🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Báo Chí, Truyền Thông Hiện Đại: Thực Tiễn, Vấn Đề, Nhận Định Ebooks Nhóm Zalo Chịu trách nhiệm xuất bản GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PGS.TS. PHẠM MINH TUẤN Chịu trách nhiệm nội dung PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP TS. ĐỖ QUANG DŨNG Biên tập nội dung: Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Đọc sách mẫu: ThS. PHẠM THỊ KIM HUẾ TS. HOÀNG MẠNH THẮNG ThS. TRỊNH THỊ NGỌC QUỲNH ThS. NGUYỄN VIỆT HÀ ĐƯỜNG HỒNG MAI LÊ MINH ĐỨC TRỊNH THỊ NGỌC QUỲNH VIỆT HÀ Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 427-2021/CXBIPH/3-365/CTQG. Số quyết định xuất bản: 06-QĐ/NXBCTQG, ngày 18/02/2021. Nộp lưu chiểu: tháng 04 năm 2021. Mã ISBN: 978-604-57-6491-6. Biên mục trên xuất bản phẩm của Thư viện Quốc gia Việt Nam Tạ Ngọc Tấn Báo chí, truyền thông hiện đại: Thực tiễn, vấn đề, nhận định / Tạ Ngọc Tấn. - H. : Chính trị quốc gia, 2020. - 440tr. ; 24cm ISBN 9786045760345 1. Báo chí 2. Truyền thông 3. Việt Nam 079.597 - dc23 CTM0405p-CIP LỜI NHÀ XUẤT BẢN Chín mươi lăm năm ra đời và phát triển (1925-2020), nền báo chí cách mạng Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc. Từ khi báo chí cách mạng manh nha và với sự ra đời của tờ báo Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc sáng lập ở Quảng Châu, Trung Quốc (năm 1925), báo chí luôn là vũ khí sắc bén để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, động viên tinh thần yêu nước của nhân dân cần lao và cũng là cơ quan liên lạc, tổ chức, chuẩn bị lực lượng cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ đó đến nay, trải qua thời kỳ đấu tranh giành độc lập, nhiều cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và trong thời kỳ xây dựng, phát triển đất nước, báo chí không chỉ đơn thuần trở thành một trong những phương tiện quan trọng hàng đầu trong việc tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhận diện các nội dung thông tin sai trái, thù địch chống phá cách mạng Việt Nam; mà còn tạo ra sự kết nối xã hội, kết nối giữa mọi tầng lớp, mọi không gian, thời gian, xóa bỏ khoảng cách về địa lý, tạo ra sức mạnh to lớn trong xã hội. Những nội dung do báo chí đưa ra đều có tác động đến các cấp ủy đảng, chính quyền, những nhà hoạch định chính sách để tạo cơ chế, chính sách tốt hơn; đồng thời tạo được hiệu quả cao trong lĩnh vực giám sát và phản biện xã hội. Bước vào kỷ nguyên số, báo chí phát triển thêm một bước mới. Cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, với sự phát triển của công nghệ truyền thông mới, báo chí chịu sự tác động mạnh mẽ. Sự tiến bộ của khoa học - công nghệ đã cung cấp cho ngành báo chí, truyền thông 5 hiện đại các công cụ và phương thức truyền thông tiên tiến vượt trội. Các phương tiện truyền thông mới được truyền phát thông qua mạng Internet tạo ra một không gian rộng rãi hơn cho cuộc “cách mạng” của báo chí, truyền thông hiện đại. Sự chuyển đổi từ kỷ nguyên in ấn sang thời đại số khiến hoạt động cạnh tranh của báo chí, truyền thông không chỉ bó hẹp trong phạm vi thu thập và đưa tin, mà còn thông qua việc tích hợp các sản phẩm truyền thông để nâng cao chất lượng và giá trị thông tin, rút ngắn thời gian, từ đó tạo ra sản phẩm truyền thông mới, hình thành các chuỗi sản phẩm và chuỗi giá trị trong các cơ quan báo chí, truyền thông. Cùng với lợi thế mà công nghệ truyền thông mang lại, đạo đức nghề làm báo cũng cần được đề cao. Nhằm cung cấp thêm tài liệu cho các nhà nghiên cứu, nhà hoạch định chính sách, giảng viên, phóng viên, biên tập viên, cán bộ, nhân viên trong các cơ quan báo chí, truyền thông, học viên chuyên ngành báo chí, phát thanh - truyền hình và độc giả có nhu cầu tìm hiểu vấn đề này, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Báo chí, truyền thông hiện đại: Thực tiễn, vấn đề, nhận định của GS.TS. Tạ Ngọc Tấn - nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương. Cuốn sách tổng hợp các bài viết về báo chí, truyền thông từ thuở sơ khai đến hiện đại, đồng thời gắn báo chí, truyền thông với các vấn đề về kinh tế - xã hội, chính trị, đời sống xã hội; với trách nhiệm và công tác chuyên môn, nghiệp vụ của người làm báo. Cuốn sách được chia thành 5 phần với 35 bài viết: Hồ Chí Minh - Người khai sinh nền báo chí cách mạng Việt Nam; Sự phát triển báo chí, truyền thông hiện đại; Báo chí, truyền thông và chính trị; Báo chí, truyền thông và đời sống xã hội; Nhà báo và nghề nghiệp. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc. Tháng 9 năm 2020 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 6 Phần một HỒ CHÍ MINH - NGƯỜI KHAI SINH NỀN BÁO CHÍ CÁCH MẠNG VIỆT NAM 1 NHẬN DIỆN HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ CỦA HỒ CHÍ MINH* Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng vĩ đại, lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt Nam. Người đã sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân ta làm nên thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, chuẩn bị các điều kiện tiền đề về tư tưởng, tinh thần và vật chất cho những bước phát triển tiếp theo của cách mạng, của dân tộc ta. Hồ Chí Minh là nhà văn lớn của dân tộc Việt Nam, nhà văn hóa lỗi lạc của nhân loại trong thế kỷ XX theo nghĩa đầy đủ nhất của những danh hiệu cao quý đó. Người còn là nhà báo cách mạng số một, người khai sinh ra nền báo chí cách mạng Việt Nam. Nếu kể từ bài báo đầu tiên “Vấn đề dân bản xứ” đăng trên tờ L’Humanité ngày 02/8/1919, thì trong suốt 60 năm vừa hoạt động cách mạng vừa cầm bút, Hồ Chí Minh đã viết hàng nghìn bài báo các loại, 276 bài thơ bằng chữ Việt và chữ Hán, gần 500 trang truyện và ký1. Không chỉ viết, Hồ Chí Minh còn là * Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền, số 3 (tháng 5+6)/2001 và số 4 (tháng 7+8)/2001. 1. Xem: Hồ Chí Minh: Tuyển tập văn học, ba tập, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1999. 9 người sáng lập, tổ chức, điều hành hoạt động, biên tập, trình bày hàng chục tờ báo cách mạng trong những thời kỳ khác nhau. Người cũng để lại di sản tư tưởng to lớn về báo chí với những quan điểm cơ bản, toàn diện về nghề báo, nhà báo, chức năng, nhiệm vụ của báo chí, công chúng báo chí và mối quan hệ tác động qua lại giữa báo chí với đời sống chính trị - xã hội. Toàn bộ hoạt động sáng tạo báo chí của Hồ Chí Minh trải qua 4 thời kỳ chủ yếu, phù hợp với những giai đoạn phát triển của cách mạng Việt Nam. 1. THỜI KỲ THỨ NHẤT (từ năm 1919 đến trước năm 1930) Đây là thời kỳ người thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc đang bôn ba khắp các chân trời châu Âu, châu Mỹ, châu Phi, châu Á, quan sát, nghiên cứu, lần tìm trong những kinh nghiệm, những học thuyết đương thời một con đường cứu nước, cứu dân. Từ thực tiễn sinh động của thời đại, Người đã đi đến kết luận là: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”1. Từ đây bắt đầu một nỗ lực phi thường của Người nhằm truyền bá tư tưởng cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị tiến tới thành lập một đảng cách mạng kiểu mới để lãnh đạo nhân dân vùng lên phá ách nô lệ, giành độc lập, tự do, hòa bình và hạnh phúc cho dân tộc, cho đất nước. Trong thời kỳ này, Người lấy tên gọi đồng thời là bút danh chính thức là Nguyễn Ái Quốc, tức là Người yêu nước. 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.2, tr.289. 10 Trong thời kỳ thứ nhất, hoạt động sáng tạo báo chí của Nguyễn Ái Quốc tập trung vào hai chủ đề là tố cáo, lên án sự thối nát, bất công, vô nhân đạo của chủ nghĩa thực dân Pháp và chế độ thống trị của chúng đối với các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam; tuyên truyền, giới thiệu tư tưởng Mác - Lênin, động viên tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tập hợp tổ chức lực lượng chuẩn bị cho cuộc cách mạng trong tương lai. Các tác phẩm báo chí thuộc chủ đề thứ nhất chủ yếu đã được đăng tải trên các tờ báo Le Paria, L’Humanité, La Vie Ouvrière, tập san Inprekorr và một số ấn phẩm khác trong khoảng thời gian Người hoạt động ở Pháp, Liên Xô và Trung Quốc. Tác phẩm nổi tiếng Bản án chế độ thực dân Pháp được viết bằng tiếng Pháp, xuất bản lần đầu tiên tại Paris năm 1925. Tác phẩm được viết dựa trên những tư liệu và bài viết của Hồ Chí Minh đã đăng trên các tờ báo Le Paria, L’Humanité, La Vie Ouvrière. Một số bài viết hay nhiều đoạn trong các bài viết đã đăng trên báo Le Paria được đưa nguyên văn vào sách. Tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp của Nguyễn Ái Quốc thực sự là một bản cáo trạng đanh thép, vạch mặt, lên án chế độ cai trị độc ác, dã man, đẫm máu và nước mắt của thực dân Pháp tại Đông Dương. Hơn thế nữa, Bản án chế độ thực dân Pháp đã thể hiện nhận thức chín muồi của Người về điều kiện cần thiết và con đường cách mạng giải phóng dân tộc. Đó là sự “hợp tác” giữa lao động ở các nước thuộc địa với “giai cấp vô sản phương Tây” và liên minh giữa các dân tộc thuộc địa: “khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”1. 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.134. 11 Một cuốn sách nổi tiếng của Nguyễn Ái Quốc có ý nghĩa đặc biệt trong lịch sử cách mạng Việt Nam trong thời kỳ này là Đường cách mệnh. Cuốn sách này tập hợp các bài giảng của Người cho các lớp học chính trị tại Quảng Châu, Trung Quốc trong thời gian từ năm 1925 đến năm 1927. Đường cách mệnh là sự tiếp nối, phát triển hợp logic những tư tưởng, quan điểm của Bản án chế độ thực dân Pháp. Đây là những bài học về cách mạng; về vai trò lãnh đạo của Đảng, về con đường giải phóng dân tộc, con đường xây dựng đất nước đi tới độc lập, tự do, phồn vinh và hạnh phúc đã được Người diễn đạt một cách giản dị, dễ hiểu, có sức thuyết phục lòng người. Đường cách mệnh được Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản thành sách vào đầu năm 1927. Không chỉ viết báo, Hồ Chí Minh còn trực tiếp tổ chức, sáng lập các tờ báo Le Paria ở Pháp, Thanh niên, Công nông, Lính cách mệnh ở Trung Quốc, v.v.. Năm 1928, sau khi đến Thái Lan, Nguyễn Ái Quốc đổi tên tờ Đồng thanh thành Thân ái và trực tiếp chỉ đạo việc ra báo. Tờ báo này là diễn đàn của chi nhánh Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội ở Thái Lan. Năm 1929, Nguyễn Ái Quốc đến Hương Cảng để chuẩn bị cho việc thống nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam. Tại đây, Người đã trực tiếp chỉ đạo tờ báo Đỏ - cơ quan của Chi bộ An Nam Cộng sản Đảng tại Trung Quốc. Ở những tờ báo này, Người vừa làm Tổng biên tập hay trực tiếp chỉ đạo, vừa tổ chức bài vở, in ấn, phát hành các tờ báo với mục đích rõ ràng là truyền bá những tư tưởng cách mạng vào trong nước, thổi bùng lên ngọn lửa yêu nước trong nhân dân, chuẩn bị hàng ngũ đấu tranh nhằm thực hiện lý tưởng cứu nước, cứu nhà. Báo Thanh niên là tờ báo có vị trí đặc biệt trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Nó không chỉ là điểm mốc mở đầu cho 12 nền báo chí cách mạng, mà còn là sản phẩm báo chí đầu tiên được sử dụng với ý nghĩa đầy đủ của phương tiện truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, động viên tinh thần yêu nước của nhân dân cần lao và cũng là cơ quan liên lạc, tổ chức, chuẩn bị lực lượng cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Báo Thanh niên ra số 1 vào ngày 21/6/1925. Thời kỳ đầu, báo được in ở Quảng Châu, Trung Quốc rồi được chuyển về nước ta theo các đường dây liên lạc bí mật. Báo ra vào chủ nhật hằng tuần, thông thường có 4 trang khổ giấy 13x19 cm, mỗi số báo cũng chỉ nhân ra vài trăm bản. Trên mặt báo có các mục như: xã luận, bình luận, phụ nữ đàm, vấn đáp, thơ ca, phê bình, trả lời bạn đọc... Cùng tham gia viết trên báo Thanh niên còn có các cây bút như: Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Lê Duy Điếm, Trương Văn Lĩnh... Trong hơn 200 số báo Thanh niên, Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chỉ đạo 88 số đầu, tức là trong khoảng thời gian từ tháng 6/1925 đến tháng 4/1927. Khi công xã Quảng Châu bùng nổ vào tháng 4/1925, chính quyền Tưởng Giới Thạch đàn áp phong trào, lùng bắt các nhà cách mạng Trung Quốc và cả những nhà cách mạng Việt Nam đang hoạt động tại đây, Nguyễn Ái Quốc buộc phải rời Quảng Châu đi Liên Xô và những người đồng chí, học trò của Người ở Tổng bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội tiếp tục xuất bản báo Thanh niên cho đến tháng 5/1929. Về 88 số báo Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc phụ trách, Giám đốc Sở mật thám Đông Dương lúc đó là Louis Marty đã nhận xét trong một bản báo cáo gửi Bộ thuộc địa Pháp: “Những tờ Thanh niên đầu tiên nhấn mạnh về sự đoàn kết nội bộ, nhờ đó mà đoàn thể có sức mạnh và những cá nhân trong đoàn thể làm việc có kết quả hơn. Đồng thời, báo cũng cổ vũ tinh thần độc lập dân tộc và lòng yêu nước mà người 13 Việt Nam lúc bấy giờ đang háo hức chờ dịp để thi thố. Sau đó tờ báo giúp bạn đọc nhận định về tình hình thế giới, đặc biệt là những biến chuyển vừa xảy ra trong lịch sử các cường quốc... Tờ báo hướng dẫn từ từ cho mọi người hiểu rằng hiện nay trên thế giới đã có nước Nga theo chế độ Xôviết, dân ở nước Xôviết ấy sống tự do hạnh phúc. Nguyễn Ái Quốc, người chủ biên báo Thanh niên, tỏ ra kiên nhẫn, suốt trong 60 số báo đầu để cho bạn đọc chuẩn bị tinh thần và tình cảm rồi sau cùng mới bày tỏ công khai chủ trương của mình: chỉ có Đảng Cộng sản mới có thể đem lại hạnh phúc cho dân tộc - Việt Nam”1. Với việc sáng lập, tổ chức hoạt động báo Thanh niên và sau đó là việc xuất bản một số tờ báo cách mạng khác, Nguyễn Ái Quốc đã khai sinh ra nền báo chí cách mạng Việt Nam và đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển mạnh mẽ của nền báo chí Việt Nam mới trong suốt tiến trình cách mạng của đất nước sau này. 2. THỜI KỲ THỨ HAI (từ năm 1930 đến trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945) Đây là thời kỳ Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự tổ chức và chỉ đạo của Nguyễn Ái Quốc đã trực tiếp tổ chức vận động cách mạng trong nước, giương cao ngọn cờ cách mạng vô sản, lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc đấu tranh, vượt qua những gian nan, thoái trào, kiên quyết chống thực dân, phong kiến, giành tự do, độc lập cho dân tộc, đất nước. Đây cũng là thời kỳ hoạt động đầy gian nan và nguy hiểm của nhà cách mạng 1. Xem: Hồng Chương: Tìm hiểu lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.268. 