"
Ánh Sáng Và Bóng Tối Trên Châu Âu PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Ánh Sáng Và Bóng Tối Trên Châu Âu PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
ebook©vctvegroup
Stefan Zweig
Ánh Sáng Và Bóng Tối Trên Châu Âu Phan Ba dịch
Phát hành: NXB Tri Thức 2021
Cuốn hồi ký này được Stefan Zweig hoàn thành ngay trước khi tự vẫn. Nó không chỉ phác họa lại cuộc đời của đại văn hào mà còn cả lịch sử châu Âu xuyên suốt từ thời kỳ hoàng kim của thế kỷ 79, tiếp đến sự tàn phá kinh hoàng của Đệ nhất Thế chiến và thời kỳ đen tối của Đức Quốc xã. Một thành tựu rực rỡ của Stefan Zweig về một thời đã qua.
“Một trong những di sản kinh điển của châu Âu…”
John Gray, tuần báo New Statesman
“Một trong những cuốn hồi ký vĩ đại nhất thế kỷ 20” David Hare
“Zweig xứng đáng được nổi tiếng thêm một lần nữa, và mãi mãi” Tuần báo Times Literary Supplement
“Không thể thiếu”
Báo The Times
Lời nói đầu
Tôi không bao giờ cho rằng cá nhân mình quan trọng đến mức phải đặt bút kể lại những mẩu chuyện đời tôi cho người khác nghe. Đã phải nếm trải vô số những sự kiện, thảm họa và thử thách mà thế hệ độc nhất này được phân phát cho, thì tôi mới có can đảm bắt đầu một cuốn sách có cái tôi của mình là nhân vật chính hay - nói cách khác - là trung tâm điểm. Tôi hoàn toàn không có ý định đưa bản thân ra, ngoại trừ dưới vai trò là người giải thích một bài thuyết trình chỉ có hình ảnh; thời đại đưa ra hình ảnh, tôi chỉ thêm từ ngữ vào, và cái tôi thuật lại không thực sự là số phận của riêng tôi, mà là số phận của cả một thế hệ - thế hệ độc nhất chúng tôi, bị đè nặng bởi định mệnh trong diễn tiến của lịch sử. Mỗi người chúng tôi, từ người nhỏ bé nhất và tầm thường nhất, đều đã bị rúng động tới tận tâm can từ những cơn địa chấn liên miên không ngưng nghỉ trên mảnh đất Âu châu này; và chỉ là một giữa vô số những con người đó, tôi biết mình không có ưu tiên nào hơn ngoài việc: là người Áo, người Do Thái, nhà văn, nhà nhân văn và người theo chủ nghĩa hòa bình đã đứng đúng ở nơi những cơn động đất tàn phá mạnh nhất ấy. Chúng đã ba lần phá tan nhà cửa và cuộc sống của tôi, bức tôi khỏi mọi thứ đã có từ trước, khỏi quá khứ, và đẩy tôi vào nơi trống không với sự mãnh liệt đầy tính bi kịch của nó, đi vào chỗ “tôi không biết phải đi về đâu” mà tôi đã biết tới. Nhưng tôi không than vãn điều đó; chính những kẻ không có quê hương mới được tự do theo một nghĩa mới, và người không còn gắn kết với bất cứ thứ gì thì cũng không phải nhân nhượng điều gì nữa. Vì vậy mà tôi hy vọng rằng ít nhất cũng thỏa mãn được điều kiện chính của bất cứ tường thuật chân thật nào: trung thực và vô tư.
Bị bứt khỏi gốc rễ và khỏi cả đất đai nuôi dưỡng cội rễ đó, tôi thật sự là một người hiếm có trong thời này. Tôi ra đời năm 1881 tại một trong những vương quốc hùng mạnh, dưới chế độ quân chủ của dòng họ Habsburg, nhưng đừng cố công tìm tên nó trên bản đồ: nó đã bị xóa sổ, không còn vết tích. Tôi lớn lên ở Wien, thủ phủ siêu quốc gia hai ngàn năm tuổi, và đã phải rời bỏ nó ra đi như một kẻ tội phạm, trước khi nó trở thành một tỉnh lỵ Đức. Những tác phẩm văn học viết bằng tiếng mẹ đẻ của tôi đã bị đốt cháy thành tro, ở chính quê nhà nơi chúng đã bầu bạn với hàng triệu bạn đọc. Vì vậy mà tôi không còn thuộc về bất cứ nơi đâu, ở nơi nào cũng là một người lạ, hữu hảo nhất thì là một người khách; cả quê hương thật sự lẫn quê hương mà con tim tôi chọn lấy, châu Âu, tôi cũng đều đã đánh mất, kể từ khi nó cắn xé lần thứ hai trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Dù không muốn nhưng tôi đã trở thành nhân chứng cho thất bại đáng sợ nhất của lý trí và cho chiến thắng man rợ nhất của sự bạo tàn trong biên niên sử thời gian; chưa bao giờ - tôi ghi nhận điều này hoàn toàn không chút tự hào mà với lòng hổ thẹn - có một thế hệ nào như thế hệ chúng tôi, phải trải qua một lần xuống cấp đạo đức đến thế từ một độ cao trí tuệ như thế. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi, từ khi tôi bắt đầu có râu và đến khi nó bắt đầu bạc, vỏn vẹn nửa thế kỷ mà đã xảy ra nhiều biến cố và thay đổi triệt để hơn cả mười thế hệ trước đó, và ai trong chúng tôi cũng đều phải cảm thán: hầu như là quá nhiều! Tôi hôm nay khác xa bất cứ thứ gì của tôi ngày hôm qua, những bước thăng trầm của tôi khác tới mức có đôi lúc tôi nghĩ mình không chỉ sống một cuộc đời, mà đã sống nhiều cuộc đời hoàn toàn khác biệt. Điều thường hay xảy ra với tôi là mỗi khi vô tình nói: “Cuộc sống của tôi”, thì tôi đều bất giác phải tự hỏi: “Cuộc sống nào?”. Cuộc sống trước Thế chiến, cuộc sống trước Đệ nhất Thế chiến hay cuộc sống trước Đệ nhị Thế chiến hay cuộc sống của ngày hôm nay? Rồi tôi lại bắt gặp mình nói: “Ngôi nhà của tôi” mà không biết là muốn nói đến ngôi nhà nào, trước đây, cái ở thành phố Bath hay ở thành phố Salzburg hay ngôi nhà của cha mẹ ở Wien. Hay khi nói “ở chỗ chúng tôi”, tôi lại giật mình nhớ ra đối với những người ở quê hương tôi thì đã từ lâu tôi không còn thuộc về đó nữa, cũng tương tự như đối với người Anh hay đối với người Mỹ, ở kia không còn gắn kết mật thiết và ở đây thì lại
chưa từng hòa nhập hoàn toàn; tôi có cảm giác thế giới khi tôi lớn lên, và thế giới của ngày hôm nay và thế giới giữa hai thế giới ấy càng lúc càng tách rời khỏi nhau thành những thế giới hoàn toàn khác hẳn. Lần nào cũng vậy, trong lúc trao đổi với các bạn bè trẻ tuổi, khi tôi kể lại những mẩu chuyện thời trước Đệ nhất Thế chiến, tôi nhận ra từ những câu hỏi ngạc nhiên của họ, rằng có bao điều vẫn còn là hiện thực tất nhiên đối với tôi thì đã trở thành lịch sử hay không còn có thể tưởng tượng được đối với họ, tất cả những cây cầu bắc sang hôm qua và hôm kia của chúng tôi đã sụp đổ. Chính tôi cũng phải ngạc nhiên về sự phong phú, đa dạng mà chúng tôi đã nén vào trong không gian hạn hẹp của một cuộc đời - tất nhiên là hết sức không dễ chịu và nguy hiểm, thậm chí khi so sánh với lối sống của những thế hệ tiền bối. Cha tôi, ông tôi, họ đã nhìn thấy những gì? Mỗi người họ đều sống cuộc sống của họ trong một cách thức duy nhất. Một cuộc sống duy nhất từ đầu cho tới cuối, không thăng, không trầm, không có chấn động và không có nguy hiểm, một cuộc sống với những âu lo nhỏ nhặt, trong những biến chuyển mơ hồ; thời gian mang họ đi trong một nhịp độ đều đặn, thong thả và bình lặng, từ lúc còn trong nôi cho đến khi tới nấm mồ. Họ sống trong một đất nước, trong một thành phố, thậm chí có khi cả đời ở một ngôi nhà; những gì xảy ra ở ngoài kia trên thế giới chỉ xảy ra trên báo chí và không gõ cửa phòng họ. Một cuộc chiến nào đó hẳn là đã xảy ra ở nơi nào đó trong thời của họ, nhưng chỉ là một cuộc chiến tranh nhỏ bé, so với quy mô (cuộc chiến) của ngày nay, và nó diễn ra ở biên giới xa xôi, người ta không nghe tiếng đại bác, và sau nửa năm thì lụi tàn, bị lãng quên, thành một trang lịch sử mỏng manh, và cuộc sống cũ, lại bắt đầu. Nhưng chúng tôi thì lại sống mà không có gì quay trở lại, không có gì còn sót lại từ trước đây, không có gì để trở về; chúng tôi được phép tham gia ở mức tối đa những gì mà lịch sử đã tằn tiện phân chia cho một đất nước, cho một thế kỷ. Thế hệ này nhiều lắm là tham gia một cuộc cách mạng, thế hệ nọ một cuộc đảo chính, thế hệ kia một cuộc chiến, thế hệ khác một nạn đói, thế hệ khác nữa một lần phá sản của nhà nước, và có những đất nước hạnh phúc, thế hệ hạnh phúc nào đó thậm chí còn chẳng có gì để tham gia cả. Nhưng chúng tôi, những người ngày nay đã sáu mươi tuổi và trên lý thuyết thì vẫn còn một khoảng thời
gian ở phía trước, thì có gì mà chúng tôi đã không nhìn thấy, không phải chịu đựng, không trải qua? Chúng tôi đã cực nhọc trải qua từ đầu đến cuối quyển danh mục tất cả những thảm họa con người có thể nghĩ ra (và vẫn còn chưa đi đến trang cuối cùng). Riêng tôi là nhân chứng của hai cuộc chiến lớn nhất của nhân loại, và thậm chí còn trải qua mỗi cuộc chiến trên một mặt trận khác nhau, một cuộc chiến ở mặt trận Đức và cuộc chiến kia ở mặt trận chống Đức. Trước chiến tranh, tôi đạt tới cấp độ và hình thức cao nhất của tự do cá nhân còn sau đó là mức thấp nhất của nó từ hàng trăm năm nay, tôi được tôn sùng và bị khinh rẻ, tự do và không tự do, giàu và nghèo. Tất cả những con ngựa nhợt nhạt của tận thế đã lao qua cuộc đời tôi, chiến tranh và nạn đói, lạm phát và khủng bố, dịch bệnh và lưu vong; dưới mắt tôi, tôi đã nhìn thấy các ý thức hệ đại chúng lớn lên và lan rộng ra, Chủ nghĩa Phát xít ở Ý, Chủ nghĩa Quốc xã ở Đức, Chủ nghĩa Bôn-sê-vích ở Nga và trước hết là đại họa Chủ nghĩa Quốc xã, thứ đã đầu độc những đóa hoa của nền văn hóa châu Âu chúng ta. Tôi đã phải là nhân chứng bất lực, không thể cưỡng lại, của lần thụt lùi không thể tưởng tượng được của nhân loại, trở lại thời man rợ những tưởng đã lãng quên từ lâu với giáo điều phản nhân đạo có chủ đích và có kế hoạch. Dành cho chúng tôi, sau nhiều thế kỷ, lại là những cuộc chiến không lời tuyên chiến, trại tập trung, tra tấn, cướp đoạt tài sản của nhân dân và những cuộc ném bom xuống các thành phố không có khả năng tự vệ, hết thảy đều là những hành động thú tính mà năm mươi thế hệ trước đã không còn biết đến và hy vọng các thế hệ tương lai sẽ không bao giờ phải nếm trải. Nhưng điều nghịch lý là cũng trong cùng khoảng thời gian đó, khi thế giới chúng ta thụt lùi về mặt đạo đức, thì tôi cũng đã thấy cũng chính nhân loại này đã đạt tới những kỳ tích không ngờ về mặt kỹ thuật và tri thức, với một lần đập cánh vượt qua tất thảy những thành tựu suốt hàng triệu năm qua: chiếm lĩnh không trung bằng máy bay, truyền đi quanh Trái Đất tức khắc âm thanh thật của tiếng nói và vì vậy mà đã làm chủ được vũ trụ, nắm được quá trình phân rã nguyên tử, chiến thắng những bệnh tật hiểm nghèo nhất… và hầu như mỗi ngày đều tạo ra những khả năng mới cho những điều hôm qua vừa còn là không thể. Cho tới thời của chúng tôi, nhân loại, như là một tổng
thể, chưa bao giờ hành xử tàn ác hơn và cũng chưa bao giờ có những thành tựu tựa thần thánh như vậy.
Tôi thấy có nhiệm vụ phải chứng thực điều đó cho cuộc đời sôi động, đầy những bất ngờ mang tính bi kịch của chúng tôi, vì - tôi nhắc lại - ai cũng là nhân chứng của những biến đổi hết sức to lớn đó, ai cũng bị buộc phải là nhân chứng. Đối với thế hệ của chúng tôi thì không có tránh né, không có việc tự đặt mình ra rìa như những thế hệ trước đây; nhờ vào kỹ thuật truyền thông tức thời và đồng bộ mà chúng tôi luôn luôn bị cuốn vào dòng thời gian thực. Khi bom đánh sập những ngôi nhà ở Thượng Hải thì chúng tôi, ở châu Âu, trong những gian phòng của mình đã biết được điều đó trước khi người bị thương được mang ra khỏi nhà của họ. Những gì xảy ra cách xa hàng ngàn dặm, bên kia đại dương thật sự hiển hiện trước mắt chúng tôi. Không có che chắn, không có bảo vệ nào trước việc được thông tin và bị lôi cuốn một cách liên tục như vậy. Không có đất nước nào để chạy trốn, không có sự yên tĩnh nào có thể mua được, bàn tay của số phận luôn luôn vươn tới mọi ngóc ngách, nắm lấy chúng tôi và lôi chúng tôi trở vào trò chơi không phút ngưng nghỉ của nó.
Lúc nào người ta cũng phải xếp mình sau những yêu cầu của quốc gia, ném mình làm mồi cho chính sách chính trị ngu xuẩn nhất, thích ứng với những thay đổi tuyệt vời nhất, lúc nào cũng bị xiềng vào cái chung, bất chấp có chống cự kịch liệt tới đâu; người ta bị lôi đi, không thể kháng lại. Những ai đi qua khoảng thời gian đó, hay nói chính xác hơn là bị săn đuổi qua khoảng thời gian đó - chúng tôi không có mấy thời gian giải lao - thì chắc chắn đã trải nghiệm lịch sử hơn bất cứ tổ tiên nào của mình. Ngày nay chúng ta cũng lại đứng trước một bước ngoặt, một kết thúc và một khởi đầu mới. Vì vậy mà tôi hành động không phải là không có chủ đích, khi tôi tạm thời để cho lần nhìn lại cuộc đời mình dừng lại ở một ngày tháng nhất định. Vì cái ngày tháng 9 năm 1939 đó đã gạch dòng cuối cùng kết thúc thời kỳ tạo thành và giáo dục thế hệ những người ở độ tuổi sáu mươi chúng tôi. Nhưng nếu với lời chứng thực của mình, chúng tôi có thể truyền đạt lại cho thế hệ mai sau dù chỉ một mảnh vụn sự
thật từ cấu trúc đã tan rã của nó, thì cũng đã là không hoài công vô ích.
Tôi nhận thức được hoàn cảnh không thuận lợi, nhưng hết sức đặc trưng của thời chúng tôi, thời mà tôi tìm cách ghi lại từ những ký ức của tôi ở đây. Tôi viết chúng trong chiến tranh, tôi viết chúng ở chốn xa lạ và không có bất cứ thứ gì hỗ trợ cho ký ức. Trong gian phòng khách sạn của tôi, tôi không có lấy một quyển sách nào của tôi, không một ghi chép, không một lá thư của bạn bè. Tôi không thể lấy thông tin ở bất cứ đâu, vì thư tín từ nước này sang nước khác đã bị gián đoạn hay bị ngăn chặn bởi kiểm duyệt trên toàn thế giới. Chúng tôi sống cô lập như trước đây hàng trăm năm, trước khi tàu hơi nước, tàu hỏa và máy bay và bưu điện được phát minh ra. Tức là tất cả quá khứ của tôi, tôi không có gì lưu lại ở bên mình ngoài những gì ở trong đầu tôi. Tất cả những thứ khác đối với tôi ở thời điểm này là không thể tiếp cận được hay đã mất đi. Nhưng nghệ thuật không thương tiếc những thứ gì mất đi đã được thế hệ chúng tôi học thật kỹ, và có lẽ việc mất ghi chép và chi tiết thậm chí lại trở thành một lợi thế cho quyển sách của tôi. Vì tôi không xem ký ức như là một thứ chỉ tình cờ giữ thứ này lại và tình cờ đánh mất đi thứ khác, mà là một sức mạnh biết rõ cách sắp xếp trật tự và lược bỏ một cách khôn ngoan. Tất cả những gì người ta quên đi từ cuộc đời của chính mình thì thật ra là đã bị bản năng bên trong quyết định rằng phải quên. Chỉ những gì tôi muốn gìn giữ lại cho chính tôi thì mới có quyền được gìn giữ lại cho người khác. Vì vậy, hỡi các ký ức, hãy thay tôi nói và lựa chọn, hay ít nhất là hãy đưa ra một phản ánh cuộc đời tôi, trước khi nó chìm vào trong tối tăm!
Thế giới an bình
Lớn lên trong yên lặng và bình an
Bất chợt bị ném ra thế giới
Bị hàng ngàn con sóng bao quanh,
Luôn cảm thấy hấp dẫn, đôi lúc hài lòng
Đôi lúc chán ngán, và cảm giác bồn chồn
Thay đổi từ giờ này sang giờ khác
Chúng tôi cảm nhận, và những gì chúng tôi cảm nhận
Rửa sạch cái cảm giác thế giới sắc màu.
Goethe
Để mô tả khoảng thời gian trước Đệ nhất Thế chiến, thời tôi lớn lên, tôi cho rằng “thời hoàng kim của sự bình an” là súc tích và đích đáng nhất. Tất cả những gì trong nền quân chủ Áo gần một ngàn năm của chúng tôi dường như đều hướng đến sự trường tồn, và nhà nước chính là sự bảo đảm tối cao cho sự bền vững lâu dài. Những quyền mà nhà nước trao cho người dân được bảo đảm bởi quốc hội, đại diện được người dân tự lựa chọn bầu lên, và mỗi một nghĩa vụ đều được giới hạn rõ ràng. Tiền tệ của chúng tôi, đồng Krone Áo, lưu thông qua bản vị vàng và nhờ thế bảo đảm giá trị bất biến. Ai cũng biết mình có bao nhiêu tiền hay nhận được bao nhiêu, điều gì được phép và điều gì bị cấm. Tất cả đều có tiêu chuẩn, có kích thước và trọng lượng nhất định. Ai sở hữu tài sản thì có thể tính toán chính xác nó mang lại mỗi năm bao nhiêu tiền lãi, nhân viên nhà nước, sỹ quan thì có thể nhìn thấy trên lịch năm nào lên chức, năm nào về hưu. Mỗi gia đình đều có ngân sách nhất định, họ biết cần chi tiêu bao nhiêu cho nhà cửa và ăn uống, cho chuyến đi du
lịch mùa hè, hay để khoe khoang, và thể nào cũng dự trữ một khoản tiền nhỏ dành sẵn cho những sự cố bất ngờ, ốm đau và thăm khám. Ai có một ngôi nhà thì xem như đã có nơi chốn an toàn cho con cháu, trang trại và cửa hàng được truyền từ đời này sang đời khác; một em bé sơ sinh còn nằm nôi thì đã được để dành cho số tiền đầu tiên, trong ống tiết kiệm hay ở hợp tác xã tín dụng, làm vốn cho con vào đời, một “dự phòng” cho tương lai. Tất cả mọi thứ trong vương quốc rộng lớn này đều vững chắc và bất khả di dời tại nơi chốn của chúng, và ngự ở nơi tối cao là hoàng đế già nua; nhưng nếu nhà vua băng hà thì người ta biết (hay nghĩ) rằng sẽ có một hoàng đế khác nối ngôi và sẽ không có gì thay đổi cái trật tự đã được vạch ra trước đó. Không một ai tin vào chiến tranh, cách mạng hay đảo chính. Tất cả mọi điều cực đoan, những gì quá khích đều là không thể trong thời đại của lý trí này.
Cảm giác an toàn là sở hữu đáng vươn tới hàng đầu của hàng triệu người, là lý tưởng chung của cuộc sống. Chỉ khi có sự an toàn, cuộc sống mới được cho là đáng sống, và ngày càng có nhiều tầng lớp muốn có được tài sản quý báu này. Ban đầu, chỉ có những người có tiền của mới được hưởng sự ưu đãi đó, nhưng dần dần quần chúng cũng muốn có phần; thế kỷ của an toàn trở thành thời kỳ vàng son cho ngành bảo hiểm. Người ta đóng bảo hiểm cho ngôi nhà của mình để phòng ngừa hỏa hoạn hay trộm cắp, bảo hiểm đồng ruộng của mình phòng ngừa mưa đá và những thiệt hại khác do thời tiết gây ra, bảo hiểm thân thể trước tai nạn và bệnh tật, người ta mua niên kim cho tuổi già và mua bảo hiểm cho con gái ngay từ lúc lọt lòng để có món tiền hồi môn trong tương lai. Cuối cùng thậm chí giới công nhân cũng thành lập công đoàn, giành về cho mình một thang bảng lương được tiêu chuẩn hóa và bảo hiểm sức khỏe, những người đầy tớ dành dụm được một món bảo hiểm cho tuổi già và trả tiền trước vào quỹ chôn cất cho đám tang của chính mình. Chỉ những người có thể thanh thản nhìn tương lai mới có thể yên tâm hưởng thụ hiện tại.
Sống trong cái niềm tin khiến người ta cảm động ấy, và nghĩ rằng có thể che chắn cuộc sống của mình cho đến tận cái lỗ hổng cuối cùng, chống lại bất cứ rủi ro nào của số phận, là một sự kiêu
ngạo to lớn và nguy hiểm, bất chấp mọi tình đoàn kết và khiêm nhường trong quan niệm về cuộc sống. Thế kỷ 19, với lý tưởng tự do chủ nghĩa, thật sự tin rằng nó đang đi trên con đường thẳng tắp và bất khả lầm lạc, tiến tới “thế giới tốt đẹp nhất của mọi thế giới”. Người ta khinh miệt nhìn các thời kỳ trước với chiến tranh, nạn đói và loạn lạc như là một thời kỳ ấu trĩ của loài người, khi con người chưa trưởng thành và chưa được khai sáng. Nhưng giờ đây, đó chỉ còn là chuyện của vài thập niên nữa thôi, tới khi cái xấu và cái ác cuối cùng sẽ bị chế ngự, và niềm tin vào sự “tiến bộ” không ngừng, không gì cản nổi này thật sự là có sức mạnh sánh ngang với một tôn giáo vào thời đó; người ta tin vào sự “tiến bộ” hơn là vào Kinh thánh, và sách Phúc Âm của thứ tôn giáo tiến bộ này dường như được chứng thực rõ ràng qua những kỳ tích khoa học và kỹ thuật diễn ra hằng ngày. Thật sự là có thể nhìn thấy một sự tiến bộ chung ngày càng rõ nét hơn, nhanh hơn và đa dạng hơn. Trên đường phố, đèn điện chiếu sáng ban đêm thay thế những cây đèn tù mù, từ những con đường chính, các cửa hàng mang nét hào nhoáng quyến rũ mới ra đến tận ngoại ô, và nhờ điện thoại mà người ta có thể nói chuyện được với người ở xa, có thể đi trên những chiếc xe không ngựa kéo với những vận tốc mới, có thể bay lên trời cao, thỏa mãn giấc mơ của Icarus. Từ nhà của giới giàu có, tiện nghi đi vào nhà của dân thường, không còn phải đi lấy nước từ giếng hay sông ngòi, không còn phải cực nhọc nhóm lửa nấu ăn, không còn tình trạng mất vệ sinh lan tràn, dơ bẩn cũng biến mất. Con người trở nên đẹp hơn, khỏe hơn, ít đau ốm hơn, kể từ khi biết chơi thể thao rèn luyện thân thể, ngày càng ít thấy người què cụt, người kém phát triển, người tàn tật trên đường phố, và tất cả những điều kỳ diệu đó là do khoa học - viên tổng thiên thần của sự tiến bộ - mang lại. Đến cả trong lĩnh vực xã hội cũng có tiến bộ; mỗi năm, cá nhân nhận được nhiều quyền mới hơn, công lý phán xét khoan dung và nhân đạo hơn, và ngay cả vấn đề của mọi vấn đề, cái nghèo của dân chúng, dường như cũng không còn là bất khả giải quyết nữa. Ngày càng có nhiều tầng lớp nhận được quyền bầu cử và nhờ đó có khả năng bảo vệ lợi ích của mình một cách hợp pháp, các nhà xã hội học và giáo sư thi nhau giúp cải thiện cuộc sống của tầng lớp vô sản, làm nó giàu đẹp hơn, thậm chí hạnh phúc hơn - có gì đáng ngạc nhiên khi
thế kỷ này đang hưởng thụ những thành tựu của nó và mỗi một thập niên qua lại cảm nhận như mở ra một thập niên tốt đẹp hơn? Người ta không còn tin vào những bước thụt lùi dã man như chiến tranh giữa các dân tộc châu Âu nữa, cũng không còn tin vào phù thủy và ma quỷ; cha ông chúng tôi tràn đầy niềm tin vào sức mạnh ràng buộc không thể sai lầm của sự khoan dung và hòa giải. Họ thật thà nghĩ rằng ranh giới của những sự khác nhau giữa các quốc gia và tôn giáo dần dà sẽ tan chảy vào trong một tình nhân đạo chung và qua đó toàn thể nhân loại sẽ có được hòa bình và an toàn, những tài sản quý giá nhất.
Chúng tôi của ngày hôm nay, những người từ lâu đã gạch bỏ “an toàn” khỏi vốn từ của mình như gạch bỏ một bóng ma, dễ dàng cười nhạo sự lạc quan điên rồ của thế hệ mù quáng vì lý tưởng đó: cho rằng sự tiến bộ thần tốc về kỹ thuật của loài người nhất định sẽ dẫn tới một tiến bộ kỳ tích như vậy về đạo đức. Chúng tôi, những người đã học được trong thế kỷ mới rằng sẽ không một lần bùng phát thú tính tập thể nào có thể gây ngạc nhiên cho mình nữa, hoài nghi hơn rất nhiều về việc có thể giáo dục đạo đức được cho con người. Chúng tôi phải đồng ý với Freud, khi ông nhìn nhận nền văn hóa của chúng ta, nền văn minh của chúng ta là vô cùng mong manh và bất cứ lúc nào cũng có thể bị những thế lực phá hoại của địa ngục xuyên thủng, chúng tôi dần dần đã phải quen với việc sống mà không có một nền tảng chắc chắn, không có quyền, không có tự do, không có an toàn. Để sống, lâu nay chúng tôi đã từ bỏ tín ngưỡng của cha ông, từ bỏ niềm tin vào sự vươn lên nhanh chóng và vững bền của chủ nghĩa nhân đạo; chúng tôi cảm thấy những rao giảng lạc quan quá vội vàng này thật khiêm nhường khi đối diện với cái thảm họa mà chỉ giáng một đòn duy nhất, đã phá hủy hàng ngàn năm nỗ lực của con người. Nhưng dẫu chỉ là sự điên khùng, thì đó cũng là một sự điên khùng tuyệt vời và cao cả mà cha ông chúng tôi đã phụng sự, nhân đạo hơn và nhiều thành quả hơn những khẩu hiệu ngày nay. Và có gì đó trong tôi vẫn lưu luyến nó một cách thật khó hiểu, mặc cho đã nhận thức và đã thất vọng. Những gì ta đã hấp thụ từ bầu không khí của thời kỳ đó vào trong máu từ khi còn trẻ thơ thì khó lòng đào thải ra ngoài. Và mặc cho tất cả những gì
đập vào tai tôi hằng ngày, những sỷ nhục và thử thách mà chính tôi và vô số những người chung số phận phải trải qua, tôi vẫn không thể gạt bỏ hoàn toàn niềm tin thời trẻ, rằng mọi thứ rồi sẽ lại đi lên mặc cho tất cả và tất cả. Ngay cả khi ở dưới đáy vực thẳm của sự kinh hoàng, nơi mà ngày nay chúng tôi, nửa mù lòa, đang mò mẫm đi với tâm hồn rối loạn và tan nát, tôi luôn ngẩng nhìn lên những chòm sao cũ đó, những thứ đã từng lấp lánh suốt tuổi thơ của tôi, và tự an ủi mình với niềm tin được kế thừa rằng lần thụt lùi hiện nay sẽ chỉ là một khoảng dừng trong nhịp điệu muôn thuở của tiến lên và tiến lên.
