"
Bia Mộ Đen PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bia Mộ Đen PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
Mụclục
-1-:
-2-:
-3-:
-4-:
-5-:
-6-:
-7-:
-8-:
-9-:
-10-:
-11-:
-12-:
-13-:
-14-:
-15-:
-16-:
-17-:
-19-:
-20-:
-21-:
-22-:
-23-:
-24-:
-25-:
-26-:
BIA MỘ ĐEN
Erich Maria Remarque
www.dtv-ebook.com
Dịch Giả:Vũ Kim Thư
- 1 -:
ắng xâm nhập văn phòng thương cuộc “Henri Kroll và Con”, chuyên sản xuất đủ loại mộ bia và niệm tháp. Công việc đầu tiên buổi sáng của tôi là gỡ một tờ lịch, 28 tháng Tư 1923. Sống giữa mùa xuân, buôn bán chạy đều, chẳng có gì để buồn phiền. Chúng tôi bán, tiếp tục bán ra nhưng hỡi ơi! Chẳng làm giàu được. Cái chết quá khắc nghiệt nên không thể nói với khách hàng: “Xin vui lòng trở lại lần sau”. Ngoài gia đình người chết thường đòi hỏi... sa thạch, cẩm thạch và, tùy theo tầm mức của gia tài hoặc mức độ của sự tiếc thương người ta có thể đòi loại đá hoa cương Thụy Điển đen và mài nhẵn tất cả các mặt. Tang chế là điều không thể tránh! Có ở vào địa vị của tôi, sống luôn nhiều năm trong vùng mồ mả mới thấy được mùa Xuân và mùa Thu là những mùa có nhiều người chết hơn cả mùa Đông... và chúng tôi ăn nên làm ra vào những thời kỳ dó. Chết nhiều ở mùa Thu vì nhựa sống khô cạn, và ở mùa Xuân vì nhựa sống dâng tràn khiến những cơ thể suy yếu không chịu nổi, cũng giống như một tim đèn lớn làm tan chảy sáp đèn cầy. Đúng ra thì đây là lối diễn của nhân viên đắc lực nhứt hãng chúng tôi, lão phu đào huyệt Liebermann của nghĩa trang thị xã. Tám mươi tuổi, lão đã từng hạ huyệt trên mười ngàn quan tài. Nhờ tiền chôn người, lão ta mua được một ngôi nhà cạnh bờ sông với một khoảnh vườn nho nhỏ và một chỗ nuôi cá hương; thì giờ nhàn hạ, lão cung phụng cả cho ma rượu và đã tìm thấy trong chất nước cay xè đó, một thứ khôn ngoan êm ả tuy có hơi lạm dụng nhưng rất tốt. Trong đời, người phu đào huyệt này chỉ giận có mỗi một chuyện: lò hỏa táng của thị xã. Cạnh tranh bất chánh! Ngay cả chúng tôi cũng không chịu nổi. Liebermann thường sang trọng, nhắc đi nhắc lại “Nếu chú mày muốn giàu sang, đừng thèm làm những bình chứa di hài”.
Tôi nhìn đồng hồ: sắp mười hai giờ trưa. Mai là Chúa Nhật rồi, cần thu gọn đồ đạc: đậy máy chữ với cái nắp bằng tôn, khuân máy ảnh “Pres to” để sau màn, đẩy những mẩu đá vào góc bàn, lấy các tấm phim ra khỏi chậu nước thuốc. Đó là các bức ảnh chụp những đài tưởng niệm chiến sĩ trận vong, những cảnh sắt dành trang trí cho lăng mộ và những nhà mồ. Vì không có quyền hạn đặc biệt nào, một mình tôi phải kiêm nhiệm tất cả các phần việc: thơ ký, kế toán, họa viên và trưởng tổ quảng cáo.
Và bây giờ đến lượt phần thưởng của tôi. Nó đang nằm trong ngăn tủ. Sáng nay, gã chào hàng của “xưởng đúc nghệ thuật Wurtemberg” đã mang tới một bất ngờ. Anh ta đề nghị bán lại một lô súc vật bằng đồng, sứt mẻ đôi chút. Sau khi được lo lót xì-gà, tôi bảo sẽ nói lại với chủ. Xì-gà Ba Tây loại đen một món lợi từ Trời rơi xuống! Cũng như mọi hôm, không có diêm quẹt. Tôi cuốn tròn một tờ giấy mười Đức kim châm vào lò sưởi đốt thuốc. Thật ra thì thời tiết cuối tháng Tư không cần gì có lửa. Tuy nhiên. lò sưởi này là một mánh khóe của chủ tôi. Georges Kroll. Anh ta quả quyết rằng những kẻ chịu tang sẵn sàng bỏ tiền ra trong một gian phòng ấm cúng hơn là trong một tủ lạnh. Nếu bạn thêm vào cái giá buốt ở tâm hồn với sự lạnh lẽo ở bàn chân thì miệng túi không chịu ra. Chính vì vậy mà nhà buôn chúng tôi triệt để giữ nguyên tắc không bao giở thương lượng chuyện mả mồ tại một nơi lạnh lẽo. Luôn luôn phải ở trong một phòng ấm và, nếu có thể thì sau bữa ăn.
Tôi ném phần cháy dở còn lại của tờ giấy bạc vào lò sưởi. Giữa lúc đứng lên, tôi bỗng nghe tiếng mở của sổ của nhà đối diện, cẩn thận tôi nghiêng mình trên bàn dường như còn một vài việc cần đánh máy. Tôi kín đáo liếc xéo vào một tấm gương nhỏ đặt sẵn để quan sát cửa sổ bên kia. Chính Lisa, vợ của gã đồ tể Watzek đang vừa ngáp vừa vươn vai trần truồng như nhộng, chĩa sang tôi một cặp lê căng phồng màu cẩm thạch Carrare như một vú em đang phe phẩy đồ chơi trước một đứa bé còn bú. Thình lình, ả cười nhe răng, tay chỉ vào tấm gương. Hơi xấu hổ vì bị lộ tẩy nhưng tôi làm như chẳng có chuyện gì, và phà một cụm khói ra, tôi biến mất vào trong. Nhiều người bảo Lisa là nữ thần hôn nhân Junon và tôi biết có hàng tá người sẵn sàng chi vài triệu chỉ để được nhìn ả mỗi sảng. Tôi cũng vậy, tôi thích rửa mắt, nhưng con cá
mòi ra khỏi giường vào buổi trưa đó khiến tôi lộn mửa. Trong khi ả say phờ sâm banh và dan díu tùm lum thì Watzek bận giết những con ngựa già trong lò sát sanh Werdenbruch.
Lisa vừa rời cửa sổ, chắc để điểm tâm. Nhưng không, ả lại xuất hiện với một bộ ria mép giả. Ả chào theo kiểu nhà binh về phía lão Thượng sĩ Knopf có phòng nhìn ra sân. Ả cũng ranh vặt để biết không một ai từ các nhà lân cận có thểnhìn thấy được.
Thình lình có tiếng chuông đổ. Nhà thờ Thánh mẫu ở đầu ngõ hẻm nên tiếng chuông rền như từ Trời giáng xuống. Ngay lúc đó, trước cửa sổ thứ tư nhì của văn phòng, hiện ra như một trái bí ngô ma quái... cái đầu sói của chủ tôi. Lisa làm một cử chỉ tục tằn khép cửa. Một lần nữa, tôi lại muốn làm đồ đệ Thánh Antoine.
Georges Kroll vừa chẵn bốn mươi, nhưng kể từ khi tôi biết anh ta cách nay quá năm năm, trán anh ta vẫn cứ bóng chói. Trong chiến tranh, khi chúng tôi núp dưới hầm, cấp trên phải ra lệnh đặc biệt là Georges phải luôn luôn đội nón kẻo cái trán bóng như gương của anh ta làm địch nộ khí thêm. Georges vừa bước vào, tôi đứng nghiêm báo cáo :
- Tổng hành dinh của thương cuộc Kroll và Con! Bộ Tham mưu quan sát. Chuyển động khả nghi của địch trong vùng Watzek.
- A! A! Mấy giờ rồi. Mười hai. Lisa lập thể dục buổi sáng. Hạ sĩ Bodmer nghỉ! Mẹ kiếp, tại sao chú không mang đồ che mắt như ngựa diễn binh để giữ đức hạnh. Chú có biết ba điều quý nhứt trong cuộc sống là gì không?
Tôi tiếp tục đùa, giữ mặt nghiêm :
- Thưa Ngài Chưởng lý làm sao tôi biết được trong khi tôi đang đi tìm cuộc sống?
- Nghe đây. Đó là: đức hạnh, giản dị và tuổi trẻ. Thời giờ trôi qua không bao giờ trở lại. Còn gì đáng buồn hơn tuổi già, kinh nghiệm và trí óc khô cằn?
- Nghèo đói, bệnh tật và cô đơn.
- Đúng, đó là điều tôi sắp nói ra.
Georges giựt điều xì-gà trên môi tôi, liếc nhìn rồi tuyên bố giọng của một nhà sưu tầm bươm bướm : - Chiến lợi phẩm lấy được của xưởng đúc nghệ thuật Wurtemberg đây mà.
Y lấy ra một ống điếu xì-gà bằng bông đá màu vàng sẫm có bọc da cẩn thận rồi nhét điếu thuốc Ba Tây vào hút.
- Tôi không chống cách thức tịch thâu. Chỉ là lạm dụng quyền hạn thôi. Mọi người đều biết một cựu hạ sĩ quan rất khó trở nên người tao nhã. Nhưng, tại sao phải dùng ống điếu xì-gà. Tôi có bị đậu mùa đâu?
- Phần tôi, tôi phải lo giữ lấy.
- Vậy mà trong chiến tranh, khi tôi xoay xở được một chút xúp của hỏa đầu vụ, anh lại ăn bằng cái muỗng của tôi. Và cái muỗng tôi thường cắm trong giầy không bao giờ rửa.
Georges ra điều trịnh trọng :
- Chiến tranh đã chấm dứt bốn năm rưỡi. Hồi đó, sự khốn cùng biến chúng ta thành con người. Bây giờ
cuộc chạy đua tìm tài sản của thế giới biến bọn mình thành kẻ cướp. Mình phải che đậy bằng cung cách đẹp. À này, còn điếu nào nữa không? Chẳng lẽ xưởng đúc nghệ thuật Wurtemberg lại bủn xỉn khi cần hối lộ nhân viên của tôi. Coi chừng, lần sau hắn sẽ tặng chú một thanh ghế.
Tôi lấy trong ngăn ra một điếu xì-gà thứ hai :
- Trí khôn, kinh nghiệm và tuổi tác coi vậy mà được việc.
Georges cười nhẹ rồi đưa tôi một hộp thuốc điếu để bắt chuyện làm ăn :
- Có gì lạ không?
- Chẳng có gì cả, không một người chết. Nhưng, thưa ông chủ quý mến, xin ông cho lên lương. - Nữa à? Còn hôm qua?
- Hôm qua nào? Anh muốn nói hồi chín giờ sáng này. Tám ngàn đồng, nghĩa lý gì? Tôi đồng ý là cho tới chín giờ sáng này, số tiền đó còn giá trị chút ít. Nhưng bắt đầu từ đó đồng Mỹ kim đã tự động đi con đường của nó, và ngay lúc này, thay vì đủ mua một cái cà vạt thì chỉ còn đủ mua một chai rượu chát thứ tồi.
- Giá đô-la hiện thời là bao nhiêu?
- Tới mười hai giờ trưa một Mỹ kim ăn ba mươị sáu ngàn đồng Đức. Hồi sáng chỉ có ba chục ngàn. Georgesr Kroll ngắm nghía điếu xì-gà :
- Ba mươi sáu ngàn! Hối suất phi mã! Theo chú thì tình trạng sẽ tới đâu?
- Thưa Thống chế, phá sản chung. Trong khi chờ đợi, mình vẫn phải sống. Anh có đem tiền theo không?
Một va-li nhỏ cho bữa nay và ngày mai. Giấy mười ngàn, một ngàn và vài bó giấy một trăm cũ để cho đủ số. Cộng chung khoảng hai ký rưỡi giấy. Lạm phát quá nhanh, khiến cho ngân hàng Reichs không kịp in. Giấy một trăm ngàn vừa cho lưu hành cách nay nửa tháng, thế nào rồi cũng tới giấy một triệu. Chừng nào tớ giấy một triệu?
- Theo đà này, có lẽ chỉ vài tháng tới.
- Lạy Trời, xin thương xót dân Đức khốn khổ này. Còn đâu thời kỳ vàng son 1922? Từ 1 tháng Giêng đến lễ Saint-Sylvestre, Mỹ kim chỉ lên từ hai trăm năm mươi đến mười ngàn. Tôi không nói tới năm 1921, chỉ có ba trăm phần trăm.
Tôi nhìn qua cửa sổ mở ra đường, Lisa mặc áo mới có in hình những con két, đang chải đuôi tóc trước một tấm gương mắc vào nắm tay then cửa.
Tôi bảo Georges :
- Thấy không, mới hôm qua ả đâu có áo đó. Bằng lụa, mua cả thước. Thế mà tôi, muốn mua một cái cà vạt phải đắn đo.
Georges cười tự nhiên :
- Chú mầy là nạn nhân của buổi giao thời, còn Lisa thì phóng lướt trên các lượn sóng lạm phát. Người
ta
không thể làm ra bơ trong mộ bia, nhớ kỹ đi cưng! Nên ghi tên vào nghiệp đoàn ma cô hay làm nghề đổi tiền như Willy chẳng hạn.
- Buồn thay! Tôi lại là người đa cảm. Mổ trái tim tôi ra người ta sẽ bắt gặp một tấm đá lót bằng cẩm thạch có dây xiềng bằng đồng. Còn tiền tăng lương đâu? Yêu nghệ thuật không có nghĩa là đừng trang sức.
- Thì cứ đợi đến mai cũng chẳng sao.
- Mai, Chúa Nhật. Không, tôi muốn có ngay chiều nay.
Georges ra phòng ngoài, tìm trong va-li. Y lục lạo rồi ném vào tôi hai bó bạc.
- Đủ chưa?
- Năm trăm gram nữa là vừa. Mới có năm ngàn thì làm được gì?
Georges gãi trán rồi ném thêm một bó nữa và nói :
- Cũng may là mai Chúa Nhậtt. Không ai định thời giá Mỹ kim. Lạm phát ngừng một ngày mỗi tuần. Có lẽ Chúa không nghĩ tới điều này khi ra lệnh nghỉ việc ngày thứ Bảy.
- Anh cho biết xem chúng mình đang ở trong tình trạng nào? Bên bờ phá sản hay hưng thịnh? Georges hít một hơi dãi xì-gà
- Theo tôi thì không một ai ở nước Đức này biết mình sẽ ra sao. Ngay cả nhà đại kỹ nghệ chí kính của chúng ta là Stinnesn. Dĩ nhiên là những người có đồng lương cố định sẽ mạt vận. Công nhân, công chức, tiểu thương đều cùng đi một xuồng. Ngoại tệ, cổ phản, bất động sản, đó là bí quyết làm ăn. Hiểu chưa?
Tôi nhìn ra vườn, nơi có kho chứa :
- Các loại đá? Thú thật mình chẳng còn bao nhiêu trong kho. Sa thạch, một ít gang và đồng cũ mèm, cẩm thạch và đá hoa cương quá ít. Và ông anh của anh lạt cứ đem đi bán lỗ. Tốt hơn hết là đừng bán gì cả, chắc anh đã hiểu?
Tiếng chuông xe đạp làm Georges không trả lời. Tiếng bước chân và một cơn ho dữ dội. Chính là Henri Kroll, người chủ thứ hai của hãng, ông đã gây cho chúng tôi lắm buồn phiền.
Henri-Kroll - anh của Georges - là một người thấp béo râu mau rạ, quần có sọc luôn luôn kẹp ở ống phía trên cổ chân. Ông ta nhìn bọn tôi với đôi mất trách móc. Đối với ông ta, chúng tôi chỉ là những đứa vô tích sự, lúc nào cũng lười chảy ra. Còn ông ta thì luôn luôn hoạt động tiếp xúc bên ngoài. Kể ra thì không chê được! Từ sáng sớm, ông ta đã ra nhà ga, rồi với chiếc xe đạp, ông ta cót két đi qua những vùng quê xa tít, nơi đó có những đại diện của hãng, các phu đào huyệt hoặc những ông giáo làng cho biết nhà nào có đám tang. Thân hình tròn trịa cùa Henri dường như gây thêm tin tưởng. Do đó, ông ta không quên ăn dậm buổi sáng và lúc tối để giữ mãi đường cong của bụng. Dân quê thường hay dễ tin đối với những ngườí mập mạp. Y phục của Henri nói lên được đường lối của ông ta. Không áo lễ đen như người của Steimeyer - một hãng cạnh tranh - cũng không quần áo ra phố như những người cùa Hollmann và Klotz. Henri Kroll chỉ mặc quần dài có sọc, một áo giắc-kết kiểu xưa với một cà vạt nền đen. Trước khi sắm bộ y phục đó, Henri đã suy nghĩ khá nhiều. Áo lễ có lẽ sẽ không mấy xứng hợp với tầm vóc thấp xủng của Henri. Chính Nã Phá Luân còn trông lố bịch trong khi mặc áo đuôi cá thu.
Bởi thế Henri Kroll nhà ta trông như một trưởng ban tiếp tân của Thượng đế, và đó mới thật là tương xứng và cần thiết. Hai cái kẹp ở ống quần càng làm tăng thêm vẻ giản dị có tính toán: giữa thời đại xe hơi, một người đi xe đạp với kẹp quần nhứt định sẽ bán hàng với giá rẻ hơn.
Henri lột nón ra chậm trán, không phải vì đổ mồ hôi mà là muốn chứng tỏ ông ta làm việc cực như trâu còn chung tôi chỉ là kim ghim giấy.
Bằng một giọng khiêm nhường giả dối che không kín lòng tự đắc, ông ta tuyên bố : - Đã bán xong cái tháp.
Tôi giựt mình, cố nuôi chút hy vọng :
- Cái nào? Cái nhỏ bằng cẩm thạch hả?
- Không. Cái lớn.
- Sao? Cái lớn bằng đá hoa cương Thụy Điển à? Có cả hai bệ và dây xiềng bằng đồng? - Chính nó! Ngoại trừ mình còn một cái khác?
Hỏi quá ngu, nhưng Henri tự cho đã đùa đúng khớp. Tôi chán nản :
- Dĩ nhièn là mình chẳng còn cái nào nữa. Và chính vì vậy mới đen đủi cho bọn chúng mình. Đó là tháp cuối cùng.
Georges Kroll hỏi :
- Anh bán được bao nhiẽu?
Henri tằng hắng :
- Bảy trăm năm chục ngàn! Tiền khắc chữ, chuyên chở và gỗ bao quanh không tính. - Trời!
Tôi và Georges cùng kêu một lượt.
Henri ném về phía chúng tôi một cái nhìn kiêu hãnh :
- Cuộc sống càng phải chiến đấu gay go.
Tôi buột miệng :
- Nhưng thà ông thua trận còn hơn.
- Sao?
- Ông đã nghe rõ rồi mà.
Ông ta nổi xung :
- Hả? Hả! Chú mầy nói sao?
Georges chen vào :
- Nó muốn là tốt hơn anh đừng nên bán món nào cả.
- Nó nói thật hả? A ha! Lạ chưa? Người ta làm việc như bò từ sáng tới tối, người ta bán được giá và thay vì cám ơn, các người lại trách móc! Sao các người không đi thử một vòng ở làng mạc để sáng mắt ra?
Georges cố nhịn để giảng giải :
- Henri, chúng tôi biết anh vất vả lắm. Hỡi ôi! Chúng mình đang sống trong một thời đại mà buôn bán chỉ làm cho nghèo đói thêm ra. May nắm rồi lạm phát không ngừng! Kể từ sau chiến tranh. Nhưng năm nay lạm phát đã gia tốc, cho nên những con số không còn có nghĩa gì cả.
- Chú muốn dạy đời hả? Tôi đâu phải thằng ngu.
Chúng tôi không trả lời. Chỉ có những kẻ ngu mới quyết như thế, chống lại là vô ích, những Chúa Nhật sống chung với người điên ở viện Tâm trí tôi đã thấy rõ điều đó. Henri đưa ra một cuốn sổ tay.
- Hồi mua, cái tháp chỉ có năm chục ngàn. Như vậy bán lại bảy trăm năm chục ngàn, bộ không có lời sao?
Ông ta lại giở trò móc họng ra. Ông ta nói với tôi vì ông ta biết rằng sau chiến tranh có một dạo tôi làm giáo làng tại một vùng khỉ ho cò gáy. Dạy chưa hết tam cá nguyệt thứ nhì, tôi đã bỏ lớp vì sư cô đơn của mùa Đông đuổi theo tôi bén gót như một con chó dại. Tôi chán nản hơn khi phải giải thích :
- Tiền lời sẽ nhiều hơn nếu, thay vì bán cái tháp mỹ miều, ông đem bán cái tháp Tiêm-bi [1] Ai Cập nằm ì ở ngoài cửa sổ kia. Người cha quá cố của ông, cách nay sáu mươi năm, từ ngày dựng xưởng lên, đã mua nó với một giá rẻ mạt, nghe đâu là năm chục Đức kim...
- Ai bảo? Ai bảo là sẽ bán cái Tiêm-bi Ai Cập đó? Không ai có quyền bán nó cả. Mọi người trong nhà đều biết rõ rồi.
- Cố nhiên! Bởi thế mình có bán cũng không mấy tiếc, còn cái tháp Thụy Điển kia, bán đi là phải mua cái khác với giá đắt hơn.
Henri thở mạnh vào, cánh mũi phồng lên :
- Theo ý các người thì một cái tháp loại đó phải mua vào thì cũng có tới bảy trăm năm chục ngàn đồng Mark?
Georges Kroll đáp :
- Rồi sẽ biết ngay. Mai này Riesenfield tới. Bọn này đã đặt hàng ở xưởng “đá hoa cương Odenwald”. Trong kho gần như không còn gì nữa.
Tôi thâm hiếm chêm vào :
- Còn cái Tiêm-bi Ai Cập.
Henri rống lên :
- Cặp nó vào nách rồi đem đi bán đi! A! A! Mai, Riesenfield tới. Tôi sẽ ở nhà và sẽ biết giá cả ra sao.
Georges trao đổi ánh mắt với tôi. Bằng mọi giá phải loại Henri ra khỏi cuộc gặp gỡ này, hoặc cho ông ta say khướt hoặc chế dầu xổ vào ly rượu buổi sáng của ông ta. Một người quá cổ hủ như Henri sẽ làm cho Riesenfield nghẹt thở với các mẩu chuyện chiến tranh và nhũng chuyện đời xưa, thời mà đồng Đức kim
vẫn còn là một Đức kim, thời mà sự trung tín vẫn còn là biểu tượng cho danh dự - theo lời dạy của Thống chế Hindenburg, Riesenfield không ưa lối nói chuyện vòng vo đó. Đối với Riesenfield, sự trung tín là điều mà kẻ khác phải có khi cần ta giúp đỡ, đồng thời cũng là điều mà ta phải có khi cần trục lợi.
Georges thở ra :
- Vật giá thay đổi mỗi ngày, bàn cãi hoài vô ích.
- Vậy à? Bộ chú cũng muốn nói rằng tôi bán lỗ?
- Không, anh có đem tiền về không?
- Tiền? Chú nói cái gì vậy? Làm sao lấy tiền? Mình chưa giao hàng mà.
- Đúng ra mình phải lấy tiền cọc.
Henri nhăn mũi với tôi :
- Tiền cọc! Ông giáo làng định nói gì? Trước một gia đình đang chịu tang và những vòng hoa chưa kịp héo, chú có dám bảo người ta trả tiền trước về một món hàng chưa giao không?
- Phải nói chớ! Nếu không thì rồi họ sẽ suy nghĩ lại...
- Chú mầy biết cái gì? Họ là những người cứng như gỗ. Họ đã trả đủ thứ tiền: thầy thuốc, quan tài, thầy tế lễ, phu đào huyệt, vòng hoa, các bữa ăn đãi khách, vậy mà còn đòi họ trả trước. Mưởi ngàn đồng cũng không được, biết không, trái dưa chuột non? Phải để họ tỉnh táo lại. Và cái tháp, trước khi trả tiền họ muốn nó được dựng lên ở nghĩa trang trước đã chớ không phải chỉ thấy nó trong tập tranh ảnh, dầu là chính tay chú mày đã vẽ lấy bằng mực Tàu trên giấy vàng, có cả cảnh trí tang chế, nói cho chú mày biết.
Ông ta lại trật đường rầy. Cũng không sao. Đúng vậy, để tăng cường hiệu lực, tôi đã thêm vào một chút ngoại cảnh trong các hình vẽ thí dụ như: liễu rũ, những bó hoa tương tư, vài cây trắc bá và các góa phụ tưới nước mắt lên hoa. Các nhà buôn cạnh tranh với chúng tôi đã phải điên đầu. Ngay chính Henri lúc đó cũng nhìn nhận là sáng kiến lớn, nhứt là dùng giấy vàng. Thời kỳ đó, tôi vô cùng sung sướng: tất cả những tên nào tôi nhớ ra tôi đều cho chúng chết và ghi tên lên tháp trong tập hình mẫu. Từng là hạ sĩ quan tuyên huấn, tôi cũng chẳng đến nỗi nào: “Đây là nơi an nghỉ cuối cùng của Trung sĩ Karl Flumer, sau khi đã gánh chịu những cơn đau dai dẳng...” Flumer chính là anh chàng đã hai lần trong chiến tranh, đã tàn nhẫn bắt tôi đi thám sát với hy vong là tôi sẽ không bao giờ trở lại. Thế nhưng, tôi vẫn thoát hiểm. Bây giờ, nhớ tới hắn, tôi cho hắn chết... trên mặt giấy dưới bàn tay của tôi.
Tôi trả lời Henri với giọng châm chọc :
- Thưa ông Kroll tưởng cũng cần thiết để lượt qua tình hình cho ông dễ nhận ra. Những nguyên tắc chúng ta đã đề ra đều đáng ca ngợi, nhưng đối với hiện tình chúng sẽ đưa chúng ta tới chỗ sạt nghiệp. Kiếm ra tiền thì một thằng ngu nào cũng có thể làm, nhưng giữ được giá trị đồng tiền lại là chuyện khác. Vấn đề chính yếu không phải là bán ra mà là mua vào, và làm thế nào để được trả tiền càng sớm càng tốt. Chúng ta đang sống trong thời đại của những thực tế cụ thể. Tiền chỉ là một ảo giác. Mọi người đều biết, trừ mấy lên cứng đầu ngoan cố, nếu cứ theo đà hiện nay thì lạm phát sẽ đi tới chỗ tận cùng tuyệt đối. Số tiền bảy trăm năm chục ngàn mà ông bán được, nếu tới hai tháng sau người ta mới trả thì chỉ còn bằng năm chục ngàn bây giờ. Chấm hết!
Henri tím mặt :
- Tôi không phải là thằng ngu, chỉ biết những chuyện lẩm cẩm. Sống thực hành, tôi còn hơn chú mày nhiều. Nhưng thà chết trong danh dự còn hơn là sống nhờ vào sự ngoắt ngéo. Hễ tôi còn trách nhiệm bán hàng là phương pháp cũ không được thay đổi, và bây giờ, đủ rồi! Tôi biết rõ điều gỉ tôi biết, và tôi muốn người ta phải tôn trọng những cổ tục của người sáng lập. Tôi muốn lộn mửa khi bị người ta phá hư mất sự
vui vẻ của tôi. Tôi đã làm được việc, còn chú mày, tại sao không làm giáo làng nữa đễ có dịp đá đít những thằng bé lêu lổng trong làng?
Ông lấy nón, bước mau ra và đóng sầm cửa lại. Từ cửa sổ Georges và tôi nhìn ông ta bơi trên đôi chân ngắn ngủn, dẫm mạnh lêm thềm đá với nhịp bước của một cựu chiến binh, ống quần bị kẹp phập phều. Ông ta hướng về phía quán rượu Blume.
Tôi bực mình không chịu được :
- Phải làm thế nào để tên cứng cổ đó biết làm việc thức thời! Làm cái nghề này mà không chó má một chút là mất cả xác lẫn hồn. Cái thằng cha bỉ ổi đó buôn bán với tử thần mà còn làm ra điều đạo đức.
Georges quá biết tính tôi nên cười xòa :
- Thôi, lấy tiền rồi dông đl! Bộ quên cái cà vạt định mua rồi hả? Mua ngay đi, tối nay họ không tăng giá được.
Georges lấy va-li bạc hững hờ để vào phòng ngủ của anh ta bên cạnh văn phòng. Tôi cuốn mấy gói bạc vào một mảnh giấy và hỏi Georges :
- Riesenfield có chắc tới không?
- Chắc, hắn đã điện thoại.
- Hắn muốn gì? Tiền hay chỉ là bán thôi?
Georges khép cửa văn phòng :
- Thế nào rồi cũng biết.
Chú thích:
[1] Tiêm-bi (obélisque): Tháp Ai Cập, bốn mặt hình chữ nhựt, cao và có chóp nhọn. Trên các mặt tháp có khắc hình thú vật.
Tiêm-bi thường thường được dựng trước các lăng tẩm hoặc ở các công trường.
BIA MỘ ĐEN
Erich Maria Remarque
www.dtv-ebook.com
Dịch Giả:Vũ Kim Thư
- 2 -:
ứng trên ngưỡng cửa, chúng tôi có cảm giác được nàng Xuân ve vuốt. Gió nhẹ tháng Tư thì thầm như tiếng thụ cầm trên tàng lá những cây bạch dương và cây tử đinh hương vừa mới trổ hoa. Tôi nắm tay Georges :
- Lạm phát rồi. Nụ hoa đầu tiên của tử đinh hương của mình chỉ là một đồng Roupie so với tất cả những thứ kia. Nhìn xem những cây uất kim hương. Màu trắng đằng kia, màu đỏ và màu vàng khắp cả. Hãy hít lấy một chút hương hoa. A! Thưa Đại tướng, xin nở mũi ra!
