🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tự Vị Tiếng Nói Miền Nam Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn Vương Hồng Sển Tự vị tiếng nói miền Nam Nhà xuất bản Trẻ https://thuviensach.vn 4 TVTNMN https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN 5 Lời giới thiệu Trước 1995, những khi thắc mắc về những từ gốc Trung Hoa, gốc Khơ-me hay những địa danh, tôi thường đến nhà chú Vương - đó là cách tôi xưng hô với Cụ do sự cách biệt về tuổi tác và lòng kính trọng. Nay ngồi đọc lại từng trang quyển ” Tự Vị Tiếng Nói Miền Nam”, tôi có cảm tưởng như đang nghe chú Vương nói về các từ gốc Triều Châu: lì xì, thèo lèo, mửng...; các từ gốc Quảng Đông: hẩu, xá xíu, xiếu mại...; các từ gốc Khơ-me: bưng, nóp, bò hóc, bò ót...; và gốc Pháp: xà ích, dinh tê. Về từ “dinh tê” chẳng hạn, Cụ Vương kể rằng đó là từ nói trại động từ “rentrer” của Pháp theo lối phát âm của đồng bào miền Bắc, chỉ việc những người tản cư khi Pháp tái chiếm các đô thị sau 1945, sau thời gian sống trong vùng tự do, vì nhớ tiếc đời sống thị thành đã trở về sống ở vùng Pháp ngụy. Rồi nhân đó, Cụ sẽ kể từ “tụt tạt” là một từ nảy sinh trong thời kháng chiến, cũng ở miền Bắc, chỉ việc mấy người theo kháng chiến nhát gan, khi đối diện với binh lực đối phương thường tìm cách “tụt” xuống phía sau hay “tạt” sang bên này bên kia để tránh địch. Cách trình bày do sự liên tưởng trong lúc hứng thú khiến đôi khi Cụ không giữ đúng lối sắp xếp các mục từ thông thường trong từ điển. Sau khi kể các tư liệu về lịch sử, địa lý, dân cư... của tỉnh Bà Rịa chẳng hạn, Cụ kể luôn tất cả các tỉnh Nam Bộ, từ Bạc Liêu đến Vĩnh Long theo thứ tự a,b,c, cũng với đầy đủ các chi tiết về mỗi tỉnh. Các địa danh về cù lao, cửa, núi, sông, giồng, gò... cũng được trình bày theo cách ấy. Tuy có hơi mất thời giờ trong sự tra cứu, nhưng người đọc sách nhờ giọng nói hóm hỉnh của tác giả thấy hứng thú hơn sự tiếp thu các kiến thức sâu rộng của Cụ. https://thuviensach.vn 6 TVTNMN Và từ chỗ cảm thấy mình gần gũi với tác giả hơn, ta sẽ dễ dàng chia sẻ với Cụ những gian nan vất vả của nhà nghiên cứu đi sâu vào nhiều ngành chuyên môn (địa lý, lịch sử, ngôn ngữ, dân tộc học, phong tục học....) với một sự tận tụy không mệt mỏi vì tinh thần tôn thờ sự chính xác. Sau khi giảng giải từ “dỏ” trong địa danh “Dỏ Sa” chẳng hạn, Cụ đặt vấn đề: có phải “dỏ” đã do sự phát âm sai biến đổi thành “vỏ” trong các địa danh Vỏ Đắc, Vỏ Đắt, Vỏ Đất? Tác giả cũng đã chia sẻ cùng người đọc nhiều nỗi băn khoăn trong việc giảng giải địa danh “Giu Gia”, tên nôm của huyện Phong Thạnh ngày trước nay thuộc tỉnh Sóc Trăng, chẳng hạn. Đọc “Tự Vị Tiếng Nói Miền Nam” của cụ Vương Hồng Sển, chúng ta sẽ vừa tìm được nhiều chỉ dẫn quí báu về địa danh, về tiếng nói Nam Bộ xưa và nay, vừa được thưởng thức cách kể chuyện rất duyên dáng của một cụ già vừa có hiểu biết sâu rộng về nhiều ngành chuyên môn, vừa rất từng trải trong cuộc sống. TP.Hồ Chí Minh, 15.4.1998 Bùi Đức Tịnh Giới thiệu và hiệu đính https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN 7 Cảm nghĩ Nhân đọc “Tự Vị Tiếng Nói Miền Nam” - sách tái bản trong loạt sách kỷ niệm 300 năm SG-TP.HCM. Quyển Tự Vị Tiếng Nói Miền Nam (nguyên bản của soạn giả ghi “Tự Vị tiếng Việt miền Nam”) đã được độc giả đón nhận với sự nồng nhiệt, mặc dầu đề tài như khô khan, của địa phương. Thật ra, ngay từ trước 1975, khi đất nước chưa thống nhất, người quê Nam Bộ đã tập kết ở miền Bắc trong thời gian dài, cưới vợ lấy chồng, sự giao lưu thông cảm khá rộng rãi. Người khó tánh có thể cho rằng những từ ngữ trong Tự Vị này là phương ngữ (tiếng lóng) của địa phương, nhưng gẫm lại, nếu nó đã được vài triệu người dùng đến thì khó gọi là tiếng lóng, thổ ngữ... vài từ ngữ trong Tự Vị này vẫn còn gây ngạc nhiên, khó hiểu - hoặc hiểu bằng trực giác - đối với chính người sống ở Nam Bộ nhưng tại địa phương khác, tỉnh khác, hoặc đã lên Sài Gòn từ thuở bé. Hồi cuối thế kỷ thứ 19, Huỳnh Tịnh Của đã cho in tại Sài Gòn quyển Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, rất hữu ích, nghiêng về tiếng nói ở phía Nam. Huỳnh tiên sinh là người gốc Bà Rịa, nên đã thiên về tiếng nói ở miền Đông Nam Bộ. Lần này, non 100 năm sau, tận phía Hậu Giang, nơi có nhiều người dân tộc Khơ-me, nhiều người Hoa, ông Vương Hồng Sển ngẫu nhiên đã phản hồi lại, với thiện chí của kẻ đi sau. Quyển Tự Vị này gẫm lại là một sự góp nhặt tư liệu, chưa sắp xếp cho ổn thỏa, khó tra cứu, nhưng làm sao sắp xếp được? Nên nhớ ông Vương chuyên chơi đồ sành sứ, ham thích giao du, ưa đọc sách in từ xưa, siêng ghi chép, gặp cái gì lạ là ghi, qua nhiều người bạn già đã mất rồi, mất trước ông. Ông lại thích nghiên cứu sách của người Pháp https://thuviensach.vn 8 TVTNMN viết về Nam Bộ, ba con của ông là dân Sốc Trăng rất am tường về người Khơ-me, người Hoa. Đã là tiếng nói phổ biến của địa phương, nhất là những tên đất, dễ đặt nhiều giả thiết, chính ông Vương cũng ghi rõ các giả thiết. Tiếng Việt, tiếng Hoa là đơn âm, dễ trùng lặp nhau, cũng như tiếng Khơ-me khi nói nhanh gần như đơn âm, chính người Khơ-me khi được hỏi về địa danh xưa cũng mỉm cười, dễ dãi. Miễn là sống hòa thuận trong thôn xóm, giúp đỡ nhau thì Bố Thảo, Cái Răng, hiểu sao cũng được. Bạn đọc sẽ ngạc nhiên khi thấy nhiều tiếng khó giải thích lại được ông giải thích tường tận, như một nhà bác học. Ngược lại, thí dụ như cù lao Tân Dinh ở sông Hậu Giang, ngang Sốc Trăng đã được giải thích ở Gia Định Thành Thông Chí, là dinh tạm của Nguyễn Ánh, nhưng ông đã gây phức tạp, rối rắm thêm. Hoặc hàng hóa cũ, ở nơi đấu giá thời Pháp gọi “lạc-xon” đã được Nguyễn Liên Phong chú thích từ 1909 là do chữ “l’auction”, kiểu bán có nhân viên tư pháp đứng đấu giá đồ xưa... Ông đã đọc và ghi lại rất nhiều sách, tánh của ông là cứ mua để dành tra cứu, gần như không thích đi thư viện. Ông đã công bằng khi nhắc đến các ông bạn già là Lê Ngọc Trụ, Lê Thọ Xuân, Nguyễn Hiến Lê. Dường như quên ông Thuần Phong! Bài hát của Trần Tiến đã có lời lẽ duyên dáng: “Thấy em nhỏ xíu, anh thương”. Nhỏ xíu là tiếng duyên dáng phía Nam, theo chủ quan của tôi, xíu là tiểu, là nhỏ, đọc theo giọng người Hoa, xíu, xỉu. Bắc Nam một nhà. Dám mong các độc giả, nhất là các bạn trẻ sử dụng tài liệu đậm đặc này, bổ sung, giải thích thêm. Khẳng định đúng hay sai một cách sổ toẹt chẳng ích lợi gì cả. Thế hệ của ông Vương Hồng Sển chỉ biết ghi vào sổ tay chi chít, chưa quen dùng máy ghi âm cỡ nhỏ hoặc máy vi tính. Soạn quyển Tự Vị như ông, quả là cống hiến lớn cho đất nước. Một kiểu di chúc về “cổ ngoại” đắt giá hơn vàng. Vàng mua sắm được, nhưng tâm huyết của con người làm sao mua sắm nhanh chóng? Sơn Nam https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN 9 Bài Tựa thâu gọn cho cuốn Tự Vị Tiếng Nói miền Nam Tôi vốn học lem nhem, nhưng vì thấy Tiếng Nói miền Nam đang xa lần cái gốc tự nhiên của nó nên tôi đã soạn cuốn Tự Vị này và nhờ hai bạn Lê Ngọc Trụ(1) và Nguyễn Hiến Lê(2) duyệt khá kỹ, rồi tôi giao những thẻ rời cho hai bạn trẻ Nguyễn Minh Hoàng, Nguyễn Q. Thắng tìm kiểm và bổ túc, nhưng cho đến hôm nay, sách vẫn chưa thành hình. Bài tựa cũ, tôi viết quá dài(3), nay vì việc ấn loát tốn kém nhiều, nên tôi viết lại bài tựa này , và chỉ lấy một tỷ dụ nhỏ làm mẫu, tỷ như từ “cần đóp” là một loại lá cây dừa nước dùng để lợp nhà, tức lá sắp xếp từ lá rời khâu lại nguyên tờ, và vẫn khác và nên phân biệt với lá nguyên tờ mà miền Nam gọi “lá buông”. Cả hai từ ấy “cần đóp” và “buông” theo tôi đều do tiếng Miên của người Đàn Thổ (nay gọi Cam Bu Chia) biến ra tiếng Việt, nếu không cắt nghĩa tường tận thì lần hồi sẽ không ai biết nữa. (1) Lê Ngọc Trụ (1909-1979) Giáo sư, tác giả nhiều công trình nghiên cứu ngôn ngữ học Việt Nam (BT) (2) Nguyễn Hiến Lê (1912-1984) Học giả, tác giả hơn 120 bộ sách về nhiều lĩnh vực: Văn học, ngôn ngữ học (BT) (3) Tuy vậy, chúng tôi vẫn cho in ở phụ lục vì nhận thấy bài có nhiều điều có thể minh họa cho sách (BT) https://thuviensach.vn 10 TVTNMN Vả lại sức học Miên Ngữ của tôi rất non nớt, tôi không dám cho là đúng, là chắc chắn, tuy vậy cũng tạm ghi lại để chờ người cao kiến dạy thêm, thì: kon đâp slék, theo một sách Pháp viết, là assembler des feuilles (sắp lá), slek mo kăn đâp là “une paillette” (một sắp lá). Sau đó vì sống chung đụng nhau giữa người Thổ và Việt, ta đã thâu gọn vào tiếng miền Nam này, ra từ “Lá cần đóp” (lá sắp kết) và lá buông (nguyên tờ). Đến từ “buông” cũng có chút rắc rối, trong Nam này, phân biệt: rạch Lá Buôn là rạch chạy dưới chòm lá loại lá cây kè, dùng làm quạt và “rạch lá buông” (buông có g) là rạch dưới cây dừa nước, lá lấy làm lá để chép kinh Phạn (sanscrit), hoặc viết Thổ ngữ. Tôi thêm ra đây một từ khác, cũng mượn của Cơ Me (khmer) là từ “Bưng” “Bưng” là étang, ao nước sệt sệt, ta ghép với một từ Hán “Biền” hóa ra: “bưng biền” (1 nôm, 1 chữ). Truy ra “trep bươn” là herbes flottantes sur les étangs, hóa ra “buôn” (không g) và buông (có g) như kể trên. Tiếng Miên tôi không biết nhiều, nhưng vẫn gạn đi gạn lại mới dám dùng, và mấy hàng này kể như lời trối. Cẩn Tự S. (viết ngày 5.7.1993) https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN 11 Phàm lệ - Cách sắp xếp, lối viết tắt, xin theo lệ cũ, tự điển sẵn có, không cần nói lại. - PCGBCTVK: Petit cours de géographie de la Basse Cochinchine par Trương Vĩnh Ký 1ère édition, Saigon, Imprimerie du Gouvernement, 1875. - DĐTLTVK: Dư đồ thuyết lược, Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn, Imprimerie de la Mission, 1887. - L.F.C.P.: Lexique français cambodgien par A. Pannetier, Avignon H. Auzac et J. Augier, 1907. - L.E.C. et C.D.B: Les expéditions de Chine et de Cochinchine par de Bazancourt, Amiot, Paris, 1861-1862. - L.P.A.D.L.C.P.V: Les premières années de la Cochinchine par Paulin Vial, 1874. - L.S.N.C.M.N: Lịch sử nội chiến miền Nam - Tạ Chí Đại Trường, Sài Gòn, 1972. - L.R.A.D.R: Le royaume d’Annam et les Annamites par Dutreuil de Rhins, 1879. - Launay: Histoire ancienne et moderne de l’Annam (Tong King et Cochinchine) par l’abbé Adr. Launay, Challamel, Paris, 1884. - N.V: Nam Việt (bây giờ gọi là Nam Bộ) BV (Bắc Việt - Bắc bộ); TV (Trung Việt).... https://thuviensach.vn 12 TVTNMN - C.C.B.P: La Cochinchine Contemporaine par A. Bouinais et Paulus, Challamel aimé 1884. - H.E.C.L.P.B: Histoire de l ‘expédition de Cochinchine en 1861 par Léoppold Pallu de la Barrière, Berger Levrault Paris, 1888. - G.D.T.C.A: Giadinh thung chi, traduction Aubaret, Imprimerie Impériale Paris 1863. - NKLTDĐCTTT: Nam Kỳ lục tỉnh dư địa chí Thượng Tân Thị dịch, 1944. - ĐNNTCLTNV: Đại Nam nhất thống chí Lục tỉnh Nam Việt, Nguyễn Tạo dịch, 1959 (1 và 2). - GĐTTCNT: Gia Định Thành thông chí, Nguyễn Tạo dịch, 1972 (ba tập 1,2,3). - Đ.N.V.T: Đồng Nai văn tập. - S.Đ: Tập san Sử Địa. - Baurac: Dr J.C. Baurac: La Cochinchine et ses habitants: provinces de l’Ouest, 1894; provinces de l’Est, 1899. - Carte de la Cochinchine dressée d’après la carte de Mr. Charpentier, publiée à Saigon en 1868 et insérée dans l’ouvrage “Les premières années de la Cochinchine de Paulin Vial (1874). - Carte de la Cochinchine dressée d’après la carte de Dutreuil de Rhins et publiée au Dépôt de la Marine en 1881 (Histoire de l’expédition de Cochinchine 1881). - V.N.M.L. Việt Nam máu lửa, Nghiêm Kế Tổ, Hà Nội, 1954. - V.N.S.L: Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim, Hà Nội, 1938. - V.N.T.Đ: Việt Nam tự điển, Lê Văn Đức, Saigon, 1972. https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN 13 A Arroyo Commercial: đd., tên Pháp của Rạch Chanh, chữ gọi Đăng Giang. Năm Mậu Tuất (1778) chúa Nguyễn Ánh lội qua sông nầy thoát khỏi bị Tây Sơn bắt. Có thuyết nói ngài nhờ trâu đưa qua, thuyết khác nói ngài cỡi trên lưng sấu cho thêm uy tín, có thần nhơn phù hộ. Ngày nay còn lại ba kiểu chén trà ghi lại tích nầy: 1) Kiểu nói xa gần, vẽ cảnh một người cầm lọng đứng bờ sông bên kia, chờ thuyền bên nầy chống qua rước. Có đề câu thơ: Bình kiều nhơn quán độ, chuyển sức tiểu chu lai”. Ký hiệu: Ngoạn ngọc. 2) Kiểu thứ hai, vẽ y kiểu nhứt, duy thơ đề: “Ngư gia độ hoàng gia, Âm tinh ngộ đế tinh”. (Ký dưới đáy hiệu Ngoạn ngọc). 3) Kiểu thứ ba, vẽ y hai kiểu trên, nhưng không đề câu nào, (hoặc tích đã phổ biến rộng, hoặc chén riêng cho võ biền không cần đề chữ). Rạch Chanh (Đăng giang) ngày xưa lẫy lừng danh tiếng, dưới nước chứa đầy sấu dữ, ngày nay cỏ mọc loán đầy, ghe thuyền bỏ không dùng. Loài sấu rất sợ tiếng động, chỗ nào có sấu, khi tàu chạy qua lại thường, sấu sợ rút đi hết. Lời bàn phụ - Sách sử không nói rõ Nguyễn Ánh lội ngang khúc sông nào. Duy phải nhìn nhận ngài có tài lội hay mới thoát khỏi nạn dữ. Theo tôi ước định lội nơi đầu vàm, từ Vàm Cỏ chạy qua, Tây Sơn không dám rượt qua, vì thuở ấy, sông Bến Lức là ranh giới bờ cõi chia hai Tây Sơn và Đông https://thuviensach.vn 14 TVTNMN Sơn, từ Sài Gòn xuống, mé bên nầy thuộc Tây Sơn, lội qua sông, mé bên kia thuộc Đông Sơn có binh địch trấn giữ nên Tây Sơn không dám qua và nhờ vậy nên Nguyễn Ánh thoát nạn. Arroyo de la Poste: đd., tên Pháp của Bảo Định hà. Có người dịch “Kinh Bót” là sai, và nên cải chính là kinh trạm. Poste (giống cái) là nhà dây thép, chỗ gởi thơ từ. Ngày xưa trong Nam chuyển vận thơ từ theo đường thủy, nên gọi giang trạm. Và thuở nay nói đi poste gởi thơ chớ không nói đi bót gởi thơ. Poste (giống đực) là sở cẩm ngoài Bắc, trong Nam gọi bót phú lít (poste de police) hoặc bót săn đầm (gendarme). Arroyo de la Poste, tên Việt là Kinh Vũng Gù (Vũng Cù giang), Hưng Hòa giang, Bảo Định hà, v.v... Arroyo de la Poste: đd., (trích Monographie de la province de Mỹ Tho in năm 1902, để cho thấy con kinh nầy, ta gọi nhiều tên khác nhau, đây chỉ nhắc tên Bảo Định hà, dài bao dai và quan trọng thế nào: L’arroyo de la Poste, relie les chefs-lieux de Tân An et de Mỹ Tho. Il a 20 kilomètres de long sur 80 mètres de large; c’est un des arroyos les plus fréquentés par la batellerie indigène. En 1895 on a construit sur cet arroyo, à Mỹ Tho, près de son embouchure dans le grand fleuve, un pont à travées mobiles semblable à celui qui a été construit à Tân An. L’arroyo de la Poste forme un dos d’âne sur la limite du village de Tinh Hà (monogr. My Tho, tr. 19). Dịch. Kinh “Trạm Thơ” nối liền hai tỉnh lỵ Tân An qua Mỹ Tho. Dài 28 kilômét, bề ngang rộng 80 mét, ghe thương hồ bản xứ qua lại náo nhiệt nhứt. Năm 1895 (1) nơi đầu vàm trổ ra sông lớn, phía Mỹ Tho, có bắc một cây cầu sắt, nhịp cầu xây rút được, y một kiểu vở như cầu đã bắc ở phía Tân An. Arroyo de la Poste có nổi một giáp nước nơi ranh làng Tịnh Hà. (1) Nhờ câu này ta biết cầu sắt Chợ Cũ Mỹ Tho có từ năm 1895. Ngao Châu: đd., tên Hán của cù lao Bãi Ngao (xem chữ ấy). Ác Giùm Sơn: đd., tên chữ của núi Ác Giùm (xem chữ ấy). Ách, ông ách: dt. chức adjudant của Pháp qua tiếng Việt, lúc còn quân đội Pháp bên nầy, trên chức đội, nhưng vẫn thuộc hàng hạ sĩ. Ách tuổi già, trở nên khó tánh, hay phạt hay quở những lính tay trơn, còn nhớ nhà nhớ vợ, nên ông ách thường được tặng thêm và tâng lên hàng “ách xì xằng”, mới nghe lại còn gần ngữ Pháp “adjudant” hơn nữa. Ải Vân: đd., tên núi, ở t. Quảng Nam, thường có mây bao phủ trên chóp, nơi đây có xây một ải. (Viết Hải Vân, không đúng). (Nhưng nay đã quá quen dùng, và nên thông cảm, tức cả hai danh từ: Ải Vân, Hải Vân, đều dùng được, và không nên “vua hơn nhà vua” (plus royaliste que le roi!). Những ai có từng đặt chơn nơi Ải Vân này, đều công nhận quả là một cảnh kỳ tú, “trên mây dưới https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN 15 biển”, gọi “Hải Vân” nếu không cho là được thì cũng chưa sai chút nào. Một tài tử màn ảnh Pháp năm xưa từng khen với tôi: “nước anh cảnh vật nào thua bên Thụy Sĩ, như Ải Vân là một”, tưởng cũng nên chép lại đây gọi dư âm chơn tình không bịa. Xin thêm: nhớ như trên đỉnh có ba chữ Hán để lại đề: “Ải Vân Quan” rõ ràng. An Biên Phủ: đd., tên một phủ của tỉnh Hà Tiên đất Lục tỉnh Nam Kỳ đời đàng cựu, gồm ba huyện: - Hà Châu (Hà Tiên) - Long Xuyên (Cà Mau) - Kiêng (sic) Giang (Rạch Giá) (PCGBCTVK) An Bình giang: đd., tên Hán của con sông Cái Bè (xem sông Cái Bè). An Giang tỉnh: đd., tên một trong lục tỉnh Nam Kỳ đời đàng cựu, gồm ba phủ tám huyện (nay là tỉnh An Giang): - Phủ: 1) Tuy Biên (Châu Đốc) - Huyện: 1) Tây Xuyên (Cái Vừng, Ba Rách, Long Xuyên) 2) Phong Phú (Cần Thơ) - Phủ: 2) Tân Thành (Sa Đéc) - Huyện: 1) Vĩnh An (Sa Đéc) 2) Đông Xuyên (Cái Vừng) 3) An Xuyên (Nha Mân) - Phủ: 3) Ba Xuyên (Sốc Trăng) - Huyện: 1) Phong Nhiêu (Bãi Xàu) 2) Phong Thạnh (Giu Gia) 3) Vĩnh Định (Ba Xuyên) (PCGBCTVK) An Giang Trấn: một trong tám trấn đời Minh Mạng. Bảy trấn kia là Nam Vang, Gò Sặt (Pur sat), Vĩnh Thanh, Định Tường, Phan Yên, Biên Hòa và Hà Tiên (T.V.K.P.C.G.B.C) An Giang danh nhơn (triều nhà Nguyễn): Cao Đức Hùng (Nha Mân) (?