Hôm nay, khi cơn giông tố khốc liệt đã đập tan nó từ lâu, chúng tôi biết chắc rằng thế giới an toàn đó chỉ là một lâu đài trong mơ. Nhưng cha mẹ tôi đã sống trong đó như trong một ngôi nhà gạch. Không có cơn giông bão hay cuồng phong nào ập vào cuộc sống ấm áp, dễ chịu của họ; tất nhiên, họ còn có một tấm bình phong đặc biệt: họ là những người giàu có, ngày càng giàu lên và thậm chí rất giàu; vào thời đó, điều này đã gia cố cửa nẻo, tường vách cho ngôi nhà của họ. Với tôi, lối sống của họ thật đặc trưng cho cái được gọi là “tư sản Do Thái tốt”, đã mang lại cho nền văn hóa Wien những giá trị hết sức cơ bản, và để tưởng niệm cho điều đã bị xóa sổ hoàn toàn, khi tường thuật cuộc đời nhàn nhã và im lặng của họ, tôi kể lại một điều không chỉ là riêng tư: giống cha mẹ tôi, có hàng chục ngàn hay hai chục ngàn gia đình đã sống ở Wien trong thế kỷ của những giá trị được bảo đảm đó.
Gia đình cha tôi gốc gác ở Mähren. Trong những thị trấn làng mạc ở đó, cộng đồng người Do Thái sống hòa hợp với người nông dân và tầng lớp trung lưu; vì vậy họ hoàn toàn không có tính buồn bã và cũng không có sự nôn nóng muốn chen lên phía trước của những người Do Thái vùng Galicia hay vùng phía Đông. Mạnh mẽ và tràn đầy sinh lực nhờ cuộc sống đồng quê, họ bước đi nhàn tản và bình thản trên con đường ra đồng giống như những người nông dân quê họ. Được giải phóng khỏi tôn giáo chính thống từ sớm, họ là những người hào hứng đi theo tín ngưỡng của “sự tiến bộ” thời ấy và trong thời của chủ nghĩa tự do đã đưa được những đại biểu đáng kính nhất vào quốc hội. Khi chuyển về Wien sinh sống, họ thích ứng
với tầng văn hóa cao hơn ở đây nhanh đến kinh ngạc, và sự tiến bộ của họ gắn kết chặt chẽ với sự tiến bộ chung của thời đó. Gia đình tôi cũng là điển hình cả trong hình thái chuyển đổi này. Ông nội tôi buôn bán hàng thủ công. Thế rồi nền kinh tế công nghiệp bắt đầu ở Áo nửa sau thế kỷ. Máy dệt và máy kéo sợi cơ khí nhập từ Anh quốc, nhờ làm tăng hiệu quả mà đã giúp giảm giá đáng kể khi so với cách dệt thủ công cũ, và với sự nhanh nhạy trong thương mại, và tầm nhìn xa trông rộng đã thành danh, các thương gia Do Thái là những người đầu tiên nhận ra tính cần thiết và hiệu quả của việc chuyển sang sản xuất công nghiệp. Khởi đầu với một số vốn nhỏ, họ thành lập những nhà máy tạm thời đó, lúc đầu chỉ vận hành bằng sức nước, rồi dần dần mở rộng, hình thành nền công nghiệp dệt may hùng mạnh vùng Bohemia, thống trị toàn nước Áo và vùng Balkans. Tức là trong khi ông nội tôi, đại diện điển hình của thời kỳ trước, chỉ mua bán thành phẩm thì cha tôi quyết tâm bước sang thời kỳ mới, xây một xưởng dệt nhỏ ở Bắc Bohemia vào năm ba mươi ba tuổi, và từ xưởng này, dần dần và thận trọng mở rộng thành một công ty lớn.
Cái cách mở rộng thận trọng như thế, dù cho tình hình kinh tế thuận lợi ra sức cám dỗ, cũng là đặc trưng cho thời kỳ đó. Ngoài ra, nó cũng còn hết sức phù hợp với bản tính dè dặt và không tham lam của cha tôi. Ông đã tiếp nhận cương lĩnh thời kỳ của ông, “an toàn trên hết”; đối với ông, sở hữu một công ty “vững chắc” - đó cũng là một từ được yêu thích thời đó - từ số vốn có trong tay quan trọng hơn là tăng quy mô nhờ các khoản vay ngân hàng hay thế chấp nhà đất. Việc cả đời chưa từng có ai thấy tên ông trên một tờ giấy nợ hay hối phiếu cũng như luôn luôn có số dư trong tài khoản ngân hàng - tất nhiên là một trong những ngân hàng chắc chắn nhất, ngân hàng Rothschild - là niềm hãnh diện nhất của ông. Ông chống lại bất cứ khoản lợi nào có bóng dáng, dù mờ nhạt nhất, của rủi ro, và qua bao năm tháng cuộc đời, ông chưa từng tham gia vào một vụ kinh doanh lạ thường nào. Dù vậy, ông vẫn giàu lên và ngày càng giàu hơn, hoàn toàn không phải là nhờ những vụ đầu cơ táo bạo hay những hoạt động có tầm nhìn xa đặc biệt, mà chỉ nhờ thích ứng với cách thức chung của thời kỳ thận trọng đó, chỉ tiêu dùng một phần
khiêm tốn của thu nhập và qua năm tháng đã tích lũy được vốn liếng ngày một lớn. Như phần lớn người cùng thời, cha tôi sẽ xem một người là phung phí đáng ngại khi anh ta vô tư tiêu hết nửa thu nhập của mình mà không - đây cũng là một chữ thường gặp ở kỷ nguyên của sự an toàn - “nghĩ đến tương lai”. Nhờ luôn để dành lại lợi nhuận nên trong kỷ nguyên của sự thịnh vượng đó, thời mà một mặt, nhà nước không tính đến việc cắt nhiều hơn một vài phần trăm từ những khoản thu nhập cao nhất và mặt khác thì các giá trị của nhà nước và của công nghiệp mang lại thật nhiều lợi nhuận, nên đối với những người giàu có, việc ngày một giàu hơn thật ra chỉ là một thành tích thụ động. Và việc đó cũng đáng; người tiết kiệm vẫn còn chưa bị đánh cắp, kẻ chân thật vẫn còn chưa bị lừa đảo như trong thời lạm phát, và chính những người kiên nhẫn nhất, những người không đầu cơ thì lại có được lợi nhuận cao nhất. Nhờ thích ứng với hệ thống chung trong thời của mình, cha tôi được xem như là một người rất giàu có, ngay cả theo khái niệm quốc tế. Nhưng điều kiện sống của gia đình chúng tôi so với mức độ tăng lên của tài sản chỉ nhích lên hết sức chậm chạp. Dần dần, nhiều tiện nghi nhỏ được thêm vào, chúng tôi dọn từ một căn hộ nhỏ sang một căn hộ lớn hơn, vào mùa xuân, chúng tôi thuê một chiếc xe để đi dạo buổi chiều, đi du lịch hạng hai trong toa nằm, và mãi đến năm năm mươi tuổi, cha tôi mới cho phép mình hưởng thụ lần đầu tiên, bằng cách đi nghỉ đông ở thành phố Nizza với mẹ tôi một tháng trời. Nhìn chung, cách sống cơ bản, tức là tận hưởng sự giàu có bằng cách sở hữu nó chứ không phô bày nó, vẫn hoàn toàn không thay đổi; kể cả khi đã là triệu phú, cha tôi vẫn chưa từng hút một điếu thuốc lá nhập khẩu - giống như Hoàng đế Franz Joseph vẫn hút loại thuốc lá Virginia rẻ tiền - ông vẫn hút Trabuco bình dân, và khi ông chơi bài thì bao giờ cũng chỉ đặt những món tiền nhỏ. Ông cương quyết giữ tính dè dặt, cuộc sống dễ chịu nhưng kín đáo của ông. Mặc dù có thể phô trương hơn và có học nhiều hơn phần lớn các đồng nghiệp - ông chơi dương cầm xuất sắc, viết tốt, biết nói tiếng Pháp và tiếng Anh - ông vẫn nhất quyết từ chối mọi danh tiếng và chức vụ danh dự, cả đời không màng cũng không nhận bất kỳ một danh hiệu, một chức vụ nào người ta muốn trao cho ông, đơn cử như là nhà tư bản công nghiệp lớn. Không bao giờ xin ai một thứ gì, không bao giờ
buộc phải nói “làm ơn” hay “cảm ơn”, đối với ông, niềm hãnh diện thầm kín này quan trọng hơn bất cứ danh hiệu nào.
Trong cuộc đời của bất cứ ai, đến một lúc nào đó, ta chắc chắn sẽ nhìn thấy hình ảnh người cha trong chính mình. Cách sống hướng đến sự riêng tư, sự vô danh bắt đầu phát triển mạnh hơn ở tôi qua năm tháng, mặc dù nó hết sức mâu thuẫn với nghề nghiệp của tôi, cái nghề mà tên tuổi và cá nhân nhất định phải công khai. Nhưng cũng từ cùng một niềm tự hào thầm kín đó mà tôi luôn từ chối bất cứ hình thức nào của sự vinh danh bề ngoài, không nhận bất cứ huy chương, danh hiệu nào, bất cứ chức vụ đứng đầu một hiệp hội nào, chưa từng thuộc một viện hàn lâm, ban giám đốc hay ban giám khảo nào; ngay cả việc ngồi vào một bàn tiệc đối với tôi cũng là cực hình, và chỉ ý nghĩ nhờ ai một điều gì đó thôi cũng đã làm môi tôi khô khốc trước khi mở được lời - ngay cả khi đó là tôi xin cho một người khác. Tôi biết, sự ngại ngùng như vậy thật là lỗi thời trong một thế giới chỉ có thể còn có tự do qua mưu mẹo và trốn chạy, nơi mà như cha già Goethe đã nói, “huy chương và danh hiệu có thể cản được lần đánh rắm nào đó trong đám đông”. Nhưng đó chính là người cha của tôi trong tôi và niềm tự hào thầm kín của ông, cái đã ép tôi lui lại, và tôi không được phép chống lại nó; vì nhờ nó mà tôi cảm nhận được tài sản có lẽ là duy nhất của tôi: cảm giác tự do ở nội tâm.
Mẹ tôi, họ thời con gái là Brettauer, có xuất thân khác, một xuất xứ ngoại quốc. Bà sinh ra ở Ancona, miền Nam nước Ý, và bên cạnh tiếng Đức, tiếng Ý cũng là tiếng nói thời thơ ấu của bà; bất cứ lúc nào cần bàn chuyện với bà ngoại tôi hay với chị mà không muốn cho người hầu biết thì bà sẽ chuyển sang nói tiếng Ý. Ngay từ thời thơ ấu, tôi đã quen thuộc với món cơm risotto và atisô mà thời đó vẫn còn hiếm như những đặc sản phương Nam khác, và sau này, lần nào sang Ý, tôi cũng có cảm giác như ở nhà ngay từ giờ phút đầu tiên. Nhưng gia đình mẹ tôi hoàn toàn không chỉ ở Ý, mà cố tình muốn có tính đa quốc gia; dòng họ Brettauer, ban đầu có một ngân hàng - theo gương các gia đình chủ ngân hàng lớn người Do Thái, nhưng tất nhiên là với quy mô nhỏ hơn rất nhiều - ở Hohenems, một thị trấn nhỏ cạnh biên giới với Thụy Sỹ, đã sớm phân tán ra khắp thế
giới. Người thì sang St. Gallen, người sang Wien và Paris, ông ngoại tôi sang Ý, một ông chú khác sang New York, và mối liên lạc quốc tế đó đã mang lại cho họ một cách kinh doanh tốt hơn, tầm nhìn xa hơn và thêm vào đó là một sự kiêu ngạo nhất định trong gia đình. Trong gia đình này không có thương gia nhỏ, không có người môi giới, chỉ có chủ ngân hàng, giám đốc, giáo sư, luật sư và bác sỹ, ai cũng nói được nhiều thứ tiếng, và tôi vẫn nhớ họ chuyển từ tiếng này sang tiếng khác tự nhiên đến thế nào trong lúc quây quần bên bàn ăn ở nhà dì tôi tại Paris. Đó là một gia đình có lòng “tự trọng” cao, và khi một cô gái trẻ trong vòng họ hàng nghèo hơn đến tuổi lấy chồng, thì toàn thể gia đình sẽ cùng nhau tặng thật nhiều của hồi môn, chỉ để tránh cho cô lấy phải chồng “hạng dưới”. Là một nhà đại tư bản công nghiệp, cha tôi tuy được tôn trọng, nhưng mẹ tôi, dù gắn bó với ông trong cuộc hôn nhân viên mãn, cũng không bao giờ để họ hàng của ông ngang hàng với họ hàng của bà. Niềm tự hào xuất thân “danh giá” đó, là không thể tẩy xóa ở bất cứ người nào trong dòng tộc Brettauer, và trong những năm sau này, khi một người trong số họ muốn biểu lộ thiện cảm đặc biệt của mình với tôi, anh ta nói: “Xét cho cùng thì anh là người nhà Brettauer”, giống như anh ta muốn công nhận: “Thật ra may là anh đã rơi vào đúng nhà đấy”.
Phong cách quý tộc đó, cái mà những gia đình Do Thái khoác vào người khi có trong tay quyền lực, khiến cho tôi và anh tôi vừa buồn cười vừa bực dọc. Chúng tôi luôn phải nghe, rằng những người này là “danh giá” và những người kia là “không danh giá”, bất cứ người bạn nào cũng bị dò xét xem có xuất thân “danh giá” hay không và truy gốc gác cho tới mắt xích cuối cùng về gia phả cũng như gia sản. Lối phân hạng đó, đề tài chính của bất cứ cuộc trao đổi nào trong gia đình hay ngoài xã hội, với chúng tôi hết sức nực cười và trưởng giả, vì rốt cuộc tất cả các gia đình Do Thái chỉ khác nhau ở một điểm là họ rời khỏi cùng một khu phố Do Thái cách đây năm mươi hay một trăm năm. Mãi sau này tôi mới hiểu cái khái niệm gia đình “danh giá” đó, cái mà đối với bọn trẻ chúng tôi chỉ là trò hề nhại lại một tầng lớp quý tộc giả tạo, thật ra là biểu hiện của một trong những khuynh hướng sâu kín nhất và bí ẩn nhất của bản tính
Do Thái. Người ta thường hay cho rằng làm giàu là mục đích sống thật sự và đặc trưng của người Do Thái. Hoàn toàn sai lầm. Trở thành giàu có chỉ là một bước đệm, một phương tiện dẫn đến mục đích thật sự chứ hoàn toàn không phải là mục tiêu trong thâm tâm. Mong muốn thật sự của người Do Thái, lý tưởng nội tại của anh ta là thăng tiến tri thức, thâm nhập vào một tầng lớp văn hóa cao hơn. Ngay những người Do Thái chính thống phương Đông, nơi mà điểm yếu cũng như điểm mạnh của chủng tộc hiện ra rõ rệt hơn, thì sự thống trị của ý muốn thăng tiến về tri thức chứ không chỉ về vật chất cũng được biểu hiện sinh động: người sùng đạo, học giả về Kinh thánh được cộng đồng xem trọng gấp ngàn lần người giàu có; ngay cả người giàu có nhất cũng thích gả con gái cho người nghèo nhưng có tri thức hơn là gả cho thương gia. Việc đặt tri thức lên trên này có ở mọi tầng lớp người Do Thái; kể cả người bán dạo nghèo khổ nhất, người phải dãi dầu mưa gió mang hàng hóa đi bán, cũng sẽ gắng hy sinh mọi thứ để cho ít nhất một đứa con được đi học đại học, và nhà nào có người làm tới giáo sư, học giả, nhạc sỹ, thì thực sự nở mày nở mặt, cứ như thể qua thành tích của mình, người đó đã làm vẻ vang cả gia đình. Có thứ gì đó trong con người Do Thái vô thức tìm cách thoát khỏi những gì đáng ngờ về đạo đức, những gì bất lợi, nhỏ nhen và phi tri thức để vươn mình đến phạm vi phi tiền bạc, tinh khiết hơn của tri thức, như thể anh ta - táo bạo mà nói - muốn giải thoát mình và toàn thể chủng tộc khỏi lời nguyền rủa của tiền bạc. Vì vậy mà trong cộng đồng người Do Thái, lòng ham muốn vươn tới giàu sang lúc nào cũng cạn kiệt sau hai, nhiều lắm là ba thế hệ trong một gia đình, và chính những dòng họ đầy quyền lực thì lại thấy những người con trai của mình không muốn tiếp nhận các ngân hàng, nhà máy, các cửa hàng kinh doanh phát đạt đã được mở rộng của người cha. Không phải ngẫu nhiên khi một người nhà Lord Rothschild trở thành nhà điểu học, một người Wartburg trở thành sử gia nghệ thuật, một Cassirer trở thành triết gia, một Sassoon thành nhà thơ; tất cả họ đều tuân theo cùng một bản năng vô thức, tự giải phóng mình khỏi những gì hạn chế người Do Thái, giải phóng mình khỏi việc lạnh lùng kiếm tiền, và có lẽ qua đó thậm chí còn biểu lộ một ao ước thầm kín, muốn thông qua cuộc chạy trốn vào tri thức để tách mình ra khỏi giới thuần túy Do Thái và đi vào giới người nói
chung. Tức là một gia đình “danh giá” có ý nghĩa nhiều hơn là thân thế xã hội mà chính họ nhìn họ ở địa vị đó; họ muốn nói đến một giới Do Thái đã giải thoát mình hay đang bắt đầu giải thoát mình ra khỏi tất cả những khuyết tật và hẹp hòi và nhỏ mọn mà sự sống trong khu phố Do Thái đã ép buộc họ phải có, nhờ thích ứng vào một nền văn hóa khác, và có thể là một nền văn hóa phổ quát hơn. Cuộc trốn chạy vào tri thức này, mà một sự quá tải không cân xứng của các ngành nghề trí thức đã phát sinh ra từ đó, đã trở thành tai họa cho người Do Thái giống như những khó khăn về vật chất trước đó của họ, đây là một trong những nghịch lý muôn đời của số phận Do Thái[1].
Hầu như không thành phố châu Âu nào mong muốn vươn đến văn hóa mãnh liệt hơn Wien. Chính vì chế độ quân chủ, vì nước Áo từ hàng thế kỷ nay không có tham vọng chính trị lẫn thành tựu đặc biệt trong các hoạt động quân sự nên niềm tự hào dân tộc đã quay sang ao ước thống trị về mặt nghệ thuật. Những tỉnh quan trọng nhất và có giá trị nhất của vương triều Habsburg, vương triều từng thống trị châu Âu, đã tách khỏi Áo từ lâu, Đức và Ý, Flanders và Wallonis; chỉ thủ đô là vẫn còn nguyên vẹn trong nét hào nhoáng xưa cũ, nơi nương náu của hoàng cung, người gìn giữ truyền thống lâu đời hàng ngàn năm. Người La Mã đã dựng những viên đá đầu tiên của thành phố này, như là một Castrum, một tiền đồn, để bảo vệ nền văn minh Latin trước những bộ tộc man rợ, và hơn một ngàn năm sau đó, đợt tấn công từ phương Tây của Ottoman đã tan vỡ trước những tưởng thành này. Người Nibelung đã đến đây, chòm sao Thất Nữ bất tử của âm nhạc đã chiếu sáng xuống thế giới từ đây, Gluck, Haydn và Mozart, Beethoven, Schubert, Brahms và Johann Strauß, tất cả những dòng văn hóa châu Âu đã chảy về đây; trong hoàng cung, trong giới quý tộc, trong dân chúng, tính Đức hòa trộn với tính Xla-vơ, Hungary, Tây Ban Nha, Ý, Pháp, Flanders ở trong máu, và đó thật sự là cái thiên tài của thành phố âm nhạc này, hòa tan tất cả những sự tương phản đó một cách hài hòa vào trong một cái mới và độc nhất vô nhị, vào trong Áo, trong Wien. Muốn tiếp nhận và được trao cho năng khiếu tiếp nhận, thành phố này lôi kéo về mình những lực mạnh tương phản nhất, nới lỏng, tháo lỏng, xoa
dịu chúng; sống ở đây, trong bầu không khí của sự hòa giải tinh thần này thật là dễ chịu, và mỗi một công dân của thành phố đã vô tình được giáo dục để trở thành một công dân siêu quốc gia, một công dân quốc tế, một công dân thế giới.
Nghệ thuật của sự hòa hợp đó, của những chuyển tiếp mềm mại và âm nhạc, thể hiện rõ ở vẻ ngoài của thành phố. Tăng trưởng chậm chạp suốt nhiều thế kỷ, tự thân tự lực phát triển, với hai triệu dân, đủ để có mọi thứ xa hoa và tính đa dạng của một thành phố lớn, nhưng không khổng lồ đến mức tách rời khỏi thiên nhiên như London hay New York. Những ngôi nhà cuối cùng trong thành phố phản chiếu xuống dòng sông Donau hùng vĩ hay nhìn ra đồng bằng rộng lớn hay hòa vào giữa những khu vườn và cánh đồng trù phú hay cheo leo trên những sườn đồi thoai thoải trong những nhánh núi xanh cuối cùng của dãy núi Alps; người ta hầu như không cảm nhận được thiên nhiên bắt đầu từ đâu, thành phố bắt đầu từ đâu, cái này hòa vào trong cái kia không có sự kháng cự và chống đối. Ở bên trong thì người ta lại cảm nhận được rằng thành phố này tăng trưởng như cây cối, hết vòng này đến vòng khác; và thay cho những thành lũy cũ là một con đường vành đai bao bọc lấy cái lõi tận cùng bên trong, quý giá nhất, với những tòa nhà lộng lẫy. Ở trong đó, các dinh thự cũ của hoàng cung và của giới quý tộc kể những câu chuyện lịch sử đã hóa thành đá; Beethoven đã chơi đàn ở đây, tại gia đình Lichnowsky, Haydn đã là khách ở đây, tại gia đình Esterházy, bản “Sáng Thế” của Haydn đã vang lên lần đầu tiên ở kia, trong trường Đại học cũ, hoàng cung đã trải qua nhiều đời hoàng đế, lâu đài Schönbrunn đã tiếp đón Napoléon, các hầu tước hợp nhất của thế giới Ki-tô đã quỳ xuống trong Thánh đường Stefan để tạ ơn Chúa cứu vớt trước người Thổ Nhĩ Kỳ, trường Đại học đã chứng kiến vô số những ngọn đèn tỏa sáng của khoa học bên trong các bức tường của nó. Nổi lên ở chính giữa, tự hào và lộng lẫy là những đại lộ nhấp nháy ánh đèn và những cửa hàng óng ánh theo phong cách kiến trúc mới. Nhưng ở đây, cái cũ không phàn nàn cái mới cũng như viên đá không phàn nàn thiên nhiên hoang sơ. Sống ở đây thật tuyệt vời, thành phố đón nhận mọi thứ xa lạ mà không coi chúng là khách và cũng thích cho đi, người ta hưởng thụ cuộc sống
tự nhiên hơn trong bầu không khí nhẹ nhàng, tràn ngập vui vẻ, tựa như bầu không khí ở Paris. Wien là một thành phố hưởng thụ, nhưng văn hóa có nghĩa gì khác ngoài việc từ vật liệu thô sơ của cuộc sống mà tạo nên cái tinh tế nhất, cái mềm mại nhất, cái huyền ảo nhất bằng nghệ thuật và tình yêu? Thích thưởng thức ẩm thực, một ly vang ngon, một cốc bia tươi đăng đắng, đồ ngọt và bánh kem, người Wien cũng có yêu cầu cao với những thứ tinh tế khác trong thành phố này. Soạn nhạc, khiêu vũ, biểu diễn trên sân khấu, đàm thoại, cư xử trang nhã và thanh lịch, tất cả đều được giữ gìn như một nghệ thuật đặc biệt. Không phải quân sự, không phải chính trị, không phải thương mại chiếm ưu thế trong cuộc sống cá nhân hay đời sống xã hội; mỗi buổi sáng, cái nhìn đầu tiên của một cư dân Wien bình thường vào trong tờ báo không phải là những cuộc thảo luận trong Quốc hội hay các sự kiện xảy ra trên thế giới mà là phần tiết mục sân khấu, cái chiếm hữu một phần thật quan trọng trong đời sống công cộng mà đối với những thành phố khác thì điều ấy thật là khó hiểu. Vì Nhà hát Hoàng cung, Burgtheater, đối với người dân Wien, đối với người Áo, không chỉ là một sân khấu, nơi các diễn viên biểu diễn kịch ở trên đó; nó là cái vũ trụ vi mô phản chiếu cái vũ trụ vĩ mô, ánh sáng phản chiếu nhiều màu, mà xã hội xem xét chính mình ở trong đó, “người tình” thật sự và duy nhất của sở thích cái hay cái đẹp. Ở các diễn viên Nhà hát Hoàng cung, khán giả nhìn thấy những chuẩn mực về cách ăn mặc, cách bước vào một gian phòng ra sao, cách đàm thoại thế nào, dùng những câu nói nào thì mới có phong thái của một người nhã nhặn, và cần tránh những từ ngữ nào; chứ không chỉ đơn thuần là một chốn tiêu khiển, sân khấu là một hướng dẫn biết nói và sống động cho cách ứng xử lịch thiệp, cách phát biểu đúng đắn, và một bầu không khí kính trọng, giống như hào quang, bao phủ lấy tất cả những gì có liên quan tới Nhà hát Hoàng cung, dù mối liên quan đó có xa tới đâu đi nữa. Ông thủ tướng, hay nhà đại tư bản giàu có nhất có thể đi trên đường phố Wien mà không ai quay lại nhìn; nhưng một diễn viên của Nhà hát Hoàng cung, một ca sỹ opera thì bất cứ cô bán hàng nào, bất cứ ông đánh xe ngựa nào cũng đều nhận ra; chúng tôi, những đứa trẻ, hãnh diện khoe nhau khi trông thấy một người trong số họ đi ngang qua (mà đứa nào cũng sưu tập hình ảnh, chữ ký của họ), và sự
sùng bái cá nhân gần như tôn giáo này lan sang cả những người xung quanh họ; người thợ cắt tóc của Sonnenthal, tài xế xe ngựa của Josef Kainz cũng được kính nể theo, trai thanh gái lịch hãnh diện khi mặc quần áo từ cùng một người thợ may với họ. Bất cứ một lễ kỷ niệm, một đám tang của một diễn viên nổi tiếng nào cũng trở thành một sự kiện làm lu mờ mọi diễn biến chính trị. Có tác phẩm được biểu diễn ở Burgtheater là giấc mơ tột đỉnh của mọi nhà văn ở Wien, vì nó có ý nghĩa như được nâng lên hàng quý tộc suốt đời và đi cùng với nó là một loạt các danh dự, như có vé vào cửa suốt đời được mời đến dự tất cả các sự kiện công khai; trở thành khách trong nhà của hoàng đế, và tôi vẫn còn nhớ cái long trọng của lần chính tôi được bước vào đó. Buổi sáng, ông giám đốc Burgtheater mời tôi đến văn phòng, để - sau những lời chúc mừng - thông báo cho tôi biết vở bi kịch của tôi đã được Burgtheater chấp nhận; khi tôi trở về nhà lúc chiều tối, tôi thấy tấm danh thiếp của ông trong căn hộ của mình. Ông đã chính thức đến thăm đáp lại tôi, một chàng trai hai mươi sáu tuổi, tác giả của sân khấu hoàng cung, chỉ qua lần chấp thuận đó mà tôi đã trở thành một “gentleman”, một người mà giám đốc của một viện hoàng gia phải đối đãi như người ngang hàng. Và những gì xảy ra trong nhà hát đều ít nhiều liên quan đến mỗi một cá nhân, thậm chí đến cả người không có can hệ trực tiếp nào hết. Như tôi còn nhớ thuở nhỏ, bà bếp nhà chúng tôi ngày nọ đã lao vào phòng với đôi mắt đẫm lệ: người ta vừa cho bà biết rằng Charlotte Wolter - nữ diễn viên nổi tiếng nhất của Burgtheater - đã qua đời. Điều kỳ cục nhất của cơn đau buồn này là việc bà đầu bếp già, đọc chữ không thạo này tất nhiên chưa từng đến Burgtheater một lần, cũng chưa từng nhìn thấy Wolter dù trên sân khấu hay ở ngoài đời thực; nhưng một nữ diễn viên nổi tiếng ở Wien thuộc sở hữu cộng đồng của toàn thành phố, tới mức người không liên quan cũng đau buồn trước cái chết của bà. Mỗi sự ra đi của một ca sỹ hay nghệ sỹ được yêu thích đều biến thành một nỗi tang thương cho quốc gia. Và khi ngôi nhà Burgtheater “cũ”, nơi mà vở opera Hochzeit des Figaro (Đám cưới của Figaro) của Mozart vang lên lần đầu tiên, bị đập bỏ, thì cả xã hội Wien đã tụ họp một cách kính cẩn và đầy xúc động trong các gian phòng như tham dự một tang lễ; và khi tấm màn hạ xuống thì ai cũng lao lên sân khấu, hòng mang về nhà một
vài mảnh gỗ nhỏ từ nơi mà các nghệ sỹ yêu quý của họ đã biểu diễn như là di vật, và nhiều thập niên sau đó, trong hàng chục ngôi nhà của người dân, người ta vẫn còn thấy các mảnh gỗ này được cất giữ trong những hộp tráp nhỏ đắt tiền, giống như những mảnh gỗ của Thập Tự Giá thiêng liêng trong các nhà thờ. Bản thân chúng tôi cũng đã không hành động lý trí hơn nhiều lắm khi cái được gọi là Sảnh Bösendorf bị giật sập.
