🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bán đảo Ả Rập
Ebooks
Nhóm Zalo
BÁN ĐẢO Ả RẬP
Tác giả: Nguyễn Hiến Lê
Thể loại: Lịch sử
Nhà xuất bản: Văn hóa
Năm xuất bản: 1994
Khổ: 13×19 cm
Đánh máy (TVE):
quocdung, dqskiu, binhnx2000, ttdd, ngbichthuy
Sửa chính tả (TVE): nambun
Tạo eBook lần đầu (01/09/‘06): tovanhung
Tạo lại (01/01/‘16): QuocSan
MỤC LỤC:
Tựa
Phần I. MỘT CHÚT LỊCH SỬ
§I. Bản lề của ba châu: Á, Phi, Âu
Lòng bán đảo
Lưỡi liềm phì nhiêu
Miền sông Nil
Miền Maghreb
§II. Bán đảo Ả Rập thời thượng cổ
Văn minh cổ Ai Cập
Văn minh Mésopotamie
Dân tộc Hébreu
Phần II. Đế quốc của Hồi giáo
§III. Mohamed và Hồi giáo
Mohamed sáng lập Hồi giáo
Mohamed thống nhất Ả Rập
§IV. Đế quốc Ả Rập đợt xâm lăng thứ nhất
Đợt xâm lăng thứ nhì
Thiên đường của Ả Rập
Văn minh Ả Rập
Ả Rập bị Thổ đô hộ
§V. Con bệnh Thổ và các bác sỹ tây phương với Mustapha Kémal Napoleon có công đánh thức dân tộc Ả Rập không? Con bệnh Thổ
Pháp đào kênh Suez – Anh, Pháp ngoạm lần đế quốc Thổ Anh tìm được dầu lửa ở Ba Tư
Hiệp Ước Sèvres – Anh Pháp chia cắt Thổ
Phần III. ĐẾ QUỐC CỦA DẦU LỬA MÀN NHẤT: ANH – PHÁP §VI. Anh – Pháp chia nhau bán đảo Ả Rập
Ba Tư và Afghanistan canh tân
Vấn đề hồi giáo ở Nga sau cuộc Cách Mạng Tháng Mười Chính sách mâu thuẫn của Anh ở Ả Rập – Mật ước Sykes – Picot Lawrence muốn lập sự nghiệp ở Ả Rập
Cuộc khởi nghĩa của Ả Rập
Anh nuốt lời hứa với Ả Rập – Lawrence hối hận
§VII. Ibn Séoud, vị anh hùng chinh phục sa mạc
Chí lớn của Ibn Séoud
Ibn Séoud chiếm lại được Ryhad
Ibn Séoud lập đồn điền để nắm được dân
Ibn Séoud chiếm La Mecque, làm vua xứ Ả Rập Saudi Ibn Séoud trị dân và phát triển canh nông
Mỹ tìm được mỏ dầu ở Ả Rập Saudi
§VIII. Các phong trào quốc gia ở thuộc địa Anh và Pháp
Phong trào quốc gia ở Ai Cập
Anh phá ngầm Pháp ở Liban và Syrie – cuộc khởi nghĩa của dân tộc Druse Cuộc khởi nghĩa ở Maroc
Sáu tiểu bang Hồi giáo ở Nga
§IX. Do Thái trở về “đất hứa” ở Palestine
Tình cảnh Do Thái ở các nước Hồi giáo
… Và ở Châu Âu
Herzl và cuốn “Quốc Gia Do Thái”
Bản Tuyên ngôn Balfour
§X. Thế chiến thứ nhì
Tình hình Anh đầu thế chiến
Trận Bắc Phi và ảnh hưởng của nó tới Ai Cập
Iraq khởi nghĩa và thất bại
Anh mau chân, chiếm Syrie và Liban của Pháp
Mỹ hất cẳng Anh ở Ả Rập Saudi
Anh, Nga tranh giành ảnh hưởng ở Iran
Tình hình yên ổn ở Transjordanie và Palestine
Phần IV. ĐẾ QUỐC CỦA DẦU LỬA MÀN HAI: MỸ – NGA §XI. Tình hình bán đảo Ả Rập sau thế chiến thứ nhì
§XII. Chiến tranh lập quốc Israel
Do Thái xung phong vào Palestine
Chiến tranh Ả Rập – Israel
Các quốc gia Ả Rập đều quyết tâm xé bỏ Hiệp Ước 1949 Israel phát triển mạnh
§XIII. Bình minh trên sông Nil
Nasser trong chiến tranh 1948-49
Nasser đảo chính truất ngôi Farouk
Nasser làm tổng thống
§XIV. Hiệp ước Bagdad
Chính sách Menderès ở Thổ
Mỹ giúp Thổ chống Nga
Thố móc Otan vào Otase
Mossadegh quốc hữu hóa dầu lửa
Các quốc gia Ả Rập phản đối Hiệp Ước Bagdad
§XV. Từ vụ quốc hữu hóa kinh Suez tới chiến tranh Suez Nasser nhận viện trợ của Nga mà không theo Nga
Nasser quốc hữu hóa kinh Suez
Phản ứng của Mỹ – Anh – Pháp
Âm mưu Israel – Pháp – Mỹ
Chiến tranh Suez
Hậu quả của chiến tranh Suez
§XVI. Eisenhower và hai ông vua Ả Rập
Chính sách Eisenhower
Vua Saud và em là Fayçal
Saud qua Mỹ
Ả Rập chia làm hai phe
§XVII. Liên minh Ả Rập và khối cộng hòa Ả Rập thống nhất Vua Hussein
Biến cố năm 1957 ở Jordanie
Liên minh Ả Rập
Tình hình Syrie sau thế chiến – dầu lửa Anh và dầu lửa Mỹ vật nhau Khối cộng hòa Ả Rập thống nhất
§XVIII. Iraq hát khúc Marseillaise
Đời sống nhân dân Iraq
Đời sống dân thành thị
Nouri Said, Pierre Laval của Iraq
Cách mạng 14-7-1958
Chia rẽ trong nội bộ
Chẳng có gì thay đổi cả!
§XIX. Hợp rồi chia, chia rồi hợp – chiến tranh dầu lửa Đảo chính và đảo chính! Tân cộng hòa Ả Rập!
Đảo chính ở Thổ
Chiến tranh dầu lửa
Koweit, thánh địa của đế quốc dầu lửa
§XX. Chiến tranh Israel – Ả Rập năm 1967
Israel chuẩn bị chiến tranh
Trung Quốc xen vào, tình hình thêm căng thẳng
Ả Rập đại bại
Nasser quá tin Nga và mang nhục
Tựa
Bán đảo Ả Rập là đế quốc của Hồi giáo mà cũng là đế quốc của dầu lửa vì dầu lửa chi phối nó cũng như Hồi giáo, còn mạnh hơn Hồi giáo.
Hồi giáo xuất hiện thế kỷ thứ VII, phải dùng mấy trăm ngàn quân trên một thế kỷ mới chinh phục được một đế quốc tuy là rộng lớn nhất thời cổ nhưng cũng chỉ gồm miền Tây Á, Trung Á, Bác phi và Tây NamÂu, tức khu ven Địa Trung Hải, Hồng Hồi, vịnh Ba Tư, từ Đại Tây Dương tới sông Indus.
Dầu lửa mới xuất hiện ở tây bắc bán đảo Ả Rập (Mésopo-tamie) từ sau Thế chiến thứ nhất – hiện nay ở Kirkuk du khách còn được trông thấy cái mả giếng dầu đầu tiên của Iraq, cũng có thánh giá, cũng có mộ bia ghi ngày sinh 15-10-1927 và ngày tử 28-8-1940 – mà chỉ trong ba bốn chục năm đã chinh phục được ba phần tư thế giới, châu Âu, châu Á, châu phi và còn phát triển nữa vì người ta đã tính dầu ở bán đảo Ả Rập chiếm 80% dầu trên thế giới.
Hồi giáo hiện nay, sau 13 thế kỷ phát triển bằng gươm súng, kinh sách, nghệ thuật, mới có được khoảng 400 triệu tín đồ, một phần sáu nhân số trên địa cầu; còn dầu lửa Ả Rập thì đã “ban phước lành” cho ít nhất là một tỷ rưỡi người.
Nó còn linh thiêng hơn Mohamed: các chính khách, kinh tế gia lỗi lạc nhất Tây phương: Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Ý, Hà Lan, bây giờ lại thêm cả Nhật, chỉ đánh thấy cái hơi của nó thôi cũng đủ mê man, nhẩy tưng tưng lên, hoa dân múa tay như bị vía Cô, vía Bà nhập vậy. Ngay như người Mỹ trung thành rất mực với “the american way of life” (lối sống Mỹ) mà cũng chịu nhìn whisky soda, coca cola, nước cà chua, thịt bò áp… mà ăn chà là, uống nước giếng, cải trang làm Ả Rập đi lang thang trong sa mạc để đánh hơi dầu lửa.
Sức mạnh của dầu lửa kinh khủng, cả Hồi giáo, Ki Tô giáo, Phật giáo… chống lại cũng không nổi. Ta cứ ví dụ rằng bao nhiêu kinh sách của các tôn giáo đó bỗng mất hết và tất cả các tu ni trên thế giới bỗng ăn cháo lú, quên hết những lời Chúa dạy, Phật dạy thì nhân loại có thể kém văn minh một chút, nhưng nhất định là vẫn tồn tại. Nhưng nếu các giếng dầu trên thế giới bỗng nhiên chết “bất tử” như giếng Kirkuk năm1940 thì chẳng những cả nền văn minh vĩ đại của chúng ta sụp đổ mà nhân loại sẽ chết đói, chết rét đến một nửa là ít. Không có dầu lửa thì không có điện, xe hơi, máy bay, máy cày, máy lạnh, máy suối, vân cân, kỹ nghệ sẽ chết đứng và canh nông sẽ ngắc ngoải. Đã xây mả cho dầu lửa thì tại sao người ta không nghĩ dựng tượng cho dầu lửa? Muốn cho xứng thì tượng phái cao lớn gấp hai tượng Thần Tử Do ở New York. Vì Tự Do chỉ là một đứa con dĩnh ngộ của văn minh cơ giới ngày nay – người ta bảo vậy – mà dầu lửa mới chính là cha của văn minh đó. Và tôi xin đề nghị cũng dựng nó ở cửa sông Hudson cho hợp tình hợp lý.
Ngay trên bán đảo Ả Rập chúng ta cũng thấy dầu lửa thắng Hồi giáo. Hồi giáo khó khăn lắm mới liên kết được các quốc gia Ả Rập ba lần, 1948, 1956, 1967 trong các chiến tranh với Do Thái giáo, mà tội nghiệp quá, lần nào cũng lụi đụi. Có bảy quốc gia: Ai Cập, SYRIE, Liban, Jordani, Iraq, Ả Rập Saudi, Yemen thì chỉ có ba quốc gia Ai Cập, SYRIE, Jordani là phất cờ Mohamed mà tiến quân còn các quốc gia kia đứng ngoài hô hào suông; trong bốn quốc gia này, Liban, Yemen nhỏ quá không đáng kể; Ả Rập Saudi và Iraq giàu, lớn, mạnh mà cũng lơ là với Thánh chiến là tại sao? Chỉ tại họ có dầu lửa. Tôi không dám bảo rằng vì họ thờ Thần dầu lửa mà phải tội với Allah! Allah đâu có cho họ thờ thần nào khác.
Dầu lửa chia rẽ Ả Rập: Ả Rập Saudi chống Ai Cập, Iraq chống SYRIE, Koweit tách ra khỏi Iraq đều là vì dầu lửa cả. Họ chia rẽ nhau vì kẻ có dầu lửa nghi kẻ không có dầu lửa nuôi dã tâm chia nguồn lợi dầu lửa của mình. Họ chia rẽ nhau về chính thể, cả về ý thức hệ nữa mà nguồn gốc cũng chỉ tại dầu lửa. Hễ có hơi dầu lửa ở đâu thì có Anh, Pháp, Mỹ ở đó. Anh, Pháp là những nước dân chủ, nhưng lại thích “dân bản xứ” cứ giữ chế độ quân chủ; còn Mỹ không thích chế độ quân chủ nhưng có bệnh nhạy cảm: hễ dân bản xứ mà đòi cải cách xã hội thì la bải hải rằng họ cộng sản, phải cúp viện trợ. Thành thử ở Ả Rập, các nước dầu lửa đều là quân chủ hoặc thủ cựu; các nước không dầu lửa trái lại ham dân chủ, cấp tiến. Sự tranh chấp
giữa các đế quốc Đông, Tây làm cho tình hình càng thêm rối, thêm thảm. Tây có mỏ dầu ở Ả Bập, dĩ nhiên ủng hộ giật dây các nước có dầu lửa; Đông không có mỏ Dầu ở Ả Rập thì ủng hộ, giật dây các nước không có dầu lửa, nhưng cũng cố gây ảnh hương ở các nước có dầu lửa và thế cờ nhiều lúc biến chuyển rất bất ngờ.
Do đó mà trong ba bốn chục năm nay, ở bán đảo Ả Rập xảy ra không biết bao nhiêu xung đột: xung đột giữa các đế quốc, xung đột giữa các quốc gia Ả Rập, xung đột giữa các đảng phái trong mỗi quốc gia. Có chiến tranh đế quốc, chiến tranh độc lập, chiến tranh chính trị – tức chiến tranh xôi thịt – có chiến tranh dầu lửa, và từ khi có quốc gia Do Thái, thì thêm chiến tranh nòi giống, tôn giáo nữa, nhưng chiến tranh nào truy nguyên ra cũng không trực tiếp thì gián tiếp liên quan tới dầu lửa. Chỉ có chiến tranh cơm áo của dân nghèo là mới lấp ló thì đã bị lợi dụng, nhưng chẳng lâu đâu, nó sẽ bùng nổ ghê gớm hơn cả các chiến tranh khác.
Dân nghèo sẽ không than thở như Vũ Trọng Phụng: “Ôi con người mà có được cơm ăn thì sướng quá!” Đổ mồ hôi như Chúa đây mà không có cơm ăn thì họ sẽ đổ máu để giành lấy cơm ăn. Không năm nào không có biến cố lớn hoặc nhỏ: lớn thì như cách mạng Ai Cập, vụ kênh đào Suez, chiến tranh Ả Rập – Do Thái, cách mạng Iraq; nhỏ thì là cuộc đảo chánh, cải tổ nội các ở SYRIE, Jordani, Iraq. Ở SYRIE trong mười bốn năm có đầy cuộc đảo chánh, ở Jordani, vua Hussein ba lần suýt toi mạng, lại có lần chỉ trong 8 ngày, 4 nội các bị giải tán.
Bán đảo Ả Rập là Thiên đường của Ki Tô giáo (vườn Eden trong Thánh kinh nằm trên bờ hai sông Tigre và Euphrate ở Mésopotamie) mà cũng là Thiên đường của các sử gia. Ai có tài như Will Durant, tác giả bộ sử vĩ đại The Story of Civilisation (Một nhà xuất bản ở Pháp đã in thành 32 cuốn, mỗi cuốn khoảng 500 trang khổ 13×18) mà viết về lịch sử bán đảo Ả Rập từ Thế chiến thứ nhất tới nay thôi, tất sẽ được một bộ dày gấp ba bộ Đông Chu liệt quốc là ít. Cũng ly kỳ như Đông Chu: cũng em giết anh, bề tôi giết vua (chuyện này ở thời đại chúng ta thường quá rồi), bạn bè phản nhau, cũng những cảnh trận dội bommà cổ nhân không được biết, lời cảnh quân lính ùa vào hoàng cung giết trọn hoàng tộc, cảnh các hồ tắmngào ngạt dầu thơm Chanel, cảnh các sứ thần qua lại nườm nượp các kinh đô, chỉ khác hồi xưa họ cho từng xe vàng thì ngày nay họ ôm một cái cặp chứa một xấp chi phiếu.
Cũng có đủ các nhân vật kỳ dị: anh hùng cái thế như Hạng Võ thì có Ibn Séoud: chỉ có 40 cây súng tồi, 40 con lạc đà ghẻ mà chinh phục được bán đảo Ả Rập; chính khách lừng danh thì có Nasser: tôi không biết nên ví ứng với nhân vật nào thời Chiến Quốc vì có nhà coi ông là Tần Thuỷ Hoàng, có nhà lại so sánh ông với Quản Trọng. Có ông vua chỉ ham xây cất cung điện, sử không chép ông ta có bao nhiêu bà phi chỉ biết hồi năm mươi tuổi, ông đã có bốn mươi người con; có ông vua bôn ba như ông vua nước Đằng, nay qua nước này mai qua nước khác để cầu viện và rất ham lái xe hơi Hoa Kỳ chạy như bay. Có vị Thủ tướng (tức như Tể tướng quốc thời Đông Chu) thờ ba trào vua, giữ chức được ba chục năm, hét ra lửa mà rồi thây bị một chiếc xe máy dầu kéo lê đi khắp thành Bagdad, da thịt rơi từng mảng trên đường, còn rùng rợn hơn cảnh Thương Ưởng bị xé thây nữa. Rồi lại có một Thân Bao Tự tân thời: Ben Gourion qua Paris năn nỉ Guy Mollet giúp sức để diệt Ai Cập. Mà cũng có một Lỗ Trọng Liên: Thủ tướng Nehru.
Cũng như trong Đông Chu, sân khấu luôn luôn dời chỗ: từ Rhyad ở giữa sa mạc chuyển qua Koweit rồi Le Caire trên bờ con sông Nil, từ Le Caire qua Amman, Damas, Bagdad nơi mà chim cu đua nhau gáy trong những vườn hồng rực rỡ, ngào ngạt, có khi người ta tụ về La Mecque hoặc Jérusalem, những đất thiêng nhất của thế giới, có hồi người ta tản ra trên bán đảo Sinai, trên bờ sông Jourdain.
Cho nên chúng tôi phải dùng thuật chép truyện của Đông Chu, không ghi theo niên đại – sợ mất tính cách liên tục của sử – mà gom nhiều việc chung quanh một biến cố chính, nhiều nhân vật chung quanh một vai trò quan trọng. Tài liệu gom góp được tuy chưa thấm vào đâu mà chúng tôi còn phải bỏ đi rất nhiều, không thể dùng hết được vị chi tiết chằng chịt nhau, sự sắp đặt cực kỳ khó khăn.
Muốn cho sáng sủa và nhất quán, chúng tôi dùng sự xung đột về Tôn giáo và sự tranh chấp của thực dân về dầu lửa làm sợi dây của Ariane để độc giả khỏi lạc lối trong mê hồn trận Ả Rập, vì như trên chúng tôi đã nói, lịch sử hiện đại của bán đảo Ả Rập bị Hồi giáo và dầu lửa chi phối, chỉ nắm được hai đầu dây đó là lần ra được các mối khác.
N.H.L
Sài Gòn, ngày 8-8-1968
Phần thứ nhất. MỘT CHÚT LỊCH SỬ
CHƯƠNG I. BẢN LỀ CỦA BA CHÂU: Á, PHI, ÂU
Nhiều tác giả gọi bán đảo Ả Rập là tiền đồn của châu Á. Tôi nghĩ danh từ đó nên dành cho miền Tiểu Á, còn trọn bán đảo Ả Rập thì nên gọi là bản lề của ba châu Á, Phi, Âu. Vị trí của nó rất thuận lợi: Ai Cập gác lên hai châu Á và Phi; các xứ theo Hồi giáo nằm liền nhau từ Đại Tây Dương tới sông Indus ở Ấn Độ, dọc theo bờ biển của Địa Trung Hải, Hồng Hải và vịnh Ba Tư, nơi mà sự giao thông tấp nập nhất thời cổ, thành thử Hồi giáo kiểm soát được các đường bộ từ Á qua Phi, qua Âu, đặc biệt là con đường tơ lụa thời cổ.
Nó còn một đặc điểm nữa: gồm cả một miền khí hậu khô ráo ngăn cách miền khí hậu ôn hòa của châu Âu và miền gió mùa ẩm thấp của châu Á.
Người ta chia nó làm ba phần:
- Lòng bán đảo nắng cháy hầu hết là sa mạc, trừ một mỏm trồng trọt được ở tây nam: Yemen. - Miền lưỡi liềm phì nhiêu ở phía bắc, nằm dọc theo bờ Địa Trung Hải từ Palestine tới Liban, SYRIE rồi vòng xuống lưu vực hai con sông Tigre và Euphrate ở Iraq.
- Miền sông Nil ở Ai Cập, Soudan. Thực ra Ai Cập chỉ có một phần nhỏ – sa mạc Sinai – là nằm trên bán đảo Ả Rập, nhưng vì Ai Cập là một quốc gia quan trọng trong khối Ả Rập, nên khi viết về lịch sử, chính trị, người ta luôn luôn gồm cả miền sông Nil vào thế giới Ả Rập.
Sau cùng có nhà lại gồm cả miền Maghreb (tiếng Ả Rập có nghĩa là phía Tây): tức ba xứ Maroc, Algeri, Tunisi, vào khối đó nữa vì dân xứ đó chịu ảnh hưởng của Ả Rập và theo Hồi giáo. Dưới đây, chúng tôi giới thiệu qua về từng miền đó một.
Lòng bán đảo
Lòng bán đảo là một miền rộng hai triệu cây số vuông, ba phía là biển, giữa là một cao nguyên mênh mông trên cát dưới đá cháy khô dưới ánh nắng chang chang, đi hàng chục hàng trăm cây số mới gặp một ốc đảo, một vũng nước hoặc giếng nước chung quanh có ít cây chà là, vài cái lều của bọn người du mục.
Theo các nhà địa lý, địa chất thì không phải thời nào miền đó cũng khô cháy như nay. Đã lâu lắm, từ thời đại băng hà (époque glaciaire), khi châu Âu còn nằm dưới lớp băng như Bắc cực ngày nay thì bán đảo Ả Rập là một miền xanh tốt, phì nhiêu đầy rừng và đồng cỏ và có đủ những loài thú như ở Ấn Độ hay châu Phi. Ở châu Âu lớp băng lần lần lùi về phương Bắc, thì ở Ả Rập, lần lần khí hậu càng nóng, mưa càng hiếm, sông lạch cạn khô, cây cối chết hết mà hiện lên cảnh sa mạc.
Chỉ ở bờ biển mới thấy chút ruộng rẫy, như miền Yemen, một mỏm nằm ở cửa Hồng Hải đổ ra vịnh Aden. Dân cư miền Yemen rất đông đúc, tăng lên rất mau mà diện tích trồng trọt được thì có hạn, kỹ nghệ cùng thương mại ở đầu thế kỷ XX vẫn còn thấp kém, nên miền đó luôn luôn bị nạn nhân mãn. Dân chúng nếu vào biển để qua Soudan thì gặp một miền còn khô khan, hoang dã hơn xứ Ả Rập nữa, sống không nổi; mà cũng không thể ngược theo bờ biển Hồng Hải vì bị các dân tộc khác chặn đường, không cho nhập cảnh, nên họ bắt buộc phải dắt díu nhau di cư vào giữa bán đảo, tới miền Nedjd, miền Qua-sim, miền Hamad để tìm cách sinh nhai. Thành thử liên tiếp trong hàng chục thế kỷ có những luồng sóng người cuồn cuộn từ phương Nam tiến lên phương Bắc, rồi tản mác trong sa mạc. Sa mạc khô cháy, không nuôi nổi bọn người di cư mỗi ngày một đông, nên họ phải chém giết lẫn nhau, cướp bóc lẫn nhau để sống, để chiếm một giếng nước, mươi gốc chà là, vài mẫu đồng cỏ. Khắp thế giới, không đâu đời sống cực khổ, gay go như ở đây. Phải chiến đấu suốt đời, nên kẻ nào sống sót cũng là những chiến sỹ gan dạ, rất giỏi chịu cực, chỉ có một bầu nước và một gói chà là cũng đủ sống ba bốn ngày.
Nhưng khi người ta đã quen với đời sống đó rồi thì người ta yêu cảnh sa mạc hơn là nông dân yêu đồng ruộng. Cảnh vật càng khô cằn, đời sống càng cực khổ bao nhiêu thì người ta càng quyến luyến với quê hương bấy nhiêu. Sống trong sa mạc, người Ả Rập mê những cảnh hoàng hôn rực rỡ, những cảnh cát bụi mịt trời, những gốc chà là xanh mướt bên bờ nước: nhất là sau những cơn nắng cháy da, mặt trời đã lặn, gió hiu hiu, nằm trên cát bên cạnh con lạc đà, gối đầu lên cánh tay mà ngắm những ngôi sao lấp lánh trên nền trời tím thẫm thăm thẳm, hoặc nhìn bóng trăng xanh dịu trải lên những động cát thoai thoải, trong một cảnh vô biên tịch mịch thì lòng họ rung lên một điệu trầm trầm; họ nhớ lại những thời oanh hệt mà ca ngợi công lao của tổ tiên; hoặc suy nghĩ về cái mênh mông huyền bí của vũ trụ, và họ thành một thi sỹ hoặc một nhà tu hành.
Tóm lại sa mạc đã tạo ra ba hạng người: hạng chiến sỹ coi cái chết nhẹ như không; hạng thi sỹ thích một cuộc đời phóng lãng, và hạng tu sỹ sùng kính Thượng đế.
Riêng sa mạc Ả Rập, vì địa thế là bản lề của ba châu Á, Phi, Âu, nên còn tạo ra một hạng người nữa: hạng trọng mãi, mối lái buôn bán. Suất thời thượng cổ và thời trung cổ, con đường tơ lụa đi qua phía bắc bán đảo; các hương liệu ở Ấn Độ, Mã Lai vào vịnh Ba Tư, đưa lên bán đảo rồi từ bán đảo qua châu Âu. Da và lúa ở Crimée, ở phía nam nước Nga do Hắc Hải chở tới. Le Caire, kinh đô Ai Cập là nơi các đoàn thương nhân tụ tập để bán các sản vật châu Phi. Các tàu buôn từ Gênes, Venise, chở các đồ thủ công và khí giới ở Ý tới để đổi các bảo vật của châu Á.
Mặt đất tuy chỉ toàn là cát với sỏi, nhưng lòng đất chứa nhiều suối “vàng đen”, tức dầu lửa. Từ năm1930, các kỹ sư Mỹ kiếm được nhiều mỏ dầu ở Haradh, Ghawar, Abgaid, Qua-tif, phía gần vịnh Ba Tư, nhất là mỏ Bahrein ở một đảo trên vịnh, gần bán đảo Khatar, hết thảy đều thuộc tỉnh Hasa của vương quốc Ả Rập Saudi.
Năm 1947, sức sản xuất của các giếng dầu Hasa tới 41 triệu lít mỗi ngày. Cuối năm 1950, số đó tăng lên gấp đôi. Đào sâu thêm nữa, xuống tới 1.000, 1.350 thước, người ta còn thấy dưới lớp dầu hiện đương khai thác (khoảng cuối thế kỷ này mới cạn), còn một lớp nữa phong phú hơn nhiều, chiếm phỏng chừng từ 75 tới
80% tổng số dầu lửa trên thế giới.
Sau khi tìm được các giếng dầu, các kỹ sư phương Tây lại tìm thêm được, cũng trong vương quốc Ả Rập Saudi, một biển nước ngọt trong lòng đất, chiếm một khu mênh mông rộng bằng một phần tư diện tích bán đảo, chiều dài tới trên 900 cây số, chiều ngang trên 400 cây số. Biển nước đó hút nước mưa ở trên mặt sa mạc, có thể cung cấp đủ nước để trồng trọt một phần ba bán đảo mà không khi nào cạn. Như vậy một ngày kia xứ Ả Rập Saudi sẽ thành một nước giàu có bậc nhất Tây Á.
Hiện nay lòng bán đảo gồm năm xứ:
- Ả Rập Saudi (gọi như vậy vì quốc vương thuộc giống Saudi)
- Yemen
- Aden
- Hadramaout
- Oman
Aden nhỏ nhất, chỉ là một tỉnh thuộc địa của Anh, nằm ở dưới Yemen, trên vịnh Aden. Diện tích: 35.000 cây số vuông, dân số khoảng nửa triệu. Mấy năm trước, Anh tính rút quân ra khỏi địa đầu đó, và Aden sẽ sáp nhập vào Yemen.
Yemen: 54.300 cây số vuông, dân số khoảng hai triệu, tương đối phong phú, xưa là một vương quốc, nay là một nước Cộng hòa.
Hadramout nằm trên vịnh Aden, giáp Aden; 120.000 cây số vuông, dân số khoảng 200.000 người, hầu hết là du mục. Hồi trước là một vương quốc, do Anh bảo hộ.
Oman nằm trên bờ vịnh Oman; 151.000 cây số vuông, dân số chưa đầy một triệu, một phần sống về nghề nông, một phần sống về nghề đánh cá. Trước cũng là đất bảo hộ của Anh. Ngày nay xứ đó cũng như xứ Hadramout đều chịu ảnh hưởng của xứ Ả Rập Saudi.
Ả Rập Saudi là vương quốc lớn nhất, mạnh nhất trên bán đảo. Quốc vương hiện nay là Saud. Dân số năm 1950 vào khoảng sáu triệu, kinh đô là Ryhad, tỉnh lớn là La Mecque (thánh địa của Hồi giáo) và Médine. Trong các phần sau chúng tôi sẽ kể sự thành lập của vương quốc đó và vạch rõ địa vị quan trọng của nó trên đời sống chính trị của Ả Rập.
Lưỡi liềm phì nhiêu
Miền này sở dĩ phì nhiêu nhờ nằm trên bờ Địa Trung Hải và trên lưu vực hai con sông Tigre và Euphrate. Nhưng thực sự phì nhiêu thì chỉ có ba xứ Liban, SYRIE, Iraq, còn ba xứ kia: Palestine, Jordani, Koweit đất đai không trồng trọt được bao nhiêu.
Palestine một nửa là sa mạc – sa mạc Neguev. Trước khi quốc gia Israel thành lập, sa mạc đó gần như bỏ hoang. Trồng trọt được chỉ có một dải hẹp ở ven Địa Trung Hải và miền Thượng Galilée ở phía Bắc, giáp SYRIE.
Từ 1949, xứ Palestine chia đôi, phần lớn thành quốc gia Israel (dân số hiện nay vào khoảng 1.700.000 người, kinh đô là Ta Aviv), một phần nhỏ ở bờ phía tây sông Jourdain sáp nhập vào với xứ Transjordanie, thành xứ Jordani. Thánh địa Jérusalem trước chiến tranh Israel – Ả Rập năm 1967, thuộc chung về Israel và Jordani, hiện nay bị quân đội Israel chiếm.[1]
Jordani là một vương quốc nghèo. khi còn là Transjordanie diện tích khoảng 42.000 cây số vuông, dân số khoảng nửa triệu. Ngày nay dân số được triệu rưởi, sống bằng nghề nông. Chỉ có mỗi miền ở hai bờ sông Jourdain là trồng trọt được lúa, cây ăn trái, rau, còn lại là sa mạc, đồi hoang hoặc núi với ít bãi cỏ nuôi bò. Xứ đó là xứ độc nhất trên bán đảo không giáp biển, chỉ có mỗi một cửa ở Akaba để trông ra Hồng Hải. Kinh đô là Amman, Quốc vương hiện nay là Hussein, thuộc giòng Hachémite, chung một ông tổ với cố quốc vương Faycal II của Iraq.
Liban là xứ nhỏ nhất, 10.500 cây số vuông, dân số hiện nay khoảng hai triệu. Kinh đô là Beyrouth. Có hai dãy núi song song nhau, dãy Liban gần bờ biển và dãy Anti-Liban ở phía trong, giữa hai dãy đó là một thung lũng. Khí hậu mát mẻ. trồng được nhiều loại cây ăn trái, rau, lúa. Phong cảnh rất đẹp, có người đã gọi là một giỏ hoa trên bờ Địa Trung Hải.
Kỹ nghệ chính là xưởng lọc dầu vì dầu lửa ở Ả Rập Saudi do ống dẫn dầu chảy tới Beyrouth để lọc rồi đưa xuống tàu chở đi bán ở châu Âu. Mức sống Liban cao nhất ở Tây Á; năm 1957 lợi tức trung bình mỗi đầu người mỗi năm vào khoảng 300 Mỹ kim, gần bằng lợi tức trung bình của người Ý, gấp đôi lợi tức trung bình của Ai Cập và gấp bốn của Ấn Độ.
Xứ đó còn một đặc điểm nữa là Âu hóa hơn cả các xứ khác trên bán đảo. Trong không khí trong trẻo phảng phất hương hồng, hương cam, tiếng chuông giáo đường Ki Tô giáo cùng ngân lên với tiếng cầu nguyện trong các giáo đường Hồi giáo ở bên cạnh. Những gác chuông cao và nhọn cùng đưa lên trời với những nóc vòm, làm cho du khách tự hỏi không biết mình ở trong một xứ theo đạo Ki Tô mà có bề ngoài Ả Rập hay là một xứ Ả Rập mà có bề ngoài Ki Tô giáo. Hai tôn giáo đó đã có hồi không dung nhau. Năm1860 một đám người Druze từ trên núi đổ xuống và trong một đêm tàn phá Beyrouth, chém giết trên hai ngàn rưỡi tín đồ Ki Tô giáo. Nhưng bây giờ họ sống với nhau, ráng bao dung nhau. Cả hai bên đều chia rẽ. Phía theo Hồi giáo gồm khoảng 600.000 người mà có ba phái; phía Ki Tô giáo có tới năm phái: Công giáo, Tin lành, Ki Tô giáo chính thống Hy Lạp, Annénien, Maronite.
hiến pháp của nước Cộng hòa Liban phản ánh tình trạng tạp đa về chủng tộc và tôn giáo đó. Liban có một Quốc hội mà số ghế chia cho các tôn giáo theo tỷ số tín đồ. Năm 1957 Quốc hội dành 20 ghế cho các người Maronite theo Ki Tô giáo, 7 ghế cho các người Hy Lạp theo Ki Tô giáo chính thống, 26 ghế cho tín đồ Hồi giáo, và khoảng 10 ghế nữa cho các giáo phái nhỏ khác, mỗi phái được 4, 3 hoặc 1 ghế.
Như vậy Liban có một chính phủ nhưng khó thành một quốc gia như Ai Cập hoặc Iraq được. Đất đã hẹp, dân số đã ít mà lại rất chia rẽ, nên nội các nào cũng chỉ lo giữ một sự thăng bằng tạm. Sự thăng bằng đó rất khó giữ vì trong nước có ba phe: phe thân Tây phương, phe trung lập và phe thống nhất Ả Rập, mà nguy nhất là sự chống đối nhau về chính kiến cả ba phe đó rất dễ biến thành những xung đột tôn giáo. Cho nên vị Tổng thống nào cũng chỉ theo một chính sách hòa giải, giải quyết những việc lặt vặt, chứ không bao giờ làm thứ “đại chính trị” như Nasser. Dân chúng cũng chỉ đòi hỏi ở các vị đó như
vậy thôi, để được yên ổn buôn bán.
Thương mại rất phát đạt. Người Liban nào cũng là con buôn, thứ con buôn trung gian. Beyrouth là một thương cảng từa tựa như Hương Cảng. Hàng hóa từ Âu muốn đem vào SYRIE, Iraq, Ả Rập Saudi đều phải qua đó, mà dầu lửa ở Iraq, Ả Rập Saudi muốn đưa qua châu Âu cũng phải qua đó. Cho tới 1957, nhờ Tổng thống Naccache (tín đồ Ki Tô giáo) theo chính sách trung lập hơi thân Tây phương nên Liban tạm được yên ổn; nhưng người kế vị ông, Tổng thống Chamoun (cũng theo Ki Tô giáo), thấy ảnh hưởng của Ai Cập lớn quá, muốn nhờ Mỹ can thiệp, suýt gây biến động trong nước. Tướng Gouad Chehab lên thay, trở về đường lối trung lập.