-1797), chưởng cơ Đoàn Văn Trường (Cái Vừng) (?-1835), đô thống Hồ Văn Trương (Sa Đéc) (?-1803), chưởng cơ Huỳnh Phước Bửu (Châu Đốc) (?-?), chưởng cơ Nguyễn Công Trọng (Nha Mân) (?-1800), chưởng cơ Nguyễn Văn Định (Nha Mân) (?-1797), chưởng cơ Nguyễn Văn Kỳ (Sa Đéc) (?-1803), chưởng dinh Nguyễn Văn Nhơn (Sa Đéc) (?-1797), chưởng cơ Nguyễn Văn Nhơn (Sa Đéc) (1753-1820), chưởng quân quận công Nguyễn Văn Phụng (Sa Đéc) (?-1800), chưởng cơ Nguyễn Văn Tuyên (Sa Đéc) (1763-1830), thống chế (theo Lê Thọ Xuân) An Hòa Giang: đd., xem sông hay rạch An Hòa. An Phú Giang: đd., tên Hán của sông Vũng Liêm (xem chữ ấy). An Thông Hà: đd., tên Hán của khúc kinh từ rạch Ông nhỏ chảy vô Chợ Lớn (PCGBCTVK). An Thông hà nầy đào năm 1819, do sắc vua Minh Mạng sai Huỳnh Công Lý (là cha vợ) đốc xuất dân phu đào để nối liền từ https://thuviensach.vn 16 TVTNMN cầu Bà Thuông (Thị Thông) đến kinh Ruột Ngựa (đào năm 1772), vừa rộng vừa sâu, hai bên bờ để đất trống, đưa sản phẩm từ Tiền Giang lên Sài Gòn “dòng sông sâu rộng, ghe thuyền đậu dài mười dặm, theo hai con nước lúc lớn lúc ròng, thuyền bè qua lại chèo chống ca hát, ngày đêm tấp nập, làm chỗ đô hội lưu thông khắp ngả, thật là tiện lợi”. (Sơn Nam, Lịch sử khẩn hoang miền Nam, tr 54. trích lại Gia Định thông chí, Thượng, 42). An Thới Giang: đd., tên Hán của Vàm ray NV. (xem chữ ấy) (TVK). An Vĩnh Giang: đd., tên Hán của sông Cái Mơng Lớn (xem chữ ấy). An Tức Hương: dt., loại mủ thơm, vị thuốc hay thông khí (H.T.C.) (An Tức là Ba Tư (Perse, persan). Xưa Trung Hoa chưa có hương nầy và gốc từ Ba Tư đưa sang). An Xuyên Huyện (Nha Mân): đd., tên một huyện của phủ Tân Thành tỉnh An Giang đời đàng cựu (PCGBCTVK). Ao Trúc Phương: đd., ở đông bắc huyện Phước An 3 dặm, tục gọi Ao Vuông, ở phía nam lũy Phước Tứ, ao rộng 15 thước, nước trong ngọt trào ra bốn phía dùng uống được. Khi triều Nguyễn mới trung hưng, có đồn trú nơi đây để ngăn quân Tây Sơn, và có đắp bờ đê, nay vẫn còn. Phía bắc có ao cho voi tắm. (ĐNNTC N.T., 1, tr.23). Áng: Trong Kiều: áng mây vàng (lòng còn gởi áng mây vàng) áng can qua (giấn mình trong áng can qua) tr. chỗ khác: áng tóc mây, áng văn, áng thơ... Áng: từ dùng trong văn học, đặt trước một số danh từ để gợi một ý đẹp hay lớn lao (Tự điển tiếng Việt, 1967). “Hai vợ chồng người nọ đi đường, đương lúc đói bụng thì gặp một “áng thợ cắt” đương ăn cơm trưa” (truyện số 40 Sử Nam chí dị sách chữ nôm của Thư viện khoa học xã hội, tác phẩm đầu đời Nguyễn). “Dân làng Hát Môn rước tượng hai bà Trưng ra giữa sông để tắm rồi rước nước về vào áng” (truyện số 44 Sử Nam chí dị như trên). Áng thợ cắt là đám thợ cắt. Rước nước về vào áng, tức rước nước tắm tượng về đền rồi vào đám. Ở Quảng Nam có tục sau khi tế thần thì dân làng “nhập áng”, tức vào đám (theo Đào Duy Anh, Nhớ nghĩ chiều hôm). Như vậy, từ “áng” có hai nghĩa: 1) Áng tức là đám; 2) Áng, tác phẩm văn học có giá trị. Áng là một từ xưa khó hiểu. Không phải mượn của Trung Quốc, vì chữ Hán áng có nghĩa khác. Nhưng chưa khẳng định là thuộc vốn từ gốc của người Lạc Việt. Riêng từ kép “việc đồng áng” lại là một từ khác nữa. (Đ.D.A. d.t) Áo bá nạp: chữ trong ĐNQATV, ông Huỳnh Tịnh Của cắt nghĩa áo rách, áo thầy chùa vá làm trăm miếng “bá nạp”, trăm miếng trăm https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN 17 cặp. (Trong truyện Đại Minh Hồng Võ, tr. 137, c.3, in năm 1909, dịch giả Trần Phong Sắc viết áo phá nạp. Không biết danh từ nào đúng?) Archipel des Pirates: đd., tên quần đảo ở ngang vọng đăng (đèn rọi) Hà Tiên, giữa Phú Quốc và Hà Tiên, thuộc NV. Ấp Rẫy: đd., tên một ấp ở Vàm Trà Cú, làng Lưu Nghiệp An, tổng Ngãi Hòa Thượng, t. Trà Vinh cũ. Ẩu tả, thổ tả: b.h., bịnh ỉa mửa, thường do chứng thiên thời: bị ẩu tả. Ẩu: b.t, chứng nôn ọe, quen gọi là mửa; ẩu: thường đi đôi với tả: thượng ẩu hạ tả. B) càn, bừa, không suy nghĩ: nói ẩu, làm ẩu: t.d. mầy ẩu vừa vừa, ẩu quá ai mà chịu nổi. Ẩu xị: tt. vụt chạt, bừa bãi, tánh người không chừng đỗi, không suy nghĩ lo liệu trước: ẩu xị quá, có ngày bỏ mạng. Làm ẩu làm tả: làm quấy quá, cấp tốc, cho mau xong, không cần tốt hay xấu, miễn cho rồi là được. (Khi duyệt thẻ này, ông bạn quá cố, học giả Lê Ngọc Trụ khuyên tôi nên xem lại, vì ông cho rằng “ẩu” do “cẩu thả” biến “cẩu” thành ẩu. Nhưng ông Nguyễn Hiến Lê đồng ý với tôi rằng còn có dt. “ẩu xị” và chữ “xị” viết ra Hán tự ra làm sao? Vậy tôi xin giữ thẻ này làm kỷ niệm công dày hai người bạn tốt và chừa sau này giải quyết và cầu xin ý kiến bốn phương. Theo Nguyễn Hiến Lê, chữ cẩu không bao giờ đứng một mình, và luôn luôn đi với chữ khác: cẩu an, cẩu diên, v.v...) Ăn Về “ăn”, phân ra các thứ mục sau: - Cắn, gậm, nuốt: ăn cơm. - Nói chung về sự ăn uống, sự tiêu dùng: nhà đủ ăn đủ tiêu. - Nói chung cuộc ăn uống trong sự vui: ăn cưới, ăn giỗ. - Hưởng thụ cái của lợi lộc gì: ăn lương, ăn bổng. - Thu nhận một cách không chánh đáng: ăn đút. - Lấy, tìm cách mà lấy làm của mình: ăn cắp. - Vừa vặn bằng nhau: đàn ăn nhịp. - Được hơn trong cuộc đố, trong cuộc cờ bạc: ăn một độ gà chọi. - Ưng thuận, nhận chịu: ăn giá, ăn lời. - Đi kiếm ăn: vạc đi ăn đêm. - Xâm vào, bén vào: da ăn nắng. - Mua hàng, tiêu thụ đồ hàng: tàu Tây ăn gạo. Ăn mặc, ăn nói, ăn ở, ăn tiêu, ăn uống, ăn xin. bổng là roi: ăn bổng còn có nghĩa mỉa mai là chịu một hình phạt. Ý riêng xin trình bày: Trong khi sưu tập các tiếng về “ăn”, tôi bỗng nghĩ ra một phát kiến, không biết gọi như vậy có lớn lối gì chăng, nhưng giá thử gẫm xem mấy tiếng “vừa vặn, tròn trặn, vuông vắn, vân vân, vặn: lấy V của vừa ghép với “ăn”: văn, rồi theo luật hỏi ngã mà thêm dấu (như đây vừa: dấu huyền, thì đổi làm (dấu nặng). Rốt cuộc ta có: vừa vặn. https://thuviensach.vn 18 TVTNMN Tròn trặn, vuông vắn, cũng vậy... Nay nếu xem mấy tỷ dụ trên đáng coi là một luật (formation) về những tiếng kép của mình được (đây chỉ là manh nha, tôi chưa đủ sức qui luật hiện nay được), thì tôi xin các độc giả giúp tôi tìm thêm, dẫu tôi không còn để chung vui thì cũng đà toại nguyện. Ier-4-1982 S. Ăn: (động từ): nhai nuốt, hưởng dùng. Hành động để nuôi sống, làm thỏa mãn sự đói, bằng cách đưa đồ ăn vào miệng, nhai nhuyễn và nuốt: tỷ dụ: ăn cơm, ăn quà bánh, ăn lót lòng... Ăn, tức là nuốt một vật gì qua miệng. - Ăn trong 4 việc quan, hôn, tang, tế: ăn giỗ, ăn tiệc. - Nhận hưởng, tìm hưởng tiền bạc, lợi lộc: ăn lương, ăn công, ăn lận ăn gian, ăn trộm, ăn hối lộ; - Thích hợp, cắn khít vừa vặn, rập khuôn nhau: ăn nhịp, ăn răng; - Xâm nhập, dẫn tới, thấm vào, chết, lan ra: ăn lan, ăn luồn, ăn hiếp, ăn về; - Chia thành nhiều phần, chấp, trị giá: một đồng ăn tám, ăn giấy, ăn năm, ăn sáu; (xem tiếng đôi nhiều nghĩa) Ăn răng là ăn rập, ăn nhịp, nói về bộ máy, các răng ăn khớp với nhau. Các tiếng “ăn” như sau đều thành tiếng chuyên môn: mấy cái áo này dóng nhau ăn chằn chặn. Hai cánh cửa này ăn nhau như in. Đàn ăn nhịp. Sắc này ăn với sắc kia. Người này mặc đồ trắng ăn hơn đồ đen (coi được hơn). Nước da ăn phấn ăn đèn (VNTĐKTĐ). (Khi biết nghĩa chính của “ăn”, nay thử ghép vào các hình dung từ tỷ dụ như vừa, tròn, vuông, thì thành ra vừa vặn, tròn trặn, vuông vắn, v.v... để tăng sự vừa, vẻ tròn, hình vuông: - Anh bận áo này vừa quá, nếu nói vừa vặn, tức là vừa hết chỗ nói. - Chị xoe cái bánh rán này thiệt tròn trặn (tròn không chỗ chê); - Bà xã gói những chiếc bánh trưng vuông vắn quá (vuông hết sức vuông). Ba tỷ dụ dưới đây mượn của Ô. Bùi Nhung trong tập Thối nát, X.B.N 1965, tr 150). Ăn ba hột: ăn sơ, ít ít chừa bụng còn ăn nữa. Ăn bánh tét, ăn ba tê nguội, ăn roi mây Tiếng pha lửng để gọi bị đòn, ăn đòn. Tết là tiết (tế) trùng âm với tét là rách; ba tê (pâté) là một loại bánh Tây, phải ăn nóng mới ngon, nay nguội nhớ đến nóng đốt và rát rúa của lằn roi. Ăn bòn: tiếng trong Nam, xin từ chút, tham từ chút. Mình đã có mà chưa thấy đủ, lại còn tham còn lấy của người: quân ăn bòn, đồ ăn bòn mà không biết xấu (tiếng nhiếc). Ăn bánh vẽ: ăn cái không có, ăn cái tưởng tượng: bị cho ăn bánh vẽ đã mấy lần mà chưa tởn. Ăn bây: tiếng Bắc, ít dùng trong Nam: vơ lấy tiền của người đánh bạc một cách không hợp lệ. Ăn bẻo: tiếng Bắc, bớt tiền của người khác, một cách nhỏ nhen, trong Nam thường nói: ăn chận. https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN 19 Ăn bĩnh: không chịu dam tiền khi thua bạc (tiếng Bắc ít dùng trong Nam). Ăn boóng: đi theo người khác để ăn nhờ (tiếng Bắc). (Trong Nam, ăn bón là đánh bạc, nhờ vào tụ của người khác, nghĩa như “ăn ké”, tức bón vào, ké vào, không đặt ngay một tụ riêng). Ăn ké: trong Nam, ngoài Bắc nói “ăn kẹ”. Ăn cám sú: lời mắng người ngu độn: đồ ăn cám sú. Hiểu theo tục xưa, cho rằng hồn trước khi lên đầu thai, bị ép ăn cám sú để quên hết việc kiếp trước. (nghĩa như ăn cháo lú) Ăn cầm hơi: cũng như ăn cầm chừng, nhưng đã hết biết ngon: - Người bịnh ăn cầm hơi; mẹ trông con, ăn cầm hơi đợi ngày về đoàn tụ. Ăn cẫm địa: ăn phần kiếng biếu, vì mình đã có dâng cúng đất đai mà làm đình miễu, ở kế tiền hiền. (Tiếng “cẫm” ở đây tôi chưa hiểu nghĩa cho đủ, và muốn kéo qua “cấm địa”, nhưng “cẫm địa” nghe đã quen tai rồi. Xin hỏi người thức giả). Ăn cân ký: ăn hoa hồng; ăn tiền đem mối buôn bán; ở cửa giữa mà ăn phần. Một nghĩa nữa là toa rập nhau trước. T.d. Đánh bài phải coi chừng bọn gian ăn cân ký nhau trước, thì mình ắt thua. (Thường nghe dùng danh từ “ăn công ký” là nói sai). Ăn cây nào, rào cây nấy: tng. không nên bội bạc. Ăn chè: tục quen trai gái Sài Gòn hò hẹn đưa nhau chở nhau xuống xóm Phú Xuân để ăn chè, rồi lâu ngày trở nên tiếng lóng có nghĩa là tư thông, hẹn hò trai gái. Phong trào “ăn chè” chỉ thạnh hành những năm 1950-1970, nay tự nhiên bớt vì tiền vẫn không dồi dào như xưa mà chớ, thêm nay nghiêm cấm sự đồi phong bại tục nên dẫu có ăn cũng ăn lén mà thôi. Ăn chẹt: bắt người ta phải nộp tiền của cho mình nhân lúc người ta bối rối hoặc gặp nguy nan (tiếng Bắc). (Dt. này có lẽ mượn trong cuộc chơi cờ gánh, khi hai quân của mình ví một quân của địch ở giữa thì mình ăn con quân ấy trong thế bắt chẹt). Ăn chõm: như ăn ghẹ, ăn vào phần của người khác (tiếng Bắc). Ăn cố: ăn tham. Như ăn bám. Nói xuôi là cố ăn. Ăn cơm: nói về các bữa ăn trong ngày: kiểng báo hiệu giờ ăn cơm. ng.b.: việc làm dễ dàng: việc ấy, tôi làm dễ như ăn cơm. Ăn cơm bữa: mạnh hơn t-ng “ăn cơm”: bị đòn như ăn cơm bữa. Ăn cơm hớt: tật cướp lời nói, nói hớt, nói hướt, giành nói phần nhiều là với người trên trước: không nên để cho trẻ con ăn cơm hớt mà quen tật, mất duyên về sau. Ăn cơm tháng, ăn cơm tuần: trong Nam, ăn cơm nhà nào đó, đến tháng hay đến tuần mới trả tiền, có khi cũng ngủ đêm tại chỗ ấy luôn, gọi ở ăn cơm tháng. Ăn cơm quán: ăn cơm tại quán, tại tiệm bán cơm, khác với ăn cơm nấu dọn tại nhà mình ở. Ngh. rộng: ăn cơm tháng. https://thuviensach.vn 20 TVTNMN Ăn cơm nhà nước, uống nước phong tên: th.ng này cũng như th.ng: “ăn cơm nhà nước, uống nước nhà máy”, phải hiểu phong tên là mượn của Pháp tức fontaine, nước từ trong ống sắt và từ trong vòi chảy ra và nước nhà máy cũng vậy, do máy trục từ dưới sông đặt ngầm ống dẫn từ suối ngọt sông trong đưa tới miệng tới nhà; còn nhà nước đây đúng là “nhà tù”, là khám đường, ngục thất, và hai câu thành ngữ trên là của trai giang hồ tứ chiếng thời trước, bất đắc chí với vấn đề quốc phá gia vong, nên dấn thân vào nhà lao để ăn cơm của chánh phủ cung cấp uống nước không phải nước của mình gánh mình múc lấy mình, mà vẫn là nước của thời đại văn minh dẫn trong ống chạy vào tới chỗ lao tù ngục tối. Hai câu thành ngữ này đánh dấu một thời đại, không còn đòi Nai Rịa Rí Ran, mà chỉ muốn được tự do trải thân chịu cảnh vào tù ra khám, để mong sớm phục hồi độc lập. Nai Rịa Rí Ran: tiếng tắt Đồng Nai, Bà Rịa, Phan Rí, Phan Ran (sic) (xem chữ ấy). Ăn cực: ăn kham khổ, ăn khô lạt. Ăn cực đã quen, gặp bữa thịt thà lại xá đũa sớm. Ăn dạo: không ăn cơm tại nhà để ăn nơi nhà quen hoặc nơi quán xá: dân thành Paris ăn dạo là số đông. - ngh.b chơi bời nơi ngoài: ăn dạo coi chừng có ngày gặp thứ dữ. Ăn dằn bụng: tiếng người dân quê gọi bữa ăn sáng thay cho điểm tâm là tiếng dân chợ: hãy ăn dằn bụng ba hột đi rồi sẽ ra ruộng. Không ăn dằn bụng trước, khi làm làm không có trớn. Ăn dầm: thường nói nguyên câu là ăn dầm, nằm dề: ăn no rồi nằm, không làm gì động móng tay cũng không đi đâu cả: - từ năm 1975, ăn dầm mà chịu. Ăn dè: ăn dần từng ít một. Do dè dặt, bớt đi một chữ (tiếng Bắc) đ.ngh. trong Nam: ăn nhín. Ăn dỗ mồi: nói trẻ ăn đồ ăn nhiều mà ăn cơm ít (tiếng Bắc). Trong Nam nói: “ăn phá mồi”: bợm nhậu ăn phá mồi, chớ họ dùng cơm ít lắm. Ăn dối: cố ăn một ít hoặc ăn gượng gạo khi sắp chết để cho người nhà yên tâm (tiếng Bắc ít dùng trong Nam). Gặp tình trạng này, Nam gọi ăn rán, rán ăn. Ăn đàng sóng, nói đàng gió: th.ng. ăn nói không thật, đồng nghĩa với ăn ngược nói ngạo, ăn ở không thật tình. Ăn đất: nghĩa bóng là chết: chịu cực chịu khổ cho đến ngày ăn đất thì hết. (khác nghĩa với “cạp đất mà ăn”, tức lời trách móc không biết lo xa, rủi nghèo mà không nghề nghiệp tùy thân, thì sẽ có ngày không có gì để ăn, phải cạp nhai đến đất...) Ăn đẽo: lợi dụng người ta để thu lợi về cho mình, nay một ít mai một ít, đẽo lần hồi. (tiếng Bắc, ít dùng trong Nam). Ăn điểm tâm, ăn đồ điểm tâm: Dùng đồ ăn lót dạ, thường nói về bữa ăn sáng. (Lời nói nhã; trong Nam thường nói “ăn sáng”, “ăn lót https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN 21 lòng”, tầm thường hơn nữa thì dùng tiếng Pháp: “uống cà-fé chưa?”, “ăn đề-jơ-nê chưa?”, giới dao búa hỏi “sáng, mì cháo gì chưa”, “ăn hủ tíu chưa, mậy?”