Georges hít một hơi không khí và tiếp theo ngay một hơi xì-gà. Đối với y, vạn vật chỉ có thể đẹp ra khi được nhìn ngắm qua khói thuốc xì-gà Ba Tây. Khu vườn ngoạn cảnh phía sau nhà cũng là nơi triển lãm của thương cuộc chúng tôi. Ở đó, các tưởng niệm tháp được dựng lên ngay hàng thẳng lối như một đại đội đứng nghiêm, và phía trước chúng tôi là viên Trung úy oai nghiêm: cái Tiêm-bi Ai Cập vừa là tổ phu vừa là huy hiệu của thương cuộc. Kế đó là một lò mộ bia rẻ tiền bằng sỏi đúc xi-măng dành cho những người nghèo đã từng là những kẻ dũng cảm, ngã chết vì nghèo khổ. Tiếp theo là những món thông dụng đá bình thường cô bệ, không đắt lắm, dành cho những người chết khiêm nhường. Rồi tới các loại bia bằng sa thạch có bảng tên lồng vào khuôn, bia cẩm thạch hoặc bia đá hoa cương Thụy Sĩ. Toàn là những thứ mà bàn tay lao động không với tới, chỉ dành cho các tiểu thương gia, đốc công, tiểu công nghệ gia. Suýt nữa là tôi quên mất những con sâu nhỏ của xã hội tân tiến chúng ta. Đó là người công chức tằn tiện lúc nào cũng muốn vươn cao quá sức mình, tuy nhiên đó cũng là hạng vô sản can đảm đã khiến người ta tự hỏi chẳng biết vì sao họ vẫn tồn tại mặc dầu tiền lương luôn luôn tới sau vật giá.
Tất cả những thứ đó không đáng kể. Bây giờ tới phiên cẩm thạch và đá hoa cương. Trước hết là loại đá được mài láng một mặt hai bên cạnh và phía sau lởm chởm. Đây là những thứ dành cho giới trung lưu: chủ nhân, doanh gia, điền chủ và những công chức lớn luôn luôn muốn cho cái chết của mình mang sắc thái của loài động vật hữu nhũ to lớn.
Cuối cùng là phần dành riêng cho giai cấp quý tộc: cẩm thạch mài bóng tất cả các mặt, đá hoa cương đen Thụy Điển. Không còn được một chỗ nhám, tất cả đều phải sáng chói ngay cả cái bệ. Những công trình nghệ thuật này chỉ dành cho các phú nông, tỷ phú, những tay quỷ quyệt của ngành kinh tài sống nhờ vào ngân hàng Reichs.
Chúng tôi tới nhìn món hàng duy nhứt mà mười lăm phút trước vẫn thuộc quyền sở hữu của thương cuộc. Đen và ngời chiếu như một chiếc xe hơi mới toanh, nằm giữa hương sắc mùa Xuân, cái tháp quý giá sang trọng ấy trông như một thiếu nữ tươi mát, thuần khiết và trinh trắng... trong một tiềng đồng hồ. Bởi vì trong một tiếng đồng hồ nữa, người ta sẽ khắc vào cái bụng thon của nó những chữ La Tinh mạ vàng - giá
tám trăm đồng một chữ - tên của người chủ một nông trại to lớn: Henri Fleddersen. “Thượng lộ bình an! Công chúa hoa cương. Vĩnh biệt!” Và tôi dở nón ra. Hỡi ơi! Sắc dẹp cũng chào thua đinh mệnh. “Vĩnh biệt! Công chúa sẽ trở thành một khối đá dùng để quảng cảo cho tên tuổi của con người ti tiện ấy, con người đã bóc lột những góa phụ cho tới tờ giấy bạc cuối cùng bằng cách bán chất béo trái cây mà bảo là bơ. Đó là chưa kể tới những vụ bán buôn bỉ ổi thịt bê, sườn heo và thịt bò chiên. Thượng lộ bình an, người đẹp”.
Georges sờ bụng :
- Chú nhắc chuyện heo bò làm tôi đâm đói bụng rồi. Nào, tiến tới mục tiêu: Walhalla. Có cần đi mua cà vạt chưa?
- Chưa, còn đủ thì giờ. Thời giá Mỹ kim chỉ thay đổi sáng thứ Hai. Tại sao kia? Tại sao đồng Mark không tiẽp tục sụt giá vào cuối tuần. Phải chăng có bàn tay Thượng đế?
- Không. Rất giản dị là chỉ tại thị trường chứng khoán ngưng hoạt động, cỏn hỏi gì nữa không, bé con? - Còn. Người ta sống từ trong ra ngoài hay từ ngoài vào trong.
- Con người sống, chỉ vậy thôi. Có món goulasch ở nhà hàng Walhalla với khoai tây, dưa chuột và xà lách. Tôi nhìn thấy thực đơn khi từ ngân hàng trở về.
- Vậy thì đi ăn goulasch!
Tôi ngắt một cánh hoa cài vào áo :
- Anh có lý, con người sống và chỉ có thế thôi. Đừng tìm, những cái không thể có. Thôi mình đi để làm cho Edouard Knobloch điên đầu.
Edouard Knobloch, một ga khổng lồ toàn mỡ, mang tóc giả màu nâu, vừa thấy chúng tôi vào phòng ăn đã nhăn mặt như mới bị gãy răng.
Georges cất cao giọng :
- Chào ông Knobloch! Trời hôm nay đẹp. Càng thêm đói cồn cào.
Vai Edouard rung rung :
- Ăn nhiều có hại cho gan và mật. Hại đủ thứ.
Georges ra điều thân thiết :
- Vậy mà ăn ở quán bạn thì trái lại. Từ ngày điểm tâm ở đây, tôi thấy mắt sáng ra và đùi tròn lại.
- Hừm! Nhưng quá khỏe mạnh cũng không được bình thường. Theo các tài liệu khoa học mới đây, ăn quá nhiều thịt...
Tôi ngắt lời Edouard bằng một cái vỗ nhẹ vào dạ dầy của hắn. Hắn lùi lại như bị điện giựt.
- Phải bình tĩnh chớ, và ứng phó tùy theo hoài cảnh. Không ai dọn sạch tủ ăn đâu mà. Mấy lúc sau này có còn học làm thơ không?
- Thơ cái quái gì! Thì giờ đâu mà làm.
Phải nhìn nhận rằng Edouard vừa là chủ quán ăn vừa là nhà thơ tuy chẳng ra hồn gì về cái tài nghệ phần sau. Tôi hỏi :
- Còn bàn không?
Knobloch nhìn quanh quất và mắt hắn chợt sáng lên :
- Rất tiếc không sao còn chỗ trống.
- Cũng không sao, bọn này chờ.
Edouard cố cười thật tươi :
- Tôi sợ là lâu lắm mới có chỗ. Hầu hết thực khách đều mới bắt đầu ăn xúp. Nếu các bạn qua nhà hàng Grand Cerf hay ra quán nhà ga, chắc con kịp. Ở đó cũng không tệ lắm.
Trò đùa hôm nay quả kéo dài. Sau Henri đến lượt Edouard. Nhưng chúng tôi cương quyết ăn cho được món goulasch dầu phải đợi một tiếng đồng hồ. Đó là món ăn xuất sắc của thực đơn. Edouard không những là nhà thơ, hắn còn biết đo mức độ chịu đựng của thận và tim :
- Chờ cũng vô ích. Bây giờ thì hét goulasch rồi. Nếu các bạn chịu món bò chiên kiểu Đức, tôi có thể dọn ngay lên quầy.
Tôi lắc đầu :
- Thà chết đói còn hơn! Bọn này sẽ cắt bạn ra từng mảnh để làm goulasch.
- Giỡn hoài!
Tôi vô thêm một cái vào bụng hắn :
- Coi chứng! À này, Georges, theo tôi, có chỗ rồi.
Edouard dáo dác :
- Đâu?
- Đằng kia, bàn của người ăn mặc chải chuốt, tóc nâu. Gần một người đàn bà sang trọng. Bạn không thấy họ ra hiệu với bọn này. Bạn của tôi đó. Bảo gã hầu bàn tới mau.
Edouard thở phì ra như bong bóng xì hơi ở phía sau chúng tôi.
Cứ mỗi lần bọn tôi tới quán này là trò cũ tái diễn. Nguyên do là trước đây nhà hãng có bán một quyển sổ gồm mười phiếu cho những khách hàng nào muốn được ăn rẻ tiền. Edouard cho đó là một sáng kiến hay để câu khách. Rủi cho hắn là những tuần lễ sau này, mức độ lạm phát tuôn như suối làm ngập lụt cả mức độ tính toán của hắn đi. Nếu mỗi phần ăn vào tháng trước còn đúng với giá ghi trong sổ thì mỗi phần sau này cứ ngày một tăng lên. Edouard ngưng bán phiếu. Nhưng chúng tôi tinh mũi hơn hắn nên với tất cả số tiến bán được một cái tháp cách nay sáu tuần, chúng tôi đã dùng cả để mua những tập phiếu ăn ấy. Để Edouard khỏi nghi ngờ, chúng tôi đã nhờ các người quen, mỗi người mua vài tập. Khi Edouard ngưng bán hắn tưởng là có thể thanh toán được tất cả trong mười hôm. Nhưng tôi và Georges, mỗi đứa còn giữ được tới ba chục tập tức là trên ba trăm bữa ăn. Mười lăm ngày sau khi ngưng bán phiếu, Edouard bắt đầu lo ngại khi thấy bọn này cứ tiếp tục trả bằng phiếu. Và cho tới đúng một tháng, hắn cuống lên. Vào lúc đó mỗi bữa ăn của bọn tôi chỉ bằng một nửa giá. Sáu tuần sau đồng giá với mười điếu thuốc. Mỗi ngay, bọn tôi tới nhà hàng với phiếu dùng bữa trên tay. Edouard hỏi dò xem còn được bao nhiêu. Chúng tôi ậm ừ cho qua. Hắn định yết bảng không nhận phiếu nữa. Hôm sau bọn tôi mời một luật sư cùng đến áăn thịt bê. Tới lúc điểm tâm, ông thầy cãi giảng cho Edouard biết thế nào là vi phạm những giao ước và trả phần ăn của ông ta bằng một lá phiếu của tôi đưa.
Cảm hứng thơ phú của Edouard đi vào ảm đạm. Hắn đề nghị một thỏa ước nhưng chúng tôi từ chối. Hắn làm một bài thơ kiểu giáo khoa với tựa đề “Của phi nghĩa có giàu đâu” và gởi đến nhà báo. Người chủ bút cho chúng tôi hay là bài thơ ám chỉ đến bọn đào huyệt, đúc bia, xây tháp trong đó có nói đến một cái tên mà lời lẽ trong thơ gọi là Kroll Cá Xà. Chúng tôi lại mời ông thầy cãi tới nhà hàng Walhall dùng món
sườn heo. Nhân có sự hiện diện của Edouard gần bàn, nhà cố vấn luật của bọn tôi định nghĩa về tội công khai nhục mạ cũng những hậu quả pháp lý. Và ông ta lại trả phần ăn bằng một tấm phiếu của chúng tôi.
Thế là, nhà thơ Edouard chỉ thích dệt những vần thơ sầu muộn bỗng sáng tác toàn những dòng thơ nặng hận thù trong hy vọng nguồn phiếu ăn của chúng tôi sớm cạn. Hắn đã lầm, bọn tôi còn đủ phiếu để tiếp tục ăn hơn sáu tháng.
Willy đứng đây tiếp bọn tôi. Hắn mặc một bộ com-plet xanh đậm, loại hàng đắt giá, trông hắn giống con cóc tía. Cà vạt của hắn có gắn một viên trân châu và ngón trỏ tay phải đeo một cái nhẫn tổ bố. Năm năm trước hắn là một hạ sĩ quan quân lương cũng một đơn vị với chúng tôi. Hắn và tôi cũng một tuổi: hai mươi lăm.
WilIy giới thiệu :
- Các bạn tôi: Georges Kroll và Louis Bodmer và đây là cô Renée de la Tourterelle của Moulin Rouge ở Ba Lê.
Renée de la Tuorterelle nghiêng mình chào. Chúng tôi nhìn Willy. Hắn nhìn lai không che giấu hãnh diện :
- Mời quý vị ngồi. Nếu tôi không lầm thì dường như chủ nhà hàng muốn mời quý vị đi nơi khác. Món goulash còn thiếu chút xíu hành nhưng tuyệt hảo. Nào, ngồi đi, mình chịu chật một chút.
Chúng tôi ngồi vào chỗ. Willy đã quá biết trò đùa dai dẳng của chúng tôi với Edouard, và hắn theo dõi cuộc hành quân quấy rối này với tất cả sự yêu nghề của một phóng viên chiến trận.
Tôi vỗ vào tay gọi :
- Hầu bàn!
Một gã hầu bàn đang ưỡn ẹo cách bàn chúng tôi không quá ba thước bỗng điếc đặc. Tôi dằn giọng : - Hầu bàn đâu?
Georges giọng khôi hài :
- Chú đửng hỗn láo với người ta. Đừng quên là người ta đã từng tham dự cuộc cách mạng 1918! Phải gọi là Quản bếp!
Tôi bật cười. Thật vậy, cuộc cách mạng ớ Đức năm 1918 được coi là ly kỳ nhất trong lịch sử cách mạng. Chính những người làm cách mạng bỗng đâm ra hoảng sợ trước sự can đảm của mình nên phải gọi tới sự viện trợ của nhà tù già cỗi và những ông tướng của chế độ cũ để che chở cho họ chống lại sự liều lĩnh của chính họ. Trong mỗi thành phần xã hội, các vụ tăng chức mọc lên như nấm. Giáo viên trở thành giáo sư thanh tra Tiểu học biến thành thanh tra Đại học, hầu bàn được cất lên Quản bếp, các cựu thơ ký đảng bỗng được gọi là ngài. Và ông Bộ trưởng Quốc phòng - đảng Dân Chủ Xã Hội - vô cùng hân hoan khi thấy trong Bộ của mình toàn là những người mang cấp Tướng. Thế rồi cuộc cách mạng chìm vào áo lông, lòng tốt, bọt bia và nỗi nhớ nhung các bộ quân phục cùng những tiếng hô “Bồng súng, chào!”
Georges lặp lại :
- Quản bếp!
Gã hầu bàn vẫn cố làm ra điếc, theo lời dặn của Edouard.
- Quản bếp! Tên khốn khiếp!
Thình lình, một giọng rền như sấm cất lên, đúng y như giọng một hạ sĩ quan Phổ trong trại lính. Dư âm vang rền khắp phòng như tiếng kèn xung trận. Gã hầu bàn dừng sững và quay phắt lại. hai gã khác từ trong bếp chạy ra. Có tiếng gót chân chạm nhau trong một góc phòng. Một thực khách có dáng vẻ nhà binh kêu lớn “Hoan hô”. Ngay cả Edouard cũng chạy tới chạy lui để tìm xem cái giọng sấm ầm ầm đó từ đâu phát ra. Hắn biết rõ không phải của tôi cũng không phải của Georges.
Chúng tôi quan sát Renée de la Tourterelle. Cô ta vẫn bình thản như chẳng có chuyện gì xảy ra. Tuy nhiên, theo chúng tôi thì chỉ có cô ta là có thể làm như thế bởi vì chúng tôi cũng biết rõ giọng của Willy.
Gã hầu bàn tới :
- Ông bà cần gì?
Georges nói một hơi :
- Mì nước, goulasch và bánh mì pudding có trái phúc bồn tử ướp lạnh cho hai người ăn. Và phải làm đúng nếu không, tao vặn tai ra.
Edouard từ từ đi tới. Hắn liếc nhìn xuống gầm bàn. Chẳng có ai. Vậy thì kẻ nào đã có thể kêu rền như vậy được?
Hoàn toàn im lặng. Chúng tôi nhìn Edouard với vẻ sửng sốt, Renée de la Tourterelle chậm phấn. Edouard bỏ đi :
- Chủ quán! Lại đây! Mau!
Giọng sấm rền lại ngân vang.
Edouard quay phắt lại, nhìn đăm đăm vào bàn chúng tôi. Chúng tôi vẫn giữ cái cười đần độn. Edouard nhìn thẳng vào Renée.
- Có phải cô...
Renée đậy hộp phấn lại :
- Ông chủ hàng muốn hỏi gì?
Giọng kim cao vút như thủy ngân của cô ta khiến Edouard ngây người ra. Georges không bỏ lỡ cơ hội : - Dường như ông Knobloch hôm nay không được khỏe?
- Nhưng mà...
Tôi chận ngang :
- Bạn quẫn trí rồi. Edouard! Sao lại mang bộ mặt kỳ dị vậy? Chắc lại làm việc quá sức rồi. Nên nghỉ một ít lâu. Dầu bạn có chết bọn này cũng chẳng lợi lộc gì với một tấm mộ bia cẩm thạch khiêm nhường.
Mắt của Edouard nhấp nháy như cú mèo. René xẵng giọng :
- Trông giống như một người cổ quái. Đã vậy mấy người của ông lại nhét cao su vào tai còn buôn bán cái gì nữa.
Và cô ta cười, tiếng cười trong như tiếng suối thủy tinh.
Edouard đưa tay lên trán. Một giọng cười như thế không thể nào biến thành cái giọng ồm ồm của viên thượng sĩ ngoài mặt trận. Georges bảo :
- Bạn có thể trở về chỗ, Knobloch, trừ phi bạn thấy thích thú nghe bọn này nói chuyện. Tôi nói thêm :
- Và nhớ đừng ăn nhiều thịt. Chắc tại ăn nhiều nên mới nảy sanh ảo giác. Hồi nãy bạn nói gì? Theo những khám phá mới của khoa học ăn quá nhiều...
Edouard quay người nửa vòng rồi bỏ đi mau. Hắn vừa đi khuất, Willy cười rung cả hai vai. Renée chỉ cười nhẹ nhưng mắt cô ta sáng chói.
Tôi bắt tay Willy :
- Lâu quá tao chưa được cười lần nào như bữa nay. Đâu nói cho bọn tao nghe về hiện tượng âm hưởng đó đi.
Willy vừa cười vừa chỉ vào Renée. Tôi ra điều lịch sự :
- Xin cô vui lòng cho chúng tôi...
Tiêng Pháp theo sách vở nhà trường của tôi khiến cho Willy phì cười.
- Nói cho nó nghe đi, cưng!
- Cái gì?
Renée vừa hỏi vừa hơi nhíu mày ra vẻ khiêm nhường. Rồi cô ta bật cười... tiếng cười cao vút, và thình lình giọng cười trong trẻo bỗng ầm ầm như tiếng trống.
Chúng tôi nhìn sững cô ta. Willy giải thích với những cơn cười nghẹn :
- Renée là ca sĩ! Hát hai giọng... Hai giọng, chỉ hát một mình. Một đoạn giọng cao một đoạn giọng thấp. Giọng kim và giọng thổ.
Chúng tôi thầm cám ơn Renée và Willy. Món goulasch được dọn ra. Edouard từ xa không ngớt theo dõi vào bàn của chúng tôi. Thói xấu của hắn là luôn luôn muốn biết. Thái độ tò mò đó làm hại cho hồn thơ của hắn và biến hắn thành kẻ đa nghi. Georges Kroll, người của nền giáo huấn xưa, yêu cầu Willy và Renée để cho y được trả tiền bữa ăn chung đánh dấu một chiến thắng. Sau đó, y chìa cho Willy bốn tấm phiếu trị giá chỉ bằng một vài khúc xương còn dính sót một chút thịt.
Trời sẫm tối. Tôi ngồi trên bàn viết nhìn ra cửa sổ. Ngôi nhà thấp cũ, đầy xó xỉnh là của gia đình Kroll đã mua cách đây sáu mươi năm để lập nghiêp. Nó gồm ba phần được ngăn cách bằng một cổng chánh và một lối đi. Phần thứ hai là nơi cư ngụ của lão thượng sĩ hồi hưu Knopf cùng vợ và ba cô con gái. Bên trái, sau khu vườn triển lãm các mộ bia và tưởng niệm tháp, là một nhà hai từng trông giống như trại lính. Từng dưới được dành làm tiểu xưởng cho Kurt Bach tạc đá thành những con sư tử sầu thảm và những con chim ưng xòe cánh để gắn trên các đài tưởng niệm. Những giờ nhàn rỗi, Kurt quào lục huyền cầm hoặc thơ thẩn với giấc mơ một ngày nào đó sẽ chiếm được huy chương vàng. Hắn ba mươi hai tuổi.
Từng trên của trại là gác trọ của anh chàng đóng hòm Wilke, một thanh niên cao lớn nhưng khẳng khiu,
dường như chẳng có gia đình. Bọn tôi giao dịch với hắn trên tinh bằng hữu có lợi cho cả đôi bên. Khi tìm ra một người chết còn tươi chưa có hòm, chúng tôi giới thiệu hắn với tang quyến hoặc bán ngay lập tức cho hắn. Phần hắn, khi đánh mũi ở đâu có xác chết, hắn báo động lập tức với chúng tôi trước khi bọn cạnh tranh chó sói khác đến nơi giựt mối. Công việc làm ăn càng khó nên phải tranh nhau như chó giành giẻ rách. Tên Oscar Fuchs của hãng cạnh tranh trực tiếp với chúng tôi đã không ngần ngại dùng tới củ hành. Trước khi vào một nhà có tang, hắn lấy vài khoanh hành củ ra hít thật nhiều hơi để cho nước mắt chảy ra. Chúng tôi đặt cho hắn cái tên “Oscar mắt treo cờ rũ”.
Sương mù từ từ xâm chiếm con đường. Lisa đã đốt đèn nhưng lần này các cửa màn đã kéo kín chứng tỏ là anh chàng giết ngựa đang có ở nhà. Những chùm tử đinh hương lủng lẳng trên tường của khu vườn bên cạnh thuộc về nhà buôn rượu chát Holzmann. Mùi rượu nho hắt tới bên này đường. Bóng dáng lão thượng sĩ Knopf hiện ra giữa khung cửa chánh. Người lão khô đét như xác chết treo với một cây gậy và một cái mũ có vành. Dầu chỉ sống gần như suốt đời trong quân ngũ và trí thông minh không vượt quá quyển “Khái niệm của Bộ binh” lão ta trong giống Nietzche một cách lạ lùng. Knopf đi dài theo hẻm Arquebusiers và quẹo trái ra đường Assomption. Lão sẽ trở về lúc nửa đêm sau khi đã đánh một vòng qua các quán rượu trong thị xã. Knopf chỉ uống toàn rượu mạnh, loại rượu cất bằng mễ cốc. Trong lãnh vực này, lão là người sành sỏi hơn bất kỳ ai. Ở Wenderbruck có hai hoặc ba nhà sản xuất rượu bằng mễ cốc. Knopf chỉ cần để mũi tới là phân biệt được ngay. Bốn mươi năm tận tụy trong binh nghiệp, mũi và lưỡi lão ta đã quá quen với mùi vị nên có thể nói ngay đó là rượu nấu với cốc loại nào hoặc là do lò nào sản xuất. Cố nhiên là lão ta nói về loại rượu trong thùng chớ không phải đã vào chai. Cái năng khiếu đặc biệt đã giúp lão thắng vô số cuộc đánh cá.
Tôi đứng lên nhìn lại cái ổ chuột của mình. Đây là một căn buồng sát mái nhà, trần thấp lè tè. Tất cả duyên dáng của nó bao gồm với một cái giường, một kệ sách lèo tèo vài quyển sách, một cái bàn, vài cái ghế và một chiếc dương cầm già nua. Năm năm trước, sống trong vùng Flanders, tôi không dám mơ sẽ có được một thiên đường thế này. Đó là thời gian xảy ra cuộc tấn công vào đồi Kemmel mà đại đội chúng tôi đã để mất đến ba phần tư. Hôm sau cuộc tấn công, Georges Kroll vào quân y viện với một vết thương ở bụng. Phần tôi phải đợi đến ba tuần lễ sau, định mệnh mới chịu ném cho một mảnh đại bác vào đầu gối. Tiếp theo đó là sự tan rã hoàn toàn. Cuối cùng, để giữ trọn lời hứa với người mẹ đang bệnh tôi trở thành thầy giáo. Mẹ tôi nghĩ rằng với mảnh bằng giáo chức tôi đã có thể an nhàn sống tới ngày vào mộ. Bà qua đời trong những tháng năm sau cùng của chiến tranh trước khi tôi được phái tới một vùng hoang dã. Quá chán công việc nhồi vào óc trẻ con với những điều mà mình không còn tin tưởng nữa, một sáng mùa Đông, tôi đào nhiệm.
Tôi lật lật một vài quyển sách nhưng không có tinh thần để đọc. Thời tiết Xuân cứ quấy rầy tôi và trời chiều đang ngã màu sầu muộn. Tôi mở đèn lên để xua đuổi những tư tưởng xấu trong đêm. Trên bàn, một tập giấy bìa màu vàng đang nằm lạnh. Trong đó có những bài thơ mà tôi đã đánh máy thành ba bản. Thỉnh thoảng, tôi gởi một vài bài tới các nhật báo và cho tới nay chỉ mới được đăng có ba lần trên một tờ báo địa phương. May là nhờ có Georges quen biết với người chủ bút. Nhưng dầu sao qua sự kiện có thơ đăng trên báo, tôi cũng đã nhận được vào thi đoàn thị xã mỗi tuần một lần tại nhà của Edouard Knobloch, trong gian phòng kiểu Gô-tích. Gần đây, Edouard tìm cách khai trừ tôi bảo là kém tinh thần đạo đức - vì mấy tấm phiếu ăn - nhưng toàn thể hội viên đều cho rằng tôi đã xử sự hoàn toàn chính đáng theo các nguyên tắc được nhìn nhận từ lâu bởi nền kỹ nghệ nặng và nền tài chánh cao cả của đất nước yêu quý chúng ta. Vả lại, nghệ thuật chẳng có gì bị ràng buộc bởi tinh thần đạo đức.
Tôi đậy tập thơ vào góc bàn. Tự nhiên tôi thấy nó trẻ con và tầm thường quá. Nằm trong hầm núp, làm thơ còn có được ý nghĩa bởi vì đó là một hòn đảo nhỏ của sức kháng cự và lòng tin vào một tương lai trên sự điêu tàn, chết chóc. Nhưng tôi sẽ trở thành gì nếu bỏ cuộc? Chính vì vậy mà tôi tiếp tục viết và rồi những vần thơ của tôi đôi khi dường như bỗng thoát ra trước cảnh nắng chiều ngã mình trên mái ngói, vào giờ mà hoàng hôn phủ lên con đường những vũng màu tím thẫm.
Tôi xuống lầu và ra vườn, cửa nhà lão Knopf còn mở, từ đó thoát ra tiếng rào rào không ngừng của những chiếc máy may. Ba cô con gái của lão ta còn làm việc. Tôi nhìn về phía văn phòng. Không có ánh đèn. Vậy là Georges đã chuồn đi đâu đó. Phần Henri thì có lẽ ông ta đang ngồi ở một quán cóc. Tôi đi quanh quẩn. Có ngưởi đã tưới nước nên đất ẩm xông lên nặc mũi. Xương đóng hòm của Wilke trống rỗng, và căn buồng của Kurt Bach im lìm. Cửa sổ mở toang, một con sư tử đá tạc nửa chừng nằm dưới đất, thiểu não như đang bị đau răng, bên cạnh nó là hai chai bia không chĩa miệng lên trời. Một con sơn ca bắt đầu hót, và đột nhiên, không một lý do chính xác, tôi chợt buồn thấm thía với những nỗi buồn quen thuộc. Tôi trở lên phòng mở nắp dương cầm, đánh một bài hòa âm. Cũng như con chim ngoài vườn, tôi muốn gởi ra gió nỗi buồn và niềm vui của lòng mình. Nhưng, cuối cùng những đầu ngón tay tôi chỉ bấm được những bản nhạc bình dân và những điệp khúc tình cảm của “Tristan” và “Chevalier à la Rose”. Một người qua đường hét vọng lên :
- Học đàn lại đi, đồ ngốc!
Tôi đậy nắp đàn và phóng tới cửa sổ. Một bóng người vừa khuất mình trong tối. Hắn có lý. Tôi chơi nhạc quá tồi cũng như đã quá tồi trong cuộc sống không bao giờ tiến bộ. Nếu có người nào đó giải thích được là tôi ở trái đất này để làm gì, tôi sẵn sàng nhường lại tất cả những tấm phiếu ăn ở nhà hàng Edouard Knobloch.
BIA MỘ ĐEN
Erich Maria Remarque
www.dtv-ebook.com
Dịch Giả:Vũ Kim Thư
- 3 -:
áng Chúa Nhật, tất cả nhà thờ đều đổ chuông, đồng đô-la vẫn còn ở giá ba mươi sáu ngàn Đức kim, tôi cảm thấy vui và sẵn sàng tha thứ cho toàn thể loài người trên trái đất.
Tôi từ từ thay quần áo. Một làn gió nhẹ đi qua cửa, én liệng ngoài cổng ngõ. Phòng tôi có hai cửa sổ, một nhìn vào sân, một mở ra vườn. Tôi nghiêng mình trên bệ cửa nhìn vào sân để ngắm khu vườn. Thình lình có tiếng ú ớ tiếp theo là tiếng rọc rạch như nước đổ trong máng xối và tiếng rên rỉ sau cùng. Henri Kroll ở chái bên cạnh lại gặp ác mộng. Năm 1918 ông ta đã bị chôn sống, bây giờ năm năm sau, ông ta vẫn còn thấy trong giấc ngủ.
Tôi nấu cà-phê trên một cái đèn cồn và thêm vào đó một chút rượu anh đào theo kiểu uống mới của người Pháp vừa học được. Mặc dầu có lạm phát, tôi vẫn luôn luôn có một ít tiền để dành.
Tôi điểm tâm bằng bánh mì trét bơ trái cây và mứt mơ. Món mứt khá ngon tuy hơi khét, nhưng mặc! Trong thời chiến người ta đã cho chúng tôi ăn những thứ tồi tệ hơn nhiều. Tôi nhìn qua tủ áo hai bộ quân phục may lại thành đồ dân sự, một màu xanh, một màu đen. Ngoài ra còn một bộ com-plê, quá ngắn, nhưng không bị sửa đổi nên khá thích hợp với một Chúa Nhật, nhất là xứng hợp với cà vạt vừa mua hôm qua để làm dáng với Isabelle.