Trước Thế chiến thứ nhì Liban là một xứ ủy trị của Pháp (từ 1920), năm 1944 thành một nước độc lập. Ảnh hưởng của Pháp rất mạnh. Từ thời Trung cổ Thập tự quân, qua chiếm lại Thánh địa Jérusalem, có lần thua, có lần thắng, nhưng lần nào cũng có một số người Pháp ở lại lập nghiệp tại Liban. Rồi sau đó các nhà truyền giáo, các bà phước giòng Saint Joseph, Nazareth… tới để “giáo hóa” dân bản xứ. Họ lập nhiều nhà thờ và trường học dạy trẻ em giáo lý và tiếng Pháp. Lamartine, Nervai, Renan, Barrès đều hãnh diện đã gặp ở dưới những cây bá hương cổ thụ ở chân dãy núi Liban, những trẻ em năm sáu tuổi đọc thơ ngụ ngôn “La Cigale et la Fourmi” của La Fontaine. Có cả trường đại học của Pháp đào tạo một số nhà bác học, văn học của Liban.
Nhưng từ sau Thế chiến, ảnh hưởng của Pháp lùi dần, nhường chỗ cho ảnh hưởng của Mỹ, và trường Đại học Mỹ mỗi ngày một đông trong khi trường Đại học của Pháp mỗi ngày một vắng. Chỉ tại Mỹ có nhiều đô la, mà Pháp thì nghèo. Ông Bénoit Méchin trong cuốn Un Printemps arabe (Mùa Xuân Ả Rập)- Albin Michel, 1959, phàn nàn rằng Anh ngữ ồ ạt xô lấn Pháp ngữ, óc duy vật phá ngầm những căn bản tinh thần của dân chúng, mỗi ngày lại đục mất một miếng. Beyrouth mỗi ngày một Mỹ hoá. Xưa kia nó cần cù, thanh nhã bao nhiêu thì bây giờ phóng túng, sa đọa bấy nhiêu. Hộp đêm mọc lên như nấm, các quán “bar” mang những tên mà ông nghe chối tai: Miami, Palm Beach. Ông phàn nàn cho Liban hay cho nước Pháp của ông đấy?
SYRIE trước Thế chiến cũng là một xứ ủy trị của Pháp, và từ năm 1946, sau một cuộc chiến đấu hăng hái với thực dân Pháp, của De Gaulle, cũng thành một nước Cộng hòa độc lập.
Cũng chịu ảnh hưởng của Pháp, nhưng ít hơn Liban. Ở gần biển, đất đai cũng phì nhiêu, khí hậu cũng mát mẻ, không khí cũng trong trẻo. Cũng có những đồi đầy hoa dưới một vòm trời xanh nhạt. Diện tích rộng hơn Liban nhiều: 171.000 cây số vuông. Dân số hiện nay khoảng năm triệu. Kinh đô là Damas.
Phía tây một phần thông với Địa Trung Hải, một phần giáp Liban; phía bắc giáp Thổ Nhĩ Kỳ; phía đông giáp Iraq; Phía nam giáp Jordani.
Gần bờ biển cũng có một dãy núi nối dài dãy Liban, và một dãy nữa thấp hơn, sát biển hơn. Sau lưng hai dãy núi đó, ở phía đông là một cao nguyên có con sông Euphrate chảy qua. Cao nguyên này một phần là sa mạc khí hậu rất nóng vì gió Địa Trung Hải bị núi cản lại.
Dân ở đây cũng rất tạp, gồm nhiều giống ở Âu và Ả Rập, vì vậy tôn giáo cũng nhiều y như ở Liban, chỉ khác là tín đồ Ki Tô giáo ít hơn tín đồ Hồi giáo. Kỹ nghệ chưa có gì mà nông nghiệp cũng chưa phát triển. Năm 1957, Tổng thống SYRIE là Choukri Kouatly, một nhà ái quốc đã chiến đấu cho nền độc lập của tổ quốc và đã chủ trương phải thống nhất các quốc gia Ả Rập cho thành một khối mạnh. Từ sau Thế chiến, SYRIE là đồng minh thủy chung nhất của Ai Cập. Điều mục thứ nhất của hiến pháp Syne tuyên bố “Dân tộc SYRIE là một phần tử của quốc gia Ả Rập”; mà điều mục thứ nhất của hiến pháp Ai Cập cũng y hệt: “Dân tộc Ai Cập là một phần tử của quốc gia Ả Rập.”
Hai xứ đó đều đeo đuổi một mục đích chung và đã có lần liên kết với nhau thành một khối. Nhưng sự liên kết đó thiếu nhiều yếu tố thực tế nên không được chặt chẽ: hai xứ đó không chung biên giới với nhau,
bị xứ Jordani ngăn cách, mà xứ này không đứng về phe Ai Cập, tức phe thân Nga, mà đứng về phe Ả Rập Saudi, tức phe thân Mỹ; lại thêm tổ chức kinh tế, mức sống của hai xứ cũng khác nhau (mức sống Ai Cập thấp hơn), tính tình, quyền lợi của dân chúng khác nhau, thành thử tại SYRIE luôn luôn có những nhómchống đối chính sách liên kết với Ai Cập.
Iraq: Thời thượng cổ là miền Mésopotame, miền của hai con sông Tigre và Euphrate. Trái hẳn với Ả Rập Saudi, miền này không có cát mà toàn đất sét.
Diện tích: 370.000 cây số vuông; dân số hiện nay vào khoảng sáu bảy triệu. Kinh đô là Bagdad. Năm 1919 bị đặt dưới sự ủy trị của Anh, từ năm 1932 thành một vương quốc độc lập. Năm 1958 quốc vương Faycal II, dòng dõi Hachémite, em họ của Hussein, quốc vương Jordani, bị một nhóm cách mạng bắn chết, và tướng Abdul Karim Kassem lên làm Tổng thống nước Cộng hòa Iraq. Xứ đó gồm ba miền: phía Bắc là miền Kurdistan, nhiều đồi núi, dân chúng hầu hết là giống người Kurde thường đòi được tự trị; phía Nam là miền cánh đồng nằm trên hạ lưu hai con sông Tigre và Euphrate, trồng trọt được, và có thể phì nhiêu khi các công tác dẫn nước và tháo nước hoàn thành; phía Tây là bãi sa mạc SYRIE.
Trong các xứ Ả Rập, Iraq có tương lai hơn cả về kinh tế: hơn Ả Rập Saudi vì có rừng, có ruộng; hơn Ai Cập vì có mỏ dầu lửa. Chính tại Iran (Ba Tư) và Iraq, người Anh đã tìm được những mỏ dầu lửa đầu tiên ở Tây Á, và tới nay công ty Iraq Petroleum vẫn khai thác các giếng dầu ở Iraq mỗi năm được khoảng 50 triệu tấn, nghĩa là 1.400.000 thùng (bình) mỗi ngày. Ngoài ra còn 8 triệu tấn của công ty Bassorah, và 2 triệu tấn của công ty Massul. Có năm ống dẫn dầu chạy song song nhau đưa cái “suối vàng” đó ra Địa Trung Hải, một ống đưa tới Banyas ở SYRIE và hai ống tới Tripoli ở Lthan. khi Palestine chưa thành Israel, còn là xứ ủy trị của Anh, hai ống dẫn dầu sau chia ra hai nhánh đi qua địa phận Jordani và tới Haifa. Từ khi quốc gia Israel thành lập, Iraq bít hai ống nhánh ấy, làm cho Jordani thiệt lây một số lợi. Trong vụ chiến tranh năm 1956 về kinh Suez, để hưởng ứng với Ai Cập, Iraq không tiếp tế dầu cho Anh, Mỹ và các ống dẫn dầu đều bị cắt đứt ít tháng, thiệt cho Iraq một số lợi tức.
Nhờ lợi tức về dầu lửa, Iraq bắt đầu kiến thiết các xưởng máy, trường học, dưỡng đường, xây đập để ngăn nước trên hai con sông Tigre và Euphrate rồi dẫn vào ruộng.
Koweit ở phía Nam Iraq, trên bờ vịnh Ba Tư, còn một tiểu quốc vào hạng nhỏ nhất thế giới mà rất giàu: 80.000 cây số vuông, chừng 200.000 dân. Đất khô cằn nhưng chứa những suối dầu phong phú nhất thế giới. Giữa thế kỷ trước người Anh tìm một đường qua phương Đông đã để ý tới Koweit; năm 1899, được Thổ tặng cho, không ngờ được hưởng một biển ngọc trai và một biển dầu lửa, vì mỏ dầu lửa ở đây rộng lớn vô cùng, lan cả ra dưới đáy biển. Hai công ty Gulf Oil của Mỹ và Anglo-Iranien Oil của Anh chia nhau khai thác; quốc vương Koweit chỉ ngồi không mà thu Mỹ kim và Anh kim. Nếu lấy lợi tức của Koweit mà chia đều cho mỗi người dân thì dân Koweit sung sướng hơn người Mỹ nữa. Đường sá rất tốt, trường học và dưỡng đường đầy đủ tiện nghi.
Vì giàu quá mà lại nhỏ, nên Koweit bị các quốc gia Ả Rập chung quanh dòm ngó. Iraq muốn sáp nhập cái thẻo nhỏ đó nhất. Ả Rập Saudi cũng muốn nhích một bước đặt chân lên Koweit, thậm chí Iran không chung biên giới với Koweit, cũng muốn vươn tay qua địa phận Iraq để vuốt ve Koweit. Ba quốc gia láng giềng Iraq, Ả Rập Saudi, Iran đó đều được Allah chia phần dầu lửa cho cả, nước nào khai thác cũng không hết, mà họ vẫn tham, làm cho Nasser có lẽ phải bực mình, và có kẻ xấu miệng bảo Nasser muốn thống nhất các quốc gia Ả Rập để chia lợi của Koweit trước hết.
Các giới trí thức Koweit chia rẽ thành hai phái: một phái muốn sáp nhập với Iraq, một phái muốn độc lập. Dĩ nhiên Anh muốn cho Koweit độc lập, để luôn luôn phải nhờ sự che chở của mình, và luôn luôn Anh tận tình che chở Koweit. hiện nay Kowiet là một vương quốc độc lập.
Miền sông Nil
Ai Cập. Trong khối Ả Rập, Ai Cập là nước lớn thứ nhì: 1.050.000 cây số vuông (bằng ba lần toàn thể lãnh thổ Việt Nam từ Nam Quan tới Cà Mau), chỉ kém Ả Rập Saudi; và là nước đông dân cư nhất: hiện nay độ ba chục triệu người, hơn cả dân số các nước Ả Rập khác gộp lại.
Tuy rộng lớn như vậy mà sự thực nó lại rất nhỏ vì chỉ có 3% đất đai trồng trọt được. Ngồi trên máy bay ngó xuống, ta thấy một dải lụa xanh dài mà nhỏ, uốn khúc theo lòng con sông Nil ở giữa một bãi cát vàng mênh mông, rồi tới gần biển thì dải lụa đó xòe ra thành hình quạt; chỗ đó là miền hạ lưu sông Nil.
Miền hạ lưu này là một tam giác đáy dài khoảng hai trăm cây số nằm theo bờ Địa Trung Hải, đỉnh nằm ở Le Caire (Thủ đô). Nó không lớn gì hơn hạ lưu sông Nhị và sông Thái Bình ở Bắc Việt mà lại không phì nhiêu bằng vì chỗ nào cũng có cát, ngay ở Le Caire cũng nhiều cát hơn đất thịt.
Năm 1960 chỉ có khoảng ba chục ngàn cây số vuông cày cấy được để nuôi 24 triệu dân. Ta thử tưởng tượng toàn thể dân Việt từ Bắc tới Nam dồn cả vào một khu nằm ở phía tây nam sông Tiền Giang, nghĩa là từ Hồng Ngự, Sa Đéc, Vĩnh Long, Trà Vinh tới Hà Tiên, Rạch Giá, Cà Mau thì sẽ thấy dân Ai Cập chen chúc nhau ra sao trên những cánh đồng của họ.
Họ sống được là nhờ con sông Nil. Sử gia Hérodote thời Thượng cổ đã bảo Ai Cập là một tặng vật của sông Nil, nghĩa là không có sông Nil thì không có dân Ai Cập, không có quốc gia Ai Cập. Con sông đó đối với người Ai Cập cũng thiêng liêng như con sông Gange đối với người Ấn Độ. Cứ tới mùa nước lớn thì “cây cối hai bên bờ tươi cười, dân chúng múa hát mà thần thánh cũng hài lòng”. Nhưng mỗi năm chỉ được hai tháng như vậy mà trong hai tháng đó, nước sông Nil cuồn cuộn chảy ra biển, mất tới chín phần mười và những miền cách hai bờ sông vài cây số vẫn thiếu nước để trồng trọt. Còn như trông vào mưa thì chỉ có hai ngày mưa! Cho nên vấn đề khẩn cấp ở Ai Cập là vấn đề nước, khẩn cấp hơn cả Ả Rập Saudi vì Ai Cập không có giếng dầu mà dân số lại đông gấp bốn năm Ả Rập Saudi. Làm sao nuôi nổi 30 triệu dân đó? Không giải quyết nổi thì sẽ loạn.
Napoleon khi qua Ai Cập, đứng nhìn dòng sông Nil, bảo Desaix: “Nếu tôi cai trị xứ này thì không để cho một giọt nước nào của sông Nil chảy ra tới biển!”
Ai cũng nghĩ vậy, cho nên Nasser lo đến vấn đề đó trước nhất. Muốn ngăn nước sông Nil chảy ra biển, chỉ có mỗi một cách là đắp đập trên sông để tháo nước vào các miền khô cháy hai bên bờ. khi mới cầmquyền, Nasser đã cho nghiên cứu ngay dự án xây đập ở Assouan Thượng. Gọi là Assouan Thượng để phân biệt với một cái đập nhỏ không đủ dùng mà người Anh đã xây cất ở Assouan hồi trước, mà bây giờ người ta gọi là đập Assouan Hạ, vì nó ở dưới dòng, cách đập Thượng mười lăm cây số.
Gần đây các nhà địa chất học lại tìm thấy một con sông Nil thứ nhì chảy ngầm dưới đá, song song với con sông thứ nhất. Chính phủ Ai Cập tính cho đào những giếng sâu từ 200 đến 600 thước theo dòng sông đó để bơm nước trồng trọt được khoảng một triệu mẫu đất nữa.
Nhưng người ta tính rằng dù thực hiện xong hai công trình đó xây đập và đào giếng – thì số nông phẩmtăng lên cũng chỉ đủ bù số tăng gia dân số trong vài chục năm nữa, và dân Ai Cập cũng vẫn nghèo đói nếu không phát triển về kỹ nghệ.
Ai Cập sản xuất lúa mì, đường, chà là, chưa đủ dùng trong nước. Chỉ xuất cảng được nhiều nhất là bông, gạo, thuốc lá, và phải nhập cảng rất nhiều máy móc, phân hóa học, cả vải nữa. Kỹ nghệ nặng mới thành lập mười năm nay nhưng sản xuất rất ít vì thiếu vốn, thiếu kỹ thuật gia.
Năm 1936 Ai Cập được Anh hứa cho độc lập, nhưng sau Thế chiến, Anh mới chịu rút quân đội ra khỏi cõi. Năm 1952 vua Farouk bị truất ngôi; năm 1954 Nasser làm Tổng thống của nước Cộng hòa Ai Cập và hai năm sau quốc hữu hóa kinh Suez, gạt hết được ảnh hưởng của Anh và của Pháp.
Soudan. Trước cũng là đất bảo hộ của Anh, nằm ở bờ phía tây Hồng Hải và phía nam Ai Cập. Đất rất rộng, hầu hết là sa mạc, và đồng cỏ khô cháy. Trồng trọt được ít nhiều nhờ con sông Nil. Dân số khoảng 10
triệu, rải rác trên hai bờ sông Nil, kinh đô là Khartoum.
Có vài mỏ vàng, đồng, không phong phú; sản phẩm nhiều nhất là lạc, mè, kê, chà là, ngà voi. Năm 1955, Anh rút về hết, trả lại độc lập cho Soudan. Soudan không sáp nhập vào Ai Cập, thành một nước Cộng hòa.
Miền Maghreb
Miền này dân chúng thuộc giống Berbère đồng hóa với Ả Rập, tới nay chưa đóng một vai trò quan trọng trong khối Ả Rập nhưng năm 1967, trong chiến tranh Israel – Ả Rập, cũng đã tỏ tình đoàn kết với khối, nên chúng tôi cũng giới thiệu dưới đây Maghreb thường gọi là Bắc phi gồm ba xứ Tunisi, Algeri và Maroc, đều nhìn ra Địa Trung Hải, quay lưng vào sa mạc Sahara.
Tunisi nằm ở phía đông Maghreb, diện tích 125.000 cây số vuông, dân số hiện nay khoảng 4.000.000. Thủ đô là Tunis. Phía bắc có nhiều núi, khí hậu mát mẻ; phía nam có nhiều cánh đồng cỏ. Dân chúng sống nhờ nông lâm súc. Kỹ nghệ chưa phát triển.
Algeri ở giữa, phía đông giáp Tunisi, phía tây giáp Maroc, diện tích 208.000 cây số vuông, dân số vào khoảng 10.000.000. Thủ đô là Alger. Có hai dãy núi song song nhau ở phía bắc; ngoài ra là cao nguyên, nên khí hậu mát mẻ, người Pháp qua lập nghiệp rất đông (năm 1954, khoảng 1.000.000), khai thác xứ đó thành xứ thịnh vượng nhất của Maghreb. Lâm sản, khoáng sản (phốt phát, chì, kẽm, đồng) và nông sản, trái cây (nho, ô liu), giúp cho dân chúng có một mức sống tương đối dễ chịu.
Maroc có một vị trí rất quan trọng, kiểm soát eo biển Gibraltar, quay mặt ra Đại Tây Dương và Địa Trung Hải. Địa lý và khí hậu cũng như hai xứ kia, kỹ nghệ chưa mở mang, dân chúng nuôi súc vật và trồng trái cây, đánh cá. Khoáng sản nhiều: phốt phát, chì, sắt, có lẽ dầu lửa nữa. Diện tích 450.000 cây số vuông, dân số khoảng 12.000.000. Thủ đô là Rabat. Trước kia một miền nhỏ (28.000 cây số vuông) trông ra eo biển Gibraltar thuộc Tây Ban Nha.
Về chính trị, Tunisi, Maroc trước là đất bảo hộ của Pháp còn Algeri là thuộc địa của Pháp. Năm 1947 Pháp muốn sát nhập Algeri vào mẫu quốc, dân Algeri chống lại, và chiến tranh Algeri bắt đầu năm 1954, ngay sau khi đội viễn chinh Pháp vừa thất bại ở Điện Biên Phủ: 350.000 tính Pháp với đạt đủ khí giới tối tân mà không dẹp nổi vài ngàn quân du kích bản xứ.
Phong trào phản đế ở Bắc phi cũng có những nguyên nhân như ở các nơi khác: dân chúng bản xứ thì nghèo khổ, mà thực dân Pháp thì phè phỡn; phái thủ cựu chống văn hóa Âu mà phái tân học thì đòi quyền tự quyết cho dân tộc.
Pháp lúc đó đã thua ở Việt Nam, mất uy danh, nghĩa quân Algeri càng hứng chí, nhất là được gần hết thế giới ủng hộ: khối Ả Rập, như Ai Cập, tìm cách giúp đỡ, dĩ nhiên rồi; Nga cũng ngầm tiếp tay, điều này cũng dễ Hiểu, ngay cả Mỹ cũng chỉ trích chính sách đế quốc của Pháp nữa, chỉ có Anh là làm thinh ngó.
Thực ra năm 1954, Thủ tướng Pháp, Mendès France đã quyết định thỏa thuận với các đảng quốc gia bản xứ, trả quyền tự trị cho Tunisi. Nhưng vừa mới đem ra thi hành thì biến cố ở Maroc làm thay đổi tình hình, phải đặt lại vấn đề. Pháp đàn áp Maroc, khủng bố khắp nơi, truất quốc vương Ben Arafa thì quốc vương Mohamed V ở Madagascar về, nghĩa quân chiến đấu càng mạnh, rốt cuộc Pháp phải trả độc lập cho Maroc. Maroc hiện nay là một vương quốc, còn Tunisi là một nước Cộng hòa, Tổng thống là Bourguiba.
Algeri khác hẳn Tunisi và Maroc, không có quá khứ quốc gia. Xứ đó đã bị nhiều dân tộc xâm chiếm, chưa bao giờ thống nhất thành một quốc gia được. Pháp tưởng như vậy có thể sáp nhập một cách dễ dàng, biến Algeri thành một tỉnh của mình, không ngờ họ chống lại và Pháp đã vô tình giúp họ thành lập một quốc gia, vì năm 1958, De Gaulle lên cầm quyền đã phải trả lại độc lập cho họ. Algeri thành một nước Cộng hòa, Tổng thống đầu tiên là Ben Bella.
Pháp đã vụng tính, quá tham lam thành thử mất hết. Giá thu xếp ổn thỏa với các đảng quốc gia Ả Rập, trả độc lập lại cho họ từ sau Thế chiến, chỉ giữ lại ít quyển tin văn hóa, kinh tế thì có lẽ ảnh hưởng của Pháp còn tồn tại được lâu ở Bắc Phi.
Tóm lại khối Ả Rập gồm 16 quốc gia trước Thế chiến thứ nhì đều là thuộc địa của Anh hoặc Pháp. Xét chung thì chín phần mười dân số là người Ả Rập hoặc đồng hóa với Ả Rập theo Hồi giáo; về ngôn ngữ tuy cùng là nói tiếng Ả Rập nhưng tiếng này cũng như tiếng Trung Hoa chưa thực thống nhất, gồm nhiều tiếng
địa phương, một người dân ở Iraq khó mà hiểu một người dân ở Algeri được.
Mười sáu quốc gia đó lớn nhỏ khác nhau rất xa: có nước chỉ gồm một, hai triệu dân, có nước ba chục triệu dân; kinh tế cũng khác nhau: nước thì chuyên sống bằng lợi tức dầu lửa, nước thì chỉ trông vào sản phẩm nông nghiệp; chính thể cũng khác: một số nhỏ là nước quân chủ còn lại là các nước Cộng hòa.
Trên mười năm nay họ ráng đoàn kết với nhau để một mặt mổ cái “ung nhọt” Israel, một quốc gia nhân tạo mà người Anh đã miễn cưỡng ghép vào cơ thể họ, như họ nói; một mặt chống với đế quốc thực dân; Anh, Pháp rút lui thì Mỹ, Nga lại đặt chân vào, tranh giành nhau ảnh hưởng để cố làm bá chủ một miền rất quan trọng về địa thế (bản lề của ba châu) và về nguồn lợi dầu lửa. Trong cuốn này chúng tôi chỉ thường nhắc tới tám quốc gia đầu ở trên bán đảo Ả Rập: Ả Rập Saudi, Ai Cập, Jordani, SYRIE, Iraq, Liban, Koweit, Yemen mà bốn quốc gia đều đóng vai trò quan trọng nhất.
Tuy nhiên lịch sử của bán đảo Ả Rập không thể tách rời lịch sử của Thổ Nhĩ Kỳ và Iran (Ba Tư), nên chúng tôi cũng phải ghi lại vài biến cố lớn trong hai quốc gia này.
CHƯƠNG II. BÁN ĐẢO Ả RẬP THỜI THƯỢNG CỔ
Miền bắc bán đảo Ả Rập, dọc theo bờ Địa Trung Hải, từ sông Nil tới SYRIE rồi vòng qua lưu vực hai con sông Tigre và Euphrate là nơi phát tích của hai nền văn minh cổ nhất thế giới: nền văn minh cổ Ai Cập và nền văn minh Mésopotamie; cũng lại là nơi phát tích của hai Tôn giáo có ảnh hưởng lớn tới nhân loại: Do Thái giáo và Ki Tô giáo; còn giữa bán đảo là âm phát tích của một nền văn minh thời Trung cổ, văn minh Ả Rập, và của một Tôn giáo thứ ba: Hồi giáo.
Văn minh cổ Ai Cập
Phát sớm nhất là nền văn minh cổ Ai Cập.
Chúng ta chưa rõ gốc tích dân tộc Ai Cập, chỉ biết từ hồi tiền sử họ ở sa mạc phía Tây (tức miền Bắc Phi: Libye, Somalie…), di cư tới bờ sông Nil, thấy đất cát phì nhiêu, bèn cắm trại cất chòi. Nhưng rồi có lẽ cách đây 7.000 năm, đã có một số dân tộc châu Á: Sémitique hay Suméro Indou tới xâm chiếm lần lần thượng lưu sông Nil. Những dân tộc này văn minh hơn, có chữ viết, biết nấu đồng, tổ chức gia đình, xã hội, đồng hóa thổ dân còn dã man chỉ biết dùng đồ đá, và khoảng 4.000 năm TCN, sự đồng hóa đã hoàn thành, mà dân tộc Ai Cập xuất hiện trên lịch sử thế giới.
Mới đầu dân tộc đó chia làm nhiều tiểu bang rồi một vị anh hùng thống nhất các tiểu bang, lên ngôi vua (khoảng 3.200 TCN), tức vua Ménès, lập đô ở Memphis, trên hạ lưu sông Nil. Các vua sau lo mở mang, bình trị đất đai, xây dựng các kim tự tháp, được coi là một trong những kỳ quan của thế giới Kim tự tháp cao nhất cất trong đời vua Kheops, khoảng 2.800 TCN.
Độ một ngàn năm sau, một dân tộc du mục ở phương Đông từ sa mạc vào xâm chiếm đất đai họ trong một thế kỷ, tức dân tộc Hyksos. Họ gắng sức đuổi quân thù đi, phục hưng lên, mạnh hơn trước: các vua Thoutmès III, Ramsès II (1.300 TCN) đều là những vị anh hùng (kinh đô hồi đó ở Thèbes) mở mang bờ cõi tới Palestine, SYRIE, lại thắng được dân tộc hittite, lúc đó có một đế quốc rộng ở Tiểu Á.
Ai Cập thời đó hùng cường và văn minh nhất thế giới. Các đền đài đồ sộ được dựng lên, như đền Louqsor và Karnack.
Họ theo đa thần giáo cũng như các dân tộc khác, thờ đủ các thứ thần: thần Thiện, thần Ác, thần Bò, thần Cá Sấu, Thần Sông Nil, thần Mặt Trời. Họ tin rằng linh hồn bất diệt, nhưng cần có xác để làm chỗ dựa, nên họ ướp xác rồi mới đặt vào quan tài, chôn cất. Các kim tự tháp chính là những lăng tẩm vĩ đại chứa xác các vua chúa mà họ gọi là Pharaon.
Trên 4.000 năm trước, họ đã biết dùng thuyền buồm, bánh xe, nấu thủy tinh, chạm đồ đồng, dệt vải mịn, biết đào kinh dẫn nước; kinh có danh nhất là kinh nối Hồng Hải với một nhánh sông Nil, làm cho Hồng Hải thông với Địa Trung Hải (thế kỷ thứ 7 TCN.). Sau kinh đó bị cát lấp vì trong thời họ suy vi, không có ai săn sóc. Ferdinand de Lesseps đào kinh Suez (hoàn thành năm 1869, tới nay đúng một thế kỷ) là muốn làmlại công việc của người Ai Cập hai ngàn năm trước.
Khoa học của họ đã đạt một sức khá cao: họ làm được một thứ lịch gần đúng, chế ra một thứ giấy rất bền bằng vỏ cây papyrus tính được con số π = 3,16, tạo được một thứ chữ viết dùng 24 chữ cái để ghi âm. Còn công trình kiến trúc của họ thì quán tuyệt cổ kim, chúng tôi khỏi phải nhắc tới.
Thịnh cực thì bắt đầu suy. Dân chúng sinh ra lười biếng, không muốn đi lính, lính trong nước đều là người ngoại quốc đánh thuê. Vua chúa sống một đời cực kỳ ủy mị, xa xỉ.
Mới đầu bị Ba Tư xâm chiếm; người Ba Tư lập nhiều đồn trên khắp lưu vực sông Nil, từ Địa Trung Hải tới Assouan. Ai Cập chịu nhiều nỗi điêu đứng, mấy lần nổi lên, mất hai thế kỷ mới đuổi được họ đi, nhờ những lính đánh thuê gốc Liby và Hy Lạp.
Vì vậy mà khi Alexandre đại đế (thế kỷ thứ 4 TCN.) chiếm được Ba Tư, rồi Syne, Palestine, tới bờ sông Nil thì dân chúng Ai Cập hoan hô ông như một vị ân nhân giải thoát cho họ, coi ông như một vị Pharaon chính thống. Hy Lạp đô hộ Ai Cập ba thế kỷ. Họ đi thì La Mã tới.
Nữ hoàng Cleopatre, xinh đẹp tuyệt trần, muốn dùng làn sóng khuynh thành để cứu quốc, thắng được vị anh hùng La Mã là César, nhưng rồi không lay chuyển được Auguste và phải tự tử để khỏi bị nhục. Từ đó, trong non 2.000 năm, Ai Cập không lúc nào được tự chủ. Hết La Mã, tới Byzance. Ki Tô giáo lần lần lan vào lưu vực sông Nil. Rồi lại bị Ba Tư xâm chiếm một lần nữa (đầu thế kỷ thứ 7 SCN.). Ba Tư này chỉ chiếm được mươi năm, nhưng tàn phá, vơ vét dữ dội; Byzance mới đuổi họ đi được thì quân đội Ả
Rập do tướng Amrou Ibn El As chỉ huy (dưới trào vua Ả Rập Omar) quét sạch ảnh hưởng cả Byzance mà làm chủ Ai Cập.
Ai Cập mất nước mà mất luôn cả văn tự, điều đó đáng buồn mà không đáng lạ. Chữ cổ Ai Cập rất dễ học (vì ghi âm chứ không biểu ý như chữ Trung Hoa, chỉ dùng có 24 chữ cái) nhưng không được truyền bá trong dân gian, chỉ một số rất ít người được học, và sau khi người La Mã lại xâm chiếm, ở đầu kỷ nguyên, thì vị giáo sỹ Ai Cập cuối cùng biết chữ đã chết mà khắp nước không ai đọc được sách cùng bia trong đền, đài, lăng tẩm nữa. Thế là cả mấy ngàn năm lịch sử Ai Cập còn rành rành trên giấy trên tường mà cũng như bị phủ dưới một tấm màn kín.
Mãi mười bảy thế kỷ sau, một sỹ quan trẻ tuổi theo Napoleon đánh quân Anh ở Ai Cập, trong lúc rảnh, tò mò tìm cổ tích trên bờ sông Nil, một hôm thấy một phiến đá có khắc ba thứ chữ, có chữ Hy Lạp và Ai Cập. Ít năm sau, một giáo sư Pháp tên Champallion nghiên cứu phiến đá ấy, do chữ Hy Lạp mà đoán nghĩa và cách đọc chữ Ai Cập, lập lại được 24 chữ cái, và rốt cuộc làm cho những đền đài, lăng tẩm trên bờ sông Nil “đã nín thinh hàng ngàn năm, bỗng nhiên kể lại lịch sử vẻ vang cùng văn minh rực rỡ của dân tộc Ai Cập”.[2]
Văn minh Mésopotamie
Mang một thiên lý kính, leo lên ngọn kim tự tháp cao nhất ở Ai Cập mà nhìn về chân trời ở phía đông, ta thấy ở xa, xa tít, sau biển cát vàng mênh mông, hiện lên một vệt xanh bóng: đó là một thung lũng nằm giữa hai con sông Tigre và Euphrate, cho nên người Hy Lạp gọi là miền Mésopotamie (miền giữa hai sông). Hai con sông ấy chảy song song nhau rồi cùng đổ ra vịnh Ba Tư.
Nhờ hai con sông đó mà đất đai phì nhiêu, cho nên Thánh kinh đã đặt vườn Thiên Đàng (Eden). Ở đó, cũng theo Thánh kinh, thủy tổ của loài người, ông Adam, do Thượng Đế nặn bằng đất sét. Cũng theo Thánh kinh, hồng thủy dâng lên chắc cũng ở đây, trước hết là vì Mésopotamie rất thường bị nạn lụt. Vì thường bị nạn lụt nên kỹ thuật đào kinh, thông ngòi, dẫn nước, tháo nước ở đây phát triển rất sớm. Và vì đất là đất sét, cho nên nhà cửa, lâu đài toàn bằng gạch chứ không phải bằng đá như Ai Cập, còn chữ thì không viết trên giấy như Ai Cập mà trên những phiến đất sét bằng một cây que, viết xong rồi phơi nắng cho khô mà cứng lại.
Mésopotamie chia làm hai khu vực: khu đông nam gọi là Chaldée, khu tây bắc gọi là AsSYRIE. Ai Cập gần như cô lập: bốn mặt là biển và sa mạc, chỉ có mỗi một đường ở phía đông bắc thông qua châu Á, nên hồi đầu ít bị các dân tộc khác xâm chiếm và văn minh của họ khá lâu bền, truyền được hàng ngàn năm.
Mésopotamie trái lại là nơi giao nhau của nhiều con đường từ đông qua tây, từ nam lên bắc, dân miền núi phương bắc thấy nó phì nhiêu mà ham, dân sa mạc phương nam thấy nó xanh tốt cũng thích, Ba Tư ở đông dòm qua, Ai Cập ở tây cũng dòm tới; trước sau có đến mười dân tộc tranh giành nhau cái vườn Eden đó, nên các sử gia đã gọi nó là lò đúc nhiều giống người, nhiều văn minh và văn minh nào, giống người nào cũng chỉ thịnh trong một thời gian ngắn.
Mới đầu (vào khoảng 2.500 TCN.), là giống Sémite thịnh lên ở phương nam, miền Chaldée, lập đô ở Our. Our nay ở cách bờ biển 200 cây số, thời đó cất trên bờ nước như thành Venise. Nó là quê hương của Abraham, một ông tổ của Do Thái. Người ta đã đào lên được vô số di tích cổ, từ khí giới tới các đồ trang sức. Ngày nay Mésopotamie không còn là thiên đường của loài người, nhưng đúng là thiên đường của các nhà khảo cổ.
Our thịnh trong một thời gian ngắn rồi tới Babylone, kinh đô của Mésopotamie từ 2.300 tới 1.250 TCN. Vào khoảng 2.100, một vị minh quân, Hammourabi, tổ chức quốc gia, đặt ra lệ luật, khai sông ngòi, phát triển kinh tế và thương mại, đã dùng chi phiếu như các ngân hàng ngày nay. Babylone thành trung tâmthương mại của thế giới hồi đó: tất cả các sản phẩm, hóa vật từ đông qua tây, từ tây qua đông đều tới Babylone, chở trong ghe biển hoặc trên lưng lạc đà.
Mấy lần miền Chaldée bị Ai Cập xâm nhập, nhưng Babylone vẫn đứng vững và vào khoảng 1250, Chaldée mới bị AsSYRIE (ở phương bắc) diệt. Dân tộc AsSYRIE hiếu chiến, đã biết dùng chiến xa bọc đồng, đặt các trạm thông tin, chiếm đất rồi, định đô ở Ninive. Thời thịnh nhất của họ là triều Assourbanipal, làm chủ cả Egypte và xứ của dân tộc hittite.
Nhưng thịnh không được lâu, họ lại bị vua Babylone là Nabuchodonosor trả thù: thành Ninive bị tàn phá. Nabuchodonosor chiếm SYRIE, Palestine (lúc đó thuộc về Do Thái), san phẳng thành Jérusalem (thế kỷ thứ 7 TCN.), chọc đui mắt vua cuối cùng của Do Thái là Sédécias, đầy dân Do Thái về Mésopotamie.
Thời đó, Babylone là kinh đô của cả miền Tây Á, có một bức thành bao bọc, dài 45 cây số, gồm một trăm cửa bằng đồng đen; phía trong, cung điện nguy nga, có những vườn treo trồng đủ các giống cây lạ. Luôn luôn như vậy, thịnh cực rồi thì suy, vua cuối cùng của Babylone là Belschatsar bị Cyrus, vua Ba Tư, bắt làm tù binh và Mésopotamie sáp nhập vào đế quốc Ba Tư.