. Ăn đời, ăn đời ở kiếp: nói về chồng vợ chúc được ăn ở với nhau lâu bền, sống với nhau đời đời, kiếp kiếp. Ăn gẫu: tán tỉnh người ta để ăn nhờ (tiếng Bắc, ít dùng trong Nam). Ăn gọ: đồng nghĩa như trên. Ăn giành: giành ăn một mình. Ăn già: chắc được nhiều lợi mới làm (tiếng Bắc, ít dùng trong Nam). Ăn giấy: phép hút thuốc ta (Gò Vấp, thuốc trồng tại xứ), có lẽ xé hay rọc tờ giấy quyến lớn ra nhiều đun và mỗi lần xé giấy vấn xong, ngậm vào miệng lại cắn bỏ một chút chót nơi đầu, nên có câu hát: “Trách ai ăn giấy bỏ bìa, khi thương thương vội, khi lìa lìa xa”. - Từ ngày hút thuốc Tây, hết biết ăn giấy là gì, nhưng từ 1975, dân đồng quê học ăn giấy như cũ. Ăn ghém: các thứ rau non, mềm và rau thơm, dùng làm thức gia vị để ăn với canh: Bao giờ rau diếp làm đình, Gỗ lim ăn ghém thì mình lấy ta (cd). - ăn kín đáo, gói ghém không cho lậu: ăn ghém rồi cũng có người biết. (ít dùng trong Nam, vì ghém, chúng tôi gọi “rau sống”, hoặc thường dùng tiếng gỏi thay thế, và bình dân hơn nữa, nếu dùng qua ý nghĩa bóng là dễ dàng, thì đã có thành ngữ “cho cơm”, “dễ như cho cơm”, vừa khôi hài vừa dễ hiểu hơn, vì nếu nói “dễ như ăn ghém”, thì phải suy nghĩ rồi mới hiểu, bằng nói “dễ như cho cơm” thì hiểu liền vì cơm thấy thường bữa và giải thì tục chớ “có gì dễ bằng cơm”. Ăn gỏi: ăn cá sống với rau cùng các đồ gia vị khác: ngon như, dễ như ăn gỏi. - nghĩa bóng: ăn tiêu mất nhiều và mau: tiêu xài như ăn gỏi tiền. - nghĩa rộng: lấn áp nuốt hẳn đi: Mầy gặp tay nó, nó ăn gỏi mày (hiểu rộng thêm: ăn ngon, ngon như ăn gỏi, dễ ăn). Ăn hỗn: ăn trước kẻ lớn. Ăn hút: ăn chơi. Sang Pháp, ăn hút đã đời, không ai dám nói. Ăn huyết uống thề, ăn huyết thệ: tng. toa rập làm chuyện dữ, cắt đầu ngón tay mỗi người lấy chút máu hòa vào chung, cùng uống, hoặc cắt cổ gà trống lấy huyết uống mà thề nguyền, chết sống thề không bỏ nhau, (chuyện dựa tích trong truyện Thuyết Đường của Trung Hoa), chuyện của quân trộm cướp, hội kín thường làm, gọi là uống máu ăn thề. Ăn hương ăn hoa: tiếng Bắc: ăn thanh cảnh. Đg nh. trong Nam ăn cách vật, cầu kỳ: ăn kiểng ít dùng trong Nam). Ăn iếc gì: tiếng đôi, tiếng đệm nghĩa vẫn là ăn: không ăn vào đâu? việc ấy ăn iếc gì, khéo lo cho thất công. Ăn keo: ăn bám vào người khác trong khi mình có tiền mà không chịu bỏ ra (tiếng Bắc). Ăn kết: đánh tam cúc, thắng bộ đôi hay bộ ba (tiếng Bắc). https://thuviensach.vn 22 TVTNMN Ăn khảnh: ăn ít, chỉ theo ý thích của mình (tiếng Bắc). Ăn khín: ăn nhờ chút đỉnh. Ăn khỏa: nói về người mạnh ăn, ăn được nhiều. Ăn yếu: ăn không được nhiều vì đã yếu (trái với ăn khỏe). Ăn lấn: chiếm dần phần của người khác: rào giậu ăn lấn sang vườn hàng xóm (tiếng Bắc). Ăn lót dạ: ăn chút đỉnh trước, cho qua cơn đói, rồi sẽ ăn sau cho no (trong Nam ít dùng vì đã có th.n. bình dân này: ”ăn dằn bụng”, “ăn đỡ ba hột”: có ăn lót dạ rồi mới làm việc được: dằn bụng ba hột rồi mới làm việc được; không thì bụng kêu lô tô, làm việc bớt hay. (ăn ba hột là ăn ba chén, cũng như hút chơi ba sợi là làm ba điếu....) Bụng kêu lô tô là bụng sôi rột rột vì đói. Phàm chơi lô tô, người bốc con cờ từ trong túi ra thì hô đó là con gì, để các tay con biết mà đặt lần hồi trên tấm bảng của mình và người nào có đủ trước năm con đồng hàng thì người ấy thắng, và gọi là “kinh”. Các tay con khi được bốn con rồi, chỉ chờ ra con cờ thứ 5 là kinh, khi ấy trong bụng hồi hộp sợ kẻ khác thắng (kinh) nên trống ngực đánh liên hồi và trống bụng đánh càng gấp rút hơn nữa, gọi bụng kêu lô tô là vì vậy, tôi cắt nghĩa dài dòng chớ ai biết chơi lô tô khỏi cần đọc lời giải của tôi. Nghề đánh bài chòi Miền Trung cũng thế, và thay vì chơi lô tô, người hô nói không bắt vần thì người hô bài chòi có tâm hồn thi sĩ hơn, vẫn nói có ca có kệ, cu cu chằng chằng, tuy thua tiền thật mà đã con ráy lắm! Ăn khín: tiếng trong Nam, ăn nhờ, ăn thép: học trò lớn ngày xưa ưa ăn khín học trò mới, học trò nhỏ: ê! ăn khín, bồ kề? tiếng ở chợ Sốc Trăng mấy chục năm xưa, nhạo một người con nhà thế gia mà ham ăn xin kẻ khác. Hai tiếng “bồ kề” là tiếng Triều Châu, có nghĩa là xấu lắm, lối năm 1911 trước cuộc Cách mạng cắt đuôi sam của người Trung Quốc hai tiếng “bồà kề” thạnh hành nhứt, gần như đồng dao báo điềm xấu. Qua vài tháng sau là có cuộc lật đổ nhà Thanh do nhóm Tôn Dật Tiên chủ trương. Bồ kề: xấu và nhạo (Tiếng Triều Châu). Bồ ền: bất an. Bồ hố: bất hảo. Bồ sừ phềnh an: vô sự bình an (tiếng lóng mượn của Triều Châu). Ăn lót: cũng như ăn khín, thêm ngụ ý xấu. T.d: Trong lớp nhắc bài để ra sân chơi ăn lót cắn một miếng bánh. Một thứ hối lộ nhỏ: lúc nhỏ ăn lót một miếng bánh, lớn lên ăn hối lộ công khai. Ăn lót dạ: ăn ít ít trước: Hay ăn chén cơm lót dạ đã. Ăn lót lòng: ăn sơ qua; ăn dằn tâm. Thường nói về buổi ăn sớm: Hãy ăn lót lòng cái gì rồi sẽ đi làm việc. Ăn một đọi, nói một lời: ăn nói chắc chắn, không sai lời nói. Đọi, đúng ra là dĩa sâu lòng, xưa trong Nội Phủ ở Huế, dùng xơi cháo, cho mau nguội; về sau, ám chỉ các vật như tô, chén, đĩa v.v... cũng gọi đọi được cả. https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN 23 Đọi rưỡi: một đọi và phân nửa đọi: sức ăn đọi rưỡi chưa no: người mạnh ăn. (Chuyện năm xưa, lúc còn làm ăn lương công nhựt ở Viện Bảo tàng Sài Gòn, tôi được phái dẫn đưa đại đức Narada, một nhà chơn tu Phật giáo Tích Lan (Ceyland), xuống Mỹ Tho viếng cảnh chùa Vĩnh Tràng, dọc đường ông giải thích cho tôi biết rằng phàm người tu hành, theo tiểu thừa, chỉ mỗi ngày được thời một bữa ăn mà thôi và trong bữa cơm ấy, người nào đi khất thực được bao nhiêu, đó là lộc của Phật cho, không chia chác cho ai, bằng như ai dọn cho ăn, nếu ngồi một chỗ (không rời chỗ ấy) và có người tiếp bới cơm cho mình, thì ngồi ăn như vậy vẫn kể một “đọi” duy nhứt (ăn một đọi) nhưng nếu đứng dậy đi bới cơm lấy thì không kể một đọi được và như vậy ăn mấy chén kể mấy đọi và sai với lời kia rồi. Và như lúc ban nãy, đại đức thời một mình một bàn, còn chúng tôi, tám người “phàm” vẫn ăn một bàn khác, là vì phép người tu hành không được ngồi chung bất cứ một ai, và vì lộc Phật cho ai thì nấy thụ hưởng, chớ không phải Đại Đức ăn tham. Nghe vậy, tôi biết vậy và xin ghi lại đây, chờ người cao kiến cho biết ý kiến. Cũng ngày hôm ấy, tôi có hỏi đại đức rằng tỷ dụ đại đức rủi đau, vô dưỡng đường, bác sĩ dạy phải ăn mặn mới đủ vitamin để sống thì đại đức vốn trường trai, sẽ xử sự thế nào? Đại Đức cười nhã nhặn mà rằng: như ai kia sợ chết, thì cứ việc ngả mặn, nhưng bao nhiêu công lao tu hành trước đều bỏ - còn như đại đức, thì chí nguyện đã định, dẫu chết cũng đành, chớ không bỏ trường trai được. Tôi cũng xin ghi luôn đây đãi ý kiến người thành thạo vậy. Ăn năn: đau đớn, cắn rứt lương tâm vì việc đã làm. Chữ là “tự hối”. Thường nói luôn giọt: ăn năn tự hối thì việc đã rồi! Ăn năn sự đã muộn rồi (K): (Ăn này chắc không phải một gốc với ăn uống và không tách rời với năn được). Anh Lê Ngọc Trụ cho ăn năn do ân hận mà ra. Vậy nên đặt riêng ra. Ăn non: bỏ dở đám bạc khi đương thắng, để chắc ăn một số tiền (tiếng Bắc, đồng nghĩa trong Nam: xên non). Ăn ngay ở thật, mọi tật mọi lành: t.ng. ăn ở ngay thật thì đặng bình yên vô sự. Ăn ngọn: chiếm lấy trước một phần ăn (tiếng Bắc). Ăn nguội: ăn khi đã nguội. Ăn đồ nguội, thịt thà cất trong tủ lạnh. Trái với ăn nguội là ăn nóng, ăn vật còn nóng, ăn sốt dẻo. Hai danh từ hay thành ngữ này đều dùng được theo nghĩa trắng và nghĩa đen. Ăn như mỏ khoét: ăn luôn (ít dùng trong Nam). Ăn nhín: Dành để, không dám ăn nhiều, sợ hết. Ăn như mèo hửi: ăn nhỏ nhẹ, ít. Con trai gì mà ăn như mèo hửi. Ăn như tằm ăn lên: t.ng. Tằm lớn lên chừng nào càng ăn nhiều chừng ấy. Ý nói ăn nhiều lắm. Nhà đông con, đông người, ăn xài nhiều. https://thuviensach.vn 24 TVTNMN Ăn rỗi, ăn như tằm ăn rỗi: (t-ng) nghề nuôi tằm, khi tằm thức dậy (côi lớp lớn lên) thì ăn rất khỏe, phải chạy lá dâu cho kịp thì tằm mới tốt; có nghĩa là ăn mất nhiều, hao thức ăn, hoặc nhiều người ăn (một nghĩa với t.ng. “như tằm ăn lên”). Ăn phải đũa: tiếng Bắc: nhiễm thói xấu (ít dùng trong Nam). Tỷ dụ: Hắn ăn phải đũa ông X, ba hoa chích chòe như lão. Ăn quân: chặt quân của đối phương trong một ván cờ (tiếng Bắc). Ngoài Bắc gọi “quân” thì trong Nam nói “con”: ăn quân pháo: ăn pháo, ăn con pháo. Ăn tay: mưu mô với nhau để kiếm lời mà chia nhau (tiếng Bắc). Trong Nam dùng với nghĩa khác: đừng đi nước mặn cho hà ăn chơn, chớ vọc thùng chàm cho chàm ăn tay. Ăn sơ: ăn ít ít. Ăn qua bữa. Ăn sơ sịa: id. Ăn ba hột: ăn sơ, dằn bụng. Ăn sống: ăn đồ sống sít. Ngày xưa, ăn thuốc sống, hiểu nghĩa là xỉa thuốc khi ăn trầu. Ăn sống nuốt tươi (t.ng). Ăn sống sít hay đau: nói về ăn trái cây chưa chín thường sanh bịnh. Ăn sốt: ăn khi còn nóng, còn mới. Ăn sốt dẻo. Ăn tái: ăn thịt nửa sống nửa chín, bán sinh bán thục, thường nói về thịt dê, thịt bò. Thứ nhất thịt bò ăn tái, thứ nhì con gái đương tơ (t.ng). Ăn tái ăn lụi: ăn thịt nửa sống nửa chín tái trong nước sốt pha giấm hoặc thịt nướng lụi. Ăn tái giá: ăn phở thêm giá đậu xanh, thịt vừa chín tái. Ăn tấm trả giặt: t.ng. Nói về cờ bạc, khi ăn vẫn ăn vụn vằn không khác ăn gạo gãy, đến khi trả lại trả nguyên tiền như gạo giặt. Giặt là gạo giã còn thóc. - khi mượn chác thì mảnh mún, đến khi trả thì phải trả vật còn nguyên. Ăn thép: như ăn khín, ăn nhờ chút đỉnh. Ăn thiệt: ăn chắc; ăn thiệt sự, thiệt tình, ăn đầy bụng, ăn no. Ăn: ăn thông; t.d: đường nầy ăn qua quốc lộ số 4 xuống Cà mau dễ như chơi. Ăn vã: chỉ ăn thức ăn không dùng đến cơm (tiếng Bắc). Ăn thuốc: Hút thuốc thường, hoặc hút nha phiến. Tiếng nói: “người có ăn thuốc”, thì hiểu là người có hút nha phiến (ĐNQATV HTC). Ăn tráng miệng: ăn bánh trái theo bữa ăn, ăn cơm rồi, ăn đồ ăn tráng miệng. Ăn la sấm la sét: tiếng mới để gọi ăn tráng miệng, mượn tiếng Pháp “dessert”, cũng gọi ăn la-sét. Ăn trắt: ăn hột lúa gié rớt ra. Ăn trầu: nhai trầu, ăn miếng trầu (nghĩa đen); nghĩa bóng chỉ con gái đã có người dạm hỏi: cô ấy đã có người ăn trầu rồi. Ăn trầu gẫm: ngậm miếng trầu mà nghĩ đến việc khác cho biết việc phải trái thế nào. Ngẫm nghĩ cho đến nơi đến chốn. Ăn trầu cách mắt: t.ng. Kẻ cho ăn, người không cho ăn. Cũng thì ở một đàng, một ngõ mà trong sự https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN 25 cho chác, thỉnh mời kẻ có, người không, kẻ thân người thù. Ăn trứng thúi: tục bên Âu, dân chúng tỏ sự bất bình bằng cách liệng trứng thúi cho vấy áo quần mang nhục, mang xấu: - ông ấy lúc sang Pháp bị ăn trứng thúi. Ăn tươi nuốt sống: th.ng: Ăn thịt còn tươi, nuốt vật còn sống; ăn uống thô tục. Nghĩa mượn là làm hung dữ, hoặc ăn cướp của chúng. Ăn vã: ăn đồ ăn không: bợm rượu hay ăn vã. Ăn vòi: nói trẻ con nằng nặc đòi một vật gì (tiếng Bắc). Ăn xam: nói trẻ sơ sanh, vừa bú mẹ vừa ăn thức khác (tiếng Bắc). Ăn xổi: ăn cà hay dưa với muối, muối một cách gấp rút. Ăn xổi ở thì: sống tạm bợ (K). - Nói chung về sự ăn uống, sự tiêu dùng: độ rày, nóng nực, không ăn uống gì được. - Nhà nầy có bát ăn, có miếng ăn. - Nhà kia đủ ăn đủ tiêu. Ăn bám: nương vào người ta mà ăn. Ông bám, ông ăn đứa trọc đầu (Tú Xương). Ăn báo: ỷ vào người khác mà ăn hại. Ăn báo cô: được người ta nuôi báo cô. Có nghĩa là nói ăn hại người ta. (xem thêm chữ “bảo cô”, đọc lầm ra “bác cô”.) Bảo: giữ gìn. (Không dùng một mình). Bảo cô: Nuôi trẻ bồ côi. Bảo cô (chữ cô viết cách khác): nuôi nấng người mà mình đã đánh bị thương: Nuôi như nuôi bảo cô (Luật cũ: Kẻ đánh người trọng thương, quan bắt phải nuôi cơm phục thuốc, giữ cho người bị thương được yên toàn thì không phải tội) (Chữ “bảo cô” nầy, có người đọc và hiểu lầm ra “bác cô”. Nên cải chính lại). Ăn bốc: ăn không đũa, ăn bằng tay (theo phong tục của người Miên, họ gọi “xi đay” (xi là ăn, đay là bàn tay). Ăn cơm với mắm sống thì phải “ăn bốc” mới ngon. Người Hồi Hồi dùng tay mặt để ăn bốc, và dùng tay trái để làm việc vệ sinh rửa ráy. Ăn bốc hốt: ăn thô tục. - Lữ Bố ăn bốc nàng Điêu: tiếng lóng, tuồng Phụng Nghi Đình tả cảnh cợt Điêu Thuyền, Lữ Bố lấy mắt muốn nuốt gái như ăn xôi vò, ăn bốc mới là phải thế. Miệt Sốc Trăng, người Việt và người Miên ăn chung ở chạ cùng nhau nên thường ăn bốc như nhau, và người Miên ăn bốc, gọi “xi đay”, (xi: ăn; đay: tay) nên người Việt, có tánh thích khôi hài, cũng dùng tiếng “xi đay” pha vào câu Việt cho thêm vui thêm lạ: tỷ dụ nhà anh không sẵn đũa, để tôi “xi đay” cũng xong. (Xi đay, mới nghe dường như tiếng Pháp, nên được hoan nghinh). II. Ăn cầm chừng: ăn dần dà cho được ăn lâu bền, hoặc ăn vừa vừa cho có chừng, không dám ăn no. (Ăn cơm ba chén lưng lưng, ăn uống cầm chừng, để bụng thương em (cd): tỷ dụ: thời buổi khó khăn, ăn cầm chừng để sống mà coi đời. Chủ nhà ăn cầm chừng đợi khách). Ăn chay: ăn đồ lạt; chữ gọi ăn trai kỳ. Nhịn bữa ăn, kiêng thịt, cữ thịt: ăn chay không hết tội. Nói https://thuviensach.vn 26 TVTNMN về người đi tu: ông ấy nay đã ăn chay (đã dịu tánh, bớt dữ). Ăn chực: Xẩn bẩn theo mâm cơm, đồ ăn, có ý kiếm chác, xin xỏ, hoặc chờ mời (ĐNQATV HTC). - ăn vả, đến nhà bạn ngồi chờ đến bữa không đợi mời cũng nhào vô cầm đũa. Ăn chực ngồi nhà ngoài (th.ng). Ăn chực quen tánh nên không biết xấu. Ăn chực quen miệng rồi. - Ăn chực ở nhờ (t-ng) Ăn chõm: đồng nghĩa với ăn chực. (VNTĐKTTĐ). Ăn dè: ăn ít một. Trong Nam gọi ăn nhín. Ăn dè, có ý nhường; ăn nhín là ăn sợ hết. Ăn dối: tiếng ngoài Bắc, khi sắp chết, cố gượng ăn một ít, chớ đã hết ngon miệng và không phải thật ăn được. - ăn lấy có chớ không thiết đến sự ăn uống nữa. Ăn dở: đàn bà mới thụ thai hay thèm ăn của chua, của ngọt v.v...: Mẹ em ăn dở bằng hành, đẻ em toét mắt ba vành sơn son (cd). - ăn lỡ bữa. Ăn đong: ăn gạo chạy hằng bữa từ lon đong (tả cảnh nghèo) thiếu trước hụt sau, tiền vay bạc hỏi, gạo ăn gạo đong, nhưng vẫn ngồi nhà hàng uống rượu quịt. Ăn đụng: ngoài Bắc, tục nhà quê mấy nhà mổ lợn mổ bò, xẻ lấy thịt chia nhau cùng ăn chung: ăn đụng lợn, ăn đụng trâu. - Trong Nam, góp tiền mua con vật gì làm thịt chia nhau: ăn đụng đánh đụng. - tiếng lóng giới cờ bạc, ngồi chung một sòng nhưng không ăn thua nhau. Ăn đường: ăn dùng trong khi đi đường. Nói chung là những đồ dùng, tiền bạc cần đến để đi đường xa: tiền ăn đường, gạo ăn đường v.v... Ăn gẫu: trông vào người mà ăn ghé. Ăn ghé: ăn ghé vào người. Ăn ghé: như ăn nhờ trong Nam. Ăn gọ: tiếng Bắc, ăn ghé vào người. Ăn gửi: (trong Nam ăn gởi) - Đem thân nhờ vào người mà ăn: ăn gửi nằm nhờ (t.ng) - Thường nói về giống cây ăn gửi như tầm gửi, sâu ăn gửi như con sán con lãi. Ăn hại: ăn tốn kém của người mà không được việc gì. Quân ăn hại: quân vô ích, chỉ biết ăn, không nhờ được việc gì. Ăn hại, đái nát (t.ng). Ăn hàng: hay ăn đồ hàng trái: đàn bà đi chợ ăn hàng, về nhà than không đói. - Bổ hàng hóa, mua hàng hóa về bán xóm hẻo lánh kiếm lời. T.d: Ghe đi ăn hàng là đi bổ hàng. Về sau, quân cướp sông chặn ghe ăn cướp cũng gọi “ăn hàng” (t.lóng của bọn cướp (đạo tặc) lớp xưa). Ăn hàng lớn: cướp trúng mối to. Ăn hàng vặt: nói tắt là ăn hàng. Ăn vặt: chốc chốc lại ăn một ít, không trọn bữa: ăn vặt quen mồm (t.ng). 