Tôi đi thơ thẩn qua các con đường trong thị xã. Werdenbruck là một thị trấn xưa cũ với sáu chục ngàn dân và những ngôi nhà bằng gỗ cùng một vài khu phố tân thời xấu xí đến hiếm có. Ra khỏi hẻm cây dẻ, tôi đi lên một ngọn đồi nho nhỏ trên đó là viện Tâm Trí xây giữa một vườn cây. Khu vực chữa trị những người điên bình lặng và an nghỉ, tiếng chim ríu rít trong những tàng cây. Tôi đi thẳng tới ngôi tiểu giáo đường, nơi mà tôi có nhiệm vụ đệm phong cầm vào ngày lễ Chúa Nhật. Tôi đã từng học loại đàn ống trong khi chuẩn bị thi sư phạm. Đây là một trong những nghề phụ để kiếm sống của tôi. Ngoài ra, mỗi thứ Năm, tôi còn dạy dương cầm cho mấy đứa con của anh chủ nhiệm giày Kral Brill để có chút ít tiền xài vặt và để lợp đế mới cho mấy đôi giày quá cũ của tôi mà khỏi phải trả tiền công. Mỗi tuần hai lần tôi còn phải dạy kèm cho thằng con trai ông chủ nhà sách Bauer, một tai họa thực sự để đổi lấy vài trăm Mark. Thêm vào món tiền chẳng đáng vào đâu này, Bauer có “nhã ý” cho tôi đọc không một số sách mới xuất bản và trừ hết vài chục phần trăm khi tôi mua sách. Tôi đã lợi dụng phần huê hồng đặc biệt để mua sách cho thi đoàn, và mỗi khi cần tới tôi về chuyện sách vở Edouard Knobloch không ngần ngại gợi lại tình bằng hữu giữa tôi và hắn trước kia.
Chín giờ sáng, buỗi lễ bắt đầu. Ngồi từ chỗ đánh đàn, tôi nhìn những người bệnh sau cũng đi vào, chung quanh họ là những người gác bệnh và dì phước. Họ đi thật êm, không có tiếng guốc khua như ở nhà thờ miền quê tôi dạy học.
Ánh sáng từ bên ngoài rảy qua cửa kính trộn lẫn ánh nến trước bàn thờ, làm thành những tia xanh, vàng trên người vị giáo sĩ mặc tế gấm và những đồng nhi đang lặng lẽ quỳ chờ hát trong những chiếc áo đỏ nẹp trắng.
Tôi bắt đầu nhấn phím. Ngay tức khắc, tại các dãy ghế trên cùng, đầu của những người điên cùng quay về một lúc như bị điều khiển bởi một sợi dây kéo vô hình. Những khuôn mặt xanh mét với những đôi mắt lõm sâu củng hướng về chiếc phong cầm như không một dấu hiệu cảm xúc nào hiện ra. Dưới ánh sáng óng ả vàng, trông họ như những con vật tế thần đợi giờ dâng hiên. Càng lúc, âm nhạc càng làm lạc hướng con
bệnh: tiếng sáo, tiếng vĩ cầm và tiếng hạ âm của thất huyền cầm xuyên qua cân não họ như những hòa âm luôn luôn mới lạ và bất ngờ. Rồi lễ thánh cử hành.
Không phải tất cả những người điên đều cùng hành lễ. Một số lớn ngồi ở những dãy ghế sau cùng không động đậy như chìm đằm trong tang chế nếu không phải là họ đang ở trong một thế giới khác của Đấng Cứu Thế. Dường như họ đang nghe một thứ âm nhạc tuyệt vời hơn tiếng phong cầm. Mà cũng có thể chẳng nghĩ tới gì cả... dửng dưng, như biển lớn, như thiên nhiên và cõi chết. Những cái đầu đó có lẽ đang hiểu được điều gì, đang nhìn thấy hay đang nghĩ ngợi tới nhưng không thể tiết lộ thiên cơ. Phải chăng họ là những người cuối cùng trên tháp Babel, không thể truyền thông cảm nghĩ cho nhau giữa những cơn bão tổ?
Tôi nhìn hàng ghế đầu. Bên phải, tôi nhận ra bóng dáng mảnh khảnh của Isabelle đang quỳ gối, người giữ thẳng, đầu hơi nghiêng qua một bên vai như pho tượng Gô-tích. Chúng tôi bắt đầu giờ của phép lạ. Bánh và rượu sắp biến thành máu và thịt của đấng Chirst. Cũng giống như phép lạ biến bụi đất thành con người. Tuy nhiên, theo Riesenfield thì phép lạ thứ ba chính là con người biết chắc chắn là sẽ chết. nhưng trước khi tới đó, họ đã phí thì giờ, mưu mô và sức lực để khai thác đồng loại đến tận xương tủy, loại trừ những kẻ họ không ưa thích, làm như họ sẽ sống đời đời. Đó là lời của Riesenfield, đại điện của hãng “đá hoa cương Odenwald”, một trong nhũng tổ chức hút máu nhiều nhứt của nghề làm mộ bia, dựng tháp cho người chết.
Sau buỗi lễ, các dì phước dọn cho tôi một bữa lót dạ theo giao ước: canh, trứng, thịt, bánh và mật. Nhờ bữa ăn này tôi có thể khỏi ăn trưa vì phiếu khẩu phần ăn của nhà hàng Edouard không có giá trị vào ngày Chúa Nhật. Ngoài ra, tôi còn được lãnh một ngàn Đức kim, vừa đủ để trả tiền di chuyển bằng xe điện. Tôi không bao giờ đòi thêm. Tại sao? Tôi vẫn chưa rõ lắm. Thế mà đối với lão chủ tiệm giày Karl Brill và nhà sách Bauer, tôi hung hăng như quỷ.
Lót dạ xong, tôi đi một vòng trong khu vườn rộng lớn, đầy cây cối hoa thơm và băng đá. Nếu không có
những bờ tường cao bao bọc và cửa sổ không song sắt, người ta có thể cho rằng đây là một trung tâm an dưỡng chớ không phải là một nhà thương điên. Ở đây, thế giới bên ngoài dừng lại. Người ta có thể yên tĩnh ngồi trên ghế nghe gió thổi, chim hót và nhìn ánh nắng xuyên qua kẽ lá.
Một số người bệnh đi qua trước mặt tôi, cãi cọ thật hăng theo sau họ là những thân nhân và nhân viên của Viện. Nhưng phần lớn đều ngồi bất động trong một góc, đầu nghiêng một bên như sợ hãi ánh nắng mặt trời và đang trông đợi dẫn về các phòng giam.
Phải mất một thời gian khá lâu tôi mới quen được cảnh tượng này, và đôi khi lại nhìn người điên với con mắt mới lạ. Cũng giống như cảm giác nửa tò mò, nửa kinh khiếp lúc tôi thấy người chết lần đầu. Thuở đó, tôi mới mười hai tuổi, kẻ chết là Georges Hellmann một tuần trước còn đùa nghịch với tôi, bỗng lăn đùng ra, nằm giữa những bó hoa, những vòng hoa, như một thân hình bằng sáp vàng, vừa xa lạ vừa hiện hữu. Về sau, trên trận địa, tôi gặp nhiều xác chết và chỉ thấy buồn nôn thật tự nhiên khi đi vào một lò sát sanh. Nhưng cái xác chết không đầu tiên đó, tôi không bao giờ quên được. Đó là cái chết đôi khi quan sát tôi qua ánh mắt tắt lịm của người điên.
Isabelle từ trại phụ nữ đi ra, mặc áo lụa vàng tay cầm một mũ rơm rộng vành. Tôi đứng dậy để đi ngược lại đón nàng. Trông khuôn mặt thon thon đó người ta có thể bảo chẳng khác gì hơn là đôi mắt xanh lục sáng ngời và một vành môi đỏ thắm. Nhưng màu mắt có thể đột ngột lợt lạt đi và vành môi mín lại như một cô gái già. Những lúc đó nàng tự cho mình là Jennie, một nhân vật đa nghi khó tánh. Phần lớn thời gian nàng vẫn là Isabelle. Sự thật tên của nàng là Geneviève Terhoven. Theo các nhà y học thì nàng bị mắc chứng nhị hóa nhân cách, nghĩa là lúc cho mình là người này, lúc là người kia. Trong bệnh viện, Isabelle là người trẻ nhất. Mẹ nàng đang ở một nơi nào đó tại Alsace, khá giàu nhưng dường như chẳng mấy quan tâm đến con. Luôn sáu tuần tôi biết Isabelle, bà ta vẫn chưa lần nào tới đây.
Hôm nay, Isabelle vẫn là Isabelle. Nàng sống trong cõi mộng thoát khỏi tất cả mọi trọng lực và tôi chẳng có gì ngạc nhiên khi nhìn thấy một vài con bướm đậu ở vai nàng. Nàng reo vui :
- Anh đây rồi! May lúc sau này anh đi đâu?
Lúc nào Isabelle, nàng vẫn gọi tôi bằng anh. Tôi chưa kịp trả lời, nàng đã hỏi tiếp : - Anh ở đâu?
Tôi làm một cử chỉ mơ hồ về phía cổng vào :
- Ở ngoài kia...
- Sao vậy? Ở ngoài đó làm gì?
- Anh cũng không biết.
Isabelle cười :
- Rolf anh nên biết là đứng phí công vô ích. Không tìm được gì ở đó đâu.
Hỡi ơi! Ngay với người quen biết nhiều như tôi nàng cũng thấy khác đi. Lúc thì nàng gọi là Rolf, lúc thì gọi là Rudolf, không chừng có ngày nàng còn là Raoul. Cái tên Raoul có vẻ lôi cuốn nhưng tôi thích được gọi là Rudolf hơn. Mỗi lần gọi tôi là Rudolf nàng tỏ ra hiền dịu và lãng mạn. Tên thật của tôi là Louis Bodmer tôi đã nhắc lại nhiều lần, nhưng nàng vẫn không hiểu tôi muốn nói tới ai.
Những tuần đầu tiên, tôi khó chịu và nghĩ rằng tất cả những người điên đều nói nhảm, có những toan tính và đầu óc đần độn. Nhưng tôi hết sức ngạc nhiên sau khi đã biết khá rõ về Geneviève. Chẳng những thế tôi còn thích thú khi thấy nàng thay đổi luôn nhân cách.
Isabelle kéo tay tôi :
- Lại đằng này, Rolf.
- Tôi không phải là Rolf mà là Rudolf.
- Sao cũng được! Thật ra anh không phải là Rudolf
cũng không phải là Rolf, lại cũng không là cái gì mà anh nghĩ ra. Thôi, lại đằng này, Rolf. Tôi nhìn nàng với ý nghĩ là nàng giả vờ điên.
- Thôi đi, đừng làm khó dễ mà. Anh với ông bác sĩ luôn luôn làm tình làm tội người ta. - Bác sĩ?
- Phải chính ông ta tự cho như thế. Anh có biết ông đòi hỏi tôi nhiều thứ lắm không? Toàn là chuyện ngu đần! Ông ta còn không biết nổi ban đêm cỏ màu gì khi người ta không nhìn nó.
Nàng cười dòn khi nghe tôi nói câu :
- Màu xám hay màu đen. Hay bạc ngời khi có ánh trăng.
- Tôi đoán đúng mà. Anh cũng chẳng biết gì cả. Cũng ngu như ông bác sĩ.
Nàng hỏi tiếp :
- Vậy thì nó màu gì?
Nàng dừng lại. Một ngọn gió vụt qua làm những con ong rời khỏi các nhụy hoa và mang tới hương thơm mùa nảy lộc. Tà áo vàng căng phồng lên như một cánh bướm.
- Dễ quá, cỏ không có ở đó, chỉ có vậy thôi.
Chúng tôi tiếp tục đi. Một người đàn bà có tuổi đi ngược qua mặc quần áo của cơ quan cứu tế. Mặt bà ta đỏ bừng và đầy nước mắt.
- Nếu cỏ không có ở đó thì cái gì thay vào chỗ của nó, Isabelle?
- Không có gì cả. Nó có ở đó khi mình nhìn tới. Đôi khi, mình quay lại thật mau mình có thể bắt gặp. - Bắt gặp gì? Bắt gặp nó không còn ở đó?
- Không... nhưng mà ta thấy nó chạy mau về chỗ cũ. Cỏ cũng giống với những gì ở phía sau anh. Như những người giúp việc nhà bỏ đi chơi. Mình phải quay người lại thật mau để bắt gặp, nếu không kịp thì đâu vào đấy, dường như không hề có biến đi.
- Rudolf, chúng nó chỉ chờ anh quay đi là biến mất
- Nếu vậy thì khi cô quay lưng lại thì tôi cũng biến đi.
- Cố nhiên.
- Cô lại nói quá rồi. Dầu cô có quay người nhanh hay chậm thì tôi vẫn cứ còn ở đây. Và nếu tôi quay lưng lại thì cô biến mất?
Nàng nhìn tôi và cười lơ đãng :
- Tôi hả? Tôi đâu còn...
- Này, tôi vẫn biết cô còn ở đây mà, cô vẫn có đối với tôi.
Nét mặt Isabelle biến đổi :
- Thật vậy không? Tại sao anh không nói như thế với tôi?
- Thì tôi đã nói rồi đó.
- Nói một lần chưa đủ.
Nàng ngả người sang tôi ngực căng đầy dưới làn áo mỏng. Nàng thở dài :
- Không đủ. Tôi phải nói rõ cho anh hiểu.
Tôi nhìn Isabelle. Nàng đẹp hơn, mỹ miều hơn lúc khác, nhưng chỉ có điên mời dám yêu một người điên. Tôi, ít ra, cũng chưa điên.
Trước mắt chúng tôi là những bụi uất kim hương nằm trong nắng. Tôi bảo Isabelle : - Cô nên đội nón vào. Bác sĩ dặn không được phơi đầu dưới nắng.
Nàng ném cái nón ra xa :
- Bác sĩ! Ông ta luôn kiếm chuyện. Tôi biết là ông ta muốn cưới tôi.
Nàng vừa nói vừa nhún nhảy đi vào luống uất kim hương rồi buông mình ngồi lên cỏ : - Anh có nghe không?
Tôi bỗng thấy nhẹ người :
- Nghe chớ. Mọi người đều nghe. Đó là tiếng chuông nhà thờ đổ theo cung fa thăng trưởng. - Fa thăng trưởng là gì?
- Một thể thức của âm nhạc. Nghe êm dịu...
Isabelle trải tả váy lên cỏ, ngắt một đóa uất kim hương, ngắm nghía.
- Và bây giờ thì hết ngọt ngào rồi.
- Vì bây giờ là cung đô trưởng.
- Bộ cái gì cũng phải trưởng hết sao?
- Có thể dùng cung thứ.
- Tại sao không dùng cả hai một lúc?
- Không thể được. Âm nhạc có nguyên tắc riêng của nó. Hoặc cung này hay cung kia hoặc cung này trước, cung kia sau.
Isabelle nhìn tôi không tin tưởng :
- Rolf, tại sao anh phải quanh co như vậy?
- Tôi có làm gì được đâu. Không phải tôi là người sáng chế âm nhạc.
Đột nhiên nàng đứng lên, ném cái bông tới trước rồi nhảy ra xa. Phủi bụi xong, nàng vén tà váy lên xem xét đôi chân. Tôi ngạc nhiên :
- Chuyện gì vậy?
Isabelle chỉ vào bụi hoa :
- Rắn...
Tôi nhìn những đóa uất kim hương :
- Không phải rắn đâu, Isabelle.
- Phải mà... Anh không thấy chúng nó định làm gì sao? Tôi đã đoán được chúng nó muốn làm gì. Chúng nó cọ vào tôi.
Tôi nắm tay và xoay người nàng sang phía khác :
- Đó, cô quay lưng rồi. Chúng nó không còn ở đó.
Isabelle thở gấp :
- Đừng để chúng nó giở trò. Giẫm nát chúng nó đi Rudolf.
- Không sao đâu. Chúng đã biến mất khi cô quay lưng lại. Cũng như loài cỏ trong đêm.
Nàng dựa vào tôi. Tôi không phải là Rolf nữa. Má nàng chạm vào vai tôi. Tôi đã là Rudolf, tôi biết vậy. Tim nàng đập mạnh trong lòng bàn tay tôi.
- Anh có chắc không?
- Chắc chắn. Chúng biến mất... như những người làm hôm Chúa Nhật.
Isabelle bình tĩnh lại. Chúng tôi đi trở về đường cũ. Một dì phước mang giày thật to tới gần chúng tôi : - Tới giờ ăn rồi.
- Ăn. Tại sao lúc nào cũng ăn, Rudolf?
- Ăn để khỏi chết.
Nàng hờn dỗi với giọng điệu của những đứa bé bất trị :
- Anh lại nói láo rồi.
- Không, lần này tôi nói thật.
- Có thật không?
Người nữ tu nắm tay Isabelle :
- Nón cô đâu? Khoan, để tôi đi lấy lại.
Bà ta chạy vào lối giữa hai luống hoa. Isabelle nắm chặt tay tôi :
- Đừng bỏ tôi, Rudolf.
- Tôi không bỏ cô đâu.
- Anh thấy không, người ta tới tìm, tôi phải đi với họ. Nhưng anh đừng rời xa tôi. - Tôi vẫn ở bên cô, Isabelle.
Người nữ tu đã tìm thấy cái nón và đi trở lại, nghiêm trang và lạnh lùng như định mệnh. Isabelle đứng lại, nhìn tôi. Lần nào trước khi chia tay nàng cũng nhìn tôi như thế. Nhưng biết đâu mai này khi gặp lại, nàng chẳng còn nhìn ra tôi nữa...
- Cô nên đội nón vào.
Isabelle lấy nón cầm tay rồi lủi thủi về trại, không một lần nhìn lại.
Còn lại một mình tôi bỗng nhớ tới ngày gặp nhau lần đầu tiên một Chúa Nhật tháng Ba, tôi đang đi dạo trong vườn thì Geneviève từ đâu chợt hiện ra và bắt chuyện như những người quen tôi. Điều đó chẳng có
gì khiếm nhã: trong một bệnh viện người điên, những công thức xã giao chỉ là thừa. Muốn nói gì, họ cứ đi thẳng vào câu chuyện, họ nói toạc những gì đang chất chứa trong đầu, người nghe có hiểu hay không cũng mặc. Người này muốn nói gì thì nói, người kia muốn nói gì cũng cứ nói cùng một lúc nhưng rồi cả hai đều hoàn toàn thỏa mãn vì chẳng ai đã nghe ai. Chẳng hạn như trường hợp của hai người tự xưng là Đức Giáo hoàng VII và Hoàng đế Henri VI. Cung cách và ngôn ngữ của họ đúng y như những gì họ đã biết tới về hai nhân vật. Hễ ra tới vườn cây là hai người lại đấu lý với nhau, mạnh ai nấy nói và nói không ngừng. Lại một
người điên khác tự cho mình là người thủy tinh, luôn luôn sợ va chạm. Nhờ biết thế nên hôm ấy, khi Geneviève đột nhiên tới bắt chuyện, tôi chẳng ngạc nhiên mà chỉ thấy nàng quá đep vì hôm ấy nàng tự cho là Isabelle chớ không phải Jennie.
Nàng mặc áo khoác lông cừu trị giá bằng mười hoặc hai mươi tháp bia bằng đá hoa cương của chúng tôi. Một cái áo như thế dĩ nhiên tôi không thích hợp được với mười một giờ trưa. Genevlève nói huyên thuyên vấn đề nào cũng vượt ra ngoài định luật đến nỗi tôi theo không kịp. Tuy nhiên phải nhìn nhận rằng qua những lời nói đó, nàng đã chứng tỏ được một sự khôn ngoan khác thường khiến tôi xúc động.
Ngày đầu tiên, nàng hôn tôi. Tôi không lấy gì làm lạ vì nàng đã thực hiện cử chỉ ấy một cách đột ngột. Nhưng rồi tôi hiểu ra: con người trước mặt nàng lúc đó chính là nhân vật do đầu óc bệnh hoạn tạo ra.
Kể từ lần gặp gỡ đó, cứ mỗi Chúa Nhật nàng đều ra vườn, và nếu trời mưa thì ở trong giáo dường, nơi mà bà Viện trưởng cho phép tôi dượt đàn sau buổi lễ. Những lúc đó Isabelle ngồi trong chỗ tranh tối tranh sáng lắng nghe. Tiếng mưa va chạm vào cửa kính và tiếng phong cầm hòa điệu làm thành một thanh khí lạ kỳ. Và sự hiện diện đơn độc của chúng tôi giữa lòng giáo đường hiu quạnh có một chút gì êm ảm. Tại sao nàng đến với tôi? Từ ngày gặp Genevieve, một cái gì dó không thể định nghĩa quấy rộn tôi, có lúc tôi cảm thấy hân hoan, có lúc nghe khổ sở hoàn toàn không một lý do.
Một nữ tu sĩ nhỏ bé nói với tôi :
- Bà Viện trưởng muốn gặp ông.
Tôi đứng lên đi theo, không mấy hãnh diện với ý nghĩ là đã bị theo dõi nhiều lần và có thể bị cho nghỉ việc. Tuy nhiên, tôi cũng thấy yên lòng đôi chút khi nhớ ra là bác sĩ đã có lần nhìn nhận sự hiện diện của tôi đã giúp Isabelle được phần nào.
Bà Viện trưởng ốm yếu nhưng cương nghị tiếp tôi tại văn phòng một cách niềm nở. Bà coi tôi là người ngoan đạo, yêu thương Chúa và sùng bái nhà thờ. Bà nhìn thẳng vào mắt tôi :
- Sắp tới tháng Năm rồi.
- Vâng.
Tôi vừa trả lời vừa nhìn những tám màn tinh khiết và sàn gỗ bóng như gương.
- Chúng tôi đang nghĩ tới một buổi lễ vinh danh ngắn vào buổi tối. Các giáo đường trong thị xã, trong tháng Marie đều có lễ tối vào khoảng tám giờ.
Tôi gật đầu. Những buổi lễ tối trong tháng Marie! Khói hương nghi ngút giữa giáo đường, bình thánh thể ngời chiếu trong tay linh mục, và sau đó những người trẻ thường đi lang thang dưới những tàng cây. Những năm chưa là lính, tôi đã từng giống họ, cũng quen biết một vài cô gái, toàn là những chuyện vô tư nhưng rộn rã và bí mật trong lòng. Bây giờ, tôi không mấy thích cứ mỗi đêm phải tới để đàn trước những người điên.
Bà Viện trưởng nói tiếp :
- Chúng tôi muốn tổ chức ít lắm mỗi tuần có một lễ tối có đờn ống và đồng ca bản Te Deum. Những bữa khác cũng có lễ đêm nhưng chỉ dành riêng cho nữ tu, không cần nhạc và đồng ca.
Tôi suy nghĩ. Đêm Chúa Nhật, thành phố buồn thiu và nhiều lắm là lễ chỉ kéo dài khoảng một tiếng đồng hồ.
Người nữ tu già khả kính nói tới điều tôi đang nghĩ :
- Chúng tôi không thể đền công nhiều cho con. Chỉ có thể trả bằng lễ sáng. Có hơi ít, phải không? - Vâng, nhứt là trong thời buổi lạm phát.
- Tôi biết... nhưng chúng ta làm việc cho Chúa chớ không phải vì tiền, có đúng không? - Nhưng làm việc cho cả hai cũng không có gì nguy hại.
- Rất tiếc là chúng tôi bó buộc phải chi tiêu đúng theo ngân sách đã quy định từ đầu năm. Tôi tìm một lối thoát :
- Nhưng đêm nay con lỡ hẹn về công việc làm ăn.
- Chưa mà. Chúng ta đang ở trong tháng Tư. Tôi muốn nói về Chúa Nhật tuần tới. Hay nếu thấy bất tiện thì cứ chọn một ngày nào khác trong tuần cũng được.
- Thật ra thì chẳng có gì bất tiện, chỉ có điều hơi khó xử là bữa ăn tối. Tám giờ, mẹ thấy không? Trễ quá...
- Ồ! Chẳng sao cả. Con có thể ăn ở đây. Vị giáo sĩ tử tế của chúng tôi luôn luôn dùng bữa ở đây.
Vậy là đúng như tôi mong ước. Thực phẩm ở đây cũng tương đương với nhà hàng Walhalla. Và nếu ăn chung với vị giáo sĩ kia, chắc chắn thế nào cũng có một chai rượu chát.
- Được rồi, thưa mẹ, con sẽ cố thu xếp về phần tiền bạc, không cần bàn tới nữa.
Bà Viện trưởng thở phào ra :
- Con yêu quý, Chúa giúp con!
Tôi rời Viện. Các lối đi trong vườn trống vắng. Chuông đổ nửa trưa nhưng đối với Isabelle thì đây là giờ ngủ rồi tới giờ bác sĩ, không thể gặp lại nàng trước 4 giờ. Tôi xuống đồi. Dưới chân tôi, thành phố trải dài với những bức tường xanh lục và những ống khói. Hai bên lối đi dài xuống triền đồi là những cánh đồng dành cho người điên không nguy hiểm làm việc. Đây là một viện Tâm Trí bán công. Những con bệnh có trả tiền dĩ nhiên là khỏi phải làm tạp dịch. Qua khỏi các cánh đồng là những quãng rừng thưa có suối và ao vũng mà cách nay khoảng mười năm tôi đã từng đi mót hạt cà-phê, bắt ếch nhái và bươm bướm. Bây giờ cũng cảnh vật đó nhưng tôi đã thấy khác đi vì từ thời thơ ấu đến tuổi thanh niên không có được một đường ráp mối. Trong chiến tranh đã làm ra như thế. Kể từ năm 1914 trở đi, bọn trẻ chúng tôi chỉ sống với những mảnh vụn ký ức không thể nào nối ráp được nhau. Chính vì vậy mà tôi cảm thông dễ dàng với tâm bệnh của Isabelle. Cuộc sống của những người trẻ có nhiều giai đoạn trộn lẫn vào nhau chiến tranh tước đoạt tuổi ẩu thơ, rồi trưởng thành trong hầm trú ẩn và kế đó là những năm đói khổ. Tất cả những thứ đó bắt buộc chúng tôi phải ưu tư và nghi ngại như những cây trụ cụt đầu, tìm kiếm mãi tuổi xanh đã mất, để chỉ thấy những chua cay đến mãi với mình quá sớm.
BIA MỘ ĐEN
Erich Maria Remarque
www.dtv-ebook.com
Dịch Giả:Vũ Kim Thư
- 4 -:
gồi ở văn phòng, chúng tôi đợi Riesenfield. Buổi chiều, chúng tôi đã ăn món súp đậu đặc sệt đến nỗi cặm muỗng vào là nó đứng chết một nơi. Ngoài đậu ra còn có giò heo, tai heo và thịt nọng. Chúng tôi cần có mỡ khá nhiều để tráng dạ dày đề phòng trường hợp uống nhiều rượu. Đêm nay, bằng bất cứ giá nào, chúng tôi cũng phải uống thật say. Bà mẹ của Georges đã cho chúng tôi tráng miệng mỗi đứa một miếng phô-mai Hòa Lan béo ngậy. Tương lai của hãng lâm nguy. Bọn tôi có nhiệm vụ phải tranh đấu toàn lực để lấy về một số đá hoa cương, về phần cẩm thạch, đá sỏi và đá vôi thì chưa cần gấp, nhưng đá hoa cương thì tới lúc phải báo nguy.
Henri Kroll đã bị loại khỏi vòng chiến nhờ sự can thiệp của gã đóng hòm Wilke. Võ trang hai chai rượu mạnh, gã đã mời Henri dùng bữa và đánh bài uống rượu. Henri rơi vào bẫy. Khi không phải tốn một đồng nào, ông ta vui lòng say chí chết. Cũng như mọi công dân Đức có tinh thần quốc gia Henri tự coi mình là cái thùng không đáy Danaides. Vài phút trước khi gục ông ta còn oang oang tuyên bố là chỉ một mình thôi cũng đủ quét sạch bọn dân chủ xã hội. Bây giời thì dù có Thống chế Hindenburg đến ra lịnh, Henri cũng không thèm mở mắt sau khi đã để bụng đói uống rượu vào. Ông ta, đang nằm trong một cái quan tài bằng gỗ sồi có lót mạt cưa... Ở từng bên trên, Wilke và anh chàng điêu khắc Krut Bach đang chơi dominos.
Khối lương đá hoa cương mà bọn tôi muốn xoáy của Riesenfield dĩ nhiên là cũng không có tiền trả trước. Tiền mặt chẳng có bao nhiêu trong khi không dám gởi ở ngân hàng vì sợ nó sẽ tan ra nước. Do đó, ý định của bọn tôi là phải khéo léo thế nào để Riesenfield đồng ý nhận một hối phiếu trong ba tháng. Được vậy thì chẳng khác gì hắn đã tặng không cho bọn tôi. Nhưng hắn không phải người dễ chơi khăm. Con cá xà đó luôn luôn vùng vẫy trong biển nước mắt của loài người. Như vậy ngay hôm nhận hối phiếu, hắn sẽ mang tới ngân hàng của hắn hoặc của bọn tôi để chiết khấu. Ngân hàng sẽ điều tra vè khả năng tài chánh của bọn tôi và chi cho hắn sau khi đã trừ khoảng bách phân mà chúng tôi phải hoàn lại ngay cho Riesenfield. Thế là hắn kể như đã ôm trọn số tiền. Nhưng ngân hàng có bao giờ tự mình chịu xuất không. Họ sẽ gởi hối phiếu đó tới ngân hàng quốc gia Rciehs để lấy lại khoản tiền và giữ ở đó cho tới hết kỳ hạn. Và chuyện gì xảy ra vào lúc đó, chẳng có gì khó hiểu.
Phương cách bán buôn đó đã làm bọn tôi thua lỗ kể từ năm 1922. Henri Kroll, với nguyên tắc riêng của ông ta lại đưa hãng tới bờ sạt nghiệp. Phải đổi chiến thuật: bán ra và mua lại tức khắc.
Nhưng rồi nạn lạm phát vẫn chận đầu chúng tôi ở mọi khúc quanh. Cuối cùng chỉ còn việc trả tiền bằng ngân phiêu có thể cứu vớt được phần nào. Và bởi vì mọi hãng xưởng trong xứ đều hoạt động theo lề lối đó nên ngân hàng quốc gia bắt buộc phải in thêm nhiều giấy bạc không có gì bảo chứng. Hậu quả là thời giá tuột dốc thật mau.