Bản thân gian sảnh hòa nhạc nhỏ này, chỉ dành cho nhạc thính phòng, chỉ là một công trình xây dựng hoàn toàn phi nghệ thuật, không quan trọng, trước kia là trường dạy cưỡi ngựa của hầu tước Liechtenstein, và người ta chỉ làm cho nó phù hợp với các mục đích âm nhạc bằng một cách hoàn toàn không hoa mỹ là ốp một lớp gỗ. Nhưng nó có âm hưởng của một cây vĩ cầm cũ, đối với những người yêu âm nhạc thì nó là một chốn thiêng liêng, vì Chopin và Brahms, Liszt và Rubinstein đã biểu diễn ở đó, vì nhiều bản nhạc cho bộ tứ nổi tiếng đã vang lên lần đầu tiên ở đó. Và bây giờ thì nó phải nhường chỗ cho một công trình xây dựng mới; thật không thể tin được đối với chúng tôi, những người đã trải qua những giờ khó quên ở đó. Khi những giai điệu cuối cùng của Beethoven được ban nhạc Rosé-Quartett biểu diễn tuyệt diệu hơn bao giờ hết vang lên, không một ai rời chỗ của mình. Chúng tôi huyên náo, vỗ tay tán thưởng, nhiều quý bà bật khóc vì xúc động, không ai muốn chấp nhận rằng đây là lần từ giã. Người ta tắt đèn trong sảnh để tiễn chúng tôi. Không ai trong số bốn hay năm trăm người hâm mộ cuồng nhiệt rời khỏi chỗ. Chúng tôi ở lại đó nửa giờ, một giờ, giống như qua sự hiện diện của mình buộc người ta phải cứu lấy gian phòng thiêng liêng cũ kỹ đó. Và thời sinh viên, với thỉnh nguyện thư, với những cuộc biểu tình, với những bài tiểu luận, chúng tôi đã đấu tranh để ngôi nhà nơi Beethoven qua đời không bị phá hủy! Mỗi một ngôi nhà lịch sử đó ở Wien giống như một mảnh nhỏ tâm hồn mà người ta đã giật ra khỏi thân thể của chúng tôi.
Sự cuồng nhiệt dành cho nghệ thuật đó, và đặc biệt là nghệ thuật sân khấu, hiện diện trong mọi tầng lớp dân chúng ở Wien. Với truyền thống hàng trăm năm của nó, chính bản thân Wien cũng được phân tầng lớp rõ ràng và đồng thời - như tôi đã có lần viết -
cũng được sắp xếp hết sức tuyệt vời. Bục nhạc trưởng vẫn còn thuộc về hoàng gia. Cung điện hoàng gia là trung tâm không chỉ trong ý nghĩa không gian mà còn cả trong ý nghĩa văn hóa của tính siêu dân tộc của chế độ quân chủ. Các dinh thự của giới thượng lưu quý tộc Áo, Ba Lan, Séc, Hungary bao xung quanh cung điện giống như một thành lũy thứ hai. Rồi còn cả “xã hội tốt”, bao gồm giới quý tộc nhỏ, nhân viên cao cấp của nhà nước, giới tư sản công nghiệp và thương gia ở gần Đường Ring, giới tiểu tư sản trong các quận nội thành, quận hai cho tới quận chín, giới vô sản trong các quận phía ngoài; nhưng tất cả đều trò chuyện với nhau trong nhà hát và tại những dịp lễ lớn tựa như những đoàn xe hoa diễu hành trong khu Prater, nơi mà ba trăm ngàn người hân hoan tung hô “giai cấp mười ngàn người thượng lưu trên cùng” trong những chiếc xe được trang trí bằng hoa tuyệt đẹp. Ở Wien, tất cả những gì phô bày màu sắc hay âm nhạc đều trở thành một dịp lễ hội, những cuộc diễu hành có nguồn gốc tôn giáo như Lễ Mình Máu Thánh Chúa, các cuộc duyệt binh hay những buổi biểu diễn của dàn nhạc hoàng gia; ngay cả tang lễ cũng có nhiều người hân hoan đi xem, và khát vọng của mỗi một người Wien thật sự là có được một “cái chết đẹp” với một tang lễ long trọng có nhiều người tiễn đưa; thậm chí đến cái chết của mình người Wien chân chính cũng muốn biến nó thành niềm vui cho người khác. Ưa thích tất cả những gì có màu sắc, âm thanh, mang tính lễ hội, thích thú những gì được trình diễn, và tấm gương phản chiếu của cuộc sống, trên bục sân khấu hay trong đời thật, đã trở thành đặc tính chung của toàn bộ thành phố.
Muốn chế giễu cái tính “cuồng sân khấu” này của người Wien, mà thật sự có lúc đến mức quái đản khi dõi theo từng li từng tí cuộc sống của những người họ yêu mến hoàn toàn không phải là việc khó, và một phần là bởi sự thờ ơ về chính trị của người Áo chúng tôi, hay sự thua kém về mặt kinh tế so với đất nước Đức láng giềng kiên định hẳn là xuất phát từ việc đánh giá quá cao sự thưởng thức này. Nhưng xét về góc độ văn hóa thì việc đánh giá cao những sự kiện nghệ thuật này đã cho thấy một cái gì đó độc nhất vô nhị - một sự kính trọng to lớn trước tiên là đối với mọi thành tựu nghệ thuật, rồi nhờ tập dượt nó hàng trăm năm người ta đã đạt tới một mức
điêu luyện độc nhất vô nhị và nhờ sự điêu luyện này mà lại càng nổi bật ở tất cả các lĩnh vực nghệ thuật. Bao giờ cũng vậy, nơi người nghệ sỹ cảm thấy dễ chịu nhất và đồng thời cũng cảm nhận được nhiều cảm hứng nhất là nơi mà ông ta được đánh giá cao, thậm chí là đánh giá quá cao. Nghệ thuật luôn luôn đạt đến đỉnh cao của nó ở nơi mà nó trở thành việc thường trong đời sống của toàn thể người dân. Và cũng như Florence, như Rome thời Phục Hưng đã thu hút các họa sỹ về phía mình và đào tạo họ trở thành những người nổi tiếng, vì mỗi người đều có cảm giác rằng họ phải vượt trội hơn những người khác và vượt trội hơn bản thân mình trong một cuộc đua liên tục trước người dân; các nhạc sỹ, diễn viên ở Wien đều biết tầm quan trọng của họ trong thành phố. Trong Burgtheater Nhà hát Quốc gia Wien, không có gì mà người ta không để ý đến; mỗi một nốt nhạc sai đều bị ghi nhớ ngay lập tức, mỗi một lần bước ra sân khấu không đúng, mỗi một đoạn văn bị cắt ngắn đều bị khiển trách, và sự thẩm định này không chỉ được tiến hành tại những buổi công diễn bởi những nhà phê bình chuyên nghiệp, mà là ngày nào cũng như ngày nào, qua tai nghe tinh ý, nhờ so sánh liên tục mà được rèn giũa của toàn thể khán giả. Trong khi trong các lĩnh vực chính trị, hành chính, đạo đức, mọi sự đều diễn ra êm đềm, và người ta độ lượng trước sự “cẩu thả” và khoan dung cho mọi vi phạm thì với nghệ thuật lại không hề có sự cảm thông như thế; ở đây là chuyện danh dự của thành phố. Mỗi một ca sỹ, mỗi một diễn viên, mỗi một nhạc sỹ phải liên tục nỗ lực hết mình, nếu không sẽ thua cuộc. Thật tuyệt vời nếu được yêu thích ở Wien, nhưng giữ mình được yêu thích thì thật không phải dễ; một lần buông thả sẽ không được tha thứ. Và chính vì biết mình bị giám sát liên tục, không xót thương như thế nên nghệ sỹ nào ở Wien cũng tận lực tận sức và khiến trình độ tổng thể đạt đến một cấp độ tuyệt vời. Từ những năm tháng tuổi trẻ đó, mỗi người trong chúng tôi đã mang theo mình cái thước đo nghiêm khắc, không khoan dung đối với trình diễn nghệ thuật. Những ai đã quen thuộc với kỷ luật sắt của Gustav Mahler tới từng chi tiết nhỏ nhất trong nhà hát, đã xem những chuyển động nhanh mạnh kết hợp với sự chính xác tỷ mỷ như là một việc hết sức tự nhiên ở các thành viên dàn nhạc hòa tấu, thì ngày nay sẽ hiếm khi thỏa mãn hoàn toàn với một màn trình diễn sân khấu hay âm nhạc.
Nhưng qua đó chúng tôi cũng đã học được rằng chúng tôi cũng phải nghiêm khắc với chính bản thân tại mỗi một buổi trình diễn nghệ thuật; một mức độ đã và vẫn còn là gương mẫu cho chúng tôi, nhằm để đào tạo nghệ sỹ cho tương lai, như hiếm hoi còn thấy trong một vài thành phố. Nhưng cũng ngấm vào trong người dân là kiến thức về nhịp điệu và động lượng thích hợp, vì ngay đến công dân nhỏ bé nhất ngồi trong quán rượu cũng yêu cầu có nhạc hay từ dàn nhạc và rượu ngon từ ông chủ quán; ở Prater, người dân biết chính xác dàn nhạc quân đội nào chơi hăng hái nhất, các “bậc thầy Đức” hay “người Hungary”; ai sống ở Wien cũng đều có nhạc cảm tự nhiên như hít thở không khí. Và tương tự như việc các nhà văn chúng tôi thể hiện tính âm nhạc đó trong một loại văn xuôi đặc biệt tao nhã, cảm giác về nhịp điệu cũng đi vào thái độ cư xử xã hội và đời sống hàng ngày của những người khác. Một người Wien không có xúc cảm nghệ thuật và yêu thích hình thể thì thật không thể tưởng tượng được trong cái gọi là tầng lớp xã hội “tốt”, nhưng ngay cả những tầng lớp thấp hơn, những người nghèo nàn nhất vẫn thấm được từ phong cảnh, từ bầu không khí vui tươi chan hòa một bản năng dành cho cái đẹp trong cuộc sống; người ta sẽ không thật sự là người Wien nếu như không có tình yêu nghệ thuật đó, không có niềm yêu thích thưởng thức và đồng thời cũng đánh giá xét nét cho sự dư thừa được thần thánh hóa này của cuộc sống.
Đối với người Do Thái, từ xưa tới nay thì thích ứng với môi trường của người dân hay đất nước họ đang sống không chỉ là một cách tự vệ bề ngoài, mà còn là một nhu cầu sâu trong thâm tâm. Mong muốn có quê hương, có sự yên bình, muốn nghỉ ngơi, muốn được an toàn, muốn có sự quen thuộc, chính những mong mỏi đó thúc giục họ nồng nhiệt gắn kết với nền văn hóa xung quanh. Và hầu như không có mối liên kết nào - ngoại trừ Tây Ban Nha ở thế kỷ 15 - mang lại nhiều hạnh phúc và thành quả như ở Áo. Định cư trong thành phố của hoàng đế từ hơn hai trăm năm, ở đây người Do Thái gặp một dân tộc sống vô tư, ôn hòa, có thiên hướng về những giá trị tinh thần và thẩm mỹ ẩn sâu dưới vẻ ngoài tưởng chừng hời hợt, những giá trị mà đối với họ cũng quan trọng hệt như vậy. Và họ còn tìm thấy một điều khác ở Wien; một nhiệm vụ cho cá nhân họ.
Trong thế kỷ vừa qua, nền nghệ thuật ở Áo đã mất đi người canh giữ và bảo vệ lâu đời: hoàng gia và giới quý tộc. Trong khi vào thế kỷ 18, Maria Theresia còn để von Gluck dạy nhạc cho con gái, Joseph II thảo luận với Mozart về những vở opera như một người am hiểu, Leopold III còn tự soạn nhạc thì các Hoàng đế Franz II và Ferdinand sau này lại hoàn toàn không quan tâm đến nghệ thuật, và Hoàng đế Franz Joseph của chúng tôi, người trong suốt tám mươi năm của cuộc đời không bao giờ đọc hay cầm trên tay một cuốn sách nào ngoài danh sách quân đội, thậm chí còn thể hiện ác cảm rõ rệt với âm nhạc. Giới quý tộc thượng lưu cũng từ bỏ vị trí bảo hộ trước đây; thời huy hoàng đã qua rồi, thời mà dòng tộc Esterhazy đón tiếp Haydn trong nhà, các gia đình Lobkowitz và Kinsky và Waldstein đua nhau tổ chức những buổi biểu diễn đầu tiên của Beethoven trong dinh thự của họ, thời mà nữ bá tước Thun còn quỳ gối trước con người độc ác đó, để xin hắn đừng rút vở opera “Fidelio” ra khỏi chương trình biểu diễn của nhà hát. Đến Wagner, Brahms và Johann Strauß hay Hugo Wolf là đã không còn nhận được sự giúp đỡ dù là nhỏ bé nhất từ họ nữa; để giữ các buổi hòa nhạc được như cũ, để nâng đỡ các họa sỹ, các nhà điêu khắc, tầng lớp thường dân phải thế vào chỗ trống giới quý tộc bỏ lại, và đó là niềm hãnh diện và cũng là khát vọng của chính người dân Do Thái, rằng ở đây, họ có thể đứng hàng đầu để bảo tồn vinh quang của nghệ thuật Wien hào nhoáng một thuở. Họ đã yêu thành phố này bao lâu nay rồi, và đã hòa nhập vào đây với toàn bộ tâm hồn, nhưng chỉ qua tình yêu nghệ thuật Wien thì họ mới cảm thấy đây hoàn toàn là quê hương mình và họ đã trở thành người Wien đích thực. Ngoài thứ đó ra thì họ chỉ có ảnh hưởng rất nhỏ trong đời sống cộng đồng; sự hào nhoáng của hoàng gia làm lu mờ mọi giàu sang cá nhân, các chức vụ cao cấp trong lãnh đạo nhà nước nằm trong các bàn tay thừa kế, ngoại giao nằm trong tay của tầng lớp quý tộc, quân đội và các chức vụ cao cấp trong bộ máy nhà nước được dành riêng cho những dòng tộc lâu đời, và người Do Thái cũng không hề mang tham vọng cố gắng thâm nhập vào giới nắm đặc quyền này. Rất tinh tế, họ tôn trọng những đặc quyền truyền thống này như là một sự việc tự nhiên; như tôi còn nhớ, cả cuộc đời, cha tôi đã tránh không dùng bữa ở Sacher, không phải vì muốn tiết kiệm - vì Sacher với các
khách sạn sang trọng khác cũng không khác biệt mấy -, mà chỉ là vì cảm giác muốn giữ khoảng cách: ông sẽ thấy lúng túng hay không phù hợp khi ngồi cạnh bàn của một hoàng tử Schwarzenberg hay Lobkowitz. Chỉ độc nhất trước nghệ thuật thì tất cả người Wien đều cảm nhận có cùng một quyền như nhau, vì tình yêu và nghệ thuật ở Wien được xem là nghĩa vụ chung, và những gì giới tư sản Do Thái thu lại được qua cách chung tay nâng đỡ và khuyến khích nghệ thuật ở Wien thì thật không thể đo lường. Họ chính là khán giả, họ làm đầy các nhà hát, những buổi hòa nhạc, họ mua sách, mua tranh, họ đến những cuộc triển lãm và với sự thông hiểu linh hoạt, ít bị truyền thống đè nặng hơn, họ trở thành những người khích lệ và đấu tranh hàng đầu cho tất cả những gì mới mẻ ở khắp nơi. Hầu như tất cả những bộ sưu tập nghệ thuật lớn của thế kỷ 19 đều thuộc về họ, hầu như tất cả những thử nghiệm nghệ thuật đều do họ tạo điều kiện; không có sự quan tâm không ngừng, mang tính khuyến khích của giới tư sản Do Thái thì với sự thờ ơ của hoàng cung, giới quý tộc và giới triệu phú Ki-tô giáo, những người thích mở chuồng nuôi ngựa đua và đi săn hơn là ủng hộ nghệ thuật, Wien hẳn sẽ tụt sau Berlin về mặt nghệ thuật giống như nước Áo tụt hậu về chính trị so với Đế chế Đức. Ai muốn đạt được một cái gì đó mới ở Wien, ai là khách từ bên ngoài đến tìm sự thông hiểu và khán giả ở Wien thì phải dựa vào giới tư sản Do Thái; trong thời bài trừ Do Thái, khi người ta cố gắng thành lập cái gọi là nhà hát “quốc gia” một lần nữa thì không tìm được tác giả lẫn diễn viên lẫn khán giả; sau vài tháng, cái “nhà hát quốc gia” đó đã thất bại thảm hại, và chính từ ví dụ điển hình này mà lần đầu tiên người ta có thể thấy rõ: chín phần mười những gì thế giới ca tụng như nghệ thuật Wien thế kỷ 19 là một nền nghệ thuật do người Do Thái Wien khuyến khích, nuôi dưỡng, hay thậm chí tự sáng tạo nên.
Vì chính trong những năm cuối cùng - cũng tương tự như ở Tây Ban Nha trước cùng một cuộc thảm họa - cộng đồng Do Thái Wien đã tích cực trong những hoạt động sáng tạo nghệ thuật, nhưng hoàn toàn không theo cung cách đặc trưng Do Thái, mà đã mang lại cho nền nghệ thuật Áo, nền nghệ thuật Wien sự biểu hiện mãnh liệt nhất qua sự đồng cảm tựa như phép lạ. Goldmark, Gustav Mahler và
Schönberg đã trở thành những nhân vật tầm cỡ quốc tế trong lĩnh vực âm nhạc sáng tạo, Oscar Straus, Leo Fall, Kálmán đã mang truyền thống của điệu waltz và của operetta đến một thời hoàng kim mới, Hofmannsthal, Athur Schnitzler, Beer-Hofmann, Peter Altenberg đã mang lại cho văn học Wien một tầm vóc châu Âu mà ngay cả dưới thời Grillparzer và Stifter cũng không có được, Sonnenthal, Max Reinhardt đã hồi phục danh tiếng của thành phố nhà hát trên toàn cầu, Freud và các nhân vật tiếng tăm khác trong khoa học đã khiến cho những ánh mắt hướng đến ngôi trường đại học lâu đời - khắp nơi, là học giả, là bậc thầy trong mỹ nghệ, là họa sỹ, là đạo diễn và kiến trúc sư, là nhà báo, họ đã khẳng định những vị trí cao và cao nhất trong đời sống tinh thần của Wien. Qua tình yêu nồng nhiệt đối với thành phố này, qua ý muốn đồng hóa, họ đã thích nghi hoàn toàn và hạnh phúc được phục vụ cho danh thơm của Wien; họ có cảm giác bản sắc Áo của họ là một nhiệm vụ trước thế giới, và - vì sự trung thực mà người ta phải nhắc lại - một phần khá lớn, nếu như không phải là một phần rất lớn những gì mà ngày nay châu Âu, châu Mỹ ngưỡng mộ về âm nhạc, văn học, sân khấu, mỹ nghệ Wien như là biểu hiện của một nền văn hóa đầy sức sống mới, đã được tạo nên từ cộng đồng Do Thái của Wien, cộng đồng mà qua sự bộc lộ lần này của một trí tuệ hàng ngàn năm đã lại đạt đến một trong những thành tựu cao nhất. Ở đây, một năng lượng trí tuệ bị kìm nén qua nhiều thế kỷ đã liên kết với một truyền thống lâu đời đã bắt đầu mệt mỏi, nuôi dưỡng, tiếp sinh lực, thúc đẩy, thổi vào sức sống mới và đã hoạt động không mệt mỏi; nhưng phải mãi đến những thập niên tiếp theo mới cho thấy được rằng thật là tội ác ở Wien, khi người ta cố dùng bạo lực để quốc gia hóa và địa phương hóa thành phố này trong khi giá trị và văn hóa của nó lại nằm chính trong sự gặp gỡ tinh thần của những nguyên tố khác nhau nhất, trong tính siêu quốc gia. Vì cái thiên tài của Wien - một thiên tài âm nhạc đặc biệt - trước nay vẫn là ở chỗ nó làm hài hòa tất cả những tương phản dân tộc, những tương phản ngôn ngữ ở trong nó, văn hóa của nó là một sự tổng hợp của tất cả những nền văn hóa phương Tây; ai sống và làm việc ở đó đều có cảm giác được giải phóng khỏi sự chật hẹp và định kiến. Không ở đâu mà người ta dễ dàng trở thành một người Âu hơn ở đây, và tôi biết rằng một phần tôi phải cảm ơn thành
phố này, thành phố ngay từ thời Marc Aurel đã bảo vệ tinh thần La Mã, tinh thần phổ quát, đã cho tôi sớm học được cách yêu ý tưởng của cộng đồng như yêu chính ý tưởng cao cả nhất của trái tim.
Người ta sống tốt, nhẹ nhàng và thanh thản trong Wien xưa cũ, và người Đức ở phía Bắc nhìn xuống chúng tôi, láng giềng cạnh sông Donau, ít nhiều bực dọc và khinh thường những người thay vì “giỏi giang” và theo lề lối nghiêm ngặt thì lại sống hưởng thụ, thích ăn ngon, hội hè và sân khấu và thêm vào đó là sáng tác nhạc thật tuyệt vời. Thay vì có tính chất “tài năng” của Đức, cái rốt cuộc đã làm tàn rụi và phá hủy sự tồn tại của tất cả các dân tộc khác, thay vì có tính tham lam muốn đứng trước hết thảy và luôn muốn tiến lên phía trước, thì ở Wien người ta thích tán gẫu một cách thoải mái, sống một cuộc sống dễ chịu và chừa lại phần cho người khác mà không hề đố kỵ và với một lòng khoan dung độ lượng, có thể là vô tư. “Sống và để cho người khác sống” là một nguyên tắc nổi tiếng ở Wien, một nguyên tắc mà cho tới ngày nay tôi vẫn còn cảm thấy nhân đạo hơn tất cả những mệnh lệnh tuyệt đối, và trong mọi tầng lớp, nó đã thắng thế không thể nào cưỡng lại được. Người nghèo và người giàu, người Séc và người Đức, người Do Thái và người Thiên Chúa giáo cùng chung sống hòa bình, mặc dù đôi lúc có những lời trêu chọc, và ngay cả những phong trào chính trị và xã hội cũng không có sự căm thù kinh khiếp đó, cái như là phần độc hại còn sót lại từ Đệ nhất Thế chiến và đã thâm nhập vào dòng máu tuần hoàn của thời đó. Trong nước Áo xưa cũ, người ta đối đầu nhau một cách thật lịch sự, tuy tranh luận gay gắt trên báo, trong quốc hội, nhưng rồi sau những màn hùng biện như Cicero, chính các vị dân biểu ấy lại ngồi uống bia hay cà phê và xưng hô thân mật với nhau; ngay cả khi Lueger, lãnh đạo đảng bài Do Thái, trở thành thị trưởng thành phố thì cách đối xử dưới tư cách cá nhân cũng không thay đổi gì, vì chính tôi cũng phải thừa nhận rằng tôi chưa từng phải trải qua một sự ngăn chặn hay khinh thường, cả ở trong trường trung học lẫn ở đại học lẫn trong văn học. Sự căm thù của nước này đối với nước khác, của dân tộc này đối với dân tộc khác, bàn này với bàn khác còn chưa từ báo chí nhảy xổ vào người ta hằng ngày, nó không chia cắt con người với con người và quốc gia với quốc gia; cái cảm giác
bầy đàn và đám đông trong đời sống công cộng vẫn còn chưa mạnh mẽ đến ghê gớm như ngày nay; tự do cá nhân trong hành động hay không hành động được xem là việc đương nhiên - ngày nay thì hầu như không thể tưởng tượng được; người ta không xem khoan dung là nhu nhược hay yếu đuối như ngày nay, mà tôn vinh đó như là một sức mạnh của đạo đức.