1) Cũng có thể do ăn hàng vặt nói thúc lại: ăn hàng vặt, ăn vặt; 2) Lại cũng có thể do ăn vụn vặt, nói thúc: ăn vụn vặt, ăn vặt đều khác nghĩa với ăn vụng có nghĩa là ăn lén. Ăn hàng trên đây là tiếng trong Nam, (đã ghi trong ĐNQATVHTC) và đồng nghĩa với “ăn vụng” ở Bắc: con nhỏ ăn hàng như yêu. https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN 27 - Mẹ thương đi chợ ăn hàng, về nhà mẹ bảo ăn quà đỡ cơm. - Những người béo trục béo tròn, ăn vụng như chớp đánh con cả ngày (t.ng) ăn hàng: ăn quà: ăn vụng. Ăn hoang: nói về sự ăn uống xa phí. Giàu cách mấy, ăn hoang cũng phải hết. Ăn khảnh: tiếng Bắc, thường nói khảnh ăn hơn là ăn khảnh). Trong Nam lại nói ăn kiểng (Cảnh): ăn ít, ăn thanh, không sam sưa. Ăn kẹ: tiếng Bắc, ăn ghé, ăn nhờ vào người. (VNTĐKTTĐ) Ăn kiêng ăn khem: ăn giữ gìn, không dám ăn những đồ dộc, thường nói về người có bệnh, người ốm yếu: ăn kiêng ăn khem thì mau mạnh. Ăn khỏe: ăn được nhiều (Trong Nam nói mạnh ăn: thằng ấy còn mạnh ăn lắm, dẫu voi vật cũng không chết: thằng ấy còn sõi lắm, nó ăn khỏe lắm). Ăn lạt: (Bắc: ăn nhạt) - ăn thức ăn không nêm muối (Y khoa), hoặc nêm muối rất ít; - Ăn ít đồ mặn, mắm, muối; - Đồng nghĩa với ăn chay, cữ thịt cá, đồ mặn. Ăn nhạt: tiếng Bắc, đồng nghĩa với “ăn lạt” trong Nam: ăn ít đồ mắm muối. 2) Ăn ít đồ thịt cá sam sưa, hơi giống như ăn chay: ăn nhạt mới biết thương mèo (t.ng). Ăn mặn: ăn đồ mắm muối, thịt thà, trái hẳn với ăn chay. Tỷ dụ: thầy tu ăn mặn, bổn đạo ăn chay. - Người hay ăn mặn là người quen ăn mắm muối (ăn mặn nói ngay hơn ăn chay nói dối). - Người ấy ăn mặn uống đậm: người thật thà ăn chắc giữ lời. Ăn mót: nhặt những thóc lúa khoai đậu sau khi gặt hái xong còn sót lại mà ăn. Trong Nam gọi “đi mót lúa”. - Ăn đồ thừa rơi rớt: thứ quân ăn mót không biết xấu. Ăn thừa: ăn những thức còn sót, của người ta bỏ lại, ăn của dư của thừa: nếu vật ấy sớt lại chưa vọc là ăn thừa, nếu đã có vọc có ăn còn sót lại thì là ăn mót. “Thơm thảo bà lão ăn thừa, Bà ăn chẳng hết bà lừa cho tôi” (cd). Ăn nhờ: - Trông vào người ta mà ăn: thất nghiệp đi ăn nhờ bà con. - Ăn ở tạm bợ: trốn lính, đến tạm nhà cậu ăn nhờ hột cơm. “Ăn như sa cán” trong t.ng: Lưng đòn xóc, bụng dọc dừa, làm thì lừa ăn như sa cán (câu về sách tướng). (VNTĐKTTĐ). (Ngày nay, ít ai hiểu sa cán là gì. Và nguyên câu, theo tôi hiểu là như sau: những người hình dáng không mập, lưng thì dài như cây đòn xóc, bụng không phệ kiểu bí rợ mà thâu gọn như trái bí đao, những người ấy đừng lầm tưởng họ ăn không được nhiều, té ra khi ngồi vào mâm họ ăn sạch mâm mà không biết họ cất chứa vào đâu, đến khi giao công việc làm thì họ lọc lừa kiếm cái nhẹ mà làm; trở lại đến khi ăn nữa, họ ăn như sa cán. Cán đây là đè ra, làm cho bằng phẳng, còn sa là một cơ quan trong khung dệt, với bao nhiêu tài liệu tôi cung cấp như trên, xin độc giả tìm hiểu lấy. Ý nguyên câu tóm tắt những người https://thuviensach.vn 28 TVTNMN dài lưng bụng thon, là bợm làm biếng tổ, chỉ giỏi tài ăn). Ăn ở: - Cách ăn thói ở, thường hiểu về sự làm người ở đời, cư xử ra làm sao hoặc ăn ở tốt, xấu: bởi ăn ở không hay cho nên ngày nay bị quả báo. - Tiếng nói vợ chồng ăn ở cùng nhau, có nghĩa là giao hiệp. Vợ chồng ăn ở con cái đùm đề mà chưa biết ý nhau. t.d: xin cho có trước có sau, bỏ công ăn ở với nhau từ ngày. - Ước ao ăn ở một nhà, ra đụng vào chạm kẻo mà nhớ thương. Ăn ở không: ăn no rồi ở không dưng, chẳng làm việc gì giúp ích hoặc không có công việc để làm, thất nghiệp, rồi rảnh: - Từ 1975, tuy ăn ở không mà không thấy mập. (Ăn ốc nói mò, ăn măng nói mọc, ăn cò nói bay (t.ng). Ăn phàm: trong nguyên câu: ăn phàm, nói tục: ăn tục, không được thanh nhã. Ăn quà: (Bắc) mua bánh trái ở đường ở chợ mà ăn, không ăn vào chính bữa: đi chợ thì hay ăn quà, chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm (cd). Trong Nam gọi ăn hàng vặt: cô ký cô thông chị bồi chị bếp chận tiền chợ để ăn quà ăn vặt, tật ăn hàng vặt không chừa. Ăn riêng: - Ăn riêng uống riêng một mình, không cùng với cả nhà. Tỷ dụ: vợ chồng tân thời, tuy ngủ chung mà ăn riêng, của ai nấy biết nấy lo giữ gìn. - Có nghĩa là ra riêng, lập gia thất riêng: “Xưa nay ăn những của chồng, kiếm được một đồng đỏng đảnh ăn riêng” (cd). - Hưởng lợi riêng một mình, không chịu hưởng chung: T.d ông X và Y tuy có làm phép giao nhưng ăn riêng, tức của người nào làm ra người ấy giữ mà ăn. 2) Hưởng lợi riêng một mình, không chịu cho ai (nghĩa thứ II) (làm phép giao: vợ chồng lấy nhau có hôn thú và tờ giao kết). Ăn rỗi: Nói về tằm thức dậy mà ăn khỏe. Có nghĩa là ăn mất nhiều, nhiều người ăn: ăn như tằm ăn rỗi (t.ng) Ăn tạp: ăn sam sưa cả mọi thứ, không kiêng cữ, trái với ăn chay và ăn khem: ăn tạp như heo. Ăn tham: ăn lấy một mình không mời ai. Muốn ăn lấy nhiều, không nhường kẻ khác: ăn tham thàm, tàm ăn tai (t.ng). (VNKTTĐ) - ăn nhiều quá độ: ăn tham có ngày trúng thực. (câu “ăn tham thàm, tàm ăn tai” là câu nói bắt vần, tàm là con tằm kéo chỉ, và tôi chưa biết bịnh tàm ăn tai ra sao, như giời ăn (giời là vi trùng làm cho da lầy lầy gọi giời ăn) hay gì gì nữa, thấy trong VNTĐKTTĐ thì chép ra đây, xin các bậc cao minh dạy thêm). Ăn thề: theo tục cổ, khi thề nguyện điều gì, đem sinh vật ra trước chùa miễu, có thần linh chứng giám, cắt cổ lấy huyết, có khi hòa chung với máu mỗi người nơi đầu ngón, nhập với rượu cùng uống, ăn thịt uống máu với nhau, để cho lời thề được linh được nể. Nghĩa chung là sự thề nguyền: Uống máu ăn thề (t.ng). https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN 29 “Một là vui thú chẳng về, Hai là đã trót ăn thề với ai” (cd) (Trong câu, ăn thề này có nghĩa si vì gái đến quên nhà, và thề đây là chuyện tình ái hơn là nghĩa vụ). Ăn thết: có người đãi ăn, mời ăn: mãi đi ăn thết, khỏi tốn cơm nhà. Ăn trui: nghĩa thường, nói về cách nướng trui cá để ăn: cá lóc ăn trui là ngon tuyệt. Dùng qua chuyên môn (rèn): sắt, thép ăn trui là nướng vào lửa cho thêm cứng rắn, thêm bén. Ăn uống: nói chung về sự ăn sự uống: ăn uống thất thường; ăn uống đạm bạc. Ăn vạ: tục xưa, trong làng có người nào làm trái phép thì làng xóm kéo đến nhà bắt vạ, buộc ngả lợn giết gà ăn uống cho đến khi người ấy phải chịu nộp khoán lệ cho làng mới thôi. - Cũng gọi là ngả vạ, bắt vạ. - Con gái phú ông không chồng mà chửa, làng hay ăn vạ tốn bảy trăm quan (t.ng). - Cũng tục xưa, đánh nhau, kẻ bị thương, thường nằm liều tại chỗ để gán vạ cho kẻ kia bị phạt: nằm ăn vạ (t.ng). Thường thấy trẻ con nằm la khóc vòi bánh hay đòi hỏi một chuyện gì, cũng là một cách ăn vạ, nằm vạ. (Theo tôi hiểu, “vạ” là một cái thói xấu, có từ khi ở Trung Hoa và ở xứ ta, có phường ăn mày, chuyên môn ai mướn đòi nợ hay muốn làm xấu nhà ai (vì thù nghịch hay vì lý do muốn hạ nhục), thì nói với đầu phường, họ sẽ sai ăn mày dơ dáy đến trước nhà tựu thật đông ăn trây nằm bày ghẻ lở lói, chủ nhà ghê tởm quá phải chịu thua và điều đình với chủ phường thì họ mới chịu kéo đi chỗ khác, và tục ấy gọi nằm vạ, ăn vạ, v.v... Sau này nhờ cò bót dẹp phường ăn xin ăn mày, và khi nào có nằm vạ, thì sẵn có xe cây hay xe ca-miông đến xúc và phạt về tội làm rối trật tự trong đô thành, phe nằm vạ thấy xe cây và camion mạnh hơn, nên từ ấy đã tự dẹp). Ăn vay: vì không có của, phải đi vay kẻ khác mà ăn: ăn vay từng bữa (t.ng). Ăn vặt: chốc chốc ăn một ít, không thành bữa. Không ăn nhiều, nhưng vẫn ăn hoài hoài: ăn vặt quen mồm (t.ng). Ăn vụng: ăn lén. Bộ mặt ăn vụng: bộ mặt lót lét. lấy vợ người khác một cách thầm lén (tiếng trong Nam). Ăn chùng: ăn lén. Chó ăn vụng bột: bột vấy đầy mồm, còn tang tích. Ăn xàm: ăn xàm xạp như heo, ăn thô tục. Ăn xàm, nói xàm. Ăn xôi: nghĩa đen là ăn xôi; nghĩa bóng là được miếng ăn (chỉ dùng trong tục ngữ: cố đấm ăn xôi). Nghĩa bóng nữa là chết: lão ấy đã sắp tới ngày ăn xôi! Câu “cố đấm ăn xôi” thật là đúng với tâm lý. Tên ăn mày đang đói gặp được xôi thịt, nhào vô ăn, mình mải đấm đá thoi đấm, úp cứ gục đầu nuốt và thồn nhét đến khi nào no mới chịu thôi ăn, cũng như con mèo đói, con gà gặp lúa phơi, xua đuổi cách nào cũng không đợi mời. Một tỷ dụ nghe không mấy thanh, là anh trai gặp gái đẹp và giàu, dầu biết nó đã hư, https://thuviensach.vn 30 TVTNMN nhưng vẫn cố đấm ăn xôi cho phỉ chí muốn trước đã. Duy loài chim thắng chài (martin-pêcheur), nếu bắt được nó, dụ dỗ cho cá tươi cá ngon nó cũng nhịn không ăn thà chờ chết, vì đã mất tự do, muốn nó sống thì phải thả nó ra, chớ đừng mong lấy xôi dụ nó, mà thuở giờ chim thằng chài nào biết ăn xôi. Ăn xôi chùa, ngọng miệng: t.ng. ăn của người ám úng, muốn nói điều phải mà nói không đặng. Ăn xổi: 1) đồ ăn tạm, cấp kỳ: muối cá ăn xổi. 2) ăn ở tạm thời, không có ý lâu bền: ăn xổi ở thời (t.ng) (phải điều ăn xổi ở thì) (Kiều). Ăn xưa chừa nay: th.n. Một người nhờ một thuở, trước đã sướng thì nay đến lượt phải thiếu thốn vậy. Ăn yếu: ăn không được nhiều, ăn được ít. (Trong Nam, nói “yếu ăn”). Đủ ăn, đủ mặc: t.ng. Sự nghiệp khá, không phải đói lạnh. Tôi nhờ trời, đủ ăn đủ mặc: lời nói khiêm, không giàu mà cũng không nghèo. - Kẻ ăn mắm, người khát nước: t.ng. Một người ăn, một người chịu. - Không ăn có chịu: t.ng. Không nhờ nhỏi, không dính bên sự gì mà phải mắc. - Láu ăn: ăn lấy một mình; hốc ăn. - ăn lua láu, sợ chúng ăn giành; ham ăn. Mạnh ăn: ăn được nhiều. Mạnh ăn yếu làm thì lâu chết. Người mạnh ăn vẫn khác với người ăn mạnh. (Câu “mạnh ăn yếu làm thì lâu chết” là ý quở nhẹ, rủa sơ sơ, hiểu rằng dưỡng vóc như vậy ắt sống lâu. Nhưng anh Nguyễn Hiến Lê cho rằng “không chắc mạnh ăn, mạnh làm, mới là khỏe” đó là ý nghĩ của anh Lê, tôi xin tôn kính, nhưng đủ thấy anh thật thà, còn tôi vẫn oái oăm hiểu xa đề, tôi hư là vậy. S) Ngon ăn: biết mùi ngon, ăn đặng nhiều. Thăm bịnh, thường hỏi người bịnh có ngon ăn chăng, nghĩa là ăn có biết mùi ngon chăng, tức người bịnh gần mạnh, gần lấy lại sự bình phục rồi. Nhà có ăn: nhà có tiền khá. Thảo ăn: có tánh tốt hay cho người ăn, hay mời bạn ăn. Thiếu ăn thiếu mặc: th.n. túng xài, túng thiếu. Vừa ăn: vừa miệng, không mặn lạt, cũng có nghĩa là vừa chừng ăn đặng: cam quít đã vừa ăn. - Nói chung cuộc ăn uống, trong sự vui mừng hay ngày giỗ tết. - ăn cưới, ăn giỗ, vân vân... Ăn cỗ: ăn tiệc bày từng bàn từng mâm, với một số khách dự nhất định, khi bát tiên (tám người), khi thất hiền (bảy người), cho đến mười hai người vây quanh một bàn tròn, ngồi ăn cỗ ăn bàn mà ăn bận theo cu li. Ăn cỗ ngồi áp vách, có khách là ngụ cư (t.ng). Ăn cưới: ăn đám cưới; cũng gọi ăn cỗ bàn lớn: nhà đó ăn cơm thường bằng nhà ta ăn cưới. - Hẹn rằng đến sớm ngày mai, cùng đi ăn cưới cho dài đám dâu (Tr.c) https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN 31 Ăn đầy tuổi, ăn đầy tháng: t.ng. ăn mừng cho con đầy tuổi (ăn thôi nôi), hoặc đầy tháng. Ăn giỗ: ăn đám giỗ quải. Cũng nói ăn kị (ăn đám kị cơm). Ăn hỏi: nhận lễ vấn danh trước khi ăn cưới, bày cỗ bàn ăn uống. Thường dùng để chỉ lễ vấn danh: con nhỏ của tôi đã ăn hỏi rồi, còn chờ ngày cưới. Ăn khao: (tiếng Bắc) nhân có sự vui mừng, như lên lão, thăng quan, được hàm, thi đỗ v.v... đặt cỗ bàn mời cả làng cả xóm đến hỷ hạ: mổ bò ăn khao (t.ng). Trong Nam gọi ăn mừng. Ăn mừng, ăn mầng: ăn chơi, cúng cấp nhơn có việc mừng; tỷ dụ: ông ấy ăn mừng ngày sanh nhựt, nước mất không lo, ăn mừng nỗi gì? Ăn yến: ăn yến tiệc. Ăn tiệc: id. Ăn rằm: ăn mừng ngày rằm. Để ăn rằm tháng giêng rồi sẽ hay: chờ qua khỏi ngày rằm. Ăn tết: ăn chơi ngày đầu năm, vào tiết xuân. Năm nay dự bị ăn tết lớn vì sắp có hòa bình. - đi cày ba vụ, không đủ ăn tết ba ngày (t.ng) - ăn tết quan trên một chai rượu (đây là nói trớ, dùng đỡ tiếng ăn tết để tránh tiếng hối lộ, tuy dùng không đúng chỗ nhưng ý là cố che một việc làm xấu). - Tháng giêng ăn tết ở nhà, tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè. Tháng tư trảy đậu nấu chè, ăn tết đoạn ngũ, trở về tháng năm (cd chứng tỏ buổi thái bình ngày xưa). (Trong tỷ dụ “ăn tết quan một chai rượu”, chúng tôi trong Nam đã làm mất chữ “ăn” và chỉ dùng chữ “tết”, người Bắc dùng đúng chữ hơn khi nói “đi tết quan”, thay vì “đi ăn tết quan”; trong cái nhà quê của miền Nam có ẩn cái ngây thơ trẻ con nên hay bị lường bị gạt, và cái giận vẫn không lâu). Câu “trảy đậu”... là chép theo VNKTTĐ, khi anh Nguyễn Hiến Lê duyệt đến chữ này, anh cẩn thận rằng không có bộ “Tục ngữ phong dao” của Nguyễn Văn Ngọc, nên còn ngờ chữ này. Tôi xin lấy bộ Tục Ngữ Nguyễn Văn Ngọc ra, (bản Bốn Phương) tr. 201, câu ấy như vầy: “Tháng giêng ăn tết ở nhà, Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè. “Tháng tư đong đậu nấu chè, Ăn tết đoan ngọ trở về tháng năm... té ra tự điển Khai Trí thì đi hái đậu, còn theo ông Nguyễn Văn Ngọc, thì đậu ở nhà sẵn, nay đong ra cho vào nồi mà nấu, chung qui chẳng có ai sai và thế là hòa (huề) cả làng, hội Khai Trí hồi đó đã làm việc tập thể chung nhau lại, còn ông N.V.N. thì đơn thân độc mã, nếu bắt tội là nên trách tiếng Việt độc âm, mạnh ai nấy nhớ và vá víu sao cho thành câu là được, không như tiếng Pháp đa âm, nói sai một chữ là biết liền. Anh N.H.L. trí nhớ thiệt là tài, sai một chữ cũng không qua. S. Ăn vía; ăn mừng ngày sanh. - Hưởng thụ cái của lợi lộc gì: ăn lương, ăn bổng. https://thuviensach.vn 32 TVTNMN Ăn ba tê nguội: tiếng lóng pâté là món bánh, bao bột xốp nướng chín trong dồn thịt bằm, phải ăn lúc còn nóng mới ngon nên gọi pâté chaud (ba tê sô), còn pâté là thức ăn cho chó mèo thú vật nuôi bên Pháp, ta mượn để gọi trận đòn như ăn bánh, ăn ba tê nguội là đòn đánh nguội, không gặp tại trận. Ăn biếu: được phần biếu. Ăn biếu ngồi chiếu hoa (t.ng). Ăn bổng: được hưởng lợi lộc về quan chức gì, như trong Nam nói nôm na là ăn lương. Ăn bổng to: Ăn lương lớn. Ăn công: làm công việc gì và được người ta trả tiền công: làm một cây kiềng vàng ăn công ba đồng bạc, vấn (quấn) một chiếc neo đặc, ăn công đến năm đồng (5$00). Ăn chung: có hai nghĩa, một là ăn chung lộn, như ăn chung một nồi; hai là nói về cờ bạc, ăn thì lấy, thu thì trả; ấy gọi là ăn chung. Cũng có nghĩa là chung cọng, thông đồng (ăn chung, ở riêng). - Ăn chung đủ, tiếng lóng cờ bạc có nghĩa là ăn đủ, chung đủ, không thiếu đồng nào. Cũng nói “ăn thua đủ”. - Ăn chung: cùng chia nhau hưởng lợi chung (nghĩa thứ IV). Ăn dõi: được hưởng mãi mãi: mấy đời ăn dõi lộc nước. Ăn đòn: bị đòn, phải đòn, bị đánh để đền tội: bỏ học mẹ cho ăn đòn nứt da. - Bị đánh vô duyên cớ: vào tù, các tay anh chị cho ăn đòn dằn mặt, thêm các thầy chú cho ăn đòn lấy oai. Ăn hột vịt, Ăn hột vịt lộn: tiếng pha lửng để gọi bài làm trong lớp hay thi phúc khảo, bị điểm số không (zéro) tròn như hột vị. Cũng nói theo Pháp, bị cho ăn zéro. Ăn trứng ngỗng: n.t Ăn gánh: chịu đựng công việc (tiếng Bắc): ăn gánh việc làng. Trong Nam nói: gánh vác việc làng, việc nước. (Trong Nam, phép chơi cờ gánh, cũng dùng danh từ ăn gánh này, khi gánh (ăn một con cờ của phe địch). Ăn gầy: (tiếng Bắc), hưởng của dưỡng lão. Khi chia của