Chính phủ không làm gì khác hơn được, đành phải trả công nợ bằng loại tiền có sẵn. Nạn nhân là những tiểu điền chủ, công nhân, những người có lợi tức cố định. Sổ tiết kiệm và trương mục ngân hàng của họ rách nát ra. Kế đó là những công, tư chức mà đồng lương không thể mua nổi một đôi giày mới. Phần chiến thắng nằm trong tay những kẻ đầu cơ: các ông vua đổi bạc, những người ngoại quốc có trong tay đô-la, cua-ron hay zloti và của những nhà đại doanh nghiệp, các nhà lý tài. Với hạng người sau này, cuộc sống gần như không tốn kém. Có thể bảo đó là một cuộc hủy diệt ý thức tiết kiệm, lòng chánh trực và danh dự. Đâu đâu cũng có bóng dáng của loài kên kên, và chỉ có những kẻ mắc nợ mới thoát được các mắt lưới của nạn lạm phát.
Cuối cùng, chính Rlesenfield đã xóc nách chúng tôi để dựng dậy bằng cách chấp nhận cho chúng tôi trả từng kỳ hạn. Đá hoa cương của xưởng Odenwald là loại đảm bảo, thế là quả đủ rồi. Bởi thế, chúng tôi phải chuẩn bị nghinh tiếp hắn như đón một vị cứu tinh. Nhà điêu khắc Krut Bach của chúng tôi đã họa cho hắn một chân dung lồng trong khung thạch cao mạ vàng tuyệt diệu. Hỡi ơi! Riesenfield chẳng bằng lòng. Hắn nhìn thấy chân dung đó có vẻ giống một mục sư làng trong khi hắn tự cho mình có đường nét của một đào hoa nam tử. Trên thực tế, thân ngưởi hắn giống như một trái lê được dựng lên trên đôi gậy kẻ trộm.
Tôi chia xẻ nỗi lo âu với Georges :
- Lần này mình đãi hắn ra sao đây? Không còn một trò giải trí nào ra hồn cả. Đãi rượu à? Hắn đã thừa thãi. Hắn cần nhìn, cần nghe và nếu được thì sờ vuốt. Không may là những người đẹp chẳng ai chịu tiếp hắn trọn buổi tối. Còn mấy đám khác thì chỉ là những họa mi sầu thảm.
Georges vẫn cứ đùa đau nghiến :
- Tôi thì đang lo khoản tiền mặt không biết có đủ chi cho đêm nay không. Hôm qua, lúc tìm tới hắn, tôi tính lầm giá đô-la. Sáng nay tôi vẫn còn đi với hắn. Tới trưa thì trễ rồi, ngân hàng đã đóng cửa. Chiều thứ Bảy...
- Nhờ vậy mà hối suất không tăng.
- Ngốc lắm. Ở Moulin Rouge, cứ đêm Chúa Nhật là họ tự động tăng trước giá chính thức mấy ngày. Có trời mới biết một chai rượu chát đêm nay sẽ là bao nhiêu?
- Trời không biết mà cả chủ nhân cũng không biết luôn. Ông ta chỉ định giá khi đốt những ngọn đèn thủy tinh lên. Nếu Riesenfield biết thưởng thức nghệ thuật, âm nhạc và văn chương thì đỡ tốn. Ở Viện Bảo Tàng, vé vào cửa vẫn còn 250 marks. Hay đưa hắn tới nhà thờ Sainte Catherine để nghe hòa tấu.
Georges cười hăng hắc :
- Trời ơi cứ nhìn Riesenfield có mặt tại những nơi giải trí lành mạnh đó là muốn khóc ngất rồi. Thà hắn chịu đi xem hát hay nghe nhạc nhẹ còn đỡ hơn làã vào cái hộp đêm quỷ quái Moulin Rouge.
Georges bỗng nhiên nghiêm mặt lại :
- Hắn tới kia! Chú hỏi xem hắn thích gì.
Riesenfield lên thang gác từng bốn bậc một. Cảnh sắc êm ả buổi chiều không làm hắn động tâm. Hắn nhìn bọn tôi với ánh mắt sắc bén rồi ngồi tỏm xuống nghế dựa :
- Các bạn cứ tự nhiên.
Tôi hơi khó chịu khi thấy hắn cũng muốn nói với mình :
- Nếu ông không cần cung cách thì cũng nên để người khác làm cho phải điệu.
Riesenfield cười khô khốc :
- Ông bạn trẻ nên biết ở thời đại này, học vấn chẳng ăn thua gì đâu. Nhiều lắm là chỉ trở thành giáo sư môn xã giao nhưng chắc chắn là không có học trò.
Tôi cười nửa miệng :
- Theo ông thì phải thế nào?
- Phải có hai khuỷu tay bọc sắt và một lương tâm dây thun.
Georges nhẹ nhàng chêm vào :
- Ông Riesenfield, ông nói vậy chớ phần ông đã có những cung cách tuyệt vời. Theo ý nghĩa trưởng giả thì chính hai đức tính này đã khiến ông trở thành một tay đào hoa toàn hảo: ăn mặc hợp thời trang và thái độ ung dung.
- Thôi cho tôi xin, ông bạn có lầm không?
Tuy hỏi vậy nhưng Riesenfield phồng mũi ra. Tôi làm ra điều kinh ngạc :
- Sao? Một tay đào hoa toàn hảo à? Ông chủ nên nói chính xác hơn là ông Riesenfield quả có cốt cách của một tên du đãng.
Georges chỉ chờ có thế. Trò đùa ngẫu hứng của bọn tôi đã đi vào đúng khớp. Tôi nói tiếp : - Cũng có thể gọi đó là tư cách của một kẻ cướp.
Danh từ du đãng, quá thẳng, khiến Riesenfield khó chịu nhưng khi nghe tới kẻ cướp hắn có vẻ hài lòng. Georges đi lấy một chai rượu mạnh mua hôm qua, rót vào ly :
- Chúng ta uống gì đây?
Theo thông lệ thì người ta cụng ly uống mừng sức khỏe hay mở đầu hoặc kết thúc một cuộc bàn thảo về thương vụ. Đổi với bọn tôi, vấn đề tế nhị hơn: Sức khỏe? Chúng tôi phải bỏ nghề. Công việc để làm ăn: Cái chết của người khác. Đối với bọn tôi cụng ly có nghĩa là đón mừng bệnh tiêu chảy lan tràn, hoặc bệnh hoại huyết xảy ra ở khắp nơi. Do đó chúng tôi nhờ Riesenfield chọn công thức. Hắn liếc xéo chúng tôi, ly cầm tay suy nghĩ giây lát và bỗng hỏi :
- Thời gian đúng nghĩa của nó là gì?
Georges hơi hoảng hốt, đặt ly xuống. Tôi định nghĩa bừa :
- Là ý nghĩa thâm thúy nhứt của cuộc đời.
Rlesenfield làm như không có tôi :
- Ông Kroll nghĩ sao?
Georges nhún vai :
- Tôi không thích triết lý. Vậy mình uống mừng sức khỏe của nhau.
Riesenfield làm ra vẻ suy tư :
- Thời gian... vâng, tôi không muốn nói đến thời hạn thảm khổ của cuộc sống loài người tính theo nhịp độ đồng hồ, mà là cái chết chậm chạp, là sự trôi chảy triền miên...
Lần này đến lượt tôi đặt ly xuống :
- Tôi nghĩ là mình nên mở đèn lên. À, tối nay ông Riesenfield đã ăn gì?
Hắn lườm tôi :
- Cậu nên để người lớn nói chuyện với nhau.
Tôi định cãi lại nhưng kịp nghĩ là uống rượu còn tốt hơn. Trong khi đó, Riesenfield gật gù :
- Năm nay, tôi năm mươi tuổi, vậy mà vẫn nhớ thuở hai mươi như mới hôm qua. Kể cũng lạ. Mình lớn lên lớn lên và... hấp! Tuổi già hiện ra đột ngột. Ông nghĩ có đúng không, ông Kroll?
- Chắc đúng như vậy. Tôi mới bốn mươi nhưng tưởng như đã sáu chục rồi. Với tôi, đó là lỗi của chiến tranh.
Georges nói láo để khỏi phật lòng Riesenfield. Tôi nói vào ngay :
- Phần tôi thì khác. Cũng do lỗi chiến tranh. Đi lính năm mười bảy, bây giờ đã hai mươi lăm. Vậy mà tôi vẫn tưởng cứ còn mười bảy tuổi. Mười bảy hay bảy mươi. Tuổi trẻ của tôi, quân đội đã lấy mất.
Riesenfield lại lườm tôi :
- Cậu hả? Cậu chỉ là một thằng ngốc. Nếu không có chiến tranh cậu chỉ có thể là một thằng bé ranh mười hai tuổi.
- Cám ơn, ông quá khen. Mười hai tuổi, tuổi của thiên tài. Sau giai đoạn dậy thì đó, con người chỉ là một biểu tượng tầm thường của đồng loại, tức là loại hữu nhũ như bao nhiêu con vật khác.
Georges lại rót rượu vào ly. Tôi làm cách nào để lôi Riesenfield ra khỏi những chuyện tầm phào đó. Tôi cố đánh một đòn tuyệt vọng :
- Nếu ông Riesenfield thích những luận lý cao xa, tôi có thể giới thiệu ông tớii một hội đoàn toàn những nhà tư tưởng... đó là thi đoàn của thị xã yêu quý chúng tỏi. Ở đó có nhà thơ Hans Hungermann ông ta chuyên nghiên cứu thời gian dưới nhiều khía cạnh chẳng hạn như: cánh thời gian, màu thời gian, thời kỳ hái nho, động cơ hai thì, làm cách nào để giết thì giờ, chiều dài của thời gian, nhạc ba nhịp v.v... ông ta làm thơ sáu chữ cũng rất tài. Nếu ông thích chúng tôi giới thiệu tới ngay.
- Ở đó có phụ nữ không?
- Không. Nữ sĩ thời này khó kiếm hơn vị ba chân.
Riesenfield phì cười :
- Như vậy thì giải trí cái nỗi gì?
Tôi đang tìm một lối thoát khác thì thình lình cửa sổ nhà Lisa mở toang và sáng rực lên, một bóng đàn bà hiện lờ mờ ra sau những bức màn. Vợ anh chàng Watzek thay đồ, trên người chỉ có một cái nịt ngực và một cái quần đùi đen vô cùng khêu gợi.
Cánh mũi Riesenfield phồng lên xẹp xuống như ngựa động cỡn. Đầu óc triết lý của hằn biến mất. Tôi đứng dậy mở đèn. Riesenfield nói nhỏ :
- Đừng mở đèn, phải có đầu óc thơ mộng chút chớ.
Hắn bước mau tới cửa sổ. Lisa bắt đầu trồng chiếc váy hẹp qua đầu và uốn éo như con lươn. Riesenfield phồng mũi một cách vô liêm sĩ :
- Đẹp không thể tưởng! Cập đùi quá ngon lành! Chắc hoa khôi của Werdenbruck.
Tôi phá đám :
- Còn thua của tôi.
Rlesenfield trừng mắt :
- Ai vậy?
- Suzanne...
- Ngốc! Tôi hỏi người đó là ai?
Một ý nghĩ chợt lóe trong đầu tôi :
- Không biết. Chúng tôi mới thấy lần đầu tiên. Hồi sáng này nàng ta vẫn chưa tới ở. - Thật không?
Lisa đã mặc váy xong và đang vuốt nếp. Georges thừa cơ hội Riesenfield nhìn qua bên kia, rót đầy hai ly rượu và chúng tôi cùng uống cạn một hơi. Riesenfield vẫn bị hít chặt vào cửa sổ :
- Đúng là một phụ nữ rặc giống! Phải là một mệnh phụ, chắc là người Pháp.
Theo tôi biết thì Lisa là dân du mục, nhưng tôi vẫn đưa đà :
- Không chừng cô ta là Renée de la Tourterelle. Mới nghe nói tới cái tên này hôm qua. Riesenfield quay lại phía bọn tôi :
- Thấy chưa! Tôi đoán đúng mà. Dân Pháp. Thấy là biết ngay, đó là vấn đề...
Georges tâng bốc :
- Ông bạn quả là tay lão luyện.
Đèn trong phòng Lisa vụt tắt. Riesenfield nuốt vội hai hớp rượu rồi tiếp tục dán mắt qua bên kia hẻm. Một lúc sau, Lisa xuống đường. Riesenfield lại xuýt xoa.
- Trời! Dáng đi quyến rũ làm sao! Các người thấy không? Bước lớn mà không núng nính. Y như một con beo! Những đàn bà đi lắc mông, chán lắm. Riêng nàng này...
Trong khi hắn so sánh dáng đi của Lisa như beo cái, tôi và Georges lại uống thêm một ly nữa. Georges lại uống lén một ly nữa. Georges dựa ngửa vào lưng ghế, cười nửa miệng. Thế là bất ngờ, bọn tôi đạt được mục tiêu.
Riesenfield xoay người lại, mặt hắn sáng như trăng đầy.
- Mở đèn lên, quý vị! Còn chờ gì nữa? Bọn ta xông thẳng vào giòng đời!
Chúng tôi lẽo đẽo theo hắn. Đêm mát dịu nhưng tôi bận nhìn cái lưng ếch nhái của Riesenfield.
Ca vũ trường Moulin Rouge đầy nghẹt khách. Sau một hồi chen lấn, chúng tôi tìm ra một bàn trống gần dàn nhạc. Âm thanh ầm ĩ khiến chúng tôi phải hét lớn vào tai nhau mới nghe ra, nhưng rồi nhạc cứ dồn dập tới và chúng tôi phải ra dấu cho nhau như một bộ ba vừa câm vừa điếc. Trên sàn nhảy dường như không còn chỗ để xê dịch. Nhưng Riesenfield vẫn hăng hái. Hắn xông tới quầy rượu, bắt bồ với một nữ chiêu đãi
viên và cả hai ra nhảy. Ả ta cao to hơn hắn một cái đầu, vừa nhảy vừa đờ đẫn nhìn gian phòng. Riêng phần Riesenfield thì cứ như ngọn Vésuve phụt lửa. Tôi bảo Georges :
- Hay là mình rót rượu mạnh vào ly rượu chát của hắn? Hắn uống như hũ chìm. Trong hai tiếng đồng hồ nữa là mình cháy túi luôn. Hy vọng là hắn không mời ả kia tới uống.
Georges lắc đầu :
- Không sao đâu cô ta là chiêu đãi viên, xong là phải trở về quày.
Riesenfield từ đám đông hỗn loạn trở về bàn. Mặt hắn đỏ gay và nhớp nhúa mồ hôi. Hắn hét lớn giữa những tiếng ồn ào :
- Còn gì thú vị bằng! Tưởng tượng đã trở thành thực thể! Một phụ nữ như thế... các bạn có biết tôi nói gì không?
Georges cũng cố kêu to :
- Biết lắm! Cái gì mình không có bao giờ cũng tốt hơn những gì đang có. Bởi vậy mới có tư tưởng lãng mạn và tất cả sự ngu si của con người.
Riesenfield rống lên :
- Không phải tôi muốn nói tàn nhẫn vậy. Tôi chỉ muốn đề cập tới hình thức.
Georges hét trả :
- Tôi cũng vậy.
- Nhưng tôi còn hơn bạn.
- Được rồi! Muốn bao nhiêu hình thức cũng xong được.
Nhạc phóng vút lên cao. Thình lình, mắt tôi chết sững. Bên phải tôi, cô bạn gái xinh xắn đang chen lấn ra sàn nhảy vớỉ sự che chở của một gã cao lớn như khỉ đột. Tôi nhận ra ngay mái tóc nâu của nó từ xa! Không xấu hổ, nó lại còn bám vào vai của tên kia. Tôi không hề cử động, thế nhưng lại có cảm tưởng như vừa nuốt trọn một quả lựu đạn. Nó nhảy với một thằng lạ con bẩn thỉu! Vậy mà trong suốt thời gian qua tôi viết tặng cho nó đến mười bài thơ với nhan đề Tinh cầu và Cát bụi. Khoảng một tuần nay, con lăng loàn đó lại bảo là nhức xương sống vì ngã té ở thang gác trong nhà. Ngã té, hừ, té trong tay của một thằng con trai ăn mặc diêm dúa kia...
Riesenfield hét về phía tôi :
- Chuyện gì vậy? Bệnh hả?
- Nực quá!
Thật vậy, mồ hôi đã đổ ướt hết cổ áo tôi. Tôi giận sôi gan. Nếu Erna nhìn lại, phải làm thế nào cho nó thấy là tôi không hề đổ mồ hôi, phải bình tĩnh, ung dung, phải tỏ ra là một trượng phu. Tôi lau mặt thật mau. Riesenfield nhìn tôi với cái cười chế giễu bỉ ổi. Georges lưu ý :
- Chú mày đổ mồ hôi như con bò.
Riesenfield tự che chở :
- Tôi cũng đổ mồ hôi nhưng do tràn ngập niềm vui.
Tôi phát cáu :
- Mặc tôi!
Erna tới gần. Tôi làm điều hơi sửng sốt và cố cườí khoan dung trong khi mồ hôi tiếp tục nhả ra. Riesenfield lại rống to :
- Làm cái gì kỳ vậy? Như gà sắp bị cắt cổ không bằng!
Tôi không trả lời. Erna quay lại. Tôi nhìn vu vơ ra sàn nhảy và làm như bất ngờ nhìn thấy nó. Tôi đưa hai ngón tay lên chào với điệu bộ khoan thai. Riesenfield gào thét giữa tiếng nhạc fox-trot :
- Bộ điên rồi sao?
Tôi không còn đủ sức mở miệng. Erna không nhìn thấy tôi.
Nhạc ngừng lại. Sàn nhảy lần lần trống vằng. Erna đi mau về chỗ ngồi dành riêng. Rlesenfield vẫn kêu ong óng :
- Chú em mấy mươi tuổi, hồi nãy? Mười bảy hay bảy chục?
Câu hỏi của hắn giữa lúc nhạc ngừng vang rền khắp phòng. Mọi người quay đầu về phía chúng tôi, Riesenfield hơi ngượng còn tôi thì lại muốn chui xuống gầm bàn. Thình lình, tôi nhận ra là những người kia tưởng con số bảy chục là giá thách bán một vật gì. Tôi lạnh lùng hô to :
- Bảy mươi mốt Mỹ kim, không thêm một cắc.
Một gã da mặt hồng hào ở bàn bên cạnh hỏi :
- Cái gì vậy? Nếu đáng giá tôi trả tiền mặt ngay. Tên tôi là Aufstein.
Tôi đáp ngay :
- Felix Koks, kỹ nghệ gia. Hai chục chai nước hoa. Rất tiếc là nam tước Kroll ở đây đã chịu giá rồi. Một ả tóc vàng hoe nói chen vào :
- Vậy là hết chuyện!
Các màn phụ diễn bắt đầu. Một tên hề vô duyên ra chọc cười nhưng chẳng thành công. Kế đó là Renée de la Tourterelle. Cô ta hát hai giọng, một đoạn giong kim, một đoạn giọng thổ. Tôi hỏi Riesenfield :
- Ông thấy ca sĩ đó như thế nào?
- Tương đối khá.
- Có thích gặp cô ta không? Tên cô ta là de la Tourterelle.
Riesenfield giựt mình :
- La Tourterelle? Bộ quái tượng hội chợ này là nàng trên cửa sổ hồi nãy sao?
Tôi muốn đáp phải để xem phản ứng của hắn ta ra sao nhưng cố dằn lại. Đột nhiên tôi dùng ngón tay
cái chỉ về phía lối vào :
- Kia kìa, đúng rồi! Đúng là nàng! Mới nhìn là biết ngay!
Đúng vậy. Lisa đi giữa hai gã mặt thộn trông ả như một mệnh phụ, ít ra đó cũng là ý kiến của Riesenfield.
Màn trình diễn thứ ba bắt đầu. Một nữ lực sĩ nhào lộn ra đứng giữa sàn nhảy. Mũi hỉnh, mặt trâng tráo nhưng đôi chân thì không thể chê vào đâu được. Cô ta nhảy lộn tròn, biểu diễn thăng bằng trên một chân... nhưng bọn tôi còn bận nhìn về chỗ Lisa.
Risenfield nói oang oang :
- Cho sâm banh!
Tôi hốt hoảng, Georges lo ra mặt. Tôi can thiệp ngay :
- Ông Riesenfield, sâm banh ở đây tồi lắm.
Ngay lúc đó, tôi bỗng có cảm giác bị nhìn lén. Tôi quay đầu lại: Chính cô ả nhào lộn đang uốn quặp người ra sau, thò đầu vào giữa hai chân, thao láo nhìn tôi.
Riesenfield lườm tôi :
- Tôi thấy muốn uống sâm banh là tôi gọi.
Khuôn mặt thò giữa đôi chân kêu lên :
- Hoan hô!
Georges liếc mắt sang tôi. Anh ta đóng vai hào hoa phong nhã còn tôi giữ trò quấy rối. Chúng tôi đã giao ước với nhau. Tôi bảo :
- Nếu ông cần sâm banh là có sâm banh ngay. Ông khách quý của chúng tôi.
- Không. Cứ để tiền sâm banh tôi trả. Một lời thôi.
Chiêu đãi viên mang sâm banh lại. Riesenfield vênh váo tự cho là một Don Juan. Một số các bà gần đó lộ vẻ thèm thuồng. Tôi cũng được lợi lây. Rượu sâm banh sẽ làm cho Erna nhận ra là nó đã cắm sừng tôi quá sớm.
Willy đột ngột hiện ra. Hắn là khách quen của Moulin Rouge. Khách bàn bên cạnh đứng lên. Willy ngồi vào chỗ đó. Chưa ngồi yên hắn đã vội vàng đứng lên chạy tới đón Renée cùng đi với một thiêu nữ mặc dạ phục đen: cô gái nhào lộn lúc nãy. Tên cô ta là Gerda Schneider. Chúng tôi chờ xem thải độ của Riesenfield, nếu hắn thấy thích nàng này là bọn tôi kể như khỏi tốn tiền đêm nay. Tuy nhiên, hắn vẫn để hết tâm ý vào Lisa và hỏi Georges :
- Mình có thể mời cô ấy nhảy không, Kroll?
- Cũng được nhưng theo tôi thì bây giờ có hơi trễ tuy chúng tôi vẫn giới thiệu.
Câu trả lời ỡm ờ của Georges khiến Riesenfield nhìn tôi với vẻ trách móc vì lúc còn ở văn phòng chính tôi đã bảo là không hề quen ả ta.
Cô gái nhào lộn hỏi tôi :
- Ông không nhảy sao?
- Tệ lắm. Tôi không có khiếu.
- Tôi cũng vậy. Cứ thử xem sao.
Chúng tôi bước ra và bị đám đông cuốn hút ngay. Vừa bước theo nhịp nhạc, Gerda vừa hỏi : - Ba người đàn ông mà không có một phụ nữ nào. Sao vậy?
- Tại sao phải có? Ông bạn của tôi bảo là dẫn bồ vào hộp đêm chẳng khác gì mở đường cho cô ta cắm sừng.
- Ai tên Georges? Phải người có cái mũi giống cái quặng đó không?
- Không, anh ta sói đầu. Anh ta chỉ thích ở trong cung thôi không muốn đưa bạn gái ra chỗ công cộng. - Dĩ nhiên... còn ông?
- Tôi không có nguyên tắc nào cả. Như ngọn cỏ trước gió.
Gerda kêu nhỏ :
- Coi chừng, đừng giẫm lên chân tôi. Theo tôi thì ông không phải là cỏ. Ông nặng ít lắm cũng bảy chục ký.
Tôi bắt đầu tỉnh táo ra. Chúng tôi tới gần chỗ Erna ngôi. Lần này, cô ả nhận ra tôi mặc dầu đang ngả lên vai thằng khỉ đột chưa ráo mũi. Tôi cười với Gerda và siết cô ta thêm vào. Gerda hiểu ngay :
- Buông tôi ra. Coi chừng cô bé tóc đó giận bây giờ.
Tôi nói láo như không :
- Tôi không hiểu cô muốn nói gì.
- Thôi đi. Ông đóng kịch không khéo đâu. Nãy giờ liếc cô ta, bây giờ lại làm như khờ khạo. Tôi vẫn giữ nụ cười làm chủ tình hình. Gerda buông tay tôi :
- Thôi, nghỉ một chút. Chân tôi đau rồi.
Tôi đưa cô ta trở lại bàn.
Rượu bắt đầu có hiệu lực. Riesenfield và Georges bắt đầu mày tao. Họ của Riesenfield là Alex. Chút nữa đây thế nào hắn cũng đề nghị mày tao với tôi. Cố nhiên là sáng mai, chẳng còn ai nhớ nữa.
Tôi ngồi nhìn ra sân nhảy. Từng cặp, từng cặp trôi qua. Rồi đến Erna. Con bé lướt sát bên tôi nhưng làm như không thấy trong khi điệu bộ khiêu khích rõ ràng. Gerda thúc khuỷu tay vào tôi :
- Tóc cô ta nhuộm.
Tôi chợt thấy xốn xang với cảm nghĩ là cô gái chuyên nghề nhào lộn này cố an ủi mình. Riesenfield gọi
tính tiền - Moulin Rouge mà thiếu Lisa bên cạnh không có nghĩa gì với hắn và trả phần rượu sâm banh. Ra tới đường bất ngờ tôi chạm trán Erna. Con bé quắc mắt với tôi :
- A! Tôi bắt gặp anh rồi! Đừng có chối!
Không dằn được, tôi đốp chát ngay :
- Bắt được gì? Cô làm tôi chán ngáy! Chính tôi...
Con bé không cần nghe :
- Đi với cái đồ nhảy múa xành xạch. Này, đừng có đụng tới tôi.
Tôi đang giận nhưng không khỏi buồn cười vì chẳng hề có ý đụng chạm tới con bé. Tôi hỏi lại : - Còn cô? Cô đi với ai? Tôi đi lo công việc của tôi cũng không được sao?
- Công việc! Ai chết?
- Bọn làm sang chết chớ ai. Mỗi ngày bọn nó chết tại đây
Erna vẫn không để ý tôi nói gì :
- Thấy cái mặt rách rưới của nó mà phát tởm. Hết rồi, thưa ông Bodmer.
Georges và Riesenfield còn bận chen lấn để lấy nón. Tôi mở cuộc đại tấn công, nói sát vào mũi Erna :
- Nghe đây! Con lẳng lơ nào chiều qua đã nói vớt tôi là hôm nay phải ở nhà vì còn nhức đầu để rồi lẻn đi với một tên túi đầy tiền.
Mặt Erna trắng nhợt :
- Đồ khốn! Ăn cắp văn của người chết mà cứ tưởng mình là Goethe! Hãy đi học cách kiếm ra tiền để dẫn đào đi chơi! Đừng làm bộ trơ mặt ra bảo là yêu nghệ thuật, yêu thiên nhiên!
Tuy lảo đảo trong lòng nhưng tôi vẫn cười khẩy :
- Đưa đào tới chỗ thế này tưởng là quý lẳm!
- Không quý mà lại rốc túi học làm sang, uống sâm banh! Ghê quá!
- Không phải tôi gọi sâm banh.
- Vâng! Lúc nào cũng vô tội! Còn đợi gì nữa! Đi cho khuất mắt!
Đúng lúc tôi đang muốn siết cổ con bé thì Georges tới đưa nón cho tôi. Đồng thời, gã khỉ đột nồng nặc hơi giấy bạc cũng hiện ra. Bọn chúng bỏ đi. Tôi hỏi Georges :
- Anh có nghe không, Georges?
- Chút ít. Tại sao chú cãi lộn với đàn bà?
- Tôi có muốn vậy đâu.
Georges bật cười. Không bao giờ y say dù có uống luôn mấy chai nguyên :
- Đừng bao giờ cãi với họ. Cãi là thua. Tại sao chú cứ phải muốn là mình có lý?
- Tôi cũng nghĩ thế. Có lẽ tại tôi là người Đức. Anh có cãi với đàn bà lần nào chưa? - Cớ chớ! Nhưng không phải vì thế mà không được khuyên kẻ khác.
Gió mát làm Riesenfield cảm khoái. Hắn bảo với tôi :
- Mình nên coi nhau như anh em. Cùng là bọn ăn huê lợi trên xác chết. Gọi tôi là Alex. - Và tôi là Rolf.
Cái họ Louis của tôi không thích hợp với con sâu rượu này. Chỉ có là Rolf mới đủ ăn miếng trả miếng với Alex.
Riesenfield nhìn tôi :
- Rolf hả? Cái họ này không khá nổi. Có mang nó luôn luôn không?
- Chỉ mang vào những nhuận và mỗi tôi sau giờ làm việc. Vả lại họ Alex cũng chẳng có gì đặc biệt. Riesenfield hơi lảo đảo nhưng dịu giọng :
- Thôi bỏ qua. Bây giờ xin thú thật với các người là đêm nay hoàn toàn đầy cảm hứng. Mình nên làm một mách cà-phê.
Georges reo lên :
- Ý kiến hay! Rolf là chuyên viên cà-phê.
Chúng tôi chệnh choạng trở về ngõ hẻm. Trước mắt chúng tôi là lão thượng sĩ Knolf vừa về tới. Ông ta đang đứng đái vào cái tháp tưởng niệm đen. Tôi quát :
- Ông Knolf, không được đái bậy!
Ông ta không thèm quay lại mà ra lệnh :
- Nghỉ!
Tôi không nhịn được hơn :
- Thưa Thượng sĩ! Đây là trò con heo. Thượng sĩ nên diễn ở nhà.
Lão ta lừ đừ quay đầu lại :
- Sao? Chú mày bảo tao đái trong nhà hả? Có điên không?
- Trong nhà đã có buồng vệ sinh, vả lại ông làm thế này là phạm tội.
- Phạm cái gì? Chưa dựng ở đất thánh thì cũng như là một cục đất chớ có gì đâu. Lão ta bỏ đi, đầu chạm vào khung cửa, lẩm bẩm chửi thề rồi biến mất.
Trong khi tôi pha cà-phê, Riesenfield hỏi :
- Lão già đó là ai vậy?
- Một con sâu rượu nhưng khác với ông. Lão ta chỉ cần có rượu để uống chứ không biết mượn rựợu gây cảm hứng.