Vì đó không phải là thế kỷ của sự cuồng nhiệt, thế kỷ mà tôi sinh ra và được nuôi nấng ở trong đó. Nó là một thế giới trật tự với những tầng lớp rõ ràng và với những chuyển tiếp được cho phép giữa những tầng lớp, một thế giới không có sự hấp tấp. Nhịp điệu của những vận tốc mới từ các cỗ máy, từ ô tô, điện thoại, radio, máy bay còn chưa lan sang con người, thời gian và tuổi tác còn có một thước đo khác. Người ta sống thong thả hơn, và khi cố hình dung lại dáng dấp của những người lớn tuổi đã đứng quanh tuổi thơ của tôi, tôi nhận ra rằng nhiều người trong số họ đã to béo từ sớm. Cha tôi, cậu tôi, các thầy giáo của tôi, những người bán hàng trong các cửa hàng, những người chơi trong dàn nhạc giao hưởng đã phát tướng ở độ tuổi bốn mươi, và sớm trở nên “đạo mạo”. Họ đi lại chậm chạp, nói năng trang nghiêm và vuốt những bộ râu được chăm sóc cẩn thận, thường đã muối tiêu. Nhưng tóc bạc chỉ là một dấu hiệu cho tính đáng kính, và một người đàn ông “mực thước” cố tình tránh những cử chỉ và sự tự phụ của tuổi trẻ như là những thứ không hợp khuôn phép. Suốt thời thơ ấu của tôi, khi cha tôi còn chưa tới bốn mươi tuổi, tôi không nhớ nổi có lần nào nhìn thấy ông hấp tấp chạy lên chạy xuống cầu thang hay nói chung là hấp tấp làm một điều gì đó. Sự vội vã không chỉ được nhìn nhận là không thanh lịch, nó thực sự là thừa thãi, vì trong cái thế giới ổn định trung lưu đó với vô số những bảo đảm và hỗ trợ nhỏ thì không bao giờ xảy ra điều gì đột ngột cả; những thảm họa, những chuyện xảy ra là ở ngoài kia, ở ngoại vi của thế giới, không thâm nhập được qua bức tường nhiều lớp của cuộc sống được “bảo đảm an toàn”. Cuộc Chiến tranh Boer lần thứ hai[2], cuộc Chiến tranh Nga-Nhật, hay ngay cả cuộc Chiến tranh Balkan cũng không thâm nhập sâu được một tấc nào vào trong cuộc sống của cha mẹ tôi. Họ lướt qua tất cả những bài viết về các trận đánh trên báo một cách thờ ơ tựa như các bài ở mục thể
thao. Và đúng là, những điều đó thì có liên quan gì đến họ kia chứ, những gì xảy ra ở ngoài nước Áo, chúng thay đổi được gì cuộc sống của họ? Trong nước Áo của họ, trong thời kỳ sóng yên biển lặng ấy, không có biến động trong nhà nước, giá trị không bị phá hủy bất thình lình; khi thị trường chứng khoán bị mất bốn hay năm phần trăm thì họ đã gọi đó là “lao dốc” và cau trán nói về “thảm họa”, về các loại thuế “cao”, những thứ thuế mà trên thực tế chỉ giống như món tiền boa nhỏ cho nhà nước khi so sánh với những thứ thuế sau chiến tranh sau này, thì người ta phàn nàn vì thói quen nhiều hơn là vì nghĩ thế. Cho tới bản di chúc, người ta còn quy định hết sức tỷ mỷ về việc bảo vệ cháu chắt không bị mất tài sản như thế nào, giống như là sự an toàn được những thế lực vĩnh cửu bảo đảm nhờ vào một tờ giấy ghi nợ vô hình, và trong lúc đó thì người ta sống thật thoải mái và vuốt ve những nỗi lo nhỏ bé của mình giống như vuốt ve những vật nuôi ngoan ngoãn, vâng lời, và không có gì phải sợ. Vì vậy, khi sự tình cờ đưa vào tay tôi một tờ báo cũ từ những ngày tháng đó và tôi đọc những bài báo sôi động về một cuộc bầu cử hội đồng làng, khi tôi nhớ lại những vở biểu diễn ở Burgtheater với những vấn đề nhỏ nhặt hay những kích động không đáng trong những cuộc thảo luận thời trẻ của chúng tôi về những việc mà thật ra là tầm thường, thì tôi bất giác mỉm cười. Tất cả những nỗi lo đó nhỏ bé tới chừng nào, thời kỳ đó êm đềm biết bao nhiêu! Họ đã sống tốt hơn, thế hệ đó của cha mẹ và ông bà tôi, họ đã sống một đời phẳng lặng, trong sáng và thẳng một đường từ đầu chí cuối. Nhưng mặc dù vậy, tôi không biết liệu tôi có nên ganh tỵ với họ về điều đó hay không. Vì như thế họ đã sống thờ ơ, đứng ngoài tất cả những đắng cay có thật, đứng ngoài những ác ý và quyền lực của số phận, đứng ngoài tất cả những khủng hoảng và vấn đề đè nát con tim nhưng đồng thời cũng nới rộng nó một cách tuyệt diệu! Bị giới hạn trong sự an toàn và sở hữu và sự dễ chịu khiến họ biết ít đến bao nhiêu, rằng cuộc sống cũng có thể đi đến thái quá và căng thẳng, luôn luôn bị bất ngờ và đảo lộn; với chủ nghĩa tự do và lạc quan đến cảm động của họ, họ khó có thể tưởng tượng được rằng mỗi một ngày mới hừng sáng ngoài cửa sổ lại có thể đập tan cuộc sống của chúng tôi. Ngay cả trong những đêm đen tối nhất, họ cũng không thể nằm mơ thấy con người có thể gặp nguy hiểm đến đâu,
nhưng chính thế cũng không thể mơ thấy con người có bao nhiêu bản lĩnh để chịu đựng được những hiểm nguy và vượt qua thử thách. Chúng tôi, bị cuốn phăng qua những đoạn nước xiết của cuộc đời, chúng tôi, bị giật ra khỏi mọi cội nguồn gắn kết, chúng tôi, luôn bắt đầu lại ở nơi tưởng chừng là chốn tận cùng, chúng tôi, nạn nhân và đồng thời cũng là những tôi tớ tình nguyện phục vụ cho các thế lực bí ẩn, chúng tôi, những người mà sự dễ chịu ấm cúng đã trở thành huyền thoại xa xôi và an toàn là một giấc mơ con trẻ, chúng tôi đã cảm nhận được sự căng thẳng đẩy từ thái cực này lên thái cực kia và đã cảm nhận được nỗi rùng mình sợ hãi của cái gì đó luôn mới trong từng thớ thịt. Mỗi một giờ khắc trong năm tháng cuộc đời của chúng tôi đều gắn liền với vận mệnh thế giới. Đau khổ và ham muốn, chúng tôi đã sống qua thời gian và lịch sử, vượt xa cuộc đời nhỏ bé của chúng tôi rất nhiều, trong khi người thời đó đã tự giới hạn họ. Vì vậy mà ngày nay mỗi người trong số chúng tôi, kể cả con người tầm thường nhất trong dòng họ chúng tôi, cũng đều thấu tỏ hiện thực ngàn lần hơn người thông thái nhất của tổ tiên. Nhưng không có gì là được tặng không; chúng tôi đã trả đủ và trả đúng cái giá cho việc đó.
Trường học ở thế kỷ trước
Việc tôi được gửi đi học trung học sau khi học xong tiểu học là một việc hết sức tự nhiên. Chỉ riêng vì xã hội ngoài kia thôi thì gia đình khá giả nào cũng muốn con trai “có học”; người ta cho chúng học tiếng Pháp và tiếng Anh, cho làm quen với âm nhạc, thuê các cô dạy trẻ rồi sau là gia sư để học cách ứng xử. Nhưng chỉ có cái được gọi là đào tạo “hàn lâm”, dẫn đến đại học, thì mới mang lại đầy đủ giá trị trong thời của Chủ nghĩa Tự do “khai sáng”; vì vậy mà nằm trong tham vọng của mỗi một gia đình “tốt” là có ít nhất một người con trai mang học vị tiến sỹ đứng trước tên họ. Con đường đi đến đại học tương đối dài và hoàn toàn không chỉ là màu hồng tươi đẹp. Phải ngồi trên băng ghế nhà trường năm năm tiểu học và tám năm trung học, mỗi ngày năm đến sáu tiếng, và thời gian rảnh thì phải làm bài tập và thêm vào đó là những gì mà “giáo dục phổ thông” đòi hỏi, tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Ý, các ngôn ngữ “sống” bên cạnh các ngôn ngữ cổ điển như tiếng Hy Lạp và tiếng Latin - tức là năm ngoại ngữ cộng với hình học và vật lý và các môn học khác. Quá nhiều và hầu như không chừa lại khoảng trống nào để phát triển thân thể, cho thể thao, những chuyến đi dạo và đặc biệt là cho sự vui vẻ và giải trí. Tôi nhớ mang máng, là khi bảy tuổi đã học thuộc lòng một bài hát nào đó về “thời trẻ thơ vui vẻ, hạnh phúc” và phải hát trong dàn đồng ca. Tai tôi vẫn còn văng vẳng giai điệu của bài hát trẻ con ngây thơ này, nhưng lời bài hát thì ngay từ thời đó đã khó khăn lắm mới phát ra được khỏi đôi môi của tôi, còn đi vào tâm khảm như một niềm tin thì còn khó hơn nữa. Vì toàn bộ thời đi học của tôi, thành thật mà nói, không gì hơn ngoài sự chán ngán tẻ nhạt liên miên, mà mỗi năm lại một tăng thêm bởi sự bồn chồn khao khát thoát ra khỏi cái chốn tù túng đó. Tôi không thể nhớ đã có lần “vui
vẻ” hay “hạnh phúc” nào ở cái trường học đơn điệu, vô cảm và vô tâm đó, cái đã làm hỏng thời kỳ đẹp nhất, tự do nhất của cuộc đời chúng tôi, và thậm chí tôi phải thừa nhận rằng cho đến giờ tôi vẫn không khỏi ganh tỵ khi thấy trẻ thơ thế kỷ này được phát triển một cách lành mạnh hơn, tự do hơn và độc lập hơn. Tôi vẫn còn thấy khó tin khi quan sát trẻ em ngày nay nói chuyện vô tư, gần như là ngang hàng với thầy giáo của các em, khi thấy các em bước đến trường hoàn toàn không chút sợ hãi không như chúng tôi luôn đè nặng cảm giác kém cỏi, khi thấy các em được phép bày tỏ những ước muốn, những ý thích của mình từ tâm hồn trẻ trung, tò mò ở trường và ở nhà một cách cởi mở - những con người tự do, độc lập, tự nhiên, trong khi chúng tôi, vừa bước vào ngôi đền đó, liền lập tức co mình lại, để không đập trán vào những bức vách vô hình. Trường học với chúng tôi là bắt buộc, khô khan, tẻ nhạt, nơi người ta phải nhồi nhét từng phần một đã được chia ra một cách chính xác của “khoa học về những điều không đáng biết tới”, những kiến thức giáo điều hay bị làm thành giáo điều mà chúng tôi cảm tưởng không can hệ gì đến những mối quan tâm của đời thực hay của cá nhân chúng tôi. Đó là một sự học trì độn, tẻ nhạt không vì cuộc sống, học chỉ để học, như nền giáo dục cũ đã ép buộc chúng tôi. Và khoảnh khắc hạnh phúc nhẹ nhõm thật sự duy nhất mà tôi có được từ trường học là cái ngày tôi đóng sầm cánh cửa để nó lại phía sau mãi mãi.
Không phải trường học nước Áo chúng tôi bản chất là tệ hại. Ngược lại là đằng khác, cái được gọi là “chương trình giảng dạy” được soạn thảo cẩn thận với kinh nghiệm đúc rút được từ hàng trăm năm, và nếu như được truyền tải một cách lôi cuốn, thì rất có thể là nền tảng cho một nền giáo dục hiệu quả và tương đối phổ quát. Nhưng chính bởi được lên kế hoạch chính xác và bị giản lược hóa mà những tiết học của chúng tôi đã thành ra khô khan và vô hồn đến đáng sợ, chỉ còn là một cỗ máy học tập lạnh lùng, không bao giờ tự điều chỉnh theo cá nhân, với những điểm số “tốt, đạt, không đạt” cho việc người học đáp ứng được “yêu cầu” của chương trình giảng dạy tới đâu. Chính sự vô tình với con người này, tính phi cá nhân này và lối hành xử như trong trại lính đã khiến chúng tôi phát bực. Chúng tôi phải học theo lượng thời gian quy định và bị kiểm tra
xem đã tiếp thu được những gì; trong tám năm đằng đẵng ấy không một thầy cô giáo nào hỏi lấy một lần xem bản thân chúng tôi muốn học những gì, và vì vậy mà hoàn toàn không có sự nâng đỡ khuyến khích mà mỗi một con người trẻ tuổi đều thầm ao ước.
Sự khô khan này đã biểu lộ ngay từ vẻ ngoài của ngôi trường, một công trình xây dựng chỉ độc hướng tới chức năng, được xây lên một cách vội vã, rẻ tiền và không suy nghĩ cách đây năm mươi năm. Với những bức tường lạnh lùng được quét vôi cẩu thả, những lớp học trần thấp không treo tranh ảnh hay đồ trang trí gì làm vui mắt, những phòng vệ sinh tỏa mùi đi khắp trường, cái trại học này có gì đó giống với những bộ bàn ghế khách sạn cũ, đều là những thứ mà đã có vô số người từng sử dụng trước đó và rồi sẽ có vô số người sử dụng sau này một cách vô cảm và miễn cưỡng; cho tới nay tôi vẫn không thể quên được cái mùi ẩm mốc đã bám vào ngôi trường này như bám vào mọi tòa nhà công sở của nước Áo, cái mùi mà ở chỗ chúng tôi người ta gọi là mùi “nhà nước”, cái mùi của những căn phòng bị sưởi đến bức bối, chứa quá nhiều người và không bao giờ được thông khí đúng mức, cái mùi trước tiên là bám vào quần áo và sau đó là vào tâm hồn. Như tù nhân trong khoang thuyền, người ta ngồi thành từng cặp trên những băng ghế gỗ thấp, khiến ta phải còng lưng, và ngồi cho tới khi cả người đau nhừ; vào mùa đông, ánh sáng xanh nhạt của những ngọn đèn khí đốt chiếu chập chờn lên sách vở, vào mùa hè thì người ta cẩn thận che hết các cửa sổ, để ánh mắt chúng tôi đừng thích thú mơ mộng cái ô trời xanh bé nhỏ đó. Thế kỷ đó vẫn còn chưa phát hiện ra rằng những cơ thể trẻ trung chưa định hình đó rất cần không khí ngoài trời và các hoạt động thể chất. Mười phút nghỉ trên hành lang chật hẹp lạnh lẽo được cho là đã đủ cho bốn hay năm giờ ngồi bất động; mỗi tuần hai lần, chúng tôi được dẫn vào sảnh thể dục, để giậm chân quanh quẩn một cách vô nghĩa cạnh những cửa sổ đóng kín, trên cái sàn gỗ bụi tung dưới mỗi bước chân; thế là đã đủ cho thể chất, nhà nước đã hoàn thành “nhiệm vụ” của họ với chúng tôi theo đúng câu nói “một tinh thần khỏe mạnh trong một thân thể khỏe mạnh”. Nhiều năm sau, khi đi ngang qua dãy nhà u ám, ảm đạm đó, tôi vẫn còn cảm nhận được một sự nhẹ nhõm, vì không còn phải bước vào
nhà tù đấy của tuổi trẻ chúng tôi, và khi người ta tổ chức lễ kỷ niệm năm mươi năm tồn tại của cái cơ sở đáng kính đó và yêu cầu tôi, với tư cách là cựu học sinh nổi tiếng, phát biểu trước bộ trưởng và thị trưởng, thì tôi đã lịch sự từ chối. Tôi không hàm ơn ngôi trường đó, và mỗi một từ ngữ như vậy nói ra sẽ đều là một lời dối trá.
Cả những người thầy của chúng tôi cũng không có lỗi trong cái chán ngắt của sự học hành đó. Họ không tốt cũng không xấu, không phải bạo chúa nhưng cũng không phải những người bạn tương thân tương ái, mà chỉ là những kẻ đáng thương bị gắn chặt như nô lệ vào chương trình, kế hoạch giảng dạy do nhà nước đưa ra, cũng phải làm cho xong “bổn phận” của họ như chúng tôi phải thực hiện cho xong phận sự của chúng tôi và - chúng tôi cảm nhận được điều đó một cách rõ ràng - họ cũng vui mừng y như chúng tôi khi chuông trường vang lên vào giữa trưa, giải phóng cho họ và chúng tôi. Họ không yêu thương, cũng không căm ghét chúng tôi, tại sao lại phải vậy kia chứ, vì họ chẳng biết gì nhiều về chúng tôi; sau một vài năm họ còn nhớ tên rất ít người trong số chúng tôi, và trong tinh thần của phương pháp giảng dạy thời đó, họ không lo nghĩ gì ngoài việc xác định xem “học trò” đã mắc bao nhiêu lỗi trong bài tập vừa rồi. Họ ngồi ở bàn giáo viên phía trên và chúng tôi ở dưới, họ hỏi và chúng tôi phải trả lời, ngoài ra thì giữa chúng tôi không có mối liên quan nào. Vì giữa thầy và trò, giữa bàn của thầy giáo và băng ghế học trò, giữa bề trên hữu hình và bề dưới hữu hình là cái rào cản vô hình của “uy quyền” ngăn chặn mọi sự tiếp xúc. Một người thầy phải xem học trò là một cá nhân, phải có cách tiếp cận riêng tùy theo cá tính của mỗi em, hay thậm chí một chuyện bình thường ngày nay là người thầy phải viết “đánh giá”, tức mô tả những quan sát về người học trò, thì thời đó sẽ vượt quá quyền hạn cũng như khả năng của họ, mặt khác, một cuộc trao đổi riêng tư sẽ làm giảm uy quyền của thầy giáo, vì nó nâng “học trò” chúng tôi lên ngang hàng với thầy cô, với “bậc bề trên”. Đối với tôi, không gì minh họa rõ hơn cho việc chúng tôi hoàn toàn không liên quan gì đến nhau này, cho cái chia cắt chúng tôi và những người thầy của chúng tôi về mặt tinh thần cũng như tâm hồn, là việc tôi đã quên hết tên họ và cả gương mặt của họ. Với độ sắc nét nhiếp ảnh, ký ức tôi vẫn còn vẹn nguyên hình
ảnh của chiếc bàn thầy giáo và quyển sổ điểm mà chúng tôi vẫn luôn liếc nhìn, vì điểm của chúng tôi được ghi lại trong đó; tôi vẫn thấy quyển sổ nhỏ màu đỏ ghi chép xếp loại học sinh ngay từ lúc ban đầu, và cây bút chì đen ngắn ghi những con số vào đó, thấy những quyển vở của tôi, đầy những nét bút của thầy bằng mực đỏ, nhưng tôi không còn thấy một gương mặt nào của tất cả họ - có lẽ vì chúng tôi luôn luôn đứng trước họ với đôi mắt nhìn xuống hay hờ hững.
Không ưa thích trường học không phải là thái độ của riêng tôi; tôi không nhớ có bạn cùng lớp nào lại không miễn cưỡng cảm nhận rằng những quan tâm và ý định tốt đẹp nhất của chúng tôi đã bị kìm hãm, bị làm cho chán nản và bị đè nén ở cái nơi hết sức đơn điệu chán chường đó. Nhưng mãi sau này tôi mới biết được rằng cái biện pháp giáo dục không tình thương và vô tâm đó đối với tuổi trẻ chúng tôi không xuất phát từ sự cẩu thả của cơ quan nhà nước, mà có một mục đích nhất định nhưng đã được khéo léo che đậy. Thế giới trước chúng tôi hay trên chúng tôi, mọi suy nghĩ đều nhắm đến sự an toàn được tôn sùng thái quá, không yêu thích thế hệ trẻ, thậm chí còn hơn thế nữa: nó luôn không tin tưởng chúng tôi. Tự kiêu vì “sự tiến bộ” có hệ thống của nó, vì trật tự của nó, xã hội trung lưu tuyên bố rằng điều độ và khoan thai trong mọi hình thức của cuộc sống mới chính là đức hạnh có hiệu quả duy nhất của con người; bất cứ sự vội vã nào dẫn chúng tôi đi về phía trước đều cần phải tránh. Áo là một nhà nước xưa cũ, được cai trị bởi một vị hoàng đế già nua, dưới sự điều hành của những bậc bộ trưởng lão thành, một nhà nước không có tham vọng, chỉ hy vọng duy nhất một điều, là giữ mình toàn vẹn bằng cách chống lại mọi thay đổi triệt để trong vùng đất Âu châu; những con người trẻ tuổi, những con người từ bản năng luôn muốn thay đổi nhanh hơn, triệt để hơn, vì vậy mà bị xem là phần tử đáng ngại cần được vô hiệu hóa hay đè nén xuống càng lâu càng tốt. Vì vậy người ta không có lý do gì để tạo sự dễ chịu cho chúng tôi trong những năm đến trường; chúng tôi chỉ xứng đáng nhận được thăng tiến bằng cách kiên nhẫn chờ đợi. Qua việc trì hoãn liên tục đó, lứa tuổi này có một giá trị hoàn toàn khác với ngày nay. Một cậu học trò trung học mười tám tuổi bị đối xử như
một đứa con nít, bị trừng phạt khi bị bắt quả tang đang hút thuốc, phải ngoan ngoãn giơ tay khi muốn rời ghế đi giải quyết nhu cầu tự nhiên; nhưng đến cả một người đàn ông ba mươi tuổi cũng vẫn còn được xem là chưa trưởng thành và một người bốn mươi tuổi cũng vẫn chưa đủ sức gánh vác một chức vụ có trách nhiệm. Khi có một trường hợp ngoại lệ gây sửng sốt xảy ra và Gustav Mahler mới ba mươi sáu tuổi được bổ nhiệm là giám đốc của Nhà hát Hoàng gia, thì lời xì xào và kinh ngạc đã lan đi khắp Wien, rằng người ta đã giao phó viện nghệ thuật hàng đầu cho “một con người trẻ tuổi như vậy” (người ta hoàn toàn quên rằng Mozart ba mươi sáu tuổi, Schubert ba mươi mốt đã hoàn thành tác phẩm để đời của họ). Sự nghi ngại này, rằng người trẻ tuổi nào cũng “không hoàn toàn đáng tin cậy”, hiện hữu trong tất cả các giới thời bấy giờ. Cha tôi sẽ không bao giờ tiếp một người trẻ tuổi trong văn phòng của ông, và ai xấu số trông trẻ hơn tuổi thì phải đối mặt với sự ngờ vực ở khắp mọi nơi. Bởi thế nên đã xảy ra điều mà ngày nay không thể hiểu được, rằng tuổi trẻ lại trở thành vật cản trên con đường thăng tiến và chỉ tuổi già mới được hưởng quyền ưu tiên. Trong khi ngày nay, trong thời thế đã thay đổi hoàn toàn của chúng ta, người bốn mươi tuổi làm mọi cách để có bề ngoài trông như thể ba mươi và sáu mươi thì trông như bốn mươi, trong khi ngày nay sự trẻ trung, khỏe mạnh, tích cực và tự tin được khuyến khích và khen ngợi thì trong thời của sự an toàn đó, tất cả những ai muốn thăng tiến đều phải trăm phương nghìn kế tìm cách trông già đi. Báo chí quảng cáo những loại thuốc tăng tốc độ mọc râu, bác sỹ trẻ hai mươi bốn hay hai mươi lăm tuổi vừa qua kỳ thi tốt nghiệp để những bộ râu thật rậm và đeo kính vàng, ngay cả khi họ hoàn toàn không cần vậy, chỉ để gợi lên ấn tượng “từng trải” với các bệnh nhân đầu tiên. Người ta mua những chiếc áo choàng dài màu đen và tập bước đi khoan thai và nếu có thể thì bệ vệ một chút, để thể hiện sự nghiêm nghị cần vươn tới đó, và ai có tham vọng thì cố gắng phủ nhận, ít nhất là ở bề ngoài, cái tuổi trẻ bị cho là không đáng trọng đó; ngay từ lớp sáu và lớp bảy chúng tôi đã không chịu đeo cặp sách nữa, để không bị nhận ra là học sinh trung học, và sử dụng những loại cặp đựng hồ sơ. Tất cả, những gì mà ngày nay chúng ta thấy đáng ganh tỵ như sự tươi trẻ, tự tin, táo bạo, tò mò, giàu sức sống của tuổi trẻ, thì
thời đó, cái thời chỉ biết đến “sự vững chắc”, đều được xem là trở ngại.
Chỉ có nhìn từ quan điểm này thì mới hiểu được rằng nhà nước đã dùng nhà trường như công cụ để giữ vững uy quyền của mình. Chúng tôi cần được đặc biệt dạy dỗ phải kính trọng cái đang tồn tại như là cái toàn hảo, ý kiến của thầy là không thể sai, lời nói của cha là không thể cãi lại, các thể chế của nhà nước là tuyệt đối và mãi mãi có giá trị. Nguyên tắc chủ đạo thứ hai của phương pháp giáo dục đó, mà người ta cũng áp dụng trong gia đình, là không để những con người trẻ tuổi được sống quá thoải mái. Trước khi người ta chấp thuận cho họ có được quyền lợi nào đó thì họ cần phải học rằng họ có nhiều nhiệm vụ và trước hết là nhiệm vụ phải vâng lời hoàn toàn. Ngay từ đầu, chúng tôi, những người còn chưa đạt thành tích gì trong cuộc sống và hoàn toàn không có kinh nghiệm gì, cần phải ghi tạc rằng phải hàm ơn mọi thứ họ cho chúng tôi, và không được phép hỏi hay yêu cầu một thứ gì đó. Ở thời của tôi, biện pháp răn đe ngu ngốc này đã được dùng ngay từ lúc trẻ thơ. Các cô giúp việc và những bà mẹ xuẩn ngốc đã đe những đứa bé ba, bốn tuổi, rằng họ sẽ gọi “ông cảnh sát” đến nếu chúng không ngoan ngoãn tức thì. Khi đã là học sinh trung học, chúng tôi mà mang về nhà một điểm kém kể cả trong một môn học phụ nào đó, thì đã bị dọa không cho đi học nữa mà sẽ cho đi học nghề - mối họa tồi tệ nhất trong thế giới trung lưu: rơi xuống giai cấp vô sản - và khi những con người trẻ tuổi, với nhu cầu học hỏi chân thành nhất, đi tìm sự khai sáng ở những người lớn tuổi cho những vấn đề nghiêm trọng đương thời, thì bị la rầy với câu nói kiêu ngạo “chưa hiểu được đâu”. Người ta áp dụng phương pháp này ở mọi nơi, ở nhà, ở trường và ở nhà nước. Người ta nhắc nhở không biết mệt những con người trẻ tuổi, rằng anh ta còn chưa “trưởng thành”, rằng anh ta không hiểu, rằng điều nên làm duy nhất là tin tưởng lắng nghe, nhưng không bao giờ được phép cùng bàn luận hay thậm chí nói lại. Xuất phát từ lý do này mà ở trường học, người thầy đáng thương ngồi trên bục giảng mãi là một thần tượng bất khả tiếp cận và giới hạn toàn bộ cảm xúc và nguyện vọng của chúng tôi vào trong “giáo trình”. Chúng tôi có cảm thấy thoải mái ở trường hay không thì không quan trọng.
Nhiệm vụ thật sự của họ theo ý của thời đó không phải là mang chúng tôi tiến tới trước mà là giữ chúng tôi lại, không phải là kiến tạo tâm hồn của chúng tôi mà là ép nó vào khuôn khổ một cách dễ dàng nhất có thể được, không phải tăng cường năng lượng của chúng tôi mà kỷ luật hóa và san phẳng nó ra.
Một áp lực về tâm lý như vậy, hay đúng hơn là phi tâm lý, lên tuổi trẻ chỉ có thể dẫn đến hai tác động: làm cho tê liệt hay kích thích nó. Có bao nhiêu “hội chứng tự ty” mà phương pháp giáo dục vô lý này mang lại, điều này thì người ta có thể đọc trong hồ sơ của các nhà phân tích tâm lý; có lẽ chẳng phải ngẫu nhiên mà hội chứng này lại được chính những người đã theo học dưới mái trường Áo xưa cũ của chúng tôi phát hiện ra. Bản thân tôi thì dưới áp lực đó mà ngay từ sớm đã nảy sinh khát khao được tự do, ở mức độ mãnh liệt mà giới trẻ ngày nay hầu như không biết tới, và thêm vào đó là sự căm ghét tất cả những thứ uy quyền độc đoán, tất cả những lời nói “từ trên xuống”, cá tính này đã theo tôi suốt đời. Qua nhiều năm, ác cảm đối với mọi thứ mang tính giáo điều trong tôi đơn giản chỉ là bản năng, và tôi đã quên nó xuất phát từ đâu. Nhưng có một lần, trên một chuyến đi nói chuyện, khi người ta chọn cho tôi đại giảng đường của trường đại học và tôi bất chợt phát hiện ra mình phải đứng nói từ trên bục giảng, trong khi người nghe ngồi ở dưới trên những băng ghế giống y như chúng tôi thời học trò, ngoan ngoãn và không phát biểu, không phản kháng, thì tôi thình lình cảm thấy khó chịu. Tôi nhớ lại mình đã phải chịu đựng những bài giảng không thân thiện, độc đoán, giáo điều từ trên bục giảng rót xuống trong suốt những năm đi học như thế nào, thế rồi một cơn sợ hãi ập tới, rằng như vậy, tôi cũng hệt như những người thầy của mình thời trước; vì sự ức chế này mà lần nói chuyện đó cũng là lần nói chuyện tệ nhất trong đời tôi.