giữ lại một phần để dưỡng lão gọi là ăn gầy. Ăn hoa hồng: ăn tiền thưởng về sự mình lãnh làm việc gì, làm nghề dẫn mối thầy kiện (luật sư), ăn hoa hồng mười hay hai chục phần trăm (10% hay 20%). - Làm những việc như buôn bán mối lái, v.v... được người ta chia cho mấy phần lời, gọi tiền hoa hồng. Ăn hoa màu: nói về người giữ vườn ruộng của người khác mà được quyền hưởng hoa màu. Có khi nói là ăn hoa lợi. Ăn hương hỏa: coi việc hương lửa; hưởng phần gia tài của cha mẹ ông bà để lại và có phận sự thờ cúng người đã mất. Ăn lên: làm chức việc, công việc gì, được tăng lương tăng bổng. Thăng thông phán nhì hạng, ăn lên mỗi tháng được sáu đồng bạc (6$00); như Ăn lên làm ra. Ăn lộc: ăn tiền lương theo phẩm hàm (t.d: làm quan ăn lộc nước). Làm quan ăn lộc vua, ở chùa ăn lộc Phật (t.ng). https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN 33 Ăn lời: cho vay ăn lời (hoặc nặng, nhẹ hay biết điều): ăn lãi (B). - Nuốt lời nói, không giữ lời đã nói. Chữ là thực ngôn. - Dạy con con chẳng ăn lời, con nghe ông ấy đi đời nhà con. (cd) Ăn lương: làm chức gì được hưởng thủ công nhất định. Nguyên ngày xưa trả lương quan hoặc lính bằng thóc gạo, nên thành thành ngữ “ăn lương”. Câu của Tú Xương: “ăn lương hàm chính thất”, vừa hiểu lĩnh lương do vợ cấp, lại thêm đắc thế vì chơi chữ: chính thất là vợ cả, lại cũng có nghĩa là chính thất phẩm (Hồi xưa, làm quan có chín bậc từ nhất phẩm đến cửu phẩm, và mỗi bậc lại chia làm chính và tòng). Ăn quen: quen thói cũ, hành động theo thói thường. - Ăn quen chồn đèn mắc bẫy (t.ng) - Ăn quen nhịn không quen. Ăn sương: kiếm ăn vào lúc có sương (ban đêm), chỉ về nghề ăn trộm, hoặc nghề mãi dâm gái ăn sương. Ăn thủ chỉ: tiếng Bắc và tục ngoài Bắc, được hưởng lộc làm thủ chỉ trong làng. Ăn thừa tự: hưởng phần gia tài của người trước để lại, không con nối, có phận sự tiếp tục việc cúng quải người ấy và tổ tiên người ấy (không có người ăn hương hỏa). Ăn trứng ngỗng: tiếng pha lửng để gọi khi thi phúc khảo bị điểm hỏng, khi làm bài bị thầy khuyên con số không zéro, tròn như quả trứng. Ăn nhặt: (Bắc) thu nhặt những của rơi vãi mà ăn: ăn cần ở kiệm, nuôi con gà cho nó ăn nhặt, lớn lên bán có tiền xài. - Làm nghề bán hàng nhỏ, nhặt từng đồng từng xu: nhờ buôn bán ăn nhặt mà sau này khá khủm, gởi con ăn học bên Tây, bên Pháp. - Thu nhận một cách không chánh đáng: ăn đút. Ăn bạc: có hai nghĩa: - đánh cờ bạc, ăn là trúng lớn. - làm quấy ăn của người. “Phen này ắt hẳn gà ăn bạc”. (Tú Xương): tiền bạc chời chỡ đến gà mổ như thóc lúa. Ăn bạc ăn tiền: nói về quan chức nhận tiền bạc của người ta một cách không chính đáng (đồng nghĩa với ăn hối lộ hay ăn của hối) (nghĩa thứ V). Ăn bẩn: 1) Ăn bẩn thỉu, ăn dơ, ăn không kể gì đạo lí, ăn xẩn bẩn: Gà nhà ăn bẩn cối xay. (t.ng) 2) Kiếm lợi một cách nhỏ nhen, không kể gì phải trái (nghĩa thứ V). Gà nhà ăn bẩn (xẩn bẩn, lẩn bẩn) cối xay, hay là “gà nhà ăn quẩn (quanh quẩn) cối xay: chung qui ăn gần cái cối xay, đạp mái. Túc con cũng không xa cái cối, ngụ ý chê bất tài thì đã đành, thêm chê người chỉ biết vơ vét trong giòng bà con lối xóm, khai thác người quen, nhưng khi chưa đăng đàn phong tướng ai lại chẳng chê Hàn Tín? Đến khi gà thắng độ, cho ăn lúa lựa, uống nước tự tay chủ kê dâng tận mỏ, nào biết đâu lúc gà được thả quẩn sương hay sau khi tắm nghệ, gà vẫn bon bon lại gần cối xay như cũ, theo tôi hãy khoan chê gà, và hãy nhớ có con gà mái hấp dẫn gần đây. Tiếng Việt vì độc vận, https://thuviensach.vn 34 TVTNMN nên bẩn, quẩn, đều nói được và đều nghe thông. Ăn đút ăn lót: nhận tiền của kẻ khác đút lót để chạy công việc. Ăn hối lộ. - học trò cũ ăn đút ăn lót làm bài hộ cho học trò mới lên lớp là một tật xấu. Ăn léo: nhằm léo, léo là léo lắc, khéo léo. Khôn một người một léo, khéo một người một ý. Làm léo, làm khôn khéo mà ăn của người cũng là ăn léo (ĐNQATV HTC). - tiếng mượn của người Triều Châu: ăn léo là ăn ráo nạo; xí léo là chết rồi. Ăn lễ: a) nghĩa trắng: ăn mừng ngày nghỉ lễ: trong Nam thời thuộc Pháp dân ăn lễ chánh chung (14 juillet) đúng ra nên nói ăn lễ chánh trung, vì là ngày giữa (nửa) năm. b) nghĩa đen: nhận lễ vật của người có việc đến nhờ, hay đến lo chạy; một lối ăn hối lộ; ăn lễ cho ra mắt quan trên. Ăn lễ cho nhập học. Ăn xuýt: nhận của người mà làm của mình: tù mặt đồ ăn xuýt. - Lấy, tìm cách mà lấy làm của mình: ăn cắp, ăn gian... Ăn bẫm: a) ăn khỏe nhưng thô tục; b) tham lấy cho nhiều. Ăn bẩn: theo nghĩa thứ 2 ở trên, tức là nói chung về sự ăn uống, tiêu dùng: ăn bẩn như ăn dơ. Ăn bây: tiếng Bắc, trong giới đánh bạc, lối đánh cù nhầy và làm trái lẽ. (VNTĐKTTĐ). Ăn bẻo: tiếng Bắc, dùng mánh khóe mà xà xẻo của người (VNTĐKTTĐ). Ăn bĩnh: tiếng Bắc, giống như “ăn bây” mà có ý liều lĩnh hơn. (VNTĐKTTĐ) Ăn bòn: mình đã có rồi mà còn kiếm chác của người khác. - khi lượm lặt bòn mót, ví dụ bòn đậu phụng. - dùng cách lấy dần của người ta, nay một tí mai một tí (VNTĐKTTĐ). Ăn mót: cũng thì lượm lặt, ăn của người khác bỏ mà mình táy mót; tức ăn đồ dư thừa. Ăn bớt: xà xẻo của người ta (VNTĐKTTĐ). trong Nam nói “ăn chận”, “ăn chận lận”. Chẩn lên. Ăn bữa: ăn chay, ăn có chừng (ĐNQATV HTC). Ăn bữa hôm, lo bữa mai: t.ng. Thiếu trước hụt sau. Ăn có bữa, lo không có bữa: Nhọc lòng lo, lo mãi. Ăn cơm bữa: Đến bữa thì ăn, có chừng rồi. Thường nói với nó cũng như ăn cơm bữa, chỉ nghĩa là thường nói hoài. Ăn bữa: Trong câu “Cô ấy bảo: “Cho mày chết, cho đáng kiếp cái phường thầy trò thằng ăn bữa” (Hề chèo, Văn hóa Hà Nội x. bản, n. 1977, tr. 123, lời hề lối ngoại thích), trong câu này, “ăn bữa” (viết dấu hỏi) có nghĩa khác với “ăn bữa” của Huỳnh Tịnh Của như trên đã dẫn. Ăn bữa: (tiếng tục). Nợ người ta mà xử lường không trả (VNTĐKTTĐ). Ăn cánh: vào hùa với nhau mà kiếm lời (VNTĐKTTĐ). Trong Nam, nói “ăn ké”, “ăn có” (giới cờ bạc) (nhưng nghĩa này https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN 35 có khác một tí, vì ăn cánh như ăn tay là cùng mưu mô với nhau trong một việc gì, còn ké, có trong điệu cờ bạc có nghĩa là đặt tiền ké theo một bên (ăn ké), có theo một bên (ăn có), tức là ghé nhờ, chớ không được kể là chánh tẩy. Cờ bạc phần nhiều tin nơi hên sui may rủi, cho nên khi người ăn ké hay ăn có, vận sui để đâu thua đó thì người ta không cho mình đặt ghé vào tụ của họ, âu cũng là dễ hiểu). Ăn cắp: bất kỳ ngày đêm, lừa người vô ý, rút lấy của người. Ăn cắp vặt: ăn cắp vật nhỏ. Tánh người ăn cắp vặt: tham lam bất kỳ vật chi cũng chọt. Ăn chẹt: Phép đánh cờ gánh, chận chẹt đàng mà bắt con cờ người ta, kêu là ăn chẹt. Thôn trưởng, công chức nhơn việc thâu thuế làm quỉ quái thâu dư bỏ túi, hoặc ăn vặt của dân, cũng gọi là “ăn chẹt gánh”. Tiếng Bắc: ăn chận, ăn chẹt: thừa lúc người ta bối rối, hay là nguy nan bắt chẹt mà lấy tiền lấy của (VNTĐKTTĐ). Ăn gánh: n.t. (H.T.C) Ăn vặt: ăn không nên bữa, ăn không nên miếng. Thôn trưởng hay ăn vặt chỉ nghĩa gặp mồi gặp việc thì ăn, chẳng luận ít nhiều. Ăn chơi: ăn và chơi, không phải là ăn thiệt; thong thả không lo: con nhà ăn chơi, ngh. rộng: lành mạnh: chúc cho trẻ ăn chơi. - ăn ngoài bữa; ăn cho vui miệng; buồn miệng mà ăn ít nhiều. Nhứt là nói về sự ăn bánh trái, là đồ ăn chơi. - nói chung về cách chơi bời tiêu khiển; - tháng giêng là tháng ăn chơi; - chẳng ăn chẳng chơi rồi đời cũng chết; - ăn chơi cho đủ mọi mùi, khi buồn thuốc phiện khi vui chè Tàu; - giả danh hầu hạ dạy nghề ăn chơi (K.) - lúc con còn nhỏ, cầu xin trời phật phù hộ cho con được “ăn chơi”, đứa con lớn lên “ăn chơi” thật sự, lại kêu trời, sao con cứ “ăn chơi” không lo làm ăn lập nghiệp. Ăn cướp: đt. và dt: đông người hành hung bắt lấy của người. - ăn cướp công, ăn cướp cơm. - quân ăn cướp. - ăn cướp cơm chim (t.ng) Ăn chằng: không phải của mình mà cứ ăn cứ lấy (VNTĐKTTĐ). Ăn dẹo: mánh khóe mà ăn lời một cách nhỏ nhen (VNTĐKTTĐ). Ăn dỗ: dỗ giành của con nít mà ăn: ăn dỗ của em, là tật xấu - dùng cách khôn khéo nói ngon ngọt để lấy của người ta (VNTĐKTTĐ). Ăn đẽo: ăn kẹ nhiều lần, gạ người ta mà ăn mãi mãi (VNTĐKTTĐ), (đẽo là dùng búa hoặc dao mà vạt gọt bớt). Ăn gian, làm gian lận: mà ăn của người: ăn gian ba bàn thua mạt (lời thề độc của giới cờ bạc). Ăn lận: i.d Ăn quanh: i.d Ăn hối lộ, ăn lót: ăn của lo lót (ăn của đúc sáp, lấy tích tên kia vào rừng ăn ong, gặp cọp chận đường chuyển về, đưa sáp cho hổ táp, nhờ vậy mà thoát thân). https://thuviensach.vn 36 TVTNMN Ăn hiếp: lấy thế, ỷ mạnh làm cho người khác phải chịu thua thiệt. - ỷ thế lực mà lấy của người ta hay bắt người ta phải chịu thua kém mình: tù cũ ăn hiếp tù mới; trò lớn ăn hiếp trò con; vợ ăn hiếp chồng. Ăn hiếp gió: ăn hiếp nhỏ vặt, không nhằm chỗ: thôi mà! Ăn hiếp gió nhau chi? - Làm phách chó, ăn hiếp gió có ngày cũng có người trị mầy! Ăn bớt: Xới bớt (ĐNQATV HTC) - Hứng lấy trước phần lợi của người ta (VNTĐKTTĐ). Ăn keo: tiếng Bắc, có tiền không muốn tiêu, chỉ chực ở người ta (VNTĐKTTĐ). Ăn không: lấy cái gì mà không mất công phu hay không mất tiền mua (VNKTTĐ). - Ăn mà không làm gì cả: ăn không ngồi rồi. Ăn làm: nói chung về sự làm ăn: cách ăn làm của nó không thương được (VNTĐKTTĐ) - Trong Nam nói “cách làm ăn”. Ăn lận: lừa dối người ta mà lấy lời, cũng như “ăn gian”. Ăn lường: lấy mà không trả. Ăn nằm: khi tách riêng ra là ăn và nằm, tỷ dụ ăn có mâm, nằm có giường; khi gộp lại làm ra thành ngữ “ăn nằm” thì có nghĩa chung chạ, nói về vợ chồng sống chung cùng ăn ở chung nhau, tỷ như: vợ chồng anh ấy ăn nằm đã có ba mặt con, mà còn chưa hiểu ý nhau. Nhớ khi ăn nằm khi chung chạ. Ăn ngọn: tự chiếm lấy trước một phần lời của người ta, cũng như ăn bớt (VNTĐKTTĐ). Ăn ngồi: nói về ăn ngồi ngôi thứ: - đỉnh chung chưa dễ ăn ngồi cho yên (K) Ăn ý: ý là ý nghĩa, léo lắc; nhằm ý, trúng ý nhau (H.T.Của). Cũng thì cỡi ngựa, mà cỡi hay, chạy hay, ăn ý là tại tay cương nhặm lẹ, con ngựa được người ăn ý cỡi thì ríu ríu theo ý muốn người cỡi, nếu cỡi không ăn ý, thì nó cho té có ngày. - c.n. ăn rập, ăn khuôn. Vợ chồng ăn ý (hòa thuận với nhau) thì tát biển cũng cạn. Được hơn trong cuộc đố, trong đám cờ bạc hoặc trong đám cạnh tranh: ăn cuộc, ăn gà, ăn cá... Ăn bí, tiếng Bắc dùng trong cuộc chơi tổ tôm. Ăn dọc, n.t Ăn khàn, n.t Ăn lèo, n.t Ăn tôm, n.t Ăn cạ: tiếng trong cuộc đánh chắn. Ăn chằn: n.t Ăn cạ, ăn chắn: dùng được vào đôi bằng đôi lệch, của bài mình (tiếng đánh chắn). Ăn có: tiếng giới cờ bạc, hùn vô: cho tôi ăn có tụ này vài đồng, đánh ăn có chạy gạo. tiếng lóng làng dao búa: ăn có vài thoi, ăn có vài cù loi. một cách chầu rìa, nhờ nhõi: tưởng ăn có ông X. để nhờ, té ra vì ăn có mất luôn vợ. Ăn cuộc: ăn tiền đặt đố. Ăn dải: id Chẳng qua làm phước cho chàng, nào ai ăn cuộc ăn bàn chi ai (L.V.T) Ăn độ: thắng cuộc, được hơn trong đám cờ bạc hay trong cuộc nào https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN 37 đó: gà ăn độ là gà đã thắng cuộc, đã ăn tiền trong một độ rồi. Đồng nghĩa với “ăn cá” là thắng trong một cuộc thách đố. Ăn đứt: ăn chắc không trả lại. Ăn đứt tiền cưới. Một nghĩa là hơn hết, giỏi quyết. Không ai bì: “Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương” (K) Ăn già ăn non: (nghĩa như II ở trên): trong Nam nói xên già xên non tiếng trong giới cờ bạc. Ăn gọt: thường nói về cờ bạc, ăn như gọt, ăn sạch trơn. Ăn sách: id Ăn ráo: id Ăn kết: ăn phần chung cuộc. Phép đánh bài, ăn trút kết, thì là ăn tiền chung lại, ai trúng cách thì ăn. Đừng lầm với t.ng. Đừng lộn với: Ăng kết, hiểu theo nay và mượn của Pháp “enquête” là tra xét, khám xét, cuộc điều tra. t.d Án chưa xử, vì ăng-kết chưa kết liễu, tức cuộc điều tra chưa xong. tiếng dùng trong cuộc chơi tam cúc hoặc bài phu (Bắc): ăn kết bộ đôi, bộ ba, ăn kết tứ tử (VNTĐKTTĐ). Ăn mã, ăn pháo, ăn tượng, ăn xe, ăn tốt, ăn sĩ v.v.: tiếng trong cuộc chơi cờ tướng: đánh bắt được những quân cờ ấy mà chiếm lấy chỗ. Ăn năm, ăn sáu: v.v.. Quăng, phóng mười đồng ăn năm, và bắt mười đồng ăn năm tiếng trong giới đấu kê và bài bạc đá gà đá cá thia thia, một bên nào đó thấy bên địch gà hay cá đều suy, gần thua trận, nên mời bên địch hãy nhận: đây phóng mười đồng nếu thua thua đủ mười bằng thắng sẽ nhận năm đồng mà thôi. Khi phóng như vậy, sẽ tùy lúc, mời mọc: mười đồng ăn một ăn hai, v.v... và hiểu với nhau tiền cá cuộc tính ra phân, một là một phần mười, tức bạc chia làm mười phân chớ không ngang bằng giá một đồng ăn một đồng như thông lệ đã định. Ăn phần: đi buôn ăn phần là cứ phần mình mà ăn. Vấy máu ăn phần: lệ đi săn, xưa chia thịt bằng cách ai vấy máu là có công; vậy kẻ ngoại cuộc cũng bôi máu giành phần. Cũng nói: trây máu ăn phần. - làm cho có cớ, giả mạo. - ngày xưa, đánh lộn không giập đầu chảy máu, nhưng cũng giả bịnh, khai bịnh mà nằm vạ. Ăn tiền: có hai nghĩa, một là ăn tiền công, chánh đáng; hai là nghĩa xấu, trộm phép mà ăn của người một cách không chánh đáng. Ăn tiền còm: nhận tiền thù lao dắt mối thầy kiện: tiếng đời Pháp thuộc, dẫn mối kiện tụng cho luật sư để nhận tiền thưởng công đưa mối đến (commission). T.d Vì chút tiền còm, xúi con kiện cha, vợ thưa chồng. Ăn thu phân: t.ng. Tính số mà ăn, ăn chung với; ăn xớ bớt (ăn xới bớt). Ăn cửu ngũ, bát ngũ, v.v... (đây là theo giao kết trước trong giới cờ bạc, ăn thu phân là ăn theo độ phân giao trước, tỷ như ăn cửu ngũ (9/5) vì 1 phần là tiền xâu, ăn bát ngũ là 8/5 vì xâu 2 phần ngày nay nói ăn tứ lục tức 10 phân, họ lấy 6 còn mình chỉ 4, trong khi https://thuviensach.vn 38 TVTNMN tiền chi phí, vân vân đều về mình chịu là khác nữa. Ăn rốc: ăn sạch. Thua rốc: thua sạch. Ăn thua: chung cọng, dính dấp. Đánh cờ bạc ăn thua thì chỉ nghĩa là ăn thì dùa, thua thì chịu; cũng là tiếng giao với nhau. “Hai đàng không ăn thua”, nghĩa là không dính dấp sự gì. Ăn thua: sơ khởi, có nghĩa là được thua: Tôi với anh có lẽ nào lại ăn thua với nhau hay sao? Về sau, chữa “thua” mất hẳn nghĩa đi còn lại chữ “ăn” có nghĩa là được: Muốn làm đại sự mà tay không thì ăn thua gì? (có nghĩa là phần chắc không nắm được). Làm như thế ấy không ăn thua gì đâu: là làm như vậy, không ăn không thua và vẫn hão huyền cả. Ăn thua đủ: tiếng lóng của giới cờ bạc (đổ bác), quyết chiến cho đến kỳ cùng, hoặc thu trọn sòng hoặc thua trút sạch, hoặc tiền đầy túi hoặc sạch túi mới nghe; - trong cuộc đánh lộn (ấu đả), tao ăn thua đủ với mầy, là tao không chạy mầy, liều sanh tử cùng mầy, đánh chết bỏ (trái với “ăn thua đủ” là “chạy mặt”). Ăn thướng: t.ng. ăn tiền đặt đàn, đặt cuộc, hoặc vì công việc làm hơn kẻ khác. Hát ăn tiền thướng: kép và đào tùy câu hát giọng hát mà được thướng. Khác với ăn tiền thướng là hát ăn tiền giàn. Gọi tắt là hát thướng, hát giàn. Ăn trước trả sau: t.ng. Có ăn có chịu, có vay có trả; thiếu thốn tha tạm của người, ăn rồi phải làm mà trả lại. Ăn xấp: Xấp hai, giỏi bằng hai. Việc tính toán, nó ăn xấp mày. Ăn xâu ăn đầu: c.n. ăn tiền đầu. T.ng ăn tiền công hao, bẻ đầu mà ăn, như mười ăn một. Tiếng mới là “ăn tiền còm” (commission). Dễ ăn: Ăn trong th.ng dễ ăn, có hai nghĩa: - Tại mình ăn được. - Tại người không biết phép, hay sợ sệt, hay đút nhét, có thế dễ ăn. Bởi dân dại nên hắn mới ních tiền dễ dàng. - Coi vậy mà không dễ ăn đâu: coi vậy mà khó. Thấy đó mà khó ăn: th.ng. muốn mà không làm gì được. (cũng như: coi vậy mà khó nuốt cho trôi). Ăn già ăn non: 1. Ăn nhiều ăn ít: ăn già ăn non, cái mồm thỏm lẻm (t.ng). 