14 Nguyễn Ái Quốc, trong đó có một năm từ tháng 8/1942 đến tháng 9/1943, Người bị giam cầm, đày ải trong các nhà tù của Quốc dân Đảng ở Trung Quốc. Trong thời kỳ này, vào những năm 1936-1939 khi Mặt trận bình dân lên cầm quyền ở Pháp, không khí chính trị ở Đông Dương phần nào được cởi mở, Đảng có điều kiện tranh thủ cử cán bộ ra báo công khai. Suốt thời gian còn lại của thời kỳ này, chế độ thực dân Pháp bóp nghẹt mọi quyền tự do, dân chủ của nhân dân, đàn áp, khủng bố gắt gao mọi hoạt động của Đảng Cộng sản. Các báo của Đảng đều phải xuất bản và phát hành bí mật, tránh nguy hiểm, các tác giả không đề tên dưới các bài viết đăng trên các báo và tạp chí. Vì thế, việc xác định các bài viết của Nguyễn Ái Quốc trên các báo, tạp chí bí mật của Đảng là rất khó khăn. Từ tháng 12/1938 đến tháng 7/1939 trên báo Notre voix (Tiếng nói của chúng ta) xuất hiện một số bài báo dưới đề mục chung: “Thư từ Trung Quốc”, ký tên là Lin. Đó chính là những bài báo của Nguyễn Ái Quốc viết dưới danh nghĩa một nhà báo Trung Quốc. Những bài báo này hình thành hai nhóm. Nhóm thứ nhất gồm 5 bài báo nói về những hành động dã man của quân xâm lược Nhật và tinh thần chiến đấu ngoan cường của nhân dân Trung Quốc chống lại chúng. Một trong số năm bài báo này (bài “Người Nhật Bản muốn khai hóa Trung Quốc như thế nào?”) đã được báo Dân chúng dịch và đăng toàn văn trong 3 số báo: 46, 47 và 48 ra vào các ngày 21, 24 và 28/01/1939 dưới đầu đề “Những sự hung tàn của đế quốc Nhật”. Nhóm thứ hai gồm 3 bài phản ánh tình hình hoạt động của những phần tử tờrốtxkít tại Trung Quốc. Cuối tháng 11, đầu tháng 12 năm 1940, Nguyễn Ái Quốc viết một loạt 10 bài báo đăng trên tờ Cứu vong nhật báo của 15 Trung Quốc với bút danh Bình Sơn. Đây là những tiểu phẩm ngắn gọn, với cái nhìn sắc sảo, cách viết châm biếm về các sự kiện liên quan đến cục diện của các quốc gia đế quốc, thực dân vào thời điểm mà phát xít Đức bắt đầu phát động Chiến tranh thế giới thứ hai. Những tiểu phẩm này thể hiện phong cách nhất quán với các tiểu phẩm của Người đã viết trong thời kỳ hoạt động tại Pháp trước năm 1930 cũng như các tiểu phẩm báo chí của Người công bố sau năm 1945. Đó là cách tiếp cận các vấn đề, sự kiện một cách sắc sảo, bất ngờ, sự luận lý giản dị mà thông minh, sự châm biếm dí dỏm mà sâu cay. Dấu ấn nổi bật trong hoạt động sáng tạo báo chí thời kỳ này của Hồ Chí Minh là việc thành lập, tổ chức hoạt động tờ báo Việt Nam độc lập. Sự ra đời của báo Việt Nam độc lập gắn liền với việc đầu năm 1941, Nguyễn Ái Quốc bí mật về nước, phát triển cơ sở cách mạng ở Cao Bằng và triệu tập Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào tháng 5/1941 nhằm hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, thành lập Mặt trận Việt Minh, phát động phong trào cách mạng tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền khi có thời cơ. Tại Đại hội lần thứ II của Hội Nhà báo Việt Nam, tháng 4/1959, trong câu chuyện kể về làm báo Việt Nam độc lập, Người nói: “Năm 1941, bí mật về nước. Theo lời dạy của Lênin là: Tờ báo là công cụ tuyên truyền, cổ động, tổ chức và lãnh đạo. Cho nên mình cố gắng ra một tờ báo ngay và phải làm rất bí mật vì luôn luôn có mật thám của Pháp, Nhật và Bảo Đại rình mò”1. Ngày 01/8/1941, báo Việt Nam độc lập do Nguyễn Ái Quốc sáng lập ra số đầu tiên đánh số là 101 với ý nghĩa là sự tiếp nối của những tờ báo cách mạng trước đó. Lúc đầu, báo là cơ quan 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.170. 16 tuyên truyền của Ban Việt Minh tỉnh Cao Bằng. Từ sau số 186 (tức là số 086), Việt Nam độc lập trở thành tờ báo của Liên Tỉnh bộ Việt Minh 3 tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn. Sau khi Nguyễn Ái Quốc lên đường đi Trung Quốc - tháng 8/1942, đồng chí Phạm Văn Đồng được phân công trực tiếp chỉ đạo tờ báo cho đến tháng 4/1945. Nguyễn Ái Quốc không chỉ tổ chức, chỉ đạo mà còn trực tiếp duyệt bài, viết bài, sửa bài, tham gia trình bày, minh họa và in, phát hành tờ báo. Ngoài những bài thông tin, chính luận, Người còn viết và đăng trên Việt Nam độc lập nhiều tác phẩm thơ, diễn ca, trong đó có một loạt bài theo thể lục bát, động viên cổ vũ các tầng lớp, lứa tuổi nhân dân đứng lên đoàn kết đấu tranh, cứu nước, cứu nhà. 3. THỜI KỲ THỨ BA (từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954) Đây là thời kỳ hoạt động báo chí của Hồ Chí Minh gắn liền với cuộc kháng chiến trường kỳ và thần thánh của dân tộc ta chống thực dân Pháp xâm lược từ năm 1946 đến năm 1954. Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, đất nước lại bước vào thử thách mới. Quân đội Tàu - Tưởng tràn vào phía Bắc kéo theo bọn tay sai gây rối, phá hoại với mưu đồ giành quyền lãnh đạo. Phía Nam, quân đội Pháp núp sau quân đội Anh kéo vào gây hấn hòng thiết lập lại nền thống trị đã mất. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả dân tộc dũng cảm một lần nữa đứng lên, bước vào cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ, vượt qua những khốc liệt và hy sinh để đi tới chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu. 17 Trong thời kỳ này, trước tác của Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt phong phú. Tác phẩm của Người vừa nhiều, đa dạng, nhiều loại hình, thể loại khác nhau, vừa bám sát từng ngày, từng giờ thực tế sinh động, hào hùng của cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Bắt đầu từ đầu năm 1947, năm nào Người cũng có thơ chúc Tết đồng bào, chiến sĩ cả nước. Mỗi bài thơ Tết của Người như phương châm, quyết sách của cả năm, như mệnh lệnh chiến đấu, như hồi kèn xung trận thúc giục, động viên quân và dân ta tiến lên trong sự nghiệp kháng chiến kiến quốc. Nhằm kịp thời tuyên truyền, vận động nhân dân trong đấu tranh cách mạng và lao động, sản xuất, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết một số tập sách như: Sửa đổi lối làm việc (1947), Cần kiệm liêm chính (1949), Thường thức chính trị (1953), v.v.. Những tập sách này đều được thể hiện bằng văn phong giản dị, ngắn gọn, dễ hiểu, gần gũi với nhân dân lao động. Do trách nhiệm công tác nặng nề cũng như sự phát triển của tổ chức kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh không trực tiếp lãnh đạo các tòa soạn báo mà chỉ viết bài đăng trên các báo: Sự thật, Cứu quốc, Nhân dân, Vệ quốc quân, Tập san Sinh hoạt nội bộ, v.v.. Chiếm vị trí nổi bật trong các tác phẩm báo chí thời kỳ này là hàng trăm bài báo của Người thể hiện quan điểm chỉ đạo kịp thời đối với những vấn đề thời sự, những lĩnh vực quan trọng của công cuộc kháng chiến, kiến quốc như: “Chiến lược của quân ta và của quân Pháp” (Báo Cứu quốc, 13/12/1946), “Người tuyên truyền và cách tuyên truyền” (Báo Sự thật, 26/6/1947), “Giữ bí mật” (Báo Sự thật, 30/7/1948), “Dân vận” (Báo Sự thật, 15/10/1949), “Phải tẩy sạch bệnh quan liêu” (Báo Sự thật, 02/9/1950), “Tự phê bình” (Báo Nhân dân, 20/5/1951), “Thi đua ái quốc, hiện tại và tương lai vẻ vang 18 của nước ta” (Báo Nhân dân, 05/7/1951), “Tổ quốc độc lập, tôn giáo mới tự do” (Báo Nhân dân, 06/12/1951), “Chống quan liêu, tham ô, lãng phí” (Báo Nhân dân, 31/7/1952), “Phóng tay phát động quần chúng” (Báo Nhân dân, 01/3/1953), “Công tác cầu đường” (Báo Nhân dân, 21/6/1953), “Ra sức giữ đê phòng lụt” (Báo Nhân dân, 16/7/1953), “Nhiệm vụ của chi bộ ở các cơ quan” (Báo Nhân dân, 06/4/1954), “Mấy khuyết điểm của báo chí ta” (Báo Nhân dân, 01/5/1954), v.v. và v.v.. Ngòi bút của Người bao quát rộng lớn những vấn đề có ý nghĩa quan trọng đang đặt ra, phân tích một cách sắc sảo, cụ thể, đánh giá rõ ràng, xác đáng, đưa ra các giải pháp thiết thực, khả thi cho việc giải quyết. Nhiều bài báo trong số này trở thành kinh điển, có tác dụng chỉ đạo đối với những lĩnh vực công tác của Đảng, chính quyền, đoàn thể, có ý nghĩa thời sự nóng hổi ngay cả ở thời điểm hiện nay. “Dân vận” (Báo Sự thật, 15/10/1949) là một ví dụ tiêu biểu. Đây là một bài báo ngắn khoảng xấp xỉ 700 từ, được chia thành 4 mục rất rõ ràng, chặt chẽ về logic: I- Nước ta là nước dân chủ, II- Dân vận là gì?, III- Ai phụ trách dân vận?, IV- Dân vận phải thế nào? Tất cả những vấn đề quan trọng, căn bản, từ bản chất chế độ nhà nước, khái niệm, yêu cầu của công tác dân vận đến những người chịu trách nhiệm thực hiện công tác dân vận và thực hiện như thế nào đều được Hồ Chí Minh trình bày rõ ràng, cô đọng, dễ hiểu và đặc biệt chính xác, tiết kiệm ngôn từ. Người viết: “I- NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. 19 Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”1. Rõ ràng, đây là những vấn đề bản chất và mang tính nguyên tắc của nhà nước dân chủ nhân dân. Sự khẳng định rõ ràng, chắc chắn những bản chất và nguyên tắc ấy là cơ sở để Người đi tới sự kết luận cần thiết và thực chất của công tác dân vận là một lộ trình gồm tất cả các khâu: “giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ ràng”; “bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành. Trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân”, và cuối cùng là “Khi thi hành xong phải cùng với dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng”2. Do tính chất đặc biệt quan trọng của công tác dân vận nên Hồ Chí Minh đòi hỏi tất cả mọi người cán bộ trong tổ chức Đảng, Nhà nước, đoàn thể đều phải làm công tác này theo tác phong “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”. Người đi đến kết luận “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”3. Thực tiễn trong những năm đổi mới xây dựng và phát triển đất nước vừa qua đã thêm một lần nữa chứng minh cho tính đúng đắn của những luận điểm trong bài báo “Dân vận”. Ở nơi nào, đội ngũ cán bộ gương mẫu, sống hòa nhập với nhân dân, làm tốt công tác dân vận, thì ở đó tình hình chính trị - xã hội ổn định, kinh tế - xã hội phát triển vững chắc. Ngược lại, ở đâu cán bộ 1, 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.232, 233, 234. 20 tiêu cực, xa dân, không động viên được sức dân, không tạo được niềm tin của dân, thì ở đó kinh tế - xã hội chậm phát triển, chính trị - xã hội bất ổn định. Vì thế, tác phẩm “Dân vận” của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên ý nghĩa chỉ đạo và tính chất thời sự nóng hổi của nó. Trong khoảng thời gian từ tháng 5 đến trước Ngày toàn quốc kháng chiến 19/12/1946, với bút danh Q. Th., Hồ Chí Minh cho đăng trên báo Cứu quốc 8 bài viết dưới đề mục chung “Binh pháp Tôn Tử” và hàng chục bài báo khác về nghệ thuật và phương pháp tiến hành các hoạt động quân sự. Nếu tập hợp những bài viết này lại sẽ thành một cuốn giáo trình quân sự với khá đầy đủ các nội dung cần thiết như: hình thức chiến tranh ngày nay, kế hoạch tác chiến, chiến lược, chiến thuật, phương pháp tác chiến, phương pháp dùng gián điệp, vấn đề quân nhu và lương thực, các thứ binh khí của lục quân, phương pháp đánh giữ và tiến thoái, địa hình, địa thế, phương pháp hành quân trên các địa hình v.v.. Với việc viết và cho đăng những bài báo này có thể thấy Hồ Chí Minh đã có dự đoán về một cuộc chiến tranh có thể xảy ra và Người đã chủ động thông qua tờ báo để bồi dưỡng những hiểu biết về quân sự cho cán bộ và nhân dân. Mặc dù trong điều kiện kháng chiến đầy khó khăn, gian khổ, ác liệt, nhưng Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề giáo dục đạo đức, tác phong, chống những biểu hiện tiêu cực trong đội ngũ cán bộ. Ngày 19/9/1945, tức là sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công ở Hà Nội mới tròn một tháng, Người viết bài “Chính phủ là công bộc của dân” đăng trên báo Cứu quốc. Nội dung bài báo khẳng định tính chất ưu việt của Chính phủ nhân dân và các ủy ban nhân dân, chỉ ra một cách hết sức cụ thể những việc không được làm như: “tuỳ ý tiêu 21 tiền vào những việc xa phí như ăn uống”, “lợi dụng danh nghĩa Ủy ban để gây bè tìm cánh, đưa người “trong nhà trong họ” vào làm việc với mình”1, v.v.. Bài báo không chỉ có ý nghĩa giáo dục đối với nhân dân, mà còn có tác dụng như một sự định hướng, cảnh báo đối với những cán bộ ở tất cả các vị trí trong bộ máy nhà nước nhân dân. Trong những năm kháng chiến sau đó, Người đã có hàng chục bài báo chống lại bệnh quan liêu như: “Phải tẩy sạch bệnh quan liêu” (Báo Sự thật, 02/9/1950), “Cần tẩy sạch bệnh quan liêu mệnh lệnh...” (Báo Nhân dân, 02/9/1951), “Chống quan liêu, tham ô, lãng phí” (Báo Nhân dân, 31/7/1952), “Chống bệnh quan liêu...” (Báo Nhân dân, 06/6/1953), v.v.. Một loạt tác phẩm, tiểu phẩm của Hồ Chí Minh cũng xuất hiện trong thời kỳ này mang tính châm biếm, mỉa mai, lên án những hành động tàn ác, những thất bại thảm hại của thực dân Pháp xâm lược và bè lũ tay sai bán nước cũng như các thế lực đế quốc phản động trên thế giới. Những tiểu phẩm báo chí của Hồ Chí Minh đều ngắn gọn, văn phong giản dị, lập luận sắc sảo và bám sát những sự kiện thời sự nóng hổi. Có thời gian, Người viết khá nhiều - năm 1952 có 28 tiểu phẩm đăng trên các báo: Nhân dân, Cứu quốc. Chỉ riêng tháng 7/1951, Người viết 8 tiểu phẩm. Có những bài viết của Người thực sự trở thành mẫu mực của thể loại tiểu phẩm báo chí. Ví dụ tiểu phẩm “Tuma đầu bò” được bắt đầu bằng một câu giao tiếp thật giản dị và gần gũi: “Nhiều bạn đọc bảo: D.X. nói chuyện chính trị nhiều rồi, hôm nay hãy nói một chuyện gì hay hay, tức cười cho bà con nghe”. Và sau đó đúng là một câu chuyện “hay hay, tức cười”. Chuyện kể về hai người lính, một là lính Nga, 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.22. 22 một là lính Mỹ, cùng đứng gác ở hai bên đường phân giới Đông và Tây Béclin. Họ cùng khoe và chứng minh về sự tự do, dân chủ ở đất nước mình. Người lính Mỹ khoe rằng, anh ta có thể nói với Tổng thống Tuma rằng ông ta là “đầu bò”. Người lính Nga khoe rằng, anh ta có thể về nước nói với đồng chí Xtalin rằng: “Tuma là đầu bò”, mà vẫn không bị phạt. Logic phát triển của tiểu phẩm đơn giản đến bất ngờ và chính sự đơn giản đến bất ngờ ấy đã tạo nên sự dí dỏm và đặc sắc của nó. Tiểu phẩm thật ngắn gọn, cô đọng với 183 âm tiết. Cách viết tự nhiên, nhẹ nhàng, không một chút làm duyên nhưng lại tạo ra sự gần gũi, đồng cảm với người đọc, từ đó làm nên sức cuốn hút của tác phẩm. Có thể coi đây là một trong những tiểu phẩm báo chí mẫu mực của Hồ Chí Minh. Từ đầu năm 1949, trong tiểu phẩm “Thêu gấm và cho than”, Hồ Chí Minh đã lên án thói tráo trở của nhà cầm quyền nước Mỹ trong quan hệ với chính quyền Tưởng Giới Thạch. Từ năm 1951 trở đi, Người đã viết và đăng trên báo Nhân dân một loạt tiểu phẩm, trực tiếp vạch mặt, châm biếm những biểu hiện xấu xa của xã hội Mỹ, những hoạt động gây chiến tranh của các thế lực phản động Mỹ, cảnh báo và lên án những âm mưu của đế quốc Mỹ chống lại cách mạng Việt Nam. Điều ấy cho thấy nhãn quan chính trị sắc bén, tinh tường, ý thức cảnh giác cách mạng cao của Người. 