Cho tới tuổi mười bốn, mười lăm, chúng tôi còn tạm chấp nhận trường học được. Chúng tôi kể truyện cười về thầy cô, chúng tôi học bài với một sự tò mò lạnh lùng. Nhưng rồi cũng đến thời điểm mà trường học chỉ khiến chúng tôi cảm thấy chán nản và bị quấy rầy nhiều hơn. Một hiện tượng kỳ lạ đã âm thầm xảy ra: chúng tôi, những thằng bé mười tuổi bước vào trường trung học đã vượt qua
trường học về mặt tinh thần ngay trong vòng bốn năm đầu tiên của tám năm học. Chúng tôi cảm nhận theo bản năng rằng chúng tôi không còn phải học điều gì mang tính cơ bản từ nó nữa, và trong những môn học nào đó, những môn mà chúng tôi quan tâm, thậm chí chúng tôi còn biết nhiều hơn những người thầy đáng thương của mình, những người kể từ sau khi tốt nghiệp thì chưa từng lật thêm một quyển sách nào vì có bao mối bận tâm riêng. Và một sự đối lập nữa cũng có thể cảm nhận được ngày một sâu sắc hơn: trên những băng ghế, nơi chúng tôi chỉ còn đó với thân xác của mình, chúng tôi không còn nghe được điều gì mới nữa, hay điều gì mà chúng tôi cho rằng đáng biết, còn ở ngoài kia là một thành phố đầy mê hoặc, một thành phố với nhà hát, bảo tàng, cửa hàng sách, đại học, âm nhạc, nơi ngày nào cũng mang lại những bất ngờ mới. Vì vậy mà với niềm khao khát kiến thức bị dồn nén lại, tính tò mò về nghệ thuật và khoái lạc, những cái không tìm thấy thức nuôi dưỡng chúng ở trường học, chúng tôi đã nồng nhiệt lao đến với tất cả những gì xảy ra ở ngoài khuôn viên nhà trường. Lúc đầu chỉ có hai, ba đứa trong số chúng tôi phát hiện ra mối quan tâm đến nghệ thuật, văn học, âm nhạc trong bản thân mình, rồi một tá và cuối cùng là hầu như tất cả.
Hân hoan là một thứ dễ lây lan ở những người trẻ tuổi. Trong một lớp học, nó lây từ người này sang người khác như bệnh sởi hay sốt ban đỏ, và với ham muốn vừa trẻ con vừa sỹ diện, muốn vượt xa người khác về vốn kiến thức, họ lại tiếp tục thúc đẩy lẫn nhau. Vì vậy, ít nhiều đó chỉ là sự ngẫu nhiên, khi tính cuồng nhiệt này đi theo một hướng nào đó; nếu trong lớp học có một người sưu tập tem, thì không lâu sau sẽ làm cho một tá em khác cũng say tem như vậy, khi lớp có ba em học trò mê mệt những cô vũ công, thì số còn lại rồi cũng chực chờ trước cửa nhà hát mỗi ngày. Dưới chúng tôi ba khóa, có một lớp nghiền bóng đá, còn trước chúng tôi là một lớp đam mê chủ nghĩa xã hội và Tolstoy. Việc tôi ngẫu nhiên rơi vào năm học có những bạn đồng môn cuồng si nghệ thuật có lẽ là việc có tính quyết định cho cả cuộc đời tôi.
Bản thân sự say mê nhà hát, văn học và nghệ thuật này chỉ là một việc hết sức tự nhiên ở Wien; báo chí ở Wien dành cho các sự
kiện văn hóa của thành phố vị trí đặc biệt, bất cứ đi đâu, người ta cũng nghe được cả bên trái lẫn bên phải những cuộc thảo luận về Nhà hát Wien hay Burgtheater, mọi cửa hàng văn phòng phẩm đều trưng ảnh của các diễn viên nổi tiếng; thể thao còn bị xem là hành vi bạo lực mà một học sinh trung học phải cảm thấy hổ thẹn vì nó, và máy chiếu phim với những người hùng cho đại chúng vẫn còn chưa được phát minh ra. Cả ở nhà, người ta cũng không cần phải lo ngại bị phản đối; nhà hát và văn học được xếp vào số những đam mê “vô tội” không như chơi bài hay yêu đương. Cuối cùng thì cha tôi, như mọi người cha ở Wien, cũng đã từng say mê nhà hát từ thời trẻ và cũng đã xem vở opera Lohengrin của Richard Wagner với niềm hân hoan tương tự chúng tôi tại những buổi biểu diễn đầu tiên của Richard Strauss và Gerhart Hauptmann. Việc học trò trung học chúng tôi cố chen vào mọi buổi biểu diễn đầu tiên đã thành bình thường; vì sẽ xấu hổ đến đâu trước bạn học nếu sáng hôm sau không thể tường thuật lại đến từng chi tiết một trên lớp? Nếu các thầy cô giáo của chúng tôi không thờ ơ đến thế thì họ đã nhận ra rằng mỗi buổi chiều trước một buổi công diễn lớn - mà chúng tôi phải xếp hàng từ lúc ba giờ để có được một chỗ xem đứng - thì hai phần ba số học trò liền bị bệnh một cách khó hiểu. Nếu chú ý thật kỹ thì lẽ ra họ cũng phát hiện được rằng giấu trong lớp bìa quyển vở văn phạm Latin của chúng tôi là bài thơ của Rilke và chúng tôi dùng vở toán để chép lại những bài thơ hay nhất từ những quyển sách mượn được. Hằng ngày, chúng tôi phát minh ra những kỹ thuật mới để đọc trộm sách trong những giờ học tẻ nhạt; trong khi thầy giáo giảng bài học cũ mòn về “Thơ tình cảm và mơ mộng” của Schiller thì chúng tôi đọc dưới gầm bàn Nietzsche và Strindberg, những người mà ông giáo già tốt bụng ấy chưa từng nghe tới. Tựa như có một cơn sốt ập vào người, chúng tôi muốn biết tất cả, muốn làm quen với tất cả những gì xảy ra trên mọi lĩnh vực của nghệ thuật, của khoa học, chiều nào chúng tôi cũng chen vào giữa những sinh viên của trường đại học để nghe giảng, chúng tôi đến xem tất cả những cuộc triển lãm nghệ thuật, chúng tôi đi vào các giảng đường khoa giải phẫu học để xem mổ xẻ. Chúng tôi ngửi với lỗ mũi tò mò tất cả mọi thứ. Chúng tôi lén dự những buổi diễn tập của dàn nhạc giao hưởng, chúng tôi sục sạo trong những cửa hiệu bán đồ cũ, chúng tôi
xem hàng ngày những gì người bán sách trưng ra để biết được ngay lập tức những gì mới được xuất bản. Và trước hết là chúng tôi đọc, chúng tôi đọc tất cả những gì rơi vào tay. Chúng tôi mượn sách từ mọi thư viện công cộng, chúng tôi cho nhau mượn những gì mình có thể tìm ra. Nhưng trường đào tạo tốt nhất của chúng tôi cho mọi thứ mới thì vẫn là quán cà phê.
Để hiểu được điều này thì trước tiên ta phải biết rằng quán cà phê ở Wien là một nơi chốn đặc biệt không thể so sánh với bất cứ nơi nào trên thế giới. Nó thật ra là một loại câu lạc bộ dân chủ mà ai cũng có thể vào cửa bằng một tách cà phê rẻ tiền, nơi mỗi người khách với số tiền ít ỏi đó có thể ngồi liền hàng giờ, thảo luận, viết lách, chơi bài, nhận thư từ bưu điện và đặc biệt là có thể đọc vô số báo và tạp chí. Trong một quán cà phê hạng khá của Wien không chỉ có tất cả các tờ báo của Wien, mà cả báo của toàn bộ Đế chế Đức và báo Pháp và Anh và Ý và Mỹ và thêm vào đó là tất thảy những tờ báo quan trọng về văn học và nghệ thuật của thế giới, Mercure de France cũng như Neue Rundschau, Studio và Burlington Magazine. Vì vậy mà chúng tôi trực tiếp biết được tất cả những gì xảy ra trên thế giới, chúng tôi biết từng quyển sách được xuất bản, biết mỗi một buổi trình diễn dù nó diễn ra ở đâu đi nữa, và so sánh các bài phê bình trong tất cả các tờ báo; có lẽ không gì góp phần tạo nên tính linh hoạt trí thức và định hướng quốc tế của người Áo hơn là việc họ có được thông tin đầy đủ như thế về tất cả các sự kiện trên thế giới và đồng thời có thể thảo luận về chúng trong vòng bạn bè. Mỗi ngày, chúng tôi ngồi ở đó hàng giờ, và không có điều gì mà chúng tôi không biết. Nhờ tập tính quan tâm theo tập thể mà chúng tôi theo dõi thế giới sự kiện nghệ thuật không phải với hai mà là hai mươi và bốn mươi con mắt; những gì người này không thấy thì đã có người khác ghi nhận thay, và vì chúng tôi luôn ganh đua nhau kiến thức về những cái mới và những cái mới nhất một cách thật trẻ con và vênh vang, trên tinh thần thể thao, nên thật ra chúng tôi luôn trong trạng thái so đo không yên vì tin giật gân. Ví như khi đang thảo luận về Nietzsche mà thời đó còn bị chê bai và bất thình lình có một người trong số chúng tôi nói vẻ tự phụ: “Nhưng xét về tính ích kỷ thì Kierkegaard vẫn hơn”, và thế là tất cả chúng tôi bất
chợt đều cảm thấy bồn chồn. “Ai là Kierkegaard, người mà X. biết còn chúng ta thì không?”. Vào ngày hôm sau, chúng tôi lao tới thư viện để tìm sách của nhà triết học Đan Mạch đã qua đời đó, vì không biết một điều gì đó, mà một người khác lại biết, là điều với chúng tôi mà nói giống như bị hạ thấp; chính cái gần đây nhất, cái mới nhất, cái ngông cuồng nhất, cái khác thường, cái mà còn chưa có ai - và trước hết là giới phê bình văn học công khai trên những tờ nhật báo đáng kính của chúng tôi - bàn luận tường tận dông dài, khám phá và đi trước là niềm say mê của chúng tôi (là điều mà cá nhân tôi vẫn còn theo đuổi nhiều năm sau này). Biết điều mà mọi người còn chưa biết, tiếp cận được cái khó tiếp cận, tìm ra cái kỳ quái, cái mới và cái cực đoan mới thu hút được tình yêu của chúng tôi; bởi vậy mà không có điều nào là bí mật hay xa lạ đến mức tính tò mò tập thể, ham muốn vượt mặt nhau của chúng tôi không lôi ra được từ chỗ ẩn nấp. Ví như Stefan George hay Rilke thời chúng tôi học trung học chỉ được xuất bản tổng cộng hai hay ba trăm bản mà trong số đó đã có ba hay bốn bản tìm được đường đến Wien; không một người bán sách nào trữ chúng trong kho, không một nhà phê bình nào từng một lần nhắc đến tên của Rilke. Nhưng đám chúng tôi nhờ phép lạ của sự hăng say mà đã thuộc nằm lòng từng câu thơ dòng chữ. Chúng tôi, những chàng trai còn chưa có râu, còn chưa trưởng thành, những người còn phải ngồi trên ghế nhà trường ban ngày, thật sự là đã tạo thành nhóm độc giả lý tưởng mà một nhà thơ trẻ có thể tưởng tượng ra, tò mò, thông hiểu nhưng phê phán và hăng say tự tạo cho mình lòng đam mê. Vì khả năng đam mê của chúng tôi là vô hạn; nhiều năm trời, trong những giờ học trong trường, trên đường đến trường và từ trường về, trong quán cà phê, trong nhà hát, trên đường đi dạo, chúng tôi, những chàng trai chưa trưởng thành, không làm gì khác ngoài thảo luận về sách, tranh, âm nhạc, triết học; bất cứ ai có hoạt động công khai, dù là diễn viên hay nhạc trưởng, ai đã xuất bản một quyển sách hay viết cho một tờ báo, đều là ngôi sao trên bầu trời của chúng tôi. Nhiều năm sau, tôi suýt đã giật mình, khi đọc thấy câu sau của Balzac mô tả lại thời niên thiếu của ông: “Những người nổi tiếng đối với tôi giống như thần thánh, những người không nói, không đi, không ăn uống giống như những người khác”. Vì chúng tôi cũng cảm nhận đúng như vậy.
Nhìn thấy Gustav Mahler trên đường phố là một sự kiện mà người ta hãnh diện thuật lại cho các bạn học vào buổi sáng ngày hôm sau như một chiến tích cá nhân, và khi tôi được giới thiệu với Johannes Brahms, lúc còn là một thiếu niên, và ông thân thiện vỗ vai tôi, thì tôi đã rối loạn đầu óc mất mấy ngày trước cái sự kiện phi thường đó. Tuy ở tuổi mười hai tôi không biết chính xác những gì Brahms đã đạt được, nhưng chỉ riêng danh tiếng của ông, ánh hào quang của sự sáng tạo đã đủ tạo nên một cơn chấn động. Một lần trình diễn ra mắt của Gerhart Hauptmann tại Burgtheater đã kích động cả lớp chúng tôi nhiều tuần trước khi những buổi diễn tập bắt đầu; chúng tôi lén tiếp cận các diễn viên và những người đóng vai phụ, để là người đầu tiên - trước những người khác - biết về diễn tiến kịch bản và dàn diễn viên; chúng tôi đi cắt tóc tại tiệm người thợ hớt tóc của Burgtheater (tôi cũng không ngần ngại thuật lại những điều ngớ ngẩn của chúng tôi), chỉ để có được một tin bí mật về Wolter hay Sonnenthal, và một cậu học trò ở lớp dưới đã được chúng tôi, những đàn anh, chiều chuộng đặc biệt và hối lộ đủ thứ, chỉ vì là cháu của một kiểm định viên ánh sáng của nhà hát và nhờ em ấy thỉnh thoảng chúng tôi lại được lén lên bục sân khấu tại những buổi diễn tập, bục sân khấu mà bước lên đó còn hơn cả cơn rùng mình của Dante khi bước lên giới thần thánh của Thiên Đàng. Đối với chúng tôi, hào quang của danh tiếng mạnh mẽ đến như thế đó, đến mức nó vẫn còn dấy lên sự tôn kính trong chúng tôi ngay cả khi nó đã lan truyền đi qua bảy người; một người phụ nữ già nua đáng thương đối với chúng tôi là người ngoài Trái Đất chỉ vì bà là cháu gái của Franz Schubert, và ngay cả người hầu của Joseph Kainz cũng được chúng tôi ngưỡng mộ nhìn theo trên phố, vì ông ta có may mắn được gần gũi với người diễn viên đáng yêu nhất và tài tình nhất này.
Tất nhiên, ngày nay tôi biết tỏ có bao nhiêu ngớ ngẩn trong niềm đam mê bừa bãi đó, có bao nhiêu chỉ là sự học đòi đua theo nhau, bao nhiêu chỉ là ý thích muốn thắng nhau, bao nhiêu tính huênh hoang trẻ con, thông qua việc nghiên cứu nghệ thuật mà kiêu căng thấy mình cao hơn các thầy giáo và thế giới tầm thường xung quanh. Nhưng cho đến ngày nay, tôi vẫn ngạc nhiên rằng chúng tôi, những chàng trai trẻ, đã biết được nhiều đến thế nào chính nhờ sự
thái quá đó, và chúng tôi đã có được khả năng phân biệt sớm chừng nào qua thảo luận và phân tích liên tục. Ở tuổi mười bảy, tôi không chỉ biết từng bài thơ của Baudelaire hay Walt Whitman, mà còn thuộc lòng những bài thơ quan trọng nhất và tin rằng toàn bộ quãng đời sau này sẽ không còn đọc được nhiều như những năm học trung học và đại học đó. Chúng tôi đã quen thuộc với những cái tên mà công chúng mãi cả thập niên sau mới vinh danh, ngay cả cái tên mờ nhạt nhất cũng vẫn còn nằm lại trong ký ức vì đã trót say đắm nó đến thế. Có lần, tôi kể với người bạn yêu quý của tôi Paul Valéry, rằng thật ra thì mối giao tình văn chương của tôi với anh đã có từ bao năm trước rồi; tôi đã đọc và yêu những vần thơ của anh trước đó ba mươi năm. Valéry nhìn tôi cười: “Đừng lừa bịp chứ, anh bạn! Thơ của tôi mãi đến năm 1916 mới được xuất bản kia mà”. Nhưng rồi anh ngạc nhiên khi tôi mô tả chính xác màu và khổ của tờ tạp chí văn học nhỏ nơi chúng tôi đã tìm thấy những vần thơ đầu tiên của anh tại Wien năm 1898. “Nhưng tờ báo đấy thì hầu như không ai ở Paris biết đến”, anh ngạc nhiên, “làm sao anh có được tờ báo ấy ở Wien?”. “Thì cũng giống như anh thuở học trò trong tỉnh lỵ của anh với thơ của Mallarmé mà đến cả văn đàn chính thức cũng ít biết đến đấy thôi”, tôi đáp. Và anh đồng tình: “Người trẻ phát hiện ra các nhà thơ của họ, vì họ muốn phát hiện”. Thật sự là chúng tôi đã ngửi được làn gió từ trước khi nó qua biên giới vì chúng tôi luôn sống với lỗ mũi căng phồng. Chúng tôi tìm thấy cái mới, vì chúng tôi muốn cái mới, vì chúng tôi thèm khát cái gì đó thuộc về chúng tôi và chỉ thuộc về chúng tôi, - không thuộc về thế giới của ông cha chúng tôi, hay thế giới xung quanh chúng tôi. Giống như những loài thú, tuổi trẻ có một bản năng xuất sắc trước những đợt trở trời, vì vậy mà thế hệ chúng tôi cảm nhận được trước khi những người thầy của chúng tôi và các trường đại học biết được rằng với thế kỷ cũ cũng có một cái gì đó trong quan điểm nghệ thuật đã đi đến hồi kết, rằng một cuộc cách mạng hay ít nhất là một đợt chuyển đổi giá trị đang sắp sửa bắt đầu. Những bậc thầy chí tôn, những tượng đài sừng sững từ thời cha chúng tôi - Gottfried Keller trong văn học, Ibsen trong bi kịch, Johannes Brahms trong âm nhạc, Leibl trong hội họa, Eduard von Hartmann trong triết học - theo cảm nhận của chúng tôi đã mang toàn bộ tính cẩn trọng của cái thế giới đầy ắp tính an toàn ở
trong họ; dù cho họ là những quán quân về kỹ năng cũng như về tri thức, chúng tôi không còn quan tâm đến họ nữa. Chúng tôi cảm nhận theo bản năng, rằng nhịp điệu lạnh lùng, ôn hòa của họ xa lạ với dòng máu sôi động của chúng tôi và cũng không còn phù hợp với vận tốc đã gia tăng của thời đại. Trong lúc đó thì nhà tư tưởng sáng giá nhất của thế hệ Đức trẻ đang sống ở Wien, Hermann Bahr, một kẻ om sòm trong giới trí thức đã đánh cược tất cả với tương lai sắp hiện hữu và sắp đến, nhờ sự giúp đỡ của ông, phòng triển lãm “Secession” được khai trương ở Wien trưng bày tác phẩm của những họa sỹ theo trường phái Ấn tượng và Điểm họa từ Paris, Munch từ Na Uy, Rops từ Bỉ và của tất cả các nghệ sỹ cực đoan khác, trong sự kinh hoàng của trường phái cũ; và qua đó đồng thời cũng tạo nên một cuộc đột phá cho những người đi trước nhưng chưa được chú ý như Grünewald, Greco và Goya. Bất thình lình, người ta có một cách nhìn mới về hội họa và đồng thời cũng có những nhịp điệu và sắc thái mới trong âm nhạc với Mussorgsky, Debussy, Strauss và Schönberg; trong văn học, Zola, Strindberg và Hauptmann đem đến chủ nghĩa hiện thực, Dostoyevsky đem đến tính ma quái Xla-vơ, Verlaine, Rimbaud, Mallarmé là một sự thăng hoa và tinh tế hóa chưa từng có trong nghệ thuật dùng từ cho thơ trữ tình. Nietzsche cách mạng triết học; một kiến trúc táo bạo hơn, tự do hơn thành hình thay thế trường phái Tân cổ điển quá tải, kiến trúc thiết thực, phi trang trí. Đột ngột, trật tự êm dịu cũ bị phá vỡ, các tiêu chuẩn cho tới lúc đó được xem là không thể sai lầm về “cái đẹp thẩm mỹ” (Hanslick) bị hoài nghi, và trong khi những nhà phê bình chính thức của các tờ báo “đứng đắn” cho giới trung lưu đang thất kinh về những cuộc thử nghiệm thường là táo bạo và cố gắng chặn lại dòng chảy không thể ngăn cản bằng những đánh giá mang tính nguyền rủa như “suy đồi” hay “vô chính phủ” thì chúng tôi, những con người trẻ tuổi đã hào hứng ném mình vào những làn sóng ấy, ở những nơi chúng sủi bọt hoang dại nhất. Chúng tôi có cảm giác rằng một thời cho chúng tôi, thời của chúng tôi đã bắt đầu mà ở đó cuối cùng rồi thì tuổi trẻ cũng có được quyền của nó. Vì vậy mà niềm đam mê tìm kiếm và cảm nhận không lúc nào yên của chúng tôi bất chợt có một ý nghĩa: Chúng tôi, những con người trẻ tuổi trên ghế nhà trường, có thể cùng chiến đấu vì nền nghệ thuật mới trong những trận chiến
dữ dội và thường là bạo lực đó. Ở nơi nào có một thử nghiệm mới được đưa ra, ví như một cuộc triển lãm của Wedekind, một buổi đọc thơ mới, thì chúng tôi sẽ có mặt với đầy đủ sức mạnh không chỉ của tâm hồn, mà còn cả đôi tay; tôi đã chứng kiến tại buổi trình diễn ra mắt một trong những tác phẩm thời trẻ, không theo điệu thức nào của Arnold Schönberg, khi một người đàn ông rít rống và huýt sáo ầm ĩ đã bị bạn tôi Buschbeck cho một bạt tai dữ dội không kém vào mặt; ở khắp mọi nơi, chúng tôi là nhóm xung kích và tiên phong của bất cứ thể loại nghệ thuật nào mới, chỉ vì chúng mới, chỉ vì chúng muốn thay đổi thế giới cho chúng tôi, những người bây giờ đã đến lúc sống cuộc sống của mình. Vì chúng tôi cảm nhận được, đó là của chúng tôi.
Nhưng còn một cái gì đó khiến chúng tôi quan tâm và bị lôi cuốn đến thế ở nền nghệ thuật mới này: nó hầu như chỉ là nghệ thuật của người trẻ. Trong thế hệ cha anh chúng tôi, một nhà thơ, một nhạc sỹ chỉ đạt tới danh vọng khi “đã qua thử thách”, khi đã thích ứng với thị hiếu trang nhã của xã hội trung lưu. Tất cả những người đàn ông mà người ta bảo chúng tôi tôn kính đều hành động và cư xử một cách đáng kính. Họ để những bộ râu đẹp, đã điểm bạc trên những chiếc áo khoác nhung thơ mộng - Wilbrandt, Ebers, Felix Dahn, Paul Heyse, Lenbach, tất cả những người thời đó được yêu thích và bây giờ đã biến mất. Họ chụp hình với ánh mắt trầm tư, luôn trong tư thế “tôn nghiêm” và “thi ca”, họ cư xử giống như người có quyền cao chức trọng và cũng được trang trí bằng huân chương như những người đó. Những nhà thơ hay họa sỹ hay nhạc sỹ trẻ thì nhiều lắm là được ghi nhận như những “tài năng có nhiều hy vọng”, nhưng một sự công nhận đích thực thì vẫn tạm thời còn bị giữ đông; kỷ nguyên đấy của sự cẩn trọng không thích phân phát ân huệ sớm, trước khi người ta chứng minh được mình qua những thành tích “vững chắc” nhiều năm trời. Nhưng tất cả những nhà thơ, nhạc sỹ, họa sỹ mới thì đều còn trẻ; Gerhart Hauptmann, bất thình lình xuất hiện từ chốn hoàn toàn vô danh, thống trị sân khấu Đức ở tuổi ba mươi, còn Stefan George, Rainer Maria Rilke ở tuổi hai mươi ba - tức là chưa đủ tuổi trưởng thành theo luật Áo - đã thành danh trong giới văn học và có được một giới hâm mộ cuồng si. Trong
thành phố của chúng tôi, nhóm “Wien Trẻ” thành hình đột ngột với Arthur Schnitzler, Hermann Bahr, Richard Beer-Hofmann, Peter Altenberg mà trong đó nền văn hóa đặc trưng Áo lần đầu tiên có được một đường nét mang tính Âu châu bằng cách tinh chế mọi phương tiện nghệ thuật. Nhưng trước hết thì đó là một hình dạng làm mê hoặc, quyến rũ, khiến chúng tôi say sưa và hân hoan, hiện tượng tuyệt vời và có một không hai của Hugo von Hofmannsthal, mà giới trẻ chúng tôi không chỉ nhìn thấy được những tham vọng lớn nhất của mình mà còn cả sự toàn bích thi ca tuyệt đối trong hình dáng của một người gần như đồng trang lứa.