Văn minh Mésopotamie cũng rực rỡ như văn minh Ai Cập. Môn thiên văn rất tiến bộ. Mới đầu người ta
ngắm sao để đoán vận mạng (khoa chiêm tinh), sau nghiên cứu tinh tú, làm ra lịch, tính trước được nguyệt thực và nhật thực.
Họ đặt ra đơn vị để đo thời gian, không gian và sức nặng. Biết nấu sắt, đắp đập ngăn nước sông, xây cầu dẫn nước qua thung lũng.
Thư viện của họ có rất nhiều sách về văn học (ngữ pháp, tự điển), về khoa học (toán học, y học). Nhưng chữ viết của họ dùng tới 600 dấu vừa ghi âm vừa diễn ý, không tiện bằng chữ Ai Cập. Dân tộc Ba Tư, chiếm được Mésopotamie rồi, tiến qua phương tây, tới Ai Cập, bắc Phi, Hy Lạp, Tây
Ban Nha. Lúc đó Babylone vẫn còn giữ địa vị quan trọng của nó ở ngã tư các đường từ đông qua tây. Ba Tư suy. Vua Hy Lạp Alexandre đại đế lập một đội binh cực tinh nhuệ, đủ khí giới tốt, rất có kỷ luật và có thể tiến lui một cách chớp nhoáng, đi chinh phục thế giới, tới đâu thắng đấy, như vào chỗ không người, một hơi chiếm chọn miền Tiểu Á, miền Mésopotamie, xứ Ai Cập (tại đây ông dựng thành phố Alexandre), rồi quay trở lại, tiến sâu vào Ba Tư, vua Ba Tư chạy trốn, bị bộ hạ giết (thế kỷ thứ 4 TCN.). Đế quốc Hy Lạp tuy mênh mông mà không bền. Sau Hy Lạp tới La Mã. Đế quốc La Mã thịnh nhất vào thời Hoàng đế Auguste (người đã thắng Cléopâtre), gồm Ý, Pháp, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Tiếu Á, Mésopotamie và cả miền theo bờ Địa Trung Hải, từ SYRIE tới Ai Cập. Babylone suy tàn mà Constantinople thành kinh đô La Mã ở phương Đông.
Từ thế kỷ thứ III SCN., La Mã bắt đầu suy; Mésopotamie lại chịu ảnh hưởng của Byzane, nhưng mỗi ngày một tàn lụi cho tới khi thuộc về Ả Rập (thế kỷ thứ VII).
Dân tộc Hébreu
Trong thời thịnh của văn minh Mésopotamie, tại Chaldée có một dân tộc du mục gọi là Hébreu. Dân tộc này không tạo được một nền văn minh, nhưng sáng lập được một tôn giáo, thờ một vị thần duy nhất, thần Jahvé, khác hẳn với các tôn giáo đa thần thời thượng cổ. Họ có một địa vị đặc biệt trong lịch sử nhân loại, nhất là đóng một vai trò quan trọng ở bán đảo Ả Rập từ sau Thế chiến thứ nhì tới nay. Chúng tôi đã chép lại lịch sử của họ trong cuốn Bài học Israel (nhà xuất bản Phạm Quang Khai), nên ở đây chỉ nhắc lại vài điểm chính.
Khoảng 2.000 TCN., vị tù trưởng đầu tiên của họ là Abraham, gốc ở tỉnh Our, dắt gia đình di cư qua phương Tây. Sau khi lang thang nhiều năm, họ tới Ai Cập xin ở nhờ, được tiếp đãi tử tế. Một vài người Hébreu còn được địa vị cao trong triều đình các Pharaon.
Khi Ai Cập bị dân tộc Hyksos xâm lăng, người Hébreu bắt buộc phải cộng tác với kẻ thắng. Ai Cập khi đuổi được kẻ thù, oán họ đã phản bội, bắt họ phải làm nộ lệ. Từ đó họ cực khổ trăm chiều, chỉ tìm cách trốn.
Một vị thiếu niên anh tuấn, đau lòng cho nòi giống, nhất quyết cứu đồng bào, dắt họ vào chân núi Sinai sống đời lang thang, cực khổ nhưng tự do của tổ tiên. Vị trẻ tuổi đó tên Moise. Ông dạy cho đồng bào tôn thờ Jahvé, sau cùng đưa họ tới một miền đất cát phì nhiêu, miền Canaan (tức Palestine ngày nay), đất mà họ tin rằng Jahvé đã hứa cho họ.
Ông lại dạy đồng bào theo mười mệnh lệnh của Jahvé, không ngoài mục đích khuyên thiện răn ác. Nhờ ông, dân tộc Hébreu bắt đầu văn minh, được thống nhất, và Do Thái giáo thành lập. Sau ông, có vài vị anh quân như David (lên ngôi năm 1013 TCN) và Salomon, con của David. Dưới thời Salomon, quốc gia Israel thịnh nhất (từ đó dân tộc Hébreu có tên là Israel). Ông cho cất một ngôi đền thờ Jahvé, tức là đền Jérusalem (đền Bình trị).
Nhưng năm 930 TCN., Salomon băng, nước chia làm hai tiểu quốc: Israel ở phương Bắc và Judée ở phương Nam. Từ đó họ suy lần, phương bắc bị AsSYRIE chiếm năm 722 TCN; phương nam bị Babylone chiếm năm 586 TCN. Thành Jérusalem bị Nabuchodonosor phá, vua Sédécias bị chọc đui mắt, một số dân bị đày lại Babylone.
Tới khi vua Ba Tư là Cyrus chiếm Babylone, họ mới được về xứ xây cất lại đền Jérusalem, ráng gây dựng lại quốc gia, sống tạm yên ổn khoảng hai trăm năm (538-333).
Đế quốc Ba Tư sập đổ sau những trận tấn công như vũ như bão của vua Hy Lạp Alexandre đại đế, và Israel lại đổi chủ, cũng như Mésopotamie.
Hết Hy Lạp, rồi tới La Mã. La Mã cho họ tự trị. Chính vào thời vua Hérode Antipas Chúa Jesu ra đời trong một chuồng bò ở gần Bethléem.
Lớn lên ông đi khắp xứ Galilée và Judée để giảng đạo, bị một môn phái của đạo Do Thái oán ghét, tìmcách hãm hại (lúc đó người La Mã đã dùng một tên mới là Do Thái – do chữ Judée – để gọi dân tộc Hébreu). Bị đức Ki Tô vạch thói kiêu căng và giả dối, môn phái đó trả thù, xúi dân chúng nổi dậy, vu cho ông là phiến loạn, buộc nhà cầm quyền La Mã phải xử tội ông, và ông bị đóng đinh lên thập tự giá trên núi Golgotha cùng với hai tên cướp. Tín đồ Ki Tô giáo oán ghét dân tộc Do Thái chính vì vụ đó.
Sự cai trị của La Mã mỗi ngày một tàn khốc; dân tộc Do Thái chống lại nhiều lần, và đền Jérusalem bị phá một lần nữa. Người La Mã cấm họ xây lại đền ở nền cũ, lại đổi tên Jérusalem ra tên Aelia Capitolina, đổi tên Israel ra Palestine, tên cũ.
Khi đế quốc La Mã sụp, Palestine thuộc quyền cai trị của Byzance, rồi tới thế kỷ thứ VII, cũng như Ai Cập, Mésopotamie thành một tỉnh trong đế quốc Ả Rập. Nhưng lúc này quốc gia Do Thái đã tiêu hủy hẳn, mà dân tộc Do Thái đã phiêu bạt khắp châu Âu, châu Á, chỉ đạo Do Thái là vẫn còn.
Đạo đó do Moise thành lập, thờ một vị thần duy nhất, tức Thượng Đế mà họ gọi là Jahvé. Vị thần đó vạn trí vạn năng, chí công chí nhân, tạo ra trời đất và là cha sinh ra muôn vật; mà dân tộc Do Thái là con cưng của Jahvé, được Jahvé hứa cho riêng đất Israel (tức Palestine).
Theo thánh kinh của họ, ông tổ loài người bị một lỗi, nên loài người phải chịu khổ, nhưng một ngày kia, một vị cứu thế sẽ sinh trong dân tộc Do Thái và sẽ hòa giải Jahvé với nhân loại.
Người trong đạo tin có linh hồn và linh hồn bất diệt khi thể xác tiêu tan. Tín đồ phải theo đúng điều thập giời, như chỉ thờ một Chúa thôi, tức Jahvé, phải kính trọng cha mẹ, không được giết người, cướp của, nói dối, phải giữ linh hồn và thể xác trong sạch, vân vân. Chính đạo Ki Tô gốc ở đạo Do Thái mà ra, và sau này Hồi giáo cũng chịu nhiều ảnh hưởng của đạo Do Thái.
Nhờ giữ được tôn giáo mà dân tộc Do Thái mặc dầu phiêu bạt khắp nơi non hai ngàn năm nay, tiếng nói đã thành một từ ngữ, huyết thống gần như mất hẳn vì pha đi pha lại trong bao nhiêu thế hệ, mà vẫn giữ được liên lạc với nhau, tình thân với nhau, vẫn hoài bão một mộng chung là một ngày kia được về Jérusalem, thánh địa của họ, để gây dựng lại tổ quốc; và trong khi chưa gây dựng được tổ quốc thì người nào cũng mong mỏi được về thăm thành địa, quì xuống cầu nguyện trước Bức Tường Than Khóc (Mur des Lamentations) di tích duy nhất của đền Jérusalem. Dù gặp nhau ở chân trời gốc bể nào, khi chia tay, họ cũng chúc nhau: “Sang năm về Jérusalem.”
Chính tình cảnh phiêu bạt của họ, tinh thần tư hương của họ trong non hai chục thế kỷ là nguồn gốc nhiều biến cố lớn lao ở bán đảo Ả Rập trong hai chục năm nay, gây ra ba chiến tranh giữa Do Thái và Ả Rập – chiến tranh 1948-49, 1956, 1967 – mà chưa có cách nào giải quyết được.
Phần thứ nhì. ĐẾ QUỐC CỦA HỒI GIÁO (Từ thế kỷ thứ VII tới Thế chiến thứ I)
CHƯƠNG III. MOHAMED VÀ HỒI GIÁO
Mohamed sáng lập Hồi giáo
Trong khi tại phía bắc bán đảo mấy nền văn minh chiếu ra rực rỡ thì lòng bán đảo vẫn thiêm thiếp ngủ dưới ánh nắng gay gắt của sa mạc. Lâu lâu một thương nhân từ Ấn Độ chở ngà voi, hương liệu, đồ vàng chạm trổ lại Tyr hoặc Byblos, tả cảnh các vương quốc họ đi qua, các thị trấn nấp sau các đồi cát cho thổ dân nghe. Các nhà bác học Ai Cập, Hy Lạp vội vàng ghi chép lại, và trong bộ Địa lý của Ptolémée, ta thấy ông bảo miền “Ả Rập sung sướng” (Arabie heureuse) có 170 thành lũy, 6 thủ đô, 5 thị trấn…
Hoàng đế Auguste muốn biết cho rõ hơn, phái một viên tướng đem quân vào sâu trong bán đảo, chiếmcác thành lũy, thị trấn đó (năm 24 TCN.). Đạo quân đó chết mất bộn vì thiếu nước uống, chiu nóng không nổi, phơi thây trên sa mạc, làm mồi cho kên kên; còn một số trở về được, kể lại rằng chỉ thấy toàn là cát với vài bộ lạc dã man, không ra hình con người. Từ đó La Mã bỏ cái ý làm chủ bán đảo, mà dân tộc Ả Rập nhờ được sa mạc che chở, yên ổn sống, tuy cực khổ, nhưng tự do, quá tự do, đến nỗi hóa ra rời rạc, vô kỷ luật.
Họ là dân du mục dắt một bầy súc vật đi lang thang kiếm cỏ, thường đánh phá các vùng lân cận hoặc cướp giựt các thương đội. Một số ít quây quần chung quanh một cái giếng ở giữa một ốc đảo hay ở bờ biển, cất chòi, trồng chà là hoặc kê, lúa.
Đến đầu thế kỷ thứ VII SCN, họ chưa thành một lực lượng đáng kể. Trên các con đường chánh các thương đội thường qua lại, họ dựng những thị trấn vào cỡ trung bình, lớn nhất là Médine (15.000 người) và La Mecque (25.000 người), cả hai đều ở trên đường từ Hồng Hải qua châu Á.
Họ vốn theo đạo đa thần, mỗi bộ lạc thờ một vị thần khác nhau, nhưng tất cả đều coi thành La Mecque là chỗ lễ bái chung. Tại đây có một ngôi đền cũ gọi là Kaaba làm toàn bằng đá đen, trong đó thờ một mảnh vẫn thiết (một mảnh tinh tú trên không rơi xuống). Mảnh vẫn thiết ấy được coi là vị thần tối cao đứng đầu các thần Ả Rập. Đền Kaaba do một họ có uy thế nhất, họ Coréischite canh giữ. Mohamed[3], vị sáng lập Hồi giáo thuộc dòng họ đó.
Mohamed, thuộc dòng dõi Abdallah, sanh năm 570 ở quanh vùng La Mecque, trong một gia đình nghèo[4]. Thuở nhỏ ông chăn cừu rồi làm hướng đạo cho các thương đội qua sa mạc, đi khắp nơi này nơi khác. Về sau giúp việc cho một quả phụ giàu có, buôn bán lớn, và may mắn được cô chủ để ý tới, thế là nghiễm nhiên thành ông chủ. Từ đó ông chấm dứt cuộc phiêu lưu, nhưng vẫn sống tầm thường như mọi người, chưa tỏ ra dấu hiệu gì siêu quần.
Mãi tới bốn mươi tuổi, ông mới có những cử chỉ khác thường và đề xướng một tôn giáo thờ một thần duy nhất. Ông có ý thống nhất dân tộc Ả Rập, mà muốn vậy thì bước đầu phải thuyết phục các bộ lạc cùng thờ chung một vị thần, cùng tuân lời một vị giáo chủ thôi. Tôn giáo trong tay ông sẽ là chất hồ gắn các bộ lạc rời rạc lại thành một khối. Luôn trong mười năm, ông bỏ công việc làm ăn buôn bán mà lo thực hiện mộng đó, đi khắp nơi thuyết phục đồng bào. Bọn phú hào La Mecque thấy ông gây được ảnh hưởng trong đám dân nghèo, có ý lo sợ, biết ông giảng đạo ở đâu thì sai người phá đám, chửi mắng, hành hung nữa. Lúc ấy tình hình thị trấn Médine không được yên, các cuộc xung đột thường xảy ra. Dân chúng, khi đến hành lễ ở La Mecque, nghe ông thuyết, muốn theo ông, bỏ lối thờ cúng đa thần và mời ông tới Médine.
Ông không đi vội, luôn trong hai năm chỉ phái tín đồ tới thôi. Hồi nhỏ, vì dân thương đội qua SYRIE, ông gặp một giáo sỹ Ki Tô và theo đạo này; khi tới Médine, gần người Do Thái, ông chịu thêm ảnh hưởng của đạo Do Thái. Thành thử Hồi giáo là sự hỗn hợp của hai đạo Ki Tô và Do Thái, cũng thờ một vị thần duy nhất mà ông gọi là Allah. Giáo điều căn bản tóm tắt trong câu này: Chỉ có một đức Chúa duy nhất là Allah và một vị tiên tri của Ngài là Mohamed, tức chính ông.
Tín đồ phải phục tùng ý muốn của Allah, sự phục tùng ấy gọi là Islam, cho nên Hồi giáo có tên là lslam. khi chết, con người chịu sự phán quyết của Allah.
Giáo lý Hồi giáo gồm nhiều cuộc đàm thoại của ông do tín đồ chép lại trong thánh kinh Coran. Kinh này không những giảng về đức tin, mà còn dạy về khoa học, luật pháp và vệ sinh nữa. Cách cúng tế cũng giản dị như giáo điều. Tín đồ chỉ cần theo bốn điều: mỗi ngày cầu nguyện năm lần; phải tắm rửa trước khi cầu nguyện (ở sa mạc không có nước thì tắm bằng cát); trong đời ít nhất phải hành hương ở La Mecque một lần; phải cữ rượu và thịt heo. Điều đặc biệt nhất, trái hẳn với Ki Tô giáo, nhưng rất giống Do Thái giáo là điều này: người nào chịu chiến đấu vì Allah thì được lên Thiên đàng. Đây, ta thử so sánh ít đoạn trong kinh Coran và trong Cựu Ước
Kinh Coran, lời Mohamed:
“Ta sẽ gieo khủng bố vào lòng những kẻ không thừa nhận (tôn giáo ta) vì những kẻ ấy gán cho Chúa (Allah) những ý xấu mà họ không đưa ra được bằng chứng…”[5]
- “Từ nay ta sẽ sống và chết với các ngươi (tức đồ đệ của Mohamed), đời ta là đời của các ngươi, máu của các người là máu của ta, các ngươi thua là ta thua, các ngươi thắng là ta thắng.” - và “hễ tụi dị giáo tấn công các ngươi thì các ngươi sẽ tắm trong máu của chúng”.[6] CỰU ƯỚC
- “Ngươi phải diệt tất cả các dân tộc mà Jahvé, Đức Chúa Trời sắp giao cho ngươi, mắt ngươi đừng đoái thương chúng và người đừng phụng sự các thần của chúng.” (Sách Luật lệ ký[7], chương 17, tiết 16) - Hhi Jahvé, Đức Chúa Trời của ngươi đã dẫn ngươi vô cái xứ mà ngươi sẽ làm chủ, và đuổi khỏi trước mặt ngươi nhiều dân tộc, tức những dân tộc Hê Tít, GHi Rê Ga Sít, A Mô Nít, Ca Na An, Phê Rê Sít, Hê Vít và Giê Bu Sít, hết thảy bảy dân tộc đông và mạnh hơn ngươi; khi Jahvé, Đức Chúa Trời đã giao phó những dân tộc đó cho ngươi và ngươi đã đánh bại chúng, thì ngươi phải diệt chúng hết đi, đừng kết liên với chúng mà cũng đừng thương xót chúng. Ngươi đừng kết sui với chúng, đừng gả con gái cho con trai chúng, đừng cưới con gái chúng cho con trai mình, vì chúng sẽ dụ con trai ngươi lìa bỏ ta, mà phụng sự các thần khác, mà cơn thịnh nộ của Chúa Trời sẽ bùng lên mà diệt ngươi trong nháy mắt đấy. Trái lại, ngươi phải đối với bọn chúng như vầy: lật đổ bàn thờ của chúng đi, đập tan tượng thần của chúng đi, hạ các ngẫu tượng của chúng xuống, đốt những hình chạm của chúng cho hết.
“Vì đối với Jahvé, Đức Chúa Trời, thì người là một dân tộc thánh; Ngài đã lựa ngươi làm một dân tộc thuộc riêng về Ngài trong số tất cả các dân tộc trên mặt đất…” (Sách Luật lệ ký – Chương 17) Mohamed rất hiểu tâm lý đồng bào của ông. Đời sống cực khổ, phóng khoáng trong sa mạc, khí hậu có những lúc tương phản nhau quá mạnh đã tạo cho họ một tinh thần chiến đấu, hung hăng, và một quan niệmrất đơn sơ về sự vật. Chỉ có phải và trái, tin và không tin, sùng bái hay không sùng bái. Chỉ có trắng với đen, không có cái gì mờ mờ xam xám.
Cho nên ông phân biệt hai hạng người cho họ nhận định: một hạng là người Ả Rập thờ Allah, được Allah khải thị, một hạng là bọn không thờ Allah. Bổn phận của hạng người thứ nhất là phải thuyết phục hạng thứ nhì cải giáo mà thờ Allah, nếu không thì diệt cho hết chứ đừng thương xót. Đồng bào ông vốn chất phác, thuyết lý cao xa với họ thì khó có công hiệu, chỉ cần giảng cho họ đạo thường ngày, thực tế; nhưng trước hết muốn cho họ tin Allah, phải cho họ thấy rằng thờ phụng Allah thì sẽ thắng trận, rằng quân lính của Allah sẽ bách chiến bách thắng.
Moĩse xưa cũng đã nghĩ như vậy, cũng muốn cho dân tộc Hébreu chinh phục được khắp miền Tây Á, từ sông Nil tới hai con sông Tigre và Euphrate, nhưng ông và các người kế vị ông chỉ thắng được vài bộ lạc nhỏ mà làm chủ được Canaan (tức Palestine), rồi thì vong quốc. Nguyên do có lẽ tại dân tộc Hébreu chưa đủ lực lượng mà các dân tộc AsSYRIE, Chaldée lại mạnh quá. Cũng có thể do ông không biết tổ chức quân đội. Mohamed chịu ảnh hưởng của ông, và khéo tổ chức hơn, gặp thời cơ thuận tiện hơn nên thành công. Mohamed bảo tín đồ ràng cầm khí giới diệt ngoại đạo là một bổn phận thiêng liêng đối với Allah.
Chỉ trừ đàn bà, con nít còn thì hết thảy phải ra trận, dù đui mù, tàn tật cũng không được miễn. Mà đàn bà cũng không được miễn hẳn nữa, cũng phải cầm gươm chực sẵn, hễ thấy một tín đồ nào đào tẩu thì phải đâmcho lòi ruột ra. Vì trong tất cả các tội, không tội nào nặng bằng tội đào tẩu Kinh Coran đã bảo: “Thiên đường ở trước mặt các người, mà Địa ngục ở sau lưng các ngươi!”
Cứ xông tới chiến đấu với địch, nếu thắng thì sẽ chiếm được đất cát, vườn tược, dê bò, vợ con của địch, mà được hưởng ngay cảnh Thiên đường trên hạ giới; nếu bị địch giết thì sẽ được hưởng cảnh Thiên đường ở bên cạnh Allah, còn sướng hơn tất cả những cảnh trên hạ giới nữa: sữa thì ngọt, mật thì thơm, hoa quả không thiếu thứ gì mà các nàng tiên thì mắt đen lay láy, môi như san hô, yểu điệu thướt tha trong những chiếc áo long lanh vàng ngọc, nửa kín nửa hở, trông mà mê hồn. Tiến tới phía trước thì sẽ sung sướng như vậy, mà lùi lại phía sau thì nhất định là không đứt đầu cũng lủng ruột mà thây sẽ liệng cho kên kên, cả nhà đều mang tiếng nhục.
Cái tài của Mohamed không phải chỉ tìm ra được câu bất hủ: “Thiên đường ở trước mặt, Địa ngục ở sau lưng” mà còn ở chỗ tổ chức tỷ mỉ, đi thẳng vào thực tế, đặt ra một đạo luật cho chiến sỹ thấy cái Thiên đường ở trước mặt đó sẽ ra sao: chiến lợi phẩm sẽ chia làm năm phần: bốn phần dành cho chiến sỹ, một phần cho các thi sỹ, luân lý gia, giáo viên nào có công ca tụng chiến công anh dũng của sỹ tốt, khơi lòng căm thù quân ngoại đạo, nung lòng hy sinh tất cả cho Chúa. Ông lại định rõ kỷ luật trong trại: binh sỹ tuyệt nhiên không được đánh bạc, chơi phiếm, nói chuyện tầm phào. Lúc nào không chiến đấu thì tụng kinh Coran. Ăn uống kham khổ, dĩ nhiên không được uống rượu. khi nhập ngũ, mỗi kị binh phải dắt theo ngựa của mình, đem theo khí giới của mình và lương thực cũng của nhà mình, đủ ăn trong một tuần. Vì nhập ngũ là một vinh dự, những kẻ nào bê bối, thiếu tinh thần hy sinh sẽ bị gạt bỏ:
“Quân kỳ của chúng ta phải rực rỡ, không có một vết dơ!” Vì nó là lá cờ truyền đạo Allah.
Mohamed thống nhất Ả Rập
Sau mười năm hô hào thánh chiến, năm 621, đã ngoài ngũ tuần, ông mới bắt đầu thực hiện mục tiêu. Ông họp các đệ tử ở tỉnh Akaba, hỏi ý kiến họ, họ thề sẽ trung thành với ông và chiến đấu tới chết để truyền bá đạo.
Ông bảo họ: “Từ nay ta sẽ sống chết với các ngươi. Ai chết vì ta thì sẽ được lên Thiên đường.” Khoảng bốn chục đệ tử thành lập một “Ikwan”, một đoàn chiến sỹ sống chết có nhau. Lần lần số chiến sỹ tăng lên hai trăm.
Hồi đó các bộ lạc Ả Rập đã có khuynh hướng thống nhất rồi. Trước Mohamed, một vọng tộc ở Hedjaz, trong bộ lạc Coréischite, đã bắt đầu thực hiện được một chút thống nhất về chính trị, tổ chức sự cai trị và sự tế tự ở La Mequec, nắm được nhiều địa vị quan trọng trong xứ nhờ một chính sách ôn hòa có tính cách ngoại giao nhiều hơn là chiến đấu: cho mọi bộ lạc tự ý dựng tượng thần ở Kaaba, tự do thờ phụng, giúp đỡ tiền bạc, phân phối chức tước cho họ.
Mohamed ngược lại, bảo rằng chỉ có một vị thần chung cho mọi người Ả Rập, và chỉ có mỗi một vị tiên tri là ông. Bộ lạc Coréschite nổi lên định thủ tiêu ông, ông phải trốn khỏi La Mecque đúng cái đêm thích khách lại ám sát ông.
Người Hồi giáo gọi sự bôn tẩu này là Hégire và dùng năm đó, năm 622 để mở đầu kỷ nguyên Hồi giáo. Hiện nay lịch của họ vẫn còn dùng kỷ nguyên ấy.
Hai năm sau, thấy đạo quân của mình đã đủ mạnh, ông dắt 311 bộ binh và 3 kị binh thình lình tấn công bộ lạc Coréischite và toàn thắng ở Beder[8]. Chiến thắng đầu tiên đó làm cho tín đồ càng tin ông, và nhiều người trước kia do dự, nay tình nguyện theo ông, chỉ trong ít tháng ông có được 1.500 kị binh.
Để trả đũa, bộ lạc Coréschite liên kết với 12 bộ lạc khác, đem mười ngàn quân tới bao vây Médine. Mohamed không nghinh chiến, mà xây thành đào hào để cố thủ. Lối phòng thủ ấy quân La Mecque cho là hèn nhát. Họ ngày ngày lại dưới chân thành chửi bới nhục mạ thậm tệ, Mohamed nhẫn nhục chịu đựng. Mùa mưa tới, địch không có chỗ ẩn náu; lương thực cạn dần, nấu nướng lại khó. Mọi người đều ngã lòng, ý kiến lại xung đột. Không bao lâu 10.000 quân ô hợp của La Mecque tự tan rã như cát bay trong cơn lốc (năm627).
Họ rút lui hết rồi, Mohamed mới kéo quân tới mấy thị trấn nhỏ gần Médine, kể tội dân Do Thái ở đó đã theo địch; ông giết hết 900 người đàn ông, còn đàn bà trẻ con thì bán làm nô lệ.
Ông ký kết một cuộc ngưng chiến là mười năm với bộ lạc Coréischite rồi tấn công các thương đội Do Thái, chiếm Khaibar, Fadac, Wadil Cora, Taima. Thấy được Allah phù hộ, ông dắt theo hai ngàn kị binh hiên ngang hành hương ở La Mecque. Danh ông vang lừng khắp miền Hedjaz. Các bộ lạc ở Nedjd nhận ông làm “lãnh tụ Ả Rập”, xin được theo ông trong các chiến dịch.
Bộ lạc Coréischite thấy vậy càng tức, phá hiệp ước đình chiến; ông đem mười ngàn kị binh tới chân thành La Mecque. Một số đông dân cư trong thành hoảng sợ, bỏ trốn ra ngoài, còn quân lính giữ thành do Abou Sophian chỉ huy không chiến đấu mà đầu hàng (630). Abou Sophian còn xin dâng một người con trai để làm đệ tử Mohamed. Chính người con đó, Moawiah, sau thành một danh tướng trong đạo quân Hồi giáo và sáng lập giòng vua Ommeyade.
Nhận sự đầu hàng của Abou Sophian rồi, ông vào đền, lật đổ hết các tượng thần, phá hủy hết các bàn thờ dị giáo, bảo: “Ánh sáng đã hiện thì bóng tối phải lui!” Uy tín ông lúc này càng tăng, quân đội càng hăng hái chiến đấu vì tin rằng quả thực Allah che chở ông. Ngay bộ lạc Coréỉschite cũng theo Hồi giáo.
Từ khắp nơi trong bán đảo, các bộ lạc lại La Mecque để tỏ lòng trung thành với Giáo chủ. Các tù trưởng Taif, Hadramaout, Oman, Hasa Banrein, Hail đều nguyện theo đúng kinh Coran, gởi binh sỹ lại để gia nhập đạo quân Ikwan. Bộ lạc Yemen còn trù trừ, Mohamed phái một tướng đem quân tới trừng phạt.
Tới cuối năm 631, danh vọng ông tới tột đỉnh, quyền hành lan khắp bán đảo, kinh Coran được truyền bá khắp nơi. Mọi người sợ ông như sợ Chúa Allah. Chưa bao giờ ở Ả Rập một quốc vương được tôn sùng như ông.
Sở dĩ ông thành công là nhờ xã hội Ả Rập lúc ấy đã tới một trình độ mà tôn giáo đa thần không thích hợp với sự tiến hóa nữa. Các giống dân du mục đã bắt đầu định cư và ranh giới giữa các bộ lạc đã bắt đầu bị xóa bỏ; các giống dân phải hòa hợp với nhau để tạo thành một quốc gia mạnh hơn có một nền kinh tế thống nhất, một đạo quân hùng cường chống nổi ngoại xâm.
Ngoài lý do xã hội và lịch sử ấy, ta có thể kể thêm tính cách chiến đấu mạnh mẽ của quân lkwan, họ nhất quyết đánh ngã đối phương bằng mọi phương tiện, kể cả phương tiện khủng bố.
Tính cách đó, chính Mohamed tạo ra cho họ.
Lý do thứ ba là tính tình của vị giáo chủ Mohamed vừa có tài ngoại giao, vừa có nhiều thủ đoạn, biết tùy lúc dùng võ lực hay điều đình, tấn công hay nhượng bộ; nghĩa là có đủ tư cách của “một quốc vương Ả Rập.”
Đối với sỹ tốt, ông dùng thuật tâm lý, những lời lẽ bóng bảy, để kích thích óc tưởng tượng và lòng tin của họ. Ngồi một chiếc ghế thô sơ, dưới gốc một cây chà là, ông thân mật giảng kinh Coran cho họ rồi bảo: -Khi ta bị vây ở Médine, đích thân ta cầm cái cuốc để đào hào. Lưỡi cuốc làm tóe ra ba tia lửa: tia lửa thứ nhất báo rằng Yemen sẽ thần phục ta; tia thứ nhì báo rằng Ba Tư và phương Đông sẽ bị xâm chiếm; tia thứ ba sẽ ứng vào Ai Cập và phương Tây. Biết bao chiến thắng vẻ vang chờ đợi các binh sỹ của ta.
Yemen đã chiếm được một cách rất dễ dàng thì ai mà không tin ràng hai điều sau sẽ ứng nốt. Ở giữa sa mạc khô cháy mà tưởng tượng cái ngày vào Damas, Bagdad chiếm những của cải tích luỹ ở đó cả ngàn năm, bắt cóc các nàng tiên trong các vườn hồng, vườn cam thì lòng ai mà chẳng phấn khởi.
Ông sai thảo các bức thư gởi cho các “quốc vương trên mặt đất “, bảo họ có muốn khỏi bị tiêu diệt thì mau mau theo Hồi giáo đi. Nhưng các sứ giả của ông bị coi thường. Tên tù trưởng Ả Rập nào mà dám ăn nói lỗ mãng như vậy kìa? Nó chưa ra khỏi sa mạc, chưa biết Quốc vương Ba Tư ra sao mà! Chosróè II, vua Ba Tư, xé bức thư của Mohamed. Mohamed quát: “Vương quốc của nó sẽ tan tành cho mà coi?”
Quốc vương Damas cũng đáp bằng một giọng khinh bỉ, bảo có gan thì cứ kéo quân tới. Ông lại hành hương ở La Mecque lần cuối cùng rồi trở về Médine, gom tất cả quân đội, được 140.000 người, tính kéo tới SYRIE thì bị bệnh và mất năm 632.
Trước khi lâm chung một năm ông đã rót vào lòng tín đồ những lời dạy bảo nhân từ mà nghiêm của một vi giáo chủ luôn luôn lo lắng cho cái trật tự xã hội mà mình mới dựng lên, cần phải củng cố trong một thời gian lâu nữa.
Ông bảo họ:
“Hỡi thần dân, các con hãy nhớ kỹ lời của ta đây, vì không biết năm tới ta còn sống với các con nữa không. Các con phải biết coi sinh mệnh, tài sản của đồng loại là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. “Kẻ làm con thuộc quyền sở hữu của kẻ làm cha. Ai xâm phạm đến luật hôn phối sẽ bị trừng trị. “Ai nhìn nhận kẻ khác làm cha, coi kẻ khác làm thầy sẽ bị Chúa, bị các thiên thần và bị nhân loại trừng phạt.
“Hỡi thần dân của ta, đàn ông có quyền tuyệt đối với đàn bà và đàn bà cũng có quyền với đàn ông. Đàn bà không được phạm luật hôn phối, làm những việc dâm ô. Nếu đàn bà phạm tội, các con có quyển giamhọ trong phòng riêng dùng roi da mà đánh, song đừng đánh mạnh quá. Nếu họ biết giữ mình thì nên cho họ ăn mặc đầy đủ. Con nên trọng đãi vợ của con, vì họ là kẻ bị giam cầm trong tay con; họ không có quyền hành gì cả trong những việc không liên quan đến họ. Con tin lời Chúa mà cưới họ, con dùng lời Chúa mà ràng buộc họ với con.
“Đối với nô lệ, con dùng thức ăn gì thì cho họ dùng thức ấy; con mặc thứ vải gì thì cho họ mặc thứ vải ấy. Nếu họ phạm một tội lỗi không thể tha thứ được thì con nên đem bán họ đi, vì họ là nô lệ của Chúa, con không nên làm khổ họ.”
Không một thánh kinh nào mà thực tế như kinh Coran. Không một giáo chủ nào mà tổ chức đời sống tín đồ tỷ mỉ như Mohamed, một quốc vương kiêm quân sự gia, luật gia. Trong xã hội hắc ám thời Trung cổ, loài người chỉ chực ám hại lẫn nhau, dân tộc này coi dân tộc kia là thù địch, những lời tầm thường, giản dị mà chân thành đó của ông được dân chúng Ả Rập rất tin phục. Họ thấy đức chúa tể Allah ông dạy cho họ thờ phụng tuy đáng sợ mà cũng công bình, bác ái, khác hẳn các vị thần tạp nhạp trước kia họ cúng vái.
Mohamed trước khi chết giao lại cho các tướng lãnh trách nhiệm “truyền bá lời dạy của Chúa tới chân trời góc bể”. Ông để lại cho họ một xứ Ả Rập thống nhất, một đạo quân cuồng tín, đã có mười năm kinh nghiệm.
Ước vọng được lên Thiên đường hun đúc trong lòng họ, làm cho nhiệt huyết của họ bừng bừng, và mười mấy vạn quân đó chỉ đợi lệnh của chủ tướng để xông tới chinh phục thế giới.
CHƯƠNG IV. ĐẾ QUỐC Ả RẬP ĐỢT XÂM LĂNG THỨ NHẤT Suốt một thế kỷ, y như một bầy chó sói, quân đội Ả Rập túa ra, tàn phá cả miền Tây Á, Trung Á, Bắc phi và một phần tây nam châu Âu. Thế giới lúc đó, trừ Trung Hoa ở cách họ quá xa, còn thì dân tộc nào cũng lâm vào tình trạng suy đồi, loạn lạc, tan rã nên không chống cự họ nổi. Họ tới đâu thắng đấy, chỉ bị chặn lại ở chân núi Himalaya và ở đất Pháp. Họ bắt buộc kẻ địch phải chọn một trong hai đường: tôn sùng chúa Allah của họ, nộp cống cho họ, hay là chết.