4. THỜI KỲ THỨ TƯ (từ cuối năm 1954 đến năm 1969) Lịch sử thời kỳ này đặt dân tộc chúng ta trước những thử thách khắc nghiệt chưa từng thấy. Ở miền Nam, đế quốc Mỹ tiếp tay che chở cho bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm phá hoại 23 Hiệp định Giơnevơ, thực hiện dã tâm chia cắt đất nước, phục vụ cho mưu đồ, tham vọng của Mỹ - biến miền Nam Việt Nam thành cứ điểm ngăn chặn dòng thác cách mạng tràn xuống phía nam bán cầu. Những màu sắc tươi mới vừa thành hình sau 10 năm xây dựng và phát triển miền Bắc thì đế quốc Mỹ dựng lên sự kiện vịnh Bắc Bộ ngày 05/8/1964, phát động cuộc chiến tranh bắn phá bằng không quân và hải quân với ý đồ mang sức mạnh vũ khí đè bẹp ý chí đấu tranh của nhân dân ta. Việt Nam trở thành nơi đối đầu lịch sử giữa cách mạng và phản cách mạng. Cả nước trở thành một chiến trường, hai miền cùng bước vào cuộc chiến đấu ác liệt một mất, một còn chống lại tên đế quốc đầu sỏ cùng một lũ lâu la tay sai theo đóm ăn tàn, tâng công quan thầy. Càng trong thử thách khốc liệt, tinh thần quật cường của dân tộc càng bùng lên sáng chói hơn bao giờ hết. Việt Nam trở thành lương tâm của nhân loại. Tinh thần chiến đấu ngoan cường của Việt Nam trở thành tấm gương cổ vũ nhân dân các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới đứng dậy đấu tranh giành quyền sống tự do, hòa bình. Trong thời kỳ này, Hồ Chí Minh viết hàng trăm bài báo đăng trên các báo, tạp chí trong nước (chủ yếu là báo Nhân dân) và ngoài nước. Bút danh được Người sử dụng nhiều nhất là: Trần Lực, T.L, Chiến sỹ. Người chỉ ghi bút danh Hồ Chí Minh trong một số bài viết cho các báo, tạp chí nước ngoài. Vẫn tập trung vào hai chủ đề chính là xây dựng đất nước và đấu tranh giải phóng dân tộc, tuy nhiên ngòi bút của Người bao quát rộng lớn những vấn đề, sự kiện rất phong phú, có tính thời sự nóng hổi. Ở chủ đề thứ nhất, Hồ Chí Minh dành sự quan tâm đặc biệt cho những vấn đề cấp thiết trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội. Tháng 3/1960, Người có loạt bài đăng trên báo Nhân dân 24 về phương châm phát triển sản xuất: “Nhiều” (03/3/1960), “Nhanh” (05/3/1960), “Tốt” (09/3/1960), “Rẻ” (11/3/1960). Trong mỗi bài, Người đều giải thích nội dung thực chất và cách thức làm thế nào để thực hiện được phương châm đó. Trong bài “Tốt”, Người giải thích rất đơn giản, cụ thể mối quan hệ giữa nhiều, nhanh với tốt, rẻ và tác hại của việc không thực hiện đầy đủ, thống nhất các yêu cầu đó. Cuối cùng, Người đi đến kết luận: “Làm nhanh mà không tốt, Có gì là vẻ vang? Đã là người làm chủ, Tính toán phải đàng hoàng: Nhiều, nhanh, tốt, rẻ rõ ràng, Lợi dân, lợi nước đôi đàng vẹn đôi”1. Bác kết luận tác phẩm bằng thơ làm cho vấn đề trở nên nhẹ nhàng, thu hút sự quan tâm của người đọc, làm cho người đọc dễ tiếp nhận, dễ nhớ. Chỉ riêng việc trồng cây, Hồ Chí Minh đã có 8 bài báo: “Nông dân phải trồng cây chuẩn bị làm nhà ở” (Báo Nhân dân, 30/5/1959), “Tết trồng cây” (Báo Nhân dân, 28/11/1959), “Thêm vài ý kiến về Tết trồng cây” (Báo Nhân dân, 23/5/1960), “Tết trồng cây” (Báo Nhân dân, 28/01/1961), Tết trồng cây (Báo Nhân dân, 30/12/1961), Tết trồng cây (Báo Nhân dân, 27/01/1963), “Năm mới, hãy nhiệt liệt tổ chức Tết trồng cây” (Báo Nhân dân, 01/01/1965), “Tết trồng cây” (Báo Nhân dân, 05/02/1969). Có nhiều bài viết của Người đề cập những vấn đề rất cụ thể hoặc có tính thời vụ: “Phải thi đua chống hạn, diệt sâu, để nắm chắc vụ mùa thắng lợi” (Báo Nhân dân, 11/10/1958), 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.513. 25 “Chống mổ bò bừa bãi” (Báo Nhân dân, 20/6/1959), “Mừng Tết Nguyên đán thế nào?” (Báo Nhân dân, 18/01/1960), “Cần phải tổ chức ngay đội thủy lợi” (Báo Nhân dân, 26/11/1963), “Phải sẵn sàng phòng, chống bão lụt” (Báo Nhân dân, 28/7/1965), “Chúng ta phải làm thật tốt việc sơ tán” (Báo Nhân dân, 10/7/1966), “Phải cấy chiêm xong trước Tết” (Báo Nhân dân, 15/01/1967), “Cần phải chăm sóc tốt trâu bò trong vụ rét sắp tới” (Báo Nhân dân, 09/10/1968), v.v.. Đó là những bài báo vừa có ý nghĩa chỉ đạo đối với cơ sở, vừa động viên nhân dân trong việc giải quyết những yêu cầu cụ thể, tổ chức thực hiện những nhiệm vụ cấp bách trong sản xuất nông nghiệp và tổ chức đời sống xã hội. Một lĩnh vực được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm là công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền nhân dân và giáo dục cán bộ, đảng viên. Một loạt bài báo của Hồ Chí Minh đề cập đến những vấn đề có tính nguyên tắc về Đảng, về chính quyền nhân dân, về yêu cầu giáo dục, rèn luyện của mỗi cán bộ, đảng viên, biểu dương những gương tốt, những biểu hiện tích cực, phê phán những sai lầm, khuyết điểm của các cơ quan, tổ chức cũng như các cá nhân. Tác phẩm “Đạo đức cách mạng” (Tạp chí Học tập, số 12 năm 1958) có vị trí đặc biệt trong loạt bài này. Đây là một bài viết có tính tổng kết lý luận, trình bày các khía cạnh nội dung, biểu hiện của vấn đề đạo đức cách mạng một cách có hệ thống. Trong bài báo, Hồ Chí Minh khẳng định đạo đức cách mạng là yêu cầu tất yếu của người cách mạng. Không có đạo đức cách mạng, người cách mạng không thể hoàn thành được những nhiệm vụ nặng nề của “một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ”. Sau khi phân tích, làm rõ nội dung và những biểu hiện của đạo đức cách mạng, chỉ ra những điều kiện, phương pháp tu dưỡng 26 đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên, Người nhấn mạnh: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”1. Có thể nói, đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong điều kiện Đảng cầm quyền cũng là một vấn đề được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Ngay từ thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, qua các bài báo của mình, Người đã cảnh báo về tệ quan liêu, tham ô, lãng phí trong đội ngũ cán bộ, coi đó là “tội ác”. Người yêu cầu “Phải tẩy sạch nó để thực hiện cần kiệm liêm chính, để đẩy mạnh thi đua sản xuất và tiết kiệm, để đưa kháng chiến đến thắng lợi, kiến quốc đến thành công, để xây dựng thuần phong mỹ tục trong toàn dân, toàn quốc”2. Trong thời kỳ 1955-1969, Người tiếp tục mối quan tâm này với nhiều bài báo, trong đó yêu cầu đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, thực hành dân chủ, coi đó là giải pháp để khắc phục tệ quan liêu, tham ô, lãng phí: “Tự phê bình, phê bình, sửa chữa” (Báo Nhân dân, 26/7/1956), “Phải xem trọng ý kiến của quần chúng” (Báo Nhân dân, 21/8/1956), “Cái “chìa khóa vạn năng””. (Báo Nhân dân, 25/3/1967), v.v.. Trong tác phẩm “Cái “chìa khóa vạn năng””, Hồ Chí Minh khẳng định: “... thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn... Quần chúng thật sự có quyền dân chủ và cán bộ, đảng viên, đoàn viên phải xung phong gương mẫu, thì chắc chắn ngăn ngừa được những tệ quan liêu, mệnh lệnh, lãng phí, tham ô...”3. 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.612. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.457. 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.325-326. 27 Chủ đề lớn thứ hai về đấu tranh chống Mỹ, cứu nước được Hồ Chí Minh thể hiện chủ yếu bằng thể loại tiểu phẩm. Các tiểu phẩm báo chí của Chủ tịch Hồ Chí Minh thời kỳ này bám sát từng bước đi, từng thất bại của đế quốc Mỹ trên con đường tăm tối chống phá các lực lượng cách mạng dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Ngòi bút sắc sảo, cái nhìn tinh tường của Người luôn phát hiện được những sự kiện, hiện tượng thể hiện đúng bản chất, dã tâm của kẻ thù để ra đòn với tiếng cười châm biếm, tố cáo, vạch mặt chúng. Một loạt các tiểu phẩm đặc sắc của Người được đăng tải trên các báo, chủ yếu là báo Nhân dân như: “Một tin tức lạ” (09/6/1956), “Trong trần ai, ai cũng ghét Ai” (20/01/1961), “Đạo đức Mỹ” (20/01/1962), “Đốp! Đốp!” (01/02/1962), “Hòa bình kiểu Mỹ tức là binh họa” (29/6/1963), “Mỹ mà không đẹp” (29/5/1964), “Taylo rồi chân cũng lo!” (20/7/1964), “Đại bợm Giônxơn miệng nói “hòa bình” tay vung “binh hỏa”” (14/4/1965), “Quân Mỹ chết nhăn răng, tướng Mỹ nhăn răng cười” (04/01/1966), “Tin “mừng” cho lính Mỹ” (11/3/1966), “(Đại) bại tướng Vét mỡ lợn đã cút về nước mẹ Hoa Kỳ” (13/6/1968), v.v.. Ngoài các tiểu phẩm chống kẻ thù, Người cũng viết một số tiểu phẩm phê bình những thói hư, tật xấu, những biểu hiện tiêu cực trong nội bộ nhân dân, cán bộ ta. Cũng là cái cười châm biếm, song trong các tác phẩm này, sự phê phán của Người lại mang tính bao dung, xây dựng, khuyến khích sửa chữa, khắc phục. Đó là các tác phẩm: “Làm thế nào cho lạc thêm vui?” (Báo Nhân dân, 14/3/1962), “Lễ cưới” (Báo Nhân dân, 25/3/1965), v.v.. Các tiểu phẩm của Hồ Chí Minh đều rất ngắn gọn, diễn đạt bằng văn phong dung dị, dí dỏm một cách bất ngờ trong dùng từ, chơi chữ. Hầu hết các tiểu phẩm đều được kết luận bằng mấy câu thơ, thường là thơ lục bát, càng làm cho sự giao tiếp giữa tác giả với người đọc 28 thêm gần gũi, dễ chấp nhận. Có thể nói, những tiểu phẩm báo chí của Hồ Chí Minh thời kỳ này nằm trong dòng chảy chung, thể hiện một phong cách nhất quán trong cả quá trình 60 năm viết báo của một cây bút viết tiểu phẩm đặc sắc, tài hoa. Đặc biệt, trong thời kỳ này, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết một số tác phẩm theo đơn đặt hàng của một số báo, tạp chí nước ngoài, chủ yếu là Liên Xô như: “Tình hữu nghị vô sản thắng lợi” (Báo Tin tức - Liên Xô, 07/01/1959), “Ba mươi năm hoạt động của Đảng” (Tạp chí Những vấn đề hòa bình và chủ nghĩa xã hội, 02/1960, nhân dịp kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng, đăng trên báo Nhân dân, 09/01/1960), “Chào mừng kỷ niệm lần thứ 44 Cách mạng Tháng Mười vĩ đại” (Báo Sự thật - Liên Xô, 07/11/1961), “Lênin, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam” (viết cho báo Sự thật - Liên Xô, nhân kỷ niệm lần thứ 92 ngày sinh V.I. Lênin, đăng lại trên báo Nhân dân, 22/4/1962), “45 năm đấu tranh anh dũng, 45 năm thắng lợi vẻ vang” (viết cho báo Sự thật - Liên Xô, nhân dịp kỷ niệm 45 năm Cách mạng Tháng Mười Nga, đăng lại trên báo Nhân dân, 07/11/1962), “Cách mạng Tháng Mười vĩ đại mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc” (viết cho báo Pravda, Liên Xô, nhân dịp kỷ niệm 50 năm Cách mạng Tháng Mười Nga, đăng lại trên báo Nhân dân, 07/11/1967). Đây là những bài viết có tính tổng kết, khái quát những vấn đề lý luận chung về chủ nghĩa xã hội, về con đường cách mạng giải phóng dân tộc, về công cuộc cách mạng mà Đảng ta, dân tộc ta đang tiến hành, cũng như những đánh giá quan trọng về tính chất của thời đại. Nội dung những bài viết này không chỉ thể hiện quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mà còn phản ánh những quan điểm, thái độ chung của Đảng và Nhà nước Việt Nam trước những vấn đề đang đặt ra. 29 Bài báo cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh ký tên T.L. đăng trên báo Nhân dân ngày 01/6/1969 với nhan đề: “Nâng cao trách nhiệm chăm sóc và giáo dục thiếu niên, nhi đồng”. Người đánh giá cao sự phấn đấu trong học tập, lao động và tham gia chiến đấu của thiếu niên, nhi đồng. Người dành cho thế hệ trẻ của đất nước những tình cảm sâu sắc, thái độ trách nhiệm cao. Người viết: “Thiếu niên, nhi đồng là người chủ tương lai của nước nhà. Vì vậy, chăm sóc và giáo dục tốt các cháu là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân”1. * Trong bài nói chuyện tại Đại hội lần thứ II Hội Nhà báo Việt Nam, ngày 16/4/1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi mình là người có duyên nợ với báo chí, duyên nợ ấy chính là làm báo nhằm mục đích “chống thực dân đế quốc, chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”2. Nói cách khác, Người làm báo là để làm cách mạng, đấu tranh mang lại độc lập cho đất nước, tự do cho dân tộc, hòa bình, hạnh phúc cho nhân dân. Vì thế, nhà cách mạng vĩ đại, vị Lãnh tụ kính yêu của dân tộc và nhà báo lớn Hồ Chí Minh là thống nhất, hòa quyện, gắn kết với nhau trong một nhân cách lớn - Hồ Chí Minh. Với 60 năm hoạt động sáng tạo không ngừng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại di sản báo chí vô cùng to lớn và phong phú, trong đó thể hiện sinh động những quan điểm, tư tưởng của Người về cách mạng, về thời đại, về nhân dân, về kinh tế, chính trị, văn hóa và các lĩnh vực của đời sống xã hội. Di sản đó cũng thể hiện bản lĩnh tuyệt vời của ngòi bút, tài hoa và sức sáng tạo của một nhân cách lớn, nhà báo cách mạng lớn - Hồ Chí Minh. 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.579. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.171. 30 2 QUÁN TRIỆT TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG QUẢN LÝ VÀ PHÁT TRIỂN NỀN BÁO CHÍ HIỆN NAY* Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà cách mạng lỗi lạc, người yêu nước nhiệt thành, nhà văn hóa lớn, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta. Người cũng chính là nhà báo cách mạng số một, người khai sinh và dìu dắt phát triển nền báo chí cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp báo chí của Người thật đồ sộ và là bằng chứng không chỉ của tài năng mà lớn hơn là tình yêu, của ý thức sâu sắc về ngòi bút của nhà báo. Tư tưởng của Người về báo chí là di sản vô cùng quý báu, đã, đang và sẽ soi sáng con đường phát triển của nền báo chí cách mạng Việt Nam. Trong bài viết này, chúng tôi muốn nhấn mạnh và làm rõ hơn những quan điểm cơ bản, quan trọng trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về báo chí và trình bày ý nghĩa to lớn của việc quán triệt những quan điểm đó trong hoạt động báo chí hiện nay. 1. Hồ Chí Minh - nhà báo cách mạng làm báo Trong bài nói chuyện tại Đại hội lần thứ II Hội Nhà báo Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh tự nhận: “là người có nhiều * Báo Nhà báo và Công luận, số 23, ra ngày 4 đến ngày 10/6/2004 và số 24, ra ngày 11 đến ngày 17/6/2004. 31 duyên nợ với báo chí”. “Duyên nợ” ấy được Người giải thích là viết báo với một “đề tài” duy nhất nhằm: “chống thực dân đế quốc, chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”1. Trên thực tế, Bác Hồ bắt đầu làm báo vì mục đích “nêu lên” tội ác của thực dân Pháp. Trong quá trình hoạt động cách mạng, càng ngày Người càng nhận rõ vai trò quan trọng của báo chí - như một thứ vũ khí chiến đấu chống kẻ thù, như một công cụ, phương tiện tổ chức hoạt động thực tiễn. Chính vì thế mà Người làm báo không đơn thuần là hoạt động nghề nghiệp mà với một ý thức rất rõ ràng, sâu sắc: làm báo để làm cách mạng. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Bác Hồ đã viết hàng nghìn bài báo các loại, trực tiếp sáng lập và tổ chức hoạt động hàng chục tờ báo như: Le Paria, Thanh niên, Công nông, Lính cách mệnh, Đỏ, Đồng thanh, Việt Nam độc lập, v.v.. Người để lại một di sản to lớn các trước tác liên quan đến báo chí, trong đó có hai bộ phận. Thứ nhất là các tác phẩm báo chí gồm nhiều thể loại khác nhau từ tin tức, chính luận, tản văn đến tiểu phẩm. Thứ hai là các bài viết, bài nói chuyện đề cập đến các khía cạnh khác nhau của vấn đề báo chí và người làm báo. Về cơ bản, những tư tưởng của Bác Hồ về báo chí được thể hiện trong các trước tác ở bộ phận thứ hai này, trong đó chiếm vị trí đặc biệt quan trọng là hai bài nói chuyện của Người tại Đại hội lần thứ II và Đại hội lần thứ III Hội Nhà báo Việt Nam. Có thể nói, cơ sở phương pháp luận để hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh chính là chủ nghĩa Mác - Lênin. Điểm mốc đầu tiên để khẳng định điều này là sự kiện Người đọc Sơ thảo 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.171. 