Sự xuất hiện của Hofmannsthal trẻ tuổi đã và vẫn đáng nhớ như là một trong những điều kỳ diệu to lớn của sự toàn bích ban đầu; trong văn học thế giới, ngoài Keats và Rimbaud tôi không biết ví dụ nào khác cho một sự hoàn hảo tương tự như vậy trong cách sử dụng ngôn từ, không một tầm xa nào như vậy trong tính bay bổng của ý tưởng, không một xuyên thấu chất thơ nào cho tới dòng chữ ngẫu nhiên nhất giống như vậy, như ở thiên tài tuyệt vời đó, người ở tuổi mười sáu, mười bảy đã tự viết tên mình vào biên niên sử vĩnh cửu của Đức bằng những vần thơ không thể nào xóa nhòa và bằng một thứ văn xuôi mà cho tới nay vẫn chưa ai có thể vượt qua. Sự bắt đầu đột ngột đồng thời đã toàn bích của anh là hiện tượng độc nhất vô nhị trong vòng một thế hệ. Do vậy, tất cả những người đầu tiên biết đến điều đó đều đã kinh ngạc về tính lạ thường khi anh xuất hiện giống như kinh ngạc về một sự kiện gần như siêu tự nhiên. Hermann Bahr hay kể lại cho tôi nghe sự kinh ngạc khi ông nhận được ở Wien một bài viết gửi tới tờ báo của mình từ một “Loris” mà ông không quen biết - vẫn còn học trung học và bị cấm không được có ấn phẩm công khai dưới tên thật; trong số tất cả những bản gửi về từ khắp nơi trên thế giới, ông chưa từng nhận được một tác phẩm phong phú đến thế về ý tưởng trong một ngôn ngữ sống động, cao quý đến vậy và đồng thời với một ngòi bút nhẹ nhàng như thế. Ai là “Loris”, ai là con người không ai biết đến này?, ông tự hỏi. Một người đàn ông già, tất nhiên, đã lặng lẽ ủ những nhận thức mình có được năm này qua năm khác và trong sự cô đơn đầy bí ẩn đã chắt lọc ra những gì là tinh tế nhất của ngôn ngữ biến
thành một phép ảo thuật gần như là khêu gợi. Và một người thông thái như vậy, một nhà thơ tài ba như vậy sống trong cùng thành phố mà ông lại chưa từng nghe nói! Bahr hồi đáp con người không ai biết đó ngay lập tức và hẹn gặp tại một quán cà phê - quán cà phê nổi tiếng Griensteidl, đại bản doanh của văn học trẻ. Đột nhiên, với những bước đi nhẹ nhàng, nhanh nhẹn, một cậu học trò trung học mảnh khảnh, vẫn còn chưa có râu với chiếc quần ngắn của thiếu niên bước tới bàn ông, cúi chào và nói ngắn gọn và cương quyết với một giọng cao, vẫn còn chưa hết vỡ giọng: “Hofmannsthal! Tôi là Loris”. Nhiều năm sau đó, khi Bahr kể về sự kinh ngạc của mình, ông vẫn còn tràn ngập xúc động. Thoạt tiên, ông không muốn tin. Một cậu học trò trung học mà đã có được một nghệ thuật như vậy, một tầm nhìn xa như vậy, một cái nhìn sâu sắc như vậy, một nhận thức kỳ diệu như vậy về cuộc đời trước cả cuộc đời của mình! Và Arthur Schnitzler cũng kể cho tôi nghe gần giống như vậy. Thời đó ông còn là bác sỹ, bởi những thành công bước đầu trong văn học vẫn hoàn toàn chưa thể bảo đảm an toàn cho cuộc sống; nhưng ông đã được xem như là đầu tàu của “Wien trẻ”, và những người còn trẻ hơn hay tìm đến ông để xin lời khuyên hay phán xét. Qua những người quen tình cờ, ông làm quen với cậu học trò trẻ tuổi cao lênh khênh này, người gây ấn tượng bởi sự thông minh nhanh nhạy, và khi cậu học trò trung học này xin phép đọc một vở kịch nhỏ viết bằng thơ, thì ông mời cậu về căn hộ của mình, tất nhiên là không quá kỳ vọng - chỉ là vở kịch của một cậu học trò trung học, đa cảm hay giả cổ điển, ông nghĩ thầm. Ông gọi thêm vài người bạn đến; Hofmannsthal xuất hiện trong chiếc quần ngắn thiếu niên, hơi hồi hộp và ngượng ngùng, và bắt đầu đọc. “Sau vài phút”, Schnitzler kể, “chúng tôi đột nhiên chăm chú lắng nghe và trao cho nhau những ánh mắt kinh ngạc, gần như là giật mình. Thơ với sự hoàn hảo như vậy, với một lực diễn đạt toàn vẹn như vậy, với một cảm nhận âm nhạc như vậy thì chúng tôi chưa từng nghe được từ một người còn sống, vâng từ sau Goethe thì chúng tôi cho rằng hầu như không thể có. Nhưng còn tuyệt diệu hơn cả sự thông thạo bậc nhất về hình thức này (mà kể từ đó, chưa có ai dùng tiếng Đức biểu hiện được hơn thế) là nhận thức về thế giới mà chỉ có thể đến từ trực giác huyền diệu, ở một cậu thiếu niên ban ngày còn ngồi trên ghế nhà
trường”. Khi Hofmannsthal dừng lại, tất cả vẫn im lặng. “Tôi”, Schnitzler nói với tôi, “có cảm giác lần đầu tiên trong cuộc đời gặp được một thiên tài bẩm sinh, và tôi không bao giờ có được xúc cảm như vậy nữa trong suốt cả cuộc đời”. Ai mới mười sáu tuổi mà đã bắt đầu như vậy - hay đúng hơn không phải bắt đầu mà là đã toàn bích từ khi bắt đầu -, xứng đáng trở thành bằng hữu của Goethe và Shakespeare. Và quả thật, sự hoàn hảo dường như càng lúc càng hoàn hảo hơn: sau vở kịch thơ “Hôm qua” đầu tiên này là đoạn tuyệt vời của “Cái chết của Tizian” mà ở đó ngôn ngữ Đức đã vươn lên đến những âm điệu Ý, là những bài thơ mà mỗi một bài đều là một sự kiện đối với chúng tôi, và là những bài thơ mà ngày sau, sau nhiều thập niên, tôi vẫn còn thuộc lòng từng dòng một, là những vở bi kịch nhỏ và những bài luận văn, sự phong phú của kiến thức, sự hiểu biết nghệ thuật toàn vẹn, tầm xa của thế giới quan chen chúc nhau một cách huyền diệu trong không gian chật hẹp của vài chục trang giấy: tất cả những gì mà cậu học trò trung học, người sinh viên này viết đều giống như pha lê, chiếu sáng từ trong ra ngoài, đen tối và đồng thời cũng nóng đỏ. Vần thơ, câu văn nép mình như sáp thơm từ núi Hymettos trong tay của cậu, giống như một sự kỳ diệu được lặp lại, mỗi một bài thơ đều có chừng mực, không bao giờ quá ít, không bao giờ quá nhiều, lúc nào người ta cũng cảm nhận được, rằng một cái gì đó vô thức, một điều gì đó không thể hiểu thấu đang dẫn dắt cậu một cách đầy bí ẩn trên những con đường đi đến nơi chưa có ai từng đặt chân đến.
Tôi hầu như không có khả năng giải thích được tại sao một hiện tượng như thế, cái đã chỉ cho chúng tôi biết cách cảm nhận được các giá trị, lại quyến rũ chúng tôi đến thế. Vì có điều gì có thể khiến một thế hệ trẻ say sưa hơn là biết rằng có một thi sỹ bẩm sinh, tinh khiết, xuất chúng thật sự đang ở sát cạnh chúng tôi, ở giữa chúng tôi, người mà ta lúc nào cũng chỉ tưởng tượng ra trong dáng hình huyền thoại của Hölderlin và Keats và Leopardi, xa vời và nửa phần là giấc mơ hay ảo cảnh? Vì vậy mà tôi nhớ rất rõ cái ngày nhìn thấy Hofmannsthal lần đầu tiên. Tôi mười sáu tuổi, và vì chúng tôi thèm khát theo dõi tất cả những gì mà bậc thầy lý tưởng này của chúng tôi làm, nên một chú thích nhỏ ẩn trong báo đã khiến tôi hết sức
phấn khích, người ta thông báo sẽ có một bài diễn văn của anh về Goethe trong “Câu lạc bộ Khoa học” (thật không thể tưởng tượng được đối với chúng tôi, một thiên tài như vậy lại nói chuyện trong một khuôn khổ khiêm tốn đến thế; trong mường tượng đầy tôn thờ tuổi học trò của chúng tôi, khi một Hofmannsthal hiện diện ở chốn công khai thì gian sảnh lớn nhất cũng phải chật người chen chúc). Nhưng cũng tại dịp này tôi đã nhận ra rằng, chúng tôi, những học trò trung học nhỏ bé, đã đi trước quần chúng khán giả và giới phê bình chính thức xa tới đâu trong đánh giá, trong bản năng với cái vĩnh cửu, cái bản năng đã chứng tỏ chúng tôi đúng, và không chỉ dừng ở đó; tổng cộng chỉ có độ một trăm tới một trăm bốn mươi người có mặt trong gian sảnh chật chội: thật ra thì tôi không cần phải đến sớm trước cả nửa giờ để giành chỗ ngồi. Chúng tôi chờ ít lâu, rồi bất thình lình một cậu trai trẻ, gầy, không gây chú ý, đi qua hàng ghế của chúng tôi bước lên bục và bắt đầu ngay lập tức, nhanh tới mức tôi hầu như không có thời gian để nhìn anh ấy. Với bộ râu mép còn tơ, chưa thành hình hoàn toàn và với thân hình mảnh khảnh, anh trông còn trẻ hơn tôi đoán. Gương mặt sắc sảo, nước da sậm như người Ý của anh dường như đang hồi hộp, và cộng thêm cho ấn tượng này là sự bồn chồn trong đôi mắt đen, dịu dàng, nhưng cận thị rất nặng của anh, anh đột ngột lao mình vào bài diễn văn, giống như một nhà bơi lội lao mình vào dòng nước quen thuộc, và càng nói thì những cử chỉ của anh càng tự do hơn, thái độ của anh càng trở nên tự tin hơn; vừa nhập tâm vào môi trường trí tuệ, thì từ sự ngượng ngập lúc ban đầu (sau này, tôi cũng thường hay nhận thấy điều đó trong trao đổi cá nhân), một sự nhẹ nhàng bay bổng đã ập vào người anh giống như ở tất cả những người có cảm hứng. Chỉ những câu nói đầu tiên là tôi còn nhận thấy giọng của anh không hay, thỉnh thoảng gần như the thé và có xu hướng lên giọng rất cao và chói tai, nhưng bài nói chuyện đã mang chúng tôi lên thật cao và tự do, tới mức chúng tôi không còn cảm nhận cả giọng nói lẫn gương mặt của anh nữa. Anh nói không cần bản thảo, không có ghi chú, thậm chí có lẽ không có chuẩn bị cụ thể, nhưng mỗi một câu đều hoàn hảo từ cảm nhận kỳ diệu về hình thức của con người anh. Các phản đề táo bạo nhất nở ra rực rỡ, để rồi hòa tan vào trong những diễn đạt trong sáng nhưng đáng ngạc
nhiên. Người ta bắt buộc phải có cảm giác, rằng những gì được trình bày chỉ là những điều được gieo rắc ra một cách ngẫu nhiên từ một sự phong phú còn lớn hơn thế rất nhiều, rằng anh ấy, bay bổng như thế và đang ở một nơi nào đó cao hơn, có thể cứ tiếp tục nói như vậy giờ này qua giờ khác mà nội dung không nghèo nàn đi và mức độ vẫn không suy giảm. Cả trong trao đổi cá nhân những năm sau này, tôi vẫn còn cảm nhận được lực quyến rũ của “nhà phát minh ra những điệu hát tiếp nối nhau và những cuộc trao đổi uyên bác, sôi nổi”, như Stefan George đã ca ngợi anh; anh không yên, kích động, nhạy cảm, phản ứng với mọi thay đổi trong không khí, thường hay cáu gắt và bồn chồn mỗi khi tiếp xúc cá nhân, gần gũi với anh không dễ. Nhưng khoảnh khắc khi quan tâm đến một vấn đề, thì anh tựa như bùng lên, rồi trong một chuyến bay nhanh như tên lửa, nóng đỏ, rực sáng như chớp, anh lôi cuộc thảo luận lên một tầng cao riêng và chỉ có anh mới đạt được đến. Ngoại trừ đôi lúc với Valéry, người suy nghĩ chừng mực hơn, cô đọng hơn, và với Keyserling bốc đồng, thì tôi chưa từng trải nghiệm một cuộc trao đổi nào có mức độ trí tuệ tương tự. Trong những khoảnh khắc cao trào cảm hứng đó, tất cả đều gần như hiển hiện trong ký ức nhạy bén kỳ lạ của anh ấy, mỗi một quyển sách anh đọc qua, mỗi một bức ảnh anh nhìn thấy, mỗi một phong cảnh: ẩn dụ này kết nối với ẩn dụ khác một cách tự nhiên như tay trong tay, viễn cảnh bất chợt vươn dậy tựa như nền sân khấu ở phía chân trời tưởng đã được cho là chấm dứt - lần đầu tiên tại buổi nói chuyện đó và sau này trong những lần gặp gỡ cá nhân, tôi thật sự đã cảm nhận được “làn gió”, cái làn hơi thổi sinh lực, khơi cảm hứng của cái không thể đo được, của cái không thể nắm bắt đầy đủ được bằng lý trí ở anh.
Theo một nghĩa nào đó, Hofmannsthal không bao giờ vượt qua được sự kỳ diệu có một không hai của bản thân ở độ tuổi từ mười sáu đến hai mươi tư. Tôi vẫn ngưỡng mộ không kém các tác phẩm sau này của anh, những bài luận văn tuyệt vời, tác phẩm “Andrea” chưa hoàn thành, đoạn dở dang của cuốn tiểu thuyết có thể là hay nhất viết bằng tiếng Đức, và nhiều phần trong các vở bi kịch của anh; nhưng cùng với sự gắn bó chặt chẽ hơn vào sân khấu đời thường cùng những mối quan tâm trong thời của mình, với nhận
thức và tham vọng rõ nét trong kế hoạch, thì ít nhiều đã có thứ gì đó đã ra đi từ tính mơ mộng, từ tính cảm hứng thuần túy của những bài thơ đầu tiên thời thiếu niên đó và cũng là sự say sưa và ngây ngất của tuổi trẻ chúng tôi. Với kiến thức ảo diệu riêng của tuổi chưa trưởng thành, chúng tôi đã biết trước rằng phép lạ này của tuổi trẻ là độc nhất vô nhị và sẽ không bao giờ trở lại trong đời nữa.
Balzac đã mô tả thật độc đáo việc tấm gương Napoléon đã kích động cả một thế hệ ở Pháp như thế nào. Bước tiến chói lòa lên làm hoàng đế của viên thiếu úy nhỏ bé Bonaparte đối với đại văn hào không chỉ là thắng lợi của một cá nhân mà là chiến thắng của ý tưởng tuổi trẻ. Rằng người ta không buộc phải sinh ra là hoàng tử hay hầu tước thì mới sớm có được quyền lực, rằng người ta có thể sinh ra trong một gia đình nhỏ bé, thậm chí còn nghèo, thế mà ở tuổi hai mươi tư đã có thể trở thành tướng lĩnh, ở tuổi ba mươi cai trị nước Pháp và chẳng bao lâu là cả thế giới, thành tựu vô tiền khoáng hậu này đã thúc đẩy hàng trăm người rời bỏ nghề nghiệp và thị trấn miền quê của họ - viên thiếu úy Bonaparte đã kích động cả một lớp trẻ. Ông ta đẩy họ đến với tham vọng cao hơn; ông tạo ra những tướng lĩnh của Đại quân và những người hùng và những kẻ ngoi lên của Tấn Trò Đời. Khi một người trẻ tuổi, ở lĩnh vực nào cũng vậy, qua cú nhảy vọt, đạt đến điều trước đó chưa có ai đạt được, thì nội thực tế đó thôi cũng sẽ truyền can đảm cho tất cả giới trẻ quanh mình và sau mình. Theo nghĩa đó, đối với chúng tôi lớp trẻ tuổi hơn, Hofmannsthal và Rilke chính là động lực vô cùng to lớn cho những năng lượng còn chưa chín chắn của chúng tôi. Tuy không hy vọng có ai đó trong số chúng tôi ngày nào đó có thể tái lập điều kỳ diệu của Hofmannsthal, nhưng chỉ đơn thuần sự tồn tại của anh đã đủ để cổ vũ chúng tôi. Nó chứng minh một cách trực quan rằng cả trong thời của chúng tôi, trong thành phố của chúng tôi, trong giới của chúng tôi cũng có thể có một nhà thơ. Xét cho cùng thì cha anh, một giám đốc ngân hàng, cũng xuất thân từ tầng lớp Do Thái trung lưu chúng tôi, và thiên tài đó cũng lớn lên trong một ngôi nhà tương tự như nhà chúng tôi, với cùng những loại bàn ghế và cùng một đạo đức chung cho tầng lớp đó, đi học ở một trường trung học khô khan như vậy, cũng học từ những quyển sách giáo khoa ấy và cũng ngồi trên
những băng ghế gỗ đó tám năm trời, cũng nôn nóng như chúng tôi, cũng đam mê tất cả những giá trị tinh thần như chúng tôi; và xem đấy, trong khi chúng tôi vẫn còn mài đũng quần trên những băng ghế đó và vẫn còn phải giậm chân bước đi trong gian sảnh thể dục thì anh đã có thể vượt qua không gian ấy và sự chật chội của nó, vượt qua thành phố và gia đình qua cú nhảy đi đến sự vô biên. Qua Hofmannsthal, chúng tôi tựa như đã được một người trình diễn ngay trước mắt mình, rằng có thể sáng tác thơ, vâng, tạo nên một sự hoàn hảo trong thơ, ngay ở lứa tuổi mình và ngay trong bầu không khí tựa như ngục tù của một trường trung học Áo. Thậm chí còn có thể - thật mê hoặc tâm tình thiếu niên - có tác phẩm được in, được khen ngợi, nổi tiếng dù khi ở nhà và ở trường vẫn còn bị xem là vị thành niên, không có tiếng nói.
Đối với chúng tôi thì Rilke là một dạng cổ vũ khác, bổ sung bên cạnh Hofmannsthal theo cái cách tựa như trấn an tinh thần. Vì đua tranh với Hofmannsthal thì ngay cả với đứa bạo gan nhất trong đám chúng tôi vẫn tựa như một điều báng bổ. Chúng tôi biết: anh là điều kỳ diệu có một không hai với sự toàn bích sớm chín mùi, điều sẽ không thể lặp lại, và khi những đứa mười sáu tuổi chúng tôi so sánh những vần thơ của mình với những vần thơ nổi tiếng vang dội kia, những vần thơ anh viết khi ở cùng độ tuổi, thì chúng tôi giật mình hổ thẹn; chúng tôi cũng cảm thấy mình thấp kém như vậy trước chuyến bay đại bàng, chuyến bay mà với nó anh đã xuyên qua vũ trụ tri thức khi vẫn còn ngồi ghế trung học. Ngược lại, Rilke tuy cũng bắt đầu làm thơ và công bố từ sớm, ở tuổi mười bảy hay mười tám. Nhưng những tác phẩm thời kỳ đầu này của Rilke vẫn là những vần thơ chưa chín chắn, trẻ con và ngây thơ khi so sánh với thơ của Hoffmansthal hay thậm chí khi xét riêng, những vần thơ mà trong đó, chỉ với sự châm chước người ta mới có thể nhận ra được một vài dấu vết vàng của tài năng. Mãi dần dần, ở tuổi hai mươi hai, hai mươi ba, nhà thơ tuyệt vời này, được chúng tôi yêu vô bờ bến, mới bắt đầu định hình bản thân; điều này đối với chúng tôi là một niềm an ủi hết sức lớn lao. Tức là người ta không buộc phải hoàn hảo ngay từ trong trường trung học như Hofmannsthal, người ta có thể dọ dẫm, thử nghiệm, dần định hình, tự tiến bộ như Rilke. Người ta
không phải bỏ cuộc ngay lập tức vì đã tạm thời viết ra gì đó chưa đầy đủ, chưa chín chắn, vô trách nhiệm, và có thể lặp lại con đường tiến bộ yên ắng hơn, bình thường hơn của Rilke thay vì điều kỳ diệu của Hoffmannsthal.
Lẽ tự nhiên, chúng tôi từ lâu đã bắt đầu viết lách hay làm thơ, soạn nhạc hay ngâm thơ kể chuyện; thái độ đam mê thụ động tự nó cũng đã là không tự nhiên ở độ tuổi trẻ, vì đặc tính của tuổi trẻ là không chỉ thu nhận ấn tượng mà còn sản sinh ra để đáp lại. Yêu nhà hát đối với những con người trẻ tuổi ít nhất cũng có nghĩa là ước mong và mơ mộng: đứng trên sân khấu hay làm việc cho sân khấu. Ngất ngây ngưỡng mộ tài năng trong mọi hình thức chắc chắn sẽ dẫn đến việc tự xét mình để xem liệu có phát hiện được dấu vết hay khả năng của cái tinh hoa chọn lọc đó trong bản thân còn chưa được khám phá hết của chính mình hay trong tâm hồn vẫn còn nửa tối của mình hay không. Vì vậy mà trong lớp học của chúng tôi, theo bầu không khí Wien và theo những hoàn cảnh đặc biệt của thời đó, động lực thúc đẩy sáng tạo nghệ thuật gần như trở nên phổ biến. Ai cũng tìm kiếm trong mình một tài năng và cố phát triển nó. Bốn hay năm đứa trong số chúng tôi muốn trở thành diễn viên. Họ bắt chước các diễn viên Burgtheater, họ say sưa trình diễn và ngâm thơ, lén đi học khóa diễn xuất và trong những lúc nghỉ giữa giờ đã phân chia vai và diễn lại nhiều cảnh từ các tác phẩm kinh điển mà chúng tôi, những đứa còn lại, là những khán giả tò mò nhưng nghiêm khắc. Hai hay ba đứa là nhạc sỹ được đào tạo xuất sắc, nhưng chưa quyết định trở thành nhà soạn nhạc, nghệ sỹ hay nhạc trưởng; nhờ họ mà tôi có được những kiến thức đầu tiên về âm nhạc mới, thứ mà trong những buổi hòa nhạc của các dàn nhạc giao hưởng vẫn còn bị tẩy chay mạnh mẽ, đổi lại họ lấy lời ca từ chỗ chúng tôi cho các bài hát và dàn đồng ca của họ. Một cậu khác, con trai của một họa sỹ nổi tiếng, vẽ đầy vở chúng tôi trong giờ học và họa chân dung tất cả những thiên tài tương lai trong lớp. Nhưng nổi trội nhất là những nỗ lực trong văn học. Nhờ thúc đẩy lẫn nhau, những thành tựu gặt hái được càng lúc càng nhiều và nhờ phê bình từng bài thơ một mà trình độ chúng tôi đạt tới ở tuổi mười bảy đã vượt rất xa mức nghiệp dư và nhiều đứa đã có thu hoạch thật sự, chứng minh qua việc các
tác phẩm của chúng tôi không chỉ được tiếp nhận, được in và - đây là bằng chứng thuyết phục nhất - trả nhuận bút, từ những tờ báo địa phương ít tiếng tăm đến những tạp chí hàng đầu của thế hệ mới. Một trong số bạn học của tôi, Ph. A., người mà tôi tôn sùng như một thiên tài, đã tỏa sáng ngay trên trang đầu trong Pan, tạp chí hạng sang xuất sắc, bên cạnh Dehmel và Rilke, một người khác, A. M., dưới bút danh “August Oehler” đã đi vào được những tạp chí khó tính nhất, khép kín nhất trong tất cả các tạp chí Đức, tờ Blätter für die Kunst, tờ báo mà Stefan George chỉ dành riêng cho giới thần thánh được sàng lọc bảy lần của ông ta. Người thứ ba, được Hofmannsthal cổ vũ, đã viết một tấn bi kịch về Napoléon, người thứ tư viết về một thuyết thẩm mỹ mới và nhiều bài thơ sonnet quan trọng; bản thân tôi thì đã tìm được đường vào Gesellschaft, tờ báo đi đầu của nhóm nghệ sỹ Hiện Đại, và Zukunft của Maximilian Harden, tờ tuần báo có tiếng nói trong lịch sử chính trị và văn hóa của nước Đức mới. Ngày nay nhìn lại, tôi phải thừa nhận một cách hoàn toàn khách quan, rằng tổng số kiến thức chúng tôi có, sự trau chuốt của kỹ thuật văn chương, trình độ nghệ thuật ở tuổi mười bảy thật sự đáng ngạc nhiên và chỉ có thể giải thích qua tấm gương cổ vũ cho sự sớm chín chắn tuyệt vời của Hofmannsthal, thứ buộc chúng tôi phải nỗ lực hết mình chỉ để có thể ngang bằng với nhau. Chúng tôi làm chủ được tất cả các thủ pháp nghệ thuật cũng như sự bóng bẩy và táo bạo của ngôn từ, chúng tôi đã thể nghiệm kỹ thuật của mỗi một thể thơ, tất cả phong cách trong thơ của Pindar tới cả cách chọn từ mộc mạc của nhạc dân tộc, chúng tôi trao đổi hằng ngày những sáng tác của mình, chỉ cho nhau những lỗi nhỏ nhặt nhất và thảo luận từng câu thơ một. Trong khi những người thầy đáng kính của chúng tôi, hoàn toàn không hay biết gì, vẫn còn dùng mực đỏ sửa dấu phẩy các bài luận của chúng tôi, thì chúng tôi đã phê bình nhau với sự khắt khe, với tầng cao hiểu biết về nghệ thuật và sự tỷ mỷ còn hơn cả những giáo hoàng văn học chính thức từ các tờ nhật báo lớn phê bình các tác phẩm bậc thầy kinh điển: chúng tôi, trong những năm học cuối cùng, nhờ niềm đam mê đã vượt xa họ, những nhà phê bình đã có vị trí và tên tuổi, trong nhận xét chuyên môn và khả năng diễn đạt phong cách.
Mô tả theo sự thật này về sự chín chắn sớm của chúng tôi trong văn học dễ khiến người ta đi đến ý nghĩ rằng chúng tôi là một lớp học kỳ diệu đặc biệt. Nhưng không phải vậy. Trong một tá những trường học lân cận thời ấy ở Wien cũng có thể quan sát được cùng hiện tượng đam mê và tài năng sớm nở rộ tương tự. Đó không thể là sự ngẫu nhiên. Đó là một bầu không khí đặc biệt may mắn, nhờ có mảnh đất màu mỡ cho nghệ thuật của thành phố, thời phi chính trị, sự kết hợp mang tính thúc giục của định hướng mới trong tinh thần và văn học ở thời chuyển đổi thế kỷ, những cái đã gắn kết chặt chẽ với ý muốn sáng tác nội tại ở bên trong chúng tôi, ý muốn mà thật ra là gần như đặc trưng cho độ tuổi này. Trong lứa tuổi dậy thì, thơ ca hay động lực dẫn đến thơ ca thật ra đều đi qua mỗi một con người trẻ tuổi, tất nhiên thì thường nó chỉ là một làn sóng thoảng qua, và hiếm khi một sở thích như vậy sống sót được qua thời tuổi trẻ, vì chính nó cũng chỉ là một biểu hiện của tuổi trẻ. Năm diễn viên trên ghế nhà trường của chúng tôi sau này không ai trở thành diễn viên trên sân khấu thật sự, các nhà thơ của Pan và Blätter für die Kunst đã trở thành những luật sư hay công chức thủ cựu, những người mà hôm nay có lẽ sẽ mỉm cười nghĩ về những tham vọng xưa kia của họ vừa hoài cổ vừa châm biếm - tôi là người duy nhất trong số tất cả bọn họ mà niềm say mê sáng tác vẫn còn tồn tại và đã trở thành lẽ sống cũng như cốt lõi của toàn bộ cuộc đời. Nhưng khi nhớ lại tôi vẫn hàm ơn tình bạn đó! Nó đã giúp đỡ tôi đến chừng nào! Những cuộc thảo luận sôi nổi đó, sự ganh đua vượt qua nhau quyết liệt đó, những lần ngưỡng mộ và phê phán nhau đó đã sớm luyện cho bàn tay và nghị lực của tôi, đã mang lại bao triển vọng và tầm nhìn bao quát đến vũ trụ của trí tuệ, đã nâng chúng tôi lên khỏi sự vô vị và khô khan của trường học! “Nghệ thuật đáng yêu, trong bao nhiêu giờ xám xịt…” bất cứ lúc nào mà bài ca bất tử của Schubert vang lên thì tôi lại nhìn thấy chúng tôi ủ rũ trên những băng ghế nhà trường với đôi vai như bị lực vô hình nào đó ấn xuống, và rồi trên đường về, với ánh mắt sáng ngời và sôi nổi, vừa phê bình thơ, vừa ngâm thơ, say mê quên thời gian và không gian, thật sự là đã “đi sang một thế giới tốt hơn”.