Người đầu tiên kế vị Mohamed là Abou Bekr (632-634), gọi toàn dân nhập ngũ rồi theo cái luồng di cư của người Ả Rập từ nam lên bắc, xông vào SYRIE trước hết. Hai vạn kị binh của ông diệt được sáu vạn quân địch, vây rồi chiếm được Damas.
Khi ông mất, Omar lên thay (634-644), suốt mười năm cầm quyền chỉ lo tiếp tục thánh chiến, chiếmđược Palestine, dựng một giáo đường ở Jérusalem, và từ đây Jérusalem thành dết thiêng của ba tôn giáo. Do Thái giáo, Ki Tô giáo và Hồi giáo.
Mésopotamie bị chiếm rất mau, rồi tới phiên Arménie, Géorgie, vì dân chúng những miền đó gần như không chống cự lại. Họ phải theo đế quốc Byzance hay đế quốc Ả Rập thì cũng vậy; chủ mới là Ả Rập lúc đó có phần còn khoan hòa hơn chủ cũ nữa. Thế là năm 642 Hồi giáo lan tới chân núi Caucase.
Đồng thời quân đội Ả Rập tiến qua Ba Tư mà hồi gần mất, Mohamed bảo phải phá cho tan tành để trả thù việc vua Ba Tư đã dám xé bức thư của ông. Ba Tư chống cự anh dũng ba ngày trong cánh đồng Cadesiah, sau phải rút lui. Người Ả Rập tàn phá kinh đô Ctésiphon và dựng lên một kinh đô mới ở ngã ba hai con sông Tigre và Euphrate, đặt tên là Bassorah. Thị trấn này thịnh rất mau và thành một điểm rất quan trọng trên con đường qua Ấn Độ.
Họ thắng một trận rực rỡ nữa ở Nevahend, làm chủ được Kurdistan, Azerbaidjan, Ispahan, nhân đà họ tiến sâu vào cánh đồng cỏ hoang Trung Á.
Chiếm hết Ba Tư rồi, tới sông Indus, muốn qua sông Oxus thì ngừng lại vì đụng đầu với dân tộc Thổ (Turk).
Muốn vượt biển, họ sai đóng chiến thuyền ở Tyr, Sidon. Từ trước chỉ ở trong sa mạc, không biết gì về hàng hải, mà mới thử lần đầu họ đã thành công, chỉ nhờ tinh thần hy sinh cho Allah. Hạm đội của họ đánh bại các hạm đội Hy Lạp, cắm cờ Hồi giáo trên các đảo ở biển Egée, rồi chiếm đảo Chypre (647), Crète, Rhodes, làm chủ được miền đông Địa Trung Hải.
Tới đây, họ đã thực hiện được mục tiêu thứ nhì của Mohamed, còn mục tiêu thứ ba nữa, còn “nhát cuốc thứ ba” nữa để chiếm Ai Cập và phương Tây.
Một đạo quân xuất phát từ Jérusalem, vượt bán đảo Sinai, vào Ai Cập, chiếm Memphis rồi bao vây Alexandrie. Tỉnh này anh dũng chống cự được mười bốn tháng, làm cho họ tổn thất khá nặng, họ giận lắm, khi chiếm được rồi, tính san phẳng, nhưng không nỡ; nhờ vậy họ tiếp thu được tất cả nền văn minh thời thượng cổ phương Tây còn lưu lại ở Alexandrie mà sau này họ sáng tạo được một nền văn minh riêng cho họ.
Sau khi chiếm được Messah (tức Le Caire ngày nay) họ theo bờ biển mà tiến qua phương Tây, làm chủ dược Lybie, Tripolitaine và cả miền Maghreb. Đế quốc của họ đã lan rộng tới bờ Đại Tây Dương (675) và tướng Akbah của họ chìa gươm ra chỉ Đại Tây Dương: “Hỡi Allah, Chúa của Mohamed! Không có đại dương này ngăn cản thì vinh quang của Ngài sẽ còn được truyền tới tận cùng thế giới!”
Đợt xâm lăng thứ nhì
Trong thời gian đó, Othman (644-655) nối ngôi Omar, sau Othman, tới Ali (655-660), Ali chết, khi dân chúng bầu một vị lên thay thì các đảng phái chia rẽ, suýt gây ra nội chiến. Vì vậy mà cuộc thánh chiến phải tạm ngưng trong ba chục năm (675-705).
Nhưng khi tiếp tục lại cuộc xâm lăng, sức của họ còn mạnh hơn trước nữa: họ có nhiều kinh nghiệm hơn, chế tạo được nhiều khí giới mới. Trong giai đoạn thứ nhì này, kinh đô họ dời từ Médine lên Damas. Lần này họ lại tiến qua phương Đông, vào Trung Á, thắng được dân tộc Thổ, làm chủ gần trọn miền Tartarie, tới Afghanistan và biên giới Trung Hoa. Chiếm Samarcande, Khotan rồi, họ liên tiếp phái sứ giả tới triều đình Trung Hoa (lúc này có lẽ là vào thời Trung Tôn đời Đường), mười hai lần buộc vua Đường phải theo Hồi giáo. Vua Đường hứa hão, tặng sứ giả của họ một số vàng; còn vua Afghanistan phải nộp cống cho họ.
Năm 707, họ quay trở về Ấn Độ, tới bờ sông Indus, chiếm được miền Sind, tính dùng miền đó làm khởi điểm để tiến xa hơn nữa; sắp tới bờ sông Gange thì chủ tướng của họ được lệnh của vua Sohman phải ngừng lại vì Soliman ngại tướng của mình làm phản mà tạo một đế quốc riêng ở Ấn Độ.
Trong thời gian đó, hạm đội Ả Rập chiếm các đảo ở phía tây Địa Trung Hải: Sicile, Sardaigne, Corse; thế là làm chủ trọn Địa Trung Hải.
Tới eo biển thông Địa Trung Hải với Đại Tây Dương, nhìn lên địa vực của Tây Ban Nha, họ thèmthuồng, nhớ lại lời các thương nhân tả những cánh đồng phì nhiêu, những vườn lê vườn táo, những bãi cỏ xanh rờn với các đàn bò sữa, những cung điện nguy nga đầy vàng ngọc châu báu ở Tolède, Grenade. Họ quyết chí lên xem cái cảnh Thiên đường đó ra sao. Và năm 710 họ đổ bộ lên một chỗ bờ biển dựng đứng mà họ đặt tên là Djebel Al Tarik (người Âu phát âm thành Gibraltar), rồi đốt hết cả các chiến hạm để cho sỹ tốt hết hy vọng trở lui mà phải tử chiến.
Họ cho một đạo quân Maure (gốc ở Bắc Phi) lúc đó đã phục tùng họ đi tiên phong. Lúc đó dân tộc Wisigoth làm chủ Tây Ban Nha. Vua Roderic sống xa hoa: áo dát đầy vàng, thùng xe bằng ngà voi, yên ngựa nạm ngọc thạch; quần thần không lo binh bị, chỉ trông vào một bọn lính nô lệ miễn cưỡng ra trận. Sau bảy ngày cầm cự, quân Tây Ban Nha chạy tán loạn, vua Roderic chết đuối; đạo quân Ả Rập vào kinh đô là Tolède rồi chiếm một hơi các tỉnh Grenade, Cordoue…; trọn Tây Ban Nha vào tay Ả Rập, thành như một xứ “Tân Ả Rập.”
Thừa thế, Ả Rập vượt dãy núi Pyrénées, vào đất Pháp, chiếm Toulouse, ngược dòng sông Rhône và sông Saône, tới Troyes. Dân tộc Franc ở Pháp thời đó anh dũng hơn dân tộc Wisigoth, dưới sự chỉ huy của một vị vua can đảm và mưu trí, Charles Martel, chặn họ lại được ở trong khoảng từ Tours tới Poitiers (732).
Đạo quân Ả Rập lần này tan rã. Lúc đó hết thời thịnh của họ. Họ đã chiếm được một đế quốc lớn hơn cả đế quốc của Darius (Ba Tư) và của Alexandre đại đế (Hi Lạp) thời xưa. Từ đầu này tới đầu kia, đế quốc đó dài trên mười hai ngàn cây số. Mohamed ở trên Thiên đường chắc cũng phải hài lòng!
Thiên đường của Ả Rập
Với lại cũng đã tới lúc nghỉ ngơi để hưởng cảnh Thiên đường. Các vị quốc vương đầu tiên đều siêng năng, cương trực, sống cực kỳ giản dị. Abou Bebr khi chết chỉ để lại một chiếc áo, một tên nô lệ và một con lạc đà; Omar ngủ với bọn ăn mày ở bực thềm cửa Đền; Ali kiếm được bao nhiêu tiền, cứ thứ sáu đemphân phát hết cho người nghèo, chỉ một nắm chà là, một bình nước cũng đủ sống, có đức như thầy Nhan Hồi chắc cũng phải phục.
Nhưng một trăm năm sau, họ theo đúng lời Mohamed: “Thiên đường ở trước mặt, Địa ngục ở sau lưng!” Sau lưng họ là sa mạc mà trước mặt họ là Mésopotamie, là Ai Cập, là Tây Ban Nha. Nên họ chia đế quốc ra làm ba nước dưới quyền của ba ông hoàng vừa làm lãnh tụ tôn giáo, vừa làm quốc vương chuyên chế, ngự trị tại ba kinh đô danh tiếng nhất: Le Caire ở Ai Cập, Bagdad ở Mésopotamie và Cordoue ở Tây Ban Nha. Xứ Ai Cập, nơi phát sinh ra Hồi giáo, không còn là trung tâm của đế quốc nữa. Tất cả hoạt động căn bản về kinh tế chuyển qua Ba Tư. Hồi giáo cũng không còn giữ được bản chất nguyên thủy. Cũng như bao nhiêu tôn giáo khác, nó trở thành một lợi khí tinh thần phục vụ quyền lợi kinh tế của giai cấp thống trị.
Một dân tộc vừa là chiến sỹ, tu sỹ, thi sỹ mà xây dựng một cảnh Thiên đường để hưởng lạc thì cảnh đó tất phải rực rỡ, nhất là khi Mohamed đã dạy rằng thể xác cũng đáng quý như linh hồn, rằng tới ngày phán xử cuối cùng, Allah sẽ cho linh hồn nhập lại vào thể xác, cho hồi sinh để hưởng cảnh Thiên đường trên đó có suối rượu, suối sữa, suối mật, có hoa thơm,. Có quả lạ, có những bữa tiệc ba trăm món ăn, có những vũ nữ yểu điệu, da thịt mát và mịn, mắt đen lay láy, giọng hát mê hồn, bàn tay dẻo nhẹo. “Tha hồ ăn uống đi các con, để bù công khó nhọc ở cõi trần.”
Đã khó nhọc chiến đấu trên một thế kỷ thì hưởng thụ ngay trên cõi trần này được mà. Vì vậy kiến trúc, thơ, nhạc, vũ của Ả Rập đạt tới các mức hoàn thiện chưa từng thấy ở Tây Á và châu Âu. Kiến trúc của họ cực kỳ lộng lẫy, Ki Tô giáo không sao bì kịp.
Giáo đường Hồi giáo ở Cordoue dài hai trăm thước, rộng non một trăm thước, có trên một ngàn cột bàng đá hoa chống đỡ ba mươi tám điện thờ. Vòm và cửa đều dát vàng. Ban đêm người ta đất bốn ngàn bảy trăm cây đèn, cây đèn ở điện chính bằng vàng khối.
Cung điện của quốc vương Ả Rập ở gần giáo đường đó, có ba trăm mười hai cột bằng đá hoa chở từ Hy Lạp, Ý lại. Trần sơn xanh và dát vàng. Sống ở sa mạc, cho nên họ thèm nước, tới đâu cũng xây nhưng hồ có vòi phun lên những tia nước trong trẻo và thơm tho làm cho không khí mát rượi, tâm hồn khoan khoái. Chung quanh hồ trong vườn ngự uyển, có mười hai con thú bàng vàng khối lớn như thú thật, há miệng ra phun nước vào hồ.
Quốc vương ở Le Caire đâu có chịu thua quốc vương ở Cordoue, cũng cất những giáo đường vĩ đại, lại tạo lập một sở thú mênh mông nuôi đủ các loài sư tử, beo, cọp, voi… Nhưng lạ nhất là một cái hồ nhỏ chứa thủy ngân, một chiếc giường nổi đong đưa nhè nhẹ trên mặt thủy ngân để ru nhà vua ngủ.
Xa xỉ nhất là giòng vua Abasside làm chúa tể miền phương Đông. Họ vơ vét tất cả của cải tích lũy cả ngàn năm ở Mésopotamie, Ba Tư, rồi phung phí một cách ta không sao tưởng tượng nổi. Vua Almamoun (813-833) một hôm tổ chức một cuộc xổ số, có trên hai trăm tân khách thì cũng có trên hai trăm lô trúng, mỗi lô gồm một khu đất với một số nô lệ. Trong cung điện ông có ba mươi tám ngàn bức thảm mà một phần ba chạy kim tuyến. Để tiếp một sứ thần Hy Lạp, ông cho dựng trong cung điện một cây cành lá bằng vàng khối, trái bàng ngọc trai. Chuồng ngựa chứa trăm ngàn con tuấn mã từ khắp các nơi đưa lại.
Kinh đô Bagdad có 69 vòng thành, giữa hai vòng ngoài là một cái hào sâu. Bến tàu dài ba mươi hai cây số, lúc nào cũng chật thương thuyền, du thuyền và chiến thuyền. Lụa và đồ sứ
Trung Hoa, hương liệu và thuốc nhuộm của Ấn Độ, Mã Lai, ngọc thạch ở Trung Á, da lông để may áo của Nga, ngà voi, sừng tê của châu Phi… đầy nhóc trong các kho.
Đầu thế kỷ thứ X, Bagdad có 27.000 nhà tắm công cộng giờ nào cũng có đủ nước nóng và nước lạnh.
Năm 825, trong lễ cưới của Almamoun, người ta dốc một ngàn viên ngọc trai trên một cái mâm bồng vàng lên đầu tân nhân đứng trên chiếc chiếu cũng bằng vàng.
Suốt đêm tiệc tùng, ca vũ và ngâm thơ than thở cuộc đời phù du, xuân bất tái lai. Đúng như cảnh tả trong Một nghìn lẻ một đêm.
Văn minh Ả Rập
Bọn vua chúa quý phái tuy hưởng thụ nhưng cũng biết khuyến khích nghệ thuật và khoa học. Vào Alexandrie người Ả Rập chiếm được một kho tàng tinh thần vô giá của cổ nhân, tức thư viện của giòng Ptolémée, thư viện danh tiếng nhất phương Tây thời đó. Họ say sưa đọc các tác phẩm của Pythagore, Héraclite, Démocrite, Zénon, Platon, Anstote, Epicure, hippocrate, Euclide, Archimède… Họ chép lại rồi dịch. Vua Almamoun thưởng công họ rất hậu: cứ sao chép lại được một cuốn thì sách nặng bao nhiêu được thưởng bấy nhiêu vàng; bản dịch đầu tiên tác phẩm của Aristote còn được thưởng cao hơn: đặt lên cân, một bên là sách một bên là kim cương.
Đâu đâu họ cũng mở trường học, hàn lâm viện, thư viện, đài thiên văn. ỏ Cordoue chỉ có mười ba ngàn nóc nhà mà có tới bảy chục thư viện! Họ hăng hái học toán học, y học, hóa học.
Họ có phương pháp và có sáng kiến. Sống trước Descartes bảy thế kỷ, họ đã có ý niệm về phương pháp thực nghiệm: “Phải tiến từ điều mình biết tới điều mình không biết, nhận định cho đúng các hiện tượng để từ kết quả phanh lần lên tới nguyên nhân; chỉ tin là đúng cái gì đã được thực nghiệm chứng minh rồi.”
Nhờ có tinh thần đó, họ gần như sáng lập được môn vật lý hóa, tiến một bước dài trong môn thiên văn. Tại chiếc cầu lớn nhất ở Bagdad họ dựng một đài thiên văn đón các nhà bác học khắp nơi tới nghiên cứu. Chính Omar Khagam, một thi sỹ danh tiếng và thiên tài ngang với Lý Bạch của Trung Hoa, tác giả một tập thơ tứ tuyệt Robaiyat[9], là một nhà thiên văn đại tài, năm 1079, đã sửa lại lịch Ba Tư, gần đúng như lịch ngày nay.
Về toán học, họ tiếp tục công việc của Hy Lạp. Họ phát minh đại số học; mở mang thêm viên-hình-tam giác-pháp (trigosphérique), đặt ra sinus, tangente, cotangente.
Về vật lý họ phát minh ra quả lắc, nghiên cứu về quang học. Về hóa học, họ tìm được nhiều chất mới: potasse, nitrate d’argent, rượu (tiếng alcool của Pháp nguồn gốc là Ả Rập), sublime corrosif, acide citrique, acide sulfurique.
Y học của họ cũng rất tiến bộ: họ nghiên cứu hình thái học và khoa vệ sinh, chế tạo được nhiều dụng cụ, biết dùng thuốc mê trong việc mổ xẻ.
Nhờ những tiến bộ đó họ tính được hoàng đạo giác (angle de l’écliptique).
Về kinh tế, họ học cách trồng trọt và môn dẫn thủy của người Ai Cập, người Mésopotamie, thí nghiệmcác thứ phân bón, gây thêm nhiều giống cây.
Họ chế nước hoa, nấu xi rô, làm đường mía, gây rượu vang. Họ truyền sang châu Âu những giống cây từ trước chưa có như lúa, dâu, mía, mơ, đậu, gai, nghệ…
Họ là những tay thủ công rất khéo. Sản phẩm họ chế tạo đã nhiều loại mà lại đẹp nhất thời đó. Họ luyện được mọi thứ kim thuộc như vàng, bạc, đồng, đồng đỏ, sắt, thiếc. Đồ thủy tinh và đồ gốm của họ nổi tiếng. Họ biết bí quyết nghề nhuộm và làm được giấy.
Thành Damas sản xuất những tấm thảm nổi tiếng nhất thế giới; Cordoue sản xuất da thuộc, rồi thương nhân của họ chở đi bán khắp châu Phi, châu Á, tới cả Trung Hoa.
Về chính trị, họ tổ chức được một quốc-gia có tính cách tấn bộ. Tuy cũng chuyên chế như các quốc gia khác đương thời, tuy cũng chứa nhiều mâu thuẫn giai cấp và dân tộc, quốc gia Hồi giáo uyển chuyển hơn cả nên chế độ chuyên chế của họ mới tồn tại được lâu
Tới giữa thế kỷ XIII, văn minh của họ đạt tới cực điểm và ngừng lại.
Ả Rập bị Thổ đô hộ
Sống ba thế kỷ trong cảnh Thiên đường, thì dù Thiên đường đó là của Allah, người ta cũng đâm ngán. Abderrahman III, vua Ả Rập cuối cùng ở Tây Ban Nha, sau khi cầm quyền nửa thế kỷ, viết mấy hàng này để lại cho hậu thế: “Từ khi ta lên ngôi, nửa thế kỷ đã trôi qua. Châu báu, danh vọng, thú vui ta đã tận hướng (…) Tất cả những cái gì mà loài người ao ước thì Chúa đã ban cho ta. Trong các thời gian dài đằng đẵng bề ngoài như tràn trề hạnh phúc đó, ta đếm lại những ngày ta thực sự sung sướng thì thấy chẳng được bao: chỉ có mười bốn ngày. Đó quyền uy và kiếp đời nó vậy đó.”
Ba trăm năm sống trong cảnh xa hoa thì dẫu là con cưng của Allah, môn đồ của Mohamed cũng hóa ra ủy mị, đọa lạc. Bảng giá trị đã lật ngược lại: can đảm, ngay thẳng, danh dự không được trọng nữa và con người hóa ra nhu nhược, gian tham, dối trá.
Lời dạy của Mohamed không còn được ai theo. Các quốc vương cũng ham rượu, thi sỹ Omar Khayamđã ca tụng cái thú của rượu (coi bài thơ ở trên), thì ai còn giữ đúng Coran nữa.
Coran cấm nặn, khắc hình người mà một quốc vương Ả Rập, Abdelmalek cho đúc tiền có hình của ông. Đã từ lâu rồi, người ta không còn nhớ quê hương của tổ tiên tại sa mạc. Người ta sống ở Damas, Bagdad, Le Caire, lâu lâu mới hành hương ở La Mecque, và coi những miền Yemen, Nedjd là những xứ dã man. Từ thế kỷ thứ X, cảnh sa mạc ở bán đảo Ả Rập lại cách biệt hẳn với thế giới bên ngoài, sống im lìm dưới ánh nắng gay gắt. Không còn tiếng vó ngựa, tiếng gươm đao trong những cuộc thánh chiến thời xưa nữa. Một nền văn minh bừng lên, bây giờ sắp tắt. Một làn sóng dâng lên, bây giờ đương hạ. Và những làn sóng khác sắp tràn qua.
Trong khi Ả Rập suy thì phương Tây mạnh lên. Năm l097, đoàn viễn chinh Thập tự quân đầu tiên do Godrefroy de Bouillon cầm đầu vượt Địa Trung Hải, đổ bộ lên bán đảo Ả Rập, chiếm SYRIE, Palestine, Transjordanie, dựng nên những tiểu quốc ở Antioche, Tripoli, Jérusalem. Tiếp theo là nhiều cuộc viễn chinh nữa, lần thì người Âu thắng, lần thì Ả Rập thắng, rốt cuộc năm 1250, Hồi giáo chiếm lại được SYRIE.
Những làn sóng đó nhỏ, không đáng kể gì. Mạnh nhất là làn sóng Thổ Nhĩ Kỳ ở thế kỷ XIV. Thổ Nhĩ Kỳ cùng một giòng giống với dân tộc Mông Cổ. Cả hai đều xuất hiện ở trung bộ châu Á có lẽ từ ba bốn ngàn năm trước. Họ đều là những dân du mục, sống rất giản dị coi thường sự chết. Lời dưới đây mà các sử gia thường gán cho Attila: “Ngựa ta qua nơi nào thì cỏ nơi đó không mọc lại được nữa” chính là lời ở cửa miệng các chiến sỹ Thổ. Họ rất hiếu chiến và rất thiện chiến, tấn công như vũ như bão, tàn sát ghê gớm, dân tộc nào cũng kinh sợ.
Cuối thế kỷ XIII, họ rời trung bộ châu Á, tiến về phương Tây, đi qua Ba Tư, Arménie, tới bờ sông Sakharya ở Tiểu Á (miền Angora – có sách gọi là Ankara), thấy đất cát phì nhiêu, định cư luôn tại đó và bắt đầu xâm chiếm các miền chung quanh. Năm 1453 chiếm được Byzance rồi, họ mới hỏi tội các quốc vương Ả Rập, bắt phải phục tùng họ như xưa kia Ả Rập bắt Ba Tư, Mésopotamiẹ phục tùng. Lần lượt gần hết các xứ Hồi giáo thành thuộc địa của Thổ.
Tới giữa thế kỷ XVI họ cường thịnh nhất, lập được một đế quốc rộng gần bằng đế quốc Ả Rập, phía bắc giáp Áo, Ba Lan, Nga; phía đông giáp Ba Tư qua Hồng Hải, Ai Cập, Tripolitaine, Tunisi, Algeri. Họ kiểmsoát ba phần tư Địa Trung Hải, trọn Hắc Hải, Hồng Hải và một nửa vịnh Ba Tư. Duy có lòng bán đảo Ả Rập là họ vào không được.
Năm 1550, vua Thổ là Soliman đã phái một đạo quân vào chiếm miền Nedjd và Hail, nhưng quân Thổ không thuộc đường lối, phải nhờ người Ả Rập hướng đạo và người Ả Rập trong sa mạc vẫn còn giữ được tinh thần của tổ tiên, không sa đọa như Ả Rập Damas, Bagdad, dắt họ tới những chỗ không có một giếng nước; họ khát nước đến hóa điên, có kẻ quay ngọn giáo lại đâm chủ tướng của mình; rốt cuộc họ không gặp
được quân địch, chỉ gặp cát bỏng và mặt trời cháy da, và bỏ thây trong sa mạc cho kên kên rỉa. Ít lâu sau, một đoàn người đi qua sa mạc, gặp thây chủ tướng của Thổ trong tay cầm một tấm bằng đất sét trên có hàng chữ: “Bắt tôi thắng mặt trời sao nổi!”
Từ đó Thổ không hành quân vào sa mạc nữa mà chỉ chiếm tất cả các miền ở gần biển thôi. Thổ tuy chiến đấu hăng hơn cả Ả Rập nữa, nhưng có hai nhược điểm:
- Họ không văn minh, chỉ tiếp thu văn minh của Ả Rập, theo Hồi giáo, mà không phát huy được thêm, thành thử đế quốc của họ do gươm đao tạo thành, phải giữ bằng gươm đao mà trong lịch sử nhân loại chưa hề có dân tộc nào thịnh hoài về võ bị được.
- Đế quốc họ gồm nhiều dân tộc hơn cả đế quốc Ả Rập, Ba Tư, Ả Rập, Nga, Hung, Lỗ, Hy Lạp… khác nhau xa về tính tình, ngôn ngữ, tôn giáo, không thể nào đồng hóa để thống nhất thành một quốc gia, nên rất dễ tan rã.
Tới thế kỷ XVII họ suy lần. Các dân tộc ở châu Âu văn minh hơn họ, bắt đầu nổi dậy chống lại họ. Và giữa thế kỷ XVIII, một vị anh hùng Ả Rập ở miền Nedjd, Abdul Wahab, cũng nổi lên muốn giải thoát đồng bào.
Vì sinh trưởng ở giữa sa mạc, Abdul Wahab còn giữ được truyền thống giản dị, cương cường, theo đúng lời dạy của Mohamed, thấy Hồi giáo đã sai lạc nhiều quá, ông đi thuyết giáo, hô hào người ta trở lại lối tu hành ngàn năm trước: tụng kinh, bố thí, hành hương, nhịn ăn trong tháng ramadan… [10] Ông liên kết với Mohamed Ibn Séoud, một người có tài cầm quân, cùng nhau chiếm xứ Nedjd rồi đem quân tới miền Haza, tới biên giới Hedjaz và SYRIE. Tóm lại họ muốn bắt đầu từ sa mạc, chinh phục lại cả bán đảo như Mohamed thời trước.
Vua Thổ ở Constantinople là Mahmoud I ra quân để diệt họ mà diệt không nổi.
Năm 1765, Mohamed Ibn Séoud (sử gọi là Séoud đại vương) chết, con là Abdul Aziz lên nối ngôi, chiếm được cả miền Hedjaz, vào Médine và thánh địa La Mecque, và tới đầu thế kỷ XIX, giòng họ Séoud làm chủ hết bán đảo chỉ trừ dải đất phía Bắc trên bờ Địa Trung Hải.
Chính Séoud đại vương là ông tổ của quốc vương Ả Rập Saudi, Ibn Séoud, một vị anh hùng Ả Rập đóng một vai trò quan trọng trong tiền bán thế kỷ XX mà trong một chương sau chúng tôi sẽ nhắc tới. Trong khi những biến cố đó xảy ra ở Ả Rập thì những đạo quân của Napoleon làm rung chuyển cả châu Âu. Cuộc xung đột Pháp – Anh lan qua tới Tây Á.
Trong chiến dịch Ai Cập (1798-1799), Bonaparte phải đương đầu cả với Anh lẫn Thổ, và ông ta vội vàng trở về Pháp, nhưng vẫn không bỏ cái mộng sau này sẽ chiếm Ấn Độ của Anh. Ông ta bảo: “Ở châu Âu không còn gì để làm nữa cả; muốn dựng sự nghiệp lớn thì phải qua phương Đông”. Nghĩa là ông muốn chiếm đế quốc Thổ, để dễ dàng đặt chân lên Ấn Độ. Năm 1811, Napoleon phái sứ thần tiếp xúc với quốc vương xứ Nedjd, lúc đó là Séoud (không phải lớn Séoud sau này)[11] để cùng với Séoud hạ Thổ. Anh cũng ve vãn Séoud. Rốt cuộc Séoud đứng về phe Pháp vì phục tài cầm quân như thần của Napoleon.
Năm 1812 ký mật ước với Pháp rồi, Séoud tấn công Mésopotamie, thắng, định sẽ tiến thằng tới Constantinople. Chẳng may năm đó Pháp thua Nga, Napoleon phải rời Moscow chạy trối chết về nước, hao quân tổn tướng, không thể giúp Séoud ở Tây Á được nữa. Vua Thổ bèn phản công, Séoud tử trận (1814). Người kế vị Séoud không có tài, thua liên tiếp mấy trận nữa, đành đầu hàng Thổ (1815). Năm1836, Thổ đem quân vào bán đảo tàn phá hết miền Azir, miền Hedjaz rồi rút lui.
Tóm lại làn sóng đầu tiên nổi lên thời Mohamed, Abou Bekr, Omar thành công rực rỡ; làn sóng thứ nhì, khoảng ngàn năm sau, thất bại sau khi Séoud chết, mặc dầu khí thế khá mạnh ở thời Abdul Wahab. Tới giữa thế kỷ XIX, bán đảo Ả Rập lại hoang vắng, im lìm dưới ánh nắng mặt trời. Chỉ có gió và cát; gió nổi lên, cát lần lần phủ hết các di tích một thời oai hùng của họ.
CHƯƠNG V. CON BỆNH THỔ VÀ CÁC BÁC SỸ TÂY PHƯƠNG VỚI MUSTAPHA KÉMAL
Napoleon có công đánh thức dân tộc Ả Rập không?
Một số học giả Pháp như Henri Jego trong L’Empire arabe troième grand? (Au fil d’Ariane – 1963), Jacques C.Risler trong L’Islam moderne (Payot -1963) cho rằng Napoleon đã có công đánh thức dân tộc Ả Rập trong khi họ đương thiêm thiếp ngủ ở đầu thế kỷ XIX.
Jacques C.Risler đưa ra chứng cứ Bonaparte chỉ ở Ai Cập một thời gian ngắn mà đã tổ chức được ở đó một nền hành chính tỉnh, một cơ quan tài chính và nhiều hội đồng dân cử để dân Ai Cập quen với lề lối đại diện. Ông ta lại lo đến vấn đề giáo dục, khuyến khích dân bản xứ mở nhà in, sáng lập một nhật báo, tờ Le Courrier d’ Egypte, một tạp chí, tờ La Décade Egyptienne. Về phương diện kinh tế, ông cho nghiên cứu kế hoạch dẫn thủy nhập điền “để cho không một giọt nước nào của sông Nil chảy phí ra biển.”
Hơn nữa, sau chiến dịch Kim tự tháp mấy tuần, ông ta còn thành lập viện khoa học và nghệ thuật. viện hoạt động đều đều trong ba năm, nhờ các bác học Pháp: Monge, Bertholler, Fournier, Geoffroy Saint hilaire, Desgenettes.
Và cũng theo Risler, khi Bonaparte rút quân về rồi, Méhémet Ali được vua Thổ cử làm thống đốc Ai Cập (hồi đó Ai Cập tuy là thuộc địa của Thổ nhưng được tương đối tự trị) tiếp tục công việc của Pháp, canh tân quốc gia theo kiểu châu Âu, dùng các giáo sư và kỹ sư Pháp, thoát li lần lần ảnh hưởng của Thổ mà gây tinh thần quốc gia, dân tộc tại Ai Cập, tinh thần mà khối Hồi giáo chưa hề biết.
Dù viết về Ả Rập hay về Trung Hoa, Việt Nam, nhiều học giả Âu tây đã có luận điện như vậy: chính người phương tây đem cái tinh thần quốc gia, dân tộc dạy cho người phương đông, nghĩa là trước khi người phương tây tới khai hoá người phương đông như học nói, thì người phương đông không biết ái quốc, không có tinh thần dân tộc, có lẽ chỉ có vài cái tinh thần trung quân hoặc tinh thần tôn giáo thôi. Có vẻ như học muốn bảo: “Mình khai hóa cho họ để họ chống lại mình, quân vong ân bội nghĩa”. Riêng về Việt Nam, tôi đã bác luận điện đó trong bài “Cụ phan và lòng dân” trong tập Kỷ niệm 100 năm năm sinh Phan bội châu (nhà Trình bày – 1967). Về Ả Rập, tôi xin nhắc các học giả đó rằng Abdul Wahab sinh trước Napoleon ít gì cũng một thế kỷ, nổi lên chống Thổ từ giữa thế kỷ XVIII, như vậy thì tinh thần quốc gia, dân tộc của ông ta được người Âu truyền cho? Không thể bảo ông ta chống Thổ vì tinh thần trung quân vì lúc đó Ả Rập đâu còn vua, hoặc vì tinh thần tôn giáo vì Thổ cũng theo Hồi giáo.
Sở dĩ các nhà học giả Âu tây đó có luận điệu trên là vì họ chỉ nhìn thấy cái bề ngoài. Hễ người phương Tây đặt chân tới miền nào ở phương Đông là luôn luôn tìm cách thôn tính; hiểu dã tâm đó của họ, người phương Đông luôn luôn phản ứng lại mạnh mẽ, do đó tinh thần quốc gia, dân tộc cố hữu – tôi nhắc lại: cố hữu – bùng lên, mạnh hơn bao giờ hết; và người phương Tây thấy mình tới một tí lâu rồi nó bùng lên, cái tinh thần đó cho dân phương Đông. Họ ngây thơ như một em bé thổi vào một cục than đương âm ỉ có lớp tro ở ngoài, thấy nó đỏ rực lên, vỗ tay reo rằng mình đã tạo lửa.
Rishler dẫn chứng ở trên rằng Napoleon muốn khai hóa dân tộc Ai Cập. Chúng ta không chối cãi điều đó. Nhưng chính Napoleon cũng đã nói: “Ở Châu Âu không còn gì để làm nữa cả, muốn dựng sự nghiệp lớn thì phải qua phương Đông”. Sự nghiệp đó sự nghiệp gì” Là chặn con đường của Anh qua Ấn độ, nghĩa là chiếm cả Ai Cập và Tây á. khi bị đày ở đảo Thánh Hélène, ông ta còn tâm sự với Las Cases: “Đáng lý ra tôi phải cùng với Nga chia đôi đế quốc Thổ. Tôi đã mấy lần bàn với Alexander (tức hoàng đế Nga). Nhưng Constantinople đã luôn luôn cứu nước Thổ. Kinh đô đó làm cho mọi người lúng túng… Nga muốn chiếm nó. Tôi không thể để cho họ chiếm nó được. Chiếc chìa khoá quý giá. Một mình nó cũng bằng cả một đế quốc rồi. Nước nào chiếm được nó thì có thể làm chủ thế giới”. Sự thực, trong hiệp ước Tilsitt ký với Nga, Napoleon đã nhường cho Nga vài thuộc địa của Thổ ở châu Âu, nhờ vậy mà Nga mới lui binh, không đánh Napoleon nữa.
Vậy Napoleon, hay đúng hơn, Châu Âu đã đánh thức Ả Rập để diệt Thổ mà mình khỏi tốn nhiều sức; và khi diệt Thổ rồi thì Châu Âu sẽ chia nhau đế quốc của Thổ, trong đó có Ả Rập; Ả Rập mà nghe họ thì chỉ là mắc mưu họ rút cổ ra khỏi tròng của Thổ để chui vào cái tròng của Châu Âu. Cái tròng của Thổ tuy nặng nhưng còn lỏng lẻo, cái tròng của Châu Âu mới là đáng sợ. Trong lịch sử nhân loại, thực dân Âu ở thế kỷ trước (Anh, Pháp, Hà Lan, Đức…) thâm Hiểm hơn thực dân Trung Hoa, La mã, Ả Rập, Thổ thời xưa nhiều lắm.