2. Ăn lúa má hoặc hoa màu cho đã già hay khi còn non. 3. Tiếng cờ bạc, ăn già là chỉ chực ăn vùa to, ăn non là vừa trúng nhỏ đã thôi không đánh nữa. Trong Nam gọi “xên già xên non” (xên là bãi cờ bạc, xên sòng bài). (Nghĩa thứ VIII). Ăn xám phần: điệu đánh me, tay con đánh ba cửa, chừa lại một con đánh ba cửa, chừa lại một cửa hễ me ra cửa mình đánh thì thắng, nếu me ra cửa chừa kia thì thua, khi ăn ăn ba phần, nhưng chắc ăn lắm, và gọi đánh xám phần điệu “hồ giấy mộng mị” (không hiểu nghĩa là gì) và ăn xám phần. Vớt ăn ba ăn tư: th.ng. tiếng của giới đổ bác đấu kê, phàm trong cuộc đấu, thấy gà mình có https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN 39 phần suy, nên chịu thua trước khi mãn cuộc, cho khỏi thua trót; tiền kể thí dụ một trăm bạc chia làm mười phân, vớt ăn ba (là ăn ba chục mỗi trăm), ăn tư (là ăn bốn chục mỗi trăm), v.v... Bên phe gà chịu thua, nói lại là thua vớt bảy phân, sáu phân, v.v.. (tùy giao ước trước trong mỗi trường gà). (Chịu thua như vậy là tiếc con gà hay, vớt nó lên, dưỡng nó lại chờ cáp nó vào độ khác với con gà lạ mà tin chắc nó sẽ thắng). - Ưng thuận, nhận chịu: tỷ dụ - đặt mười đồng, có ăn không? Chỉ ăn xắp hai mà thôi (tiếng cờ bạc). Ăn chịu: ăn chịu với làng: có chịu xâu góp thì là nhờ mọi việc trong làng. Cũng có nghĩa là ăn hàng còn thiếu chịu. Một nghĩa khác nữa là ăn thiếu chịu, sau sẽ trả; cũng như “ăn trước trả sau”. Trong câu: “Bọn nó, tụi nó, ăn chịu với nhau đã lâu rồi”, thì nghĩa như trong câu “ăn chịu với làng”. Ăn cụng: đồng lõa hòa nhau, không ăn thua với nhau (tiếng giới cờ bạc). Ngồi ăn cụng trong sòng tứ sắc hay sòng cắc tê là ngồi đối diện, cụng mặt nhau để không giúp lén nhau được. Ăn giá: đã thuận giá, nhận giá: buôn bán với nhau đã quen mặt, đã thuận giá ăn với nhau thì phải lấy chữ tín làm đầu. Ăn lời: khác với nghĩa “cho vay ăn lời”, đây là nhận lời, vâng lời: Cá không ăn muối cá ươn, người không ăn lời người hư (cd) Dạy con con chẳng ăn lời, Con nghe ông kểnh đi đời nhà con (cd) (ăn lời đây là nghe lời, ăn lời nghe âu yếm hơn và thiết tha hơn). (đồng nghĩa với câu: “Cá không ăn muối cá ươn, Con cãi cha mẹ trăm đường con hư). Ăn vùa thua chạy: tiếng lóng của giới cờ bạc điếm đàng, khi thắng nó hốt tiền, khi thua nó vụt chạy... Đồng bạc ăn mười quan: t.ng ăn có nghĩa ưng thuận, nhận chịu và như vậy trồi sụt đều được. Đi kiếm ăn: vạc đi ăn đêm. Quen mồi lại kiếm ăn miền nguyệt hoa (K) Ăn đêm: ăn ban đêm: có người thì ăn đêm khó ngủ, người khác lại không ăn đêm không ngủ được. - Tánh một số loại chim chỉ ăn vào đêm: con vạc ăn đêm. Ăn kén: mua kén. Đi ăn kén. Ăn ong: bắt ong lấy sáp lấy mật. Đi ăn ong rừng Cà Mau, rừng Long Thành. Ăn yến: dt. nghề riêng ăn đứt của đồng bào Quảng Nam, đi chung với nghề “ngậm ngải tìm trầm”, hai nghề này có lẽ của người Thượng quen với thú sơn lâm, chớ người Kinh của chúng ta không chịu cực đi suốt tháng này qua tháng kia, chịu đói chịu lạnh rừng (nghề thứ ba là nghề đi tìm quế rừng), ba nghề này, tưởng không nước nào hơn chúng ta. Riêng về “ăn yến”, con én này đóng ổ trên cao nơi sườn hóc đá cheo leo, thế mà cũng có người trèo gỡ cho được, lại có thứ yến huyết, họ giả cũng có làm sao quên thứ yến tượng trưng https://thuviensach.vn 40 TVTNMN cho sự hộc máu của người trước khi lấy được yến có vết máu thổ ra lần hai lần ba của loài chim mà một con chẳng thành xuân kia. Than ôi, kim tiền đi đến đâu thì người ngậm ngải tìm trầm tìm yến tìm quế đi đến đó. Và thật ổ yến có bổ phổi bổ tâm chăng, riêng tôi tôi đinh ninh tin như vậy, vì dầu cho ổ yến làm bằng rong biển kết thành, thì rong biển kia há chẳng phải là chất vôi (calcaire) từ biển lấy lên, huống chi có nước miếng của loài chim kia pha vào, thì vôi ấy bổ phổi bổ tim chứ gì. Nghề ăn yến, ăn ong, lấy sáp, nghề tìm trầm, tìm cây quế rừng là thập phần tử, nhứt phần sanh, có khi không chết nhưng lâu ngày quên hết tiếng mẹ đẻ hóa ra người rừng, không phải hóa ra đười ươi giả nhơn, nhưng không nói đặng tiếng người nữa, vì nguy hiểm như vậy cho nên ngày xưa, vua miễn thuế (thuế gọi phong ngạn cho người đi lấy sáp và bắt chim lấy lông làm quạt, vân vân), cũng như trên Nam Vang đời xưa vua miễn thuế cho người làm nài giữ chăn voi và nghề trèo cây thốt lốt lấy đường hái trái, vì con voi khi nổi xung thường vật chết nài, còn trèo leo thì trợt chơn là rồi đời mạng sống. Lạ một điều là yến Quảng (Quảng Nam) vẫn quí hơn yến lấy nơi khác (Côn Đảo cũng có), cũng như ốc xa cừ và đồi mồi thì ở Hà Tiên là màu sắc xinh tươi hơn các nơi khác. Tỷ dụ dãy Hoành Sơn, tại sao mé đông gió vào đất Việt thì có chim trĩ, có kỳ nam, còn mé Tây day qua đất Lào, trĩ không ở mà trầm kỳ cũng không mọc? Một nước quí địa như vậy mà chiến tranh mãi, không sao phát được, âu cũng là tại trời ách nước vậy. Xét lại: quế tốt và thứ thiệt, có dược tánh là làm cho máu chạy đều và ấm thân thể người già đau kinh niên, trầm đem lại thanh khí cho nơi nào xông nó và đuổi uế khí ra xa, chỉ một hột kỳ nam đeo nơi cổ áo mà người đi chầu vua không khát nước khỏi ho hen đàm vướng vọng, còn lộc nhung vốn là vôi bổ của sừng nai còn non ngày, thêm yến huyết (có chút máu đo đỏ cho thêm yến Quảng đủ hay, nước ta sao lắm của báu, xứ khác thêm thèm)? Ăn yến: danh từ chuyên môn: Tìm ổ yến, bắt ổ yến, gỡ lấy ổ yến. 2) dt thường: tẩm bổ bằng ổ én, hoặc nấu mặn với gà ác, bồ câu, hoặc nấu ngọt, chưng, nấu cách thủy với đường phèn. Ăn ảnh: d ị c h ý t ừ P h á p “photogénique” có nghĩa là chịu với máy ảnh, lúc chụp ảnh, bóng thâu vào máy hóa ra xinh hơn lúc ở ngoài: đóng phim mà không ăn ảnh thì người xinh cách mấy cũng không chỗ dùng. Mặt ít ăn ảnh, cảnh rất ăn ảnh. Ăn chân: giẫm chân không trong nước bẩn lâu ngày nước khoét lở da chân: - Một lần cho tởn đến già, đừng đi nước mặn cho hà ăn chân (cd). Ăn da: da bị lở, lột lớp ngoài, hoặc vì dang nắng quá lâu, hoặc vì không https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN 41 quen tắm biển, hoặc vì bị một chất hóa học phạm vào da thịt: nắng ăn da, nước biển ăn da, ắc xít ăn da, mang bao tay cho khỏi bị ăn da. Ăn giũa: tiếng chuyên môn thợ bạc thợ rèn, món đồ làm giũa ngon tay, không xóc không trợt; rồi hiểu rộng là ngon lành: vàng pha ăn giũa, việc đang giũa (việc đang ngon trớn cũng như món đồ bằng vàng, pha chế đúng phép thì làm dễ khéo, giũa theo ý muốn được). Giũa không ăn giũa: đã hết thời, làm việc gì đều thất bại. Ăn khách: ăn ở nhà bạn, nhà khách (tiếng trong (VNKTTĐ) nghĩa thứ II. (trong Nam, nói “ăn cơm khách”, thêm chữ cơm cho khỏi lầm lộn với câu “ăn khách”, dùng theo nghĩa bóng trong giới ca kịch, hiểu là tuồng ăn khách tức tuồng được hoan nghinh có khách đến xem nhiều. (xem chữ “ăn khách” khác). Ăn khách của gái ăn sương là được nhiều khách chuộng: cô nầy mới ra đời nên còn ăn khách lắm. Ăn khuyết: ăn khoét sâu vào: ghẻ ăn khuyết; Ăn khuyết vô: - giọt mưa ăn khuyết đá. Một lời nói độc địa, ăn khuyết vô óc, nghe nhức nhối. Ăn lan ra: vấy vá nhiều chỗ; để từ chỗ chánh ăn lần loang rộng ra lớn. Ăn loang; đt thấm lần lần ra, cũng như “ăn lan ra”: ăn loang như dầu như mỡ. Lang ben ăn loang. Ăn luồn: như ăn lòn, ăn thông, chạy ngầm dài dưới một lớp gì, hoặc dưới đất, da thịt hay vỏ cây, tỷ dụ: đào ngạch ăn luồn gọi địa đạo, bịnh mạch lươn ăn luồn khó trị, mối ăn luồn trong cây từ cột tới đòn tay qua rui nhà, cũng nói ăn ruồng. Ăn màu: danh từ ăn biến ra từ chuyên môn; có nghĩa là thích hợp với nhau: tỷ dụ: màu đỏ ăn với màu đen, gọi ăn màu với nhau. Màu này với màu này không ăn màu với nhau, nên bức tranh hóa hỏng v.v... Ăn mực: đt. Thấm mực. Ngày xưa viết bằng bút lông, giấy trơn láng quá, thì viết không thấy chữ, gọi giấy không ăn mực; nhưng khi giấy thấm nhiều quá thì hóa ra giấy chặm (ngoài Bắc gọi “giấy thấm”) (papier buvard) dùng chặm cho mực viết mau khô, và giấy chặm cũng không viết được vì ăn mực quá nhiều hóa ra nhòe, chữ không đọc được. Ăn radio Ăn với máy thâu thanh Tiếng mới, về chuyên môn, dịch ý từ Pháp ngữ “radiophonique” khi tiếng nói được phát âm trong trẻo, hoặc hình ảnh thâu vào máy radio, lúc truyền ra, tiếng nhẹ ấm êm và hình ảnh xinh đẹp, không đổi: - Giọng cô đào ấy rất ăn radio, nói cách khác, rất ăn với máy thâu thanh, nên cô ấy ắt được hãng phim ký giao kèo rồi. - Cô ấy tuy xinh nhưng giọng ét, không ăn radio; cô nọ giọng thổ rất ăn với máy thâu thanh, v.v... Ăn sâu: ng.t ăn thấu vào trong: ghẻ khoét ăn sâu lâu lành. ng.đen: thấm nhuần, hiểu trọn: phải nói thế nào cho vấn https://thuviensach.vn 42 TVTNMN đề ăn sâu và lan rộng trong quần chúng. ăn tích, khách ăn tích: tiếng về chuyên môn: khách xem hát thích xem tích tuồng; hơn môn khác. ăn hát: người ưa xem hát. ăn giễu: người ưa xem diễn tuồng khôi hài. Nói về giới đi xem diễn tuồng, người ưa truyện tích (khách ăn tích), người ưa giễu, người ưa nghe hát v.v... ăn khách: tỷ dụ: tuồng nầy ăn khách, đậu giàn (mỗi lần diễn, thâu được nhiều tiền, mặc dầu tuồng cũ hát đi hát lại nhiều lần). Đừng lầm với “ăn khách” là ăn tiệc mời nhà bạn, ăn cơm khách mời. Trái với “ăn khách” là “chảy”: tuồng này chảy, ví như kẹo ngọt mắc mưa, hát không ai xem (động từ biến qua từ chuyên nghiệp). - Hoa khôi ăn khách: đắt khách, đi khách được nhiều đám, đưa người cửa trước rước người cửa sau. Ăn về: đi tới chỗ nào: đường nầy ăn về đâu? - Thưa ăn về Sài Gòn. - Ném về: đường nầy ăn về phía đi Hậu Giang. Ăn về lâu: càng thấm thía về lâu, hậu quả tốt về sau: bộ sách ăn về lâu, nay kiếm mua không có. - Câu chuyện mới nghe thì tầm thường, ăn về lâu mới thấy rất hay. - Mua hàng, tiêu thụ đồ hàng: tàu Tây ăn gạo Sài Gòn. Ăn gạo: mua gạo. Thường nói: Ghe chài đi ăn gạo; tàu ngoại quốc ăn gạo, tức mua gạo, chở gạo. Ăn gạo luộc: tiếng nói chơi, tả cảnh nghèo, ăn cơm thường bữa không có đồ ăn, phải ăn cơm lạt: ăn gạo luộc còn sướng hơn ăn độn. Ăn ngữ: mua chịu có kỳ hạn rồi trả sau: Nhà thiếu gạo, tháng nào cũng phải ăn ngữ (VNTĐKTTĐ). Ăn khỉ khô gì: nghĩa là không ăn gì hết, hoặc không ăn thấm vào đâu: tỷ dụ mỗi tháng cầu 15 ký gạo thì ăn mới đủ một tháng ấy, nay cấp phát chỉ có 5 ký thì ăn khỉ khô gì? (tức ăn không đủ vào đâu). Ăn sỉ: hai miền Bắc và Nam, dùng và hiểu khác hẳn nhau (về chữ sỉ). Bắc: tiếng “ăn sỉ” nghĩa là mua lẻ: tỷ dụ: ở đây xa phố xa chợ, thức gì cũng phải ăn sỉ (VNTĐKTTĐ). Nam: mua sỉ bán lẻ, hiểu là mua nguyên khối về chiết ra để bán lẻ, và đồng nghĩa với tiếng Bắc “mua buôn, bán buôn” khác với mua lẻ bán lẻ. T.d Mua sỉ tôi bán nới cho, tức tôi sẽ hạ giá cho lại một số hoa hồng. Nhắc lại, trong Nam không nói “ăn sỉ” và nói mua sỉ bán lẻ. (nghĩa ăn sỉ: mua hàng, tiêu thụ đồ hàng: độ này tàu vô Sài Gòn ăn gạo khá đông). - ăn thành tiếng lót, chỉ có tiếng đi sau cho nghĩa: ăn học: học, ăn nói, nói... Ăn học: vừa ăn vừa học. Dt. Ăn học thành tài. Ăn học nổi tiếng. Đt. Nuôi cho ăn học, lớn khôn trở mặt. Ban đầu “ăn học” có nghĩa vừa ăn vừa học như nói ở trên. https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN 43 Sau dồn thúc lại, chỉ còn nghĩa quan trọng “học”, chữ ăn gần như lót đường, và Việt ngữ có phép như vậy (lời anh Nguyễn Hiến Lê âu yếm nói với tôi như vậy), sau chỉ còn nghĩa học mà thôi, cũng như bao nhiêu tiếng kép khác tỷ dụ ăn nói còn lại nói, ăn mặc còn lại mặc, v.v... - làm ăn lúc này ra sao? chỉ có nghĩa công việc làm lúc này ra sao? Nhất là trong thẻ “ăn thua”, chỉ nghĩa “ăn” còn lại (xem thẻ ăn thua). Trong câu mẹ trách con: Cho con đi ăn học thành tài, con trở về báo hiếu bằng cách chửi cha mắng mẹ, trong câu người mẹ đau đớn không kể nuôi ăn chỉ nhớ học mà dường ấy thà đừng đi học ở nhà chăn trâu còn hơn. Ăn mặc: Tiếng đôi, hiểu là cách bận quần áo. Ăn mặc lịch sự. - khi ra đường phải ăn mặc chỉnh tề mới ra người có khuôn phép; - mùi thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng (K) - chị là con gái nhà giàu, ăn mặc tốt đẹp vào chầu tòa sen, em là con gái nhà hèn, ăn mặc rách rưới mon men ngoài hè (cd) Ăn nói: tiếng đôi, cũng hiểu là nói. Ăn nói phải thế, có duyên. - một thương tóc bỏ đuôi gà, hai thương ăn nói mặn mà có duyên (cd). Ăn tiêu: nói về sự tiêu dùng: Ăn tiêu về nhiều (VNTĐKTTĐ). Ăn vận: như ăn mặc: ăn vận dị kỳ. Ăn xăng: tiêu thụ essence nhiều; nói về xe hơi, tàu hơi. Xe hiệu Hoa Kỳ ăn xăng như rồng uống nước. Ăn xuýt: lấy không của người bằng những thủ đoạn bất chánh (tiếng Bắc). - mục ăn cần ở kiệm Ăn cần ở kiệm: ăn ở cần kiệm. Ăn mày: đt: xin mà ăn, xin đồ thừa. danh từ: kẻ làm nghề ấy. Ăn xin: đồng một nghĩa. - ăn mày vả chăng là xấu, nhưng cũng là tiếng nói cho êm khi cầu xin phần lộc quả phúc ở cửa Phật cửa thánh: t.d: - ăn mày lộc Phật, ăn mày lộc thánh, - chẳng phải ăn đong chẳng phải vay, trời cho có phúc được ăn mày (th.c) Ăn xin: cũng nghĩa như ăn mày: đã tới nước ăn xin mà còn làm phách. - ăn xin cho đáng ăn xin, lấy chồng cho đáng bồ nhìn giữ dưa (cd) - sống đi ăn xin, chết làm triệu phú. Trai xấu không ăn mày vợ, gái xinh vẫn ăn mày chồng (lời vua Quang Trung lặp lại cho Ngọc Hân công chúa nghe, cd cũ). Bạ ăn bạ nói: ăn nói không lễ phép. Ăn trong danh từ: khó ăn khó nói, là khó dạy biểu. Một nghĩa khác: Việc dĩ lỡ rồi, ăn nói làm sao, thật là khó ăn khó nói, tức khó lấy lời đã nói lại được. Một nghĩa nữa là có tâm sự riêng, khó nỗi giãi bày. Ăn banh: mượn tiếng của Pháp (en panne) nói về xe không chạy, nằm https://thuviensach.vn 44 TVTNMN đường rồi hiểu rộng công việc dở dang: xe ăn banh, việc đó ăn banh rồi là hư hỏng nửa chừng, dở dang rồi. Ăn trắc: dt. do ngữ Pháp “entracte” là thời gian nghỉ giữa hai lớp hát của Pháp, giữa hai hồi xi nê chớp bóng; ta mượn để chỉ định giai đoạn nghỉ xả hơi giữa một công việc gì. - mấy phút ăn trắc cũng là mấy phút giải lao. Ăn ten: (do antenne của Pháp), vòi, cây dây điện, bắt điện của máy phát thanh hoặc máy thâu thanh. https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN 45 B Ba Ba: hòn Ba Ba: đd. thuộc t. Biên Hòa, chữ gọi Thần Qui Sơn, hoặc Thọ Sơn. Ba ba: loại rùa ở nước, tục truyền ăn thịt nó một lượt với rau dền thì độc. Thịt gà, cá chép, ba ba (người có bịnh nên kiêng các món này). Ba ba ấp bóng: chính nghĩa thì con ba ba vốn đẻ trứng trên cạn, nhưng vẫn ấp ở dưới nước. Nghĩa bóng ví người cứ giữ gìn chỉ một mặt mà hỏng chỗ nào không ngờ, cũng như nói: đười ươi giữ ống. Ba ba: tiếng Bắc để gọi thứ áo cánh may dài đến đầu gối. Ba ba: tiếng Nam Kỳ, thường nói bà ba, tức Java nói trại; đàn bà lai, bố khách, mẹ Mã Lai (Malai). Ba ba: ba la, tiếng trong Nam, một cuộc đánh tiền. Cũng gọi đánh thắc lắt (P. Của, tự điển Khai Trí). Ba ba: tiếng kêu, lấy tay vỗ vào miệng trẻ con đang khi nó reo nó phát âm thì nghe như vậy. Ba: dt. mượn của Pháp, chuyển từ tiếng “bar” là nơi bán rượu bọt (bia) chuyên uống đứng hối hả hoặc uống nhàn rỗi ngồi trên ghế cao cẳng “ba” bán rượu nhẹ, khác với tiệm nước của Ba Tàu. Ba la ve: Nơi bán bia, rượu bọt: Ba la ve thằng Lù: quán Hải Nàm của chệc tên Lù. (Người Hải Nam, người Khách Gia: Hakas), thường xưng mình tên Lù. Lù là giọng Hakas, “Lứ” là giọng Triều Châu và Phúc Kiến, “Nị” là giọng Quảng Đông, phiên âm ra Hán Tự là “nhĩ” (mầy, tiếng xưng với người khác; cũng như “Hóa” (Phúc Kiến, “úa” (Triều Châu), “Ngộ” (Quảng Đông là “ngã” (tôi, ta). https://thuviensach.vn 46 TVTNMN - Hai đứa càng thân, đến nị ngộ, hóa lứ với nhau: đến xưng hô mầy tao mi tớ với nhau, Pháp gọi tutoyer, être à tu et à toi. Ba la ve: là giọng kênh kiệu, đài các. Giọng bình dân là quán la de. Một ca la de là un quart de bière: một ly bia bằng 1/4 lít. Ba Cụm: đd. vùng Chợ Đệm, thuộc t. Chợ Lớn, NV. Trong G.