Một đam mê nghệ thuật cuồng nhiệt như vậy, một sự đánh giá thẩm mỹ cao tới vô lý như vậy tất nhiên là chỉ có thể đánh đổi bằng những mối quan tâm bình thường ở lứa tuổi của chúng tôi. Nếu như ngày nay tôi tự hỏi chúng tôi lấy đâu ra thời gian để đọc tất cả những quyển sách ấy, khi mà ngày của chúng tôi đã choán đầy những giờ học trên lớp và những giờ học thêm, thì tôi mới nhận ra rằng phần lớn đã được đánh đổi bằng những giờ ngủ và qua đó là đánh đổi bằng sức khỏe thể chất của chúng tôi. Mặc dù tôi phải dậy vào lúc bảy giờ nhưng chưa từng đặt sách xuống trước một hay hai giờ khuya - một thói quen xấu mà tôi đã bắt đầu có từ thời đó và giữ mãi về sau, ngay cả khi đã thật khuya rồi mà vẫn còn đọc sách một hay hai giờ đồng hồ. Cũng vì vậy mà tôi không thể nhớ được rằng mình đã có buổi nào không thiếu ngủ và vệ sinh hết sức qua quýt, chạy như bay đến trường vào phút cuối cùng, vừa chạy vừa ăn vội miếng bánh mì; không có gì đáng ngạc nhiên, khi tất cả chúng tôi, với trí tuệ của chúng tôi, đều gầy gò và xanh mét như quả xanh, chưa kể quần áo lôi thôi lếch thếch. Vì mỗi một đồng tiền tiêu vặt của chúng tôi đều được chi cho nhà hát, hòa nhạc hay sách, và thêm nữa chúng tôi cũng không đặt nặng việc phải khiến các cô gái trẻ yêu thích mình, chúng tôi là những kẻ nghĩ rằng mình phải gây ấn tượng ở những nơi cao cấp hơn. Đi dạo với các cô gái, với chúng tôi là phí thời gian, vì trong sự kiêu ngạo trí thức của mình, ngay từ đầu chúng tôi đã cho giới tính kia là kém cỏi hơn về mặt tri thức và không muốn lãng phí thời giờ quý báu của mình với những câu chuyện tầm phào. Giải thích cho một người trẻ ngày nay hiểu được chúng tôi đã phớt lờ thể thao đến mức nào, thậm chí còn xem thường nó nữa, sẽ không phải là việc dễ dàng. Tuy nhiên, trong thế kỷ trước, làn sóng thể thao còn chưa từ Anh quốc tràn sang châu lục của chúng tôi. Vẫn còn chưa có sân vận động, nơi hàng trăm ngàn người hân hoan la hét khi một võ sỹ quyền Anh đấm vào cằm một võ sỹ khác; báo chí còn chưa gửi phóng viên đi để tường thuật hàng cột báo về một trận khúc côn cầu với sự cao hứng của Homer. Đấu quyền Anh, câu lạc bộ thể thao, những kỷ lục trong thi đấu quyền Anh hạng nặng vào thời chúng tôi còn được xem như là chuyện của những khu phố ngoại ô, và thật ra khán giả của họ chỉ gồm các ông hàng thịt với phu khuân vác; chỉ có môn đua xe mang tính quý tộc
hơn, quý phái hơn mới lôi cuốn được cái gọi là “xã hội tốt” ra trường đua xe vài lần trong năm, nhưng cũng không quyến rũ được chúng tôi, những người xem mọi hoạt động thể chất đều là việc mất thời gian. Ở tuổi mười ba, khi căn bệnh lây nhiễm trí thức-văn học đó bắt đầu ở tôi, thì tôi ngưng chơi trượt băng và dùng tiền cha mẹ cho học khiêu vũ để mua sách, ở tuổi mười tám tôi vẫn còn không biết bơi, không biết khiêu vũ, không biết chơi quần vợt; cho tới nay tôi vẫn không biết đi xe đạp lẫn lái xe hơi, và trong thể thao thì đứa bé mười tuổi nào cũng có thể khiến tôi hổ thẹn. Ngay đến giờ, năm 1941, tôi vẫn không biết rõ sự khác biệt giữa bóng chày và bóng đá, giữa khúc côn cầu và polo, và mục thể thao của một tờ báo với những mật mã khó hiểu của nó đối với tôi tựa như được viết bằng tiếng Trung Quốc. Đối với tất cả các kỷ lục về vận tốc hay tài khéo léo trong thể thao, tôi vẫn kiên định đứng tại quan điểm của ông vua Ba-Tư, người khi bị lôi kéo đi xem một cuộc đua ngựa đã trả lời một cách uyên thâm kiểu phương Đông: “Để làm gì? Tôi biết là một con ngựa có thể chạy nhanh hơn con khác. Nhưng con nào thì đối với tôi cũng thế thôi”. Cũng bị coi rẻ như luyện tập thân thể, với chúng tôi, là việc lãng phí thời gian vào các trò chơi; duy nhất chỉ có chơi cờ là còn hưởng được một ít khoan dung dưới con mắt chúng tôi, vì nó buộc phải cố gắng về trí tuệ; và - thậm chí còn nực cười hơn nữa - mặc dù chúng tôi cảm thấy mình đã sắp hay chí ít là có tiềm năng trở thành thi sỹ, chúng tôi ít quan tâm đến thiên nhiên. Trong vòng hai mươi năm đầu đời, tôi hầu như không thấy gì từ vùng phụ cận tuyệt đẹp của Wien; những ngày hè có thời tiết đẹp nhất và nóng nhất, khi thành phố vắng vẻ, thậm chí còn lôi cuốn chúng tôi hơn, vì chúng tôi có được những tờ báo và tạp chí nhanh hơn và nhiều hơn trong quán cà phê. Tôi phải cần nhiều năm, nhiều thập niên để tìm lại cân bằng cho sự căng thẳng quá mức mang tính tham lam trẻ con đó và bù đắp phần nào cho sự vụng về thể chất không thể tránh khỏi. Nhưng nhìn chung, tôi không bao giờ hối hận về sự cuồng tín đó, việc chỉ sống qua con mắt và bộ não ở thời trung học của tôi. Nó đã tạo cho tôi một niềm đam mê tri thức chảy trong mạch máu, thứ mà tôi không bao giờ muốn đánh mất, và tất cả những gì tôi đọc và học được, đều trên cái nền tảng vững chắc của những năm đó. Những gì mà người ta bỏ lỡ ở các bắp thịt thì
sau này còn có thể làm lại; ngược lại vươn đến tri thức, nắm bắt nội tâm của tâm hồn thì chỉ rèn luyện được ở những năm quyết định lúc tạo dạng đó, và chỉ ai sớm học được cách căng tâm hồn của mình ra thật rộng thì sau này mới có khả năng nắm bắt toàn thế giới vào trong mình.
Có một cái gì đó mới đang sắp sửa hình thành trong nghệ thuật, một cái gì đó nhiều đam mê hơn, nhiều vấn đề hơn, quyến rũ hơn cái đã làm hài lòng cha mẹ chúng tôi và xã hội xung quanh, đó mới là trải nghiệm thật sự của những năm tuổi trẻ chúng tôi. Nhưng bị quyến rũ bởi đoạn đường này của cuộc đời, chúng tôi không nhận ra rằng những biến đổi đó trong không gian mỹ thuật chỉ là những rung động và dấu hiệu báo trước của những thay đổi sâu rộng hơn rất nhiều, những cái làm lung lay thế giới của những người cha chúng tôi, thế giới của sự an toàn và cuối cùng sẽ hủy diệt nó. Một sự xáo trộn kỳ lạ đã bắt đầu trong nước Áo xưa cũ, ngái ngủ của chúng tôi. Quần chúng, những người im lặng và ngoan ngoãn để quyền thống trị lại cho giới tư sản tự do nhiều thập niên, thình lình trở nên bồn chồn, thành lập các tổ chức của họ và đòi hỏi quyền lợi của mình. Trong thập niên qua, chính trị với những cơn gió mạnh, đột ngột đã ập vào cuộc sống đang dễ chịu, yên ả. Thế kỷ mới muốn có một trật tự mới, một kỷ nguyên mới.
Phong trào quần chúng đầu tiên ở nước Áo là phong trào xã hội chủ nghĩa. Cho tới lúc đó, cái ở chỗ chúng tôi được gọi một cách sai lầm là quyền bầu cử “phổ thông” chỉ được phân phát cho những người khá giả chứng minh được rằng họ đã đóng một số tiền thuế nhất định. Nhưng các luật sư và chủ trại do giai cấp này bầu ra lại thành thật và thật thà tin rằng họ là những người phát ngôn và đại diện cho “nhân dân” trong Quốc hội. Họ rất hãnh diện là những người có học, có thể còn có học ở mức hàn lâm, họ coi trọng phẩm giá, tư cách đạo đức và cách diễn đạt tốt; vì vậy mà các phiên họp của Quốc hội cứ giống như một buổi tối thảo luận của một câu lạc bộ sang trọng. Nhờ niềm tin mang tính tự do chủ nghĩa của họ vào một thế giới tiến bộ, qua sự khoan dung và lý trí mà không có sai trái, các nhà dân chủ tư sản này thành thật tin rằng với những sự nhượng bộ nhỏ và cải tiến dần dần, họ có thể thúc đẩy theo cách tốt
nhất sự thịnh vượng của tất cả người dân. Nhưng họ đã hoàn toàn quên rằng họ đại diện cho năm mươi ngàn hay một trăm ngàn người khá giả trong các thành phố lớn và không đại diện cho hàng trăm ngàn và hàng triệu người trên toàn quốc. Trong lúc đó, máy móc đã làm công việc của nó và đã tập hợp giới công nhân phân tán trước đây lại xung quanh ngành công nghiệp; dưới sự lãnh đạo của một người đàn ông nổi tiếng, bác sỹ Victor Adler, một đảng xã hội đã thành hình ở Áo, để đấu tranh cho quyền lợi của giới vô sản, giai cấp yêu cầu có quyền bầu cử phổ thông thật sự và như nhau cho mọi người; vừa mới chấp thuận hay đúng hơn là bị ép buộc phải chấp thuận thì người ta nhận ra rằng lớp vỏ của chủ nghĩa tự do mỏng tới đâu, dù rằng nó có chất lượng cao. Biến mất khỏi cuộc sống chính trị công cộng là sự rộng lượng, bây giờ thì quyền lợi đối đầu cứng rắn với quyền lợi, cuộc đấu tranh bắt đầu.
Tôi vẫn còn nhớ cái ngày ấy trong tuổi thơ của mình, cái ngày đã mang lại bước ngoặt quyết định trong cuộc tiến lên của Đảng Xã hội Áo; giới công nhân, lần đầu tiên thể hiện rõ sức mạnh và số lượng đông đảo của họ, đã đưa ra câu khẩu hiệu, tuyên bố ngày Một tháng Năm là ngày lễ của người dân lao động, và quyết định đi diễu hành thành một khối thống nhất vào khu Prater, đi vào đại lộ thường ngày chỉ có xe ngựa của giới quý tộc và của dân giàu có nối đuôi nhau chạy trên con lộ rộng lớn, xinh đẹp giữa hai hàng dẻ đó. Lời tuyên bố này đã khiến giới trung lưu theo chủ nghĩa tự do kinh hoàng đến tê liệt. Người đảng xã hội, từ ngữ này vào thời đó ở nước Đức và Áo ít nhiều mang dư vị máu me và khủng bố như từ ngữ Gia-cô-banh trước đó và Bôn-sê-vích sau này; thoạt tiên, người ta nghĩ rằng không thể nào có chuyện đám đông từ ngoại ô này đi diễu hành mà không đốt nhà, cướp bóc hay thực hiện đủ mọi hành vi bạo lực. Sự kinh hoảng cứ thế lan rộng. Cảnh sát toàn thành phố và vùng phụ cận được bố trí trên Đường Prater, quân đội sẵn sàng nổ súng là lực lượng dự bị. Không một xe ngựa nào dám lại gần khu Parter, các cửa hàng thả cửa chớp bằng sắt xuống, và tôi nhớ rằng các bậc cha mẹ đã cấm tiệt bọn trẻ con chúng tôi ra phố vào cái ngày đáng sợ ấy, cái ngày mà có thể nhìn thấy thành Wien bốc cháy. Nhưng không có việc gì xảy ra cả. Công nhân đi diễu hành vào
Prater cùng vợ con thành hàng bốn và với một kỷ luật thật gương mẫu, ai cũng cài một đóa hoa cẩm chướng đỏ, dấu hiệu của Đảng, trên ve áo. Họ hát bài Quốc Tế Ca khi diễu hành, nhưng rồi những đứa trẻ con, trước màu xanh tươi đẹp của “đại lộ quý phái” lần đầu tiên chúng được bước vào, lại hát những bài ca vô tư trong trường học. Không ai bị chửi mắng, không ai bị đánh đập, không có nắm đấm nào; cảnh sát, quân nhân mỉm cười như bạn bè. Nhờ thái độ không thể chê trách đó mà giới tư sản không còn có thể bêu xấu giới công nhân như là một “băng đảng cách mạng” được nữa, đã có - như luôn luôn thế trong nước Áo xưa cũ và uyên bác - những nhượng bộ lẫn nhau; hệ thống đàn áp và tiêu diệt của ngày nay vẫn còn chưa được phát minh ra, lý tưởng (tất nhiên là đã phai mờ) của chủ nghĩa nhân đạo vẫn còn sống động, ngay cả ở các lãnh tụ đảng.
Đóa hoa cẩm chướng đỏ vừa mới xuất hiện như là dấu hiệu của một đảng thì một đóa hoa khác lại thình lình cùng xuất hiện, hoa cẩm chướng trắng, dấu hiệu của Đảng Xã hội Thiên Chúa giáo (thật là cảm động có phải không, rằng thời đó người ta còn chọn hoa như là dấu hiệu của đảng thay vì giày ủng, dao găm và đầu lâu?). Đảng Xã hội Thiên Chúa giáo, đảng của giới tiểu tư sản, thật ra chỉ là phong trào phản lại phong trào của giới vô sản, và suy cho cùng thì cũng như nó, là sản phẩm của lần máy móc chiến thắng thủ công. Vì, khi máy móc trao cho giới công nhân quyền lực và sự thăng tiến xã hội qua việc tập trung thành số lượng lớn vào trong các nhà máy thì nó đồng thời cũng đe dọa giới thủ công nhỏ. Các siêu thị mua sắm lớn và việc sản xuất hàng loạt đã đẩy giới trung lưu và những người thợ cả nhỏ với các xưởng thủ công vào chỗ phá sản. Sự bất mãn và lo âu này đã được một nhà lãnh đạo khéo léo và được ưa thích, tiến sỹ Karl Lueger, lợi dụng, và với câu khẩu hiệu “Phải giúp đỡ người dân thường” đã kéo toàn bộ giới tiểu tư sản và giới trung lưu đang giận dữ đi theo mình, những người mà sự ganh tỵ của họ đối với những người giàu có ít hơn nhiều so với nỗi sợ tụt từ tầng lớp tiểu tư sản xuống giai cấp vô sản. Và Adolf Hitler cũng đã quy tụ đúng tầng lớp đầy lo âu đó quanh mình như là nhóm người ủng hộ đầu tiên, bằng cách dạy cho họ sự tiện dụng của các câu khẩu hiệu bài trừ Do Thái, những cái chỉ cho giới tiểu tư sản bất mãn một đối
thủ và đồng thời đánh lạc hướng một cách tinh vi lòng căm thù giới đại địa chủ và giới giàu có phong kiến. Nhưng toàn bộ sự thông tục hóa và tàn bạo hóa của chính trị ngày nay, sự thụt lùi đáng ghê sợ của thế kỷ chúng tôi lại thể hiện khi so sánh hai nhân vật này. Karl Lueger, với bộ râu vàng mềm mại là một diện mạo gây ấn tượng - được người dân Wien gọi là “Karl đẹp trai” - được đào tạo hàn lâm và đã không hoài công đi học trong một kỷ nguyên đặt văn hóa trí tuệ lên trên tất cả. Ông có thể nói chuyện một cách bình dân dễ hiểu, sôi nổi và dí dỏm, nhưng ngay cả trong những bài diễn văn dữ dội nhất - hay là những bài diễn văn thời ấy người ta cảm nhận là dữ dội - ông cũng không bao giờ vượt quá phép tắc lịch sự, và ông cẩn thận giữ gã Streicher[3] của mình, một tên thợ cơ khí Schneider chuyên khoác lác bằng những câu chuyện bịa đặt về giết người tế lễ và những điều thô tục tương tự như thế, trong vòng kiểm soát. Với đối thủ, ông lúc nào cũng giữ một vẻ quý phái nhất định - bất khả tấn công và khiêm nhường trong cuộc sống riêng tư và việc bài trừ Do Thái công khai của ông ta chưa bao giờ cản trở thiện ý giúp đỡ bạn bè người Do Thái trước đây của ông. Cuối cùng, khi phong trào của ông được Hội đồng Thành phố Wien chấp thuận và ông - sau hai lần bị Hoàng đế Franz Joseph, người căm ghét xu hướng bài Do Thái từ chối phê duyệt - được bổ nhiệm làm thị trưởng, thì chính quyền thành phố của ông vẫn hoạt động không thể chê trách vào đâu được, thậm chí còn dân chủ một cách gương mẫu; người Do Thái, run sợ trước chiến thắng này của đảng bài Do Thái, vẫn tiếp tục sống bình đẳng và vẫn được coi trọng. Chất độc của lòng căm thù và của ý muốn tiêu diệt hoàn toàn lẫn nhau vẫn còn chưa thấm vào dòng máu tuần hoàn của thời gian.
Nhưng đã có một đóa hoa thứ ba xuất hiện, hoa thanh cúc màu xanh, loại hoa Bismarck thích nhất và là biểu tượng của Đảng Quốc gia Đức, một đảng - chỉ là thời đó người ta chưa biết được - muốn có cách mạng, hoạt động với lực dập tàn bạo nhằm hủy diệt nền quân chủ Áo tiến tới một nước Đại Đức - như Hitler luôn mơ mộng - dưới sự lãnh đạo của nước Phổ và đạo Tin Lành. Trong khi Đảng Xã hội Thiên Chúa giáo bám rễ ở Wien và ở nông thôn, Đảng Xã hội tại các trung tâm công nghiệp thì Đảng Quốc gia Đức hầu như chỉ có
người ủng hộ ở những nơi xa xôi trong vùng đất Bohemia và dãy núi Alps; yếu về số lượng, lấy sự hung hãn hoang dại và tính tàn bạo vô biên để bù đắp. Vài ba nghị sỹ của họ đã trở thành sự khủng bố và nỗi ô nhục (trong ý nghĩa cũ) của Quốc hội Áo; Hitler, cũng là một người Áo ở ngoài rìa, đã xuất phát từ những ý tưởng của họ, từ những phương cách hoạt động của họ. Hắn đã tiếp nhận câu khẩu hiệu “Hãy ly khai Rome!” của Georg Schönerer, câu khẩu hiệu mà thời đó hàng ngàn người Đức theo Đảng Quốc gia Đức đã ngoan ngoãn tuân theo, để chọc tức hoàng đế và Nhà Thờ, và chuyển từ Công giáo sang Tin Lành, tiếp nhận từ hắn thuyết chủng tộc bài Do Thái - “sự bẩn thỉu nằm trong chủng tộc đó” một kẻ nổi tiếng đã nói như thế -, đặc biệt tiếp nhận từ hắn cách sử dụng một nhóm xung kích bất chấp, đánh đập mù quáng và qua đó là nguyên tắc dọa nạt phần đa số có số lượng lớn hơn nhiều nhưng nhân đạo-thụ động hơn bằng sự khủng bố của một nhóm nhỏ. Những gì thành viên SA[4] làm cho Quốc xã, dùng dùi cui đập tan những cuộc hội họp, tập kích đối thủ ban đêm và đánh cho tới khi gục xuống, thì sinh viên, những người được hưởng đặc quyền miễn trừ dành cho giới hàn lâm, đã tổ chức những màn đánh đập khủng bố vô song và xuống đường biểu tình tại bất cứ hoạt động chính trị nào chỉ cần lời kêu gọi, cũng làm như thế cho Đảng Quốc gia Đức. Được tổ chức thành từng nhóm gọi là “hội sinh viên”, với những bộ mặt méo mó, say sưa và tàn bạo, họ chiếm cứ sảnh hội họp của trường đại học, bởi không chỉ mang dây băng và đội mũ, mà họ còn có gậy gộc nặng và cứng; khiêu khích không ngừng, đánh đập các sinh viên người Slav, người Do Thái, sinh viên Công giáo, sinh viên người Ý và đẩy những người không thể tự vệ khỏi trường đại học. Bất cứ cuộc “dạo chơi” nào (cuộc diễu hành ngày thứ bảy của sinh viên được gọi như thế) cũng có đổ máu. Cảnh sát, những người không được phép bước vào sảnh hội họp của trường vì một đặc quyền cũ của đại học, phải cam chịu đứng yên từ bên ngoài nhìn những tên quấy rối hèn hạ này hoành hành, và chỉ được phép mang đi những người bị đám du côn Quốc gia Chủ nghĩa đó đánh đến đổ máu rồi bị vứt từ cầu thang xuống đường phố. Bất cứ lúc nào mà Đảng Quốc gia Đức nhỏ bé, nhưng lớn lối, muốn ép buộc một điều gì đó thì họ đều gửi nhóm
sinh viên xung kích đi trước; khi Bá tước Badeni[5] thông qua một quy định về ngôn ngữ dùng trong công sở dưới sự chấp thuận của Hoàng đế và Quốc hội, điều sẽ mang lại hòa bình giữa các dân tộc của nước Áo và có lẽ sẽ kéo dài sự tồn tại của nền dân chủ thêm nhiều thập kỷ, thì đám người trẻ tuổi bị kích động đó đã chiếm giữ Đường Ring. Kỵ binh đã phải xuất trại, người ta đã dùng đến gươm chém và nổ súng. Nhưng lòng ghê tởm mọi sự lộn xộn bạo lực và mọi sự đổ máu trong cái thời yếu đuối và tự do-nhân đạo đến cảm động ấy lớn tới mức chính phủ lùi bước trước sự khủng bố của những người Quốc gia Đức. Thủ tướng từ chức, và quy định ngôn ngữ ấy bị bãi bỏ. Lần xâm nhập của sự tàn bạo vào chính trường ghi nhận thành công đầu tiên của nó. Tất cả những vết nứt gãy ngầm giữa các chủng tộc và giai cấp mà kỷ nguyên khoan dung đã dốc công hàn gắn, đã toác miệng và mở ra những vực sâu thăm thẳm và khe sâu hun hút. Trên thực tế thì trong thập niên cuối cùng trước thế kỷ mới, cuộc chiến tất cả chống lại tất cả đã bắt đầu ở Áo.
Nhưng chúng tôi, những con người trẻ tuổi, bị cuốn hút hoàn toàn vào trong những tham vọng văn học của mình, ít nhận thấy những thay đổi nguy hiểm đó trên quê hương: chúng tôi chỉ nhìn đến sách và tranh. Chúng tôi hoàn toàn không để tâm đến những vấn đề chính trị và xã hội: những cuộc tranh cãi chói tai ấy có nghĩa lý gì với cuộc sống của chúng tôi chứ? Thành phố ồn ào những lần bầu cử, và chúng tôi đi vào thư viện. Người dân đứng lên, và chúng tôi làm thơ và thảo luận thơ. Chúng tôi không nhìn thấy những dấu hiệu báo trước đang bừng cháy đó, vô tư như vua Belsazar ngày xưa, chúng tôi thưởng thức những món ngon của nghệ thuật mà không lo lắng nhìn ra phía trước. Và mãi nhiều thập niên sau, khi mái và tường nhà đổ sập xuống, thì chúng tôi mới nhận ra rằng nền tảng đã bị đào rỗng ruột từ lâu và với thế kỷ mới, sự suy tàn của tự do cá nhân cũng đã đồng thời bắt đầu giữa lòng châu Âu.
Tình dục đầu đời
Trong tám năm trung học, có một sự kiện hết sức cá nhân xảy ra với mỗi người chúng tôi: từ những đứa trẻ con mười tuổi, chúng tôi dần trở thành những chàng trai trẻ mười sáu, mười bảy rồi mười tám tuổi, và tạo hóa bắt đầu đòi hỏi quyền của nó. Sự thức tỉnh của tuổi dậy thì này thời nay là vấn đề cá nhân mà mỗi người lại có một cách đương đầu riêng, và thoạt nghe thì hoàn toàn không thích hợp để thảo luận công khai. Nhưng đối với thế hệ của chúng tôi thì cơn khủng hoảng đó đã lớn vượt quá không gian thông thường. Đồng thời với nó, là một sự thức tỉnh khác, vì lần đầu tiên, chúng tôi quan sát cái thế giới xã hội trong đó chúng tôi lớn lên và quan sát những quy ước của nó dưới con mắt phê phán. Trẻ con và thậm chí cả những người trẻ tuổi nói chung ban đầu đều có khuynh hướng tuân thủ luật lệ trong môi trường của họ. Nhưng họ chỉ tuân theo những quy ước đặt ra chừng nào còn thấy người khác cũng thành thật tuân thủ. Chỉ một sự không thành thật ở thầy giáo hay cha mẹ chắc chắn sẽ thúc đẩy con người trẻ tuổi đó xem xét lại toàn bộ môi trường xung quanh với ánh mắt nghi ngờ và sắc bén hơn. Và chúng tôi cũng chẳng cần lâu để phát hiện ra rằng tất cả mọi quyền uy chúng tôi đã trao niềm tin tới nay, trường học, gia đình và đạo đức công khai đều xử sự một cách không đúng đắn đến kỳ lạ ở đề tài tình dục - thậm chí còn hơn cả thế: họ đòi hỏi ở chúng tôi tính bí mật và xảo trá trong vấn đề này.
Vì cách đây ba mươi, bốn mươi năm, người ta quan niệm về những sự việc này khác với thế giới ngày nay. Có lẽ không có lĩnh vực nào trong đời sống cộng đồng mà nhờ một loạt yếu tố như giải phóng phụ nữ, phân tâm học Freud, tôn sùng rèn luyện thân thể, tính độc lập của tuổi trẻ, lại có thể biến đổi hoàn toàn trong vòng
một đời người như quan hệ giữa hai giới tính. Nếu cố diễn giải sự khác biệt giữa đạo đức của giới trung lưu thế kỷ 19, mà về bản chất là đạo đức của kỷ nguyên Victoria, và những quan điểm đang có giá trị ngày nay, tự do hơn và phóng khoáng hơn, thì mô tả gần đúng nhất chính là kỷ nguyên đó sợ sệt, tránh né vấn đề tình dục là do cảm giác bất an nội tâm. Những thời đại trước đó, vẫn còn tín ngưỡng trung thực, đặc biệt là thời Thanh Giáo nghiêm khắc, vấn đề lại thành ra dễ dàng hơn. Thấm nhuần niềm tin chân thật rằng ham muốn tình dục chính là cái gai của quỷ dữ và khoái lạc xác thịt là gian dâm và tội lỗi, các bậc quyền uy thời Trung cổ đã đi thẳng vào vấn đề và với việc cấm đoán nghiêm ngặt đi kèm những biện pháp trừng phạt tàn bạo - đặc biệt là ở Genève thành trì của Thần học Calvin - họ đã áp đặt được đạo đức cứng rắn của mình. Ngược lại, thế kỷ của chúng tôi, một kỷ nguyên khoan dung nhân từ, từ lâu đã không còn tin vào quỷ dữ và hầu như không còn tin vào Chúa trời, không có đủ can đảm để tiếp cận đề tài bị nguyền này ở mức cực đoan như vậy, nhưng lại vẫn xem tình dục như là một yếu tố không kiểm soát được và vì vậy mà là yếu tố mang tính quấy rối, không thể đưa vào trong các giá trị đạo đức, và là cái mà ta không được phép bàn luận công khai, vì mọi hình thức của một tình yêu tự do, một tình yêu ngoài hôn nhân đều phản lại “đạo đức” của giới trung lưu. Trong mâu thuẫn như thế, kỷ nguyên đó đã nghĩ ra một thỏa hiệp kỳ lạ. Nó giới hạn đạo đức của nó, bằng cách tuy không cấm người trẻ tiến hành đời sống tình dục, nhưng yêu cầu họ phải làm cái việc đáng xấu hổ đó một cách kín đáo. Nếu như không thể loại bỏ tình dục ra khỏi thế giới được thì ít nhất là cũng phải làm nó vô hình trong thế giới đạo lý của họ. Tức là người ta đã đưa ra thỏa thuận ngầm, rằng không thảo luận toàn bộ sự việc phức tạp và gây bực mình đó cả ở trường, lẫn trong gia đình lẫn công khai và đè nén xuống tất cả những gì có thể gợi nhớ tới sự tồn tại của nó.