Chính vì hiểu vậy, hoặc cảm thấy vậy trong tiềm thức, nên các dân tộc Hồi giáo sau này hăng hái duy tân (Thổ trước hết rồi tới Iran, Ai Cập) có khi lại theo Nga nữa để chống lại thực dân Âu. Về điểm đó, lịch sự của Tây Á, cũng y như lịch sử của Đông Á (Nhật, Trung Hoa, Việt Nam…)
Vậy chúng ta nên sửa lại nhan đề một chương trong lịch sử Pháp: Napoleon không đánh thức tinh thần quốc gia của dân tộc Ả Rập, ông ta chỉ mở đầu một giai đoạn lịch sử thực dân Âu, giai đoạn mà các cường quốc Âu: Nga, Pháp. Anh, Đức thì lúc vào hùa với nhau, lúc thì xô bẩy nhau chung quanh con bệnh Thổ, mới đầu không muốn cho nó chết vì còn gườm nhau, và khi đã quyết tậm hạ nó rồi thì tranh giành nhau chia xẻ đế quốc của nó, tức các quốc gia Hồi giáo ở Tây và Trung Á.
Con bệnh Thổ
Từ thế kỷ XVIII, Thổ đã thành một con bệnh, y như Trung Hoa ở thế kỷ XIX. Họ suy lẫn, thua ở Vienne (Áo), mất Budapest (Hung), lần lượt phải nhường cho Đức xứ Hung và xứ Transylvanie, cho Nga hải cảng Azov, cho Ba lan tây bộ Ukraine và Hồi giáo mà Thổ tiếp nhận của Ả Rập bắt đầu bị đạo Ki Tô lấn áp; ảnh hưởng của họ ở Âu châu gần như mất hẳn. Qua thế kỷ XIX tình hình còn trầm trọng hơn. Đất đai mênh mông, địa thế lại rất quan trọng: nằm ngay ngã ba, chỗ tiếp xúc của Âu, Á, Phi; nhưng nó càng mênh mông, càng quan trọng, thì lại càng bị các quốc gia châu Âu dòm ngó. Mà trong nước thì loạn lạc, vua chúa yếu hèn, triều đình không có kỷ cương, quần thần chiếm mỗi người mỗi nơi, quan lại tham nhũng, quân lính chuyên môn ăn cướp.
Thừa cơ đó, hy lạp vốn là thuộc địa của Thổ, tuyên bố độc lập, Pháp viện cớ là sứ thần của mình bị nhục (bị vua Algeri cầm quạt đánh) đổ bộ chiếm Algeri (1830-1837), Thổ chỉ chống cự lại một cách rất yếu ớt, và Nga hoàng Nicolas I tặng cho Thổ cái tên là “con bệnh của Châu Âu”. Một bức hí họa đương thời vẽ vua Thổ thiêm thiếp trên giường bệnh, thần chết Nga hiện lên muốn bắt Thổ đi, bên cạnh là 2 bác sĩ Anh và Pháp đương bàn phương cứu chữa.
Chẳng phải Anh, Pháp thương gì Thổ; chỉ vì miếng mồi lớn quá, không để cho Nga nuốt trọn. Coi bản đồ, ta hiểu được tại sao Nga chỉ lăm le chiếm Thổ. Hồi đó chưa có phi cơ, biến có địa vị quan trọng hơn bấy giờ nhiều. Nước nào dù mênh mông tới mấy mà không giáp biển thì cũng không phải là hạng đại cường. Cho nên Nga kiếm đường thông ra biển. Nhưng Bắc Băng Dương suốt năm đầy băng và tuyết hoàn toàn vô dụng. Trên biển Baltique, có hạm đức của Đức, Nauy, Thụy điển, Đan mạch, Phần lan, Nga khó lan ra được; dẫu có được tới Bắc Hải cũng đụng đầu với hải quân Anh mạnh nhất thế giới. Vậy Nga bị vây hãm, chỉ còn hai đường thoát ra ngoài: một là tiến qua đông, chiếm trọn Tây bá lợi á, vươn tới Thái Bình Dương, đường đó xa quá mà lại chạm trán với Nhật, dù có thắng Nhật thì cũng chỉ có ảnh hưởng ở Đông Á, chứ vẫn bị lép vế ở châu Âu; hai là do Hải bắc thông qua Địa trung hải, đường này rất tiện, nhưng cửa ngõ Constantinople do Thổ gác, nên Nga chỉ tìm cách diệt Thổ.
Anh không chịu vậy, vì nếu Nga chiếm Constantinople thì hạm đội Nga tung hoành trên Địa trung hải mà con đường của Anh qua Ấn sẽ lâm nguy. Pháp ngay từ hồi Napoleon cũng không muốn cho Nga nắm “chìa khóa” của thế giới đó vì Pháp đương muốn chiếm Bắc Phi, Tây Á, cản đường Anh qua Ấn độ. Vì thế Anh, Pháp chống Nga mà bênh Thổ, thà để Constantinople cho Thổ, vì Thổ yếu không làm hại mình được chứ không chịu để cho Nga. Rốt cuộc, sau chiến tranh Crimée (1854-1856), Nga thua, Thổ giữ được Constantinople nhưng đã kiệt sức, và Anh, Pháp mừng rằng chính sách “để cho Thổ suy mà đừng bắt Thổ chết” đã thực hành đúng.
Thổ cứ lịm dần, tình cảnh còn tệ hơn Trung Hoa nữa. Ngân khố rỗng không. Thổ phải vay mượn của Anh, Pháp, Đức, Áo. Riêng của Pháp, đã vay một tỷ rưỡi quan. Vay thì phải có gì bảo đảm, và Thổ đemnhững nguồn lợi và thuế khóa trong nước ra bảo đảm, y như Trung Hoa. Thế là Pháp buộc Thổ phải nhường cho mình quan quản thuốc lá, rồi bến tài, các kho chứa hàng ở Constantinople, Smyrne, Salonique; bấy nhiên cũng chưa đủ, Thổ phải nhường thêm các ở Héraclée, ở Selenitza và nhiều đường xe lửa nữa. Như vậy Thổ mất một phần lợi tức, không đủ chi tiêu, lại phải vay mượn thêm, vay thêm hoài, cho tới lúc mà thuế má chỉ đủ để trả lãi cho các nước châu Âu.
Tình cảnh y như một số công chức của ta, vừa lãnh lương ra là phải nộp hết cho chủ nợ đã chực sẵn ở cửa sổ. Tôi không hiểu các công chức đó xoay xở cách nào để sống, chứ vua Thổ thì có cách rất hay là thôi không trả lương cho quan lại; và quan lại Thổ không có lương thì đập vào đầu dân đen, bắt dân đen nuôi, nghĩa là họ ăn hối lộ. Như vậy dân đen phải nộp hai lần thuế, thuế cho triều đình, rồi thuế cho quan lại. Và đế quốc Thổ mênh mông như vậy chỉ sống để đúng sáu tháng một kỳ trả đều đều cho các chủ nợ Anh, Pháp, Đức… “Các cường quốc đại văn minh theo đạo Kito đó như bầy kên kên đói khát, bu chung quanh một con bệnh bất tỉnh và kiên nhẫn đợi. Họ sợ lẫn nhau, ghen tị dò xét nhau và sẵn sàng để xâu xé
nhau. Không một nước nào dám ra tay trước. Và nhờ vậy mà đế quốc Thổ tiếp tục thoi thóp.” Trong khi chờ đợi, họ đâu có ở không. Muốn cho địa vị của mình thêm vững, họ dùng chính sách cổ điển, truyền thống của họ là bệnh vực thiểu số Ki Tô giáo, y như ở Việt Nam và Trung Hoa. Riêng Anh lại còn lên mặt nghĩa Hiệp, bênh vực dân Kurde (dân tộc thiểu số ở miền rừng núi, vốn ghét Thổ) và dân Ả Rập, ngoài miệng nói là vì tự do nhân đạo mà sự thực chỉ là để bảo vệ con đường qua Ấn độ của họ. Đức cũng xin Thổ cho cất đường xe lửa qua Bagdad, làm cho Anh, Pháp đâm hoảng, vội vàng liên kết với Nga. Đúng như Norbert de Bischoff đã nói: Không phải các cường quốc châu Âu đánh thức tinh thần quốc gia của Kurde, của Ả Rập, họ nuôi tinh thần đó, xúi các dân tộc Kurde, Ả Rập đòi độc lập để hạ Thổ rồi họ chia phần với nhau, cũng như thời nào ở nước mình, thực dân xúi các đồng bào Thượng chống chính quyền Việt Nam vậy.
Pháp đào kênh Suez – Anh, Pháp ngoạm lần đế quốc Thổ
Napoleon đã muốn đặt chân lên Ai Cập và đã gây được chút ảnh hưởng ở đó. Tới đời cháu ông ta, Napoleon III, Pháp tiến thêm được một bước nữa.
Từ thời thượng cổ, vua Ai Cập đã đào một con kinh nối liền con sông Nil với Hồng Hài (thế kỷ thứ VII TCN). Kinh đó mấy lần bị cát lấp, phải đào lại, tới thế kỷ thứ VIII SCN thì bị lấp luôn. Bonaparte trong chiến dịch Ai Cập muốn đào một con kênh khác, nhưng phải đợi đến năm 1859 công việc mới bắt đầu, và mười năm sau nữa, công việc mới hoàn thành.
Khánh thành năm 1869 (triều Napoleon III) do Hoàng hậu Eugénie chủ toạ, kênh Suez mới đầu là công trình riêng của Pháp và Ai, người Anh không dự gì tới cả. Kênh thuộc địa phận Ai; một người Pháp tên là Ferdinand de Lesseps, được sự thỏa thuận của Thổ thôi (hồi đó còn là thuộc địa của Thổ) và Ai, lập đồ án rồi chỉ huy công việc đào kênh. Kênh dài 168 cây số, nối liền Port Said với Suez, làm cho con đường từ London tới Ấn độ ngắn đi được 44% từ Marseille tới Ấn độ ngắn trên 50%.
Mới đầu Anh tìm mọi cách phá công việc của Lesseps vì ngại rằng kênh đào xong, ảnh hưởng của Pháp ở Ai Cập sẽ lớn, chặn con đường giao thông của mình qua Ấn độ. Một mặt Anh xúi Ai Cập không cho phép đào, mặt khác Anh ngầm ép Thổ không chấp nhận sự nhường đất của Ai Cập cho Pháp. Nhưng rồi Lesseps cũng thắng được mọi khó khăn, đề nghị với Anh hùn cổ phần; Anh không chịu, tin chắc rằng thiếu vốn, thiếu nhân công, Lesseps sẽ phải bỏ dở công việc.
Kênh đào xong, Anh đâm hoảng; một chính khách Anh Palmerston tuyên bố rằng sớm muộn gì Anh cũng phải chiếm Ai Cập và trong khi chưa chiếm được thì phải tìm cách dự vào việc quản lý con kênh. Chính một sử gia Pháp, Ernest Renan cũng đã bảo Lesseps: “Một eo biển Bosphore cũng đủ gây rối cho thế giới rồi, nay ông lại tạo thêm một eo biển quan trọng hơn nhiều nữa, rồi đây vô số trận giao chiến lớn lao sẽ xảy ra ở đó”. Đến ngay thi sỹ Larmatine cũng nhận thấy rằng: “Nếu cần chiến đấu với chúng ta – tức Pháp – và với mọi nước khác trọn một thế kỷ trên Địa trung hải thì Anh cũng sẵn sàng chiến đấu chứ không chịu để cho chìa khóa kênh Suez lọt vào tay một nước khác.”
Năm 1873, Anh đòi công ty Pháp – Ai đánh thuế nhè nhẹ xuống một chút. Pháp tất nhiên không chịu. Anh đổi chiến lược, làm bộ vị tha, bênh vực tất cả các quốc gia có tàu đi trên kênh, họ họp lại, đồng tình ép vua Thổ phải xét lại bản hợp đồng nhượng con kênh cho Pháp. Thổ đành phải nghe lời, mời Pháp dự một hội nghị ở Constantinope để giải quyết vấn đánh thuế các tàu đi trên kênh, Pháp không thèm lại dự.
Dùng ngoại giao và sức mạnh không xong, Anh tính cách bỏ tiền ra mua cổ phần của Công ty. Nhằm lúc Pháp túng tiền vì mỗi năm phải bồi thường chiến tranh 1870 cho Đức năm tì quan, Anh đề nghị mua lại phần hùn của Pháp. Pháp nổi giận. Nghèo thì nghèo chứ chưa đến nỗi vậy. Anh xoay qua đề nghị với Ai Cập và Ai chịu bán hết 176.602 cổ phần với giá là bốn tỷ Anh bảng (1875). Công việc tính toán với nhau chỉ trong một đêm là xong, sáng hôm sau công ty Pháp – Ai hóa ra công ty Pháp – Anh.
Có chân trong công ty rồi, Anh lần lần chiếm địa vị quản lý. Nhân vụ lộn xộn ở Ai Cập, Anh đem hạmđội lại bắn phá Alexandrie rồi chiếm luôn miền kênh Suez, tạ khẩu rằng “để bảo rằng sinh mạng và quyền lợi của dân chúng”. Lúc này Anh hung hăng muốn hất chân Pháp để một mình làm chủ nhân ông. Pháp thấy nguy, tự xét không chống nổi với bọn “hải khấu” đó, xin quốc tế hóa con kinh, điều mà 12 năm trước, Anh đã đề nghị, nhưng Pháp từ chối. Anh phản kháng nhưng rốt cuộc phải miễn cưỡng ký hiệp định lưu thông tự do, tức hiệp định 1888. Theo hiệp định đó, thời chiến cũng như thời bình, thương thuyền và chiến thuyền của bất kỳ quốc gia nào cũng được phép qua kinh. Ai Cập không được mời ký hiệp ước, vì Ai đã mất chủ quyền và cũng chẳng còn cổ phần nàn cả.
Ai mất chủ quyền, đúng hơn là đổi chủ từ 1882, trước kia là một tỉnh tự trị của Thổ, nay thành một thuộc địa của Anh. Cũng vẫn cái chính sách cổ điển của thực dân: một số người Ai Cập bất bình, giết vài người Anh, Anh nắm ngay cơ hội, mới đầu tuyên bố tạm chiếm đóng Ai Cập để lập lại trật tự rồi thì chiếm luôn.
Thổ lúc đó thoi thóp, đâu dám phản kháng, cũng như Trung Hoa thời đó đâu dám phản kháng Pháp ở Việt Nam. Lời tiên đoán của Palmerston đã đúng.
Duy có Pháp thấy Anh phỗng tay trên, cự nự. Anh khôn ngoan, tươi cười bảo Pháp: Cần gì phải tranh nhau. Đế quốc Thổ còn mênh mông. Bác cứ tự do xâm chiếm Tunisi, tôi sẽ không phản kháng đâu. ChiếmTunisi rồi, Pháp chiếm luôn Maroc lúc đó không thuộc Thổ.
Cứ thế hai con kên kên đó rỉa lần đế quốc Thổ. khi đã có hai tên ăn cướp thông lưng với nhau thì luôn luôn có kẻ thứ ba nữa nhảy vào chia phần: Đức không chịu cho Pháp chiếm Ma-roc, muốn phá đám. Anh, Pháp lại phải đấu dịu, để cho Đức chiếm Congo, nhưng Congo không thuộc khối Ả Rập, cho nên chúng tôi không bàn tới.
Chúng ta hãy trở về phương Đông. Ba Tư ở xen vào giữa Thổ và Ấn Độ. Ba Tư là một nước Hồi giáo lúc đó độc lập nhưng lạc hậu. Nga muốn vươn tới Ba Tư, Anh khôn ngoan, không cản trở, đề nghị chia ăn. Bề ngoài Ba Tư vẫn độc lập, nhưng nửa phía Bắc, Nga vui lòng khai thác giùm, còn nửa phía Nam, Anh sẳn sàng trông nom hộ. Luôn luôn Anh chia được những phần ngon.
Rốt cuộc tới đầu thế kỷ XX, các cường quốc âu châu bao vây dược Thổ, tỷa được non nửa đế quốc Thổ, chỉ còn miền ở Bắc bán đảo Ả Rập, từ Palestine tới Mésopotamie là chưa ngoạm được.
Anh tìm được dầu lửa ở Ba Tư
Rồi họ gặp thêm được một may mắn lạ thường nữa. Năm 1909 Anh khai được mỏ dầu ở Ba Tư, đúng vào lúc xe hơi bắt đầu phát triển và máy bay cũng mới ra đời. Từ thời thượng cổ, người Chaldée đã biết dùng dầu lửa để làm hồ cất nhà, người Ai Cập dùng để ướp xác. Họ không biết lọc, để nguyên chất mà dùng. Tới giữa thế kỷ XIX, một đại tá Mỹ tên là Drake, đào một cái giếng ở Titusville (miền Pennsylvanie) thấy dầu phọt lên, đen ngòm, lọc qua loa để đốt và trị vài thứ mụt ghẻ lở.
Tới đầu thế kỷ XX người ta mới nghĩ cách lọc nó để chạy máy thì người Anh William Knox d’ Arcy kiếm được mỏ dầu ở Ba Tư, và năm 1909, công ty Pernian Oil thành lập. Bốn năm sau, năm 1913, “chiến tranh dầu lửa” mở màn ở trên đế quốc Thổ. Launay viết một cuốn sách bảo rằng trong khu vực Thổ có nhưng mỏ dầu nằm từ Kirkuk tới Suse, dài tới 700 cây số. Người ta ùa nhau lại kiếm. Công ty Đức Bagdadbahn xin phép Thổ khai thác miền Mossoul (bắc Iraq). Mỹ cũng nhào vô, tự nguyện xây đường xe lửa cho Thổ để Thổ cho phép tìm dầu, Thổ từ chối. Anh và Đức mau chân hơn cả, hợp tác với Thổ, thành lập công ty Turkish Petroleum: 50% cổ phần về một công ty Anh, 45% nữa về một công ty Đức – Anh, và một ngân hàng Đức, còn 5% về một người Arméie (Thổ) tên là Gulbenkian, do đó mà ông này được cái biệt danh là “ông năm phần trăm.”
Sau Ba Tư, Mésopotamie, Anh tinh ranh bậc nhất, tìm mọi cách chiếm luôn Koweit, Bahrein, Quata, mà chỉ phải bồi thường cho Thổ rất ít. Các miền này ở trên bán đảo Ả Rập,
ngay bờ vịnh Ba Tư là nơi nhiều dầu lửa nhất thế giới, hồi đó vua Thổ không ngờ mà tất cả thế giới cũng không ngờ.
Vì kinh Suez mà Ai Cập mất chủ quyền, thì bây giờ vì những mỏ dầu lửa mà đế quốc Thổ sẽ phải cáo chung. Các bác sĩ âu châu cho con bệnh Thổ sống dai dẳng như vậy kể đã lâu quá rồi.
Hiệp Ước Sèvres – Anh Pháp chia cắt Thổ
Nó cáo chung năm 1920.
Trong đại chiến thứ nhất, Thổ đứng về phe Đức, có lẽ tưởng rằng Đức sẽ thắng. Các sử gia châu Âu bảo đó là lỗi lầm lớn của Thổ; nếu Thổ đứng về phe Đồng minh từ sau chiến tranh, Anh Pháp không chia xẻ Thổ đâu. Lời đó không tin được. Thổ đứng về phe Đức, chỉ là một cái cớ cho họ dễ “xử” với Thổ thôi, chứ trước sau gì con bệnh Thổ cũng không sống nổi.
Đức thua, hiệp ước Versailles ký xong, Anh Pháp mới hỏi tội Thổ: Hồi trước chúng tôi giúp chú trong chiến tranh Crimée, nếu không chú đã bị Nga đè bẹp rồi; chú thiếu tiền, chúng tôi cho vay; chú thiếu súng ống để dẹp phiến loạn thì chúng tôi cung cấp, mà rồi chú trả ơn chúng tôi như vậy đó, theo tụi Đức để đập chúng tôi. Được lắm. Lần này thì chúng tôi xóa tên chú trên bản đồ”. Rồi họ họp nhau ở Sèvres năm 1920 để cắt xẻ đế quốc Thổ, chia hai miếng ở phía Tây, (miền Thrace và miền chung quanh Smyrne) cho Hy Lạp; một miếng ở phía Tây Nam trên bờ Địa Trung Hải, ngó ra đảo Chypre cho Ý; cắt một miếng ở Tây Bắc (miền Arménie) cho độc lập, thành nước Cộng hòa Arménie; một miếng nữa ở phía Nam miếng đó, thành một xứ tự trị của dân tộc Kurde; còn hai miếng, miếng Malatie ở bắc SYRIE dành cho Pháp vì Pháp đã chiếm SYRIE; với miếng Iraq giáp với Ba Tư dành cho Anh.
Thế là đế quốc Thổ bị cắt xén gần hết, chỉ còn một mảnh đồi núi khô cháy ở bờ biển phía Nam Hắc Hải, rộng khoảng 120.000 cây số vuông. Ngay trong khu vực còn lại đó, chủ quyền của Thổ cũng mất: đời sống dân Thổ do ngoại quốc sử dụng, tài nguyên trong nước do ngoại quốc khai thác để nuôi bọn quân chiếmđóng, mà quân đội Thổ bị giải tán, chỉ còn giữ một đội binh cảnh sát, tới nền giáo dục cũng bị ngoại quốc kiểm soát nữa.
Nhưng còn Nga, không được chia phần ư? Đầu chiến tranh cuối năm 1914, Anh Pháp cũng đã chia nhau trước “da con gấu với Nga rồi, hứa để Nga chiếm Constantinople, còn Anh Pháp chiếm những miền khác, Nga còn làm cao đòi thêm miền Ergeroum, Trebizonde và xứ Kurde nữa. Nhưng đến nám 1917 tình thế xoay ngược hẳn lại. Cách mạng Nga thành công. Đảng Bolchevik ký hòa ước với Đức, Anh Pháp phản đối nhưng vô hiệu; vì vậy mà Nga chẳng có công lao gì cả. Vả lại ngày 17- 12-1917, Lênin tuyên bố rằng chính phủ Cộng hòa Nga chống lại chính sách chiếm đất của ngoại quốc; Constantinople và eo biển Dardanelles phải thuộc về dân tộc theo Hồi giáo. Nghĩa là ông long trọng bỏ hẳn đường lối của các Nga Hoàng trong mấy thế kỷ trước. Nhưng giả thử Lênin có đòi Constantinople thì Anh, Pháp cũng không cho. Năm 1918, Lloyd George (Anh) thú thật với Bremond (Pháp): “Nga Hoàng bị truất ngôi, thực dễ xử cho chúng mình. Ông ta mà còn thì cũng không khi nào chúng mình để ông ta chiếm Constantinople”. Nghĩa là ngay từ cuối năm 1914, khi hứa với Nga, họ đã có ý nuốt lời hứa rồi Họ chỉ hứa càn để Nga Hoàng đứng về phe họ, thế thôi.
Người ta tưởng vua Thổ Mehemet VI không chịu ký hiệp ước Sèvres. Nó nhục nhã quá, khác gì bán nước để làm tôi tớ cho Anh, Pháp. Nhưng người ta lầm, ông ta chịu ký, dân Thổ nổi lên phản đối và một vị anh hùng Mustapha Kémal đứng ra cứu Thổ.
MUSTAPHA KÉMAL VÀ CUỘC CÁCH MANG THỐ
Mustapha hồi đó 39 tuổi. Ông sinh trong một gia đình trung lưu ở Salonique, cha làm tiểu công chức ở nha Quan thuế, sau nghỉ việc về buôn gỗ, nhưng không phát đạt.
Coi hình ông, ta nhận ra ngay một người hoạt động, cương quyết tàn bạo: trán cao, môi mỏng mà mímlại, lưỡng quyền nhô ra, lông mày rậm, nhất là cặp mắt sắc, dữ.
Mồ côi cha sớm. Mười hai tuổi đã hướng về nghề võ. Ham chính trị, ưa đọc sách cách mạng, thông tiếng Pháp và Đức. Trong đại chiến, ông làm sỹ quan chủ trương khác chính quyền, không muốn đứng về phe Đức, cho nên mỗi khi phải hợp tác với sỹ quan Đức ông rất bực mình, cố giành việc chỉ huy về mình. Ông có tài, bộ tham mưu Đức đành để ông chỉ huy mặt trận Dardanelles và ba lần ông chặn đứng được liên
quân Anh – Pháp. Anh, Pháp phải nhận rằng đem nửa triệu quân qua Dadanelles mà chẳng có kết quả gì cả, cuối năm 1915 không tấn công Thổ nữa. Trận đó rất lớn: mỗi bên thiệt khoảng 250.000 sỹ tốt. Anh, Pháp mất mát mà danh tiếng Mustapha Kémal nổi lên như cồn. Rồi Đức thua. Mustapha Kémal đau lòng nhìn Anh chiếm cứ Dardanelles và Bosphore, Pháp chiếm Stamboul, Ý đóng ở Pera. Ông vào yết kiến Mehemet VI bàn cách cứu vãn. Mchemet VI hèn nhát chỉ cố bám lấy địa vị. Ông thất vọng, cùng với một số đồng chí hô hào quốc dân tự cứu lấy mình, đừng trông cậy gì ở triều đình nữa. khi vua Thổ hạ bút ký hiệp ước Sèvres, toàn dân Thổ nổi lên, đứng sau lưng Mustapha Kémal. Như vậy là một mặt ông phải chống với triều đình, một mặt phải chống với Anh, Pháp, Ý. Hùng tâm thật.
Dân chúng phẫn uất, nên từ thành thị đến thôn quê, đến thâm sơn cùng cốc, đến cả những phòng khuê kín mít, già trẻ, trai gái đều nghiến răng hướng về Constantinople nơi quân đồng minh đương chiếm đóng, rồi tự động dắt nhau từng đoàn đến Angora tình nguyện nhập ngũ.
Tàu Nga chở khí giới tới bờ Hắc Hải tiếp tế cho họ. Tàu vừa ghé là dân chúng bu lại, trai gái tự động kHiêng vác súng ống, đạn dược, chuyển qua làng bên, cứ như vậy mà tới Angora. Một thiếu phụ buộc con trên lưng đẩy một chiếc xe hai bánh chở trái phá. Trời đổ mưa. Nàng không do dự, lấy chiếc khăn choàng của con mà phủ lên trái phá!
Anh, Pháp, Ý gần kiệt quệ sau chiến tranh với Đức, nay ngại không muốn đeo đuổi một chiến tranh với Thổ và Nga nữa. Hy Lạp cựu thuộc địa của Thổ, nhảy ra tình nguyện diệt Thổ, để trả cái thù cũ, và cũng để chia phần vì Anh Pháp hứa cứ thắng đi rồi muốn gì cũng được.
Lực lượng Hy Lạp gấp đôi lực lượng Thổ mà rốt cuộc hy thua liên tiếp mấy trận. Mustapha cứu được kinh đô Angora, nên được mỹ hiệu là Gazi (vị chiến thắng). Năm 1922, ông thắng được trận cuối cùng, bắt sống tổng tư lệnh và tham mưu trưởng hi.
Sau trận đó, quân đội hy quy tụ ở Thrace để đợi lệnh trên.Mustapha nhất định đuổi họ ra khỏi Thrace, nhưng muốn tới Thrace thì phải qua Chanak mà quân đội Anh hiện đương đóng ở Chanak. Mustapha dùng một thuật táo bạo.
Ông kêu hai đội quân thiện chiến lại, giảng cho họ hiểu mục đích của ông rồi ra lệnh cho họ tiến về phía quân đội Anh, họng súng chĩa xuống đất, dù quân Anh ra lệnh ngừng thì cũng không ngừng, cứ yên lặng tiến, nhất định không được nổ một phát súng. Như vậy, hai đội quân đó phải bình tĩnh, gan dạ và có kỷ luật phi thường.
Sáng ngày 29 tháng 9 năm 1922, họ khởi hành. Trong một cảnh yên lặng lạnh lẽo kinh khủng, người ta chỉ nghe thấy tiếng giày rộp rộp của họ. Họ đã tới gần Chanak, đã trông thấy trại quân Anh ở Chanak. Thần kinh họ căng thẳng như gần muốn đứt. Chỉ một kẻ nào đó hoảng hết, đưa bậy cây súng lên hay bỏ chạy là chiến tranh với Anh sẽ nổ và Thổ sẽ mất nước.
Về phía Anh, tổng tư lệnh Charles Harington ra lệnh không cho quân đội Thổ qua, nhưng cũng không được nổ súng đầu tiên. Quân đội Thổ đã trông thấy hàng ngũ Anh. Họ vẫn im lặng tiến, họng súng chĩa xuống đất. Họ không ngừng mà cũng không tấn công. Mỗi phút dài bằng một năm. Rộp rộp, rộp rộp! sỹ quan Anh không biết xử trí ra sao, tinh thần rối loạn, mà họ thì vẫn rộp rộp tiến tới. Không khí hừng hừng như trong cơn dông. Hai bên chỉ còn cách nhau vài chục thước.
Một sỹ quan Anh ra lệnh: -Nhắm!
Người ta nghe một tiếng “cắc”, họng súng chĩa cả về phía Thổ. Quân Thổ vần rộp rộp tiến. Vừa đúng lúc đó, một người cưỡi xe máy dầu phất một cây cờ chạy tới, ngừng trước viên đại tá Anh. Sĩ quan Anh bèn ra lệnh: -Hạ súng!
Đồng thời sỹ quan Thổ cũng ra lệnh: -Ngừng!
Nhờ nghị lực phi thường, Thổ đã thắng. Charles Harington phải nhường bước. Thực ra cũng do công của Franklin Bouillon, người đại điện cho chính phủ Pháp. Pháp không muốn cho châu Âu bị vùi trong cơn
binh hỏa một lần nữa, nên Bouillon đã điều đình với Anh, Ý để buộc hy phải rút quân ra khỏi Thrace, trả lại Thrace cho Thổ. Mustapha bằng lòng rút quân về.
Con bệnh Thổ đã hồi sinh nhờ công của Mustapha Kémal. Thực ra chỉ triều đình Thổ mới là con bệnh, chứ dân tộc Thổ vẫn còn nhiều sinh lực.
Ít ngày sau – ngày 1 tháng 11 – dân tộc đó truất ngôi Mehemet VI. Tháng 8 năm sau, 1923, Anh, Pháp, Ý ký hiệp ước Lausanne với Thổ: quân đội họ phải rút về hết, Thổ thu lại hết đất đai, không phải bồi thường một chút gì cả.
Thành công đó làm cho thế giới ngạc nhiên, các quốc gia ở Tây Á và Trung Á bừng tỉnh, hướng cả về vị anh hùng Thổ, yêu cầu ông cầm đầu một phong trào chỉ huy thánh chiến để Hồi giáo chống lại Ki Tô giáo, phương Đông chống lại phương Tây. Ông đã đóng cái vai của Nhật sau khi thắng Nga năm 1905. Nhưng ông biết chưa đủ sức, lo canh tân quốc gia đã. Tuần tự và cương quyết, ông thực hành trong sáu năm liền nhiều cuộc cách mạng làm cho Thổ từ một nước hủ lậu nhất thế giới biến thành một nước tân tiến gần theo kịp châu Âu.
Trước hết ông thành lập chính thể Cộng hòa, hủy bỏ vương quyền (Sultanat) rồi hủy bỏ luôn cả giáo quyền (Califat) nữa. Ông giảng cho quốc dân rằng giáo quyền là di tích thời cổ, thời mà dân tộc Ả Rập bị dân tộc Thổ đánh bại, muốn lợi dụng tôn giáo đề ngấm ngầm ảnh hưởng đến tâm hồn Thổ rồi đến chính trị của Thổ. Quốc hội nghe ông, biểu quyết một đạo luật bãi bỏ giáo quyền, dẹp Bộ Tôn giáo, dẹp các tòa án tôn giáo và dẹp luôn cả các trường học thuộc về Giáo hội trong đó ngoài kinh Coran ra người ta không dạy học sinh một môn nào khác, việc thứ nhì là thống nhất dân tộc. Thổ gồm nhiều dân tộc quá: tính ra có tới hơn một chục giống người: Ả Rập, Ba Tư, Maroc. Nga, Hy Lạp, Lỗ…, trừ Thổ ra, đông nhất là Ả Rập và Hy Lạp. Ông buộc hai triệu người Hy Lạp lập nghiệp trên đất Thổ phải trở về xứ họ, ngược lại người Thổ lập nghiệp ở Hy Lạp cũng phải trở về Thổ. Chính sách đó tàn bạo quá, phi ông không ai dám làm, nhưng đứng về phương diện quốc gia, phải nhận ràng có lợi. Còn đối với các người phương Đông như Ả Rập, Ba Tư, SYRIE, Ai Cập… cùng theo Hồi giáo, gần như cùng lối sống, cùng phong tục thì ông chỉ tìm cách phân biệt họ thôi: người Thổ và người ngoại quốc nhập tịch Thổ phải bỏ cái nón phê (fez) cho khỏi lẫn lộn với những người khác. Ông đi quá trớn, gây nhiều bất bình trong dân chúng.
Trừ hai cải cách đó ra, những cải cách khác đều chỉ có lợi cho dân Thổ.
Ông bỏ kỷ nguyên Hồi giáo (bắt đầu từ năm 622) mà dùng tây lịch.
Ông cho soạn ngay một bộ luật mới mà luật gia Âu châu nhận là rất tiến bộ: châm chước dân luật của Thụy sỹ, hình luật của Ý, thương luật của Đức. Địa vị phụ nữ được nâng cao; mà tội nhân được cải hóa: nếu mới phạm tội lần đầu, dù tội nặng, cũng được giam riêng, không phải sống lẫn lộn với những kẻ phạmtội nhiều lần; tội nhân nào cũng được dạy dỗ.Hiện nay nước ta vẫn chưa có một đạo luật như vậy.
Ông cách mạng văn tự Thổ, bỏ văn tự Ả Rập, dùng chữ La tinh, nhờ vậy chỉ trong một năm, số người mù chữ giảm xuống quá nửa. Rồi ông cho dịch kinh Coran ra tiếng Thổ, bãi bỏ hệ thống đo lường cũ, áp dụng hệ thống mét như châu Âu, giải phóng phụ nữ…
Công việc kiến thiết quốc gia phát triển rất mau: diện tích canh tác trong 13 năm, từ 1925 đến 1938, tăng lên gấp bốn; kỹ nghệ chế tạo đường, xi măng, dệt vải tiến mau nhất.
Đáng phục nhất là Thổ năm 1923, sau mười năm chiến tranh, gần như kiệt quệ, dân số chỉ còn mười triệu người, quốc khố rỗng không, vậy mà không cần vay của ngoại quốc, không thèm nhận viện trợ của một quốc gia nào, tự lực thực hiện được chương trình kinh tế đó. Các cường quốc châu Âu ve vãn Thổ, các nhà kinh tế đều bảo phải mượn vốn mới phát triển kinh tế được, không còn giải pháp nào khác, ông nhất định không chịu. Ông thấy quá rõ rồi, triều đình Thổ trước kia đã chịu bao nhiêu nhục nhã, đã bị các cường quốc châu Âu hút biết bao nhiêu máu mủ chỉ vì vay tiền của họ mà đã làm tôi tớ cho họ, đưa cổ cho họ bóp, nên ông nhắc đi nhắc lại rằng: “Muốn mất độc lập thì. không gì bằng nhận tiền của kẻ khác”. Phải tự
túc! Có bao nhiêu, chỉ tiêu bấy nhiêu, có phải chịu cực khổ hàng chục năm thì cũng ráng mà chịu. Theo thống kê thì lợi tức quốc gia của Thổ tính theo đầu người năm 1952-54, vào khoảng 250 Mỹ kim, trên Hy Lạp, Mể Tây Cơ, bằng Tây Ban Nha và bỏ xa Pêru, Brésil, Ai Cập, Mã Lai, Thái Lan…
Bài học duy tân của Thổ dễ theo và nhiều nước Ả Rập đã theo, tuy không mạnh bạo bằng. Còn bài học tự túc của Thổ thì chưa có nước Á, phi nào theo nổi, cho nên cái nạn “thực-dân- mới” mới hoành hành mạnh như ngày nay, gây biết bao cuộc đổ máu trên thế giới. Bán đảo Ả Rập hết là nơi tranh giành ảnh hưởng của Anh Pháp sau Thế chiến thứ nhất, thành nơi tranh giành giữa Anh và Mỹ cuối Thế chiến thứ nhì, rồi trên 10 năm nay thành nơi tranh giành giữa Mỹ và Nga, một phần lớn cũng chỉ tại người ta không theo được bài học tự túc của Mustapha Kémal. Chỉ có mỗi lý do này miễn cưỡng biện hộ cho họ được thôi: thời của Kémal dễ dàng hơn thời nay vì thực dân thời đó chưa nham Hiểm, quỷ quyệt như thời nay.