Đ.T.C., ông Trịnh Hoài Đức gọi “quán Ba Cụm” nhưng chữ viết “Ba Dung quán”, đáng lẽ dịch quán Ba cây đa, nhưng dân tại vùng đã có địa danh “Ngã tư Ba Cụm” từ trước, đã thành danh: - bối Ba Cụm ngày xưa là danh tiếng, chuyên môn cướp ghe thương hồ chèo ngang qua đây. Ba Giồng (ở Đồng Tháp Mười): đd., thuộc Đồng Tháp Mười, NV Trong G.Đ.T.C, tác giả là Trịnh Hoài Đức viết: “Tiền trở trường giang, hậu ỷ mãng trạch..." C â u n à y, n ơ i t r. 1 0 6 ĐNNTCLTNV, tập 1, dịch giả Nguyễn Tạo viết: ”... trước có Đại Giang ngăn trở, sau tựa chằm mãng trạch”... (chữ mãng với M hoa và có chua “Mãng Trạch” là cái chằm hoang không ai trưng khẩn”. Trong Đồng Nai văn tập 14, tr. 128, Lê Thọ Xuân viết: “Tôi, nếu dịch, sẽ rán tránh chằm đi với Trạch (bỏ một đoạn), và sẽ viết: “Trước tựa trường giang, sau nương mãng trạch, - chữ mãng không viết M hoa”. Đó là Đồng Tháp Mười. Ba Giồng: đd. Ba Giồng, tên chữ là Tam phụ, gồm có: a) giồng Dứa, (thuộc xã Phước Thạnh, quận Châu Thành, Định Tường; b) giồng Cát, hay giồng Nhị Bình, (xã Nhị Bình, quận Sầm Giang); c) giồng Thuộc Nhiêu ăn dài từ xã Dưỡng Điềm, Điềm Hy (quận Sầm Giang) đến xã Nhị Quí (quận Cai Lậy). Giồng Cát còn có tên Giồng Giữa (vì nằm giữa hai giồng kia và gò Lũy. Gò Lũy này có lẽ là gò Lữ (Lữ Phụ) theo lời chỉ dẫn của ông Trương Ngọc Tường ở Cai Lậy). (Theo L.S.N.C.V.N. của Tạ Chí Đại Trường, tr. 88). Aubaret, tr. 43 viết Ba Giồng là Mỹ Quí (nay thuộc tỉnh Tiền Giang). (xem thêm chữ Gò Lũy). Ba gác, xe ba gác: dt. loại xe ba bánh, dùng chở hàng, nguyên tiếng Pháp là triporteur, nhưng ta không dịch chữ này, lại dùng chữ “bagages” đưa qua ngữ Việt. Ba gai, quân ba gai: dt. người vũ phu ham ấu đả, ham đánh lộn. Có lẽ do tiếng Pháp bagarre (cuộc ấu đả), bagarrer: Đánh nhau dữ dội, bagarreur, bagar reuse: người ham gây gổ đánh đấm. Ba Hòn: đd., ba trái núi nhỏ mọc trên nước, vùng Hà Tiên, NV cách không xa bến đò Tô Châu. (Dường như nay đã ở trên đất liền rồi). Ba la đà: đd. gảnh Cái Mít, đd. nơi sanh của Phan Thanh Giản (viết Ba la đà, nhưng trong Nam quen đọc: gảnh Ba La, hay là Xẻo Cái Mít). Ba la giang: (PCGBCTVK) tên Hán của rạch Cái Mít (xem chữ ấy). Ba la đà: (theo Nguyễn Tạo) Ba la giang, Ba la đà, đều do Ba la mật là cây mít. Có cắt https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN 47 nghĩa nơi chữ “Cái mít” và nơi chữ “Ba la đà”. Chính Pháp văn Aubaret cũng viết: Le Ba la, vulgairement appelé “Cai ma" (sic) (xem qua chữ “Cái mít” đoạn Pháp văn tiếp). Ba lai bắc giang: đd. tên Hán cùng sông Ba lai bắc (xem chữ ấy). Ba lai môn, Ba lai hải môn: đd, tên Hán của cửa Ba lai, NV. (PCGBCTVK) (xem cửa Ba lai). Ba lai nam giang: đd, tên Hán của sông Ba lai nam (xem chữ ấy). Ba lạt: đd, một trong ba cửa biển cho mua bán thông thương với ngoại quốc do điều ước 5-6-1862. - Hai cửa biển kia là cửa Hàn và cửa Quản (sic) yên. (PCGBCTVK). (cần điều tra lại, cho biết cửa Ba lạt này ở đâu, trong sách xưa không ghi rõ. Thẻ chưa ổn). Ba lằng châu: đd, tên chữ của cù lao Ba lăng (xem chữ ấy). Banam: đd, tên xứ trên đất Cao Miên (H.T.C) (Bến đò Ba Nam, nằm trên sông Cửu Long, nửa đường Nam Vang xuống Châu Đốc, thuộc địa hạt tỉnh Prey Vieng (Kằm Bù Chia): Sài Gòn ăn cá Ba nam (cá vựa từ Ba nam chở xuống). Người dân quê miền Nam thường nói lộn là “cá Bắc Nam”, sự thật và đúng ra là “cá Ba nam” này, chớ không có xứ nào gần Nam Kỳ tiếp đưa cá cho ta ăn có tên gọi “Bắc Nam” như vậy, tưởng cũng nên đính chính tại đây trót thể. Ba nhe: dt. do panier của Pháp, thứ giỏ, thúng đan bằng nan tre, trẻ nghèo thời Tây mới qua, chực sẵn ở chợ, chờ đầm (dame) vợ quan Tây mua hàng mua thực phẩm thì đưa thúng giỏ lãnh mang xách hộ từ chỗ mua đến xe nhà hay xe kéo của bà mà xin tiền mang xách giùm (trong quyển Sài Gòn có nhắc). - đời có xe đò chở hàng và bộ hành từ tỉnh lên từ bến Sài Gòn đi, cũng có thứ ba nhe này, lãnh đưa va li, gói xách lên mui ăn tiền còm; - đời nay, ở xa cảng, ở sân bay, cũng thì một thứ ba nhe ban bù, nhưng đã khác, tiền còm đã nặng hơn mà địa vị chúng lại lên mặt nhiều khi khách bộ hành phải năn nỉ mới khứng ra tay giúp, vì biết ai thầy ai tớ bây giờ. Ba nhe, ban bù: dt, trẻ nhỏ lớp đàng cựu chuyên bưng xách giỏ thúng cho người đi chợ, mà xin tiền thưởng tiền công (do tiếng Pháp: panier là giỏ, bambou là tre). - đồ ba nhe, ban bù: tiếng nhiếc, khinh thị: đồ xách giỏ, hạ tiện. Ba Rách: đd. tên của một phần đất thuộc huyện Tây Xuyên cũ, phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang (PCGBCTVK). Người mình có tánh thay đổi trong lời nói, như địa danh này, khi gọi Ba Rách, khi gọi Ba Rạch, tôi bỏ công tra tầm, trong monographie de la province de Long Xuyên, bản in năm 1905 thì chữ Ba Rạch lại không bỏ dấu, về sau nhờ gặp trong quyển địa dư của T.V.K. để lại mới biết Ba Rách, Ba Rạch, Ba Lách là một, đó là ba con rạch con hoặc ba cái lạch nhỏ hiệp lại về sau để trở nên kinh: khi gọi kinh Rạch Giá khi khác https://thuviensach.vn 48 TVTNMN gọi kinh Long Xuyên, tùy nơi địa điểm khởi hành. (Đừng lầm với Ba Vát là tên cũ của Vĩnh Long đàng cựu). Cơ Me gọi: Cumnik prêk kramuon sa, rõ là kinh Rạch Giá (xứ sáp trắng). Ba Rạch (kinh Rạch Giá): đd., tên sông NV; Toại Hà, Thoại Hà, do Thoại Ngọc Hầu đào năm thứ 16 đời Gia Long; Ba Rạch, trong PCGCB, Trương Vĩnh Ký cũng viết “Ba Lạch”. Cơ Me: Cumnik prêk kramuon sa, di cảo TVK tr. Le Cisbassac (xem Thoại Hà). Theo Miên là kinh Rạch Giá, nhưng ta lại nôm na gọi sông Long Xuyên, tức hai địa danh dùng lẫn lộn. Aubaret, tr. 251 viết: Le Toai Ha vulgairement appelé Ba Lach... Ông Trương Vĩnh Ký vẫn gọi Toại Hà, Thoại Hà vào sông Ba Lạch hoặc Ba Rạch (nguyên là một sông nhỏ của Cơ Me để lại, họ gọi prêk kramuon sa (sông sáp trắng), ta đổi là Ba Rạch, đến khi vua Gia Long ban chỉ sai Thoại Ngọc Hầu đào ra rộng thêm, mới ân tứ danh hiện nay còn gọi là Thoại Hà (từ năm 1817). Vàm sông Lạc Dục, trong Aubaret, viết: l’embouchure du Lac Aiuc. Sông Giang, viết song giang. Ba Rài: đd, tên chữ c.g. Ba Rài (thuộc tỉnh Vĩnh Long - PCGBCTVK cần xem lại, Ba Rài là gì, tên sông rạch hay tên cù lao, trong PCGBCTVK không nói rõ). Về chữ “ba rài”, nghĩa rất rộng. Phải phân biệt, khi gần chỗ nào cũng có thể tạm gọi là ba rài được cả: cù lao, sông, rạch, v.v... Người Miên gọi baray, một hồ chứa nước để dùng trong việc dẫn thủy nhập điền, tỷ dụ các ao hồ bọc chung quanh chùa hay đền Đế Thiên Đế Thích trên Kăm Bu Chia hay bọc chùa Gò ở Phú Lâm, đều là ba rai cả. Sau này ta áp dụng và đem qua ngữ Việt, biến ra Ba Lai, vì khúc sông này nay đã nghẹt hay gần nghẹt lối, không lưu thông được dễ dàng như xưa nữa, và ghe thuyền đều mượn ngả khác mà đi, Ba Lai chỉ còn hữu ích vì vựa nước giữ nước dùng trong việc ruộng nương. Ngày trước, khi Nam Kỳ còn ở trong tay Cơ Me, họ vẫn không đào thông tỷ dụ Rạch Chanh, kinh Vũng Gù, kinh Bà Bèo, vân vân là vì họ dùng những chỗ ấy làm ba rài chứa nước hơn là làm sông rạch lưu thông... và phải đợi đến phiên ta, một lần định phá sào huyệt Đông Sơn để bắt Đỗ Thanh Nhơn (nhưng sau ông chết vì tay chúa Nguyễn giết) mới thấy binh Tây Sơn ruồng phá vùng rạch Chanh, và phải đợi một lần nữa, đánh với Thổ, đặt thang để “trông tình hình của địch” từ hướng Mỹ Tho, và từ hướng Tân An, mới thấy khai thông kinh Bà Bèo hướng Mỹ Tho, ăn thông với kinh Vũng Gù, hướng Tân An, biến ra một vùng sông nước có nhiều tên: Vũng Gù, Hưng Hòa Giang, Bảo Định Hà, Thang trông (chữ là Vọng thê) vân vân và vân vân, hoàn toàn ngày nay là những sông rạch rất cần thiết cho sự khai thông tăng giá vùng Đồng Tháp, và cũng rất khó nhớ nào ruộng và rạch Châu Phê, nào https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN 49 vùng Cù Ức, khi thì kinh khi thì giang khi thì hà, khi lại rạch, rất là rắc rối; khi xem tới chữ “Vũng Gù” sẽ nói thêm rõ hơn. Barey: dt. tên một loại câyvùng Cam bốt, người Cơ Me dùng lá vấn thuốc hút, vì vậy, điếu thuốc vấn, Cơ Me gọi barey. Sa Kê: dt (thực): Clg. Sắc Kê, Du Liên, giống cây to lớn, lá to có khía và nhám, lá bẹ rụng sớm, phát hoa đực, dài cỡ ngón tay, trái tròn, vỏ có gai lì, nạc trắng, nhiều bột, có chất ngọt, hột nhiều (Artocarpus incisus). T r o n g E x c u r s i o n s e t Reconnaissances, tr. 257 q. IX N.22 có nói Cao Miên có cây sangkê, phải cây này chăng? Cần Sa: dt. (thực): loại cỏ cao cỡ 1 m, lá dài, hẹp bề ngang, chót nhọn, có nhựa độc, bọn du đãng thường hút cần sa để tìm khoái lạc. Trong Excursions et Reconnaissances q.IX, 22 viết Kanchha (chanvre indien qui console des peines de coeur) là loại này và có lẽ chữ “cần sa” là do kanchha? Ba Si, Ba Se: đd, tên cũ của Ba Tri, cũng gọi Ba Tri cá, vì ở đây xưa có rất nhiều cá. (Ba Tri nổi danh, vì nơi đây có phần mộ Võ Trường Toản, Phan Thanh Giản và Nguyễn Đình Chiểu - theo L.T.X). Ba Tri, cũng là tên con rạch Vĩnh Đức, chảy ra Hàm Luông, và nên phân biệt với Ba Tri cá và Ba Tri rơm, hai sông này chảy ra Ba Lai (L.T.X). Xét về hai chữ “Ba Tri”, theo di cảo T.V.K, ghi trong quyển Le Cisbassac thì viết “bati” tra tự điển thì không thấy, lại thấy có chữ “baissey” có nghĩa là lá chuối lót dâng lễ vật cúng kiếng (feuil les de bananier dans lesquelles on dépose des offrandes pour les génies). Vả chăng chữ viết có nhiều cách, vậy xin ghi lại đây chờ hậu cứu. Cũng trong Le Cisbassac, tr. 34, viết “le giồng de Basei (Ba Si)” nay để phân biệt, vẫn có Ba Tri, Ba Se và Ba Si là địa danh của vùng Ba Si rồi lại Ba Se, Cầu kè Bưng Bót Cơ Me cổ thời: câu hát cũ. Bassac đd. Miền NV, xem Ba Thắc. Ba Tăng: dt. do ngữ Pháp “patente”: môn bài buôn bán, hành nghề. Đóng ba tăng: đóng thuế môn bài. Tiền ba tăng: tiền thuế đóng cho nhà nước thời Pháp thuộc trước khi mở cửa buôn bán, hành nghề. Đĩ có ba tăng: đĩ có môn bài, khác với đĩ lậu (trốn thuế). Nói có ba tăng: tiếng lóng, nói chuyện giữa công chúng có xin phép chánh quyền. Ba Thắc: đd, tên 1 vùng NV, (Sốc Trăng cũ); tên chữ Ba Thắc (TVK). Cơ me: Pãm prêk bàsàk (di cảo TVK trong Le Cisbassac). Tên gọi một nặc tà miên, có miếu thờ ở Bài Xàu cũ, nay viết Bassac: miếu ông Ba Thắc. Địa danh Bassac, trên Cao Miên cũng có. Ba Thắc, trong Aubaret, tr. 16, viết Ba Tac. https://thuviensach.vn 50 TVTNMN Chữ viết trong Aubaret, tr. 255. Le Ba Tac nay viết le Bassac. Cu Lao Diung Cù lao Giung chữ gọi Huỳnh Dung Châu. Tau Truong Tàu Trường (T.T.T), Trường Tàu (Ng. Tạo) Ngoạt Giang Nguyệt Giang (tên chữ của Sốc Trăng). Ohu Dao (Bua Tao) Sông Phủ Đầu, tục danh là sông Bố Thảo. Ba Dinh, Tam Vu, Cai Tao, Cai Diang, Cai Quang, nay là Ba Rinh, Tầm Vu, Cái Tàu (Cái Côn, Cái Cau), Cái Quanh, thuộc tỉnh Sốc Trăng, Ba Rinh còn gọi là Ba Rinh Ba Rẹt, Cái Quanh còn gọi Giếng nước, v.v...) Ba Thắc: đd ở NV, trong sách Pháp viết Bassac, 3 nghĩa khác nhau: 1) vùng đất liền từ mé Hậu Giang, giáp Vịnh Xiêm La và từ Châu Đốc xuống bờ Bạc Liêu, Cơ Me gọi srok Bassac, Pháp gọi Trans-Bassac; năm 1836 đặt làm phủ Ba Xuyên, gồm 3 huyện: Phong Nhiêu, Phong Thạnh và Vĩnh Định; từ Pháp thuộc đổi làm tỉnh Sốc Trăng ngày nay gần Chợ cũ Bãi Xàu còn một cổ miếu thờ ông Ba Thắc (Néack ta Bassac); 2) tên của chi nhánh Cửu Long Giang, có tên sông Hậu (chữ là Hậu Giang) sông Sau, sông Bassac, chảy từ biên giới Kam Bu Chia ra Nam Hải xuyên qua các tỉnh An Giang, Vĩnh Long, Phong Dinh, Vĩnh Bình, Ba Xuyên; 3) tên của một trong ba cửa của Hậu Giang, ba cửa ấy là a) cửa Định An, mé Trà Vinh; b) cửa Bassac này; c) cửa Trấn Di; Trấn Dinh là giữ người Cơ Me đối với Trấn Biên, giữ người Thượng, nên thống nhứt Trấn Di và đừng gọi theo sách Pháp khi Tranh Đế, khi Trần Đề là do người vẽ địa đồ đọc sai. Ba Thê Sơn: đd., xem núi Ba Thê. Ba tuếch ba toác: huỵch hoạc, mở trớt ra; viết chữ xiên xẹo không ngay hàng thẳng lối. Chữ ba tuếch ba toác (thơ Nghiên Hoa Mộng của Hư Chu, tr. 38). Đồng nghĩa với trong Nam “ba xí ba tú” (câu này của người bồi (boy) giúp việc cho Tây đặt ra: do nguyên văn Pháp: - N’est-ce pas? Si!... Ce n’est pas tout (Phải vậy không? Phải mà! Nhưng chưa là hết trọn), câu này nói giọng bồi, nghe ra như vậy, và phải giữ giọng bồi mới thấy hay, bằng nói sửa đúng giọng Pháp thì nghe cầu kỳ mất tự nhiên. Ba Vát: địa danh thuộc Bến Tre, cũ là một chỗ u tịch, nay thuộc làng Phước Mỹ Trung tổng Minh Thiện, hiện nơi chùa Linh Quang Tự còn thờ một đầu Phật cổ của Miên, Ba Vát này được nhắc nhở nhiều vì đời xưa có một vua Miên đến trú ẩn và cũng nơi đây xưa Tân Chánh Vương bị binh Tây Sơn bắt. Trong địa dư chí tỉnh Bến Tre, nơi tr. 208, tác giả nói theo đại đức Mékon Vĩnh Bình cắt nghĩa thì Ba Vát do tiếng Miên https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN 51 Préas - Watt là chùa Phật. Nhưng phương pháp viết sử không được nói mà không dẫn điển. Nếu cho suy luận thì Ba Vát rất gần chữ Pos vêk là rắn hổ (cobra), y như Cần Đước là xứ có nhiều rùa. Srok Pôs vêk vì nhiều rắn. Một điều nên nhắc là chữ viết “Ba Việt”, nhưng phải đọc Ba Vát thì dân bản xứ mới hiểu. Ba Xuyên: đd. ở NV, tên một sông ở t. Sốc Trăng. Cơ me: srok bàsăk (di cảo TVK trong le Cisbassac). Dịch từ chữ - Srok: sốc, bàsăk: tên vị thần của Miên gọi Bassac, ta gọi ông Ba Thắc. (xem thêm Bãi Xàu). Ba xí ba tú:t.ng. do tiếng Pháp: n’est-ce pas? Si. Pas tout... có nghĩa “Không phải như vậy cả”,...: tiếng Tây quọt quẹt, ba xí ba tú mà cũng lên chưn, lên hàm này hàm nọ, phách thấu trời! Ba tuếch ba toác: th.ng. chữ trong Thơ - Nghiên-Hoa-Mộng của Hư Chu, tr. 38 nghĩa huỵch hoạc, mở trớt ra; - viết chữ xiên xẹo không ngay hàng, chữ ba tuếch ba toác (tr.38). Ba Xuyên đà:đd. chỗ thâu thủy lợi trên rạch Ba Xuyên thuộc vùng Ba Xuyên khác với Hải đông thủy lợi Ba Xuyên là vùng biển (PCGBCTVK). Nay thuộc tỉnh Sốc Trăng. Ba Xuyên phủ: đd, tên một phủ của tỉnh An Giang đời đàng cựu (Sốc Trăng) gồm ba huyện: - Phong Nhiêu huyện (Bãi Xàu). - Phong Thạnh huyện (Giu Gia). - Vĩnh Định huyện (Ba Xuyên). (PCGBCTVK) Lời bàn phụ. - Theo Lịch sử khẩn hoang miền Nam của Sơn Nam, tr 79, thì tỉnh An Giang, vào năm 1835, lấy thêm đất Ba Thắc lập thành Ba Xuyên phủ. Một chỗ khác, tr. 81 s.d.t viết: “năm 1835, vua Minh Mạng cho người Miên (ở phủ Ba Xuyên) hưởng chế độ tự trị rộng rãi với quan phủ Miên coi việc nội an, mãi đến khi Pháp cai trị, quan phủ vẫn là người Miên (tr. 81). Tôi xin thêm: “quan Phủ Miên chót đời Pháp, là Trần U, ngoài gọi ông Phủ U, có con là ông Trần On, thừa hưởng gia tài để lại gồm đất thổ trạch rất lớn, vùng chùa Ông Bổn tại Châu Thành chạy