32 lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Nhận thức từ ban đầu của Người - “Chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”1 - trở thành tư tưởng nhất quán trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Tuy nhiên, đối với Bác Hồ, tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lênin là nắm lấy cái cốt lõi của nó, là “học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta”2. Thực chất, đó là thái độ, là phương pháp xuất phát từ linh hồn sống của phép biện chứng duy vật mácxít trên cơ sở đã hiểu thấu đáo đến nguồn ngọn, bản chất của nó. Trong những quan điểm của Bác Hồ về báo chí, có thể nhận thấy rất rõ những biểu hiện, kế thừa các giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc, cũng như của phương Đông. Điều này cũng hoàn toàn hợp lý và thống nhất với cái cốt lõi của phép biện chứng mácxít là tính thực tiễn, lịch sử, cụ thể. Biểu hiện dễ nhận thấy trong các trước tác của Người về báo chí là sự ý thức rõ ràng, thường trực về dân tộc, nhân dân và yêu cầu đòi hỏi giữ gìn, phát huy và tôn vinh những giá trị của dân tộc, của nhân dân. Đó cũng là một cơ sở để khẳng định Hồ Chí Minh là một nhà báo cách mạng lỗi lạc với tinh thần dân tộc sâu sắc và trong sáng. 2. “Chính trị phải làm chủ” “Nhiệm vụ của tờ báo là tuyên truyền, cổ động, huấn luyện, giáo dục, và tổ chức dân chúng, để đưa dân chúng đến 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.289. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.95. 33 mục đích chung”1. Đó là “điểm chính” số một mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nói đến trong Thư gửi lớp học viết báo Huỳnh Thúc Kháng (tháng 6/1949). Đó cũng chính là sự phát triển cụ thể hơn quan điểm của Lênin về 3 chức năng chính yếu của báo chí là: tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể và tổ chức tập thể. Nói cách khác, theo Bác Hồ, nhiệm vụ của báo chí chính là tác động vào nhận thức xã hội nhằm thay đổi nhận thức theo hướng tích cực để đưa quần chúng vào hoạt động thực tiễn cách mạng. Khi Người nói báo chí là làm cho dân “mở mắt, mở tai”, biết “kết đoàn gắng sức”, hay báo chí cần phải “phục vụ chủ nghĩa xã hội, phục vụ cho đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, cho hòa bình thế giới” cũng là theo nghĩa đó. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định nhiệm vụ của báo chí cách mạng trên cơ sở hiểu rõ vai trò vô cùng to lớn của báo chí trong đời sống xã hội. Chính sự từng trải và những kinh nghiệm sống trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước đã cho phép Người nhận thức rất rõ về vai trò đó. Trên cơ sở nhận thức ấy mà ngay từ Bản Yêu sách của nhân dân An Nam, “Lời phát biểu tại Đại hội Tua” và trong nhiều tác phẩm viết từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Người đã đòi quyền tự do báo chí cho Việt Nam, yêu cầu báo Nhân đạo của Đảng Cộng sản Pháp phải thường xuyên có mục viết về các thuộc địa... Càng về sau, nhận thức của Bác Hồ về vai trò của báo chí càng trở nên rõ ràng, sâu sắc hơn. Trong Điện chúc mừng Hội Nhà báo Á - Phi (Báo Nhân dân, 24/4/1965), Người khẳng định: “Đối với những người viết báo chúng ta, cái bút là vũ khí sắc bén, bài báo là tờ hịch cách mạng để động viên quần chúng đoàn 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.102. 34 kết đấu tranh, chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới, chống chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ, vì độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội và hòa bình thế giới”1. Tất nhiên yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng là một cơ sở không thể thiếu để Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định nhiệm vụ, chức năng của báo chí. Xã hội và cùng với nó là so sánh lực lượng giữa cách mạng và phản cách mạng luôn thay đổi, đòi hỏi Đảng phải tùy thuộc hoàn cảnh, điều kiện cụ thể để đưa ra các nhiệm vụ cho báo chí cách mạng. Muốn hoàn thành những nhiệm vụ của mình, báo chí cách mạng phải có những nguyên tắc chỉ đạo nhất quán của nó. Nguyên tắc đó là gì? Trong Bài nói chuyện tại Đại hội lần thứ II Hội Nhà báo Việt Nam, Bác Hồ khẳng định: “Chính trị phải làm chủ. Đường lối chính trị đúng thì những việc khác mới đúng được. Cho nên các báo chí của ta đều phải có đường lối chính trị đúng”2. Như vậy, theo Bác Hồ thì “chính trị” đúng cũng chính là nguyên tắc sống còn của báo chí, bởi vì “Chính trị phải làm chủ” và đó là cơ sở xuất phát, là điều kiện đảm bảo những việc khác có thể “đúng được”. Chính trị mà Bác Hồ nói đến ở đây không phải là cái gì khác ngoài mục đích cách mạng, lợi ích của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân. Điều đó cũng chính là “chân lý” theo cách hiểu của Người, “ra sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân - tức là phục tùng chân lý”3. Một cách diễn đạt rất đơn giản mà bao hàm logic cốt tử của nguyên tắc hàng đầu trong hoạt động báo chí - nguyên tắc tính Đảng. Đây không chỉ là sự tiếp nhận nguyên tắc tính Đảng Mácxít - Lêninnít đơn thuần mà còn là bài học kết tinh từ sự trải nghiệm cuộc sống, từ thực tế hoạt động báo chí sinh động của 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.540. 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.166, 166. 35 Bác Hồ. Khi bàn đến các tính chất, nguyên tắc khác của báo chí cách mạng như tính chất quần chúng và tinh thần chiến đấu, Bác Hồ đều trở về lấy nguyên tắc này làm cơ sở xuất phát. 3. “Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng” Đó là một luận điểm quan trọng trong tư tưởng của Bác Hồ về báo chí, một bài học kinh nghiệm kết tinh từ những năm tháng hoạt động cách mạng - làm báo gian nan, nguy hiểm và sôi động của Người. Luận điểm này xuất phát từ quan niệm của Bác về vai trò, nhiệm vụ của báo chí cách mạng - “Báo chí của ta thì cần phải phục vụ nhân dân lao động, phục vụ chủ nghĩa xã hội, phục vụ cho cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, cho hòa bình thế giới”1. Đây cũng là cơ sở để xác định thái độ, trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp của người làm báo cách mạng. Nói cách khác, với tư cách chiến sĩ cách mạng thì nhà báo đương nhiên phải hành nghề với ý thức đầy đủ về mục tiêu, tính chất và nhiệm vụ cách mạng, về trách nhiệm của mình trước dân tộc, nhân dân. Đồng thời, điều đó cũng có nghĩa là đạo lý của nhà báo lấy nhân dân, lấy lợi ích cách mạng làm gốc. Điều này đương nhiên là trái ngược với quan điểm mà báo chí tư sản vẫn dựa vào để che đậy và bảo vệ cho bản chất giai cấp bảo thủ của chủ nghĩa tư bản. Từ luận điệu “Báo chí phi giai cấp, phi chính trị” logic tiếp theo là vì phi giai cấp, phi chính trị nên báo chí tư bản là tự do. Nhìn vào lịch sử, chế độ tư bản chủ nghĩa thay thế cho chế độ phong kiến là một bước tiến của xã hội. Nhưng đến lượt nó, giai cấp tư sản vì mục đích bảo vệ sự tồn tại của chế độ mình mà chống lại mọi sự vận động 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.166. 36 đạt tới sự tiến bộ hơn nữa của xã hội. Suốt mấy trăm năm lịch sử của mình, giai cấp tư sản đã đè bẹp mọi sự phản kháng của các giai cấp cần lao bằng nhà tù, súng đạn, bóp nghẹt báo chí dân chủ, cách mạng bằng kiểm duyệt và xiềng xích. Giờ đây, chính cuộc đấu tranh của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức cùng với những điều kiện kinh tế - kỹ thuật được cải thiện buộc giới chủ tư sản phải chấp nhận những thể chế xã hội cởi mở hơn, dân chủ hơn. Tuy nhiên, về bản chất, đó vẫn là những thể chế xã hội phục vụ cho lợi ích của người giàu, kẻ mạnh. Vì nguyên tắc đó, các chính quyền đế quốc sẵn sàng chà đạp lên quyền sống, quyền tự do của các dân tộc, quyền dân chủ, tự do của thế giới báo chí tiến bộ. Người ta có thể thấy rất rõ điều đó qua những cuộc chiến do Mỹ cầm đầu trong hơn một thập kỷ qua ở Vùng Vịnh, Nam Tư và Irắc hiện nay. Như vậy, vấn đề đặt ra cho nhà báo cách mạng là sự ý thức tự giác đầy đủ vai trò, trách nhiệm của mình trên cơ sở nhận thức rõ ràng về bản chất chế độ, bản chất nền báo chí cách mạng. Chỉ có một niềm tin vững chắc trên cơ sở đó mới giúp các nhà báo hành nghề một cách tự do. Mà tự do theo Bác Hồ thì cũng chính là quyền phục tùng chân lý. Và - “Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân... Ra sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân - tức là phục tùng chân lý”1. Chân lý đó là rất cụ thể. Phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân là một yêu cầu rất rõ ràng, một điều kiện nhân văn không thể chối cãi để đạt đến tự do. Khi nói về Hội Nhà báo, Bác Hồ nhấn mạnh: “Đó là một tổ chức chính trị và nghiệp vụ. Nhiệm vụ của Hội là phải làm cho hội viên đoàn kết chặt chẽ, giúp đỡ lẫn nhau để nâng trình độ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.378. 37 chính trị và nghiệp vụ. Có như thế thì Hội Nhà báo mới làm tròn nhiệm vụ của mình và những người làm báo mới phục vụ tốt nhân dân, phục vụ tốt cách mạng”1. Đó chính là thâu tóm cô đọng chức năng, nhiệm vụ của Hội. Những chức năng, nhiệm vụ ấy cũng nhằm đến mục đích phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng. Cũng có thể hiểu được rằng việc nhấn mạnh đến phục vụ nhân dân, Tổ quốc là một yêu cầu nhất quán, trước sau như một của Bác Hồ. 4. “Về cách viết” Trong Bài nói chuyện tại Đại hội lần thứ III Hội Nhà báo Việt Nam, Bác Hồ nói nhiều đến “cách viết”. Thực chất là Người bàn đến những vấn đề cốt lõi nhất của phương pháp sáng tạo tác phẩm của nhà báo. Về phương diện này, Bác bàn rất kỹ kể từ khâu nhận thức phương pháp luận đến những công việc cụ thể. Theo Bác Hồ, muốn viết báo tốt, khâu trước hết là phải xác định: “Viết cho ai xem? Viết để làm gì?”. Nói cách khác, đó chính là vấn đề xác định đối tượng, mục đích của tác phẩm định viết. Bởi vì chỉ có xác định đúng mục đích, đối tượng mới có cơ sở để lựa chọn chi tiết, hình thành chủ kiến, lựa chọn cách diễn đạt, ngôn ngữ và cả quy mô hợp lý của tác phẩm. Đây là khâu đầu tiên quyết định sự thành bại của tác phẩm báo chí. Khâu thứ hai là khai thác tài liệu. Trong bài “Cách viết”, Bác đã chỉ ra toàn bộ quy trình khai thác tài liệu gồm 5 khâu công việc là: Nghe, hỏi, thấy (quan sát), xem (đọc sách báo), ghi... Tất nhiên, muốn có tài liệu phải bám sát cuộc sống, 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.166. 38 có mặt ở những điểm nóng sự kiện. Nói như Bác thì người làm báo “phải chịu khó”. Khâu thứ ba là thể hiện tác phẩm. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, mục “Cách chữa thói ba hoa”, Bác đưa ra 5 yêu cầu có ý nghĩa phương pháp luận cho việc nói và viết: 1- Học cách nói của quần chúng; 2- Ngôn ngữ giản dị dễ hiểu; 3- Cách trình bày chặt chẽ, dễ hiểu - “nói có sách mách có chứng”; 4- Điều tra, biết rõ mới viết; 5- Đảm bảo chắc chắn, đúng đắn. Về thể hiện tác phẩm báo chí, Bác Hồ đặc biệt quan tâm đến việc sử dụng ngôn ngữ. Cùng với yêu cầu sử dụng ngôn ngữ tối ưu nhằm đảm bảo hiệu quả của thông tin, Người luôn đòi hỏi phải giữ gìn sự trong sáng, bảo vệ và phát triển tiếng nói dân tộc. Sự quan tâm đó không chỉ đơn thuần là phương pháp nghiệp vụ mà sâu xa hơn chính là xuất phát từ một tình yêu, niềm tự hào, tự tôn dân tộc chân chính. Khâu thứ tư là kiểm tra, đánh giá tác phẩm trước khi công bố. Có thể nói đây là yêu cầu để đảm bảo hiệu quả thực sự của tác phẩm. Theo Bác, có hai phương thức kiểm tra. Thứ nhất là tự mình kiểm tra bằng cách đọc đi đọc lại nhiều lần để cân nhắc, sửa chữa, hoàn chỉnh. Thứ hai là nhờ những người xung quanh mình đọc, nhận xét. Nếu xét cụ thể, có thể nói Bác Hồ đã tổng kết đầy đủ, cô đọng cả quy trình sáng tạo tác phẩm báo chí. Cho đến ngày nay, phần cốt lõi, căn bản của quy trình này vẫn giữ nguyên giá trị của nó, mặc dù báo chí đã có những bước phát triển chưa từng thấy cả về hình thức và dung lượng thông tin. Vượt lên những phương pháp cụ thể ấy là một thái độ trách nhiệm với nghề nghiệp, một tinh thần dân tộc trong sáng, một tình yêu cao cả dâng hiến cho nhân dân. Đó chính là phần hồn của tư tưởng Hồ Chí Minh về nghề nghiệp làm báo mà nhờ đó các 39 tác phẩm của Người thấm đẫm tình yêu nhân dân, yêu Tổ quốc, sự nâng niu, trân trọng những giá trị của dân tộc, đất nước, nhưng cũng vì thế mà sắc sảo, quyết liệt và không khoan nhượng đối với kẻ thù. 5. “Học tập lập trường, quan điểm và phương pháp” Hồ Chí Minh Đất nước ta đang trong thời kỳ hòa bình, xây dựng và phát triển. Sau khi giành được tự do, độc lập, sự nỗ lực để xóa bỏ đói nghèo, lạc hậu, mang lại ấm no, hạnh phúc cho toàn dân, đưa đất nước giàu mạnh, dân chủ, văn minh là một cuộc chiến đấu đầy cam go, thử thách và phức tạp. Thay thế cho bom đạn và chết chóc là những cám dỗ của lợi ích, tiền bạc trong cơ chế thị trường. Từ phía nước ngoài, các lực lượng thù địch đang rình rập, lợi dụng các mối quan hệ, các phương tiện và tận dụng mọi khả năng để chống phá. Hơn lúc nào hết, việc quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa to lớn trong quản lý, phát triển nền báo chí, nhằm làm cho báo chí ngày càng lớn mạnh, hiện đại, ngày càng phát huy vai trò tích cực, mạnh mẽ trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Nói quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh là “học tập lập trường, quan điểm và phương pháp” của Bác Hồ để áp dụng vào giải quyết tốt những vấn đề mà thực tế báo chí đang đặt ra. Cũng có nghĩa là nắm lấy cái cốt lõi, đầu mối trung tâm mà từ đó quyết định những phương pháp, cách thức hành động cụ thể. Cái cốt lõi ấy trong tư tưởng của Bác trước hết chính là đạo đức cách mạng thể hiện và bắt nguồn từ lòng yêu nước, yêu dân tộc, yêu chế độ, từ lập trường cách mạng kiên định và trong sáng. Đó chính là cái gốc để có thể đạt tới những yêu cầu của đạo đức cách mạng “Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”. 40 Một cơ sở đạo đức cách mạng trong sáng chính là điều kiện để mỗi nhà báo công bằng, trách nhiệm khi viết, khi nói, để xác định được mình viết cho ai, vì ai. Đó cũng là điều kiện để mỗi nhà báo, mỗi cán bộ quản lý báo chí vượt qua những cám dỗ, thử thách nghề nghiệp, có dũng khí, có tính chiến đấu cao trước các tiêu cực, trước sự chống phá của kẻ thù. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí cũng chính là quán triệt ý thức trách nhiệm chính trị xã hội của báo chí. Làm báo thực chất là làm chính trị. Ý thức nghề nghiệp của người làm báo trước hết là ý thức chính trị. Đó là ý thức về lập trường chính trị cách mạng, là thái độ bảo vệ chế độ, bảo vệ dân tộc, bảo vệ giai cấp, kiên quyết chống lại sự phá hoại của kẻ thù. Đó là các cơ sở gốc rễ để mỗi nhà báo tự vượt lên trên những tính toán vụ lợi, cống hiến toàn tâm, toàn lực cho sự nghiệp cách mạng. Nền báo chí nước ta đang đứng trước thời cơ, vận hội phát triển mạnh mẽ, trước trách nhiệm nặng nề đối với chế độ, nhân dân, đồng thời cũng là trước những thử thách không ít khó khăn, phức tạp. Việc học tập, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí không chỉ có ý nghĩa trong hình thành và hoàn thiện phương pháp sáng tạo của từng nhà báo mà ở phạm vi rộng lớn hơn, đó cũng là cơ sở để hoạch định một chiến lược phát triển, đưa ra những chính sách quản lý thích hợp nhằm phát triển toàn diện mạnh mẽ nền báo chí nước ta hiện nay. 41 3 NGƯỜI LÀM BÁO VIỆT NAM HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH MỘT CÁCH THIẾT THỰC* Bác Hồ là lãnh tụ cách mạng vĩ đại, là danh nhân văn hóa lớn của dân tộc ta và của thế giới. Cuộc đời và sự nghiệp của Người cũng là tấm gương đạo đức cách mạng trong sáng tuyệt vời của một con người bình thường mà vĩ đại, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, cống hiến tất cả vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân, vì sự phồn vinh của đất nước. Bộ Chính trị (khóa X) đã ra Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 07/11/2006 về tổ chức Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” nhằm làm cho toàn Đảng, toàn dân thấm nhuần nhận thức và làm theo tấm gương đạo đức trong sáng của Người, xây dựng đời sống tinh thần ngày càng tốt đẹp, loại dần những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng ra khỏi đời sống xã hội, tạo ra cơ sở và động lực xã hội tích cực cho công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Với ý thức đầy đủ về vai trò, vị trí quan trọng của báo chí trong đời sống xã hội, về trách nhiệm chính trị - xã hội nặng nề * Tạp chí Người làm báo, số tháng 5/2008. 42 của mình, hơn ai hết, những người làm báo cần nhận thức một cách sâu sắc về sự cần thiết và ý nghĩa to lớn, thiết thực, cũng như những nội dung cần quán triệt của việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Trong bài viết này, chúng tôi xin được trao đổi một số vấn đề về sự cần thiết, ý nghĩa quan trọng của việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh, cũng như một số nội dung, biện pháp nhằm làm cho cuộc vận động mang lại những ý nghĩa, hiệu quả thực tế thiết thực đối với đội ngũ những người làm báo, góp phần làm cho báo chí nước ta phát triển vững chắc, đóng góp tích cực hơn vào công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. 1. Tại sao người làm báo cần phải học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh? Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt Nam, nhà văn hóa lỗi lạc của dân tộc và của nhân loại, một nhân cách vĩ đại được cả dân tộc ta tôn vinh, được bạn bè và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới yêu quý, ngưỡng mộ. Người cũng là nhà báo cách mạng số một của nước ta, người khai sinh ra nền báo chí cách mạng Việt Nam, Người đã có một cuộc đời làm báo tài năng, nhiệt huyết suốt 50 năm, đã sáng lập, tổ chức, phát triển nhiều cơ quan báo chí của nước ta. Người là tấm gương mẫu mực, trong sáng tuyệt vời về đạo đức của người chiến sĩ cách mạng, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, suốt đời phấn đấu, hy sinh, tận tâm, tận lực vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất non sông, xây dụng đất nước giàu mạnh, mang lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Người làm báo chúng ta trước hết cũng là chiến sĩ cách mạng. Việc trau dồi, rèn luyện đạo đức là đòi hỏi tất nhiên của 43 người chiến sĩ cách mạng để đáp ứng yêu cầu của những nhiệm vụ công tác quan trọng, nặng nề mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Hơn thế nữa, người làm báo còn là người chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, nắm trong tay công cụ, phương tiện báo chí cực kỳ quan trọng đối với đời sống xã hội hiện đại. Vai trò, vị trí của người làm báo trong xã hội đòi hỏi nhà báo phải nhận thức đầy đủ ý nghĩa của đạo đức nghề nghiệp, về trách nhiệm chính trị - xã hội của mình, phải sống, làm việc, hành nghề phù hợp với những tiêu chuẩn đạo đức trong sáng, gương mẫu. Đó là điều kiện không thể thiếu để người làm báo có thể hoàn thành nhiệm vụ nghề nghiệp chuyên môn được giao. Khi nói về đạo đức cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”1. Hoạt động báo chí là một nghề nghiệp nặng nhọc, năng động, phải thích nghi với những điều kiện giao tiếp xã hội luôn thay đổi, mới mẻ, luôn phải đối mặt với những hoàn cảnh, điều kiện phức tạp, những lựa chọn khó khăn. Bản thân sự vận động của xã hội cũng luôn đặt ra những yêu cầu đòi hỏi mới về chuẩn mực đạo đức xã hội nói chung và đối với những người làm báo nói riêng. Vì thế, việc học tập, rèn luyện đạo đức của người làm báo là công việc của cả cuộc đời. Trong những năm gần đây, cùng với tiến trình phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế, các điều kiện hoạt động, yêu cầu nhiệm vụ của những người làm báo, cũng như đòi hỏi của công chúng đã có nhiều thay đổi. Báo chí đã thích ứng nhanh 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.672. 44 với tình hình mới, tự đổi mới, nâng cao trình độ nghiệp vụ, chuyên môn, có nhiều đóng góp to lớn, tích cực đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, cũng đã xuất hiện một số hiện tượng chưa lành mạnh trong đội ngũ những người làm báo, trong hoạt động nghề nghiệp báo chí, làm hạn chế vai trò, tác động xã hội tích cực của báo chí, giảm thiểu niềm tin của nhân dân đối với báo chí. Vì thế, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác Hồ vừa là một việc làm có ý nghĩa lâu dài, thường xuyên đối với những người làm báo Việt Nam, vừa là một việc có ý nghĩa cấp bách trước mắt nhằm góp phần tạo dựng một môi trường hoạt động tích cực, dần dần loại bỏ những hiện tượng tiêu cực ra khỏi đời sống báo chí, làm cho hoạt động báo chí đóng góp ngày càng lớn hơn, hiệu quả hơn, tích cực hơn vào sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. Do đó, có thể khẳng định rằng, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một yêu cầu khách quan, thiết thực đối với tất cả cán bộ, đảng viên nói chung, cũng như với những người làm báo Việt Nam nói riêng. 2. Người làm báo Việt Nam học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo những nội dung gì? Người làm báo Việt Nam học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là học tập, rèn luyện để trở thành người cán bộ cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, lao động, phấn đấu vì sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ và dân tộc ta lựa chọn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra và coi cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, trung với nước, hiếu với dân là những chuẩn mực đạo đức căn bản của người cán bộ cách mạng. Đó chính là gốc rễ nguồn cội, điều kiện đầu tiên của 45 phẩm chất, năng lực công tác của một cán bộ cách mạng. Đạo đức tạo nên phần “hồng” trong phẩm chất chung của người cán bộ. Cho dù có “chuyên”, tức là trình độ, năng lực chuyên môn đến đâu mà không có đạo đức thì không thể gánh vác và hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng. Người nói: “sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”1. Người làm báo học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là quán triệt nhận thức và tu dưỡng cho mình ý thức đúng đắn về nghề nghiệp và trách nhiệm nặng nề nhưng vinh quang của người làm báo cách mạng. Theo Bác Hồ: “Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng”2, bởi vì làm báo là thực thi một nhiệm vụ công tác của cách mạng, và nhiệm vụ đó là “phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng”3. Trong Điện chúc mừng Hội Nhà báo Á - Phi năm 1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra một cách rõ ràng, cụ thể hơn về ý nghĩa và trách nhiệm xã hội của báo chí. Người viết: “Đối với những người viết báo chúng ta, cái bút là vũ khí sắc bén, bài báo là tờ hịch cách mạng để động viên quần chúng đoàn kết đấu tranh, chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới, chống chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ, vì độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội và hòa bình thế giới”4. Đây chính là cơ sở để xác định thái độ, trách nhiệm, đạo lý nghề nghiệp của người làm báo. Với tư cách người chiến sĩ cách mạng, nhà báo phải ý thức đầy đủ về trách nhiệm của 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.292. 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.466, 463. 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.540. 46 mình trước nhân dân, dân tộc, phải hành nghề vì mục đích thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ của cách mạng. Nhận thức của Bác Hồ về trách nhiệm nghề nghiệp người làm báo hoàn toàn xa lạ với những luận điểm mà báo chí phương Tây vẫn thường rêu rao là “báo chí phi giai cấp, báo chí khách quan phi chính trị”. Trên thực tế, báo chí phương Tây hoàn toàn hành xử theo hướng bảo vệ lợi ích của quốc gia, phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn kinh tế tư bản thao túng quyền lực nhà nước. Cho dù là tuyên bố mạnh mẽ về các nguyên tắc dân chủ, tự do, nhưng các nhà nước phương Tây vẫn sử dụng nhiều công cụ và tạo ra những áp lực về nhiều mặt để quản lý, sử dụng báo chí phục vụ cho những mục đích chính trị của mình. Đối với người làm báo cách mạng, việc nhận thức đúng đắn, đầy đủ về nghề nghiệp và trách nhiệm của mình để tự giác phục vụ cách mạng là điều kiện để được tự do hành nghề, tự do cống hiến. Bởi vì theo Hồ Chí Minh, tự do chính là sự phục tùng chân lý, “Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân... Ra sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân - tức là phục tùng chân lý”1. Người làm báo học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là học tập để nâng cao nhận thức chính trị, để cho “chính trị phải làm chủ” thực sự. Bởi vì, theo Người, “Chính trị phải làm chủ. Đường lối chính trị đúng thì những việc khác mới đúng được. Cho nên các báo chí của ta đều phải có đường lối chính trị đúng”2. Như vậy, chính trị cũng chính là nguyên tắc sống còn hàng đầu của báo chí, là một trong những cơ sở nền tảng của nghề nghiệp báo chí, là điểm xuất phát của 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.378. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.166. 47 những phương pháp hoạt động nghiệp vụ của những người làm báo. Trong thư gửi lớp viết báo Huỳnh Thúc Kháng, Bác Hồ viết: “Nhiệm vụ của tờ báo là tuyên truyền, cổ động, huấn luyện, giáo dục, và tổ chức dân chúng, để đưa dân chúng đến mục đích chung”1. Theo cách hiểu của Người, “mục đích chung” đó là lật đổ ách thống trị của thực dân, đế quốc xâm lược, giành độc lập, tự do cho dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm mang lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Nhưng để hiểu và thực hiện đúng được “mục đích chung” ấy, người làm báo phải dựa trên cơ sở là nhận thức chính trị. Chính trị ở đây trước hết phải hiểu là tính mục đích, sự đúng đắn của cách mạng và chủ trương, đường lối của Đảng cũng như những nhiệm vụ chính trị trong mỗi thời kỳ, mỗi lĩnh vực. Nhận thức ấy phải dựa trên cơ sở những hiểu biết về các quy luật vận động, phát triển của xã hội. Nhận thức chính trị là điều kiện để nhà báo tự giác lao động, cống hiến cho cách mạng, lấy mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng làm mục đích, tôn chỉ phục vụ và phấn đấu của mình. Người làm báo Việt Nam học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là học tập và làm theo tấm gương tôn trọng, bảo vệ nhân dân, hết lòng phục vụ nhân dân. Đối với Hồ Chí Minh, nhà cách mạng và nhà báo chỉ là một. Cái làm nên sự thống nhất đó chính là mục đích vì dân, vì giải phóng và mang lại tự do, cơm áo, hạnh phúc cho nhân dân. Mục đích ấy trở thành một hệ quy chiếu chi phối hầu như mọi quan niệm, phương pháp về hoạt động báo chí của Bác Hồ. Người luôn yêu cầu người làm báo phải xác định “Viết cho ai xem? Viết để làm gì?”, “Vì ai mà viết? Mục đích viết làm gì?”. Cả đời hoạt 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.102. 48 động làm báo của Người chỉ có một đề tài là “chống thực dân đế quốc, chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”1. Đó chính là “duyên nợ” của Bác Hồ với báo chí. Khi đã khẳng định được báo chí lấy đối tượng phục vụ là nhân dân, đó sẽ là cơ sở chi phối tiếp theo tất cả những khía cạnh của nghiệp vụ báo chí. Trước hết là “Viết cái gì?”. Nhà báo buộc phải cân nhắc, lựa chọn cái gì nên viết, cái gì không nên viết. Nếu viết để “phục vụ nhân dân” thì phải chọn cái có lợi cho dân, vì lợi của nhân dân. Nói như Hồ Chí Minh là phải làm cho báo chí trở thành “tờ báo của dân chúng”. Thứ hai, viết “phục vụ nhân dân” cũng là viết để phục vụ cách mạng, vì mục đích của cách mạng cũng vì dân, cũng là để thực hiện mục tiêu mà Hồ Chí Minh ước nguyện là “dân ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Muốn viết “phục vụ nhân dân” thì phải tôn trọng dân, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của dân, học tập ở nhân dân và bảo vệ nhân dân. Đó chính là điều kiện của thành công trong làm báo. “Không riêng gì viết sách viết báo, mà công tác gì muốn làm tốt đều phải coi trọng ý kiến của nhân dân”2. Thứ ba, nhà báo phải viết báo một cách giản dị, dễ hiểu, gần gũi với cách hiểu, cách nghĩ của nhân dân. Chính vì thế mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở người làm báo phải “Viết sao cho giản đơn, dễ hiểu, thiết thực. Sao cho mỗi đồng bào, mỗi chiến sĩ đều đọc được, hiểu được, nhớ được, làm được”3. Và thứ tư, để có thể tiến bộ, có thể viết báo phục vụ nhân dân, người làm báo phải không ngừng học tập, 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.171. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.668. 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.165. 49 nâng cao hiểu biết, tích lũy vốn sống, phải “Học trong xã hội, học nơi công tác thực tế, học ở quần chúng”1. Người làm báo Việt Nam học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là tu dưỡng, rèn luyện tính chiến đấu, thái độ trung thực, tấm lòng trong sáng, chân thành. Hồ Chí Minh coi trung thực là một tiêu chuẩn đạo đức của người làm báo. Người yêu cầu: “Không biết rõ, hiểu rõ, chớ nói, chớ viết. Khi không có gì cần nói, không có gì cần viết, chớ nói, chớ viết càn”2. “Chưa điều tra, chưa nghiên cứu, chưa biết rõ, chớ nói, chớ viết”3. Đây là thái độ trách nhiệm, trung thực với người đọc, với nghề nghiệp của nhà báo. Đối với người làm báo cách mạng, cần viết cái hay, cái tốt cho mọi người học tập, đồng thời cũng cần phải phê bình, phản ánh cái xấu để rút kinh nghiệm, làm cho quần chúng biết mà tránh đi. Tuy nhiên, “Nêu cái hay, cái tốt, thì phải có chừng mực, chớ phóng đại... Phê bình phải phê bình một cách thật thà, chân thành, đúng đắn...”4. Đó là một yêu cầu nghiêm khắc nhưng cũng rất nhân đạo, một thái độ trân trọng con người, phê bình hướng tới khắc phục cái xấu và làm cho “phần thiện trong con người nảy nở”. Người làm báo Việt Nam học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là học tập và rèn luyện để không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ làm báo. Đây chính là yêu cầu về “chuyên” để cùng với “hồng” tạo nên năng lực công tác, bản lĩnh chuyên môn nghề nghiệp của người làm báo. Chúng ta hiểu rằng, làm báo là một nghề đòi hỏi nền hiểu biết rộng, nhạy cảm với cái mới, luôn cập nhật những vấn đề 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.163. 