Riesenfield bước tới cửa sổ :
- Như vây gọi là thùng rượu đúng hơn. Con người phải sống với những giấc mơ, chú em biết không? - Không! Tôi còn quá trẻ.
- Không phải là quá trẻ mà chỉ tại là sản phẩm của chiến tranh. Người ta dạy cho chú mày cách giết người... còn ái tình thì zê-rô!
- Cám ơn!
Hơi rượu từ từ tan loãng. Không ai còn xưng hô mày tao nữa. Riesenfield hỏi Georges : - Không biết người đẹp bên kia đã về chưa?
- Chắc là chưa. Phòng không có ánh đèn.
- Vậy mình có thể đợi thêm vài phút.
- Cố nhiên.
Tôi đánh đòn thời cơ :
- Mình nên nhân dịp để tính toán công việc làm ăn. Bây giờ chỉ còn ký vào hợp đồng. Trong thời gian đó tôi sẽ pha một bình cà-phê mới.
Tôi lấy cớ xuống bếp để Georges và Riesenfield dễ nói chuyện với nhau. Tôi ngồi ở đầu cầu thang. Tiếng ngáy chưa tỉnh rượu của Henri từ dưới vọng lên.
Trong khi chờ đợi Georges ra dấu hiệu, tôi lơ đãng nhìn ra vườn. Trời sáng lần trong im lặng. Ở khung cửa đối diện, bóng lão Knolf mặc áo ngủ đang hớp ngụm rượu cuối cùng. Con mèo cọ vào chân tôi. Lại một Chúa Nhật đi qua.
BIA MỘ ĐEN
Erich Maria Remarque
www.dtv-ebook.com
Dịch Giả:Vũ Kim Thư
- 5 -:
ột thiếu phụ mặc đồ tang đi qua cổng và dừng lại trong sân như lạc lối. Chắc là một khách hàng. Tôi bước ra :
- Bà muốn xem hàng mẫu?
Bà ta gật đầu rồi bỗng nói mau :
- Không, không, không gấp lắm... chút nữa...
- Bà cứ tự nhiên xem. Nếu bà muốn, xin bà cứ xem một mình.
- Không, không. Nghĩa là... Tôi muốn...
Tôi bình thản đợi bà ta nói tiếp. Nghề chúng tôi là không được hối khách hàng. Một lúc lâu, bà ta nói thêm :
- Cho chồng tôi...
Tôi gật đầu và đi về phía các mộ bia nhập cảng từ Bỉ :
- Bà xem, đây là những tấm bia khá xinh.
- Vàng, xinh lắm, nhưng...
Bà ta ngừng nói, nhìn tôi như van lơn và nói tiếp :
- Chỉ có điều là không biết tôi có được quyền...
- Thưa, quyền gì? Quyền đặt bia trước mộ? Có ai dám từ chối đâu?
- Nhưng không phải ở nghĩa địa.
- Bà nói sao?
- Linh mục không cho phép chôn chồng tôi ở đó.
Bà ta hạ thấp giọng và nhìn tránh đi nơi khác. Tôi không hiểu :
- Thưa bà, có thể cho biết tại sao?
- Chồng tôi... tự vận.
Nói xong bà ta nhìn tôi với vẻ đầy sợ sệt như vừa tiết lộ một bí mật tày trời.
- Bà muốn nói là người ta từ chối làm lễ đạo?
- Vâng. Người ta không cho chôn trong đất thánh.
- Vô lý! Có ai tự vận mà không có lý do. Bà có hỏi ý kiến linh mục chưa?
- Hỏi rồi. Chính linh mục cho biết là không được.
- Ông ta định cho chôn ở đâu?
- Ngoài nghĩa địa. Bên kia tường. Hoặc trong nghĩa trang thị xã. Nhưng ở đó hỗn tạp lắm. Tôi trấn an :
- Nghĩa trang thành phố còn đẹp hơn nhiều. Ở đó cũng có mả của người trong đạo - Sợ không thích hợp. Chồng tôi rất mộ đạo. Cần phải...
Nước mắt người thiếu phụ bỗng ràn rụa :
- Ảnh không nghĩ tới chuyện khó dễ này.
- Chắc ông nhà không nghĩ tới chi tiết này đâu. Nhưng bà đừng bận tâm nhiều. Tôi biết có tới hàng vạn tín đồ không được an nghỉ trong đất thánh.
Bà ta sáng mắt lên :
- Ở đâu?
- Ở chiến trường. Trên đất Nga, đất Pháp. Họ cùng an nghỉ trong những hố tập thể. Công giáo, Do Thái, Tin Lành và tôi nghĩ là Chúa cũng không thấy có trở ngại gì.
- Nhưng đây là chuyện khác. Họ chết vì chiến tranh, còn chồng tôi thì...
Người quả phụ lại khóc. Với chúng tôi, nỗi buồn là một phần trong nghề nghiệp. Nhưng thiếu phụ này không khóc như bao nhiêu người khác. Trông bà ta như một cọng rơm mà gió sắp mang đi. Tôi cố gắng nói để quên buồn cho cả hai :
- Biết đâu tới phút chót, ông nhà hối hận. Như thế là không có tội.
Người đàn bà nín khóc :
- Có đúng vậy không?
- Dĩ nhiên! Nhưng có lẽ linh mục không biết. Chỉ có mình ông ấy biết mà không nói được. - Linh mục nói, mọi cái chết tội lỗi...
-Thưa bà. Chúa còn từ ái gấp bội lần linh mục, bà có thể tin tôi.
Tới lúc này, tôi mới khám phá ra, bà ta không lo nhiều về nơi chôn cất mà chỉ sợ chồng sẽ xuống địa ngục và bị đốt cháy trong ngọn lửa đời đời. Cũng có thể bà ta đã nghĩ nếu được chôn trong đất thánh thì không chừng vài ba ngàn năm chồng bà sẽ được xá tội.
- Ảnh chết là tại khoản tiền hồi môn của đứa con gái đời chồng trước của tôi. Ảnh bỏ vào quỹ tiết kiệm với định kỳ năm năm, không thể lấy ra trước. Ảnh là giám hộ của nó. Cách nay mười lăm ngày, vừa hết hạn chúng tôi rút ra liền tiền và so với thời giá chẳng ra gì nữa. Chồng sắp cưới của nó hủy bỏ hôn ước. Con gái tôi chỉ còn có khóc. Chồng tôi cho là lỗi của mình. Vậy là ảnh chết.
- Thưa bà, ông nhà không có trách nhiệm gì về vụ đó. Vả lại chuyện cũng không phải chỉ mới xảy ra cho gia đình bà.
- Tôi biết, nhưng còn mấy người láng giềng...
- Đừng nên để ý tới họ. Toàn là thêu dệt và ác độc. Tất cả chỉ cần biết có Thượng đế. Tôi biết là mình không đủ giọng quả quyết, nhưng biết làm sao hơn?
Người quả phụ lau nước mắt :
- Xin lỗi ông, tôi đã làm phiền... Thật ra, tôi chẳng biết nói với ai.
- Không sao. Người nào tới đây cũng mang theo chuyện buồn mất thân nhân.
- Nhưng có lẽ không giống trường hợp tôi.
- Có chớ. Trong thời đại đau buồn này, thiếu gì những trường hợp tương tự. Chỉ tội cho những người tuyệt vọng. Toàn là trong sạch cả. Riêng những người khác thì luôn luôn có lối thoát.
- Ông có chắc chắn là mình được quyền dựng mộ bia ở một nơi chẳng phải là đất thánh không? - Nếu chôn ở ngoài nghĩa trang thị xã thì tôi chắc chắn là được. Bây giờ bà cứ tự do chọn. Bà ta nhìn quanh một lúc rồi chỉ vào một tấm bia ở hàng thứ ba :
- Cái này bao nhiêu?
Lại vẫn như thế. Những người nghèo bao giờ cũng hết lòng với người chết nên chẳng có bao giờ chọn ngay những mộ bia rẻ tiền. Tôi đành phải cho biết giá một trăm ngàn Đức kim. Bà ta trố mắt :
- Dữ vậy sao? Chúng tôi không có...
Tôi chỉ ngay một tấm khác :
- Theo tôi thi bà nên lấy cái nho nhỏ ở kia. Xinh lắm mà chỉ có ba mươi ngàn thôi. Hay là lấy cái tấm đá sỏi...
Người đàn bà gật đầu nhưng còn do dự.
- Chúng tôi sẽ khắc tên mạ vàng. Vậy là xứng đáng ngay.
- Nhưng khắc tên có tốn tiền không?
- Không, chúng tôi đã tính luôn trong giá.
Thật ra thì không phải vậy song tôi không dám nói thẳng ra. Nếu bà ta lại đòi khắc nguyên một câu trong kinh thánh là chắc nguy lớn cho tôi. Cuối cùng, bà ta đồng ý khắc họ tên và thời gian: 1857-1923. Thế là xong!
Bà ta móc ra một lô giấy bạc xưa đã nhầu nát, được vuốt thẳng bằng tay. Thế là có tiền trả trước! Thật bất ngờ! Đếm bạc xong người đàn bà chẳng còn lại bao nhiêu :
- Ba chục ngàn! Ông cần đếm lại?
- Thôi khỏi.
Chẳng phải là tôi hào phóng nhưng tôi đoán chằc là những bó bạc đã được đếm đi đếm lại ở nhà rất nhiều lần rồi.
- Chúng tôi sẽ bao quanh một lớp xi-măng để mộ của ông cách biệt với các mồ mả khác. Thấy bà ta e ngại, tôi nói ngay :
- Chỉ làm giúp bà thôi!
Người đàn bà cười gượng gạo :
- Lẩn đầu tiên mới có một người tử tế với tôi kể từ khi chồng tôi chết, ông biết không... ngay cả con gái tôi cũng cho đó là nhục nhã.
Bà ta đi rồi tôi trở vào rót đầy một ly rượu mạnh. Tôi chợt nhớ tới Georges đang còn ở ngân hàng với Riesenfield. Tôi nghĩ miên man thế nào lại rót thêm ly nữa.
Tôi chán nản :
- Chỉ sáu tuần thôi sao?
Georges cười lớn :
- Một hối phiếu được trả trong sáu tuần không phải là chuyện dễ. Làm sao biết được từ đây tới đó, hối suất sẽ tăng bao nhiêu. Riesenfield hứa sẽ trở lại tháng tới. Chừng đó, mình sẽ thừa cơ hội yêu cầu gia hạn.
- Có chắc không?
Georges nhún vai :
- Sao không? Lisa sẽ giúp mình.
- Rất may là hắn không nhìn gần ban ngày.
- May đủ thứ...
Vừa nói tới đó, Georges bỗng ngưng lại, nhìn tôi :
- Chú nói gì, Lisa đâu có tệ lắm.
- Ban ngày, mắt ả có quầng. Vả lại, ả cũng không có tâm hồn mơ mộng.
Goerges trề môi :
- Mơ mộng! Mơ mộng là cái quái gì? Có nhiều cách để trở thành mơ mộng. Một người đàn bà bằng xương bằng thịt bao giờ cũng hơn.
Tôi nhìn Georges đăm đăm. Hay là anh ta cũng trồng cây si trước cửa Lisa? Về đời tư, Georges luôn luôn kín đáo. Tôi nói tiếp :
- Với Riesenfield thì sợ là không thích hợp. Hắn sẽ không chịu bắt bồ với một cô vợ tên đồ tể. Georges nổi sùng :
- Có gì khác đâu? Thời đại chúng mình, ở phòng khách cũng như ở lò sát sinh, mọi người đều hành động như nhau.
Phải nhìn nhận Georges sành thế giới trưởng giả hơn bọn tôi. Hắn cũng mua dài hạn tờ Berliner Tageblatt. Lúc nào cũng biết đủ tin tức. Không một cô đào nào ly dị mà y không biết, tất cả những gì xảy ra trong giới thượng lưu về các chuyện lăng nhăng y đều nhớ thuộc lòng, nhớ từng li từng tí như máy ghi âm. Y nói vanh vách lên các nữ minh tinh, các cô đào chánh. Ngoài ra, y còn thuộc tên các nữ hoàng trên thế giới dầu rằng từ nhỏ tới lớn chưa hề đặt chân tới Bá Linh và sự hiểu biết nước ngoài của y chỉ đóng khung trên đất Pháp trong thời chiến. Sau khi người cha qua đời, y buộc lòng phải gánh lấy trách nhiệm của hãng. Henri tuy lớn tuổi hơn nhưng vì đầu óc thiển cận nên không được giao phó. Những hình ảnh sang trọng và xinh đẹp trong tạp chí cũng làm cho Georges quên đi được phần nào những thực tế phũ phàng của một nghề nghiệp mà y chán ghét.
Bỗng nhiên, y đề nghị :
- Mình nên gởi tặng Lisa một bó hoa, nhân danh Riesenfield.
Tôi cảm thấy không hứng thú :
- Thì anh cứ làm lấy. À này, Riesenfield có ghi trong toa đặt hàng một cái tháp tưởng niệm bằng đá hoa cương mài nhẵn tất cả các mặt không?
- Hai cái! Cái thứ hai dành cho Lisa. Tôi hứa với hắn là sẽ đặt nó thế nào để cho Lisa có thể từ cửa sổ kia nhìn thấy.
- Mình có thể đặt ở đây, ngay trong văn phòng. Sáng dậy cô nàng sẽ nhìn sang. Nếu cần, tôi sẽ khắc mấy chữ vàng Memento mori. Bữa nay, đằng Edouard có móm gì đặc biệt không?
- Bifteck Đức.
- Hay gọi cách khác là thịt bằm. Tại sao thịt bằm lại được coi là món đặc biệt của Đức?
- Vì chúng ta một dân lộc hiếu chiến, và ngay cả trong thời bình, chúng ta còn choảng nhau bằng kiếm trong đại học. Chú mày hôi rượu quá. Có phải tại Erna không?
- Không đâu. Chính vì tôi quá hiểu là con người sinh ra để chết.
- Tùy chú. Nhưng chú có biết tôi thích được làm gì không?
- Biết chớ! Thích làm thủy thủ trên tàu câu cá voi, làm nhà buôn cái dừa ở Tahiti, làm nhà thám hiểm vùng Bắc cực và làm vua Ai Cập với một hậu cung, chứa đầy ba trăm mỹ nữ nhiều quốc tịch khác nhau và luôn luôn nóng hổi đến phải mang giáp thạch-ma khi ôm lấy.
- Đúng lắm, bé con! Nhưng nên nhớ là tương lai bao giờ cũng thuộc về những đứa ngu. Cho nên tôi thích làm thằng ngu. Ngu một cách thầm lặng và nên thơ.
- Cái dở của bọn mình là không hoàn toàn dại cũng không đủ tinh ranh. Lúc nào cũng ở giữa như con khỉ trong lùm cây. Tối đi nghe hòa tấu không? Họ chơi Mozart.
Georges lắc đầu :
- Đêm nay cần ngủ sớm. Đó cũng là Mozart.
Buổi chiều, tôi lục soát các nhựt báo để cắt những phó cáo. Công việc này đưa tôi tới gần nhân loại hơn, nhứt là sau những đêm uống say sưa với các nhân viên của hãng và những nhà thầu cung cấp. Nếu cứ tin vào những phân ưu, ai cũng tin rằng con người chí ư toàn hảo: những người cha gương mẫu, những ông chồng đức hạnh, những đứa con hiếu thảo, những bà mẹ suốt dời hy sinh, những nội ngoại tổ chí kính, những nhà doanh thương hiền như thánh, những tướng lãnh đầy lòng bác ái, những ông Tòa đầy dạ từ bi, những nhà sản xuất súng đạn vô tư; tóm lại, trên mặt đất này chỉ chẳng có ai khác hơn là các thiên thần mà đôi cánh chỉ mọc ra sau khi chết. Và tất cả những lời chia buồn đều đáng kể: vô cũng thương tiếc... đau đớn được tin. Thật là hãnh diện được làm một phần tử trong cái chủng tộc hoàn toàn cao quý ấy!
Tôi cắt cái cáo phó của chủ lò bánh mì Nierbuhr “người chồng gương mẫu và người cha tận tụy”! Chính tôi đã từng chứng kiến bà Nierbuhr, tóc tai sút sổ, chạy trối chết ra khỏi nhà, phía sau là ông chồng gương mẫu đuổi theo với chiếc dây nịt da trên tay. Và tôi đã từng thấy người cha tận tụy đó, trong một cơn giận dữ đã ném bay thằng con ra ngoài cửa sổ. Tuy nhiên, bà Nierbuhr đã quên dĩ vãng, cái chết xóa nhòa tất cả. Và lão chủ lò bánh mì biến thành một nhân vật lý tưởng. Con người quả đã có biệt tài nói dối và tự gây ảo giác!
Chúng ta đã từng thấy nhà ảo thuật từng bỏ con chuột vào trong nón và bắt ra một con thỏ trắng. Góa phụ Nierbuhr còn vượt xa hơn. Bà ta chỉ cần làm vài cử chỉ là ông chồng vô lại bỗng được phủ kín hào quang. Từ ngày chồng chết, mắt bà ta không hề ráo, mọi tội lỗi của chồng đều được coi là đáng tha thứ, nhứt là khi người ta phải hứng chịu mãi sức nóng của lò nướng bánh.
Tôi xếp cái cáo phó của lão chủ lò bánh cùng bảy cái khác mới cắt ra. Những hôm thứ Hai và thứ Ba, cáo phó và phân ưu có hơi nhiều hơn thường lệ. Có lẽ là do hậu quả đêm thứ Bảy: tiệc tùng, rượu chè, ẩu đả, dâm dật... để rồi trái tim, khối óc và mạch máu nổ tung ra. Tôi bỏ tất cả những cáo phó vào hộc tủ của Henri để ông ta lo.
Công việc một ngày của tôi kể như kết thúc. Georges đã rút vào phòng của y để đọc những số báo mới ra Berliner Tageblatt và Monde Elégant. Bức họa đài tưởng niệm bằng phấn màu, tôi dời lại hôm sau. Đậy nắp máy chữ xong, tôi tới bên cửa sổ. Từ căn nhà đối diện vọng ra tiếng khèn khẹt của một máy đĩa hát. Lisa hiện ra, y phục chỉnh tề, vẫy vẫy một bó hoa hồng to tổ bố rồi gởi sang tôi một cái hôn bằng tay trái. Tôi nghĩ ngay, chính Georges! Mà y làm như không để ý. Tôi chỉ vào phòng y. Lisa nghiêng mình ra, hét the the qua đường :
- Cám ơn đã tặng hoa! Mấy chú chim cú mồ mả coi vậy mà cũng điệu!
Ả cười nhe cả hàm răng chó sói ra rồi trở vào lấy một lá thơ đọc oang oang “một kẻ ngưỡng mộ nhan sắc xin được đặt những đóa hồng này dưới chân người đẹp”. Địa chỉ: Circé, hẻm Arquebusier số 5
- Circé là ai vậy?
- Là một người đàn bà biến đàn ông ra lợn.
Lisa chợt ưỡn ẹo với vẻ hài lòng trâng tráo. Tôi chợt hiểu, người tặng hoa không phải là Goerges. Y không bao giờ điên cỡ đó. Tôi hỏi to :
- Thơ của ai?
- Alexandre Riesenfield.
Ả cười khèn khẹt, hỏi :
- Phải thằng cha cà mèng bé nhỏ ngồi cùng bàn ở Moulin Rouge không?
- Hắn không bé nhỏ mà cũng chả cà mèng chút nào. Cứng cựa lắm. Hắn làm việc hết mình đến nỗi đít chai cứng. Coi chừng đó, không phải tay vừa đâu. Có điều hắn là tỉ phủ.
Lisa bỗng đâm ra mơ màng... Ả đưa tay ra dấu rồi biến vào trong. Tôi đóng cửa sổ lại. Và, tự nhiên, tôi chợt nhớ tới Erna. Để xua đuổi những ý nghĩ cay đắng đó, tôi vừa hút gió vừa đi xuống phòng anh chàng điêu khắc.
Kurt Bach ngồi ở cửa với chiếc tây ban cầm. Phía sau hắn là một con sư tử bằng sa thạch. - Kurt nếu có ai cho bạn một điều ước ngay lúc này, bạn sẽ ước gì?
- Một ngàn Mỹ kim.
Hắn vửa trả lời vừa búng một hòa âm.
- Tư tưởng gia, hả?
- Chớ sao. Vì vậy mới ước có một ngàn Mỹ kim.
- Dùng tiền đó để làm gì?
- Mua một lô nhà cho mướn lấy tiền phố.
- Tồi lắm! Không sống nổi với tiền cho mướn phố đâu, giá thuê rất thấp mà bạn cũng không được quyền tăng. Chỉ đủ để sửa chữa và chẳng mấy lúc là phải bán lại.
- Không đâu, tôi sẽ giữ cho tới khi hết lạm phát. Tới lúc đó chỉ còn hốt bạc thôi.
Kurt lại búng một hòa âm, đầu ngẩng lên, mơ mộng :
- Một lô nhà! Bây giờ với một trăm đô-la mình có thể mua được một ngôi nhà mới đây trị giá bốn mươi ngàn Đức kim vàng. Thử tính coi lời bao nhiêu! Ước gì mình có một người chủ Mỹ!
- Ngáy lắm! Chỉ mới có một đêm mà bạn trở thành một nhà duy vật bỉ ổi rồi.
Trên đầu chúng tôi, gã thợ mộc Wilke gõ nhịp bằng búa. Hắn đang đóng một cái hòm trẻ con với giá biểu giờ phụ trội. Kurt lại đánh tiếp một loạt hòa âm :
- Lúc đó tôi không còn phải đẽo gọt cho mấy người những con sư tử cảm lạnh và những con ó xòe cánh này nữa. Không đẽo gọt thú vật! Không bao giờ! Thú vật chỉ để ăn hoặc để làm bạc chớ không phải lấy đá đục đẽo ra. Vậy là tối nay tôi chằng còn ai để nói chuyện đứng đắn nữa, để quên mọi sự phản bội của con bé Erna. Đành vuốt theo cho đỡ buồn.
- Ý nghĩa của cuộc đời là gì? Thưa giáo sư Bach?
- Là ăn, ngủ và dâm dật.
Dừng lại ở cổng vào, Lisa ôm trên tay bó hoa hồng, nói với tôi :
- Lấy đi! Loại rau cỏ này không hợp với tôi đâu.
- Ủa! Cũng không biết thưởng thức cái đẹp thiên nhiên nữa sao?
- Thưởng thức để làm gì? Bộ coi tôi là bò cái hả?
Ả cười khả ố và nói tiếp :
- Thằng cha Riesenfield... bảo hắn biết rằng tôi không phải là người để tặng hoa. - Vậy chớ muốn gì?
- Đồ trang sức, nghe rõ chưa cưng?
- Không cần áo?
- Chừng nào thân lắm mới nói chuyện áo.
Ả nhìn tôi lom lom :
- Sao vậy? Sao bí xị như đưa đám vậy. Có cần lấy lại tinh thần không?
- Không phải chuyện Moulin Rouge. Dạo này còn chơi đờn cho mấy người điên nữa không? Tôi ngạc nhiên :
- Còn. Sao biết?
- Nhiều người nói. Hôm nào phải tới đó một lần với cưng coi ra sao.
- Đừng lo, rồi có ngày sẽ tới đó một mình.
- Thật sao? Để coi đứa nào vào trước.
Lisa đặt bó hoa trên một tấm bia :
- Lấy đi. Tôi để đồ quỷ này trong nhà không được đâu. Thằng chả ghen lắm.
- Hả?
- Ghen như dao cạo. Có quyền mà.
Tôi không tìm ra sự liên hệ giữa dao cạo và ghen tương, nhưng phải nhìn nhận là Lisa đã ví von thật bạo.
- Chồng ghen sao còn đi đêm được?
- Ban đêm hắn bận ở lò sát sinh. Tôi thu xếp...
- Còn đêm nào hắn không đi?
- Bộ quên tôi làm công ở phòng gởi đồ tại Moulin Rouge sao?
- Có làm việc thật không?
- Thôi cưng! Điều tra gì dữ vậy.
- Còn áo mới và đồ nữ trang?
- Nó là đồ giả. Thằng chồng nào cũng ngốc. Thôi lấy bó củi này đi. Gởi cho con bò cái tơ nào đó cũng được.
Lỉsa ném sang tôi một cái nhìn khó hiểu rồi băng sang đường. Đôi chân đẹp không chối cãi!
Bó hồng làm thành một đám mờ trong bóng tối. Đối với gái Riesenfield quả là tay hào phóng. Bó hoa ít lắm cũng trị giá năm mươi ngàn Mark, cẩn thận, tôi nhìn quanh trước khi lấy bó hoa lên rồi len lén trở về phòng.
Hoàng hôn mặc áo khoác xanh ngoài cửa sổ. Gian phòng mờ tối khiến tôi bỗng thấy cô đơn. Không hiểu sao, tôi chợt nghĩ mình đã có phần nóng nảy với Erna đêm trước. Con bé nổi giận chắc vì ghen. Mà kẻ nào đã ghen thì phải yêu, giản dị vô cùng! Vậy mà tôi không biết.
Thật ra, tôi cũng có chút nghi ngờ khi sát nhập Ghen vào Yêu nhưng cũng chẳng sao. Hương hoa làm tôi ngây ngất. Không chần chờ, tôi làm mấy câu thơ, bỏ vào phong bì, đi sang văn phòng lấy tờ giấy bóng dùng để gói các thiên thần bằng sứ, bọc lấy bó hoa. Tôi gọi Fritz, thằng con út của dòng họ Kroll :
- Fritz, có muốn được hai ngàn đồng không?
Thằng bé mới mười hai nhưng đã lõi đời :
- Gì đây? Tới đia chỉ cũ phải không?
- Đúng rồi.
Nó chạy biến ra cửa với bó hoa. Nhìn theo nó, bỗng dưng tôi nhận thấy mình phạm phải một sai lầm nữa. Nhưng đã trễ rồi. Mặc! Cứ đi nghe hòa nhạc Mozart cái đã.
Mãi gần khuya tôi mới trở về. Tôi vội vàng mở cửa văn phòng bật đèn lên và dừng sững lại. Bó hoa hồng nằm bên cạnh máy phóng ảnh “Presto” với bức thơ còn dán kín của tôi với mảnh giấy có mấy chữ của Frit? “Cô ta bảo mang trả về cho anh để làm gì thì làm. Fritz”.
Con quỷ cái đó đã thẳng thừng cự tuyệt. Tôi đứng bất động với tất cả cơn say bị hạ nhục và giận dữ, Tôi ném mảnh giấy của Fritz vào lò sưởi lạnh tanh. Ngồi xuống ghế một lúc lâu tôi mới tỉnh ra. Một ý nghĩ chợt tới. Tôi viết mấy dòng bỏ vào bao thơ mới và ôm hoa đi thẳng tới ca vũ trường Moulin Rouge. Tôi bảo gã gác cửa :
- Đem bó hoa này cho cô Gerda Schneider.
Gã nhìn tôi bất bình, rồi dùng ngón tay cái chỉ qua vai :
- Vào nói với mấy đứa xếp chỗ.
Gặp một gã xếp chỗ, tôi trao bó hoa và dặn mang tặng Gerda ngay trong khi cô ta trình diễn.
Về tới sân nhà, tôi nghe có tiếng róc rách. Nhìn kỹ thì ra lão thượng nghi sĩ đang tiểu ngay trên cái tháp đen. Không lên tiếng, tôi lấy một cái thau múc nước và đổ vào chân lão ta. Knopf đã say nhừ thình lình bị ước chân, càu nhàu :
- Trời mưa mà mình không hay.
Và lão ta khập khiễng đi vào nhà.
BIA MỘ ĐEN
Erich Maria Remarque
www.dtv-ebook.com
Dịch Giả:Vũ Kim Thư
- 6 -:
ảnh trăng đỏ ối bị mây phủ mờ ném những vũng sáng vàng vọt xuống vườn cây. Không khí yên lặng đến nặng nề. Người thủy tinh đi lướt qua chỗ chúng tôi. Vào giờ này, ông ta không có gì để ngại vì khỏi phải sợ mặt trời rọi vào cái đầu ông ta như rọi vào một tấm gương. Tuy nhiên, để đề phòng phải mang giày cao su đế thật dầy để... cách điện với mặt đất trong trường hợp có bão.
Isabelle cùng ngồi trên ghế đá cạnh tôi, ngay trước phòng những người bịnh bất trị. Nàng mặc áo đen và mang vớ cao.
- Rudolf, anh lại bỏ tôi lần nữa. Hôm trước anh bảo là sẽ ở lại mà. Anh đi đâu vậy? Lạy chúa! Đêm nay tôi được gọi là Rudotf.
- Tôi có bỏ cô đâu, Isabelle. Tôi chỉ đi vậy thôi... chớ đâu có bỏ.
- Anh đi đâu?
- Đi ngoài kia.
Tôi muốn bảo: ra thành phố sống với những người điên, nhưng rồi kịp thời dằn lại. - Chi vậy?
- Có biết để làm gì đâu. Người ta thường làm lắm chuyện mà không hề biết tại sao.
- Đêm đó, tôi đi tìm anh. Cũng có trăng nhưng không phải trăng đỏ như hôm nay, trăng sáng lắm, sáng trong có thể uống rượu.
Tôi dựa vào lưng ghế :
- Làm sao uống được trăng, Isabelle?
- Uống trong nước. Giản dị lắm. Giống như màu mắt mèo nhưng uống vào không thấy mùi vị gì cả... nhưng sau đó nó bắt đầu chiếu sáng trong người... trước hết là ở mắt. Nhưng đừng mở đèn. Có ánh sáng là nó mờ đi.
Tôi cầm lấy tay nàng đặt lên trán tôi. Bàn tay mềm và tươi mát :
- Uống trăng trong nước phải làm sao?
Isabelle rụt tay lại :
- Ban đêm, anh đưa một ly nước ra ngoài cửa sổ. Trăng rớt vào. Dễ thấy lắm.
- Cô muốn nói là ly nước phản chiếu?
- Không phải phản chiều mà là trăng nằm trong ly. Anh nói phản chiếu mà phản chiều là gì? - Là một hình ảnh trong gương. Hay từ một vật khác chiếu ra. Như nước chẳng hạn. Khi nước phản
chiếu mặt tôi, đâu có phải là tôi đang ở trong nước.
