sụm bên dưới mớn nước của tàu, Jonah cảm thấy cái linh cảm hết sức điềm triệu về giờ khắc ngột ngạt, khi mà con cá voi rồi sẽ ôm giữ y trong những đoạn chật hẹp nhất của ổ ruột nó. “Bắt vít vào trục gắn bên vách, một ngọn đèn lắc nhè nhẹ đu đưa trong phòng Jonah; con tàu nghiêng về phía cầu tàu vì trọng lượng những kiện hàng cuối cùng đang nhận, và cây đèn, ngọn lửa cùng tất thảy, mặc dù động đậy nhẹ, vẫn duy trì một độ nghiêng bất di dịch so với căn phòng; dù thực tình tự nó thẳng một cách tuyệt đối, nó tạo ra đến rõ ràng những cấp độ ngang giả tạo giữa thứ nó treo vào lủng lẳng. Cây đèn khiến Jonah hoảng sợ; nằm trên chiếc giường con, cặp mắt bị đọa đày của y đảo quanh phòng, và kẻ bôn đào cho đến lúc này vẫn thành công không tìm thấy nơi ẩn náu nào cho cái nhìn bồn chồn không yên của y. Nhưng sự tương phản nơi cây đèn càng lúc càng làm cho y thêm sợ. Sàn, trần và bốn vách đều xiên lệch. ‘Ô! Thế ra lương tâm ta treo lơ lửng ở trong ta,’ y rên lên, ‘hãy đứng thẳng dậy, mà bốc cháy; nhưng các ngăn của linh hồn ta thảy đã hư hỏng cả rồi!’ “Giống một kẻ sau một đêm mê man vì say rượu đã chạy vội vào giường, còn choáng váng nhưng lương tâm vẫn châm chích y nhức nhối, giống như từng bước nhảy vọt của một con ngựa đua La Mã, chỉ khiến càng nhiều những cú móng sắt đập vào y; khác nào một con người trong cơn tai biến khốn khổ vẫn quằn quại mãi trong choáng váng và đau khổ, cầu Chúa hãy hủy diệt tất cả cho đến lúc cơn thịnh nộ trôi qua; rốt cuộc giữa lúc quay cuồng trong cảm giác thống khổ, một mối sợ sâu xa tràn ngập trong y, giống như tràn ngập trong lòng một người đến chết, vì lương tâm chính là vết thương, và không sao cầm máu lại được. Vậy nên, sau những vật vã đau đớn trên chiếc giường nhỏ, bản chất kỳ diệu của nỗi khốn khổ vĩ đại đã kéo Jonah chìm vào giấc ngủ. “Đã đến thời điểm nước lên; tàu nhổ neo; và từ nơi bến tàu hoang vắng, con tàu đi Tarshish, đã được lau chùi sạch sẽ và không ai đưa tiễn, lướt ra khơi. Con tàu đó, hỡi anh em, là tàu buôn lậu đầu tiên được ghi chép lại! Món hàng lậu thuế là Jonah. Nhưng biển phản kháng; biển khơi sẽ không mang gánh nặng ác nghiệt kia. Một cơn bão táp chết chóc đang đến, con tàu hẳn sẽ chìm. Nhưng bấy giờ lúc trưởng đoàn thủy thủ kêu gọi mọi người làm nhẹ bớt tàu; lúc mà những hộp, những kiện hàng và chum vò lạch cạch bay qua mạn; lúc gió đang rú rít và mọi người gào thét, cũng là lúc mỗi tấm ván tàu đều kêu răng rắc theo những tiếng giậm chân ngay trên đầu Jonah; giữa mọi ầm ào gào thét ấy, Jonah ngủ giấc ngủ hãi hùng. Y không thấy trời tối đen và biển động, không cảm thấy ván gỗ đang rung chuyển, cũng chẳng nghe hay chú ý mấy đến âm thanh vùn vụt đằng xa của con cá voi khổng lồ, bấy giờ miệng há to đang rẽ sóng để bổ nhào đến ngay bên y. Đúng thế đấy, hỡi anh em thủy thủ, Jonah đã được xếp ở bên dưới hầm tàu, trên chiếc giường con, trong một căn phòng như tôi mô tả và đang say ngủ. Nhưng vị thuyền trưởng lo ngại đã đến bên hét vào lỗ tai điếc của y, ‘Cái đồ nhỏ mọn nhất hạng này! Hạng ngủ mê kia! Dậy mau!’ Giật mình tỉnh cơn mê vì tiếng hét dễ sợ ấy, Jonah loạng choạng đứng dậy và ngã sấp xuống sàn tàu, nắm vội lấy một dây cột buồm, định nhìn ra biển. Vừa lúc ấy y bị một con sóng hổ báo trào qua thành tàu xồ tới. Sóng tiếp sóng xô lên tàu và, không tìm được một lối thoát nhanh chóng nào, cứ ào ạt chảy tới chảy lui, gầm thét đến nỗi thủy thủ sắp chìm cả lượt trong lúc tàu vẫn nổi. Và, khi mặt trăng bạc ghé gương mặt sợ sệt của nàng qua những kẽ hở trên bầu trời đen tối trên đầu? Jonah thấy rầm néo buồm phía lái con tàu chổng lên thật cao, rồi chẳng mấy lại chìm xuống phía đáy sâu náo động. “Kinh sợ tiếp kinh sợ chạy rông và la hét khắp linh hồn y. Từ hết thảy những cử chỉ sợ sệt của y, con người đi trốn Thượng đế, giờ đây đã bị lộ mặt. Bọn thủy thủ chú ý đến y, càng lúc càng tăng nghi kỵ về y, và cuối cùng, để thử thách sự thực, bằng cách chuyển toàn bộ vấn đề cho đấng Tối cao, họ thảy ở bên ngoài bắt thăm, xem thử cơn bão táp này rơi lên đầu họ nguyên nhân do ai gây ra. Thăm ấy rơi vào Jonah. Khám phá ra như vậy, họ bèn bực tức gạn hỏi y rất nhiều: ‘Nghề của anh là gì? Từ đâu anh đến? Đất nước của anh? Người dân tộc gì?’ Hỡi anh em bạn thuyền, giờ hãy để ý hành xử của tên Jonah khốn khổ kia. Đám thủy thủ đang nóng lòng chỉ hỏi y là ai và y từ đâu đến; ấy vậy nhưng bọn họ không chỉ nhận được một câu trả lời cho những câu hỏi ấy, mà còn một câu trả lời khác cho câu hỏi họ chẳng hề đặt ra, câu trả lời không ai yêu cầu ấy từ Jonah vọt ra do bàn tay cứng rắn của Thượng đế ở bên trên gã gây nên. “‘Tôi là một người Do Thái,’ gã la lên và rồi, ‘Tôi sợ Chúa trên trời, đấng tạo ra biển và đất bằng.’ Sợ Ngài ư, hỡi Jonah? Chao, giờ thì người cũng biết sợ Chúa đấy ư! Tù lúc ấy y cứ tuồn tuột mà thú tội hết thảy; vì thế mà đám thủy thủ càng bực tức hơn, nhưng vẫn thương hại. Bởi khi Jonah chưa khẩn cầu Thượng đế để được hưởng lượng khoan dung - vì y quá rõ những tội lỗi đáng bị trừng phạt của mình tối tăm ra sao, khi Jonah la lên bảo họ cứ túm lấy y mà ném xuống bể, vì y biết rằng chính vì y mà trận bão lớn đã xảy ra cho họ, rất từ tâm họ ngoảnh mặt làm ngơ y và tìm cách khác để cứu nguy con tàu. Nhưng mọi sự đều vô hiệu, trận cuồng phong bất mãn vẫn rít lên càng lúc càng dữ; thế rồi, một tay đưa lên khẩn cầu Thượng đế, tay kia họ nắm lấy Jonah, không phải là không miễn cưỡng. “Còn giờ ta hãy nhìn xem Jonah bị nâng lên như một chiếc neo và bị quăng xuống bể. Ngay lúc đó, tức khắc một vùng yên lặng lơ lửng từ phương Đông trôi tới, mặt biển yên lại trong khi Jonah mang theo xuống biển cả trận cuồng phong, để lại mặt nước phẳng lặng ở sau y. Y lọt xuống vùng tâm xoáy của một thứ chấn động vô chủ đến nỗi y hầu như chẳng chú ý đến khoảnh khắc y rơi ùng ục vào giữa bộ quai hàm đang chờ sẵn; và con cá voi khép những chiếc răng ngà của nó lại, như bao nhiêu chấn song trắng bên trên ngục thất của y. Thế rồi Jonah cầu nguyện Thượng đế từ trong bụng cá. Nhưng hãy quan sát kỹ kiểu cầu nguyện của y, và học lấy bài học đắt giá. Bởi vì mặc dù tội lỗi đầy mình như thế, nhưng Jonah không khóc lóc van xin sự giải thoát trực tiếp. Y cảm thấy hình phạt dễ sợ dành cho y là đúng lắm. Y đặt trọn vẹn sự giải thoát của y vào tay Thượng đế và lấy làm vừa lòng về điểm ấy, rằng bất kể hết thảy những đau khổ dằn vặt, y vẫn sẽ hướng về giáo đường thiêng liêng của Thượng đế. Và đây, hỡi anh em bạn