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.342, 346. 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.206. 50 của thời cuộc. Vì thế, người làm báo phải học tập suốt đời để nâng cao hiểu biết, nhận thức chính trị - xã hội, nắm bắt và bổ sung kịp thời những kỹ năng, kỹ thuật mới mẻ, hiện đại. Chỉ có như thế, người làm báo mới có thể hoàn thành nhiệm vụ, trách nhiệm nghề nghiệp của mình. Trong bức thư thứ nhất gửi lớp viết báo Huỳnh Thúc Kháng (tháng 6/1949), Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu người làm báo “luôn luôn cố gắng học hỏi, luôn luôn cầu tiến bộ”1. Trong bức thư thứ hai (tháng 9/1949), Người nhấn mạnh: “3 tháng này các bạn đã học cửu chương. Còn muốn giỏi các phép tính thì phải học nữa, phải học mãi”2. Trong 50 năm làm báo, Hồ Chí Minh đã nêu tấm gương sáng về ý thức cầu thị, lòng kiên trì học hỏi, về tài năng lỗi lạc, tinh tế trong nghiệp vụ báo chí. Dù là xuất thân Nho học, trải qua nhiều năm tháng hoạt động, học tập ở nhiều nước, nhưng văn phong của Người trong các tác phẩm báo chí vẫn rất trong sáng, giản dị, dễ hiểu, mang đậm tính dân tộc. Trong di sản báo chí của Bác Hồ, có nhiều tác phẩm mẫu mực về nội dung hiệu quả, phát hiện vấn đề, khai thác, xử lý thông tin, tính đặc sắc về thể loại... Tóm lại, đối với người làm báo, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là học tập và rèn luyện, phấn đấu một cách toàn diện về đạo đức người cán bộ cách mạng, về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo để mỗi người làm báo hoàn thiện cả về nhân cách, lối sống, về sự hiểu biết và kinh nghiệm sống, về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ làm báo. Đó là điều kiện để người làm báo có thể thực hiện ngày càng tốt hơn, hiệu quả hơn nhiệm vụ cách mạng của người chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng. 1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.103, 163. 51 3. Người làm báo Việt Nam học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh như thế nào để thiết thực và có hiệu quả? Học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác Hồ một cách thiết thực là nâng cao nhận thức về đạo đức nghề nghiệp, xây dựng ý thức tự giác trau dồi, tu dưỡng đạo đức của người làm báo và biến những nhận thức ấy thành quan điểm, thái độ và kỹ năng thực tế, thành kế hoạch hành động cụ thể của mỗi người làm báo. Việc học tập chỉ có ý nghĩa khi nó tạo thành những chuyển biến thực sự, thực tế trong phương pháp công tác của mỗi nhà báo, trong công việc và sản phẩm của mỗi tòa soạn, mỗi cơ quan báo chí. Nó phải làm cho mỗi người làm báo nâng cao hơn nữa ý thức trách nhiệm chính trị - xã hội đối với hoạt động nghề nghiệp, thể hiện bằng chất lượng và hiệu quả xã hội của các tác phẩm. Trên cơ sở những chuyển biến trong đội ngũ những người làm báo, cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh phải góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của các sản phẩm báo chí, làm cho các sản phẩm đó có sức hấp dẫn hơn, đóng góp nhiều hơn vào việc phát hiện và giải quyết các vấn đề nóng bỏng của đời sống, vào việc thực hiện thành công những nhiệm vụ chính trị của đất nước. Đồng thời phải làm cho các hiện tượng tiêu cực như đưa thông tin sai trái, thương mại hóa, sai tôn chỉ, mục đích, áp đặt thông tin oan sai cho các cá nhân, đơn vị ngày càng giảm thiểu và tiến tới bị loại bỏ khỏi đời sống báo chí của đất nước. Để việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh mang lại hiệu quả thiết thực, những người làm báo chúng ta trước hết cần phải học tập thái độ, phương pháp học tập một cách thiết thực của Người, tránh những biểu hiện hình thức, rập khuôn, máy móc, bệnh thành tích. Khi bàn về 52 việc nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu về phương pháp là “học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta”1. Thực chất, đó là sự trình bày giản dị, cụ thể thực chất của phương pháp luận mácxít. Căn cứ vào quan niệm về phương pháp học tập ấy, chúng ta có thể hiểu rằng cần phải nắm được bản chất, cốt lõi và những yêu cầu của đạo đức Hồ Chí Minh để vận dụng, hình thành những chuẩn mực đạo đức của người làm báo hiện nay và động viên những người làm báo phấn đấu rèn luyện theo những chuẩn mực ấy. Để việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh thực sự trở thành thái độ tự giác của những người làm báo và mang lại những kết quả thực tế tích cực, tránh được những biểu hiện hình thức cần phải có sự kết hợp giữa tinh thần, thái độ tự giác của từng người làm báo với sự kiểm tra, đánh giá nghiêm túc của các tổ chức hội, các cơ quan báo chí. Đồng thời cần có các hình thức thông tin kịp thời trong mỗi cơ quan báo chí, trong cả hệ thống Hội nhằm giới thiệu những kinh nghiệm hay trong việc tổ chức thực hiện cuộc vận động và biểu dương kịp thời những tập thể, cá nhân nhà báo đã học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh một cách thiết thực, có hiệu quả cao. Nghị quyết Trung ương 5 khóa X đặt ra cho báo chí trách nhiệm to lớn là “... tiếp tục phát huy tiềm lực và ưu điểm, khắc phục các yếu kém, khuyết điểm, nâng cao chất lượng tư tưởng, tính hấp dẫn, mở rộng đối tượng độc giả, vươn lên hiện đại về 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.95. 53 mô hình tổ chức hoạt động, về cơ sở vật chất, kỹ thuật và công nghệ”. Việc thực hiện tốt cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sẽ là điều kiện quan trọng để những người làm báo chúng ta nâng cao năng lực công tác, bản lĩnh nghề nghiệp, thực hiện được những yêu cầu, trách nhiệm mà Đảng giao cho, đóng góp tích cực nhất vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 54 4 QUAN HỆ VIỆT NAM - ẤN ĐỘ QUA MỘT TÁC PHẨM BÁO CHÍ CỦA HỒ CHÍ MINH* Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng nổi tiếng của thế kỷ XX, đồng thời cũng là nhà báo lớn. Người tự nhận mình: “là một người có nhiều duyên nợ với báo chí”. “Duyên nợ” ấy của Người chính là viết báo theo một “đề tài”: “chống thực dân đế quốc, chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”1. Trong di sản to lớn với trên 2.000 tác phẩm báo chí của Hồ Chí Minh, “Tình nghĩa anh em Việt - Ấn - Miên” là một tác phẩm đặc biệt. Trong tác phẩm này, Hồ Chí Minh đứng tên một người khác để tường thuật và bình luận về chuyến đi thăm kéo dài 14 ngày của mình đến Ấn Độ và Myanmar. Bài viết này chỉ đề cập nội dung liên quan đến thời gian gần 10 ngày Người đi thăm Ấn Độ. 1. “Tình nghĩa anh em Việt - Ấn - Miên”, một tác phẩm báo chí đặc biệt Tác phẩm “Tình nghĩa anh em Việt - Ấn - Miên” được viết * Báo cáo tại Hội thảo khoa học quốc tế “Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ qua lăng kính triết học của Hồ Chí Minh và Găngđi”, ngày 18 - 19/3/2019 tại Hà Nội. 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.171. 55 dưới dạng thư của “Anh L.T.” - “một trong mấy cán bộ có vinh hạnh được đi theo Bác” trong chuyến đi thăm hữu nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến hai nước Ấn Độ và Miến Điện (tức Myanmar) gửi cho một nhân vật ở Việt Nam là “Em Hương”. Tác phẩm được đăng tải trên báo Nhân dân từ số 1447, ngày 26/02/1958 đến số 1474, ngày 25/3/1958. Sự đặc biệt của tác phẩm “Tình nghĩa anh em Việt - Ấn - Miên” trước tiên chính là tính chất đặc biệt của một hoạt động ngoại giao đã tường thuật lại trong đó. Đó là chuyến thăm Ấn Độ và Miến Điện của Chủ tịch Hồ Chí Minh kéo dài đến 14 ngày, từ ngày 04/02 đến ngày 17/02, trong đó riêng thời gian lưu lại ở Ấn Độ gần 10 ngày, từ đêm 04/02 đến sáng ngày 14/02, tức là hơn 70% thời gian chuyến đi. Về dung lượng của bài báo, có đến gần 80% dành cho nội dung những sự kiện diễn ra ở Ấn Độ (39/50 trang in của toàn bộ tác phẩm “Tình nghĩa anh em Việt - Ấn - Miên” công bố trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.11). Trong thời gian gần 10 ngày thăm Ấn Độ, Hồ Chí Minh đã có hành trình kéo dài gần 6.200 km, bằng các phương tiện ôtô, tàu hỏa và máy bay, khép kín một vòng quanh đất nước Ấn Độ rộng lớn. Hành trình đó bắt đầu từ thành phố Cancútta ở phía Đông đến Thủ đô Đêli - trung tâm đất nước, rồi lần lượt đến thành phố Nănggan thuộc bang Pungiáp ở phía Bắc, thành phố Agơra nơi có đền Tagiơ Mahan - một kiệt tác kiến trúc của Ấn Độ, thành phố Mumbai ở phía Tây, thành phố Bănggalo trung tâm công nghiệp lớn ở phía Nam, và chặng dừng chân cuối cùng của Đoàn là Cancútta, cũng chính là điểm khởi đầu của chuyến thăm. Chuyến thăm Ấn Độ và Miến Điện đầu năm 1958 diễn ra ngay trước Tết Nguyên đán. Nói chuyện với đồng bào ra tiễn 56 ở sân bay Gia Lâm, Hồ Chí Minh nhắc “Lúc chúng tôi đi về là ngày Tết, vậy chúc đồng bào ở nhà tổ chức Tết vui vẻ, khỏe mạnh, nhưng tiết kiệm”. Mục đích chuyến đi thăm Ấn Độ và Miến Điện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, như Người viết trong tác phẩm là: “thắt chặt thêm nữa tình anh em giữa nước ta và hai nước bạn..., do đó củng cố và phát triển thêm nữa mối đoàn kết giữa các dân tộc Á - Phi và bảo vệ hòa bình thế giới”1. Cũng còn có một mục đích khác là cảm ơn nhân dân và chính phủ các nước đã ủng hộ, giúp đỡ Việt Nam trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập, tự do. “Tình nghĩa anh em Việt - Ấn - Miên” là một trong số các tác phẩm đặc biệt của Hồ Chí Minh được thể hiện theo thể nhật ký hành trình, trong đó Hồ Chí Minh là tác giả nhưng ẩn danh dưới danh nghĩa một người khác để thuật lại các hoạt động, thể hiện những cảm tưởng, nhận xét về chuyến đi của chính mình “một cách khách quan”. Trước tác phẩm “Tình nghĩa anh em Việt - Ấn - Miên”, có thể thấy một tác phẩm khác cùng loại là: “Nhật ký hành trình của Hồ Chủ tịch - Bốn tháng sang Pháp” được báo Cứu quốc trích đăng từ số 402, ngày 11/11/1946 đến số 439, ngày 17/12/1946 và một số mục còn lại được công bố tiếp trong Hồ Chí Minh: Toàn tập2. Nhật ký hành trình “Bốn tháng sang Pháp” ký tên Đ.H. gửi cho “Em Xuân và em Lan”, trong đó tường thuật lại toàn bộ các hoạt động của Hồ Chí Minh trong thời gian đi thăm Pháp (năm 1946) với tư cách là thượng khách của Chính phủ Pháp. Mặc dù rất bận với lịch làm việc dày đặc những cuộc thăm viếng, tiếp khách, hội đàm, dự mít tinh chào mừng, các bài phát biểu, các diễn văn quan trọng, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.296. 2. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.369-453. 57 vẫn dành thời gian để ghi chép, tường thuật rất cụ thể, đầy đủ về toàn bộ hành trình và các sự kiện của chuyến thăm. Người đưa ra những nhận xét rất sắc sảo về các hoạt động, tóm lược các ý kiến phát biểu quan trọng, miêu tả các hình ảnh đặc sắc về chuyến thăm mà mình chứng kiến. Trước một số sự vật, hiện tượng, Người còn dẫn giải về nguồn gốc lịch sử, đưa ra những đánh giá, nhận xét sắc sảo. Đến thăm Tagiơ Mahan, Người giải thích lịch sử hình thành công trình kiến trúc này và các đền đài, cung điện quanh đó. Cùng với việc mô tả tỉ mỉ về kiến trúc, ca ngợi đây là công trình “nổi tiếng là đẹp nhất ở Ấn Độ và trên thế giới”, Người cũng phê phán các bậc vua chúa xưa “không tiếc mồ hôi nước mắt của nhân dân” để xây dựng các cung điện, đền đài “tốn kém biết ngần nào mà kể” là “đáng trách”. Trong tác phẩm “Tình nghĩa anh em Việt - Ấn - Miên” có một chi tiết đặc biệt, mô tả giấc mơ của tác giả trong đêm ngồi xe lửa từ Đêli đi thành phố Nănggan. Giấc mơ về cảnh tác giả cùng nhiều người trong cơ quan đi tát nước chống hạn ở ngoại thành, trong đó có “cậu Lâm và cô Hạnh” là hai người “đang tìm hiểu nhau”. Lâm và Hạnh lại được xếp “cùng tát một gầu”. Vừa tát nước, Hạnh vừa cất tiếng hát: “Thi đua tát nước vào đồng, Tát bao nhiêu nước, em thương chồng bấy nhiêu”. Và khi tác giả giật mình thức giấc, “nhìn ra cửa sổ thì trời đã rạng đông”. Có thể nói, chi tiết về giấc mơ về tình yêu trai gái chỉ xuất hiện một lần duy nhất trong các tác phẩm báo chí của Hồ Chí Minh. Trước đó, một vài bài thơ trong tập Nhật ký trong tù, Hồ Chí Minh có nhắc đến tình yêu trai gái nhưng đó là những liên tưởng trực tiếp, cụ thể, trong tình trạng tỉnh táo. 58 Ví dụ trong bài thơ “Vợ người bạn tù đến nhà lao thăm chồng”, Hồ Chí Minh cảm thông, chia sẻ với cảnh: “Anh ở trong song sắt, Em ở ngoài song sắt; Gần nhau chỉ tấc gang, Mà cách nhau trời vực”. (Bản dịch của Nam Trân - Hoàng Trung Thông) Hoặc nghe tiếng sáo văng vẳng trong nhà lao mà Người liên tưởng đến cảnh: “Muôn dặm quan hà, khôn xiết nỗi, Lên lầu ai đó ngóng trông nhau” (Bài thơ “Người bạn tù thổi sáo”, Nam Trân dịch). Nếu có mơ, thì đó là giấc mơ được tự do, được trở về Tổ quốc đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc, đất nước, như “Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt,/Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh” (Nam Trân dịch). Vậy giấc mơ của Hồ Chí Minh trong chuyến đi thăm Ấn Độ ấy có ý nghĩa gì? Phải chăng giấc mơ đó là một ẩn ức về tình cảm, ẩn ức về cuộc sống rất con người của Hồ Chí Minh. Cái đặc biệt là tại sao ẩn ức ấy lại xuất hiện trong chuyến đi thăm Ấn Độ. Phải chăng những tình cảm tốt đẹp của nhân dân Ấn Độ đối với Việt Nam, đối với Hồ Chí Minh đã gợi mở những tình cảm trong sâu thẳm tâm hồn con người Hồ Chí Minh? 2. Hồ Chí Minh với Ấn Độ Trong quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã có cảm tình sâu sắc với nhân dân, đất nước, nền văn hóa và các lãnh tụ cách mạng Ấn Độ. Những cảm tình ấy xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử tương đồng của hai đất nước, hai dân tộc, cùng bị đế quốc, thực dân xâm lược, đô hộ, cùng đứng lên đấu 59 tranh anh dũng, nhằm lật đổ chế độ thuộc địa, thực dân áp bức, vì mục tiêu độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Chính trong đấu tranh cách mạng mà Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở các lãnh tụ cách mạng Ấn Độ sự đồng cảm, tin yêu và mến phục. Có thể chưa bao giờ gặp nhau, nhưng chính lý tưởng đấu tranh đã làm Hồ Chí Minh gần gũi, cảm thông với những người bạn, người đồng chí cùng lý tưởng, cùng chiến hào chiến đấu. Ngay trong nhà tù của Quốc dân Đảng Trung Quốc (từ tháng 8/1942 đến tháng 9/1943), giữa muôn vàn khó khăn, khổ ải, Hồ Chí Minh vẫn nhớ đến Nêru. Trong bài thơ “Gửi Nêru” (Nhật ký trong tù), Người viết: “Khi tôi phấn đấu, anh hoạt động, Tôi phải vào lao, anh ở tù; Muôn dặm xa vời chưa gặp mặt, Không lời mà vẫn cảm thông nhau”. (Bản dịch của Hoàng Trung Thông). Trong tác phẩm “Tình nghĩa anh em Việt - Ấn - Miên”, Hồ Chí Minh dành cho các lãnh tụ Ấn Độ tình cảm đặc biệt, dành cho đất nước, dân tộc và nhân dân Ấn Độ những nhận xét, đánh giá rất cao và rất trân trọng. Tình cảm đặc biệt ấy trước hết dành cho Thánh Găngđi. Trong lời phát biểu với đại biểu nhân dân thành phố Bombay ngày 10/02/1958, Hồ Chí Minh nhận xét thánh Găngđi là “người đã nêu cao đạo đức yêu nước, khắc khổ, nhẫn nại, suốt đời hy sinh cho Tổ quốc, cho nhân dân, cho hòa bình”1. Trong khi đặt vòng hoa tưởng nhớ Thánh Găngđi ở Rajghat, nơi ông bị ám sát, Hồ Chí Minh còn nhớ lại với lòng biết ơn rằng, từ năm 1947, khi “Ấn Độ đang đấu tranh giành độc lập”, 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.328-329. 