Isabelle cười nhã nhặn với vẻ không tin :
- Thật không?
- Thật chớ. Khi cô đứng trước gương, cô nhìn thấy cô trong đó.
Nàng lột chiếc vớ bên phải ra và ngắm nghía bắp chân thon nuột. Vẫn với giọng lịch sự, nàng dè dặt bảo :
- Cũng có thể.
- Không phải có thể mà là chắc chắn. Nhưng cái người cô thấy trong gương không phải là cô. Đó là hình ảnh trong gương.
- Không phải là của tôi? Như vậy lúc đó tôi ở đâu?
- Cô đang đứng trước gương. Nếu không thì không phản chiếu.
Isabelle mang vớ vào và nhìn tôi :
- Anh có chắc vậy không. Rudolf?
- Hoàn toàn chắc.
- Không đúng. Tấm gương sẽ làm gì khi chỉ có mình nó?
- Nó sẽ phản chiếu vật gì trước nó.
- Nhưng nếu chẳng có vật gì cả thì sao?
- Luôn luôn phải có một vật gì chớ.
- Còn ban đêm. Không có trăng? Trong bóng tối nó phản chiếu cái gì?
Tôi cụt lối :
- Có thể nó ngủ. Và sáng ra thức dậy.
Isabelle có vẻ suy nghĩ nhiều, nàng quấn vạt áo sát vào hai chân :
- Và khi nó mơ, nó mơ gì?
- Ai?
- Tấm gương.
- Nó không bao giờ thôi mơ. Theo tôi thì suốt đời nó chỉ mơ thôi. Nó mơ chúng mình. Nó mơ theo lối đảo ngược. Cái gì ở bên phải của mình thì ở bên trái của nó và ngược lại.
Isabelle xoay người về phía tôi :
- Như vậy nó là bộ mặt khác của mình, phải không? Vậy mà lúc nãy anh bảo là trong đò không có gì cả. Nó chứa trong nó bộ mặt khác của mình mà.
- Nhưng khi mình bỏ đi thì chẳng còn gì cả.
- Ai dạy mà anh biết?
- Cần gì ai dạy. Mình đi dang ra và nhìn lại: bóng mình không còn ở đó.
- Biết đâu nó lại không giấu cái bóng đó?
- Isabelle, một cái gương không thể giấu vật gì cả.
Một nếp nhăn hiện trên trán nàng :
- Như vậy nó ở đâu?
- Cái gì?
- Cái bóng! Nó có trở về trong mình không?
- Tôi không rõ.
- Nhưng chắc chắn là nó không thể mất?
- Không.
- Vậy thì nó ở đâu? Còn trong gương không?
- Không còn trong gương.
- Phải còn trong đó chớ. Sao anh lại quả quyết điều trái ngược? Chứng minh thử xem.
- Có phải một mình tôi nghĩ thế đâu. Ngày nào cũng có người nhìn vào gương cả. Và ai cũng biết như thế.
- Vậy còn cái bóng của tôi ở đâu? Nó phải còn trong gương chớ.
Tôi đáp bừa :
- Có thể nó còn trong đó. Nếu cô tới đứng trước gương nó lại hiện ra.
Thình linh, Isabelle quỳ lên chiếc ghế. Thân hình mảnh khảnh hơi nghiêng về phía luống hoa, nàng lẩm bẩm “Nó vẫn còn trong đó vậy mà anh nói khác đi!”
Nàng vịn vào tay tôi và run rẩy. Tôi không biết phải làm gì để trấn an, cũng không thể giải thích những định luật về vật lý. Vả lại, vào một tình cảnh như thế, tôi cũng không mấy tin tưởng vào khoa học.
Isabelle dựa vào người tôi :
- Nói cho tôi biết là cải bóng tôi ở đâu, Rudolf! Tôi thấy nó nhiều lần trong gương, nhiều chỗ khác nhau. Có phải là tôi bị phân tán mỗi nơi một chút không? Có phải mỗi tấm gương đều giữ lại một cái gì đó của tôi không?
Tôi giữ chặt vai nàng. Hơi thở nàng dồn dập, mặt tái xanh. Đôi mắt trong suốt phản chiều ánh trăng đỏ úa.
- Chúng nó không hề lấy gì của cô đâu.
- Chắc chắn là phải có. Vậy chớ khuôn mặt đầu tiên của tôi đâu? Khuôn mặt trước khi nhìn thấy trong gương. Chúng ta hiện ở đâu. Rudolf? Tất cả đều bỏ đi và biến mất... biến mất. Hãy giữ chặt tôi, đừng buông ra, Rudolf! Anh nhìn thấy chúng không?
Nàng nhìn về phía góc trời nhiều mây, giọng lạc đi :
- Chúng nó đang bay! Những cái bóng chết trong gương. Chúng nó đòi hỏi máu. Anh có nghe tiếng vỗ cánh của chúng không? Tiếng vỗ như của loài dơi. Anh, đừng để chúng tới gần.
Isabelle úp đầu vào vai tôi, người run bần bật. Bóng tối xâm chiêm khu vườn, không gian im lặng, và trời đêm lặng lẽ ngã mình lên những tàng cây và tiến tới như những cái bóng âm thầm dường như có ý định vây siết chúng tôi. Tôi tìm một lối thoát :
- Thôi, chúng mình lại đằng kia, ở đó có ánh sáng.
Isabelle cưỡng lại và lắc đầu. Tóc nàng phớt lên má tôi phảng phất mùi rơm rạ, và đột nhiên tôi nghĩ rằng bên trong vầng trán mịn màng đang gục xuống vai tôi là cả một thế giới xa lạ. Và chỉ trong một thoáng, cái thế giới kỳ dị ấy như muốn xâm nhập vào tôi...
- Isabelle, mình đang ở bên nhau, chẳng có gì xảy ra đâu.
Tôi tự hiểu là đã nói dối, và rằng trên thực tế chẳng ai có thể giúp được ai. Đó là điều tôi từng biết trong chiến tranh khi đứng trước những cái chết của đồng đội. Mỗi người một cái chết riêng với sự cô đơn của nó.
Isabelle nói qua hơi thở. :
- Đừng bỏ tôi một mình!
- Tôi không bỏ cô một mình đâu.
- Anh thề đi.
- Xin thề.
Nàng thở phào ra dường như mọi việc đã giải quyết xong :
- Cám ơn, Rudolf! Nhưng phải nhớ lấy, anh hay quên lắm.
- Tôi sẽ nhớ mãi.
- Hôn tôi đi.
Tôi ghì nàng vào nhưng chẳng biết phải làm gì... cuối cùng tôi hôn phớt trên môi.
Hai tay nàng báu vào gáy tôi, và bỗng nhiên nàng cắn mạnh. Tôi đẩy nàng ra. Môi dưới của tôi đổ máu. Isabelle cười, mặt nàng chợt khác đi hiện rõ nét tinh quái. Nàng nói như reo mừng chiến thắng :
- Máu! Anh định dối gạt tôi, tôi biết mà. Bây giờ thì hết được nữa rồi. Tôi đã ghi dấu ở mặt anh, không trốn thoát được đâu!
- Được rồi! Cô xem, máu chảy thế này, chút nữa bà Viện trưởng hỏi, tôi trả lời sao đây? Isabelle cười :
- Thì đừng trả lời. Tại sao lúc nào cũng có một cái gì để nói?
Vết thương nho nhỏ và một chút máu mặn ấm trong miệng chỉ vài phút là thôi gây đau đớn. Geneviève đứng trước tôi: nàng không còn là Isabelle nữa mà là Geneviève. Tiếng chuông báo giờ hành lễ. Một nữ điều dưỡng đi về phía chúng tôi, áo trắng mập mờ.
Vết thương đã khô lại trong giờ lễ, tôi lãnh một ngàn Marks tiền thù lao, và bây giờ đang ngồi cùng bàn với linh mục tư tế Bodendick. Mười lăm phút mới đây, ông ta hãy còn là khuôn mặt của tế lễ, chìm trong hương khói, với chiếc áo gấm trên người và bình thánh thể trên tay... bây giờ, trong chiếc áo tu đen và ngắn với cái cổ đã sờn và ẩm ướt mồ hôi, dường như ông đã không còn là người thay mặt cho Thượng đế mà chỉ là một tay sành sõi về rượu chát. Trước chiến tranh, ông ta linh mục rửa tội của trường tôi, và theo nội quy, bọn tôi phải mỗi tháng một lần xưng tội và chịu lễ ban thánh thể.
Chúng tôi ngồi trong gian nhà tiếp cận với phòng lớn dành cho những người bệnh được tự do.
Trong khi chờ đợi dọn ăn, bà Viện trưởng cho mang tới một chai rượu chát. Cách nay mười năm, nếu có ai tiên đoán sẽ có một ngày tôi được dịp cụng ly với vị linh mục rửa tội cho tôi chắc chắn là tôi không thể nào tin đươc. Và lúc đó, tôi cũng chẳng làm sao có thể tin rằng, nếu tôi giết người, tôi sẽ được gắn huy chương thay vì được xử giảo.
Linh mục Bodendick nếm một chút rượu và tuyên bố :
- Château - Rienhard, thuộc lãnh vực của công tước Henri de Prusse. Bà Viện trưởng chìu chuộng chúng mình quá lắm. Con có sành các loại rượu chát, không?
- Thưa, không.
- Cũng nên biết qua một ít. Món ăn và thức uống là của Chúa ban cho, phải biết tận hưởng. - Sự chết chóc cũng là một món quà của Thượng đế.
Tôi nhìn ra cửa sổ. Khu vườn chìm ngập bóng đêm. Gió vụt từng cơn nhẹ, những tàng cây nghiêng ngả. Tôi nói tiếp :
- Mình có nên tận hưởng món quà đó không?
Bodendick nhìn tôi với vẻ thích thú qua vành ly :
- Đối với người có đạo, sự chết không phải là một vấn đề. Thành ra cũng chẳng có vấn đề tận hưởng. Chỉ có chấp nhận, vậy thôi. Đó là ngưỡng cửa của cuộc sống đời đời. Chẳng có gì đáng sợ. Hơn thế, đối với nhiều người, đó còn là một con đường giải thoát.
- Về những gì?
- Giải thoát khỏi bệnh tật, sự đau đớn và nỗi thống khổ.
Bodendick hớp một ngụm rượu, làm như súc miệng :
- Con biết... cuộc sống là thung lũng nước mắt.
- Nhưng tại sao Thượng đế lại tạo ra thung lũng đó?
Bodendick không cho đó là một câu hỏi bất bình. Tôi hỏi tiếp :
- Thượng đế không đưa chúng ta vào cõi bất diệt trước khi để cho chúng ta mòn mỏi ở trái đất này sao? Bodendick nhún vai :
- Hãy đọc Thánh kinh. Con người, thiên đàng và địa ngục.
Ông ta đưa ly rượu ra ánh sáng :
- Thượng đế chỉ muốn ta được trọn lành.
Tự nhiên, tôi không tự chủ nổi :
- Thưa Cha, tại sao đấng Thượng đế của sự trọn lành và công lý lại tạo ra những con người khác biệt nhau? Tại sao lại có những người này thảm khổ và những người kia bình thường, khỏe mạnh?
- Kẻ nào tự hạ mình xuống sẽ được lên cao. Thượng đế chính là công lý giữ lấy sự thăng bằng.
- Con không dám hoàn toàn tin như Cha. Con biết một người đàn bà bị ung thư chịu mổ sáu lần trong mười năm và cuối cùng bà ta mất tin tưởng khi mất hai đứa con. Bà ta không đi lễ nữa và bị giáo đường coi như phạm tội đáng chết. Và nếu theo đúng các giáo điều thì người đàn bà đó sẽ rơi xuống địa ngục do chính Thượng đế làm ra. Đó có phải là công lý?
Nhà tư tế già nhưng còn khỏe mạnh, ngắm dung lượng màu hổ phách trong ly :
- Có phải con nói về trường hợp của mẹ con?
- Không hẳn vậy.
- Đúng là trường hợp của mẹ con chớ?
Tôi nuốt nước miếng :
- Và nếu đúng thì sao?
Im lặng gần một phút. Sau cùng nhà tư tế nói :
- Chỉ cần có một giây, một giây thôi để trở về với Thượng đế. Một giây trước lúc chết. Và chỉ cần nghĩ tới thôi, không cần phải nói ra.
- Cách nay mấy hôm, con cũng nói như thế với một người đàn bà. Nhưng nếu người ta không có được một giây đó, thì sao?
- Con cũng biết là Giáo đường có những lề luật rõ ràng nhằm dạy dỗ và để đề phòng. Chúa thì không vậy. Chúa là tình thương. Làm thế nào để biết Chúa phán xét ra sao?
- Nhưng Chúa có phán xét thật không?
- Chúng ta gọi như thế theo ngôn ngữ của chúng ta. Đó là hình thức của tình thương. Tôi thở dài :
- Tình thương... Một tình thương và một tin tưởng có thể san bằng mọi bất công trên thế giới với lời hứa của một thiên đàng tưởng tượng.
Bodendick mỉm cười :
- Con có nghĩ rằng trước con đã có nhiều người đặt vấn đề đó ra không?
- Nhiều lắm, không kể hết và toàn là những nhà thông thái.
- Đúng vậy.
- Nhưng chuyện đó không bắt buộc con và họ cùng một ý.
Bodendick rót rượu đầy ly :
- Sự ngờ vực là mặt trái của lòng tin.
Tôi nhìn con người ngồi trước mặt. Ông ta ngồi đó, vững như đá núi, không một gì lay chuyển nổi. Phía sau ông ta là bóng đêm, bóng đêm đầy ưu tư, sợ sệt của Isabelle, bóng đêm dài vô tận đầy những nghi vấn không giải đáp.
Một nữ tu sĩ mang vào một cái mâm to bên trên là những tô dĩa sâu lòng chất vào nhau như thường thấy trong các bữa ăn ở bệnh viên. Sau khi trải bàn và đặt các món ăn lên, người nữ tu đi ra. Bodendick dở nắp thố :
- Để xem họ cho ăn gì... À, có canh đây... náu với tủy. Thượng hảo hạng. Lại có cả thịt hầm với su đỏ!
Ông ta múc đầy vào dĩa rồi bắt đầu ăn, với sự bình lặng tự tin. Bác sĩ Giám đốc bệnh viện bước vào. Bodendick ngước mắt :
- Bác sĩ có ăn với chúng tôi không? Mau lên, kẻo chẳng còn gì cả.
- Không có thì giờ, thưa Cha. Những người bịnh bắt đầu xôn xao vì bão.
- Ờ, bão chưa tới mà.
- Chưa, nhưng người điên cảm thấy trước. Con phải cho đem một vài người vào phòng tắm. Đêm nay thế nào cũng lắm việc.
Bodendick múc vào chén một miếng thịt hầm to :
- Vậy bác sĩ cũng nên uống một ly. Rượu mười lăm năm. Quà của Chúa! Dành tặng cả cho cậu bé không tín ngưỡng này.
Ông ta nháy mắt với tôi. Ông thầy thuốc ngồi vào bàn, đón ly rượu. Người nữ tu với đôi má phình thò đầu vào. Ông thầy thuốc nói ra :
- Tôi không ăn. Xin cho mấy miếng bánh mì quết bơ và một chai bia, để trong phòng tôi.
Guido Wernicke - tên người thầy thuốc - khoảng 35 tuổi, người khỏe mạnh, tài vểnh, mất gần như muốn kéo sát vào nhau, ông ta cũng ghét cái họ Guido như tôi ghét bị gọi là Roll. Tôi chợt nhớ tới Isabelle :
- Cố Terhoven ra sao, bác sĩ?
- Terhoven? À, không khá lắm. Anh có thấy gì khác lạ bữa nay không?
- Không, cũng như mọi ngày. Dường như có xúc động hơn một chút. Có lẽ do ảnh hưởng của bão như bác sĩ vừa nói.
- Để coi. Không thể tiên đoán được gì với một cô gái điên.
Bodendick bật cười. Tôi nhìn ông ta, không che giấu sự bất bình.
Cố ngồi nán lại nhưng không chịu nổi cuộc nói chuyên giữa ông ta và Wernicke, tôi đứng dậy bước tới cửa sổ. Hàng hàng lớp lớp mây chì đùn nhau làm thành một bức tường lên trên những tàng cây đen sẫm. Bỗng nhiên, tất cả dường như xa lạ với tôi: khu vườn vẫn là khu vườn cũ nhưng bộ mặt hiện thời của nó đã man dại hơn nhiều. Tôi chợt nhớ tới tiêng kêu của Isabelle: “Khuôn mặt đầu tiên của tôi đâu? Khuôn mặt trước khi nhìn vào gương?” Và cảnh sắc sơ cổ trước khi nó hiện tới trong cảm nhận của chúng ta là gì? Công viên, nhà phố, núi rừng, nhân loại... khuôn mặt thật ở đâu? Và khuôn mặt của tôi, của Bodendick, của Wernicke? Phải chăng tất cả chúng ta đều bị tù hãm trong một chằng chịt chữ mà phía sau đó lập lòe ánh lửa của thế giới hoang sơ... và chúng ta không bao giờ tới được. Tiến bộ, tiện nghi, lý lẽ, đã làm cho chúng ta mất đi nhiều kho tàng thật sư. Đâu là biên giới chia cách sự hỗn loạn với thế giới có tổ chức, ai có thể vượt qua đường ranh đó, và nếu đã vượt qua con người đó sẽ hiểu được gì về những vũ trụ mập mờ. Đâu là kẻ điên, đâu là người mẫn?
Một luồng sét lợt lạt tóe lên ở vườn cây và có tiếng ầm ì xa xa. Tôi quay người lại. Người của Thượng đế và người của Khoa học cùng ngồi dưới hào quang đèn điện. Với họ, không hề có hỗn loạn, không hề có vực sâu. Họ không biết gì là ngờ vực, họ dán nhãn hiệu khắp nơi rồi ngủ yên. Họ có một mục đích, vậy là đủ. Chỉ có kẻ không tên là chịu chết. Tôi nói cho có nói :
- Đã có chớp rồi.
Wernicke nhìn ra cửa sổ :
- Đúng rồi.
Ông ta đang nói về chứng nhị trùng hóa nhân cách, bệnh của Isabelle. Mặt ông ta đỏ gay vì hăng hái. Ông ta giải thích tình trạng của người bệnh đang là nhân vật này bỗng đột ngột biến thành một nhân vạt khác, và tại sao vào những thời đại xa xưa, dân chúng coi những người bệnh đó như thần thánh hoặc là hiện thân của quỷ dữ khiến những kẻ mê tin nể sợ. Tôi bỗng nghĩ, tại sao người ta không gọi chứng bệnh đó là một thiên tài? Những con người bình thường biết đâu lại chẳng có sẵn trong mình khoảng một chục nhân vật khác nhau? Và sự khác biệt phải chăng vì người khỏe mạnh khéo che giấu trong khi người bệnh cứ để mặc cho bị lôi cuốn? Và, trong trường hợp đó, ai mới thật là bệnh nhân?
Tôi bước tới bàn, uống cạn ly rượu chát. Bodendick nhìn tôi với đôi chút trìu mến. Lần đầu tiên tôi khám phá những cái hay của rượu: ấm áp và tự tin.
Một tia chớp vạch ngoằn ngoèo trên cửa kính. Ông bác sĩ đứng lên :
- Bão sắp tới. Phải xem những người bị nhốt ra sao.
Những người bị nhốt tức là không bao giờ được ra ngoài. Bị giam hãm cho tới chết trong những gian phòng mà bàn ghế tủ giường đều được siết đứng, với những cửa sổ song sắt, những cánh cửa chỉ có thể mở ra từ bên ngoài... tóm lại họ là những con thú trong chuồng không ai buồn nói tới.
Wernicke nhìn tôi :
- Bị gì ở môi vậy?
- Tự cắn phải trong khi mơ mộng.
Bodendick cười hô hố. Cửa mở và người nữ tu nho nhỏ vào với một chai rượu chát mới và ba cái ly. Wernicke đi ra, theo sau người nữ tu. Bodendick chụp lấy chai rượu tự rót vào ly. Tới bây giờ tôi mới hiểu tại sao ông ta mời Wernicke uống. Có thể bà Viện trưởng mới đưa tới thêm chai nữa.
- Không uống nữa sao?
Tôi đáp ngay :
- Dạ, uống chớ. Có lẽ hợp vị rồi. Cám ơn nhiều.
Bodendick nhấc chai lên, ngắm nghía nhãn hiệu một lúc rồi mới rót cho tôi một phần tư ly và tự rót đầy ly mình. Chờ ông ta đặt chai xuống, tôi ung dung cầm lấy rót cho mình đầy ly.
- Thưa Cha, trên một số quan điểm nào đó, chúng mình khá tương đồng.
Ông ta phì cười, mặt hồng như một đóa hoa Phục Sinh :
- Chúc mừng con!
Bão tới rồi đi. Các tia chớp lóe mau như những đường kiếm bổ xuống trong im lặng. Tôi ngồi trước cửa sổ, tất cả những thư từ của Erna đều đã bị xé nát ném vào chân voi khoét rỗng dùng làm sọt rác.
Erna, thế là hết! Tôi dựng lên một bảng liệt kê toàn những ưu phiền do con bé đó gây ra để tống cổ nó ra khỏi vùng kỷ niệm. Tuy nhiên, trong thâm tâm tôi vẫn muốn có một bộ lễ phục, một chiếc xe hơi và một người tài xế. Cùng đi với một vài nữ tài tử trong túi có khoảng vài triệu bạc, tôi sẽ xuất hiện tại Moulin Rouge để dạy cho con rắn cái đó một bài học tình đời. Tôi lại dựng lên một pho tiểu thuyết: sáng mai, nó sẽ biết tôi trúng số độc đắc qua báo chí hoặc nó sẽ đọc thấy tin tôi trở thành một người hùng, bị cháy phỏng khắp người vì đã cứu một đứa bé trong cơn hỏa hoạn! Ánh đèn lóe sáng trong phòng Lisa!
Ả mở cửa sổ và dùng tay ra hiệu. Tôi đang ngồi trong bóng tối, không ai thấy được, như thế không phải ả nhắm vào tôi. Ả nói nhi nhô gì đó, chỉ tay vào ngực rồi chỉ sang nhà chúng tôi, gật đầu... và đèn tắt.
Tôi cẩn thận thò đầu ra quan sát. Đã nửa đêm, không nhà nào còn đèn. Chỉ có cửa sổ của Georges là còn mở toang.
Tôi rụt vào, chờ đợi. Lisa xuống, lắm lét nhìn quanh, chạy băng qua đường với đôi giày cầm tay để không gây tiếng động. Có tiếng mở cửa - cánh cửa thông lên phòng Georges - thì ra anh chàng Georges không phải tay vừa.
Kế đó là những tiềng thì thầm và tiếng khua của giày cao gót trong nhà. Lisa đã mang giày vào để thêm phần hấp dẫn. Cửa phòng Georges kêu kèn kẹt, chậm và nhỏ. Ghê thật! Mặt nước phẳng bao giờ cũng đáng sợ!
Bão đi rồi lại tới. Sét nổ rền và mưa tuôn như trời đổ. Tôi nghiêng mình ra cửa sổ ngắm cảnh lụt lội. Liếc sang phòng Georges, tôi thấy hai cánh tay trần của Lisa thò ra cửa sổ hứng mưa. Tôi lại nghe cả giọng khàn khàn của ả. Chẳng thấy cái đầu sói của Georges ở đâu. Y là mẫu người không thích bão.
Cửa sân vụt mở ra. Uớt ngoi như dĩa xúp, lão thượng sĩ Knolf chạy lảo đảo ra vườn. Lão ta định dừng lại chỗ tháp tưởng niệm đen để đái nhưng mưa quá lớn, lão đành chạy vào nhà. Nước là kẻ thù của lão.
Tôi trút cái sọt rác làm bằng chân voi xuống đường. Mưa lũ và gió bão cuốn những lá thư xé vụn của Erna trôi đi. Cũng như bao giờ, tiền tài lại chiến thắng. Tôi sang cửa sổ bên kia, nhìn ra vườn. Trên tấm bia dành cho người đàn ông tự vận, mấy hàng chữ khắc thỉnh thoảng lại vàng ánh lên dưới những tia chớp.
Khép cửa lại, tôi quay vào mở đèn lên. Phía dưới, Georges và Lisa đang to nhỏ với nhau. Phòng tôi bỗng trở nên vô cùng trống vắng. Tôi lại mở cửa sổ ra và quyết định là sẽ tới nhà sách của Bauer đổi công dạy tuần lễ sau này cho ông ta bằng một quyển sách về phương pháp Yoga để xả kỷ và tự giác.
Trước khi lên giường, tôi tới đứng trước tấm gương. Nhân vật nào trong đó đang nhìn tôi?
Vết thương ở môi hơi phồng lên, tôi đưa tay sờ nơi đó. Người trong gương cũng cử động như tôi. Tôi cười chế giễu, hắn cũng cười chế giễu. Tôi lắc đầu, hắn cũng làm theo. Tôi và hắn ai mới là kẻ thực sự mang tên Louis Bodmer? Hình ảnh trong gương hay khối thịt mặc quần áo này đang tự đặt nhiều câu hỏi?
Tôi nghe ớn lạnh. Lập tức tôi nốc một ly rượu mạnh trước khi tắt đèn.
BIA MỘ ĐEN
Erich Maria Remarque
www.dtv-ebook.com
Dịch Giả:Vũ Kim Thư
- 7 -:
iesenfield giữ đúng lời hứa. Sân hãng đã được chất đầy bia đá. Những khối đá quý mài nhẵn bốn mặt được bao bọc thật kỹ. Đó là những cô đào chánh của gánh hát chúng tôi.
Bây giờ chúng tôi đã được võ trang đến tận răng. Ngay bà mẹ Kroll cũng bỏ chút thì giờ ra ngắm nghía, vuốt ve những tảng đá hoa cương và lâu lâu lại buồn thảm liếc nhìn sang cái tháp tưởng niệm đen, di vật của chồng bà.
Kurt Bach lăn một khối sa thạch to vào xưởng anh ta. Khối đá đó sẽ một thành con sư tử, không phải nằm bẹp xuống như bị đau răng, mà sẽ như muốn nhảy phóng tới với một ngọn giáo cắm vào hông. Con sư tử này sẽ được mang tới đặt tại đài tưởng niệm chiến sĩ trận vong của làng Wustringen, nơi có đặt chi hội cựu chiến binh dưới quyền điều khiển của đội trưởng kỵ binh hồi hưu Wolkenstein. Đối với Wolkenslein, một con sư tử chịu tang coi yếu quá. Hắn còn muốn đặt cả một con sử tử bốn đầu, miệng khạc lửa, nếu không có gì trở ngại.
Nhân dịp này, chúng tôi còn bán thêm cho họ một số thú vật đúc bằng kim khí của xưởng Wurtemberg. Đó là bốn con diều hâu đang vỗ cánh, hai con bằng đồng, hai bằng gang. Wolkenstein muốn làm như thế để khuyến khích giới trẻ một cuộc chiến mới như hắn từng tuyên bố khẳng định nhiều lần :
- Rồi sẽ có ngày ta chiến thắng và bọn chúng sẽ lãnh lấy tất cả tai họa.
Ngay lúc này, mấy con diều hâu trông chẳng khác gì mấy con gà mái khổng lồ sắp đẻ, nhưng khi được gắn lên trên cao vót của đài tưởng niệm bằng đá hoa cương Thụy Điển, chúng sẽ có điệu bộ ác điểu ngay. Những ông Tướng không mặc binh phục lắm khi coi còn tệ hơn những người thường và gần hơn nhứt là Wolkenstein trông hắn vô cùng thô kệch. Ở quê hương yêu dấu của chúng tôi thật không thiếu những cảnh trí và những nhân vật dị thường.
Tôi ngắm nhìn sự bài trí và không muốn ai đem đặt chúng bất cứ nơi đâu mà chỉ muốn để chúng ở lại trong khoảnh vườn này từng nhóm cho vui mắt.
Ngày thật tươi, trời xanh và cao vút, không một bóng mây. Sự tươi mát của buổi sáng vẫn còn ấp ủ trên cành lá, chim kêu tíu tít rộn ràng và... hối suất Mỹ kim là năm mươi ngàn đồng Đức.
Báo chí loan tin ba vụ tự tử. Ba người sống với lợi tức cố định... cả ba đều chết như nhau, cái chết của kẻ nghèo với vòi hơi đốt, thiếu phụ Kubalke gục chết, đầu còn gối lên lò bếp. Lão Hopf nằm chết trong bộ quản áo cũ nhưng được chải chuốt cẩn thận với bốn tờ giấy bạc một ngàn trên tay, như những vé vào cửa thiên đàng. Và góa phụ Glas nằm trên nền nhà bếp với quyển sổ Tiết kiệm kết toán ở con số năm mươi ngàn Marks bị xé vụn dưới chân. Những tờ bạc một ngàn của lão Hopf có tin đồn là sẽ được phục hồi giá cũ vì chúng đã được bảo đảm bằng vàng. Nhưng cách nay hai hôm, tin chánh thức đã phủ nhận lời đồn đãi đó và chính vì vậy mà có cáo phó của lão ta.
Từ xưởng mộc của lão Wilke vang lên những tiếng búa đều đặn như tiếng chim gõ kiến. Công việc làm ăn của hắn chạy đều. Mọi người đều cần một quan tài, ngay cả người tự tử. Đã qua rồi những nấm mồ tập thể và những người chết bị cuốn tròn trong những tấm bố nhà binh. Trong những cái hộp gỗ, nơi mà lũ côn trùng làm việc từ tốn, lâu dài, người ta cũng từ tốn rửa nát ra trong những bộ y phục tươm tất. Riêng lão chủ lò bánh mì Nieburh thì trên áo còn có gắn một số phù hiệu và huy chương. Bà Nieburh còn cẩn thận
đặt vào những ngón tay lạnh cứng của chồng một lá cờ tí hon, biểu hiện của đoàn ca nhạc “La Concorde” mà lão đã từng là một đội viên. Mỗi thứ bảy, lão ong óng hát “Im lặng giữa khu rừng” và “Phất cao ngọn cờ đen, trắng, đỏ” rồi uống bia gần nức bụng trước khi trở về đánh đập vợ tơi bời. “Một con người, một mẫu người đáng làm gương!” Đó là lời tuyên bố của một giáo sĩ khi làm lễ trước ngôi mộ lão.