Chúng ta ngày nay, nhờ Freud đã biết được rằng cố đẩy bản năng tự nhiên khỏi nhận thức chẳng những không loại bỏ được chúng mà chỉ đẩy chúng một cách đầy nguy hiểm sâu vào trong tiềm thức, thì dễ dàng cười sự thiếu hiểu biết của cách thức giấu giếm thơ ngây đó. Nhưng toàn bộ thế kỷ 19 thật sự đã vướng mắc
vào trong sự điên rồ đó, người ta tin rằng có thể giải quyết mọi xung đột nhờ lý trí, và giấu giếm điều tự nhiên đó sẽ làm giảm sức mạnh vô trật tự của nó; tức là khi hoàn toàn không giảng giải gì về sự tồn tại của nó cho những con người trẻ tuổi thì họ sẽ quên mất nhu cầu tình dục của mình. Trong cơn cuồng tín đó, tất cả các thể chế đã hợp lực với nhau im lặng kín mít. Trường học và nhà mục vụ, phòng khách và tư pháp, báo và sách, thời trang và đạo đức tránh né mọi đề cập đến vấn đề này, và thậm chí khoa học, mà nhiệm vụ chính yếu là tiếp cận mọi vấn đề một cách không thành kiến, đáng trách thay, cũng tham gia vào nhóm “điều gì tự nhiên thì đều là xấu” này. Cả nó cũng bị khuất phục trước lý lẽ rằng nghiên cứu những đề tài như vậy sẽ làm mất phẩm giá của khoa học. Lật lại sách vở thời đó dù ở bất cứ lĩnh vực nào, triết, luật hay y khoa, người ta cũng sẽ thấy cùng một điều, mọi tranh luận đều bị tránh né. Khi các học giả về luật hình sự thảo luận về các giải pháp nhân đạo trong trại giam và sự xuống cấp đạo đức của cuộc sống trong tù trên bàn hội nghị, họ dè dặt lướt qua vấn đề cốt lõi thật sự. Các bác sỹ thần kinh cũng không dám thừa nhận, dù biết rõ nguyên nhân chứng bệnh cuồng loạn nào đó trong nhiều trường hợp, và người ta biết được qua Freud, rằng người thầy Charcot đáng kính đã thú nhận riêng với ông, rằng ông biết nguyên nhân thật sự, nhưng không bao giờ phát biểu công khai. Cái thời đó văn học được gọi là “đẹp” không được phép mạo hiểm mô tả chân thật, vì nó được giao cho độc quyền lĩnh vực thẩm mỹ-cái đẹp. Trong khi ở các thế kỷ trước, nhà văn không ngần ngại đưa ra một bức tranh văn hóa trung thực và toàn diện về thời của mình, trong khi người ta còn có được những mô tả không bị bóp méo tình trạng thực ở Defoe, ở Abbé Prévost, ở Fielding và Retif de la Bretone, thì cái kỷ nguyên đó cho rằng chỉ được phép đề cập đến “cảm xúc” và “cao cả”, nhưng không được phép bàn đến cái xấu hổ và cái thật. Vì vậy mà trong văn học thế kỷ 19, hầu như người ta không tìm thấy được một phản ánh thoảng qua nào tất cả những mối nguy hiểm, những tối tăm, bối rối của tuổi trẻ đô thị. Ngay cả khi một nhà văn táo bạo nhắc tới việc mãi dâm thì ông cũng tin rằng phải quý tộc hóa họ, xức nước hoa cho người nữ anh hùng trở thành “trà hoa nữ”. Tức là chúng ta đứng trước sự thật kỳ lạ, rằng khi một người trẻ tuổi ngày nay giở những quyển tiểu thuyết, ngay cả những
tiểu thuyết của những bậc thầy thời đó ra, các tác phẩm của Dickens và Thackeray, Gottfried Keller và Bjömson, để biết giới trẻ của thế hệ trước và trước đó đã đấu tranh xuyên qua cuộc sống ra sao, thì anh ta chỉ tìm thấy những sự việc đã được thanh lọc và giảm nhẹ - ngoại trừ ở Tolstoy và Dostoyevsky, những người Nga đứng ngoài chủ nghĩa lý tưởng giả tạo của châu Âu. Và không gì cho thấy rõ tính căng thẳng gần như cuồng loạn của đạo đức tổ tiên này và của bầu không khí mà ngày nay đã không còn có thể tưởng tượng ra được hơn là việc ngay cả sự kiềm chế văn học đó cũng vẫn còn chưa đủ. Vì người ta có thể tưởng tượng được không, rằng một quyển tiểu thuyết tương đối khách quan như Bà Bovary đã bị một tòa án công cộng ở Pháp cấm vì cho rằng “dâm dật”? Rằng trong thời trẻ của tôi, tiểu thuyết của Zola đã được cho là khiêu dâm hay một văn hào tân cổ điển điềm đạm như Thomas Hardy lại gây ra nhiều cơn bão phẫn nộ ở Anh và Mỹ? Dù có dè dặt tới đâu, những quyển sách đó đã hé lộ quá nhiều thực tế.
Nhưng chúng tôi đã lớn lên trong bầu không khí ngột ngạt, bão hòa sự oi bức, và được xức thơm đó. Chính thói đạo đức giả và phi tâm lý của sự im lặng và che giấu đã đè nặng lên thời trẻ của chúng tôi như một cơn ác mộng, và bởi thiếu những tài liệu văn học và lịch sử văn hóa phù hợp bởi cái phương cách đoàn kết đồng tâm im lặng đó, nên thật không dễ tái hiện lại điều đã trở nên khó tin. Tuy vậy, vẫn có một chỉ dấu nhất định: thời trang, vì thời trang của một thế kỷ cũng vô tình bộc lộ đạo đức của nó qua thị hiếu được thể hiện. Thật sự không thể là ngẫu nhiên, khi ngày nay, ở năm 1940, nếu trông thấy phụ nữ và đàn ông của xã hội năm 1900 trong trang phục thời đó trên màn ảnh rạp chiếu phim, thì khán giả từ thành thị đến làng quê châu Âu hay Mỹ đều nhất loạt cười phá lên. Cả những người ngây thơ nhất cũng cười chê tạo hình kỳ lạ đó của ngày hôm qua không khác gì tranh biếm họa - những tên hề mặc trang phục không tự nhiên, không dễ chịu, không hợp vệ sinh, không thực tế; thậm chí ngay với chúng tôi, những người còn tận mắt nhìn thấy mẹ, cô dì và bạn gái trong những chiếc váy ngớ ngẩn ấy, chúng tôi, những người thời thiếu niên cũng đi lại trong chính những trang phục nực cười như vậy, đó dường như cũng là một giấc mơ ma quái,
rằng cả một thế hệ sao có thể khuất phục một cách phục trang ngu xuẩn đến vậy mà không hề phản kháng. Ngay thời trang đàn ông với cổ áo đứng, cao và cứng, được gọi là “kẻ giết cha”, làm cho mọi cử động mềm dẻo nào cũng trở nên bất khả, với những chiếc áo đuôi dài màu đen và những chiếc mũ chóp cao tựa ống khói đã kích thích tiếng cười rồi chứ đừng nói tới các bà ngày xưa trong những bộ trang phục tốn nhiều công lao và sức lực, mỗi một chi tiết đều đi ngược lại tự nhiên! Ở giữa thân bị cột chặt lại như một con ong bởi chiếc áo nịt làm từ sừng hàm của cá voi, phần dưới thì lại phồng ra thành một cái chuông khổng lồ, cổ đóng kín tới tận cằm, chân bị phủ kín cho tới từng ngón chân, tóc được búi cao với vô số những lọn tóc và cuộn tóc và bím tóc dưới một cái nón khổng lồ lắc lư hùng vĩ, đôi bàn tay nhét vào găng ngay cả trong mùa hè nóng nực nhất, người phụ nữ đã thuộc về lịch sử này, mặc dù có nước hoa phủ mây quanh, mặc dù đeo đầy trang sức, mặc cho bao loại ren, diềm xếp nếp và trang sức đắt tiền nhất, vẫn trông giống một sinh vật bất hạnh, bất lực đến đáng thương. Từ cái nhìn đầu tiên, người ta đã nhận thấy rằng một phụ nữ như thế, mang trên người một trang phục giống như hiệp sỹ trong bộ giáp trụ, không còn có thể tự do nhún nhảy đi lại một cách duyên dáng được, rằng mỗi một cử động, mỗi một cử chỉ và tiếp theo đó là toàn bộ tư thế của cô trong bộ trang phục như vậy chắc chắn phải gượng gạo, thiếu tự nhiên, phản tự nhiên. Chỉ riêng trang phục cho “phụ nữ” không thôi - còn chưa nói đến sự giáo dục xã hội -, việc mặc vào và cởi ra những chiếc áo váy đó đã là một thủ tục nhiêu khê, mà nếu không có sự giúp đỡ của người khác thì hoàn toàn không tự làm được. Đầu tiên là có vô số móc và khoen phải được cài, chiếc áo nịt ngực được xiết lại bằng tất cả sức lực của cô hầu, mái tóc dài - tôi nhắc cho giới trẻ nhớ, rằng trước đây ba mươi năm, ngoài vài mươi nữ sinh viên người Nga thì mọi phụ nữ châu Âu đều có thể xõa tóc đến tận hông - được một thợ uốn tóc đến hằng ngày làm xoăn, xếp đặt, chải, vuốt và bới lên cao với hằng hà sa số kẹp tóc, trâm và lược, dưới sự giúp đỡ của kéo ép tóc và lô uốn tóc, trước khi người ta dùng những chiếc váy lót, yếm, áo chẽn và áo khoác quấn quanh họ như những lớp vỏ hành và biến đổi họ cho tới khi phần còn lại cuối cùng từ hình dạng phụ nữ và cá nhân họ cũng biến mất. Nhưng việc vô lý ấy có một ý
nghĩa bí mật. Đường cong thân thể của một người phụ nữ cần phải được che đậy hoàn toàn qua những thao tác đó, tới mức ngay cả chú rể trong lễ cưới cũng mờ mịt không thể đoán được liệu người bạn đời của mình thẳng người hay còng lưng, béo hay gầy, chân ngắn hay chân dài; thời kỳ “đạo đức” này cũng xem là bình thường chuyện người ta dùng những biện pháp nhân tạo điểm trang thêm cho tóc, cho bộ ngực hay cho những phần thân thể khác để đánh lừa hay thích ứng với cái đẹp lý tưởng chung. Một người phụ nữ trông giống một “quý bà” chừng nào thì càng ít thấy được hình dáng tự nhiên của cô; về cơ bản thì thời trang này với nguyên tắc chủ đạo cố ý chỉ nhằm phục vụ cho xu hướng đạo đức chung của thời đó, mà mối bận tâm chính là che đậy và giấu giếm.
Nhưng cái đạo đức thông thái đó hoàn toàn quên rằng khi người ta đóng cửa không cho quỷ vào thì nó thường vẫn sẽ chui qua ống khói hay cửa hậu để vào bên trong. Ngày nay khi nhìn những trang phục đó, những trang phục muốn che đậy mọi dấu vết của da thịt trần trụi và nở nang tự nhiên, thì nổi bật trước mắt ta lại hoàn toàn không phải là tính đạo đức của nó mà trái lại, chính là việc thời trang đó đã tạo nên những thái cực giới tính một cách thách thức tới đáng xấu hổ. Trong khi nam nữ trẻ tuổi thời chúng ta, đều có thể cao và gầy, đều có thể nhẵn nhụi mày râu và đều có thể để tóc ngắn, vẻ ngoài cũng có thể tương đồng thì giới tính thời đó tạo khoảng cách với nhau, xa nhau hết mức có thể được. Đàn ông để râu dài hay ít nhất là xoắn ria mép lên như là cách phô trương vẻ nam tính, trong khi chiếc nịt ngực phô bày đặc điểm giới tính cơ bản của phái nữ. Cả trong thái độ ứng xử, cái được gọi là phái mạnh cũng được đối lập quá mức với phái yếu, trong đó người ta yêu cầu đàn ông phải mạnh mẽ, hào hiệp và chủ động, đàn bà thì phải nhút nhát, rụt rè và thụ động, mối quan hệ giữa thợ săn và chiến lợi phẩm, thay vì bình đẳng. Sự đối lập không tự nhiên từ vẻ ngoài đến hành vi đó đã khắc sâu thêm đối lập nội tâm giữa các thái cực, tức là sự ham muốn tình dục, và vì vậy mà khi áp đặt phương pháp phản tâm lý - che đậy và im lặng - xã hội thời đó đã đạt điều ngược lại. Do luôn tìm kiếm cái phi đạo đức trong mọi mặt của cuộc sống, của văn học, nghệ thuật và phục trang trong nỗi lo sợ và ra vẻ đoan
trang để che đậy mọi sự quyến rũ, nên họ buộc phải không ngừng nghĩ về cái phi đạo đức. Và vì liên tục tìm kiếm những gì là không phù hợp nên họ liên tục ở trong một trạng thái cảnh giác; thế giới thời đó của “đạo đức” dường như lúc nào cũng bị một mối nguy hiểm chết người đe dọa: ở mỗi một cử chỉ, mỗi một từ ngữ. Có lẽ ngày nay ta còn có thể hiểu được việc thời đó phụ nữ mặc quần chơi thể thao hay chơi trò chơi bị xem là tội lỗi. Nhưng làm sao ta hiểu được cái vờ đoan trang đến độ điên rồ rằng phụ nữ thời đó còn không được phép hé môi nói ra từ “cái quần”? Cô ấy, nếu muốn nhắc tới một vật thể nguy hiểm như cái quần của đàn ông, thì phải chọn một từ ngữ vô tội như “váy chân” hay cái tên tránh né được phát minh ra cho việc đó: “cái không nói ra được”. Hay chuyện một nhóm người trẻ tuổi cùng tầng lớp nhưng khác giới tính được phép tổ chức một chuyến đi dã ngoại không có người giám sát là việc hoàn toàn không thể tưởng tượng được - hay nói cách khác, ý nghĩ đầu tiên là có thể “xảy ra” chuyện gì đó. Một sự gần gũi đến vậy cùng lắm chỉ được phép diễn ra khi có người giám sát, những bà mẹ hay gia sư theo sát từng bước một. Việc các cô gái trẻ chơi quần vợt trong trang phục để lộ chân hay để tay trần, kể cả trong mùa hè nóng nực nhất, được xem như là một vụ bê bối, và một phụ nữ đoan trang ngồi vắt chéo chân trước mặt người khác thì là một điều khiếm nhã ghê gớm, vì mắt cá chân của cô có thể bị lộ ra dưới gấu váy. Ngay cả các nguyên tố của tự nhiên, như mặt trời, nước và không khí, cũng không được chạm đến làn da trần trụi của một người phụ nữ. Dưới làn nước biển, những người phụ nữ cực nhọc bước đi trong trang phục nặng nề, kín từ cổ đến tận gót chân, trong trường nội trú và tu viện, để quên rằng họ có một thân thể, các cô gái trẻ phải tắm trong những chiếc áo dài màu trắng lượt thượt. Nói không ngoa, một phụ nữ đến khi nằm xuống thì cũng không có ai nhìn thấy bờ vai hay đầu gối của họ ngoài người đỡ đẻ, người chồng và người rửa ráy xác chết. Ngày nay, bốn mươi năm sau, tất cả những việc này nghe như truyện cổ tích hay bị cường điệu quá mức. Nhưng nỗi sợ hãi đó, trước tất cả những gì liên quan đến thân thể và tự nhiên, thật sự đã ăn sâu vào con người, từ tầng lớp cao nhất cho tới quảng đại quần chúng với cấp độ sánh với chứng loạn thần kinh. Vì ngày nay ta còn có thể tưởng tượng được không, rằng vào
thời chuyển giao thế kỷ, khi những người phụ nữ đầu tiên dám ngồi kiểu đàn ông trên xe đạp hay thậm chí dám cưỡi ngựa thì những con người táo bạo đó đã bị nông dân ném đá vào người? Rằng thời tôi còn đi học, báo chí ở Wien đã thảo luận hàng cột về sự đổi mới được đưa ra nghị sự, thật phi đạo đức ghê gớm khi cho phép các vũ nữ ba lê trong Nhà hát Opera múa mà không cần mặc quần tất? Rằng thật là chuyện động trời khi Isidora Duncan trong những điệu vũ hết sức cổ điển lần đầu tiên đã để khán giả nhìn thấy đôi bàn chân trần dưới chiếc áo trắng, may mắn là chảy thật dài xuống dưới, thay cho đôi giày lụa thông thường? Và bây giờ hãy nghĩ đến những con người trẻ tuổi lớn lên trong một thời như thế của ánh mắt cảnh giác, họ phải cảm thấy nỗi lo sợ đạo đức bị đe dọa như thế nực cười đến thế nào ngay khi họ nhận ra cái áo choàng đạo đức nhỏ bé mà người ta muốn khoác cho sự việc này thêm phần bí mật, cái áo choàng đó hết sức mỏng manh, đầy các đường rách và lỗ thủng. Cuối cùng thì cũng không thể tránh được việc một trong số năm mươi học trò bắt gặp thầy giáo của anh ta trong một ngõ hẻm tối tăm nào đó, hay người ta nghe lén được trong vòng gia đình, rằng người này hay người nọ trước mặt thì làm ra vẻ khả kính nhưng sau lưng lại làm nhiều chuyện tội lỗi. Thực tế, không có gì kích thích và bức bách sự tò mò của chúng tôi như cái cách che đậy vụng về ấy; và vì người ta không cho phép những điều tự nhiên được tự do và không muốn công khai để cho nó đi trên con đường cái quan, nên sự tò mò trong một thành phố lớn đã tạo cho nó những lối thoát ngầm và phần lớn đều không sạch sẽ cho lắm. Trong mọi tầng lớp, qua sự đè nén này ở giới trẻ, người ta cảm nhận được một sự kích động ngầm quá mức bộc lộ ra một cách trẻ con và bất lực. Hầu như không một bờ tường hay chỗ khuất nào là không bị bôi đầy những từ ngữ và hình vẽ thiếu đứng đắn, hầu như không một hồ bơi nào mà bức tường gỗ ngăn khu tắm nữ không bị đục đầy những lỗ gọi là “mắt gỗ”. Nhiều ngành công nghiệp, mà ngày nay đã suy tàn từ lâu bởi việc tự nhiên hóa đạo đức, đã phát đạt trong bí mật, trước hết là ngành công nghiệp ảnh khỏa thân, mà những người bán dạo lén lút chào mời các anh chàng trưởng thành dở dương trong các quán rượu. Hay ngành công nghiệp văn học khiêu dâm “dưới lớp áo choàng” - vì văn học nghiêm túc buộc phải lý tưởng và thận trọng -
của những quyển sách thuộc loại tồi tệ nhất, in trên giấy xấu, viết bằng một ngôn ngữ tệ hại và tuy vậy vẫn bán chạy hết sức, cũng như những tạp chí “khêu gợi”, mà ngày nay người ta không còn tìm được tờ nào kinh tởm và dâm dục như vậy. Bên cạnh Nhà hát Hoàng gia, cái phải phục vụ cho lý tưởng của thời đó với tinh thần cao quý và sự trong sạch như tuyết của nó, cũng có những nhà hát và những màn kịch chỉ diễn những câu chuyện tiếu lâm tục tĩu nhất; cái bị ức chế đã tạo ra những con đường lầm lạc, đường vòng và đường tránh ở mọi nơi. Vì vậy mà thật ra thì cái thế hệ đó, thế hệ mà người ta giả vờ đoan trang cấm đoán mọi sự giải thích và mọi sự gần gũi vô tư với giới tính khác, còn hướng tới tình dục hơn hàng ngàn lần giới trẻ ngày nay được tự do yêu đương. Vì chính cái không được phép lại càng khuấy động sự thèm thuồng, chính cái bị cấm đoán mới kích thích sự ham muốn, và mắt nhìn thấy càng ít, tai nghe được càng ít, thì mơ tưởng càng nhiều hơn. Người ta để cho không khí, ánh sáng và ánh nắng tiếp cận thân thể càng ít thì các giác quan lại càng bức bối. Rốt cuộc, cái áp lực xã hội đè lên chúng tôi đó, thay vì tạo nên một tầng đạo đức cao cả hơn thì chỉ tạo ra sự nghi ngờ và cay đắng trong chúng tôi đối với mọi thể chế. Ngay từ ngày đầu tiên bừng tỉnh, chúng tôi theo bản năng đã cảm nhận được rằng với sự cấm đoán và che đậy ấy, thứ đạo đức không thành thật này muốn tước đi thứ gì đó của chúng tôi, thứ đáng lẽ phải thuộc về tuổi của chúng tôi một cách đường hoàng và điều này làm tiêu biến ý muốn trung thực của chúng tôi vì những ngầm định từ lâu đã không còn đúng nữa.
Nhưng cái “đạo đức xã hội” đó, một mặt thì đặt tính riêng tư như là tiền đề cho sự tồn tại của tình dục và diễn tiến tự nhiên của nó, mặt khác lại hoàn toàn không muốn thừa nhận công khai điều đó, thậm chí còn lừa dối đến hai lần. Vì trong khi nó nhắm một mắt với những người đàn ông trẻ và thậm chí còn nheo nốt con mắt kia để khuyến khích họ “mài sừng”, như người ta thường giễu cợt như vậy trong lối nói suồng sã, thì nó lại sợ sệt nhắm cả hai mắt với phụ nữ, giả như mù. Việc một người đàn ông cảm thấy những thôi thúc của bản năng và được phép cảm nhận thì nó ngầm thừa nhận. Còn việc một phụ nữ cũng có thể bị thôi thúc này khuất phục, rằng tạo hóa
cũng cần một cực nữ tính cho mục đích muôn đời, nếu như thừa nhận thì sẽ vi phạm đến khái niệm “thánh thiện của người phụ nữ”. Thế là trong thời tiền Freud, thỏa thuận đó đã thắng thế, xác lập như là chân lý, rằng phụ nữ hoàn toàn không có ham muốn xác thịt, chừng nào chưa bị người đàn ông đánh thức, việc mà tất nhiên chỉ được cho phép chính thức trong khuôn khổ đời sống vợ chồng. Nhưng vì bầu không khí - đặc biệt là ở Wien - vào thời đạo đức đó cũng chứa đầy những chất gợi tình lây nhiễm nguy hiểm, cho nên một cô gái xuất thân trong một gia đình nề nếp phải sống trong một bầu không khí tiệt trùng hoàn toàn từ lúc sinh ra cho tới cái ngày cùng chồng rời khỏi lễ đường. Để bảo vệ các cô gái trẻ, người ta không để các cô một mình trong bất cứ khoảnh khắc nào. Các cô có gia sư, người có nhiệm vụ lo cho các cô không phải bước một bước ra ngoài cửa nhà mà, xin Chúa phù hộ, không có ai trông nom, các cô được đưa đến trường, đến lớp học khiêu vũ, đến lớp học nhạc và được đón về. Bất cứ quyển sách nào các cô đọc cũng đều bị kiểm soát, và đặc biệt người ta làm cho các cô gái trẻ luôn luôn bận rộn, để đánh lạc hướng họ khỏi những ý nghĩ nguy hiểm có thể có. Họ phải tập dương cầm, học hát và vẽ và học ngoại ngữ và lịch sử nghệ thuật và lịch sử văn học, người ta đào tạo họ và đào tạo quá mức cho họ. Và trong khi người ta cố gắng làm cho họ được đào tạo và được giáo dục tốt, thì đồng thời cũng sợ sệt lo cho các cô vẫn ở trong tình trạng hoàn toàn không hiểu biết gì về những việc của tự nhiên, một tình trạng mà ngày nay chúng ta thật không thể tưởng tượng ra được. Một cô gái trẻ từ gia đình nề nếp không được phép có được sự tưởng tượng nào về việc cơ thể đàn ông ra sao, không được phép biết trẻ con ra đời như thế nào, vì thiên thần này khi bước vào hôn nhân không những phải trinh trắng về thể xác mà còn phải “tinh khiết” trong tâm hồn. Được giáo dục tốt của một cô gái trẻ thời đó hoàn toàn đồng nghĩa với xa lạ với cuộc sống; và với nhiều phụ nữ thời bấy giờ thì sự xa lạ với cuộc sống đó thỉnh thoảng vẫn ở lại với họ suốt đời. Cho tới ngày nay, câu chuyện kỳ cục của một người dì vẫn khiến cho tôi buồn cười, người trong đêm tân hôn vào lúc một giờ sáng bất thình lình xuất hiện trước cửa căn hộ của cha mẹ và kéo chuông không ngưng nghỉ, bà không bao giờ muốn nhìn lại con người gớm guốc đó, người bà đã kết hôn, hắn ta là một
tên quái vật điên loạn, thật sự đã muốn cởi quần áo bà ra. Bà phải cố gắng lắm mới chạy thoát được khỏi ham muốn bệnh hoạn rõ rành rành đó.
Bây giờ thì tôi không thể giấu giếm, rằng sự thiếu hiểu biết đó mặt trái lại có sức quyến rũ bí ẩn đối với các cô gái trẻ thời đó. Những sinh linh còn chưa đủ lông đủ cánh này linh cảm thấy rằng bên cạnh và phía sau thế giới riêng của họ còn có một thế giới khác mà họ không biết và không được phép biết gì về nó, và điều đó khiến họ tò mò, ao ước, ngây ngất, gây bối rối và thật cám dỗ. Khi người ta chào họ trên phố, họ đỏ mặt - ngày nay có còn cô gái trẻ đỏ mặt nữa không? Khi có dịp tụ lại với nhau, họ cười khúc khích và thì thầm và cười to không dứt như những người ngà ngà say. Háo hức chờ đợi tất cả những gì còn chưa biết tới, những gì mà họ bị đặt ra ngoài vòng, họ mơ mộng lãng mạn về cuộc sống nhưng đồng thời cũng đầy thẹn thùng, sợ ai đó phát hiện ra rằng thân thể họ cũng muốn nhận được những âu yếm đó, thứ mà họ chẳng hiểu biết gì. Một sự bối rối nhỏ liên tục làm rối loạn toàn bộ hành vi của họ. Họ đi đứng khác các cô gái ngày nay, những người mà thân thể được rèn luyện qua thể thao, vô tư và thoải mái đi giữa những người đàn ông trẻ tuổi như là một trong số họ; thời đó, từ cách xa cả ngàn bước chân, người ta có thể nhìn cách đi đứng và cử chỉ mà phân biệt được một cô gái trẻ với một người phụ nữ đã biết đàn ông. Họ nhiều tính con gái hơn và ít tính đàn bà hơn các cô gái ngày nay, về bản chất họ tương tự như những loài cây được nuôi lớn trong nhà kính trong một bầu không khí nhân tạo ấm áp và được che chở trước mọi cơn gió độc hại: sản phẩm được nuôi dưỡng hết sức khéo léo của một nền văn hóa và giáo dục nhất định.
Nhưng xã hội thời đó muốn cô gái trẻ phải như vậy, ngốc nghếch và không được chỉ dẫn, được giáo dục tốt và không biết gì, tò mò và nhút nhát, không chắc chắn và phi thực tế, và qua cách giáo dục xa rời cuộc sống đó mà có một điều đã được quyết định ngay từ đầu, cô ấy rồi sẽ là người nhu nhược được chồng uốn nắn và dẫn dắt. Truyền thống che chở họ như là biểu tượng của lý tưởng thầm kín nhất, như là biểu tượng của tính thùy mị nữ giới, của trinh tiết, phi trần tục. Nhưng tấn bi kịch nào sẽ xảy ra khi một trong những cô gái
"""