60 “Thánh Găngđi đã không quên kêu gọi: “hoàn toàn đồng tình với nhân dân Việt Nam đang chiến đấu cho chính nghĩa”. Về sau, người tín đồ xuất sắc của Thánh Găngđi là Thủ tướng Nêru luôn luôn đồng tình và ủng hộ cuộc kháng chiến anh dũng của nhân dân ta”1. Trong đáp từ tại cuộc mít tinh của nhân dân Bombay chào mừng, Hồ Chí Minh một lần nữa cảm ơn nhân dân Ấn Độ, cảm ơn Thánh Găngđi và Thủ tướng Nêru đã “đồng tình và ủng hộ” đối với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Riêng nói về Thủ tướng Nêru, Hồ Chí Minh dùng những từ ngữ để đánh giá hầu như cao nhất có thể: “một vị lãnh tụ lỗi lạc”. Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhân dân hai nước chúng ta đã có quan hệ anh em từ lâu đời... Dưới ách thống trị của thực dân, quan hệ ấy tạm bị gián đoạn trong một thời kỳ. Nhưng tình hữu nghị cổ truyền vẫn luôn luôn gắn bó hai dân tộc chúng ta”2. Nhận định của Hồ Chí Minh về “quan hệ anh em từ lâu đời” giữa hai nước Việt Nam và Ấn Độ hoàn toàn dễ hiểu bởi những bằng chứng lịch sử. Quan hệ đó không chỉ do đạo Phật xuất phát từ Ấn Độ được truyền bá vào Việt Nam từ cách đây cả hơn chục thế kỷ trước. Trong bài báo “Tình hữu nghị Việt - Ấn” (Báo Nhân dân, 08/5/1956), Hồ Chí Minh viết: “Văn hóa Ấn Độ cùng đạo Phật truyền bá đến nước ta vào khoảng thế kỷ II, tức là gần 1.800 năm nay”. Trên thực tế, quan hệ Việt Nam với Ấn Độ còn được khẳng định bởi sự hiện diện và vai trò thực tế của cư dân người Ấn Độ ở vùng đất Nam Bộ. Theo tác giả Vương Hồng Sển, người Ấn Độ đã có mặt ở Sài Gòn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh) từ rất sớm. Thuở đó, cư dân ở vùng đất này bao gồm: Tây (người Pháp), Nam (người 1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.302, 306. 61 Việt Nam), Chà (người Ấn Độ), Chệt (người Hoa). Người Ấn Độ thời ấy thường làm nghề buôn bán, quản lý nhà đất, cho vay tiền. Thậm chí có đường phố thời ấy được coi là một “tiểu Ấn Độ” do có nhiều người Ấn Độ cư ngụ, nhiều công trình đền đài uy nghi của người Ấn Độ. Với thái độ trân trọng đối với đất nước, con người Ấn Độ, Hồ Chí Minh luôn luôn dành những lời tốt đẹp nhất để gọi tên, nhận xét và đánh giá về Ấn Độ: “Ấn Độ là một nước hùng mạnh”, “đất nước vĩ đại”, “đất nước Ấn Độ vĩ đại”, “Chính phủ và nhân dân Ấn Độ anh em”, “nước Cộng hòa Ấn Độ anh em”, “quê hương của một trong những nền văn minh lâu đời nhất trên thế giới”, “nhân dân Ấn Độ có một quá khứ vẻ vang và một tương lai càng rực rỡ”, v.v.. Trong lời phát biểu tại Cancútta, Hồ Chí Minh nói: “Chúng tôi cũng đã thấy rõ đất nước Ấn Độ, rất giàu có và tươi đẹp, nhân dân Ấn Độ rất khéo léo và cần cù, các nhà khoa học và kỹ sư Ấn Độ rất nhiều tài năng và cố gắng”1. Nhìn nhận vai trò, vị trí của Ấn Độ ở tầm vóc các quan hệ quốc tế đương thời, Hồ Chí Minh đánh giá cao về Ấn Độ. Người nhấn mạnh: “Ngày nay nước Cộng hòa Ấn Độ là một nước độc lập, đồng thời là một cường quốc đã có những cống hiến quý báu cho hòa bình ở châu Á và thế giới và Ấn Độ đang giữ một vai trò quan trọng trên trường quốc tế”2. Từ quan hệ tốt đẹp giữa hai nước trong lịch sử và những đánh giá cao về Ấn Độ đương thời, Hồ Chí Minh mong muốn “đưa tình nghĩa ấy vào tương lai” để xây dựng, củng cố mối quan hệ mới giữa hai nước, phục vụ cho ý nguyện chung là “xây dựng kinh tế trong nước và củng cố hòa bình trên thế giới”. 1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.343, 299. 62 3. Ấn Độ với Hồ Chí Minh và Việt Nam Theo những gì được tường thuật trong tác phẩm “Tình nghĩa anh em Việt - Ấn - Miên” thì các lãnh tụ và nhân dân Ấn Độ dành cho Hồ Chí Minh và dân tộc Việt Nam tình cảm anh em nồng thắm, thân thiết và trân trọng đặc biệt. Ở bất cứ đâu trên đất nước Ấn Độ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng được chào đón thật nồng nhiệt. Chính Thủ tướng Nêru đã nói trước hàng ngàn người trong cuộc mít tinh chào mừng Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Đêli rằng: “Chúng ta đã có dịp hoan nghênh với lòng kính trọng và yêu quý nhiều vị thượng khách từ các nước đến. Nhưng vị thượng khách mà chúng tôi hoan nghênh hôm nay thật là đặc biệt. Đặc biệt không phải vì chính trị hoặc vì lẽ gì khác, nhưng vì không vị thượng khách nào giản dị như vị thượng khách này và hễ gặp mặt là người ta phải yêu mến...”1. Phát biểu chào mừng Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Ấn Độ, Tổng thống Praxát nói: “Chúng ta hoan nghênh Chủ tịch, một vị lãnh tụ xuất sắc đồng thời là một chiến sĩ vĩ đại cho tự do”2. Trong bữa tiệc Chủ tịch Hồ Chí Minh chiêu đãi từ biệt Thủ đô Đêli lên đường đi Nănggan, Thủ tướng Nêru đã phát biểu với những ngôn từ hiếm thấy, vượt qua cả những nghi thức ngoại giao thông thường. Ông gọi Hồ Chí Minh là “một người vĩ đại, một bạn vĩ đại và một đồng chí vĩ đại”3. Thủ tướng Nêru nói: “Chúng ta đã tiếp xúc với một người mà người ấy là một bộ phận của lịch sử châu Á. Chúng ta gặp gỡ một vĩ nhân, đồng thời chúng ta gặp gỡ một đoạn lịch sử”4. Ông nhận xét với tình cảm xúc động, chân thành: “Thật là một sự sung sướng mà có một người vĩ đại và đáng yêu đến với chúng ta và, 1, 2, 3, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.354, 309, 318, 317. 63 mặc dù những mâu thuẫn trên thế giới hiện nay, người ta vẫn cảm thấy nhân đạo, hữu nghị và tình thương yêu nó sẽ xóa được mọi mâu thuẫn”1. Thủ tướng Nêru đã rất xúc động khi Hồ Chí Minh nhắc lại rằng năm 1927 đã gặp bố ông tại Brucxen trong Hội nghị quốc tế chống thực dân. Ông cho rằng, với thời gian lâu như thế mà Người vẫn nhớ, “chứng tỏ một cách rõ rệt phẩm chất vĩ đại của Hồ Chủ tịch”2. Ở bất cứ địa phương nào Hồ Chí Minh đến thăm, Người cũng được chào đón với tình cảm nồng hậu. Thị trưởng thành phố Bombay nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh “là một vĩ nhân”, “một người đại cách mạng”. Thị trưởng Cancútta gọi Hồ Chí Minh là: “người chiến sĩ anh dũng trong cuộc đấu tranh cho tự do”, “người giải phóng vĩ đại của loài người”, “người chính trị vĩ đại của nhân dân”. Không chỉ có các lãnh tụ, quan chức chính quyền, mà nhân dân Ấn Độ cũng dành cho Hồ Chí Minh những tình cảm yêu quý, cảm động. Việc Hồ Chí Minh kiên quyết không ngồi lên chiếc ghế đặc biệt “sơn son thếp vàng, bọc nhung đỏ, giống như một cái ngai vàng”3 trong một cuộc mít tinh, hay việc Người bế cháu bé mù, cháu “sờ râu sờ má Bác, rồi ôm chặt lấy Bác một cách rất âu yếm”4, đã để lại ấn tượng cảm động trong nhân dân. Khi Người xuống xe đi bộ trước Phủ Tổng thống, “Bà con đi đường thì rất vui mừng, họ chạy theo hoan hô Bác, như một cuộc biểu tình”5. Ta hiểu rằng, lãnh tụ và nhân dân Ấn Độ dành những tình cảm tốt đẹp cho Hồ Chí Minh cũng chính là thể hiện sự yêu mến, cảm phục đối với nhân dân Việt Nam. Bởi vì Hồ Chí Minh là đại diện xứng đáng nhất cho nhân dân, cho 1, 2, 3, 4, 5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.317, 304, 312, 312, 313. 64 dân tộc mình, một dân tộc dưới sự lãnh đạo của Người đã vùng lên đấu tranh, lật đổ sự thống trị, áp bức của thực dân, phong kiến, làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu. Nói như ông Thị trưởng thành phố Bombay, với cuộc đấu tranh anh dũng vì độc lập, tự do, “Việt Nam đã trở thành một lịch sử phi thường đầy kiên nhẫn hy sinh và tin tưởng”1. * * * Có thể nói, sự gần gũi về địa lý, những quan hệ gắn bó về văn hóa, xã hội, tôn giáo trong suốt chiều dài lịch sử nhiều thế kỷ và cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ giành độc lập, tự do của hai dân tộc tương đồng về số phận, là những yếu tố quyết định làm cho nhân dân và lãnh đạo hai nước Việt Nam và Ấn Độ trở nên gần gũi, gắn bó như tình anh em. Trên cơ sở những tình cảm tốt đẹp đó, chuyến đi thăm Ấn Độ của Chủ tịch Hồ Chí Minh đầu năm 1958 đã mở đầu một thời kỳ mới trong quan hệ giữa hai nước. Đúng như Tổng thống Praxát đã khẳng định: “Tôi tin chắc rằng việc Chủ tịch đến thăm nước chúng tôi sẽ đưa lại sự hợp tác ngày càng chặt chẽ giữa nhân dân Ấn Độ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”2. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng mong muốn và tin tưởng rằng cuộc đi thăm này sẽ “càng thắt chặt thêm nữa tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước”. Sự ra đời của tác phẩm “Tình nghĩa anh em Việt - Ấn - Miên” là một biểu hiện cụ thể của sự mong muốn ấy. Đó chính là cách truyền thông để làm cho rộng rãi cán bộ và nhân dân Việt Nam nhận thức được đầy đủ hơn những điều kiện tương đồng, gần gũi giữa hai đất nước, những tình cảm chân thành, 1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.327, 310. 65 thân thiết mà nhân dân Ấn Độ dành cho lãnh tụ Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam. Một khi mục đích truyền thông ấy đạt được, có nghĩa là các chủ trương, chính sách phát triển mối quan hệ giữa hai nước có cơ sở vững chắc để thực hiện thành công. Phải chăng đó là lý do mà Hồ Chí Minh dành thời gian và công sức để viết nên tác phẩm “Tình nghĩa anh em Việt - Ấn - Miên” như một phóng sự hành trình trường thiên đăng tải trên hàng chục số báo. Và hôm nay, đọc lại tác phẩm “Tình nghĩa anh em Việt - Ấn - Miên” ra đời từ hơn 60 năm trước, chúng ta càng cảm phục, trân trọng và biết ơn Hồ Chí Minh, người đã dày công gây dựng và vun đắp cho mối quan hệ tốt đẹp, toàn diện Việt Nam - Ấn Độ. 66 5 SỰ GIAO HÒA TRONG SÁNG TẠO BÁO CHÍ VÀ VĂN HỌC CỦA HỒ CHÍ MINH* Nói về Hồ Chí Minh, người ta thường nhắc đến một lãnh tụ thiên tài, nhà tư tưởng vĩ đại, danh nhân văn hóa lỗi lạc, một nhân cách trong sáng và nhân văn đến tuyệt vời. Nhưng sẽ là rất thiếu sót nếu không nhắc đến Người với tư cách một nhà báo, một nhà văn tài năng và nhiệt huyết. Trong 50 năm kể từ bài báo đầu tiên “Vấn đề dân bản xứ” đăng trên tờ L’Humanité ngày 02/8/1919, Người đã viết hơn 2.000 bài báo, làm gần 300 bài thơ, viết hàng trăm truyện, ký, vở kịch bằng các thứ tiếng Việt, Pháp, Nga, Hán. Bài viết này nhằm tìm hiểu một số vấn đề về mối quan hệ trong sáng tạo báo chí và văn học của Hồ Chí Minh. 1. Khái quát hoạt động sáng tạo báo chí và văn học của Hồ Chí Minh Có thể chia hoạt động sáng tạo báo chí và văn học của Hồ Chí Minh thành 4 thời kỳ chủ yếu, phù hợp với những giai đoạn phát triển của cách mạng Việt Nam. * Bản thảo năm 2000 có sửa chữa, bổ sung. 67 Thời kỳ thứ nhất từ năm 1919 đến trước năm 1930, hoạt động sáng tạo báo chí và văn học của Hồ Chí Minh tập trung vào hai chủ đề là tố cáo, lên án chế độ thống trị của chủ nghĩa thực dân Pháp đối với các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam; tuyên truyền, giới thiệu tư tưởng Mác - Lênin, động viên tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tập hợp lực lượng cách mạng nhằm tới mục tiêu cứu nước, cứu dân. Với sự động viên, hướng dẫn và giúp đỡ của các đồng chí đảng viên Cộng sản Pháp, Hồ Chí Minh bắt đầu viết các bài báo đăng trên các báo L’Humanité (Nhân đạo) và La Vie Ouvriére (Đời sống thợ thuyền). Về sau, Người trực tiếp chủ trì từ biên tập, viết bài, tổ chức in ấn, phát hành tờ báo Le Paria (Người cùng khổ) - cơ quan của Hội Liên hiệp thuộc địa. Năm 1925, cuốn sách bằng tiếng Pháp nổi tiếng Bản án chế độ thực dân Pháp chủ yếu tập hợp các bài báo của Hồ Chí Minh lên án chế độ cai trị độc ác, dã man, đẫm máu và nước mắt của thực dân Pháp tại Đông Dương và các nước thuộc địa, đã được xuất bản lần đầu tiên tại Paris. Đầu năm 1927, tác phẩm Đường cách mệnh của Hồ Chí Minh - một cuốn sách có ý nghĩa đặc biệt trong lịch sử cách mạng Việt Nam, được Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản. Cuốn sách tập hợp các bài giảng của Người cho các lớp đào tạo cán bộ cách mạng Việt Nam tại Quảng Châu, Trung Quốc trong thời gian từ năm 1925 đến năm 1927. Tác phẩm trở thành cẩm nang cho những người cách mạng Việt Nam, kim chỉ nam cho họ trong vận động, tổ chức lực lượng, xây dựng tổ chức, thực hiện cuộc đấu tranh cách mạng. Từ Quảng Châu, Trung Quốc, Người sáng lập báo Thanh niên, truyền bá tư tưởng cách mạng về đất nước. Báo Thanh niên cũng trở thành điểm khởi đầu cho lịch sử báo chí Cách mạng Việt Nam. 68 Trong thời kỳ này, Người đã viết vở kịch Con rồng tre và một số truyện ký. Vở kịch Con rồng tre viết bằng tiếng Pháp nhằm châm biếm sự kiện vua Khải Định sang Pháp để tham gia Hội chợ thuộc địa Marseille và đã được nhà báo Pháp Léo Poldes (1891-1970), chủ nhiệm Câu lạc bộ Faubourg, cho công diễn tại ngoại ô Paris. Thời kỳ thứ hai từ năm 1930, khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đến trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đây là thời kỳ mà điều kiện hoạt động của Hồ Chí Minh trải qua nhiều thử thách vô cùng khó khăn, nguy hiểm, với 2 lần bị bỏ tù: từ tháng 6 năm 1931 đến đầu năm 1933 bị giam trong nhà tù của thực dân Anh tại Hồng Kông và có một năm từ tháng 8/1942 đến tháng 9/1943, bị đày ải trong các nhà tù của Quốc dân Đảng Trung Quốc. Trong thời kỳ này, cuối năm 1930, Hồ Chí Minh đã sáng lập và trực tiếp tổ chức bài, in ấn tạp chí Đỏ - cơ quan lý luận đầu tiên của Đảng, và báo Việt Nam độc lập ra số đầu tiên ngày 01/8/1941 - cơ quan của Tỉnh bộ Việt Minh Cao Bằng, về sau trở thành cơ quan của Liên Tỉnh bộ Việt Minh 3 tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn. Cũng trong thời kỳ này, Người đã viết cuốn tiểu thuyết Nhật ký chìm tàu, nhưng rất tiếc là hiện nay vẫn chưa tìm thấy. Từ năm 1941, Người viết nhiều bài thơ động viên tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc trong các tầng lớp nhân dân. Đặc biệt, đầu năm 1942, Người viết bài diễn ca thể lục bát Lịch sử nước ta (từ năm 2879 trước Công nguyên đến năm 1942) dài 210 câu, trong đó có dự báo thiên tài: “1945 - Việt Nam độc lập”. Dấu ấn nổi bật trong sáng tạo văn học của Hồ Chí Minh là tác phẩm Nhật ký trong tù, trong đó gồm 135 bài thơ 69 chữ Hán được Người viết trong thời gian bị giam giữ trong các nhà tù của Quốc dân Đảng Trung Quốc. Tập thơ tràn đầy tình cảm nhân đạo, tinh thần lạc quan, ý chí sắt đá của người chiến sĩ cách mạng, và cũng thật đặc sắc, tài hoa. Như nhà thơ Viên Ưng (Trung Quốc) đã nhận xét khi đọc Nhật ký trong tù: “Chúng ta được gặp tâm hồn vĩ đại của một bậc đại trí, đại nhân, đại dũng... Tôi cảm thấy trái tim vĩ đại đó đã tỏa ra ánh sáng chói ngời trong hoàn cảnh tối tăm”. Thời kỳ thứ ba từ năm 1946, khi thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta, đến chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, tháng 5/1954. Trong thời kỳ này, Hồ Chí Minh viết nhiều, đa dạng, với các loại hình, thể loại khác nhau, bám sát tình hình thời sự của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Bắt đầu từ đầu năm 1947, Người đều đặn có thơ chúc Tết đồng bào, chiến sĩ cả nước. Mỗi bài thơ Tết của Người như phương châm, quyết sách hành động cho cả năm, như mệnh