Henri Kroll đã đạp xe đi lúc mười giờ. Một số lượng mới cung cấp đầy ối đá hoa cương khiến con tim thương mãi của ông ta đập mau hơn thường nhựt.
Chúng tôi cùng cảm thấy nhẹ nhõm trong người. Bà Kroll ủy lạo chúng tôi bằng bánh mì quết bơ, pa-tê gan và cà-phê. Lisa hiện ra ở cổng vào trong chiếc áo màu đỏ chói. Bà Kroll lườm ả, bà không chấp nhận được sự diêm dúa của ả.
- Đồ bẩn thỉu!
Georges bất bình ngay :
- Bẩn thỉu à? Bẩn thỉu chỗ nào?
- Bẩn thối ra chớ còn gì nữa.
Georges nhổm người tới. Không một ai thích nghe nhân tình mình bị người ta mắng. Nhưng bà Kroll vừa chiến thắng xong đã đổi sang đề tài khác khiến Georges cụt hứng. Tôi nhìn bà ta, không che giấu sự thán phục. Bà ta chẳng khác một Tướng lãnh điều kliển những đơn vi lưu động, đánh mau và mạnh vào một nơi rồi tới lúc địch quân từ từ lấy lại thế phòng ngự, bà di chuyển sang mục tiêu khác.
Ba cô con gái của lão Knof đang trò chuyện tíu tít trước nhà. Cả ba cô đều bé nhỏ gọn gàng và giỏi nghề may như bà mẹ. Suốt ngày gần như không bao giờ ngớt tiếng rào rào của những cái máy may.
Hết sức cẩn thận, tôi và Georges tháo vải bao của hai cái tháp bằng đá hoa cương ra. Tháng Năm, khu vườn đầy mộ bia và tháp tưởng niệm đúng là một nơi lý tưởng cho lũ mèo hoang và những cặp tình nhân. Lũ mèo bắt đầu động cỡn vào tháng Hai trong khi những cặp tình nhân chỉ tới đây vào lúc thời tiết bắt đầu thuận tiện cho những cuộc hôn hít ngoài trời.
Hẻm Arquebusiers ít người qua lại, khu vườn của chúng tôi lại rộng thênh thang. Cảnh trí ma quái ở đây chẳng những không làm cho những cặp trai gái đó ghê sợ mà trái lại, còn vô cùng hấp dẫn.
Tôi ra vườn thưởng ngoạn “khu triển lãm”. Hai cây thánh giá đứng vững trện bê xi-măng, nhô lên cao. Biểu tượng cho cuộc sống đời đời, những khối đá mài bóng này sẵn sàng chờ đợi khắc lên một cái tên nào đó của các nhà triệu phú hoặc kỹ nghệ gia. Ngay đến một tên ngờ nghệch nhất cũng không muốn rời khỏi hành tinh này mà không có gì lưu niệm. Tôi nhận thấy cần lưu ý Georges :
- Nên coi chừng ông anh của anh lại đem bán cả cái núi Golgotha này để rồi chỉ lấy tiền sau những ngày mùa. Giữa tiếng chim hót và hương vị cà-phê này, mình phải long trọng thề “chỉ bán hai cây thánh giá này bẳng tiền mặt”.
Georges cười dễ dãi :
- Chú mầy đừng lo. Hối phiếu còn tới ba tuần lễ nữa. Trong thời gian đó, kiếm được đồng nào là lời đồng ấy.
- Lời cái gì? Rồi hối suất lại tăng.
Georges đốt một điếu xì-gà năm mươi ngàn đồng :
- Chú coi vậy mà đôi khi quá nhút nhát. Thay vì than van, mình nên coi nạn lạm phát như là biểu tượng nghịch đảo của sự sống còn. Một ngày đi qua là giảm bớt một chút sống. Chúng ta sống trên số vốn chớ không phải trên tiền lời. Ngày nào, đô-la cũng lên giá nhưng mỗi đêm là hối suất của sự sống giảm đi. Như vậy, đã đủ ý làm thơ chưa?
Tôi nhìn nhà hiền triết Socrate của hẻm Arquebusiers, lúc nào y cũng tự hài lòng. Một giọt mồ hôi nằm trên cái trán bóng của y như một giọt sương mai. Tôi chọc tức :
- Lạ chưa! Người ta nói chuyện triết khá hay nếu ban đêm không ôm gối một mình. Georges vẫn thản nhiên :
- Triết học cần phải vui chớ không nên sầu thảm. Ghép vào đó những mầm sống siêu hình không bằng trộn lẫn cái thú vị của những giác quan và cái mà thi đoàn của chúng gọi là tình yêu lý tưởng.
Tôi vẫn giữ mặt lạnh :
- Thôi, cho xin! Bây giờ tôi muốn hiểu tại sao anh lại thích nhai ngấu nghiến những tạp chí chỉ toàn là chuyện gái ghiếc những vụ ô nhục trong giới thượng lưu, những cô đào sân khấu và màn ảnh...
Georges thổi vào mặt tôi một hơi khói trị giá ba trăm Đức kim :
- Có gì đâu! Đó là vấn đề nuôi dưỡng óc tưởng tượng. Có bao giờ chú nghe nói tới tình yêu hạ giới chưa? Chú định làm một sự tổng hợp vợi Erna nhưng chú đã sai lầm khi để hai món hàng khắc nghịch nhau trong một tiệm khiến cho món này làm hư thối món kia. Tôi thì không như vậy, không trộn lộn hai món vào một cũng không đặt gần nhau. Nên bắt chước tôi. Có vậy mới dễ sống hơn. Thôi, bỏ qua! Đi kiếm cái gì ăn trước đã. Thử nếm qua món bò nấu mì ống của Edouard xem sao.
Tôi chấp nhận ngay và lẳng lặng đi lấy nón. Georges đã chạm đúng tim đen nhưng tôi vẫn làm như chẳng có gì.
Gerda Schneider đã ngồi trong văn phòng lúc tôi về tới. Cô bé mặc áo thun xanh, váy ngắn và đeo những vòng tai to gắn hột xoàn giả. Trên ngực áo bên trái, cô ta cài một bông hồng trong bó hoa tôi tặng đêm rồi. Gerda ưỡn ngực tới :
- Cám ơn! Anh làm họ ghen chết được. Đó là bó hoa dành tặng cho đào chánh.
Tôi nhìn cô ta và nhớ tới câu chuyện tình yêu hạ giới của Georges. Tươi sáng, chắc nịch, trẻ trung và không kiểu cách. Cô ta hỏi :
- Chiều nay anh làm gì?
- Làm việc tới năm giờ. Rồi đi dạy kèm một giờ cho thằng nhóc con.
- Dạy gì? Chủ thuyết ngốc nghếch hả?
Tôi cười :
- Cô nên biết, bài học không quan trọng bằng tiền.
- Vậy là tới sáu giờ. Sau đó tới khách sạn Con Nai tìm tôi. Tôi tập ở đó.
Tôi gật đầu, Gerda đứng lên :
- Nhớ nghe!
Cô ta đưa mặt tới. Tôi ngạc nhiên. Không ngờ đóa hoa lại có thể đem lại bất ngờ. Cũng chẳng sao! Georges vậy mà có lý: tất cả đàn bà đều giống như đinh nhọn, cái mới đổi cái cũ, như bậc thầy Kant đã dạy. Tôi hôn nhẹ lên trán cô ta.
- Thôi, đừng ấm ớ!
Cô ta vừa nói vừa hôn mạnh vào môi tôi và tiếp :
- Những nghệ sĩ lưu diễn không có thì giờ kiểu cách. Mười lăm hôm nữa là đi rồi. Nhớ, tối nay!
Gerda quay ra, chân thon với những bắp thịt dài, bờ vai đầy đặn. Cô ta dừng lại nhìn cái tháp đen rồi quay lại :
- Có lời nhiều không?
Tôi hơi ngượng :
- Cũng đủ ăn...
- Anh là nhân viên?
Tỏi gật đầu :
- Cũng hơi lạ, phải không?
- Chẳng có nghề gì đáng chê cả. Còn tôi, lòn đầu giữa hai chân thì sao? Chẳng lẽ lại bảo Trời sanh ra để làm vui cho mọi người. Nhớ tới khoảng sáu giờ.
Bà mẹ Kroll từ trong vườn đi ra với bình tưới cây. Bà nhìn theo Gerda :
- Cô đó coi mà đàng hoàng! Cô ta làm gì?
- Nhào lộn.
- A, nhào lộn! Hầu hết những tài tử nhào lộn đàng hoàng. Có làm ca sĩ không?
- Không, chỉ nhào lộn thôi. Nhào lộn tròn, đi bằng hai tay uốn cong xương sống như nữ xà vương. - Biết nhau lâu rồi, hả? Cô ta có định mua món gì không?
- Chưa tới lúc.
Bà Kroll bật cười, tròng kinh chiếu ngời lên :
- Cháu Louis ơi, phải tới bảy mươi tuổi cháu mới biết đời sống là phù du.
- Bây giờ tôi cũng đã biết rồi. Này, bà nghĩ thế nào về tình yêu?
- Bộ giỡn hả?
- Không. Tôi chỉ muốn hỏi về tình yêu hạ giới và thượng giới.
Bà Kroll cười dễ dãi :
- Thôi đi, Louis. Lâu lắm rồi bà không còn nhớ gì nữa hết, lạy Chúa!
Tới tiệm sách của Arthur Bauer, tôi lựa lấy quyển “Phương cách xử thế trong mọi hoàn cảnh” để trừ tiền dạy kèm thằng con của ông ta. Cẩn thận, tôi nhờ bao cuốn sách kim chỉ nam này lại đề phòng trường hợp găp phải người quen. Để khỏi lỗ công, tôi còn lấy thêm quyển Yến tiệc của Platon và hăng hái đi tới chỗ hẹn với Gerda.
Khách sạn Con nai còn là một tửu quán thường lui tới của các nghệ sĩ và khách giang hồ cũng như của những phu xe. Ở từng nhứt có khoảng một chục phòng cho mướn và phần sau là một đại sảnh có sẵn dương cầm và đủ thứ dụng cụ thể thao để các lực sĩ nhà nghề thao luyện.
Tôi đẩy cửa. Đứng trước dương cầm, Renée de la Tourterelle đang dượt một bài ca hai giọng. Trong góc, một anh chàng đang tập ba con chó, trong số có một con loại lông xù. Hai thiếu nữ lực lưỡng nằm dài trên một tấm thảm, và Gerda từ một chiếc đu bay phóng vèo tới chỗ tôi.
Hai thiếu nữ nằm trên thảm thỉnh thoảng lại vận chuyển cho các bắp thịt nổi vồng lên. Có lẽ đó là hai nhà đấu vật của chương trình giải trí được tổ chức ngay trong khách sạn. Renée chào tôi với một giọng oang oang của một thượng sĩ trước quân hàng. Hất hàm về phía Gerda cô ca sĩ hai giọng giải thích.
- Chị ấy đang tập lại để trở về gánh xiệc.
- Bộ trước đây đã từng làm xiệc rồi sao?
- Từ lâu. Trưởng thành từ gánh xiệc mà. Rã gánh vì chủ nhân không đủ tiền mua thịt cho sư tử. - Cô ta phụ trách về sư tử à?
Renée cười lớn :
- Đừng lo, chị ấy chỉ trình diễn môn nhào lộn thôi.
Gerda lại bay ngang trên đầu chúng tôi. Mắt cô ta dáng cứng vào tôi như muốn thôi miên. Renée đột ngột hỏi :
- Willy có giàu thật không?
- Chắc là phải giàu. Thời đại này những người làm áp phe đều không nghèo được. Chi vậy? Renée cười và đổi sang giọng thánh thót :
- Tôi thích những người giàu... cũng như mọi phụ nữ khác...
- Dĩ nhiên! Một gã lủng đoạn tài chánh bao giở cũng vẫn được ưa chuộng hơn một tên cạo giấy lương thiện.
Renée cười ngặt nghẽo :
- Giàu và lương thiện không bao giờ đi đôi, cưng ơi! Nhứt là trong thời đại nhiễu nhương này. Có lẽ trước đây cũng vậy.
- Còn trúng số độc đắc thì sao?
- Cũng không khá hơn. Tiền bạc làm hư hỏng tánh tình, anh không biết à?
- Như vậy tại sao cô quá chú trọng chuyện giàu?
- Tại tôi thích tiện nghi và an toàn.
Gerda ngừng đu, đứng trên xà ngang cách đầu tôi khoảng năm mươi phân và cười lớn : - Renée nói láo dữ lắm.
Renée vẫn giữ giọng thánh thót :
- Tất cả đàn bà đều nói láo. Và nếu không nói láo thì họ không còn là đàn bà nữa. Anh chàng tập chó gục đầu xuống :
- Amen!
Gerda vuốt tóc ra sau :
- Xong rồi. Anh chờ một chút, tôi vào thay đồ ngay.
Renée nhìn theo Gerda :
- Đẹp lắm. Anh có thấy chị ấy đi thẳng người không? Đối với phụ nữ đó là điều quan trọng. Dường như những lực sĩ nhào lộn đều biết như thế từ thuở nằm nôi.
- Tôi có nghe nói một lần. Lời nhận định của một tay rất sảnh về đàn bà và đá hoa cương. Làm thế nào để giữ người thật thẳng lúc đi?
- Dễ mà, cử tưởng tượng là đang kẹp giữa mông một đồng năm Đức kim... và đừng thèm nghĩ tới nó.
Tôi cố tưởng tượng hình ảnh đó nhưng không thấy được. Lâu quá rồi tôi chưa hề gặp lại một đồng năm Đức kim. Nhưng tôi biết có một người đàn bà mạnh đến nỗi có thể dùng mông để nhổ khỏi tường một cây đinh. Bà ta là bạn của lão chủ tiệm giày Karl Brill.
Renée bỗng nghiêm trang :
- Anh nên cố làm cho Gerda vui. Mười lăm ngày, chẳng là bao.
Tôi hơi bối rối. Không hiểu trong quyển Xử thế có chỉ dạy về trường hợp đặc biệt này không? Rất may là Willy tới vừa đúng lúc. Mặc dầu ăn mặc thật bảnh bao với một cái nón Ý Đại Lợi chánh cống đội nghiêng, trông nó vẫn giống một khối xi-măng được trang hoàng bằng hoa nhân tạo. Nó kiểu cách hôn tay Renée rồi lấy trong túi ra một cái hộp nho nhỏ và trịnh trọng :
- Xin tặng con chim quý báu của Werdenbrucke.
Renée kêu lên một tiếng ngạc nhiên - dĩ nhiên là với giọng thánh thót - và mở nắp hộp ra. Một chiếc cà rá vàng nhận bích ngọc chiếu ngời. Cô ta đeo vào ngón giữa bàn tay trái, ngắm nghía một lúc rồi bất thần ôm choàng lấy Willy. Mặt thằng bạn học cũ của tôi vác hất. Renée rên rỉ :
- Willy, em sung sướng quá.
Gerda từ trong phòng thay đồ ló đầu ra :
- Chuyện gì mà ồn ào vậy?
Willy nói như hạ lệnh :
- Các bà mau lên, mình còn đi nữa chớ.
Renée vào phòng thay đồ. Tôi mắng Willy :
- Đồ ngu! Sao mày không chờ lúc có hai đứa không thôi rồi hãy tặng? Mầy làm vậy rồi tao phải ăn nói ra sao với Gerda?
Willy phì cười với vẻ một người tốt bụng :
- Bậy quá, tao quên nghĩ tới. Thôi, kể như rủi đi. Mầy vói con bé đi ăn với bọn tao. - Để nhìn ngắm viên bích ngọc mày vừa tặng hả? Thôi, cám ơn.
- Mầy nghe đây, bọn tao khác hơn mày với Gerda. Tao tính chuyện đàng hoàng. Mầy có tin hay không cũng được nhưng chắc chắn là tao đã si mê nàng ta. Hoàn toàn si mê.
Chúng tôi ngồi trên những cái ghế cũ kỹ bện bằng rơm. Willy giải thích :
- Mầy biết không, giọng nói của nàng làm tao muốn điên lên. Ban đêm thì không tưởng tượng được. Làm như mình một lúc có cả hai người đàn bà. Một thiếu nữ thơ ngây và một mụ bán cá. Lúc tắt hết đèn, nàng cất giọng ồm ồm là rởn xương sống. Đôi lúc đi với nàng tao có cảm tưởng như mình đang phạm thượng đối với một ông Tướng hay là với tên hạ sĩ quan Flumer thường hành hạ mày lúc trước, khi tui mình mới nhập ngũ. Mầy có hiểu tao muốn nói gì chớ?
- Tao cố gắng tưởng tượng...
- Nếu nàng chịu ở lại đây, tao sẽ lo.
- Nhưng nếu cô ta không chịu bỏ nghề?
- Không cần lắm. Thỉnh thoảng nàng vẫn có thể lại tái ký. Tao đi theo. Nghề của tao đâu cần ở một chỗ. - Vậy sao không cưới luôn?
- Cưới hỏi là chuyện khác. Làm sao mày dám lấy một bà vợ lúc nào cũng sẵn sàng trổi giọng nhà binh? Nếu cưới, tao sẽ cưới một con bé hiền lành biết lo bếp núc. Renéé chỉ thích hợp với vai trò tình nhân thôi.
Nó cười với lối kẻ cả. Phương cách xử thế đối với nó hoàn toàn thừa. Hai nhà nữ đấu vật bắt đầu đứng lên dượt lại một vài bộ thế. Willy nhìn vào họ với vẻ thèm muốn :
- Ngon lành quá!
- Làm gì vậy? Đứng lên! Nghiêm!
Willy giựt nảy mình. Người vừa quát với giọng nhà binh cố nhiên là Renée. Willy nheo mắt với tôi : - Bây giờ, mầy hiểu tao rồi phải không?
Dĩ nhiên là tôi hiểu. Nó và Renée đi ra. Chiếc xe hơi đỏ bóng của nó được lót nệm da cũng toàn màu đỏ. Tôi khoan khoái vì Gerda thay đồ hơi lâu. Như vậy, cô ta không thấy chiếc xe của Willy. Tôi phải làm gì đây? Ngoài quyển kim chỉ nam xử thế ra tôi chỉ có số phiếu ăn tại nhà hàng Walhalla mà lại không có giá trị đêm nay. Dầu vậy, tôi quyết định cầu may bằng cách làm cho Edouard hiểu đó chỉ là hai phiếu cuối
cùng.
Gerda đi ra. Tôi chưa kịp mở miệng thì cô ta đã hỏi :
- Anh có biết tôi muốn đi đâu không? Mình nên kiếm một chỗ có cây xanh gió mát. Đi bằng xe điện.
Tôi không tin ở tai mình. Đi ra đồng quê? Chính con quỷ cái Erna đã mắng tôi thậm tệ vì việc đó, cho rằng khả năng của tôi đối với đào chỉ tới nổi mức độ đó thôi. Hay là con bé đã nói cho Gerda hay?
Tôi giữ thế thủ :
- Theo tôi thì nên tới Walhalla. Ở đó mình có thể ăn sang như vua chúa.
Gerda lắc đầu :
- Ở mấy chỗ đó tôi không thích. Hồi chiều tôi đã làm sàn một xà-lách và khoai tây. Trong gói này đây. Mình sẽ ngồi trên cỏ ăn với thịt dồi và uống bia. Đồng ý không?
Tôi gật đầu nhưng càng lo hơn. Những lời nhục mạ của Erna về nước ngọt, thịt dồi, bia và rượu chát rẻ tiền vẫn còn văng vẳng bên tai. Gerda thúc giục :
- Tới chín giờ là tôi phải trở về cái chuồng thứ Moulin Rouge.
Chuồng thú? Tôi nhìn dò xét. Mắt cô ta vẫn trong và ngây thơ. Thế là thoát nạn. Lạy Chúa! Cuộc sống bình dị. Tình yêu hạ giới. Sự yên ổn ở tâm hồn. Còn gì hơn?
- Được rồi. Nếu cô muốn thì mình đi dạo một vòng trong rừng vậy.
BIA MỘ ĐEN
Erich Maria Remarque
www.dtv-ebook.com
Dịch Giả:Vũ Kim Thư
- 8 -:
àng Wustringen cờ xí bay phất phới. Cả bọn chúng tôi đều có mặt - Georges. Henri, Kurt và tôi - để dự lễ khánh thành đài tưởng niệm các chiến sĩ trận vong do chúng tôi giao tới.
Buổi sáng, các giáo sĩ của hai giòng đạo Thiên chúa và Tân giáo đến làm lễ thánh, mỗi bên cầu nguyện cho tín đồ riêng của họ. Dĩ nhiên là biểu chương danh dự thuộc về bên Công giáo có nhà thờ vĩ đại với gác chuông, với cửa kính, với những ca đội nhi đồng mặc y phục đỏ và trắng. Ông mục sư Tân giáo chỉ có một giảng đường nho nhỏ với các bức tường trần trụi và những cửa sổ thô sơ. Sự khác biệt còn được thể hiện
qua thân thể của hai nhà tu: ông mục sư thì gầy nhom, đeo kính lão, còn ông linh mục thì đôi má hồng hào, mái tóc bạc phơ vô cùng đẹp mắt.
Mỗi vị đều làm hết bổn phận cho những người chết thuộc giáo phái mình. Rất tiếc là trong số những người trẻ chết trận tại làng nảy còn có hai thanh niên Do Thái, con trai của lão buôn mục súc Lévy. Hai linh hồn không có người chủ tế đó, đành bơ vơ.
Cũng như viên Chủ tịch hội cựu chiến binh - trung đội trưởng hồi hưu - hai vị chủ tế đối nghịch nhau đều đồng quan điểm là nước Đức bại trận chỉ tại lỗi của người Do Thái. Xin đừng hỏi ông Chủ tịch Wolkenstein về lý do, vì nếu có ai làm thế thì tức khắc kẻ đó sẽ bị cho là phản nghịch. Chính hắn đã chống lại việc khắc tên hai anh em Lévy vào bảng tưởng niệm với lý do là họ đã tử trận ở phía sau chiến tuyến. Tuy vậy, cuối cùng hắn đứng về phe thiểu số. Chính ông Chủ tịch xã đã làm nghiêng cán cân vì con ông ta đã chết vì bệnh cúm và cũng chưa hề tới mặt trận. Muốn cho tên con mình cũng được khắc vào đài tưởng niệm, ông Chủ tịch xã đã hùng hồn biện luận rằng, một người chết phải được kể là một người chết và một quân nhân bao giờ cũng ngang bằng một quân nhân. Nhờ vậy mà tên hai anh em nhà Lévy được khắc vào mặt sau của tháp, nơi mà lũ chó thường hay đái bậy vào.
Wolkenstein thừa dịp này mặc một bộ quân phục hoàng gia mới toanh. Đúng ra thì bị cấm nhưng ai có quyền lên tiếng ở đây? Sự thay dạng đổi hình kỳ lạ tiếp diễn kể từ sau ngưng chiến. Cuộc chiến mà rất nhiều binh sĩ chán ngấy vào năm 1918 từ từ trở thành một công cuộc làm ăn lớn cho những người còn sòng sót. Những vụ giết người tập thể trong kỷ niệm bây giờ được coi như một chuyến thám hiểm mà người đi đã trở về thật an toàn. Cơn tuyệt vọng bị quên mau, nỗi thống khổ biển dạng và cái chết hụt mất mục tiêu bỗng trở thành một cái gì trừu tượng.
Hội Cựu chiến binh xã đứng thành quân hàng trước đài tưởng niệm, dưới sự điều khiển của Wolkenstein trước đây là những khuôn mặt chủ hòa. Bây giở họ tự gắn nhãn hiệu quốc gia cực đoan. Wolkenstein đã khôn khéo khích động lòng căm thù và tình chiến hữu khiến một số người tự nhiên thấy hăng lên. Kẻ nào không có tinh thần quốc gia cực đoan đó là nhục mạ sự hy sinh của những anh hùng. Những người như Wolkenstein đã thua trận, bây giờ họ gắn liền vào những người đã chết. Hãy tiến lên vì Tổ Quốc!
Từ trên bục gỗ, hắn thóa mạ những kẻ không cùng một lập trường, hắn gợi lên những vụ đâm sau lưng, hắn mô tả một quân đội Đức bất bại và kết luận với câu “Vinh dự cho những người hùng đã gục ngã, phải báo thù, hoan hô quân đội Đức tương lai!”
Henri Kroll nhắm nghiền mắt, đầu nghẻo một bên, say sưa uống từng lời từng tiếng. Kurt Bach, với tâm hồn điêu khắc chiêm ngưỡng cái thập đá được bao trùm bằng một lớp hàng thưa. Georges vẫn giữ dáng
điệu bất cần coi cuộc đời không quá một cặp xì-gà, và tôi, trong bộ đồ lớn vừa mượn được sáng nay, không mong mỏi gì hơn là được trở về khách sạn Con Nai ngồi bên cạnh Gerdi.
Wolkenstein chấm dứt lời kêu gọi hùng hổ với ba lần hoan hô như sấm động. Giàn nhạc trỗi bản “Tôi có một người bạn” và những tiếng hát hòa theo. Chúng tôi cũng hát. Lời ca chẳng có gì là ái quốc hoặc cực đoan. Đây chỉ là lời thương tiếc một người bạn chết ở chiến trường.
Hai nhà tu đều ban phước lành cho đài tưởng niệm, mỗi người nhân danh đấng Thượng đế của mình, khi còn ở mặt trận, mỗi lần các Tuyên úy làm lễ, tôi không khỏi liên tưởng tới những Tuyên úy người Anh, người Pháp, người Mỹ, người Ý, người Nhật, người Nga cũng đang cầu nguyện cho đất nưởc họ chiến thắng như những vị giáo sĩ của nước tôi đang cầu nguyện cho dân tộc Đức. Rồi tôi lại nghĩ tới Thượng Đế chắc sẽ bối rối vô cùng, nhứt là khi hai nước thù nghịch lại cùng theo một tôn giáo và cùng cầu nguyện một lượt. Làm thế nào để quyết định được. Nên ban ơn cho một nước đông dân hay một nước có nhiều thánh đường hơn? Và đâu là công lý nếu Thượng đế lại cho một dân tộc sùng đạo bị bại vong? Đôi khi tôi không khỏi bơ ngỡ khi hình dung Thượng Đế như một vị hoàng đế luôn luôn thăm viếng các nước liên bang và phải thay đổi mãi y phục cho phù hợp với mỗi giáo phái cũng như đức hoàng đế của chúng tôi mỗi khi đến viếng các binh chủng riêng rẻ như kỵ binh, pháo binh và thủy binh...
Sau khi đặt các vòng hoa, Wolkenstein cất giọng oang oang hát bản quốc ca: Deutschland, Deutschland uber alles. Dường như mục này không có trong chương linh nên giàn nhạc lặng câm, chỉ có vài người lạc lõng hát theo. Wolkenstein tím mặt, trừng mắt. Tiếng kèn trom-pết ngập ngừng trỗi lên rồi lần lượt tới các nhạc khí bắt theo làm chìm lấp tiếng hát cua Wolkenstein. Lúc bắt giọng, hắn đã hát quá cao nên đa số không theo nổi, rất may là các bà đã cứu vãn được tình thế. Tôi chợt nhớ tới Renée de la Tourterelle. Chỉ một mình cô ta thôi là xôm trò.
Buổi chiều dành cho những cuộc vui. Chúng tôi vẫn còn chờ để nhận tiền. Bài diễn văn quá dài của Wolkenstein đã làm chúng tôi hụt mất hối suất Mỹ kim thay đổi vào giữa trưa. Vậy là lỗ mất một phần đáng kể. Trời nóng bức và cái áo mượn tạm bắt đầu thấy chật ở cánh tay. Nền trời đầy mây trắng, giữa khoảng đất trống là một cái bàn ngổn ngang những ly rượu mạnh và bia. Buổi tiệc tưởng niệm người chết
vô cũng thịnh soạn. Tối đến sẽ có khiêu vũ ở tửu quán Saxonne. Heo giấy và cờ xí - đen, trắng, đỏ - phất phới khắp làng. Chỉ có một nơi một, treo cờ đen, đỏ, vàng của Cộng hòa Đức. Màu cờ đen trắng đỏ của Hoàng gia Đức đã bị cấm treo. Tuy nhiên, như Wolkenstein tuyên bố “những người chết đều hy sinh cho chế độ cũ nên bất cứ ai treo cờ Cộng Hòa vơi ba màu đen đỏ vàng đều là phản nghịch”. Như vậy anh chàng thợ mộc Beste ở căn nhà kia là quân phản nghịch. Trong chiến tranh, hắn đã bị đạn xuyên thủng phổi nhưng vẫn cứ là phản nghịch. Trong đất nước yêu quý của chúng tôi gần như ai cũng có thể bị gọi là phản nghịch một cách dễ dàng. Chỉ có bọn Wolkenstein là khỏi.
Chúng tôi tới gặp viên Chủ tịch xã. Hắn không chịu trả tiền ngay. Rất may là Henri Kroll vắng mặt vì quá nể phục Wolkenstein nên ở lại dự tiệc. Kurt Bach thì ra ruộng lúa tán tỉnh các thôn nữ. Chỉ còn tôi và Georges đối diện với lão Dobbeling và viên thơ ký Westhauss gù lưng.
Dobbeling mời xì-gà :
- Tuần tới trở lại, chúng tôi sẽ trả hết bằng tiền mặt. Bây giờ công việc bề bộn quá. Chúng tôi nhận lấy xì-gà. Georges ra điều hiểu biết :
- Nếu không gấp, chúng tôi sẵn sàng chờ. Chẳng may là hãng chúng tôi có việc phải trang trải ngay hôm nay, vì thế chúng tôi cần có tiền.
Gã thơ ký cười ăng ẳng :
- Vậy chớ ai chẳng cần tiền..
Dobbeling láy mắt với tên cạo giấy lưng gù rồi rót rượu :
- Xin mời một ly.
Georges tỉnh bơ :
- Ông nên nhớ đã giao hẹn trước là tui tôi nhận tiền ngay hôm làm lễ khánh thành. Dobbeling nhún vai :
- Coi kìa! Sao các ông lằng nhằng mãi vậy? Mấy chỗ khác họ có trả vậy đâu..