Phần thứ ba. ĐẾ QUỐC CỦA DẦU LỬA MÀN NHẤT: ANH – PHÁP (Từ Thế chiến I tới Thế chiến II)
CHƯƠNG VI. ANH – PHÁP CHIA NHAU BÁN ĐẢO Ả RẬP
Ba Tư và Afghanistan canh tân
Công cuộc cách mạng và duy tân của Mustapha Kémal làm rung động cả Trung Á. Ngày 21 tháng hai năm 1921 một đảng quốc gia do một quân nhân, Riza Khan, lãnh đạo, lật đổ triều đình Ba Tư(1) và nămngày sau ký một hiệp ước thân ái với Nga Xô. Riza Khan hứa không để một ngoại quốc nào dùng Ba Tư làm “căn cứ hoạt động” và Nga Xô bằng lòng từ bỏ các đặc quyền từ thời Nga Hoàng. Chính sách của Anh là luôn luôn giữ một số quốc gia làm trái độn giữa Nga và Ấn Độ, nay thấy Nga chịu rút ra khỏi Ba Tư, cũng bằng lòng rút hết quân đội gồm mười hai ngàn người về “mẫu quốc.”
Vậy là Riza Khan nhờ Moscow mà cởi được cái ách của Anh. Nhưng mới cởi được cái ách đó thì lại bực mình về thái độ kể ơn và hống hách của Moscow. Tình thân ái bị sứt mẻ: hai bên gây gổ nhau về vấn đề đánh cá trên biển Caspienne ở biên giới Nga và Ba Tư. Cáo già Anh vẫn rình ở bên, liền nắm lấy cơ hội, ve vãn Riza Khan, hứa giúp đỡ; Riza Khan đáp lại, cho công ty dầu lửa Anh – Ba Tư hoạt động dễ dàng. Moscow vội vàng tỏ vẻ hòa hảo với Riza Khan. Nhờ vậy Ba Tư giữ được thế gần như trung lập, hơi thiên Anh. Anh không đòi hỏi gì hơn.
Ít năm sau, Afghanistan theo chính sách Ba Tư vì thấy nó có kết quả. Quốc vương Amanullah có óc tiến bộ, muốn canh tân quốc gia như Kémal, năm 1927 ký một hiệp ước thân ái với Nga, nhờ Nga giúp kỹ thuật gia và sỹ quan. Nhưng ông ta đi hơi quá lố nên mất ngôi, và Nadir Khan lên thay ông, tuyệt giao với Nga, ngưng công cuộc duy tân, nhưng cũng không liên kết chặt chẽ với Anh. Anh cũng không cầu gì hơn.
Vấn đề hồi giáo ở Nga sau cuộc Cách Mạng Tháng Mười
Vậy Nga Xô có vẻ không hung hăng, cố tranh ăn với các đế quốc Tây phương như thời Nga Hoàng. Nguyên do một phần cũng tại còn phải giải quyết nhiều vấn đề ở ngay trong nước: vấn đề các nhóm đối lập, vấn đề kinh tế, vấn đề các dân tộc thiểu số, đặc biệt là các dân tộc Hồi giáo. Năm 1917, Nga có mười sáu triệu dân gốc Thổ theo Hồi giáo và Nga Hoàng luôn luôn phải đối phó với họ. Sau cuộc cách mạng tháng mười, họ nổi dậy, hoặc đứng về phe cựu hoàng, hoặc đứng về phe Menchevik (phe nghịch với Bolchevik đương cầm quyền, và ôn hòa hơn), đòi lập một quốc gia tự trị ở Azerbaidjan, Arménie và Géorgie. Lênin lập lại được trật tự ở Azerbaìdjan, một tỉnh rất quan trọng vì có mỏ dầu lửa Bakou. Rồi ông ta xúi dân theo Ki Tô giáo ở Arménie xung đột với dân theo Hồi giáo.
Còn nhiều vụ rắc rối đại loại như vậy, kể hết thì rườm quá. Ngay một số người Hồi giáo theo Staline, như Ali Ogli, gốc Tartare ở miền Kazan – thường tự xưng là Hoàng đế Galiev (Sultan Galiev) – cũng chống lại chính sách của Staline, cho rằng Staline đã lầm lẫn, quá chú ý tới phong trào cách mạng ở Tây Âu, ở những xứ kỹ nghệ đã phát triển, và chịu thất bại ở Đức, ở Hung; mà không phát động, ủng hộ những phong trào cách mạng ở phương Đông, nơi mà cách mạng dễ thành công hơn vì chính những người Hồi giáo mới thực là vô sản hơn giai cấp vô sản ở Tây Âu. Ông ta bảo sự xung đột quan trọng không phải là giữa giai cấp tiểu tư sản và giai cấp vô sản, mà là giữa các quốc gia kỹ nghệ hóa và các quốc gia kém phát triển.
Và ông ta đề nghị thành lập một quốc gia Cộng sản Hồi giáo ở Nga, trên trung lưu sông Volga gồm tất cả các dân tộc Hồi giáo ở Nga; các dân tộc Hồi giáo này sẽ truyền bá chủ nghĩa Cộng sản qua phương Đông; rồi các quốc gia thuộc địa hoặc bán thuộc địa ở Châu Á sẽ liên kết với nhau chống các quốc gia thực dân Châu Âu.
Staline không chấp nhận chính sách đó, và Galiev bị “thanh trừng” năm 1937. Phải đợi tới hết Thế chiến thứ nhì, Nga Xô mới theo đường lối của Galiev. Giữa hai Thế chiến họ không thể nghĩ tới đường lối đó được, chỉ lo củng cố nội bộ, khuếch trương kỹ nghệ đã.
Chính sách mâu thuẫn của Anh ở Ả Rập – Mật ước Sykes – Picot Vì vậy mà chúng ta hiểu tại sao trong số bốn cường quốc Châu Âu lăm le chia cắt đế quốc Thổ ở thế kỷ trước và đầu thế kỷ này tức Nga, Đức, Anh, Pháp, từ sau Thế chiến thứ nhất chỉ còn lại có Anh Pháp là tung hoành ở bán đảo Ả Rập, vừa thông lưng với nhau mà vừa phản ngầm nhau.
Đầu Thế chiến thứ nhất cũng như đầu Thế chiến thứ nhì, khí thế của quân Đức mạnh như vũ bão, tháng tám năm 1914 đánh tan liên quân Pháp, Bỉ, Anh (quân đội Anh lúc đó mới gởi qua) ở mặt trận Bỉ rồi tiến vào đất Pháp. Anh Pháp lúng túng, phải dồn gần hết lực lượng vào mặt trận Tây Âu.
Thổ thấy vậy, tin rằng Đức sẽ thắng, đứng về phe Đức. Dĩ nhiên Đức cùng với Thổ tìm cách cắt đứt đường giao thông của Anh qua Ấn Độ, muốn vậy thì phải chiếm bán đảo Ả Rập, tới Ai Cập. Chính sách của Anh là dùng nhiều quân thuộc địa hoặc quân bản xứ rồi chỉ huy họ để họ chiến đấu trên các mặt trận ngoài Châu Âu. Cho nên ngay từ đầu, chính quyền Anh ở Ai Cập đã ve vãn một thân hào Ả Rập tên là Hussein. Hussein vẫn khoe rằng mình thuộc dòng dõi giáo chủ Mohamed, vì ông tổ của mình cưới một ái nữ của giáo chủ tên là Fatima. Do đó, ông thuộc một trong hai gia tộc có uy tín nhất ở La Mecque, gia tộc Hachémite, còn gia tộc kia là Aoun.
Vua Thổ cũng đã để ý tới ông ta từ lâu, ngờ ông ta có ý làm phản, nên mời lại giam lỏng ở Constantinople, phong cho một chức tựa như Thủ lãnh các tín đồ, hễ ông ta ngoan ngoãn thì thôi, còn như giở trò gì thì sẽ thủ tiêu. Hussein ở Constantinople hai chục năm, mong từng ngày một cái lúc được về quê hương. Năm 1911, người ta cho ông về xứ với bốn người con. Nghĩ tới cái thời bị nhốt trong lồng son, ông ta uất ức, lần này thì nuôi cái ý làm phản thật. Ngay từ tháng tư năm 1914, ông ta đã cho một người con trai là Abdallah lại tiếp xúc với Kitchener, viên thống đốc Anh ở Ai Cập, đề nghị này nọ, người Anh cho là mơ hồ, không nghe. Ít tháng sau, chiến tranh nổ, Hussein ráng tránh né, không đứng về phe Đức, Thổ, đợi xem tình hình ra sao. Mùa hè năm 1915, ông ta lại sai người tiếp xúc với Mac Mahon, người thay thế Kitchener. Mac Mahon do dự rồi sau nhận sự hợp tác của Hussein, hứa hết chiến tranh, Anh sẽ để Ả Rập được độc lập.
Ông ta hứa hơi vội quá vì cũng lúc đó, ở London, đại diện của Anh là Mac Sykes và đại diện của Pháp là Georges Picot đã thỏa thuận với nhau về việc chia phần ở Tây Á và Trung Á. Theo hiệp ước mật của họ, Pháp sẽ thôn tính miền từ Damas tới Mossoul, Anh sẽ thôn tính miền từ Bagdad tới Gaza những đất đó sẽ thành thuộc địa của họ; ngoài ra còn mấy khu vực ủy trị nữa, cũng tức như bảo hộ, dưới sự kiểm soát của Hội Vạn quốc: Pháp sẽ ủy trị Liban và Cilicie, Anh sẽ ủy trị Iraq, Palestine và Jérusalem sẽ được quốc tế hóa. Tóm lại, họ chia nhau hết cả khu màu mỡ nhất và có mỏ dầu ở bắc bán đảo Ả Rập và miền Mésopotamie.
Vậy Anh một mặt hứa cho Ả Rập độc lập, một mặt lại định cắt làm thuộc địa, là nghĩa làm sao? Họ xảo trá chăng? Có lẽ không phải. Chỉ tại chính sách của họ không được thống nhất. Điều đó sẽ gây ra nhiều chuyện rắc rối sau này làm cho dân tộc Ả Rập gớm cái mặt của Anh. Nguyên do là tại anh chàng Lawrence.
Lawrence muốn lập sự nghiệp ở Ả Rập
Thomas Edward Lawrence (1888-1935) một con người nhỏ thó, đứng chỉ tới cổ các tướng lãnh Anh, có vẻ một chàng thư ký nhà buôn, mà làm chấn Động ở Châu Âu và miền Tây Á trong hai chục năm. Rất can đảm, bí mật, khó hiểu và mưu mô. Một người Anh, Richard Adhngton, đã dẫn nhiều chứng cớ chắc chắn chứng tỏ rằng nhân vật Lawrence đã được một ký giả Mỹ Lowell Thomas “tạo” ra để thế giới chú ý tới vai trò của Anh trong chiến tranh diệt Thổ ở bán đảo Ả Rập mà quên vai trò của các sỹ quan Pháp. Chính tướng Brémond của Pháp cũng đã nói vậy trong tập Hồi Ký của ông ta, nhưng ngay người Pháp cũng không tin Brémond, cho rằng ông ta bất tài mà ganh tị với Lawrence. Và ai cũng phải nhận rằng Lawrence đã có một ảnh hưởng lớn lao về ngoại giao cũng như về quân sự tới những biến cố ở bán đảo Ả Rập trong Thế chiến thứ nhất.
Bộ tổng tham mưu Anh ở Ai Cập đồng ý với Brémond, nghĩ ràng muốn đánh Thổ, phải dùng những quân gốc gác ở nơi khác: Lawrence trái lại chủ trương có thể lợi dụng tinh thần ái quốc của người Ả Rập để họ tự chống lại với Thổ, như vậy Đồng minh chỉ cần gọi một số cố vấn, tướng tá và cung cấp khí giới mà tiết kiệm được lực lượng để dùng ở mặt trận Châu Âu. Sáng kiến của Lawrence ở đó, và không ai chối cãi được công của ông với Đồng minh; ngay người Ả Rập cũng phục ông, coi ông như một quốc vương không ngôi của họ.
Ông ta sinh ngày 15-8-1888 ở xứ Galles (Anh) trong một gia đình quý phái, nền nếp, nhờ sự giáo dục của mẹ mà có một nghị lực gang thép, một lương tâm ngay thẳng, một lối sống khắc khổ, một lòng ham biết mọi sự.
Ông thông minh sớm – năm tuổi đã biết đọc và viết – nhưng không phải vào hạng kỳ đồng. Óc mẫn tiệp, nhớ mau và dai; nhất là có một sức chịu đựng rất bền: năm 21 tuổi có hồi cưỡi lạc đà đi trong sa mạc Ả Rập luôn ba ngày, mỗi ngày đi được 180 cây số; cũng vào khoảng đó, ông đi bộ hơn hai tháng ở Syne, được gần 1.800 cây số.
Năm 1896, ông lại học ở châu thành Oxford rồi năm 1908 vào trường Jesus College để chuyên về sử. Rất ham đọc sách, trên giường bày la liệt sách vở, nằm đọc tới khi buồn ngủ thì gục đầu trên sách mà ngủ, tỉnh dậy lại tiếp tục đọc. Mới 13 tuổi ông đã thích tìm hiểu về kiến trúc cổ, đạp xe máy một mình đi khắp nước Anh để coi các di tích. Ông có thể đạp một ngày 180 cây số. Ai cũng phục ông là một lực sỹ tí hon vì ông nhỏ người, thấp mà sức rất mạnh. Năm 1908 ông du lịch qua Pháp, tới Baux ở miền Nam, lần đầu tiên thấy Địa Trung Hải lấp lánh sau một hàng cây như một phiến ngọc lam rực rỡ, ông cảm xúc mãnh liệt, tưởng chừng như trong không khí phảng phất có mùi hương liệu từ phương Đông bay qua và văng vẳng có những tiếng náo nhiệt của những đô thị thời Trung cổ vọng lại: Smyrne Constam- nople, Tyr, Si don, Beyrouth, Tripoli…, những thanh âm du dương đó đưa ông vào cõi mộng và ông mơ tưởng tới ngày được qua phương Đông huyền bí, cái phương trời chói lọi ánh nắng ở bờ bên kia Địa Trung Hải nó đã thu hút ông từ khi ông đọc sử hy lạp, sử La Mã, sử Thập Tự quân, nhất là đọc cuốn Travels in Arabia Deserta (Du lịch trong sa mạc Ả Rập) của Ch. Doughty.
Từ đó ông đã tìm thấy con đường cho đời ông. Ông nhất định qua phương Đông. Và ít tháng sau ông Umđược một cơ hội để đi Beyrouth. Trước khi đi, ông học ít tiếng Ả Rập với một mục sư ở Oxford gốc gác SYRIE. Ông mang theo một máy ảnh, ít quần áo, ít tiền rồi xuống tàu. Trong khoảng hơn hai tháng ông đi bộ non 1.800 cây số để coi các lâu đài, thành quách ở Nazareth, Haifa, Acre, Tyz, Siđon, Beyrouth, Alep… Ở SYRIE, Liban, Palestine, nơi chứa nhiều di tích nhất miền Tây Á. Ông đi du lịch một mình, tới đâu xin ngủ trọ đó, ăn như người Ả Rập, sống theo lối Ả Rập, tập nói tiếng Ả Rập. Nhờ vậy ông bắt đầu hiểu người Ả Rập, rồi yêu họ.
Ông chen vai thích cánh với những người Ả Rập áo dài lụng thụng đi chân không trong những ngõ hẻmthăm thẳm ở Beyrouth, Damas; ông leo lên núi nhìn bãi biển cát đỏ chạy dài tới Tripoli; ông tắm trên bờ suối Adonis, trong ánh sáng cuồn cuộn của phương Đông. Ông say mê sống chung với dân bản xứ, gõ cửa
những cán nhà tồi tàn nhất để xin tá túc; giỡn với những đứa nhỏ mắt đen lay láy, bên cạnh những bầy gà và dê; ông cũng ngồi xổm trên mát đất uống sữa dê với chúng; cũng rút một tia nước nhỏ trong một cái bình sành để rửa mặt, rồi đêm tới cũng nằm lăn trên đất ngủ chung với thổ dân, cũng đắp chung một chiếc mền đầy rận với họ.
Cảnh những đoàn lạc đà chậm rãi bước trên sa mạc, những thiếu nữ Ả Rập phủ khăn choàng, đầu đội một cái vò lại giếng để lấy nước; cảnh đêm trăng tịch mịch, xa xa vẳng lên tiếng hát buồn rười rượi của nghìn xưa, cảnh mặt trời lặn sau đồi cát, rực rỡ như xà cừ, những cảnh đó làm ông say mê, quên cả quê hương, quên cả gia đình. Tiền thân ông chắc sinh ở đâu đây, trên bán đảo Ả Rập này?
Tháng chín năm đó (1911) ông về xứ, tự hẹn sau này sẽ trở lại. Năm 1911, ông theo một phái đoàn của viện Tàng cổ Anh qua đào di tích ở Carchemish, trên bờ sông Euphrate. Lần này ông ở luôn ba năm rưỡi, nói thông thạo tiếng Ả Rập, được nhiều người Ả Rập coi như bạn thân, bày tỏ tâm sự, nguyện vọng với ông.
Lần lần ông hiểu cách suy nghĩ và tâm lý của họ, thấy họ muốn vùng vẫy để gỡ cái ách của Thổ. Đâu đâu họ cũng mong mỏi được tự do, độc lập. Họ tin cậy ông, hỏi ý kiến ông về cách hành động. Ông không dámxúi họ bạo động vì không có quyền hành gì trong tay mà cũng ngại gây nhiều sự khó khăn trong sự bang giao giữa Anh và Thổ, gây nhiều sự nghingờ cho các quốc gia khác như Pháp, Đức, Ý. Nhưng trong thâmtâm ông vần mong có cơ hội giúp họ thoát được cái ách của Thổ.
Ông biết đế quốc Thổ như một con bệnh hấp hối, không sao tồn tại được lâu và ông tự hỏi khi nó sụp đổ thì nó sẽ thuộc về nước nào? Nga, Đức hay Pháp? Pháp có ưu thế hơn cả vì văn hóa Pháp được truyền bá từ mấy thế kỷ nay ở Beyrouth, Damas. Nhưng để Ả Rập sống chung với Pháp, họ khó mà mạnh được vì dân tộc pháp không có tinh thần tổ chức, mạo Hiểm bằng Anh – ông nghĩ vậy – mà như vậy thiệt cho Anh. Rốt cuộc ông nghĩ Anh nên lãnh cái nhiệm vụ “giải thoát Ả Rập” và khi giải thoát rồi thì cho Ả Rập được độc lập mà liên kết với Anh. Ông nghĩ tới Anh mà thực ra ông nghĩ tới chính ông. Ông sẽ đóng một vai anh hùng nghĩa hiệp trong việc giải phóng đó, vừa có công lớn với Anh vừa là ân nhân của Ả Rập.
Tháng 5 năm 1914 ông về Anh, chưa đầy một tháng thì Thế chiến thứ nhất nổ. Ông tin rằng thời của ông đã tới, dân chúng Ả Rập thế nào cũng nổi dậy đuổi Thổ đi mà chỉ có ông là giúp họ thành công được thôi.
Cuộc khởi nghĩa của Ả Rập
Hussein lúc đó có uy quyền nhất ở La Mecque, thánh địa Hồi giáo, mà lại không ưa Thổ. Lawrence bèn đề nghị với nhà cầm quyền Anh liên lạc với Hussein. Anh có hai cơ quan coi về phương Đông: cơ quan Indian Office, trụ sở Bombay (Ấn Độ) do Sang John Philby chỉ huy và trực thuộc chính quyền Anh ở Ấn Độ; cơ quan Arabia Office do Allenby chỉ huy, trực thuộc bộ ngoại giao ở London. Hai cơ quan ấy không liên lạc với nhau, có chính sách riêng mà chính sách đôi khi tương phản nhau.
Indian Office lo bảo vệ con đường bộ từ Ấn Độ tới Âu, cho nên chú trọng tới miền Mésopotamie và muốn che chở các quốc vương Ả Rập ở phía vịnh Ba Tư như Mubarrak, quốc vương xứ Koweit và Ibn Séoud, quốc vương xứ Hasa và Nedjd.
Arabia Office trái lại lo bảo vệ kinh Suez tức con đường biển từ Ấn Độ qua Anh, nên tìm cách liên lạc với các quốc vương Ả Rập ở bên bờ Hồng Hải mà trong số những quốc vương này, Lawrence để ý tới Hussein nhất. Hussein vô tài mà tham bỉ nhưng hai người con trai của ông ta, Abdallah và Faycal có nhiều khả năng.
Khoảng giữa năm 1915, nghe lời khuyên của Lawrence, bộ Ngoại giao Anh lựa Hussein, hứa với Hussein rằng nếu đuổi được Thổ ra khỏi bán đảo Ả Rập thì sẽ vận động với các cường quốc cho Ả Rập độc lập.
Hussein tin lời, kêu gọi nghĩa quân chống lại Thổ, bắt một số quân nhân Thổ ở La Mecque làm tù binh. Anh giúp bốn chiếc tiểu liên và 8.000 súng thường, nhờ vậy Ả Rập thắng Thổ ở Rabegh, Yanbo và Taif, chỉ trong có vài tháng bắt được 5.000 lính Thổ.
Nhưng Hussein không tiến thêm được nữa, không chiếm được Médine. Kế đó Anh Pháp thất bại ở Dardanelles trước sự chống cự mãnh liệt của Mustapha Kémal, rồi một vạn quân Ấn do tướng Anh Towshend chỉ huy bị Thổ vây ở Kut-El-Amara, gần Bassorah (Mésopotamie). Anh không làm sao phá vòng vây được, chỉ còn cách đầu hàng nếu không thì bị tiêu diệt.
Thấy tình hình quá nguy, bộ Tham mưu ở Le Caire phải vời Lawrence tới vấn kế. Lawrence chỉ trích bộ máy chiến tranh của Anh là quá nặng nề, không hợp với hoàn cảnh: sỹ quan Anh quá nhiễm thói quan liêu, hành quân ở sa mạc mà mang theo đồ chơi golf và quẩn vợt! Vì vậy tiến thoái rất chậm, bị Thổ bủa vây. Ông bảo họ phải dùng chiến thuật uyển chuyển, lưu động mới thắng được. Sứ mạng của ông là thương thuyết với tướng Thổ, xin nạp một số tiền để Thổ giải vây cho Towshend. Thổ không chịu. Ông nghĩ cách hô hào dân Ả Rập khởi nghĩa để phá Thổ ở hậu tuyến, bắt Thổ phải rút binh ở Kut-El-Amara mà đối phó với Ả Rập. Nhưng muốn hô hào Ả Rập khởi nghĩa thì phải hứa cho họ độc lập. Cơ quan Indian Offỉce không chịu, vì nếu cho Ả Rập độc lập thì Ấn đó cũng sẽ vin vào đó đòi độc lập mà đế quốc Anh mất viên ngọc quý và lớn nhất. Rốt cuộc Towshend đành phải đầu hàng. Trở về Le Caire, Lawrence ráng thuyết phục bộ Tham mưu Anh theo chính sách của ông: để cho Ả Rập khởi nghĩa chiếm Médine rồi tiến thẳng lên Damas mà giải phóng SYRIE. Anh chỉ giúp khí giới, quân nhu và một số cố vấn thôi, chứ đừng đem quân vào. Phải kích thích tinh thần quốc gia của họ; kích thích tinh thần tôn giáo thì sẽ thất bại vì về phương diện tôn giáo, Ả Rập thân với Thổ mà chống Âu. Nhất là Anh đừng để cho Pháp xen vào rồi sau này sẽ đòi chia phần. khi thắng trận rồi, Anh sẽ cho Ả Rập độc lập, Ả Rập tất sẽ mang ơn mà liên kết với Anh vì Ả Rập cần sự giúp đỡ về võ bị, kinh tế. Chính phủ Anh mới đầu còn do dự, sau phải nhận rằng Lawrence có lý. Ông bèn đề nghị suy tôn Faycal – một người con của Hussein – làm thủ lãnh phong trào giải phóng và ông được phái tiếp xúc với Faycal ở Hamra, gần Médine.
Ông đi gấp trong ba ngày, chịu đi chịu khát, đêm ngủ trên đất, ngày chịu nắng như thiêu trên sa mạc; vào khoảng cuối tháng 10 năm 1916 tới Hamra, nơi Faycal cắm trại.
Hai bên chào nhau xong, Faycal hỏi thăm về cuộc hành trình của ông, khen ông là đi rất mau, rồi hỏi: - Ông thấy trại của chúng tôi ra sao?
- Đẹp lắm, nhưng khá xa Damas!
Lời đó hạ xuống như một nhát kiếm giữa đám người ngồi trong phòng. Mọi người xáo động, có người ngỡ Lawrence ám chỉ sự thất bại mới rồi của Faycal được lệnh của cha chiếm Médine mà không làm sao chiếm được.
Im lặng một chút, Faycal mỉm cười đáp: -Nhờ Chúa, quân Thổ ở gần hơn!
Hai bên thân với nhau từ đó. Thấy Faycal đáng tin cậy, Lawrence vui lòng làm quân sư cho ông ta, hy sinh cho chính nghĩa của Ả Rập.
Trong hai năm ông ta cải trang làm người Ả Rập – có hồi cải trang làm phụ nữ Ả Rập nữa – Sống chung với người Ả Rập, suốt ngày trên lưng lạc đà, đi khắp các nơi trong sa mạc, tiếp xúc với các thủ lãnh Ả Rập, khuyến khích, hô hào họ, do thám cho họ, lập kế hoạch cho họ.
Ông không có vẻ bệ vệ như các quan lớn cố vấn khác, trái lại sống rất bình dân, sẵn sàng tiếp đón mọi người Ả Rập, chăm chú nghe họ bày tỏ ý kiến ở trong lều hoặc dưới gốc cây chà là, tự tay pha cà phê mời họ, tuyệt nhiên không dùng bồi bếp, kẻ hầu người hạ. Không những vậy, ông còn lột bỏ được cá tính Anh của mình, suy nghĩ như người Ả Rập, tin tưởng như người Ả Rập, mới là tài chứ. Và khi họ thắng một trận nào thì ông sung sướng y như họ, thua một trận nào cũng đau khổ y như họ.
Chưa bao giờ một người Âu nào được họ quý mến như ông. Ông đã thành vị thủ lãnh của họ. Ông không còn là người Anh nữa mà thành người Ả Rập.
Ông có tài du kích, làm cho quân Thổ điêu đứng, chỉ lo chống đỡ ở mọi mặt trên một khu vực mênh mông, cố bảo vệ đường giao thông và quân nhu mà không đủ sức tấn công Ả Rập nữa. Chỉ có 3.000 quân, ông đánh tan được 120.000 quân Thổ, lập được một chiến công oanh liệt. Cuộc chiến đấu đó gồm bốn giai đoạn quyết định: giai đoạn thứ nhất ở Abou Markha; giai đoạn thứ nhì ở Akaba; giai đoạn thứ ba ở Deraa; giai đoạn thứ tư ở Damas.
Hồi đầu Thế chiến, quân đội Thổ đóng rải rác trên con đường xe lửa từ Damas tới Médine, có thể uy Hiếp kênh Suez mà làm cho quân Anh lâm nguy. Bộ tư lệnh Anh ở Le Caire khẩn cấp yêu cầu ông tấn công Médine. Quân của Faycal do Abdallah (anh của Faycal) chỉ huy, đóng ở Abou Maửha mà không chịu nhúc nhích. Ông được phái tới giúp ý kiến với Abdallah, nhưng Abdallah không hăng hái tiến quân.
Rồi ông nghĩ lại: tấn công Médine là thất sách. Chính sa mạc là đồng minh mạnh nhất của Ả Rập, cũng như hồi xưa cánh đồng tuyết là đồng minh mạnh nhất của Nga. Vậy thì đừng giàn mặt trận nữa mà phải dùng chiến thuật du kích. Tức thì ông đem 2.000 quân tiến như bão về phía Akaba. Ba trăm lính Thổ ở Akaba thấy ông tới thình lình, hoảng hốt, không kịp đề phòng, chỉ chống cự yếu ớt có một ngày rồi đầu hàng (6-7- 1917).
Akaba mất rồi, Médine hóa ra cô lập, chẳng cần phải chiếm nữa, và ông tiến thẳng lên Damas. Lúc đó tinh thần của Thổ đã xuống ông tấn công một hơi Roum, Azrak, Tafila, Beersheda bằng cách chớp nhoáng, rồi tới Deraa ở phía Nam Damas, cách Damas khoảng 100 cây số. Deraa là một yếu điểm phòng thủ rất kỹ. Mấy lần định phá mà không được, ông nảy ra một ý táo bạo lạ lùng: cải trang làm một tên Ả Rập nghèo khổ, một mình lẻn vào Deraa để dò xét nhà ga và trại lính, bị lính Thổ bắt, tra tấn kịch liệt; may chúng không nhận ra ông, không canh phòng cẩn mật và ông trốn thoát được về Akaba.
Qua đầu năm 1918, thế của Thổ và Đức đã núng lắm; tới tháng mười, đội kỵ binh Ả Rập đánh bại đội kỵ binh thứ tư của Thổ mà chiếm Damas. Lawrence, Choukri và Ayoubi – một nhà ái quốc SYRIE – dẫn quân vào thành. Dân chúng hoan hô. Lawrence mừng quá mà sa lệ.
Chiến tranh kết liễu. Ông rất buồn vì nhớ tới mật ước Sykes – Picot giữa Anh với Pháp. Có lẽ ông biết
mật ước đó từ cuối năm 1917 mà không dám cho người Ả Rập hay, cũng không đám từ chức để phản kháng chính phủ. Vì ông nghĩ nếu từ chức Ả Rập sẽ biết nguyên do mà chống lại Anh liền, ông sẽ mang tội là chống với tổ quốc. Có lẽ ông cũng mong rằng hết chiến tranh ông có thể thuyết phục chính phủ đổi chính sách cho nên ông cứ tiếp tục dùng bánh vẽ để nhử Ả Rập chống Thổ. Bây giờ đây việc đã xong, ông biết xử trí ra sao?
Anh nuốt lời hứa với Ả Rập – Lawrence hối hận
Ngày 1-11-1918 Lloyd George báo cáo với dân chúng Anh rằng 11 giờ sáng đó chiến tranh sẽ chấm dứt. Cũng hôm đó, Lawrence về tới London và ngay hôm sau ông bắt đầu cuộc chiến đấu thứ nhì cho Ả Rập. Thấy Tổng thống Mỹ Wilson tuyên bố ràng các dân tộc có quyền tự quyết, lại nghe nói các chính phủ Anh, Pháp hứa với dân tộc SYRIE và Mésopotamie sẽ giúp họ lập chính phủ bản xứ, ông vui vẻ tin tưởng, đề nghị với chính phủ lập ba quốc gia Ả Rập: SYRIE sẽ thuộc quyền Faycal, Thượng Mésopotamie về Zeid và Hạ Mésopotamie về Abdallah. Ba quốc gia đó họp thành một liên bang dưới quyền điều kHiển của
Hussein, vua xứ Hedjaz, nghĩa là cha con của Hussein sẽ làm chủ gần trọn bán đảo Ả Rập. Hai tháng sau, Faycal tới Anh, được Lawrence tiếp đón và giới thiệu với Thủ tướng và các Bộ trưởng. Nhưng Lawrence vỡ mộng liền, chẳng ai coi trọng đề nghị của ông cả. Ông lại còn hay tin rằng Saint John Philby ở Indian Office cũng đương vận động với chính quyền để gạt Hussein ra mà đưa Ibn Séoud lên. Vì vinh dự của ông, chứ không phải của chính phủ (chính phủ nào cũng có thói nuốt lời hứa như chơi), ông quyết bênh vực Hussein và Faycal đến cùng. Một mặt ông nhắc bộ Ngoại giao về lời hứa với Hussein năm 1915, một mặt ông đả kích Saint John Philby đã mù quáng mà lựa chọn Ibn Séoud. Nhưng dù được dân chúng Anh coi ông là một vị anh hùng, tiếng nói của một đại tá như ông có giá trị gì trong các hội nghị quốc tế.
Tháng giêng năm sau (1919) Anh Pháp Mỹ họp hội nghị ở Paris. Lawrence cũng qua Paris để chống đỡ Faycal, làm thông ngôn cho Faycal, tấn công cả chính phủ Pháp lẫn chính phủ Anh. Nhiều lần ông đấu khẩu với “cọp già” Clémenceau của Pháp. Thực là kỳ phùng địch thủ: cả hai cùng cương quyết, tàn nhẫn, chua chát như nhau. Clémenceau không chịu nhường một chút quyền lợi nào của Pháp cho bất kỳ ai, dù người đó là ông vua không ngôi hay có ngôi của Ả Rập.
Pháp viện lẽ rằng đã chịu hao tổn sinh mạng, tài sản nhiều nhất trong bốn năm chiến đấu để “bênh vực những tự do dân chủ cho thế giới” – một triệu người Pháp chết, bao nhiêu châu thành bị tàn phá, bao nhiêu tỷ quan phải tiêu dùng – thì bây giờ Đồng minh phải cho Pháp “gỡ gạc” chút đỉnh mà làm chủ SYRIE và Liban, nơi mà Pháp đã khai hóa từ thời Viễn chinh Thập tự và có bổn phận phải tiếp tục bênh vực các thiểu số theo Ki Tô giáo, khỏi bị cái họa của Do Thái giáo ở Châu Âu.
Lý lẽ đó vững quá, vững hơn lý lẽ “dân tộc tự quyết” của Wilson; Anh tất nhiên tán thành, vì Anh đã dược Pháp hứa nhường cho phần lớn rồi kia mà: Mésopotamie, Palestine. Thành thử Pháp tuyên bố ràng không hề biết Faycal là ai, không cho Faycal dự hội nghị, thì Anh cúi gằm mặt xuống làm thinh. Sau này khi Pháp đem quân lại chiếm đóng Damas (1920), Faycal cùng với một số nghĩa quân chống cự lại và thua thì Anh cũng tiếp tục làm ngơ nữa. Thực là chua xót cho Faycal: chiếm lại được Damas của Thổ, mới cai trị được khoảng một năm đã bị kẻ khác lại đuổi đi.
Lawrence không còn mặt mũi nào nhìn người Ả Rập nữa, trở về Anh viết một loạt bài tố cáo chính phủ trong tờ Times và viết cuốn Seven Pillars of Wisdom (bản dịch ra tiếng Pháp của nhà Payot, nhan đề là Les sept Pilires de la Sagesse) để kể cuộc khởi nghĩa của Ả Rập và tự thú lỗi lầm của mình đã lừa gạt dân tộc Ả Rập, mong giải được phần nào nỗi ân hận nó giày vò ông.
Trong cuốn đó, ông tự xỉ vả thậm tệ:
“Tôi không phải là thằng ngu. Lúc đó tôi đã đoán được rằng khi thắng trận rồi thì những lời hứa với dân tộc Ả Rập sẽ chỉ là những miếng giấy lộn. Nếu tôi là một người cố vấn lương thiện thì tôi đã bảo các người Ả Rập đừng hy sinh tính mạng về những chuyện mơ hồ đó nữa.”
“Đúng là tôi có cái xu hướng, có một thứ tài lường gạt. Nếu không thì. làm sao tôi đã lường gạt người Ả Rập được khéo léo như vậy trong năm năm liền? Đúng vào lúc nào thì cái tội của tôi thành một trọng tội? Và người ta phải xử tôi ra sao? Làm cho người Ả Rập chết, tôi đã mắc tội ăn cắp, ăn cắp linh hồn.” Luôn luôn cái ý đã phạm tội ấy ám ảnh ông và ông tự hỏi hoài: “Tôi mắc tội tới cái mức nào?