thuyền, quả thật là sự hối cải chân thành; không ồn ào xin tha thứ, mà chỉ biết ơn sự trừng phạt. Và Thượng đế đã vừa lòng xiết bao với tâm tính này của Jonah, sau đó được bày rõ trong việc giải thoát y khỏi tay bể khơi và con cá voi. Anh em bạn thuyền ạ, tôi không đặt Jonah trước anh em để xui anh em bắt chước tội lỗi của y, nhưng tôi đưa y ra trước anh em để làm một gương mẫu về sự hối cải. Đừng phạm lỗi, nhưng nếu anh em có phạm lỗi thì hãy lo hối lỗi như Jonah.” Trong khi nói những lời này, tiếng hú của trận cuồng phong đang rít lên và thổi xéo ở bên ngoài như tăng thêm sức lực mới cho bài giảng, giáo sĩ mô tả trận bão táp giữa bể của Jonah mà tưởng như chính mình đang bị bão táp dập vùi. Lồng ngực cao của ông phồng lên như một con sóng cồn, hai cánh tay vung lên như các nguyên tố xung khắc đang hoạt động; sấm sét vang rền từ đôi mày nâu sậm của ông, chớp vọt ra từ đôi mắt ông, khiến cho những thính giả chất phác phải ngó ông với một vẻ sợ sệt tức thì hiếm thấy ở nơi họ. Thế rồi ánh mắt giáo sĩ lắng lại khi ông lặng lẽ lật từng trang Thánh Kinh một lần nữa; và cuối cùng, đứng im không động đậy, hai mắt nhắm nghiền, trong chốc lát, dường như đang đàm luận với Thượng đế và chính mình. Đột nhiên giáo sĩ lại cúi nhoài người về phía công chúng, và cúi đầu thật thấp với vẻ nhún nhường kín đáo song vẫn rất hiên ngang, ông nói những lời sau đây: “Hỡi anh em bạn thuyền, Thượng đế chỉ đặt một bàn tay lên đầu anh em; cả hai tay của ngài siết lấy tôi. Tôi đã đọc cho anh em bên ánh sáng tăm tối nào rằng bài học mà Jonah dạy cho hết thảy những kẻ tội lỗi có thể là bài học cho tôi; và theo đó cũng cho anh em, và còn là bài học hơn thế cho tôi, vì tôi là kẻ phạm nhiều tội lỗi hơn anh em. Giờ đây tôi sẽ sung sướng biết bao được từ cái chòi cao này xuống ngồi trên những băng gỗ kia, ở chỗ mà các anh em đang ngồi, và lắng nghe như các anh em đã nghe, trong lúc một vài người trong số các anh em đọc cho tôi bài học khác dễ sợ hơn kia, bài học mà Jonah dạy cho tôi, với tư cách hoa tiêu của Thượng đế bất diệt. Tại sao từ địa vị một giáo đồ hoa tiêu đã thụ thánh chức, hay một phát ngôn viên của mọi điều sự thực, và được Chúa truyền cho phải làm vang trong tai kẻ hung bạo Nineveh kia những sự thực ít được ai vui lòng tiếp nhận, Jonah, vì sợ những hiềm khích mà y sẽ gây nên, lại trốn tránh sứ mạng, tìm cách thoát khỏi nhiệm vụ và Thượng đế bằng cách chạy xuống tàu ở Joppa? Nhưng Thượng đế ở khắp nơi, và y không bao giờ đến được Tarshish như chúng ta đã thấy. Thượng đế đến với y trong thể xác một con cá voi, nuốt y xuống tận những vực thẳm sinh động của bóng tối và xô mạnh cho y lăn ‘xuống giữa vòng vây biển cả’, tại đó những xoáy nước hút y xuống sâu đến một nghìn sải tay để ‘rong biển cuốn đầy đầu y’ và toàn thủy phủ buồn phiền cuồn cuộn chôn vùi y. Tuy vậy, ngay lúc y ở quá tầm bất cứ một dụng cụ thăm dò nào, ‘ở giữa lòng địa ngục’ - lúc con cá voi đang nằm ở cùng tận đáy đại dương, thậm chí cả lúc đó, Thượng đế vẫn nghe thấy tiếng người giáo đồ chìm ngộp đang cải hối kêu la. Thế rồi Thượng đế nói xuống con cá; và từ nơi lạnh lẽo rét run đen thẳm của bể khơi, con cá voi nổi lên hướng tới mặt trời ấm cúng và êm ái, tới mọi