- Đó là nguyên tắc, ông Dobbeling, giao hàng là nhận tiền.
- Rất tiếc là các người đã giao hàng rồi... Nào, xin mời.
Chúng tôi không từ chối. Dobbeling lại liếc sang viên thơ ký. Tôi cũng làm tỉnh như Georges : - Rượu khá ngon.
Gã lưng gù vồn vã :
- Ly nữa chớ?
- Tại sao không.
Chúng tôi lại uống thêm ly nữa. Dobbeling tưởng bở :
- Vậy là đồng ý tuần tới, phải không?
Georges trả lời ngay :
- Chúng tôi cần hôm nay.
Dobbeling tức tối. Chúng tôi đã hút xì-gà và uống rượu của hắn mà vẫn giữ vững ý định. Hắn mím môi :
- Tuần tới đi. Uống ly nữa chớ, ly chia tay?
- Ly nữa cũng chẳng sao.
Dobbeling và viên thơ ký cười tươi. Tối nhìn ra cửa sổ nghe Georges từ tốn nói :
- Thưa ông Chủ tịch, chúng tôi rất tiếc là phải lấy tiền ngay, ông cũng biết tuần tới, bạc lại mất giá thêm Từ ngày đặt hàng đến nay chúng tôi cũng đã chịu thiệt thòi rồi.
Bỗng nhiên, gã thơ ký lưng gù ré lên :
- Nếu không lấy tiền được bữa nay thì các người làm gì? Lấy cái tháp về hả?
Tôi nổi sùng :
- Tại sao không! Bốn người tụi này là đủ khiêng con sư tử và đem mấy con chim ưng về. Hai tiếng
đồng hồ sau, thợ của hãng tới bứng cái tháp đi.
Tên lưng gù nhe răng :
- Khánh thành rồi bộ dễ lấy lắm hả? Đừng quên xã này có tới hàng ngàn dân.
Viên Chủ tịch xã thêm vào :
- Đó là chưa kể Wolkenstein và hàng ngàn dân chiến hữu của ông ta.
- Nhưng nếu các ông làm vậy thì cả làng này về sau không mua ở đâu được một tấm mộ bia... Tên cạo giấy cười hè hè. Dobbeling mời :
- Một ly nữa chớ, ly cuối cùng.
Ngay lúc đó, một bóng người chạy vụt vào sân, tới bên cửa sổ kêu lên :
- Ông Chủ tịch, lại đằng này mau, có chuyện lôi thôi rồi.
- Chuyện gì?
- Beste! Thằng cha thợ mộc đó không chịu hạ cờ.
- Sao? Lại thằng chó đãng Xã Hội đó à?
- Nhưng... hắn đã đổ máu.
- Còn ai bị thương không?
- Không, chỉ một mình Beste.
Mặt Dobbeling sáng ra :
- À, vậy thì nói làm gì?
- Hắn không đứng dậy được. Hộc máu mồm.
Dobbeling nói với chúng tôi :
- Xin lỗi, tôi tới tận chỗ để xem xét. Chuyện tiền bạc mình tính sau.
Hắn tưởng thế là xong, vội vàng mặc áo lớn vào. Nhưng chúng tôi không rời hắn.
Besie đang nằm ở hiên nhà y. Lá cờ Cộng Hòa bị xé rách nằm một bên. Một đám đông đứng nhìn vào. Dobbeling hỏi người cảnh binh đang cầm một quyển sổ tay :
- Chuyện gì vậy?
Viên cảnh binh định thuật rõ đầu đuôi thì Dobbeling chận lại :
- Anh có mặt ngay lúc đó không?
- Không. Tôi vừa tới được mấy phút.
- Vậy là anh không biết gì đâu. Lúc đó, ai có mặt tại đây?
Không có tiếng trả lời. Georges nói vào :
- Sao không cho mời bác sĩ?
Dobbeling trừng mắt :
- Cần gì. Một chút nước...
- Cần lắm chớ. Người này sắp chết.
Dobbeling hơi hoảng, vội vàng cúi xuống nhìn kỹ Beste :
- Hắn chết?
- Phải, sắp chết. Bể động mạch và có thể dập xương hoặc gãy xương. Có lẽ bị ném từ trên cao xuống. Dobbeling từ từ nhìn Georges :
- Đó chỉ là giả thuyết thôi, ông Georges. Phải chờ bác sĩ xác nhận.
Hắn quay sang bảo hai thằng bé có xe đạp :
- Đi gọi bác sĩ Bredius tới mau lên. Bảo là có tai nạn.
Chúng tôi chờ. Bredius tới. Vừa cúi xuống nghe, ông ta đã đứng lên :
- Chết rồi!
- ... chắc không?
- Chết! Có phải y là Beste không? Người có vết thương ở phổi?
Viên Chủ tịch miễn cưỡng gật đầu :
- Phải, phải. Bị thương ở ngực, tôi quên mất. Chắc hắn quá sợ... vì bịnh tim.
Bác sĩ Bredius xẵng giọng :
- Rồi giải thích ra sao về chuyện xuất huyết? Chuyện gì vậy?
- Chúng tôi đang kiểm chứng. Người nào nhìn thấy xin ở lại đây. Mấy người không có trách nhiệm, tránh ra.
Hắn nói câu sau cùng, nhìn tôi và Georges. Tôi bảo :
- Chút nữa, chúng tôi trở lại.
Hầu hết những người xem đều bỏ đi, chỉ còn lại vài ba người.
Tôi và Georges vào tửu quán Saxonne. Chưa bao giờ tôi thấy Georges giận dữ như bữa nay. Một người thợ còn trẻ ngồi gần bàn chúng tôi. Georges hỏi anh ta :
- Bạn có mặt ở chỗ đó không?
- Tôi ở đó lúc Wolkenstein bảo mấy người kia tới hạ cờ. Ông ta hô lớn “Hạ cái giẻ rách đó xuống!”.
- Hắn có đi theo mấy người kia không?
- Không?
- Dĩ nhiên. Còn mấy người kia?
- Cả một đám nhào vào Beste. Họ đã ngà ngà say.
- Rồi sao nữa?
- Chắc là Beste có chống lại. Họ không có ý giết ông ta. Nhưng một lúc sau, ông ta bị xô ngã xuống thang gác. Có lẽ bị nện mấy cú nặng vào lưng. Say quá, họ không biết đã dùng hết sức. Chắc không ai muốn giết ông ta đâu.
- Chỉ muốn nện cho một trận thôi, phải không?
- Phải. Đúng như vậy.
- Chính Wolkenstein nói như thế, phải không?
Người thợ vừa gật đầu xong bỗng giựt mình :
- Ủa! Sao ông biẻl?
- Đoán vậy thôi. Mọi việc xảy ra như bạn nói, đúng hay không?
Người thợ trẻ tuổi nín lặng một lúc lâu. Cuối cùng anh ta bảo :
- Ông biết rồi còn hỏi làm gì?
- Phải biết cho rõ chớ. Đả thương trí mạng, đó là công việc của Tòa án. Và khích động sát nhân cũng vậy.
Người thợ hoảng lên, ngồi thẳng người :
- Tôi không biết gì hết nghe. Tôi không dính líu gì đâu.
- Bạn biết khá nhiều và không phải chỉ có một mình bạn.
Người thợ uống một hơi cạn ly bia :
- Ông nên nhớ là tôi không có nói gì hết. Và cũng không biết gì. Tôi có vợ và một con, tôi cần phải sống. Ông làm ơn tìm người khác đi.
Và anh ta lặn mất. Georges buồn thiu :
- Thấy không. Cứ bắt họ, hết người này tới người kia, cũng chẳng ai dám hé răng. Chúng tôi tiếp tục ngồi đợi. Wolkenstein đi qua, tay xách một va-li da. Tôi hỏi Georges : - Hắn đi đâu vậy?
- Ra nhà ga. Hắn không còn ở Wustringen nữa. Người ta đã đưa hắn tới Werdenbrucke với chức vụ Chủ tịch hội cựu chiến binh thị xã. Hắn chỉ tới đây để dự lễ khánh thành. Chú có biết cái gì trong va-li đó không? Bộ quân phục.
Kurt Bach tới quán với một thôn nữ. Cô gái quê xanh mặt khi hay tin :
- Vậy là bãi bỏ khiêu vũ.
Tôi lắc đầu :
- Không chắc đâu.
Georges đứng lên :
- Thôi, mình trở lại gặp Dobbeling.
Cả làng bỗng lặng trang. Nắng chiều rọi vào lưng đài tưởng niệm. Con sư tử cẩm thạch của Kurt Bach sáng ngời.
Viên Chủ tịch xã nói ngay :
- Chẳng lẽ các người lại nói chuyện tiền bạc trước một vụ chết người?
Georges thản nhiên :
- Chúng tôi lúc nào cũng đối diện với người chết. Nghề nghiệp bắt buộc.
- Nhưng tôi có thì giờ đâu. Các người cũng biết chuyện này mà.
- Biết rồi và biết khá rõ. Ông có thể ghi vào biên bản là chúng tôi làm nhân chứng. Chúng tôi sẽ ở lại đây cho tới khi nhận tiền xong và ngày mai chúng tôi sẵn sàng ra trước Cảnh sát tư pháp.
- Nhân chứng gì? Lúc đó mấy người đâu có mặt ở đây.
- Nhưng chúng tôi vẫn làm chứng được. Đả thương trí mạng và khích động sát nhân. Dobbeling nhìn Georges rồi nói gằn từng tiếng :
- Tống tiền phải không?
Georges ưỡn ngực :
- Xin ông Chủ tịch vui lòng giải thích câu vừa nói.
Dobbeling không nói. Hắn nhìn Georges trừng trừng. Georges không nháy mắt. Được một lúc, Dobbeling tới tủ sắt mở ra, lấy vài cuộn giấy bạc ném lên bàn :
- Đếm lại đi rồi làm hóa đơn.
Georges bình thản đếm bạc rồi làm hóa đơn. Dobbeling tức tối :
- Các người nên nhớ là từ nay trở đi không bao giờ còn đặt đươc một tấm mộ bia nào trong nghĩa địa của thị xã này nữa.
Georges cười mỉa :
- Ông lầm rồi! Chúng tôi sắp đặt một tấm tại đây, cho người thợ mộc tên Besle. Không lấy tiền! - Thôi, cút đi!
- Chúng tôi đang đợi câu này.
Trên đường ra nhà ga, tôi nói với Georges :
- Vậy là tên khốn đó có sẵn tiền.
- Phải có chớ. Hắn đã lấy tiền từ hai tháng nay và còn muốn giữ đó để kiếm lời thêm vài trăm ngàn nữa. Một lúc sau, gặp Henri và Kurt. Henri hỏi :
- Lấy tiền chưa?
- Rồi.
- Vậy là tôi đoán đúng. Dân ở đó toàn những người đáng tin cậy.
- Phải, rất đáng tin cậy.
Kurt Bach lên tiếng :
- Cuộc khiêu vũ bị hủy bỏ.
Henri sửa cà-vạt cho ngay ngắn lại :
- Thằng cha thợ mộc đó đáng đời. Hắn khiêu khích người ta.
- Sao? Treo cờ chính thức của đất nước là khiêu khích à.
- Chớ sao. Hắn đã biết lập trường của mấy người kia. Làm như vậy tức là khiêu khích. Hợp lý... Georges nhìn ra xa :
- Hợp lý lắm, Henri. Nhưng anh nên câm miệng thì hơn.
Henri định trả lời nhưng khi thấy Georges hầm hầm, ông ta nhìn về phía Wolkenstein cũng đang chờ xe như chúng tôi.
Tôi hỏi Georges :
- Vụ này đi tới đâu?
- Chẳng tới đâu cả.
- Còn Wolkenstein?
- Hắn cũng vô sự. Người duy nhứt đáng bị trừng phạt là anh chàng thợ mộc nhưng anh ta đã chết rồi. Một vụ giết người vì chánh trị do phe cực hữu gây ra luôn luôn được giảm khinh. Chúng ta đang sống trong chế độ Cộng Hòa nhưng các thẩm phán, công chức và sĩ quan đều là của chế độ cũ.
Chúng tôi nhìn mặt trời đang lặn xuống. Xe lửa tới, đen đủi như một chiếc xe tang. Chúng tôi đã từng thấy, nhiều xác chết trong thời chiến và đã biết có hơn hai triệu người của chúng tôi rụng như sung. Như vậy, tại sao lại xúc động trước cái chết của một người trong khi hai triệu người kia bị bỏ quên? Bỗng nhiên tôi hiểu ra một cá nhân chết gọi là một người chết, còn hai triệu người chết chỉ là một con số thống kê.
BIA MỘ ĐEN
Erich Maria Remarque
www.dtv-ebook.com
Dịch Giả:Vũ Kim Thư
- 9 -:
uả phụ Nieburh gay gắt :
- Tôi nói mộ phần là mộ phần. Không làm gì khác.
- Được rồi, chúng tôi sẽ xây mộ phần, thưa bà.
Sau ngày chồng chết ít lâu, bà ta bỗng đổi tánh. Từ một người đàn bà nhút nhát, bà ta trở nên lắm chuyện và hay gay gổ. Lắm người tỏ ra khả ái khi gặp vận xui nhưng đến lúc tình trạng khả quan hơn thì họ đâm ra khả ố, đặc biệt là trên nước Đức yêu quý của chúng tôi. Tên lính hay luôn cúi nhứt rồi sẽ trở thành một hạ sĩ quan bỉ ổi nhứt.
Bà Nieburh lại gay gắt :
- Cứ làm đúng như tôi nói.
- Thưa bà, muốn làm mộ phần phải có kích thước như may áo dạ hội cho một nữ hoàng. Chúng tôi có sẵn vài kiểu nhưng đối với bà có lẽ phải vẽ một kiểu khác.
- Tự nhiên. Tôi không muốn giống với của người ta. Nếu không được tôi sẽ nhờ hãng Hollmann và Klotz.
Và bà ta lên giọng như một nữ bá tước :
- Đâu, đưa mấy hình vẽ thử coi.
Tôi tìm một vài kiểu phác họa bằng phấn màu cho bà ta xem. Bà ta bảo :
- Đúng rồi. Một con sư tử. Nhưng phải là một con sư tử phóng tới chứ không phải sư tử nằm. - Hay là bà mặt con ngựa phóng tới, có lẽ hay hơn.
Bà ta lắc đầu, nói giọng ao ước :
- Một con chim ưng...
Tôi ngắt lời :
- Một mộ phần thực sự cũng gần giông một giáo đường nhỏ. Phải có cửa kính, quan tài giả có vòng hoa bằng đồng, chung quanh trồng trắc bá, có lối đi lót sỏi, có cửa sắt và phải có chỗ đặt bảng hiệu của lò bánh mì hoạc huy hiệu của gia đình.
Bà ta lắng nghe với bộ điệu của Maurice Rosenthal lúc chơi Dạ khúc của Chopin. Nghe xong, bà ta bảo :
- Được lắm. Nhưng còn gì đặc sắc hơn không?
Tôi lại mô tả những cảnh trí vĩ đại với những pho tượng điêu khắc bậc thầy với dụng ý làm cho bà ta
thấy chán nản vì quá tốn kém và quá khó khăn nhưng cuối cùng bà ta vẫn giữ cái giọng điệu cao kỳ : - Còn gì nữa không? Nếu không thì tôi phải tới hãng Hollmann và Klotz.
Bà ta dở tấm mạn che mặt lên nhìn tôi với đôi mắt của loại chuồn chuồn, dường như đợi tôi phát cáu để xem. Tôi vẫn phớt tỉnh. Bà ta buông tấm mạng tang xuống như sân khấu hạ màn.
Tôi đưa Gerda tới nhà hàng Walhalla. Phiếu khẩu phần chỉ có giá trị cho các bữa ăn trưa, tuy nhiên, thấy tôi cùng đi với một cô gái khá xinh, Edouard không từ chối khi tôi ngõ ý dùng bữa tối. Chẳng những thế, hắn còn cứ lẩn quẩn bên bàn. Một lúc sau, hắn mở hơi :
- Giới thiệu được không?
Hắn đã chấp nhận cho ăn tối chẳng lẽ tôi lại hẹp hòi. Tôi hững hờ nói :
- Đây, ông Edouard Knoblock chủ quán kiêm thi sĩ, tỉ phú mà vẫn tham lam. Và đây là cô Gerda Schneider.
Edouard nghiêng mình; nửa hài lòng, nửa cáu kỉnh :
- Xin cô đừng tin như thế.
Gerda cười :
- Ông là tỉ phú à? Hay quá!
Edouard làm bộ thở ra :
- Có gì đâu. Chỉ là chủ quán tầm thường thôi, luôn luôn bận tâm mọi thứ. Cô đừng nghe anh chàng phá bỉnh này. Còn cô? Quả là khuôn mặt trời cho, vô tư như cánh chuồn chuồn nhởn nhơ trên ao hồ...
Tôi tưởng mình nghe lầm nên nhìn kỹ Edouard trước khi làm hắn cụt hứng :
- Thôi dẹp cái trò chấp vá vần điệu đó đi. Cô Gerda cũng là nghệ sĩ. Món goulash đâu? Gerda nhìn hắn với tất cả sự ngây thơ ra mặt :
- Ông Knoblock ứng khẩu thành thơ ngay. Làm thế nào ông có thì giờ để trở thành thi sĩ với tất cả những công việc bề bộn trong một nhà hàng to lớn như thế này? Chắc ông sống hoàn toàn hạnh phúc. Vừa giàu lại vừa có tài.
Mắt Edouard sáng rỡ ra :
- Thưa không dám. A, cô cũng là nghệ sĩ, có phải...
Tôi hiểu ngay là hắn đang lo ngại gặp phải một ca sĩ hai giọng như kiểu Renée de la Tourterelle. Hắn lắp bắp tiếp :
- ... Một nghệ sĩ chân chánh, tôi tin như thế.
- Còn chân chánh hơn cả bạn. Cô Gerda không phát là ca sĩ mà là người trị sư tử và hổ báo. Thôi, bây giờ cho ăn đi chớ.
- Sao? Cọp và sư tử à?
Hắn trố mắt, nói tiếp :
- Có thật không, thưa người đẹp? Tên này nói láo dễ như hắn thở.
Tôi chạm vào đầu gối Gerda. Cô ta không biết gì nhưng vẫn trả lời phân hai :
- Trước kia tôi làm trong gánh xiệc và bây giờ đang có ý định trở lại.
Tôi không chịu nổi nữa :
- Edouard có gì ăn thì cho dọn ngay đi. Bộ còn chờ làm kiến nghị nữa sao?
Hắn cười lấy lòng Gerdạ :
- Tối nay tôi sẽ đích thân lo lấy. Cô đừng chấp nhứt anh chàng thô lỗ Bodmer làm chi. Trong chiến tranh hắn chỉ biết sống quanh quẩn trong hầm núp.
Hắn đi vào bếp, vừa đi vừa nhún nhảy. Gerda hỏi :
- Ông ta có vợ chưa?
- Có rồi. Nhưng hà tiện đến nỗi bà vợ phải bỏ trốn.
Gerda mơ màng :
- Có lẽ bà ấy không sáng suốt. Tôi thì tôi thích những người biết tiết kiệm. Không lo thiếu hụt. - Ở thời buổi lạm phát này, để dành tiền là nguy.
Gerda ngắm bộ đồ ăn nạm bạc :
- Còn tùy vào cách giữ. Tôi tin là ông bạn của ông rất khéo về khoa giữ tiền thế nào để cho không mất giá mặc dầu ông ta là thi sĩ.
Tôi nhìn cô ta, hơi ngạc nhiên :
- Có thể lắm. Nhưng nhiều người không tán thành, trong số đó có bà vợ của hắn. Hắn bắt làm việc quần quật từ sáng đến tối. Đối với hắn, vợ là người làm không công.
Gerda cười, khó hiểu như pho tượng Joconde.
- Mỗi tủ sắt đều có số riêng ổ khóa. Bộ cưng không biết chuyện đó sao?
Tôi không tin ở tai mình. Chuyện gì đã xảy ra? Cô gái ngồi trước mặt tôi có phải là người mới hôm qua cùng tôi ăn bánh mì thịt nguội và phô-mai trắng để ca ngợi cuộc sống giản dị không? Tôi nhấn mạnh :
- Edouard vừa mập, vừa bẩn lại mắc bênh cùi di truyền.
Đó là ba thứ có thể làm chán nản bất cứ một phụ nữ nào, thế mà Gerda dường như không thuộc về đa số. Cô ta ngắm những chùm đèn thủy tinh treo trên trần nhà :
- Chắc ông ta cũng cần có một người để săn sóc mình. Không phải là một người đẻ như gà mà là một kẻ chấp nhận được những đức tính tốt của ông ta.
Lần này, tôi lo ngại thật sự. Vậy là hai tuần lễ hạnh phúc có sẵn trong đầu sắp bị cướp đoạt. Khốn nạn!
Tại sao lại đưa con bé tới chỗ này để nó trở chứng khi thấy chùm đèn thủy tinh và những bộ đồ ăn nạm bạc?
Tôi chống khuỷu tay lên bệ cửa sổ ngắm trăng, quanh tôi phảng phất hương vị tử đinh hương từ dưới vườn xông lên. Từ lúc rời Gerda ở khách sạn để về nhà đã có hơn một giờ rồi. Một cặp nhân tình men dọc bờ tường ngõ hẻm rồi biến mất vào khoảnh vườn của chúng tôi. Tôi không bao giờ chống đối những cuộc viếng thăm đó, những kẻ đang còn khát không bao giờ khó khăn với những người đang khát. Để tránh những tai nạn, tôi cho treo lên hai cái tháp quý một tấm bảng báo hiệu: “Coi chừng, nặng lắm, có thể dập ngón chân”.
Thình lình tôi thoáng thấy một bóng người to lớn đi dưới ánh trăng: gã đồ tể Watzek trở về sớm hơn thường lệ. Bộ trong lò sát sanh đã hết ngựa già để hắn giết rồi sao? Tôi quan sát các cửa sổ. Bóng của Walzek di chuyển sau những tấm màn. Tôi tự hỏi chẳng biết có cần báo động cho Georges hay không: quấy rày một cuộc tình tự là điều tôi không thích. Vả lại có thể anh chàng Watzek chẳng nghi ngờ gì cả và bình thản đi ngủ một mình vì tưởng vợ còn làm việc ở phỏng gởi đồ tại Moulin Rouge. Nhưng, khổ chưa! Tôi thấy hắn mở cửa sổ ra nhìn quanh quất xuống đường. Một lúc sau hắn khép cửa lại rồi ra phía trước với mọt cái ghế trên tay và một con dao thịt cắm ở cổ giày ống. Hắn ngồi ngay trước cửa dường như có ý đợi Lisa. Tôi nhìn đồng hồ mười một giờ rưỡi. Trời nóng nực, hắn có thể ngồi luôn tại đó hằng mấy giờ liền.
Tôi rón rén xuống lầu và gõ nhè nhẹ vào cửa buồng của Georges theo nhịp điệu hành khúc Hohenfriedberg. Cái đầu sói của Georges thò ra. Tôi báo cáo gọn với y. Georges kêu lên nho nhỏ :
- Chết rồi! Tìm cách dụ nó đi.
- Đi đâu? Biết mấy giờ rồi không?
- Làm cách gì cũng được. Đi bất cứ đâu. Sử dụng võ khí nặng hay trổ tài tâm lý chiến. Tôi băng qua hẻm, giữ dáng điệu ung dung :
- Đêm đẹp quá!
Watzek không cắn câu. Hắn đớp chát :
- Đẹp cái con khỉ!
- Tùy bạn.
Hắn bỗng hùng hổ :
- Không thể để như vậy được.
- Chuyện gì?
- Hử? Bạn biết mà. Bọn con heo!
Tôi trố mắt :
- Bọn con heo! Cái gì vậy?
- A! A! Bạn không đồng ý hả?
Tôi liếc mau vào chỗ cán dao thò ra dưới cổ giày và hình dung Georges nằm sóng soài giữa các mộ bia,
cổ bị thủng một lỗ to. Lisa thì không sao... đàn ông thường ngu như vậy. Tôi cố dùng giọng êm ả : - Cái đó còn tùy.
Watzek vẫn hầm hừ :
- Tình trạng nhứt định phải đổi khác. Máu sẽ đổ và những kẻ gây nên tội sẽ đền tội.
Tôi quan sát hắn: hai cánh tay hộ pháp, thân thể chắc nịch và to lớn như khỉ đột. Tôi có thể thúc một gối vào cằm hắn rồi nhận lúc hắn lảo đảo, tôi sẽ phóng mũi giầy vào đùi, hoặc nếu hắn tránh được, tôi sẽ móc chân cho hắn ngã rồi nện đầu hắn xuống thềm. Nhưng rồi sau đó?
Hắn làm tôi giựt mình :
- Bạn có nghe ông ấy không?
- Ai?
- Biết rồi sao còn hỏi? Ngay bây giờ đang có thiếu gì người nghe.
Tôi lắng tai. Con đường hoàn toàn yên lặng. Cửa sổ buồng Georges vừa khép lại nhẹ nhàng. - Bạn muốn tôi nghe ai?
- Ông ấy chớ ai. Đảng trưởng! Adolf Hitler!
Tôi nhẹ cả người :
- A! Adolf Hitler! Cái...
- Sao, cái gì? Bộ không thích ông ấy hả?
Tôi vội vàng đáp mau :
- Hỏi gì lạ vậy? Làm sao bạn biết là tôi đối với ông ta tới mức độ nào!
- Vậy, tại sao không nghe ông ấy nói?
- Ông ta đâu có ở đây.
- Không, nói trong ra-dô. Bọn này nghe ở đằng lò sát sanh. Máy sáu đèn. Một bài diễn văn không thể tưởng. Hay lắm. Phải thay đổi tất cả...
Thì ra đường lối mị dân nào cũng bắt đầu với câu “Phải thay đổi tất cả...”. Tôi đưa đà :
- Dĩ nhiên! Cần phải thay đổi. Người anh em có rảnh không? Mình đi làm một chầu bia cho mát. Bia nâu.
- Bia? Ở đâu?
- Ở quán Blume, ngay góc đường.
- Tôi đang đợi vợ.
- Lại đó đợi cũng được. À, đồng chí đảng trưởng Hitler nói gì? Máy của tôi hư thành ra chẳng biết gì cả.
Gã đồ tể vừa đứng lên, vừa đáp :
- Nói nhiều lắm. Adolf, ông ta sẽ tiến xa. Bọn mình cũng vậy.
Watzek đem ghế để vào trong hành lang. Vài phút sau chúng tôi cùng sánh vai trên đường ra quán của Blume.
BIA MỘ ĐEN
Erich Maria Remarque
www.dtv-ebook.com
Dịch Giả:Vũ Kim Thư
- 10 -:
gười đàn ông thủy tinh đứng trước một luống hoa hồng dưới ánh nắng chiều. Người tự xưng Đức Giáo hoàng Grégoire đệ thất đi giữa hai hàng cây dẻ. Một nữ tu sĩ đưa một ông lão tóc dài đi dạo mát. Ông già điên thỉnh thoảng lại đưa tay ra làm như sắp nhéo vào mông của người nữ tu rồi cười ngặt nghẻo. Bên cạnh tôi, hai người đàn ông cùng nói với nhau một lúc, chẳng ai nghe ai. Một toán ba phụ nữ mặc quần áo sọc lặng lẽ tưới hoa.
Ở đây, tất cả đều bình lặng và hiện thực. Chẳng mệt ai bận tâm đến việc hối suất Mỹ kim đã lên hai mươi ngàn đồng Đức trong một ngày. Không ai nghĩ là phải tự treo cổ vì chuyện đó, như một số người trong thành phố... Ở đó, sáng nay, người ta phát giác một cặp vợ chồng chết treo trong tủ áo. Ngoài hai cái xác ra, chẳng còn gì cả: tất cả đồ đạc đã được bán đi hoặc còn nằm trong tiệm cầm đồ. Người mua cái tủ chạm trán hai thể khi đến dọn những đồ đạc còn sót lại. Bấu chặt vàọ nhau, cặp vợ chồng chết treo cổ mặt tím bầm, lưỡi thè ra. Họ chẳng cân nặng bao nhiêu nên người ta thấy không cần tháo xuống, cả hai đều mặc quần áo thật sạch, tóc chải gỡ cẩn thận. Người mua vừa trông thấy đã mửa thốc mửa tháo ra và tuyên bố là không lấy cái tủ nữa. Thế nhưng tới chiều, y đổi ý, cho người đến lấy tủ về, luôn cả cái giường đã đặt thi thể cặp vợ chồng xấu số ấy lên trước khi mang vào nhà xác. Trong một lá thơ tuyệt mạng, họ cho biết muốn tự tử bằng hơi đốt nhưng công ty nay đã cúp hơi vì họ không có tiền để trả. Cuối thơ, họ xin lỗi những người mua giường tủ về những phiên phức mà họ đã gây ra.
Isabelle lững thững tới. Nàng mặc quần ngắn không quá gối. Áo blouse vàng, cổ đeo một xâu chuỗi màu hổ phách. Nàng hỏi tôi :
- Anh đi đâu?
Mấy hôm nay, chúng tôi chẳng gặp nhau. Cứ sau giờ làm lễ tôi lăn về nhà. Bỏ bữa ăn tối có rượu chát do Viện đài thọ là điều đau khố lớn nhứt của tôi, nhưng thà ăn uống đạm bạc với Gerda còn hơn là phải ngôi chung bàn với Bodendick và Wernicke.
Isabelle nhắc lại :
- Anh đi đâu?
- Đi ngoài kia... để kiếm tiền.
Nàng ngồi lên thành ghế. Đôi chân xạm như đã được tắm nắng lâu ngày. Hai người đàn ông bên cạnh bĩu môi về phía tôi. Rồi cũng bỏ đi. Isabelle ngồi xuống :
- Tại sao trẻ con chết. Rudolf?
- Biết đâu!
Tôi tránh nhìn nàng, sợ lại sa vào những võng lưới toàn dấu hỏi.
- Tại sao chúng ra đời để rồi chết?
- Cô nên hỏi linh muc Bodendick. Ông ta cho rằng Thượng đế ghi chú từng sơi tóc rụng của mỗi người, và tất cả đều có một ý nghĩa và một tinh thần.
"""