lệnh chiến đấu, như hồi kèn xung trận thúc giục, động viên quân và dân ta tiến lên trong sự nghiệp kháng chiến kiến quốc. Nhằm kịp thời tuyên truyền, vận động nhân dân trong đấu tranh cách mạng và lao động, sản xuất, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết một số tập sách nhỏ như Đánh du kích như đánh cờ, Việt Bắc anh dũng, Giấc ngủ mười năm. Những tập sách này đều được thể hiện bằng văn phong giản dị, ngắn gọn, dễ hiểu, gần gũi với nhân dân lao động. Tác phẩm Sửa đổi lối làm việc ra đời tháng 10/1947 trở thành một tác phẩm kinh điển về lãnh đạo và xây dựng Đảng, chính quyền nhà nước. Một loạt tác phẩm, tiểu phẩm của Người cũng xuất hiện trong thời kỳ này, trong đó châm biếm, mỉa mai, lên án những hành động tàn ác, những thất bại thảm hại của thực dân xâm lược Pháp 70 và bè lũ tay sai bán nước. Ngay từ năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết và đăng trên báo Nhân dân những tiểu phẩm vạch mặt, châm biếm những hành động gây chiến tranh, cảnh báo và lên án những âm mưu của đế quốc Mỹ chống lại cách mạng Việt Nam. Điều ấy cho thấy nhãn quan chính trị sắc bén, tinh tường, ý thức cảnh giác cách mạng cao của Người. Thời kỳ thứ tư từ cuối năm 1954 khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng đến năm 1969 khi Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩnh biệt chúng ta đi vào thế giới người hiền. Trên báo Nhân dân và một số tờ báo khác liên tục xuất hiện các bài báo của Người dưới những bút danh khác nhau về các vấn đề xây dựng đất nước, phát triển sản xuất, tổ chức đời sống xã hội. Người quan tâm đến những vấn đề lớn của đất nước, của chủ nghĩa xã hội, đồng thời không quên những sự kiện, những công việc, chi tiết nhưng có ý nghĩa giáo dục đối với cán bộ, đảng viên, động viên đối với các tầng lớp nhân dân. Người đặc biệt quan tâm đến việc biểu dương những gương người tốt, việc tốt trong xã hội. Người tiếp tục viết các tiểu phẩm báo chí, bám sát từng bước đi, từng thất bại của đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai. Ngòi bút sắc sảo, cái nhìn tinh tường của Người luôn phát hiện được những sự kiện, hiện tượng thể hiện đúng bản chất, dã tâm của kẻ thù để ra đòn với tiếng cười châm biếm, tố cáo, vạch mặt chúng. Một loạt các tiểu phẩm đặc sắc của Người được đăng tải trên các báo. Ngoài các tiểu phẩm chống kẻ thù, Người cũng viết một số tiểu phẩm phê bình những thói hư, tật xấu, những biểu hiện tiêu cực trong nội bộ nhân dân, cán bộ ta. Cũng là cái cười châm biếm, song trong các tác phẩm này, sự phê phán của Người lại mang tính bao dung, xây dựng, khuyến khích sửa chữa, khắc phục. Theo truyền thống, Người duy trì thơ xuân chúc Tết cho đến trước khi đi xa. Mỗi bài thơ 71 xuân của Người như một bản hiệu triệu, một bản cương lĩnh hành động chung trong cả nước trong một năm mới. Đặc biệt, trong thời kỳ này, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết một số tác phẩm văn xuôi như: Vừa đi đường vừa kể chuyện ký tên T. Lan, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch ký tên Trần Dân Tiên. Qua các tác phẩm này, chúng ta có thể tìm hiểu thêm về cuộc đời hoạt động cách mạng vô cùng phong phú của Người, để càng thêm kính yêu và biết ơn đối với công lao trời biển của Người. 2. Ranh giới giữa văn học và báo chí trong trước tác của Hồ Chí Minh Trong bài nói chuyện tại Đại hội lần thứ II Hội Nhà báo Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kể lại kinh nghiệm viết của mình. Người nói: “Lúc ở Pari, tuy biết nhiều tội ác của thực dân Pháp, nhưng không biết làm thế nào để nêu lên được. Một đồng chí công nhân ở tòa báo Đời sống thợ thuyền cho Bác biết báo ấy có mục “tin tức vắn”, mỗi tin chỉ năm ba dòng thôi và bảo Bác có tin tức gì thì cứ viết, đồng chí ấy sẽ sửa lại cho. Từ đó, ngoài những giờ lao động, Bác bắt đầu viết những tin rất ngắn. Mỗi lần viết thành hai bản, một bản đưa cho báo, một bản thì giữ lại. Lần đầu tiên thấy tin được đăng thì rất sung sướng... Khi đã biết viết báo, mình lại muốn viết tiểu thuyết. Nhưng lại e rằng biết chữ Tây võ vẽ như mình thì viết tiểu thuyết sao được. Tình cờ đọc một truyện ngắn của Tônxtôi, thấy viết một cách rất giản dị, dễ hiểu, thì cho rằng mình cũng viết được... Từ đó mình bắt đầu viết truyện ngắn”1. 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.168. 72 Có thể thấy điều rõ ràng ở đây là Hồ Chí Minh ngay từ đầu đã phân biệt rạch ròi giữa văn và báo. Người đã tập viết báo với cách làm không ít công phu, bắt đầu từ viết ngắn đến viết dài. Khi đã viết được dài rồi lại tập viết ngắn trở lại. Với sự giúp đỡ của người đang làm báo, Hồ Chí Minh đã từng bước vừa làm, vừa học, vừa tiếp cận những bí quyết, vừa thử nghiệm những kỹ năng nghề nghiệp để tự khẳng định “biết viết báo”. Tuy nhiên, viết truyện ngắn lại là một chuyện khác. Vì thế, Người đã e rằng không thể viết truyện ngắn được, trước hết do trình độ tiếng Pháp hạn chế. Chính nhờ hình mẫu một truyện ngắn của Tônxtôi - nhà văn lớn người Nga mà Hồ Chí Minh đã mạnh dạn bắt tay viết các truyện ngắn. Vậy thì trên thực tế, đâu là ranh giới của hai loại hình văn học và báo chí trong hoạt động sáng tạo của Hồ Chí Minh? Chúng thể hiện như thế nào trong di sản văn học và báo chí của Người? Có thể nói, cách thức khai thác, lựa chọn phản ánh các chất liệu cuộc sống vào các tác phẩm là ranh giới quan trọng nhất và chủ yếu để phân biệt báo chí và văn học của Hồ Chí Minh. Nhìn một cách tổng thể, những gì được khai thác, phản ánh trong các tác phẩm của Hồ Chí Minh đều là những sự kiện, hiện tượng thời sự nóng hổi có liên quan mật thiết tới đời sống chính trị - xã hội của dân tộc, đất nước trong từng thời kỳ lịch sử. Nếu coi sự xuất hiện liên tiếp của những sự kiện thời sự gắn bó chặt chẽ với vận mệnh của dân tộc là dòng chảy thời cuộc, thì hầu như tất cả những chất liệu cuộc sống được Hồ Chí Minh khai thác và phản ánh đều là những điểm sáng nổi bật trong dòng chảy ấy. Trong các tác phẩm báo chí, đó là sự khai thác, phản ánh khách quan, trực tiếp các sự kiện, hiện tượng thời sự. Ở thời kỳ trước năm 1930, Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý phản ánh các tội ác 73 của những tên thực dân cùng bộ máy cai trị và bọn tay sai của chúng tại các nước thuộc địa nhằm vạch bộ mặt thật của chúng trước công chúng Pháp, tạo lập tiếng nói ủng hộ từ các tầng lớp nhân dân Pháp đối với công cuộc đấu tranh giải phóng chính nghĩa của nhân dân ta. Bản án chế độ thực dân Pháp tập trung tiêu biểu cho xu hướng này. Có thể nói, đây thực chất là những bài viết của Hồ Chí Minh dưới dạng tiểu phẩm đã đăng tải trên tờ Le Paria, được tập hợp, biên soạn lại thành một cuốn sách hoàn chỉnh. Nói như Xích Điểu, đây là “một thiên tiểu phẩm dài hay nói đúng hơn, là một tác phẩm gồm nhiều bài tiểu phẩm được sắp xếp theo một chủ đề thống nhất”1. Trong Bản án chế độ thực dân Pháp, “chủ đề thống nhất” ấy chính là vạch mặt, tố cáo chế độ thực dân bóc lột, áp bức dã man, phi nhân đạo ở các nước thuộc địa của Pháp. Thực tế ấy được phơi bày qua 12 chương sách, trong đó phản ánh các sự kiện, hiện tượng từ ba mảng hiện thực: các chính sách thực dân phản động; bọn thực dân, quan lại, tay sai bóc lột, tham lam, độc ác, vô nhân đạo; những người dân bản xứ bị áp bức, lầm than, bị bọn thực dân coi như nô lệ, ngựa trâu. Hiện thực trong các chương sách này rất sinh động, cụ thể, với những con người, sự việc, địa danh rõ ràng, không thể chối cãi. Tác giả vạch mặt, chỉ tên đích danh những tên thực dân đang thực hiện hay phải chịu trách nhiệm về những hành vi tội ác, từ các Toàn quyền Đume, Môrixơ Lông, Bộ trưởng Bộ thuộc địa Anbe Xarô, công sứ Thái Nguyên Đáclơ đến những tên tướng, tá, quan tòa, cẩm, cai đội, hiến binh,... của bộ máy thống trị thực dân Pháp. Tất cả các tội ác của chúng đều có bằng chứng rõ ràng là các sự việc, con số cụ thể, nói có sách, mách có chứng, 1. Nhiều tác giả: Tập nghiên cứu bình luận chọn lọc về thơ văn Hồ Chủ tịch, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1978, tr.290. 74 không thể chối cãi. Trong nhiều trường hợp, tác giả sử dụng chính lời nói của kẻ thù để làm tăng sức nặng cho những điều mình lên án, kết tội. Ví dụ, ở Chương VI - Tệ tham nhũng trong bộ máy cai trị, Hồ Chí Minh trích dẫn lời của một cựu nghị sĩ đi thăm thuộc địa về và nhận xét: “So với bọn viên chức thuộc địa thì những tên cướp đường còn là những người lương thiện!”1. Lời thú nhận ấy có sức thuyết phục như một bằng chứng, một cứ liệu đắt giá trong tác phẩm báo chí. Trong hàng trăm bài báo của Hồ Chí Minh đăng trên các báo Le Paria, L’Humanité, La Vie Ouvrière, tập san Inprekorr..., điều mà Hồ Chí Minh dành sự tập trung chủ yếu nhất vẫn là tố cáo, lên án chủ nghĩa thực dân Pháp và chế độ thuộc địa dã man của chúng qua những số liệu, sự việc khách quan, cụ thể. Khi lên án chế độ giáo dục ngu dân của thực dân Pháp ở các xứ thuộc địa, trong bài “Giáo dục quốc dân” (Báo Le Paria, số 29, tháng 9/1924), Hồ Chí Minh đã đưa ra cả một bảng thống kê so sánh về dân số, số trường học, số học sinh ở 10 xứ thuộc địa thuộc Pháp. Qua các số liệu trong bảng thống kê rất dễ dàng nhận thấy tình trạng tồi tệ của hệ thống giáo dục tại các thuộc địa của Pháp, minh chứng rõ ràng rằng thực tế thì thực dân Pháp chỉ lo cách bóc lột người bản xứ, còn những luận điệu như: “chế độ bảo hộ”, “khai hóa văn minh”... chỉ là lừa bịp, dối trá. Hoạt động sáng tạo báo chí của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những thời kỳ sau này càng mang đậm tính chất một phong cách rất riêng. Đó là phát hiện, phản ánh vào tác phẩm báo chí những sự kiện nóng hổi tính thời sự với nội dung hàm súc nhất trong hình thức ngắn gọn, cô đọng nhất với những 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.77. 75 liên hệ sắc sảo và bất ngờ nhất. Phong cách này thể hiện đặc biệt rõ nét trong các tiểu phẩm báo chí của Người. Một số tiểu phẩm báo chí của Người dựa trên cơ sở một câu chuyện, một sự kiện hay một số chi tiết trong một sự kiện, hiện tượng thời sự rồi phát triển các mối quan hệ để tạo ra một logic châm biếm. Thông điệp cơ sở trong các tiểu phẩm báo chí của Hồ Chí Minh nhiều khi có ý nghĩa như một tin tức sốt dẻo vẫn được sử dụng trong những bản tin thời sự đăng trên các tờ báo hay các bản tin phát thanh, truyền hình. Ví dụ, trong tiểu phẩm Đalét phun nọc độc ở miền Nam Việt Nam, Hồ Chí Minh bắt đầu bằng một thông tin mới: “Ngày 28/02/1955, vừa chân ướt chân ráo tới Sài Gòn, tên hiếu chiến Đalét đã thốt ra rằng: “Nước Việt Nam “tự do” sẽ được “hưởng” những quyết định của Hội nghị Băng Cốc...”1. Có thể nói đây chính là thông điệp cơ sở và từ thông điệp này, tác giả đã đưa ra một loạt thông tin, số liệu, chứng cớ khác nhằm lột mặt nạ giả dối trong lời tuyên bố của tên trùm gián điệp Mỹ Đalét. Mặt khác, nếu so sánh thời điểm Đalét đến Sài Gòn và phát biểu những lời lừa bịp là ngày 28/02/1955 với ngày bài báo được đăng trên báo Nhân dân là ngày 03/3/1955, chúng ta có thể thấy rằng trong điều kiện thông tin hoàn toàn không dễ dàng như thời đó, tác giả đã đưa tin và đánh giá sự kiện thật nhanh, thật sắc sảo, như một bài bình luận thời sự thực thụ. Một số tiểu phẩm khác của Hồ Chí Minh được hình thành chủ yếu bằng cách tổ chức, sắp xếp các chi tiết thông tin thuần túy từ các sự kiện thời sự. Sự khác nhau về quy mô, tính chất, khuynh hướng giữa các chi tiết thông tin thời sự ấy với nhau hay giữa các chi tiết thông tin thời sự ấy với môi trường xã hội, 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.357. 76 với ngữ cảnh của câu chuyện đã dẫn dắt và tạo nên những mâu thuẫn bất ngờ, gây nên tiếng cười châm biếm, chế giễu kẻ thù. Ví dụ, tiểu phẩm Tin “mừng” cho lính Mỹ (Báo Nhân dân, 11/3/1966) được hình thành từ hai phần với hai loại chi tiết thông tin khác nhau. Phần thứ nhất phản ánh tình hình bi đát của binh lính Mỹ ở miền Nam Việt Nam với các chi tiết thông tin về trạnh thái khủng hoảng tinh thần của chúng, về sự khổ sở và những cái chết bất ngờ, thê thảm lúc nào cũng treo lơ lửng trên đầu những kẻ xâm lược, về tình hình thương vong nặng nề và nguy cơ thất bại không thể tránh khỏi của quân đội Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Phần hai của tác phẩm là thông tin về những tin “mừng” cho lính Mỹ: “- Báo Nhật đăng tin: Mỹ mới đặt mua ở Nhật 40 vạn cái bao đựng xác chết bằng chất dẻo để dùng cho quân đội xâm lược Mỹ ở Việt Nam. Thế là tạm đủ. Đó là tin thứ nhất. - Quốc hội Mỹ vừa quyết định: Khi những lính Hoa Kỳ trở về Mỹ, chúng sẽ được quyền ưu tiên có việc làm, có phòng ở và được cấp thuốc men khi đau ốm. Những tên lính nào đã được dùng bao bằng chất dẻo, thì thôi. Đó là tin thứ hai. - Vợ tổng thống Philíppin là Macô phu nhân đã hứa với tổng Zoon, bà ta sẵn sàng cho cậu con trai bảy tuổi của bà sang để giúp thêm lực lượng cho quân đội xâm lược Mỹ ở Việt Nam. Đó là tin thứ ba...”1. Ba tin “mừng” cho lính Mỹ thật đáng giá. Chúng được dẫn lại từ báo chí nước ngoài như những chi tiết thông tin thời sự sốt dẻo. Nếu đem so sánh, đặt các tin “mừng” này sau tình trạng bi đát trên chiến trường của lính Mỹ, người ta sẽ thấy tình cảnh càng thêm trớ trêu, tạo nên tiếng cười thật hóm. 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.56. 77 Đối với các tác phẩm văn học của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các sự kiện thời sự đóng vai trò như nguyên nhân, nguồn gốc xuất phát của hình tượng văn học, của logic phát triển nội dung hư cấu, cũng như sự biểu đạt cái tôi của tác giả. Và cao hơn tất cả là hoài bão lớn lao, mục đích cao cả của cả cuộc đời, nỗi niềm luôn đau đáu trong trái tim Người - làm thế nào để xóa nỗi nhục mất nước, cởi ách nô lệ, giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho đất nước, mang lại hạnh phúc cho nhân dân. Nếu thơ là ánh sáng bừng lên, là âm hưởng vọng lại từ những cảm xúc của trái tim thì trong thơ Hồ Chí Minh, những lời thầm thì từ trái tim luôn luôn tạo thành cảm hứng không chỉ đồng hành mà còn hòa quyện hữu cơ với mục đích và tư tưởng chính trị. Những sự kiện, chi tiết trong dòng thời sự chủ lưu luôn luôn là nguyên nhân, chất xúc tác cho những cảm hứng sáng tạo thơ của Người. Đồng thời những cảm hứng sáng tạo đó bao giờ cũng hội tụ về một tiêu điểm trung tâm, đó là tính mục đích chính trị. Nói cách khác, thơ Hồ Chí Minh bắt đầu từ những cái đẹp nhỏ bé, chi tiết của những điểm sáng trong nhịp sống thường nhật để đi đến cái đẹp rộng lớn hơn, hoàn mỹ hơn, cái đẹp hài hòa, hoàn thiện của mục đích, lý tưởng cách mạng cứu nước, cứu dân. Xúc động trước cảnh hùng vĩ của Pác Bó, Người viết: “Non xa xa, nước xa xa, Nào phải thênh thang mới gọi là. Đây suối Lênin, kia núi Mác Hai tay xây dựng một sơn hà.”1 Cái đẹp của nước non Pác Bó gợi lên một phong cảnh hùng vĩ và chính sự hùng vĩ ấy càng thôi thúc một nỗi niềm da diết trong lòng Người - nỗi niềm về đất nước quê hương đang rên 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.227. 78