Không ai xử tội ông cả. Ông tự xử lấy. Chính phủ tặng ông huy chương Commander of the Bath, ông trả lại chính phủ cái “đồ chơi hai xu của con nít đó”. Pháp tặng ông Croix de Guerre, ông đem đeo vào cổ một con chó rồi trả lại chính phủ Pháp.
Pháp gặp khó khăn ở Damas (SYRIE) thì Anh cũng gặp khó khăn ở Mésopotamie. Cũng năm 1920, dân Mésopotamie nổi dậy chống Anh, Anh phải đem 150.000 quân qua dẹp. Churchill vội vàng mời Lawrence tới vấn kế. Tháng ba năm sau, một hội nghị họp ở Le Caire để quyết định thành lập vương quốc Iraq, Anh chỉ giữ các căn cứ không quân để kiểm soát sa mạc. Thế là có một ngai vàng trống. Anh đem tặng Faycal để bù vào cái ngai vàng Damas bị Pháp hất. Faycal nhận. Abdallah cũng đòi một ngai vàng cho mình. Anh thí cho ngai vàng Transjordanie, ông ta cự nự vì Transjordanie là một xứ tồi tệ, chỉ có ba trăm ngàn dân gồm toàn những hạng bất bình, khó trị của Tây Á.
Lawrence được Churchill phái qua vỗ về Abdallah, Abdallah nguôi nguôi, nhưng cha là Hussein càng nổi quạu. Sau hiệp ước Paris, Hussein viết thư phản kháng, buộc Lloyd George (Anh) và hội Vạn Quốc phải đuổi Pháp ra khỏi SYRIE. Dĩ nhiên, Lloyd George làm thinh. Hussein bèn lại Amman (kinh đô Transjordanie) cầm gậy đuổi các sỹ quan ra khỏi dinh rồi mắng Abdallah thậm tệ rằng nhu nhược chịu quy phục Anh.
- Cút ngay đi! Ông chỉ là con người xảo quyệt chuyên gây hấn. Chính ông đã hứa hẹn lếu láo với tôi và kẻo tôi vào cái vụ lường gạt trâng tráo này.
Rồi ông ta trở về La Mecque, sống trong cảnh uất hận. Cái mộng phục hưng lại đế quốc Ả Rập đã tiêu tan. Mà tình cảnh hiện tại còn tệ hơn hồi trước. Trước kia người Ả Rập chỉ có một ông chủ, mà ông chủ đó ít gì cũng cùng một tôn giáo với mình; ngày nay có tới hai chủ: Anh và Pháp, và bọn này đều là tụi “dị giáo”, tụi không thờ Allah, chống lại Allah. Lỗi tại ông cả; đã quá tin Lawrence. Allah và Mohamed làmsao tha thứ cho ông được? Cái nhục đó, sau này Ibn Séoud sẽ rửa cho dân tộc Ả Rập.
Bị Hussein xỉ vả, Lawrence nhục nhã trở về Anh, tự đầy đọa mình để chuộc tội. Ông bỏ tên cũ, xóa hết cả dĩ vãng, một mình lang thang trong cảnh tối tăm cho tới mãn kiếp, lấy tên là John Hume Ross xin làmbinh nhì thợ máy trong đội Không quân Hoàng gia, nhẫn nhục làm mọi việc của một binh nhì: cọ sàn, quét sân, rửa chuồng heo, đổ rác… Càng bị hành hạ, càng làm những việc dơ dáy, ông càng thấy thích, như để chuộc tội vậy.
Nhưng rồi sau người ta nhận ra ông, báo chí làm rùm lên, người ta mời ông ra khỏi trại. Hai tháng sau ông lại đổi tên một lần nữa, lựa tên T. E. Shaw, tình nguyện vào đội Chiến xa Hoàng gia. Đầu năm 1927, ông lại hay một tin buồn và nhục cho ông nữa. Ibn Séoud, người được Saint John Philby
ở Indian Office che chở, tấn công Hussein, chỉ trong mấy ngày đuổi được Hussein ra khỏi La Mecque và Hussein phải lưu vong ở đảo Chypre. Chính phủ Anh thản nhiên, không hể giúp đỡ, bênh vực Hussein, thành thử bao nhiêu lời ông hứa với dòng họ Hussein bị chà đạp hết.
Ông chết năm 1935 trong một tai nạn xe máy dầu. Người ta ngờ ràng ông chán đời quá mà tự tử vì mấy năm trước đó, lúc nào ông cũng ủ rũ, thường than thở: “Tôi luôn luôn mong muốn rằng màn kịch của tôi hạ xuống sơm sớm cho. Tôi có cảm tưởng sắp đến lúc nó hạ rồi.”
Một người thân hiểu tâm sự của ông, đặt một bó hồng trên thi hài, có ý nhắc lại hai câu thơ mà ông đã ngâm hồi bị Thổ giam ở Deraa:
For Lord I was free of all thi flowers, but I chose the world’s sad rose,
And that is wHi my feet are torn and my eyes are blind with sweat…
(Vì thưa Chúa, con được tự do lựa chọn tất cả những bông hoa của Chúa và con đã lựa những bông hồng ủ rũ trên đời,
Vì vậy mà chân con mới rớm máu và mắt con mới mờ đi vì mồ hôi…)
Chết sớm như vậy là may cho ông. Nếu phải sống thêm mười năm nữa, mà thấy Ibn Séoud hất chân Anh
vàkếtthânvớiMỹ,tặngchoMỹtấtcảcácmỏdầulửatrênbánđảoẢRậpthìlòngáiquốccủaôngcòn giàyvòôngđếnbựcnào.
CHƯƠNG VII. IBN SÉOUD, VỊ ANH HÙNG CHINH PHỤC SA MẠC Chí lớn của Ibn Séoud
Từ năm 1927 Lawrence càng thêm buồn và nhục vì ông đã thua Saint John Philby: ông ủng hộ giòng họ Hachémite tức cha con Hussein, mà giòng họ Saudi được Philby tin cậy đã đánh bạt Hussein ra khỏi bán đảo Ả Rập.
Đọc chương IV, chúng ta còn nhớ cuối thế kỷ XVII, một vì anh hùng Ả Rập, Abdul Wahad giữ đúng truyền thống của Mohamed, đã dùng sức mạnh của tôn giáo và của đạo binh Ikwan, muốn phục hưng lại đế quốc Ả Rập, thống nhất được xứ Nedjd và Hasa. Qua thế kỷ sau, con của ông, Séoud đại vương chiếmthêm được Hedjaz, vào thánh địa La Mecque, nhưng khi Séoud tử trận, mười hai người con đều bất tài, bị Thổ diệt hết. Vậy dân tộc Ả Rập vẫy vùng được một thời rồi lại nép mình dưới chân Thổ, thiêm thiếp ngủ dưới ánh nắng gay gắt, trong cảnh tịch mịch của sa mạc, chỉ thỉnh thoảng giật mình vì một tiếng súng nổ hoặc tiếng vó ngựa của một tên cướp đường ban ngày.
Tới đầu thế kỷ XX, sự nghiệp của Séoud đại vương mới được một người cháu tiếp tục. Vị anh hùng này tên là Abdul Aziz, cùng tên với Séoud đại vương, khi lên ngôi, cũng lấy hiệu là Ibn Séoud. Abdul Aziz sanh năm 1881 ở Ryhad, kinh đô của tiểu bang Nedjd, tại trung tâm bán đảo. Lúc đó bán đảo chia làm mười sáu tiểu bang nghèo mà lại không biết đoàn kết với nhau.
Thân phụ Aziz là Abdul Rahman, bào đệ của quốc vương Nedjd. Vốn mộ đạo, Abdul Rahman sống một đời khắc khổ như các nhà tu hành: nhà cửa không trang hoàng gì cả, không ăn đồ ngon, không bận đồ lụa, cấm người trong nhà ca hát, suốt ngày đăm đăm tụng niệm.
Tới tuổi đi học, Aziz vào nhà tu học thuộc lòng kinh Coran. Tám tuổi đã biết cầm gươm, bắn súng, cưỡi ngựa phi nước đại mà không cần yên cương, tập chịu cực khổ, đi chân không trên những phiến đá nóng như nung, hàng tháng theo các thương đội trong sa mạc với một nắm chà là và một bầu nước giếng. Nhờ tiên thiên rất mạnh – cao hai thước năm phân, to lớn như khổng lồ – Aziz chịu được nỗi khắc khổ mà thân phụ ông muốn ông tập cho quen để sau này lập sự nghiệp lớn: thống nhất quốc gia.
Mới chín mười tuổi, ông đã phải thấy gần trọn gia đình ông bị quốc vương xứ Han là Rashid tàn sát. Thân phụ ông dắt ông trốn khỏi được và lang thang hết nơi này nơi khác trong miền hoang vu Ruba A Khali, toàn đá và cát khô cháy. Bọn tùy tùng chịu không nổi, bỏ đi lần lần. Một hôm Rahman tuyệt vọng, gọi con và ba người thị vệ trưng kiên lại bảo: -Chúa bắt chúng ta chết ở nơi này rồi. Chúng ta phải tuân lệnh Chúa. Thôi, quì cả xuống mà tụng kinh và cảm ơn Chúa.
Aziz phản kháng: -Không! Không chịu chết ở đây. Phải ráng sống. Lớn lên con sẽ làm vua xứ Ả Rập. Sáng hôm sau cứu tinh tới. Một đoàn kị mã của vua Koweit tới đón bọn họ lại Koweit lánh nạn. Koweit là một xứ nhỏ xíu nhưng giàu có ở phía tây bác vịnh Ba Tư. Châu thành là một thị trấn nằm trên
bờ biển, được người phương Tây gọi là tỉnh Marseille của phương Đông. Ghe tàu tấp nập ở cảng; đủ các giống người chen chúc nhau trên đường: từ phương Đông qua như Ấn Độ, Ba Tư, cả Nhật Bản nữa; từ phương Tây tới như Anh, Pháp, Đức, Ý; từ phương Bắc như Nga, Thổ.
Nơi đó là ngưỡng cửa của châu Âu và châu Á. Người Đức muốn mở đường xe lửa từ Berlin tới vịnh Ba Tư mà ga cuối cùng là Koweit. Nga cũng muốn có một trục giao thông từ Moscow tới Bagdad, Bassorah trên con sông Tigre, ở phía Bắc Koweit. Còn Anh thì định lập một đường khởi từ Ấn Độ xuyên qua Ba Tư mà trạm cuối cùng là Bassorah hay Koweit. Nhất là từ khi Anh, Mỹ khai thác những mỏ dầu lửa ở Ba Tư và Ả Rập, từ khi họ tìm được những mỏ dầu vô tận ở tại Koweit thì hải cảng Koweit và Bossorah thành những căn cứ quân sự quan trọng nhất thế giới, hơn cả Gibraltar, Aden, Singapore, Hương Cảng. Cho nên thương mại ở đó phát triển lạ lùng mà gián điệp thì đầy đường. Tất cả các cường quốc đều gởi đại diện tới, chính thức và không chính thức, những vị sứ thần và những nhân viên mật vụ trá hình thành con buôn, nhà truyền giáo, nhà khảo cổ… Họ dòm ngó nhau, ngầm tranh giành nhau từng chút, vãi tiền ra để mua
chuộc các nhà quyền thế bản xứ, tìm đủ các mưu mô mánh khóe để hất cẳng nhau, lật tẩy nhau, mà ngoài mặt thì vẫn niềm nở, rất lịch sự với nhau.
Một trong các nhà quyền thế bị người Anh mua chuộc là Mubarrak, bào đệ của quốc vương Koweit. Mubarrak là một tên cờ bạc, điếm đàng, tiêu hết gia sản của ông cha để lại rồi qua Ấn Độ “làm ăn”. Không hiểu hắn làm ăn cách nào mà tiền bạc vào như nước, ai hỏi hắn thì hắn cúi mặt, nhũn nhặn đáp: “Nhờ Allah phù hộ độ trì.”
Năm 1897 hắn về Koweit, bị vua anh mắng chửi tàn tệ, hắn nhẫn nhục chịu. Nhưng Aziz thích hắn lắmmà hắn cũng thương Aziz vì thấy chàng thông minh đĩnh ngộ. Hồi đó Aziz đã có vợ, vần nuôi cái mộng tiễu phạt Rahsid để khôi phục giang san, có lần nhảy lên lưng một con lạc đà, phi vào sa mạc để hô hào các bộ lạc nổi lên chống Rashid, nhưng ai mà nghe lời em bé miệng còn hôi sữa, cho nên ba ngày sau chàng lủi thủi trở về Koweit, làm trò cười cho thiên hạ.
Mubarrak không mỉa mai Aziz mà trái lại, ân cần đón về nhà, dạy cho một chút sử ký, địa lý, toán học và Anh văn rồi lại cho làm thư ký riêng. Khách khứa tới lui nhà Mubarrak sao mà nhiều thế! Đủ các hạng người, từ con buôn tới các nhà thám Hiểm, chủ ngân hàng, chính khách, đủ các giống người: Anh, Pháp, Đức, Nga…
Rồi một đêm Mubarrak lẻn vào cung giết anh, lên ngôi vua. Vua Thổ khép tội phản nghịch, ra lệnh cho Rashid đem quân lại dẹp. Koweit đã nhỏ mà quân đội không luyện tập, Mubarrak thua, chạy vào thành trốn. Nguy cơ đã tới. Nhưng lạ chưa, đúng lúc đó một thiết giáp hạm của Anh hiện ở bờ biển Koweit nã súng vào phía quân Rashid và Rashid phải nuốt hận mà rút quân về. Bây giờ người ta mới hiểu Mubarrak làm tay sai cho Anh. Thế là Thổ đã thua Anh một nước cờ. Địa điểm Koweit quan trọng quá, Anh không cướp của Thổ thì Đức hay Nga cũng chiếm mất.
Ibn Séoud chiếm lại được Ryhad
Biến chuyển lạ lùng đó mở mắt cho Aziz. Trông cậy vào đường gươm lưỡi kiếm, ờ lòng trung thành của quân đội thì hỏng bét. Phải có ngoại giao, có mánh khóe chính trị nữa. Và cái xứ Ả Rập này vậy mà quan trọng chứ, tất cả các cường quốc đều dòm ngó nó. Từ trước cứ tưởng đuổi được tụi Thổ đi là xong, bây giờ mới thấy rằng còn Anh, Đức, Pháp, Nga nữa mà đàn kên kên nảy còn lợi hại hơn nhiều. Vậy phải tính toán, mưu mô, tùy gió xoay chiều, tránh né, len lỏi, lúc tiến lúc lui, chứ không thể sơ suất được.
Lúc đó Anh đương mạnh, Aziz hướng về Anh, muốn nhờ Anh giúp để trả thù Rashid, nhưng Anh cho chàng là con nít, không thèm trả lời. Chàng quay lại năn nỉ Mubarrak năm lần bảy lượt. Bực mình quá, muốn tống chàng đi cho rảnh, Mubarrak thí cho chàng ba chục con lạc đà ốm yếu, ba chục khẩu súng cũ kỹ, hai trăm đồng tiền vàng và dặn kỹ nên việc hay không cũng mặc, không được lại quấy rầy nữa.
Chàng không đòi gì hơn. Được điều kHiển một binh lực dù nhỏ mọn cũng thú rồi. Chàng định kế hoạch: phải đích thân vào hang cọp, chiếm lấy cung điện Ryhad, rồi kiểm soát kinh đô, kiểm soát các bộ lạc ở Nedjd. Lúc đó mới sai sứ thần tiếp xúc với người Anh xem người Anh có dám khinh thị chàng nữa không.
Chàng đem đại sự ra bàn với cha, cha mắng là vọng động, chàng không nghe, để vợ và con thơ lại cho cha trông nom rồi tiến sâu vào sa mạc. Lúc đó nhằm mùa thu năm 1901, chàng mới hai chục tuổi. Không ai ngờ với ba chục con lạc đà ghẻ và ba chục cây súng tồi, chàng chinh phục được bán đảo Ả Rập.
Mới đầu chàng đánh du kích những đồn nhỏ và thương đội, cướp được khí giới và tiền bạc rồi lưu động đi nơi khác liền. Chiến lợi phẩm phân phát hết cho thủ hạ, còn chính chàng thì vẫn sống bằng một nắm chà là và một bầu nước. Một số lưu manh nghe nói chàng hào phóng, ùa theo; còn các hào mục sợ sự trừng phạt của Rashid, hễ thấy chàng sắp tới là đề phòng trước, nên chàng không cướp phá thêm được gì nữa. Tiền cạn, lạc đà chết mòn, thủ hạ trốn đi lần lần, sau cùng chỉ còn lại số thân tín đã đi theo chàng từ Koweit và mươi người mới theo sau này.
Chàng đổi chiến lược: phải chiếm kinh thành một cách chớp nhoáng. Muốn vậy phải ẩn náu trong hai tháng sao cho địch tưởng mình chết rồi, mà trong sa mạc việc đó rất khó. Luôn hai tháng, một bọn trên bốn chục người phải núp suốt ngày sau các đồi cát, nhịn ăn nhịn uống, đêm mới dám bò đi kiếm nước hoặc chà là.
Khi các nhà cầm quyền Ryhad tưởng chàng đã chết vì đói khát, không đề phòng cẩn mật nữa, chàng mới lẻn tới sát Ryhad, để thủ hạ ở ngoài thành làm hậu thuẫn; còn chàng, Jilouy, và sáu người nữa, đương đêmleo vào thành, vào được tư dinh viên Thống Đốc, rồi sáng hôm sau, ám sát viên Thống Đốc, cướp được đồn, các đồn khác trong tỉnh hưởng ứng và đến giữa trưa chàng khôi phục được kinh đô của tổ tiên mà chỉ mất có hai thủ hạ.
Rashid đem quân lại vây đánh Aziz. Aziz rút quân xuống phương Nam, dùng thuật du kích tỷa lần quân địch. Trong hai năm, bất phân thắng bại. Chàng phải dùng chính sách ngoại giao, nhờ Mubarrak làm trung gian điều đình với Thổ, Thổ bằng lòng nhận chàng làm quốc vương xứ Nedjd, còn chàng chịu cho quân Thổ đóng ở vài nơi. Chàng sai quân lính giả làm quân bất lương cướp bóc lính Thổ. Thổ tiễu trừ không nổi, mà thấy giữ xứ Nedjd không có lợi, năm 1905 rút quân về.
Lúc này chàng mới đem toàn lực tấn công Rashid, một đêm bão cát mù mịt, xuất kỳ bất ý, cầm đầu một đội quân tiến như bay về phía trại Rashid, chém được đầu Rashid.
Khi trở về Ryhad, Rahman nhường hết chính quyền và giáo quyền cho chàng và chàng lên ngôi, lấy hiệu là Ibn Séoud. Năm đó chàng hai mươi lăm tuổi (1906).
Ibn Séoud lập đồn điền để nắm được dân
Trong mấy năm sau Ibn Séoud bình phục xong xứ Hail rồi ngoại giao với người Anh để mặc ông tấn công Thổ mà chiếm xứ Hasa ở phía Nam Koweit, bên bờ vịnh Ba Tư. Cũng dùng chiến thuật xuất kỳ bất ý, đương đêm cho quân leo thành, tới sáng thì chiếm được kinh đô Hasa mà dân chúng không hay gì.
Lúc này đất đai đã mở rộng, có cửa ngõ thông ra biển rồi, ông tổ chức lại nội bộ cho thêm mạnh để sau này tiến thêm một bước nữa.
Thần dân ông gồm hai hạng người: hạng làm ruộng, buôn bán, định cư – hạng này là thiểu số – và hạng du mục lang thang khắp nơi, nay đây mai đó. Hạng trên trung thành với ông, còn hạng dưới thì không thể tin được. Họ rời rạc như những hạt cát, hễ nắm chặt lại thì ở trong tay mà mở ra thì trôi theo những kẽ tay mất. Tinh thần cá nhân của họ rất mạnh, họ rất phóng túng, không chịu một sự bó buộc nào, tính tình thay đổi, nay thân mai phản, sản xuất thì ít mà phá hoại cướp bóc thì nhiều, không thể dùng làm lính được vì không chịu kỷ luật.
Muốn cho quốc gia Ả Rập mạnh lên, phải nhào họ thành một khối như Mohamed hồi xưa. Nhưng hồi xưa Mohamed chỉ dùng tôn giáo, chỉ hứa cho họ lên Thiên Đường mà họ hăng say Thánh chiến. Ngày nay Ibn Séoud thấy phương pháp đó không đủ hiệu nghiệm. Tại ông không có tài như Mohamed hay tại thời thế đã khác: thần dân của ông không tin rằng dùng Thánh chiến mà có thể diệt được các tôn giáo khác, các dân tộc khác; còn như ở trên bán đảo Ả Rập, xứ nào cũng theo Hồi giáo, tiếng Thánh chiến hóa ra vô nghĩa.
Vì vậy ông phải thay đổi đường lối. Ông phải định cư thần dân của ông, biến họ thành nông dân để dễ kiểm soát, bắt họ sản xuất. Chương trình này thực mới mẻ và táo bạo, từ xưa các vua Ả Rập chưa ai nghĩ tới.
Ibn Séoud biết rằng sức phản động của các giáo phái sẽ mãnh liệt vì chẳng những ông đi ngược tục lệ cổ truyền mà còn làm trái cả lời trong Thánh kinh Coran. Trong kinh có câu: “Cái cày vào trong gia đình nào thì sự nhục nhã vào theo gia đình ấy”. Ông phải triệu tập các nhà tu hành lại, giảng cho họ kế phú quốc cường binh của ông, trả lời tất cả những câu chất vấn, đả đảo tất cả những lý lẽ cổ hủ của họ, vừa mềmmỏng, vừa cương quyết, như vậy họ mới chịu nghe và đi khắp xứ tuyên truyền cho chính sách mới, chính sách lập đồn điền. Họ khéo tìm đâu được một câu cũng của Mohamed đại ý rằng: “Tín đồ nào cày ruộng là làm một việc tHiện” để bênh vực chủ trương của nhà vua.
Mặc dầu vậy, dân chúng vẫn thờ ơ. Họ vẫn thích cái đời phiêu bạt hơn, vẫn sống theo câu tục ngữ: “Tất cả hạnh phúc trong đờ người là ở trên lưng ngựa”, vẫn chỉ muốn nghe tiếng gọi của gió trên sa mạc, tiếng hí của ngựa trên đồi vắng dưới nền trời lóng lánh những vì sao. Rốt cuộc, khắp nước chỉ có ba chục người chịu nghe ông mà định cư. Ibn Séoud không cầu gì hơn. Trước kia chỉ có bốn chục thủ hạ còn chiếm lại nổi giang sơn, nay có ba chục người, sao không tạo nổi một đồn điền? Ông biết cái luật bất di dịch này là muốn tạo cái gì vĩ đại thì bắt đầu phải tạo một cái nho nhỏ đã.
Đồn điền đầu tiên thành lập ở Artawiya ở giữa đường từ Nedjd tới Hasa, một miền hoang vu vào bậc nhất, chỉ có bốn năm cái giếng nước cạn, dăm chục cây chà là và vài mẫu đất cằn. Chỉ trong mấy nămthành một xóm làng có trường học, chung quanh là đồng lúa xanh tốt, rồi thành một thị trấn. Dân làng đã ra khỏi thời Trung cổ mà bước vào thời hiện đại.
Các nơi khác thấy thành công, cũng bắt chước và trong năm năm, số nông dân lên tới năm vạn. Năm vạn người đó là năm vạn chiến sỹ có kỷ luật, đoàn kết thành một khối.
Có một đội quân đáng kể rồi, ông mới tính tới việc chinh phục xứ Hedjaz, chiếm các Thánh địa Médine và La Mecque lúc đó thuộc quyền Hussein. Nhưng người Anh có để yên cho ông hoạt động không?
Ibn Séoud chiếm La Mecque, làm vua xứ Ả Rập Saudi
Vừa may thời cơ tới, Đại chiến thứ nhất bùng nổ. Thổ đứng về phe Đức, chống lại Anh. Cả Anh, Thổ lẫn Đức đều ve vãn Ibn Séoud.
Ông đợi xem tình hình ra sao đã nên tiếp đãi sứ thần Anh rất mềm nở, nhưng chẳng hứa hẹn gì cả: Thổ hay được, đem quân đánh, ông chống cự kịch liệt, sau cùng thắng, nhưng tổn thất khá nặng. Anh thấy lực lượng của ông mạnh, tặng ông năm ngàn Anh bảng mỗi tháng và khí giới để ông trung lập. Đồng thời Anh cũng viện trợ cho Hussein, vua xứ Hedjaz. Ông bảo thẳng với Anh rằng Hussein vô dụng, dân chúng không ai theo, vì chỉ lo vơ vét, biến đổi Thánh địa thành một nơi buôn bán trụy lạc, bắt các tín đồ hành hương tới La Mecque phải chịu một thuế cư trú rất nặng.
Như trên chúng tôi đã nói, Lawrence trong Arabia Office ủng hộ Hussein, còn Philby trong Indian Ofrce ủng hộ Ibn Séoud. Chính sách của Anh ở Ả Rập mâu thuẫn như vậy làm cho cả Hussein lẫn Ibn Séoud bất bình.
Đại chiến kết liễu, Pháp Anh qua phân đế quốc Thổ thành vô số tiểu bang độc lập hoặc tự trị, bán tự trị. Anh vì chiếm phần lớn nhất nên bối rối về việc làm sao giữ nổi đế quốc mênh mông của mình. Để có thể rút bớt quân về, chính phủ Anh tìm bọn thân hào dễ bảo Ả Rập, đưa họ lên làm thủ lãnh giữ trật tự trên bán đảo, và ba cha con Hussein thành tay sai của Anh. Rất cuộc sau chiến tranh Ibn Séoud vẫn chỉ được làmchủ ba miền: Nedjd, Hail, Hasa mà cái mộng thống nhất Ả Rập còn khó thực hiện hơn trước: Thổ đi thì Anh tới, mà Anh vừa gian Hiểm vừa hùng cường hơn Thổ.
Chẳng bao lâu, vì tính tham tàn, quạu quọ, Hussein đã mất lòng dân lại mất lòng cả người Anh (ông ta luôn luôn phẫn uất, chửi rủa Anh đã lừa gạt mình), thành thử hết hậu thuẫn mà cũng hết kẻ đỡ đầu. Thời cơ thuận tiện đã tới, lbn Séoud động viên quân Ikwan tinh nhuệ nhất, tấn công chớp nhoáng quân Hedjaz ở Taif như quét lá khô rồi tiến tới La Mecque. Dân chúng nổi lên la ó Hussein: -Đuổi giặc đi, nếu không được thì cút đi!
Có kẻ phá hàng rào vào cung. Hussein đành thu thập vàng bạc châu báu và các tấm thảm quí, chất lên mười hai chiếc xe hơi – cả xứ Hedjaz hồi đó chỉ có mười hai chiếc đó, đều của nhà vua – rồi chạy lại Djeddah (1925). Một chiếc du thuyền của Anh đã chực sẵn ở đây để đưa ông ta lại đảo Chypre. Y hệt vua Thổ Mehemet VI. Ít năm sau, Hussein vì thiếu nợ mà bị kết án (mất năm 1931).
Chính phủ Anh không ngờ tay sai của mình lại yếu hèn đến thế, miệng thì nói thánh nói tướng mà chống cự với Ibn Séoud không được bốn mươi tám giờ đã bỏ cả giang son mà chạy. Tự nghĩ nếu giúp cho Ali con cả của Hussein, nối ngôi ở Hedjaz thì phải đem nhiều quân qua, dân chúng Anh sẽ bất bình, nên Anh làmbộ quân tử, tuyên bố ý như các chính phủ thực dân muôn thuở rằng “việc đó là việc nội bộ của Ả Rập, người Anh không muốn can thiệp vào, theo đúng chính sách dân tộc tự quyết của ông bạn Mỹ Wilson”. Thế là Ali cũng phải trốn luôn. Ibn Séoud lúc đó còn đóng quân ở Taif, vội quay về Ryhad, phái sứ giả đi khắp các nơi trong sa mạc để báo tin thắng trận và yêu cầu các dân tộc theo Hồi giáo đúng hẹn phái đại biểu tới Thánh địa La Mecque để cùng bàn với nhau về việc bầu cử người thay quyền các tín đồ mà giữ Thánh địa.
Khi các đại biểu tới đông đủ rồi, ông tiếp họ trong điện của Hussein. Vấn đề đem ra bàn là giao Thánh địa cho ai cai quản. Người Ấn Độ đòi quyền đó về họ vì số người Ấn theo đạo đó đông hơn số các dân tộc khác. Người Ai Cập phản đối, viện lẽ rằng từ mấy thế kỷ nay họ vẫn kiểm soát sự hành hương. Không ai chịu nhường ai. Ibn Séoud cương quyết tuyên bố:
“Thưa chư vị đại biểu, xin chư vị tin chắc điều này là không khi nào tôi để cho người ngoại quốc kiểmsoát đất đai của tôi. Nhờ Chúa phù hộ, tôi sẽ giữ cho miền này được độc lập. Mà tôi nghĩ ràng không có dân tộc Hồi giáo nào gởi đại diện lại đây hôm nay có thể đảm bảo sự tự do cho xứ Hedjaz vì lẽ rất giản dị rằng trong số các dân tộc đó không có một dân tộc nào tự do. Người Ấn Độ, người Iraq, người Transjordanie và người Ai Cập đều ở dưới quyền người Anh. Còn Liban, SYRIE là thuộc địa của Pháp,
Tripolitaine là thuộc địa của Ý. Giao sự cai quản Thánh địa cho những dân tộc đó có khác gì đem dâng Thánh địa cho thế lực Ki Tô không?
“Tôi đã chiếm Thánh địa được do ý chí của Allah, nhờ sức mạnh của cánh tay tôi và sự trung thành của dân tộc tôi. Vậy chỉ có mình tôi đáng cai trị khu đất thiêng liêng này…
“Không phải tôi muốn thống trị xứ Hedjaz đâu. Tuyệt nhiên không! Allah đã trao xứ đó cho tôi thì tôi xin nhận cho tới khi nào dân Hedjaz có thể tự bầu cử một vị Thống đốc – một vị Thống đốc tự do chỉ biết phụng sự Hồi giáo thôi – thì sẽ trả lại.”
Các đại biểu câm miệng hết. Ibn Séoud dã theo gót được Mohamed. Làm chủ được Thánh địa làm chủ được bán đảo Ả Rập.
Ông phải chiến đấu ít lâu nữa để đuổi Ali ra khỏi Djeddah mà chiếm nết Hedjaz. Người Anh lúc đó mới thấy ngôi sao của ông là rực rỡ. Lawrence trước kia gọi ông là “tên đầu cơ lưu manh”, cho ông là không đáng được “ngồi chung bàn với các vị quốc vương”, bây giờ thấy chính phủ bỏ rơi Hussein, không thèmtiếp Thủ tướng Anh mà Anh hoàng phái tới để an ủi, rồi tự đọa đày tấm thân, làm những nghề ty tiện nhất, như để chửi vào mát chính phủ Anh: “Khi người ta không giữ được lời hứa với bạn đồng minh thì làm tên chăn heo còn vinh dự hơn là ngồi trên ngai vàng.”
Năm 1926, Ibn Séoud giải thoát xứ Asid ở phía Nam Hedjaz khỏi nanh vuốt một ông vua tàn bạo. Ông muốn tiến quân thẳng xuống miền Yemen, miền trù phú nhất ở phía Nam bán đảo, nhưng người Anh làm chủ Eden, một địa điểm quan trọng trên đường qua Ấn Độ, vội phái sứ giả lại yết kiến ông để điều đình.
Lần này người Anh tỏ ra rất lễ độ, không xấc láo như trước. Ông giữ một thái độ rất cương quyết, rốt cuộc hai bên thỏa thuận với nhau rằng Ibn Séoud hoàn toàn làm chủ các xứ Nedjd, Han, Hasa, Ataiba, Hedjaz, Asir; Ruba Al Khali làm chủ các Thánh địa La Mecque và Médine, còn những xứ Oman, Hadramount, Yemen thì độc lập, không thuộc ảnh hưởng của một nước nào. Người Anh lại hứa sẽ thuyết phục các cường quốc châu Âu nhận Ibn Séoud là quốc vương chính thức của xứ Ả Rập.
Ibn Séoud trị dân và phát triển canh nông
Năm đó là năm 1928. Sau khi chiến đấu trong một phần tư thế kỷ. Ibn Séoud đã xây dựng một quốc gia mênh mông từ Hồng Hải tới vịnh Ba Tư. Trên bán đảo Ả Rập chỉ còn một dải ở Tây bắc, bên bờ Đỉa Trung Hải và một dải ở Đông Nam, bên bờ Ấn Độ Dương là ở ngoài ảnh hưởng của ông. Quốc gia đó, người ta gọi là xứ Ả Rập của giòng Séoud (Arabie Saudi).
Ngày 4 tháng 11 năm 1928, ông triệu tập hết đại biểu các miền lại Ryhad để nghe ông báo cáo: “Khi tôi tới các ông thì thấy các ông chia rẽ nhau, chém giết nhau, cướp bóc lần nhau không ngừng. Những kẻ thương lượng công việc cho các ông, âm mưu để hại các ông; họ gây mối bất hòa giữa các ông để các ông không đoàn kết với nhau được mà mạnh lên. khi tôi tới các ông thì tôi rất yếu, không có một lực lượng nào cả, trừ sự phù hộ của Allah vì, như các ông đã biết, lúc đó chỉ có bốn chục người giúp tôi. Vậy mà tôi đã làm cho các ông thành một dân tộc, một dân tộc hùng cường…”
Ai cũng biết “những kẻ thương lượng cho các ông” đó ám chỉ các đế quốc châu Âu, nhất là đế quốc Anh. Trong lịch sử đếquốc Anh, chưa lần nào họ bị thất bại chua xót bằng lần họ phải đương đầu với Ibn Séoud trên bán đảo Ả Rập.
Bây giờ Ibn Séoud có thể yên ổn mà lo công việc kiến thiết quốc gia.
Ông chấn hưng luân lý và tôn giáo. Tinh thần tôn giáo dưới thời Hussein đã quá đồi trụy: La Mecque thành nơi buôn bán, điếm đàng. Ibn Séoud đặt ra luật lệ để trừng phạt kẻ nào phạm những điều cấm trong kinh Coran.
Ông lập lại sự trị an trong sa mạc. Trước kia đời sống không được bảo đảm. Ngày nào cũng gặp thây ma trên đường và nạn cướp bóc. Người ta đâm chém nhau vì một miếng bánh, một đồng tiền. Không đâu được yên ổn. Nạn tham nhũng lan tràn khắp xứ. Kẻ phạm tội không bị xử, thành thử dân phải tự xử lấy. Hễ bị cướp thì cướp lại, bị giết thì có người thân trả thù. Máu đổi máu.
Ibn Séoud ra lệnh hễ án trộm thì bị chặt một bàn tay, tái phạm thì chặt nốt bàn tay kia. Hễ giết người thì bị xử tử.
Chiến sỹ trong đội Ikwan ngày đêm đi khắp nơi lùng kẻ gian. Chỉ trong ít tháng, hết đạo tặc. Một thương nhân đánh rớt một gói đồ trên đường thì một tháng sau trở lại vẫn y nguyên chỗ cũ. Ông Gérald de Gaury viết trong cuốn Arabia Phoenix: “Sự trị an ở xứ Ả Rập thật lạ lùng, khắp châu Âu có lẽ không nước nào được như vậy.”
Ông Jean Paul Penez trong bài Une enquête chez les fils d’Ibn Séoud cũng nhận rằng “đức hạnh ở xứ Ả Rập là sự bắt buộc, trên khắp cõi Ả Rập, tội sát nhân cướp bóc trong một năm ít hơn ở Paris trong một ngày.”
Ibn Séoud tân thức hóa đạo quân 50.000 sỹ tốt Ikwan (dân số năm 1930 vào khoảng 4-5 triệu), mua súng liên thanh, đại bác, xe thiết giáp rồi nhờ các nhà quân sự Mỹ, Anh huấn luyện. Các kỵ sỹ Ả Rập phản kháng, vẫn chỉ thích múa gươm, cưỡi ngựa, không chịu dùng “máy móc của tụi quỉ” đó. Họ bảo thắng trận không nhờ khí giới mà nhờ Allah. Muốn mạnh thì cứ tụng kinh cho nhiều vào, Allah sẽ cho thiên thần xuống trợ chiến.
Về kinh tế ông ráng làm cho dân Ả Rập tiến từ giai đoạn mục súc qua giai đoạn nông nghiệp rồi sau cùng tới giai đoạn kỹ nghệ.
Muốn phát triển canh nông phải có nước mà cả xứ không có một con sông lớn, suốt năm chỉ mưa có bảy phân nước. Nên phải đào giếng.
Từ xưa dân chúng vẫn đồn rằng có những giếng nước cách nhau hàng trăm cây số mà thông ngầm với nhau ở dưới đất, liệng một cái chén bằng gỗ xuống giếng này thì ít lâu sau thấy nó nổi lên ở giếng kia. Ỏ bờ vịnh Ba Tư, những người mò trai gặp nhưng luồng nước ngọt ở đáy biển.
Ibn Séoud ngờ rằng dưới lớp cát có nhiều dòng nước, mời kỹ sư Tây phương tới tìm nước cho và họ tìmthấy một biển nước ngọt ở trong lòng đất. Chỉ trong ít năm, vừa sửa lại giếng cũ, vừa đào thêm giếng mới, Ả Rập Saudi có đủ nước để nuôi được 400.000 người và 2.000.000 súc vật. Hàng trăm ngàn dân du mục dắt lạc đà, dê, cừu lại các giếng nước vừa đi vừa tụng kinh, nhộn nhịp không kém cuộc di cư của dân Mỹ trong thế kỷ trước để tìm vàng ở miền Tây. Có nước rồi thì thêm ruộng, vườn. Một bọn kỹ sư canh nông Mỹ được mời qua để nghiên cứu đất đai và phương pháp trồng trọt. Đất đai đã bỏ hoang từ mấy ngàn năm, nhờ có nước mà phì nhiêu lạ lùng, hơn cả miền Texas ở Mỹ. Mỗi năm ở Texas chỉ sản xuất được bốn tạ rưỡi lúa mì thì ở đây sản xuất được tới mười bảy tạ. Ibn Séoud vội vàng lập ra Bộ Canh nông mà từ xưa xứ Ả Rập chưa hề có.
Mỹ tìm được mỏ dầu ở Ả Rập Saudi
Sản xuất được nhiều thì phải nghĩ đến vấn đề vận tải giao thông, phải cất đường sá và đường xe lửa. Nhưng tiền đâu?
May thay, một phép màu nữa lại xuất Hiện, nhờ Allah phù hộ. Năm 1920, một người Anh tên là Frank Holmes đào giếng ở cù lao Bahrein trên vịnh Ba Tư, ngoài khơi Hasa chủ ý là để kiếm nước mà không ngờ lại kiếm được dầu lửa.
Rồi năm 1980, người ta thấy một nhóm du mục Bắc phi (bédouin) đổ bộ lên Hasa, có vẻ khả nghi. Ả Rập gì mà không tụng kinh, không biết tiếng Ả Rập, và đi đâu cũng lén lút, lẩn mật, không tiếp xúc với ai cả. Ibn Séoud cho điều tra kín, biết họ là người ngoại quốc giả trang, ra lệnh bắt, tra hỏi. Họ thú là người Mỹ lại tìm mỏ dầu lửa. Việc gì chứ việc đó thì được, cứ tự nhiên. Họ đào nhiều nơi, thấy có một lớp dầu lửa liên tục từ dãy núi Caucase ở Nga tới Ả Rập, ngang qua Mésopotamie và Ba Tư. dầu lửa rất tốt mà rất nhiều.
Tin đó bay ra, các cường quốc nhao nhao lên. Mỹ, Anh, Hà Lan, Đức, Nga cả Nhật nữa, phái đại diện tới xin yết kiến Ibn Séoud, vị nào cũng nguyện làm lợi cho Ả Rập chứ không nghĩ tới tư lợi. Ibn Séoud cứ đủng đỉnh, bắt họ đợi cả tuần lễ. Có người e phật lòng họ, nhắc ông, ông đáp: -Để mặc Trẫm, Trẫm là nhà tu hành, biết cách cư xử với các tín đồ hành hương đó mà!
Ông suy nghĩ rồi nhận lời của công ty Gulf Oil, nghĩ rằng công ty nhỏ đó của Mỹ, Mỹ ở xa không dòmngó Ả Rập mà đã giúp được nhiều việc cho Ả Rập.
Anh bị hất cẳng, tìm cách phá. Hồi đó các công ty Anh làm chúa tể trên khu vực từ Ba Tư tới Ai Cập, làm mưa làm gió trên thị trường dầu lửa. Anh ngăn cản việc chở và bán dầu lửa của Gulf Oil. Gulf Oil nhỏ quá không chống cự lại nổi Anh, đành bán lại cho một công ty khác của Mỹ, mạnh hơn nhiều, công ty California Arabian Standard Oil, viết tắt là C.A.S.O.C. Bán với một giá rẻ mạt: 5 vạn Mỹ kim. Trong lịch sử hiện đại, không có một vụ nào lời cho người mua như vậy.
Từ đó dầu lửa Ả Rập mới sản xuất mạnh mẽ, năm 1935 là 174.000 tấn, năm năm sau tăng lên 8.000.000 tấn. Các nhà máy lọc dầu mọc lên như nấm ở bờ vịnh Ba Tư, tàu bè ra vào tấp nập, mà vàng cứ tiếp tục tuôn vào kho của Ibn Séoud. Ông khôn khéo, không bán đứt, vì đất cát trong xứ là của toàn dân chứ không phải của ông. Ông chỉ bằng lòng cho thuê trong một thời hạn thôi, năm 2000 hết hạn thì bao nhiêu nhà cửa, máy móc sẽ về ông hết.
Và ông lo xa, dạy dỗ dân chúng để đến năm 2000 người Ả Rập có thể tự khai thác lấy phú nguyên của họ, khỏi phải nhờ người ngoại quốc, nên một mặt ông phát triển các đường giao thông, nhất là đường xe lửa, một mặt ông mở trường dạy chữ và dạy nghề. Trong một diễn văn ông bảo:
“Độc lập về chính trị mà làm gì nếu không có độc lập về kinh tế? Chúng tôi tân thức hoá xứ này không phải để cho nó mất tự do, mà chính là để cho nó có thế hưởng được tự do.”
Ý ông muốn bảo: chúng tôi theo Âu Mỹ không phải để vong bản mà làm bồi cho Âu Mỹ đâu. Và ông cương quyết buộc các người ngoại quốc phải trọng tục lệ và tín ngưỡng của dân tộc ông. Ông nhắc họ: “Tôi muốn rằng các bạn tới đây với tư cách giáo sư chứ không phải với tư cách ông chủ, tới đây làmkhách chứ không phải làm kẻ xâm lăng. Xứ Ả Rập nhờ Allah, lớn lắm, có thể thỏa mãn tất cả các thamvọng, trừ tham vọng này: chiếm đất của nó.”
Thực là không úp mở gì cả. Ông nhắm người Mỹ, và người Mỹ ngoan ngoãn nghe ông, cơ hồ mến phục ông nữa. Ông cấm họ chở Whisky vào cõi, ông cấm nhà thờ của họ đổ chuông khi làm lễ, vì Allah cấmuống rượu và vì giáo đồ của ông bực mình mỗi khi nghe tiếng chuông nhà thờ Ki Tô giáo. Nhất nhất người Mỹ nghe lời ông hết. Chưa có dân tộc Á phi nào bắt họ phải phục tùng như vậy. Chỉ tại những mỏ dầu lửa của ông lớn mà cái uy của ông cũng lớn.
CHƯƠNG VIII. CÁC PHONG TRÀO QUỐC GIA Ở THUỘC ĐỊA ANH VÀ PHÁP Vậy năm 1925 khi quân Ikwan của Ibn Séoud vào được Hedjaz thì khối Ả Rập cơ hồ như đã có một sự quân bình giữa các thế lực. Đế quốc Thổ đã sụp đổ, quốc gia Thổ chỉ còn một khu nhỏ, lo canh tân và kiến thiết. Nga cũng mắc đối phó với những vấn đề nội bộ của họ, trong số đó có vấn đề dân thiểu số theo Hồi giáo. Iran và Afghanistan đã thành những quốc gia độc lập, trung lập làm trái độn giữa Nga và Ấn Độ của Anh. Anh Pháp chia nhau các xứ ở Bắc bán đảo Ả Rập: Anh ở Palestine, Jordani, Iraq, Pháp ở Liban, SYRIE. Anh lại giữ được những căn cứ cốt yếu trên con đường qua phương Đông, tức Ai Cập, Aden. Còn
lòng bán đảo, đất phát tích của Hồi giáo thì thuộc về Ả Rập Saudi, một quốc gia độc lập. Như vậy là tạm ổn cho người phương Tây, nhưng tình trạng đó không ổn cho người Ả Rập; và vẫn có những luồng sóng ngầm phá cái thế có vẻ quân bình đó. Giữa hai Thế chiến tại miền đó có ba luồng sóng ngầm:
- Phong trào quốc gia của các dân tộc Ả Rập mà Lawrence đã khuấy động lên mà không ngờ tới hậu quả của nó,
- Những âm mưu của Anh muốn khuấy phá, hất cẳng đồng minh của minh là Pháp. - Sự thành lập quốc gia Do Thái ở Palestine, sau lời tuyên ngôn của Balfour, đầu mối của biết bao cuộc xung đột trên đất Ả Rập sau Thế chiến thứ nhì.
Trong chương này chúng tôi sẽ xét hai điểm trên còn điểm cuối (vấn đề Do Thái) rất quan trọng, sẽ dành cho chương sau.
Phong trào quốc gia ở Ai Cập
Bán đảo Ả Rập thật là một miền đa dạng về mọi phương diện, gây cho ta nhiều nỗi ngạc nhiên thích thú. Từ sa mạc khô cháy ta bước sang những vườn hồng rực rỡ ở bờ Địa Trung Hải; từ cảnh hoang vu đi suốt ngày không gặp một bóng người, ta bước sang những đô thị cư dân lúc nhúc như Le Caire, Bagdad.
Ở trong sa mạc bí mật kia cuộc khởi nghĩa của Ibn Séoud có tính cách bán trung cổ: cảnh ngựa hí trên sa trường, cảnh đấu kiếm loang loáng, tiếng kèn tiếng trống dưới chân thành, tiếng loa tiếng tù và trong đêmvắng, cát bay mịt trời, xương khô đầy đất y như cảnh biên tái trong thơ đời Đường.
Mà ở đây, trên hạ lưu sông Nil bên bờ Địa Trung Hải, ở Le Caire, Alexandrie, thì cuộc cách mạng có tính cách tân thời, thành thị, y như ở Bắc Kinh, Thượng Hải sau Thế chiến thứ nhất. Ở kia, người cầm đầu cuộc nổi loạn là một vị anh hùng quý phái, một vương hầu. Ở đây phong trào do sinh viên và thợ thuyền phát động với những biểu ngữ, khẩu hiệu, những cuộc bãi khóa, bãi công, những cuộc xuống đường rầmrầm rộ rộ. Ai Cập cũng như Trung Hoa, Việt Nam, có mót nền văn minh cổ mấy ngàn năm, đã ngưng đọng không biến hóa kịp thời nên không chống lại nổi sức mạnh của nền văn minh cơ giới phương Tây, phải tủi nhục nhận sự áp bức của họ và vẫn mong Âu hoá để mạnh lên mà giành lại nền độc lập.
Ai Cập thành đất bảo hộ của Anh từ 1882. Cũng như Pháp, như mọi thực dân khác, Anh dùng một bọn quý phái bản xứ dễ bảo để làm tay sai. Và cũng như Việt Nam, Ai Cập có những nhà cách mạng lớp cũ, những nhà này thất bại và ngọn cờ cách mạng chuyển qua tay thanh niên có tân học, ở các trường Trung học, Kỹ nghệ, Đại học ra. Mới đầu chỉ có những đảng Quốc gia như Wafd, Baath[12] chủ trương giành lại độc lập, lật đổ triều đình bù nhìn (nếu không bỏ hắn chế độ quân chủ thì ít nhất cũng có một hiến pháp mà quốc vương chỉ giữ các địa vị tượng trưng như chủ trương của Huynh đệ Hồi giáo); rồi sau mới có những đảng Cộng sản.
Chúng ta nghiệm thấy tại Ai Cập, Trung Hoa hay Việt Nam, trong tiền bán thế kỷ, các nhà cách mạng đều có nhiệt huyết, can đảm, không vị lợi, và đều bị phong kiến liên kết với thực dân đàn áp mãnh liệt, nhưng được quốc dân tin cậy, ủng hộ. Hồi đầu họ rất đoàn kết, không chia rẽ sâu xa về chính kiến, ai cũng mong đả phong, diệt thực đã, thành công rồi sẽ hay; về sau họ mới chia rẽ mà lực lượng kém đi. Cái công buổi đầu đó của họ, hình như chưa nước nào đánh giá được đúng mức.
Cuộc khởi nghĩa của Arabi Pacha[13] bị thực dân Anh đập tan năm 1882, ngọn lửa cách mạng ở Ai Cập hạ xuống trên hai chục năm sau, một thanh niên du học ở Pháp về, Mustapha Kamel[14], thổi cho nó bùng trở lại. Ông ta thành lập tờ báo El Lewa hô hào quốc dân đòi độc lập. Tờ báo có ảnh hưởng mạnh tới thanh niên. Thực dân Anh treo cổ bốn nhà ái quốc; mới đầu thanh niên rồi dân chúng nhao nhao lên phản đối. Anh phải thay viên Thống đốc. Hết chiến tranh, năm 1919, Ai Cập dựa vào lời tuyên ngôn “các dân tộc có quyền tự quyết” của Đồng minh, lại đòi độc lập. Anh đàn áp nữa, đầy Zaghloul Pacha và ba đồng chí của ông ta tại đảo Malte. Tức thì ba ngàn sinh viên biểu tình ở Le Caire, năm sinh viên bị bắn chết.
“Mặt trời hôm đó chưa lặn thì toàn cõi Ai Cập đã bùng lên rồi… Lúc đó mười bốn triệu người chỉ nghĩ tới vị anh hùng đã thay dân nói lên cái nguyện vọng của dân, đòi quyền sống và quyền tự do cho Ai Cập mà bị giam bị đầy qua một đảo xa xôi.
“Chỉ trong nháy mắt, Le Caire lâm vào cảnh hỗn loạn. Nhà nào nhà nấy vội vàng đóng cửa vì đám người biểu tình mỗi lúc một đông đảo, ồn ào. Các đường liên lạc bị cắt đứt và mọi nơi trong nước nổi loạn như ở kinh đô. Người ta đốt các ty cảnh sát, phá các đường rầy…”
Chính phủ Anh phải thả Zaghloul Pacha và hai bên điều đình với nhau. Dân chúng trong nước bất hợp tác, tẩy chay hàng hóa Anh, còn kiều dân thì tuyên truyền ở ngoại quốc, Anh phải tuyên bố cho Ai Cập độc lập với vài sự hạn chế mà sau sẽ ấn định.
Trong phong trào kéo dài ba năm đó, thanh niên đóng một vai trò chính yếu. Nhiều sinh viên bỏ học để “cứu quốc”, “kHi nước nhà độc lập rồi sẽ học lại”. Chính quyền Anh ngại dư luận quốc tế, không dám
thẳng tay đàn áp. Vừa đòi độc lập, sinh viên vừa đòi cải cách chế độ quân chủ. Vua Fouad I muốn giữ trọn quyền hành như trước, nhưng đảng Wafd và đảng Tự do – Lập hiến cố giành lại quyền cho quốc dân. Rốt cuộc nhà vua phải nhượng bộ, ban hành hiến pháp 1923.
Hai chính quyền Anh và Ai vẫn không thỏa thuận với nhau về bốn điểm dưới đây hạn chế sự độc lập của Ai:
- Anh giữ một đạo binh để bảo vệ sự giao thông của Đế quốc Anh ở Ai Cập.
- Anh bảo vệ cho Ai Cập khỏi bị các nước khác xâm lăng hoặc can thiệp một cách gián tiếp hay trực tiếp.
- Anh bảo vệ quyền lợi các người ngoại quốc và các dân tộc thiểu số ở Ai Cập.
- Anh vẫn giữ xứ Soudan tách ra khỏi Ai Cập.
Nhận những hạn chế đó thì sự độc lập của Ai chỉ là bánh vẽ. Cuộc thương thuyết kéo dài, cứ họp được vài bữa lại ngừng vài tuần, vài tháng. Trong khi đó quân đội Anh vẫn đóng ở khắp nơi; dân chúng nóng lòng, bất bình. Bất bình nhất vẫn là sinh viên. Chủ quyền phải hoàn toàn thuộc về người Ai Cập, họ không chịu chấp nhận sự bảo hộ trá hình đó. Họ lại biểu tình trên kháp các đường phố ở Le Caire, Alexandrie, hò hét:
“Ai Cập muốn năm!” – “Đả đảo thực dân Anh!” Ta nhớ dân Ai Cập rất đông, số thanh niên ở hai thị trấn đó tới 60.000, trong khi ở Beyrouth, ở Damas chỉ có khoảng 6000.
Bọn người lớn cho rằng những cuộc hoan hô, đả đảo đó không đưa tới đâu, nhưng nếu cảnh sát Ai Cập, nhất là quân đội Anh mà đánh đập con em họ thì họ la ó, làm dữ: “Không được đánh con nít”. Họ không cấm đoán con em vì nghĩ rằng chúng phát biểu đúng những ý nghĩ trong thâm tâm của mình. Thành thử cảnh sát Ai và quân đội Anh đâm ra do dự, không dám đàn áp mạnh. Lần này phong trào chỉ phát ở các thị trấn lớn, không lan tới thôn quê, và ít lâu sau tan dần.
Khi Fouad I giải tán quốc hội gồm nhiều đảng viên Wafd, rồi giải tán nội các mới thành lập, báo chí phản kháng và thanh niên lại biểu tình. Cứ lộn xộn như vậy trong mười mấy năm.
Đầu năm 1930, Nahas Pacha, thủ lãnh đảng Wafd thành lập nội các, lại thương thuyết với Anh. Lại thất bại. Anh vẫn ngoan cố. Ông ta chống nhà vua, nhà vua lại giải tán nội các. Người lên thay ông đứng về phe nhà vua, giải tán quốc hội, sửa đổi hiến pháp cho nó bớt tính cách dân chủ. Thanh niên lại xuống đường ở Le Caire và Alexandrie. Một nhóm học sinh Trung học Alexandrie đương biểu tình, chỉ hô: “Ai Cập muôn năm” mà bị cảnh sát đập. Trong nhóm đó có một học sinh tên là Gamal Abdel Nasser. Cậu bị đập chảy máu mặt mà vẫn tiếp tục hô: “Ai Cập muôn năm”. Về nhà cậu bực tức nghĩ rằng năm 1919, cảnh sát đứng về phía biểu tình, bây giờ đã thành tay sai cua người Anh và của chính phủ bù nhìn.
Nội các đó đàn áp mạnh tay, đứng vững được ba năm, dùng chính sách ngoại giao đòi lại được quyền lợi nho nhỏ, Anh chịu nhả một chút vì thấy vậy có lợi hơn là để cho toàn dân Ai Cập phản đối. Anh bao giờ cũng khéo léo, biết tiến biết lui, biết cương biết nhu. Nhờ vậy họ giữ được Ai Cập tới hết Thế chiến thứ nhì.
Trong thời gian đó. Abdel Nasser vẫn tiếp tục học nhưng đã dự bị làm cách mạng. Cậu đọc rất nhiều sách của Voltaire, Rousseau, Hugo và tiểu sử các danh tướng như Alexandre đại đế, César, Napoleon. Từ năm 1935, cậu tiếp xúc với đảng Wafd (Quốc dân đảng của Ai), đảng Huynh đệ Hồi giáo và đảng Tân Ai Cập, Chương trình đảng sau hợp ý cậu: cải cách điền địa, quốc hữu hóa kinh Suez, thống nhất Ai Cập và Soudan, kỷ nghệ hóa miền sông Nil, nhưng đảng gồm nhiều phần tử ô hợp nên cậu không gia nhập. Tuy chưa biết nên theo đảng nào, nhưng cậu đã có chủ trương: “Dù trái tim tôi có dời. từ bên trái. qua bên phải., dù các Kim tự tháp có di chuyến, dù sông Nil có đổi hướng thì chí tôi cũng không thay đổi..” Năm 1935 sinh viên lại biểu tình đả đảo chính sách đế quốc của Anh. Nasser cầm đầu một phái đoàn
học sinh Trung học. Cảnh sát lại đàn áp. Nasser bảo các bạn cứ đứng yên rồi cùng hô: “Ai Cập muôn năm!” Cảnh Sát lây nhiệt tâm của họ, cũng hô: “Ai Cập muôn năm”. Nhưng hôm sau, chính quyền đàn áp họ, bắn chết hai sinh viên, Nasser bị một viên đạn sướt qua trán thành xẹo.
Kế đó, Nasser vào trường võ bị và trong các chương sau chúng ta sẽ thấy thanh niên đó xuất hiện rực rỡ trên chính trường Ai Cập, rồi đóng một vai trò quan trọng bậc nhất trong khối Ả Rập.
Anh phá ngầm Pháp ở Liban và Syrie – cuộc khởi nghĩa của dân tộc Druse Thực dân đối với nhau thực là tráo trở. khi nguy thì họ đoàn kết với nhau và đến lúc an thì họ phản nhau. Ngay từ khi họ đoàn kết với nhau họ cũng đã nghĩ cách sau này phản nhau rồi.
Anh vẫn oán Pháp từ hồi Napoleon vì Pháp muốn chặn đường qua Ấn Độ của họ. Họ phá Pháp trong vụ đào kinh Suez. Trong Thế chiến thứ nhất họ keo sơn với nhau và hòa bình trở lại họ chia phần với nhau. Ở bán đảo Ả Rập Anh thí cho Pháp một miếng nhỏ ở SYRIE và Liban còn những miếng lớn và có mỏ dầu lửa thì Anh giữ hết. Thế lực của Pháp ở đó không đáng kể, không nguy hại gì cho thế lực của Anh, nhưng trông thấy cái lỏm SYRIE, Liban ngoạm vào một dải thuộc địa của mình suốt từ Ai Cập tới Mésopotamie, Anh vẫn tức tối. Cơ quan Arabica Office của Anh chỉ tìm cách làm khó cho Pháp ở Tây Á, ủng hộ ngầm các phong trào chống Pháp ở SYRIE và Liban.
Sau khi tạm bình định được SYRIE rồi, tướng Gouraud đòi chính phủ cung cấp khí giới, lính tráng để củng cố nền bảo hộ. Mới hết chiến tranh, Pháp nghèo, không chấp thuận đề nghị của ông ta, ông ta từ chức. Tướng Weygand tới thay. Miền biên giới phía bắc SYRIE còn lộn xộn, thỉnh thoảng có những đám người từ Thổ qua phá rối. Weygand đàn áp tàn nhẫn: bắt được một số, đem treo cổ ở giữa thành phố, bêu thây trong ba ngày. Từ đó hết loạn. Ông ta tổ chức các hội đồng bù nhìn, xây cất đường sá, dự định làm con đường xe lửa từ Beyrouth tới Tripoli để chuyển quân cho mau.
Cơ sở có vẻ vững vàng, nên cơ quan Arabia Office của Anh không vui. Năm 1921, một viên trung úy của Anh tên là Glubb cung có tham vọng như Lawrence, lại Transjordame làm cố vấn cho quốc vương Abdallah (con của Hussein) tổ chức một đội quân Ả Rập gồm trảm cây súng.
Một lần Gouraud suýt bị ám sát, điều tra ra thì những kẻ dự vào đều ở Transjordanie qua, họ định nếu thành công thì sẽ gây một cuộc khởi nghĩa ở khắp SYRIE để trục xuất tụi Pháp. Khí giới của họ đều mang nhãn hiệu Anh. Gouraud đòi Abdallah trừng trị tụi đó. Abdallah có Anh che chở, từ chối một cách cương quyết.
Tới thời Weygand lại có một rắc rối nho nhỏ nữa. Hussein lúc đó ở Amman, kinh đô Transjordanie, vung tiền ra khắp các thị trấn SYRIE để các người theo Hồi giáo tụng kinh mỗi thứ sáu cho ông, Giáo chủ của họ. Weygand cũng mua chuộc các thân hào Hồi giáo thân Pháp, xúi họ không tuân lời Hussein, lấy lẽ ràng một ông vua mất nước, để Thánh địa lọt vào tay người khác (Ibn Séoud) thì theo tục lệ cổ truyền, mất luôn quyền Giáo chủ. Vì vậy buổi lễ thứ sáu đầu tiên, có một số giáo đường cầu nguyện cho Hussein, qua thứ sáu sau, không giáo đường nào nhắc tới Hussein nữa. Lần này Pháp thắng Hussein, tức thắng Anh. Thấy Hussein đã thành con người vô dụng, Anh mời Hussein qua đảo Chypre dưỡng lão.
Weygand mộ đạo Ki Tô quá nên Đệ tam Cộng hòa của Pháp không ưa, mời ông ta về, đưa tướng Sarrail qua, ông này có tinh thần chống giáo hội. Tín đồ Ki Tô giáo ở SYRIE bất bình; mà tín đồ Hồi giáo cung ghét Sarrail.
Ở SYRIE có một phái của Hồi giáo, phái Hakem. Hakem là hậu duệ của Mohamed, sống ở thế kỷ thứ X, tu theo lối khổ hạnh, tự nhận rằng được Allah khải thị cho nhiều điều huyền bí. Tín đồ của ông phần đông là người Druse, tin rằng ông đã thăng thiên, không để lại thể xác ở cõi trần.
Dân tộc Druse ở trên núi Liban và Anti Liban, khỏe mạnh,hiếu chiến, nói tiếng Ả Rập. Cho tới thế kỷ thứ XIX họ sống hòa thuận với người Maronite theo đạo Ki Tô. Người Pháp tới, muốn dùng chính sách “chia rẽ để dễ trị”, cho họ thành lập một quốc gia riêng ở giữa Liban và SYRIE. Vậy mà năm 1925 họ nổi dậy chống Pháp.
Lãnh tụ của họ là Chekib Areslane, một văn sỹ hồi trẻ học ở Constantinople rồi ở Paris, lớn lên viết báo, qua Thụy sỹ theo dõi các cuộc hội nghị của Hội Vạn Quốc, ghét Pháp lạ lùng. Ông ta khêu lên hai cuộc khởi nghĩa, một của Soltan Attrache, một của Abd El Krim. Soltan Attrache cũng gốc Druse, nổi dậy ở SYRIE. Mới đầu ông ta ngài ngại những cải cách của Cao ủy
Pháp, phái đại diện lại tiếp xúc với Sarrail. Cao ủy Sarrail không thèm tiếp, rồi gặp họ ở cầu thang, còn quát mắng họ. Chekib Areslane và cơ quan Arabica Office nắm lấy cơ hội, khuấy động dân tộc Druse. Sarrail liền bắt giam các nhà lãnh tụ Druse. Soltan Attrache trốn thoát và cuộc khởi nghĩa bùng lên.
Họ chiếm được thị trấn nhỏ Rachaya làm cho cả khối Ả Rập hò reo: một nhóm sơn nhân mà thắng được Pháp thì thực dân đâu có mạnh. Các nhà ái quốc SYRIE rục rịch hưởng ứng để lật Pháp. Pháp phải thả bom xuống kinh thành Damas. Trong rừng cuộc chiến đấu gay go hơn. Ban ngày Pháp làm chủ, ban đêmDruse làm chủ. Anh tiếp tế khí giới cho Druse, trên một năm Pháp mới dẹp được. Tướng Sarrail bị gọi về, Henri de Jouvenel, một chính khách đến thay. Thế là công việc bình định của Gouraud và Weygand sụp đổ.
Cuộc khởi nghĩa ở Maroc
Cuộc khởi nghĩa của Abd El Krim ở Maroc còn làm cho Pháp điêu đứng hơn. Cũng có bàn tay của Chekib Areslane.
Abd El Krim là hậu duệ của Omar, một chiến sỹ của Mohamed. Mới đầu ông ta nổi dậy chống thực dân Tây Ban Nha, lôi cuốn được bộ lạc Rif, thắng Tây Ban Nha một trận lớn ở Anoual năm 1921, chiếm được vô số tiểu liên, đại bác, đạn dược và cả phi cơ nữa, và một ngàn tù binh mà Tây Ban Nha phải chuộc bằng bốn triệu đồng peseta.
Có khí giới và tiền bạc rồi, Abd El Krimk mới quay lại giải phóng xứ Maroc thuộc Pháp. Thống chế Lyautey thấy nguy, năn nỉ chính phủ gửi viện binh qua. Pháp nghèo quá, lắc đầu. Lyautey có tài cầm quân, đẩy lui được nghĩa quân, nhưng nghĩa quân chiến đấu rất gan dạ, thắng lại quân Pháp, và Abd El Krim thừa thế tiến tới Fez, Taza, Ouezzane.
Dân chúng Pháp xao động. Các nhà báo, các chính khách đã nghĩ tới giải pháp chia phía bắc Maroc cho Abd El Krim. Thống chế Lyautey không chịu, cho như vậy thì sẽ mất hết. Chính phủ gọi ông ta về. Thống chế Pétain qua thay.
Pétain khôn ngoan hơn Lyautey, mới đầu làm bộ tuân lệnh chính phủ, điều đình với nghĩa quân, – dĩ nhiên là ông ta đưa những điều kiện mà nghĩa quân không thể chấp nhận được – rồi chứng tỏ cho Paris thấy rằng không còn giải pháp nào khác là tiếp tục chiến đấu. Ông ta lại liên kết với Tây Ban Nha, Paris đành phải đưa thêm quân và khí giới qua. Lúc đó Abd El Krim có khoảng một trăm bốn chục ngàn nghĩa quân, Pétain có ba trăm ngàn quân và hai mươi hai phi đội. Nghĩa quân biết rằng lần này Pháp không khi nào chịu bỏ Maroc. Abd El Kiêm chiến đấu rất hăng nhưng không tấn công được nữa mà chỉ tự vệ, sau cùng phải đầu hàng. Pháp đày ông ta qua đảo Réunion; say này ông trốn thoát, về Ai Cập hợp tác với Nasser.
Sáu tiểu bang Hồi giáo ở Nga
Trong khi đó, ở Nga, chính phủ Xô Viết thành lập sáu tiểu bang Cộng hòa cho những miền mà dân theo Hồi giáo chiếm đa số: Ouzbekistan, Kazakastan, Kirghizie, Tadijikistan, Turkmenistan, Azerbaidjan[15] Theo hiến pháp, mỗi tiểu bang đó có thể rút ra khỏi Liên bang Xô Viết lúc nào cũng được, có quốc kỳ tiếng, chính phủ riêng, và quân đội riêng, nếu muốn. Trên giấy tờ thi vậy, trên thực tế thì các chính phủ của sáu tiểu bang đều bị đảng cộng sản chi phối, mà đảng viên đa số là người Nga. Viên Thủ tướng là người Hồi giáo, mà Phó Thủ tướng thì luôn luôn là người Nga. Người Nga nắm bộ Nội vụ, để lại cho người bản xứ những bộ không quan trọng như Y tế, Giáo dục, Tư pháp…
Như vậy thì các nhà cầm quyền Hồi giáo chỉ đóng vai gần như là cố vấn, có đời nào mà dám tách ra khỏi Liên bang. Kẻ nào mà đưa đề nghị đó ra thì bị đày hoặc xử tử liền vì tội phản dân.” Nhưng bề ngoài vẫn giữ được đẹp đẽ. Trong Quốc hội vẫn có đại diện của các dân tộc thiểu số. Và khi nào muốn có một tiếng nói trong các vụ liên quan tới Hồi giáo trên thế giới, thì chính quyền Xô Viết sẽ đưa đại diện của sáu tiểu bang gồm ít nhất là 20 triệu người đó ra. Vì Nga đâu có bỏ rơi hẳn bán đảo Ả Rập. Sau Thế chiến thứ nhì, họ mới rảnh tay để hoạt động trở lại và vấn đề lsraêl – Ả Rập (tức Do Thái giáo – Hồi giáo) sẽ cho họ cơ hội đóng vai trò trong tài nghịch với Mỹ ở đó.
CHƯƠNG IX. DO THÁI TRỞ VỀ “ĐẤT HỨA” Ở PALESTINE Tình cảnh Do Thái ở các nước Hồi giáo
Từ thế kỷ thứ nhất, ở Palestine, sự cai trị của La Mã càng ngày càng tàn khốc, dân Do Thái nổi loạn nhiều lần và đền Jérusalem bị tàn phá hai lần nữa. Người La Mã cấm họ xây lại đền ở nền cũ và dân tộc Do Thái mất quốc gia, phiêu bạt khắp thế giới.
Mới đầu họ tản mác qua Tiểu Á (Asie Mineure) rồi qua châu Âu, Bắc Phi, Ethiopie; chỉ một số ít ở lại trong xứ sống chung với các dân tộc khác.
Trước thời Trung cổ, tình cảnh của họ tương đối dễ chịu. Tới đâu thổ dân cũng nhận ra được họ vì tôn giáo, có lẽ vì cả nét mặt của họ nữa, cho nên hơi nghikị, khinh họ là một dân tộc mất nước, nhưng không Hiếp đáp gì họ mà họ cũng trung thành với quốc gia họ ở đậu. Nhờ biết đoàn kết, chịu cực khổ, họ phát đạt, họp thành những đoàn khá thịnh vượng.
Thời Mohamed sáng lập Hồi giáo, họ sống chung với các dân tộc Ả Rập, và chính Mohamed cũng chịu ít nhiều ảnh hưởng của Do Thái giáo. Ông có trừng trị một số Do Thái chỉ là vì họ đã đứng về phe Coréischite, nhưng ông coi họ cũng như mọi dân tộc “dị giáo” khác, không đặc biệt kỳ thị gì họ. Họ còn giúp đỡ dân tộc Ả Rập trong việc xâm lăng các quốc gia ở chung quanh và ở phía Tây Nam châu Âu, như Tây Ban Nha.
Cho tới cuối thế kỷ thứ XIX, tình trạng của họ ở các quốc gia Hồi giáo không thay đổi nhiều, tuy có thời bị kỳ thị ở từng chỗ, (vì nguyên nhân kinh tế hơn là tôn giáo) nhưng không đến nỗi bi đát như ở châu Âu. Theo Clara Malraux, một người Do Thái, thì ở Ba Tư, năm 1875, họ thuộc giai cấp hạ tiện nhất, không được ra khỏi những khu vực riêng của họ gọi là mellah, không được đụng vào người Ba Tư, không được mở quán bán tạp hóa, trừ trong tỉnh Hamadan.
Ở Yemen, họ cũng không được đụng chạm một người Hồi giáo, phải đứng dậy trước mặt một người Hồi giáo, không được cùng bán một món hàng với người Hồi giáo, không được mang khí giới, ban đêm không được ra khỏi khu riêng của họ.
Tại Maroc, họ không được coi là công dân, nhà vua muốn xử họ ra sao thì xử, không cần theo luật pháp gì cả, có thể bắt họ làm nô lệ, giết họ cũng được[16].
Ở những nơi khác, chẳng hạn ngay ở Palestine, thân phận của họ khá hơn, có thể yên ổn làm ăn, nếu chịu nhận cảnh thua kém của mình, đừng phản kháng. Sở dĩ vậy vì Hồi giáo không kỳ thị Do Thái như Ki Tô giáo kỳ thị nhất là từ hồi viễn chinh của Thập tự quân, thế kỷ XI.