ra tới làng Sung Đinh và Nhâm Lăng. Ông Trần On phong lưu chuyên cỡi ngựa, đi săn, nuôi gà đá độ và đá cá thia thia, mất lối năm chục năm nay, để tiếng lại là một công tử đàng cựu ăn xài huy hoát. Bà và Thị: Tôi thắc mắc một điều: các quan đời đàng cựu, khi vào trấn trong Nam ôm chữ “hách” theo lớn bằng cái bụng của các quan ấy. Phàm trong này có tên sẵn, tỷ dụ Rạch Bà Nghè, Núi Bà Vãi, Xứ Bà Chiểu, núi Bà Kéc, núi Bà Dinh, tỉnh Bà Rịa vân vân, tuy chẳng nói ra (vì vậy tôi vô phương trưng bằng cớ), các quan phân biệt ngầm và bắt gọi theo ý các quan: phàm những vị nữ thần có sắc vua phong hay https://thuviensach.vn 52 TVTNMN có thể linh ứng vặn cổ họ được, thì cứ để y mà gọi: Bà Chiểu, Bà Dinh, Bà Rịa, thậm chí núi kéc ở nhiều, nhưng ma thiêng nước độc, nên kiêng sợ gọi “núi Bà Kéc”, kỳ dư những bà tuy có tên sẵn làm vậy mặc dầu, nhưng vẫn là vợ quan (Bà Nghè), hay một bà tu hành không làm hại ai, thì các bà ấy thảy đều bị hạ bệ xuống làm “thị”, Thị Nghè, thị Vải, núi nữ tăng, vân vân, - vì ta đây là quan lớn, không chịu gọi ai bằng “bà” tất cả. Biết chừng nào dân ta mới bỏ tánh hách xằng này. Bà Chúa Xứ (miếu Bà Chúa Xứ): đd. thuộc tỉnh Châu Đốc. Miếu ở dưới chân núi Sam, thần tượng bằng đá cổ Miên, tương truyền bà là một thiếu phụ Miên đi tìm chồng, khi đến chân núi ngồi nghỉ mệt rồi hóa kiếp. Dân bổn thổ tôn làm thần, có nhiều linh ứng, mỗi năm đến ngày vía thiên hạ tấp nập, người Việt kính là Cô Hiên, Cô Mười, người Hoa gọi đó là Phật Quan Âm, cầu xin chi được nấy. Từ sau ngày giải phóng, việc thờ phượng đã thôi (sau cho thờ lại) (Tạp san Sử Địa, số 14-15 năm 1969À, bài của Lê Hương). Danh từ “Bà Chúa Xứ” nghĩa đúng là gì? Phải thật Việt Nam chăng? Nhơn thấy trong quyển “La statuaire du Champa do trường Viễn Đông bác cổ Hà Nội in năm 1963, nơi tr. ảnh fig. 241, tác giả là J. Boisselier ghi dưới hình thần tượng nữ thần chàm câu: “Po Romé, idole féminine du pagodon, dite Po Bià Sucih”, xin hỏi “Bìa Sucih có dính dấp gì với danh từ “Bà Chúa Xứ” chăng. Ở vùng Châu Đốc, thường nói “bảy bà ba cậu”, vả lại ở Nha Trang cũng có miếu thờ bà chúa xứ, vậy nên hiểu bà là chúa trị âm binh một vùng nào đó, thường là vùng xưa của Chàm hoặc của Miên. Bà Đinh Sơn: đd, tên Hán của Núi Bà Đinh(PCGBCTVK). (chữ “đinh”viết thay chữ “đen”. Đúng ra là núi Bà Đen, ở Tây Ninh, Cơ Me gọi Pnom Yeay Khmau (Khmau là đen). Vì bà có công nên vua Gia Long phong “Linh Sơn Thánh Mẫu”. Bà Lị: đd, Tùy Đường phiên âm ra Bà Lị, Bà Lợi, Phò Lì, P’ouo Li; Bornéo? Paul Pelliot âm Bà Lị: P’o Li: Bali? Lê Thọ Xuân lấy cớ rằng Bà Lị dài từ Bắc chí Nam đến vài ngàn dặm (trên 1.000 km) và như vậy ắt không phải Bali, vì Bali diện tích chỉ có 5600 m2 (Tạp san Sử Địa 14-15 năm 1969). Về gốc tích hai chữ Bà Rịa, thấy trong le Cisbassac tr. 124 (lược dịch: danh từ Bà Rịa, theo ông Etien ne Aymonier là do tiếng Cơ Me đọc Pâriya. Theo ông L. Malleret, nhà khảo cổ thì do chữ Bà Rày, Barei và nói thêm ao baray này nay còn ở Long Điền. Còn thuyết của VN do Mal leret kể, thì Thị Rịa gốc người ở Bình Định đến đây tạo lập ra chỗ này và được đặt theo tên của bà. Xin chép hết ra đây không kết luận. Bà Phê Sơn: đd. tên chữ của núi Bà Phê (xem chữ ấy). https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN 53 Bà Rịa: đd. tên xứ ở NV; tên một tỉnh của Nam Kỳ thời thuộc Pháp mang số thứ tự 15. Từ 1956, hợp với Vũng Tàu và đảo Hoàng Sa đổi gọi tỉnh Phước Tuy. Cơ Me gọi Srok Yésay Ria. Yéay: người già cả; Ria là tên tộc (không rõ sắc tộc). Theo ĐNQATV HTC, Bà Rịa là tên xứ ở tại Hắc Lăng, bây giờ là tên xứ tiếng kêu chung cả hạt Phước Tuy. Xưa, trong vài sách nôm ưa viết Bà Ly như vậy thường lẫn lộn với Bà Ly là tên của quần đảo Ấn Độ Dương. Ghe ai đỏ mũi đen lườn, giống ghe Thị Rịa xuống vườn thăm em (câu hát địa phương, Đồng Nai văn tập số 3). Về mộ của Bà Rịa - Trường Viễn Đông Bác Cổ (E.F.E.O) xây mộ cho Bà Rịa, hiện giờ mộ ở cạnh hương lộ Giồng Ổi, từ xã An Ngãi qua chợ Bà Đập, thuộc xã Phước Hải (trích thơ Hồ Đắc Thăng, S.Đ 14/15). Bà Rịa (di tích cổ theo Le Cisbassac, tr. 124): Đ ạ i p h à m v ớ i t ậ t l ớ n thiên vì chức vụ (déformation professionnelle), ai làm nghề nào rồi cũng binh vực cho nghề đó, thét rồi thấy không xa hơn chót mũi, như ông Malleret, nghiên cứu chầy năm về mỹ thuật vùng Óc Eo, Núi Sập, nên ông chê xưa nay, tỷ dụ: a) học giả kỳ cựu Etien ne Aymonier nói địa danh “Bà Rịa” do tiếng Cơ Me Pariya, b) các người Việt nói “một bà tên Rịa từ Bình Định vào; c) Trịnh Hoài Đức, tác giả bộ Gia Định thành thông chí, nói “Bà Rịa, do một thành lũy vùng Phước Bửu có tên như vậy”, v.v... các nhà ấy đều nói sai, và theo ô. (Malleret) thì: “Bà Rịa” do hai chữ bàrày, mà theo ông ao bàrày hiện còn ở làng Long Điền: Xin chép nguyên văn của ông cho độc giả quyết định: “Selon Etienne Aymonier, le nom de Bà Rịa correspondrait peut-être au cambodgien Pariya, tan-dis que les Vietnamiens y trouvent le souvenir d’une des étapes de leur expansion colonisatrice à laquelle se rapporte celui d’une femme, la dame Rịa, venue de Bình Định, qui fonda plusieurs villages dans la région. Le Gia Định thung chi mentionne une ancienne forteresse, probablement une enceinte fortifiée, dans une zone qui fut une marche-frontière, et qui correspond peut-être aux restes de fortifications de Phước Bửu que les une disent chams, les autres khmèrs. D’ingénieuses hypothèses ont été avancées pour expliquer le nom de Bà Rịa par des considérations historiques, mais la plupart sont peu convaincantes. Il nous semble que l’origine de ce terme serait plutôt à rechercher dans l’existence d’un grand bàrày à Long Điền, non loin du chef lieu, qui peut par déformation phonétique avoir donné la dénomination Bà Rịa appliquée à une agglomération urbaine et à une division administrative. Cette opinion peut trouver crédit dans l’ancienne dénomination https://thuviensach.vn 54 TVTNMN cambodgienne de Bàrày ou Bàrey utilisée pour désigner la localité et la province. C’est une région que nous avons peu parcourue, constituée de terrains sableux et d’anciennes dépressions lagunaires que traversent quelques sommets rocheux couverts de forêt. (Le Cisbassac, tr 124). 2) cách Bà Rịa vài cây số ngàn về hướng đông, tại Long Điền, nơi gọi Bàu Thành, dài độ 400 th. ngang 200 th. hướng đông sang tây, có bờ đất cao bọc chung quanh và tương truyền xưa là ao tắm voi tắm tượng của vua (Mare aux Eléphants. Nơi đây ngày trước 1 nhân viên trường Bác Cổ Hà Nội là Pierre Paris, có đến khai quật và đem về Viện bảo tàng Sài Gòn nhiều mảnh gốm (MBB, 3033, 1 pesani và 1 rouleau gãy (MBB, 3033). 3) Cũng trong vùng Bà Rịa, khi Nhựt đầu hàng, có một quân sĩ Hòa Lan đem đến viện bảo tàng hiến một đá cổ lưỡi tầm sét (MBB, 4839). (Le Cisbassac, tr. 124-125). Bà Rịa sơn: đd, tên chữ của núi Bà Rịa (xem chữ ấy). Bà Tân: gọi bà Tân Điểm, gặp năm trước ở đường mé sông Hàng Bè ở Huế, vợ vua Khải Định, là con hay cháu của ông Nguyễn Đình Hòe (đã mất). 1 bà Tân (Tân Du) gặp năm 1981 ở Sài Gòn là con của cụ thượng Võ Liêm (bà đàn tranh rất giỏi, nghề nữ công tuyệt khéo, từng ra dạy ở Hà Nội, bà nói với tôi: “Bà là đệ nhị giai phi”, còn bà ở Hàng Bè là “đệ ngũ”, cả thảy mười bà, và Tân là một chức vợ vua. Bà Khải Định, con ông Hồ Đắc Trung, chức là Ân Phi, sau mắc chứng thần kinh có vô điều trị ở Biên Hòa, rồi ra sống nghèo ở chái An Định cung ở Huế. (Hai cơ sở từ thiện, một cúng cho chùa (bà Thành Thái tu nơi đây) một cái nữa cũng gần đó, hiến cho nhà thờ lập cô nhi viện là của bà Khải Định, theo đạo công giáo. Một chùa Diệu Đế, nghe dường như lập trên phủ đệ vua Minh Mạng lúc còn là điện hạ, nơi sanh ra vua Thiệu Trị, té ra chỗ nào sanh vua đều lập ra cảnh chùa về sau, nghe vậy và xin hỏi có đúng vậy chăng?) (Tin nghe lối 1967) chép ra đây cho người khác dùng làm tài liệu). Cựu hoàng hậu Thành Thái là con ông Nguyễn Hữu Độ, còn mẹ của vua Duy Tân là một bà khác. Gần chùa bà Thành Thái, có cô nhi viện Huế, nguyên là sở đất phong cho bà Khải Định, con gái quan Hồ Đắc Trung, chị gái quan Hồ Đắc Khải. (Dường như bà Thành Thái này chức phong là Huyền Phi (hỏi lại, chưa ắt) và chính vì bà mới có câu: “Kim Luông có gái mỹ miều, Trẫm thương Trẫm nhớ Trẫm liều, Trẫm đi). Người gái lớn của Nguyễn Hữu Độ là bà Thánh cung, tức đích mẫu vua Khải Định, hậu lớn vua Đồng Khánh. Còn bà Tiền Cung, vợ hai vua Đồng Khánh là mẹ sinh vua Khải Định. https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN 55 Vợ vua phân ra có: a) Tiếp Dư (gọi tắt bà tiếp), b) mỹ nhân, c) cung nhân. Mệ SEN là con vua Thành Thái, (công chúa). (Bà gặp năm xưa ở chùa sư nữ là bà “Mỹ nhân” đã từ trần). Mai Khắc Đôn là cha vợ vua Duy Tân (Vua Duy Tân lựa hậu, con phe chống). Phan Đình Bình là ông ngoại của đức Thành Thái, cũng là cha vợ cụ Ưng Trình. Trương Như Cương có con gái 1 bà vợ vua Thành Thái, 1 bà vợ vua Khải Định. (Thuật theo lời bác sĩ Nguyễn Duy Hà, Huế, năm 1967). Ban Bot (ruis seau): đd, chữ trong bản Pháp văn của Aubaret, dịch bộ GĐTTC, nếu viết ra quốc ngữ là “Băng bột”, theo tôi có lẽ đúng là Thủy vọt, ngọn sông Sài Gòn, vì Aubaret dựa theo bản do người Tàu khắc sai, “Thủy” đọc “bằng” và “vọt” đọc “bột”, nay nên cải chính lại cho đúng là Thủy Vọt, chữ trong sách của Trương Vĩnh Ký. Ban Bù: dt. do bambou là tre trước, tức giỏ thúng đan bằng nan tre, nói tắt cho gọn. Ban Bù khác với ba nhe, là khi tên trẻ con vì nghèo túng, đi xin ăn bằng cách mang hộ, xách hộ vài món hàng nhẹ cho bà đầm mà ăn công vài xu vài điếu, (lúc này Tây vừa qua đất Nam Kỳ), khi ấy bọn ban bù là bọn trai lực lưỡng, phần đông là quân du thủ du thực dùng cần xé (giỏ tre lớn) có đòn gánh bằng tre tầm vông gánh trên vai và chúng không từ dùng đòn gánh tre ẩu đả nhau vì tranh ăn tranh mối, và được đền công trả bằng cắc bạc (0$10) bằng gốc tư gốc tám (0$20: g.tư; 0$10: g. tám, vì đồng bạc chặt làm tư làm tám thì dễ, không chặt được làm năm, làm mười). (Đời Tây qua, còn xài tiền kẽm, tiền điếu (5 điếu ăn 1 xu), và xu: dịch từ chữ “sou” của Pháp: 100 xu là 1 đồng bạc (1$00). Lương thầy giáo độ 5 hay 6 đồng mỗi tháng, lương thông ngôn chánh ngạch độ 4$50, nhưng nhờ tiền hối lộ; người làm ruộng ở mướn ăn công một năm giỏi độ bốn chục đồng; kẻ chăn trâu, ở không tiền, chỉ ăn cơm của chủ, vì tiền công cha mẹ đã lãnh từ trước và đợ con trừ số bạc này. Ban bù mỗi ngày kiếm ra năm hào (0$50) đủ làm tiền ngày ấy. Bành tô đánh chết xử huề, áo thun chạy lại đứng kề bành tô: câu hát thời Tây mới qua đây chiếm quyền cai trị trong Nam, bọn đày tớ tay sai làm bồi bếp cho quan chủ tỉnh hống hách lắm, và “áo thun chạy lại đứng kề bành tô” tôi xin cắt nghĩa dài dòng như sau: Thuở cựu trào vừa lui, tân trào Pháp tiếp nối, nhưng cách ăn ở còn lề lối lắm: dân không được đi giày dép vào hầu quan, mỗi lần vào hầu thì lột khăn (sau này lột nón) chắp tay lạy dài (sau đổi nhờ Tây cho phép, chỉ xá mà thôi), còn tội nặng lắm thì phải lạy vập đầu vập trán). Ăn mặc tôn ti có bực: quan ta áo dài khăn đóng, thủ phận nhà Nho; thầy thông, xuất thân https://thuviensach.vn 56 TVTNMN trường Trung học, muốn để tóc chít khăn giữ bộ áo dài, dưới đi giày ăn phón (đặt hoặc mua bên Pháp “en France”) thì chủ là quan Tây cười là còn nhà quê, (kiểu ông Trương Vĩnh Ký, muốn tân thời hơn thì phải cắt tóc, đội nón các (casque) nón phớt (feutre), vận nguyên bộ Âu phục thì phải bực “đứng bàn ông Chánh”, dưới mang giày Tây, hạng “Thầy ký” giữ việc sổ sách biên chép, người nào có bằng cấp thi đậu vào ngạch mới được mặc trọn bộ âu phục, người không bằng cấp, lương lãnh ít hơn thì chỉ mặc thân trên Âu phục (áo bành tô) thân dưới còn mặc quần vải trắng ủi là thẳng thớm, chưn mang giày hàm ếch thêu cườm là sang, mang giày da láng da nhung là khiêm nhượng tầm thường, nhà giàu vẫn mặc áo cụt ngắn, ít dám mặc lụa sô, thầy thông và thầy ký đều mặc khi vào làm việc nơi tòa bố, theo hầu quan, luôn luôn mặc chiếc áo năm nút gài tận cổ và cổ may thẳng có hai nút gài cứng đờ, quan Tây cũng mặc bành tô như vậy, trừ quan chức to, người Việt khi nào nhập Pháp tịch, gọi “vô dân Tây” thì mới được mặc bộ Âu phục thả ngực, đeo cà vạt (cravate), ý xưng đồng hàng với người Pháp. Trong lúc ấy, hạng tay sai đày tớ của chủ tỉnh, chia ra có người đầu bếp, gọi “đứng nấu ăn cho ông Chánh” thì được xếp ngang hàng với thầy thông ngôn nên được mặc áo bành tô khi đứng hầu dọn bàn cho quan ăn, nhưng luôn luôn chỉ được vận áo bành tô mà quần thì quần An Nam ủi thẳng, chưa được mặc trọn bộ Âu phục bao giờ, tuy vậy vẫn dựa hơi chủ yêu, rủi lỡ tay giết người, nhờ khéo bợ đỡ, lạy lục (hèn thì dâng vợ dâng con cho nó ngủ, có tiền thì mua đồ cổ, đồ lạ hay dâng tiền mặt) may thời quan Tây xử huề (hòa) thì hát câu “bành tô đánh chết xử huề...”, vì vậy những bọn du thủ du thực, bỏ nghề chơn chánh, vô làm bồi (boy) được mặc áo thun, khi phạm tội sát nhơn vẫn “chạy lại đứng kề bành tô” nhắc ơn đánh giày hốt phân chủ tha thì vênh mặt vênh mày hát câu “áo thun.... bành tô” đủ sướng. Bangkok: Bang-cốc: đd. kinh đô nước Xiêm La (Thái Lan) tiên khởi, phiên âm ra Vọng Ca Võng Ca, Bàn Cốc Vọng Các Bassac: đd. một trong bốn tỉnh của Cao Miên ngày trước, gồm hai tỉnh Sốc Trăng và Bạc Liêu ngày nay lúc đó đặt dưới quyền cai trị của một chủ tỉnh, gọi snet Phubal. Vị quan này trực thuộc Binh Bộ thượng thơ của Cao Miên. Thời đó, tỉnh Bassac chia làm 5 quận: mỗi quận do một quận trưởng cai trị, tên gọi Kralapéa: a) Viên thứ 1, chức là Oknha Thuk Séna, cai trị vùng Trà Nho (Chụi nhua), Bạc Liêu (Po Leo), Trà Cuôn (Prek Tra cuon), tức địa phận hai tổng Thạnh Hưng và Thạnh Hòa (Bạc Liêu) và hai tổng Thạnh An và Thạnh Lợi, thuộc quận Thạnh Trị ngày nay của Sốc Trăng. https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN 57 b) Viên quận thứ 2, chức Oknha Thuk Sang Kéam, cai trị xứ Prek Koi và Bai xau, tức tổng Định Mỹ và Định Chí (Long Phú, Sốc Trăng). c) Viên quận thứ 3, gọi Oknha Montrey Âuchít, cai trị miền Sraiume hay Swaichrume và Beng Kok, bây giờ tổng Nhiêu Phú, Nhiêu Mỹ và Nhiêu Hòa (quận Châu Thành - Sốc Trăng). d) Quận thứ 4, gọi Oknha Montrey Sncha, gồm mấy vùng Srok khléang, Ksach, Péam Senn, nay là t. Nhiêu Khánh, q. Châu Thành và t. Định Khánh (quận Kế Sách). e) Viên chủ quận thứ 5 là Oknha Vo gsa Satroy, trấn tại vàm Cái giầy, và sông Cà Mau. Trọn vùng nầy bây giờ là mấy làng Châu Hưng, Châu Thới (q. Thạnh Trị, Sốc Trăng) và các làng kế cận thuộc Bạc Liêu. Viên đại diện Snet Phubal kiểm soát cả 5 quận: về sau, Miên triều phái một viên lãnh binh gọi Chauvai Srok, phụ tá vị đại diện và quyền coi về binh bị. Chauvai Srok có phận sự đánh đuổi bọn cướp Mã Lai và Ấn Độ, thường đến quấy nhiễu duyên hải Rạch Ngòi, Trà Nho, Bạc Liêu, chúng thường bắt dân chài lưới đem về xứ. Lâu ngày, quyền Chauvai Srok lấn áp luôn quyền viên Snet Phubah. Chauvai Srok có danh lưu truyền lại là Lâm (cha khách mẹ Miên), gọi Lim, cai trị vùng Sốc Trăng và cho đào nhiều kinh, như rạch Beng Cốc (làng Phú Mỹ) và kinh Tà Lim. Năm 1827, Chauvai Lim làm loạn khuấy rối vùng Bưng Trop ở phía bắc Bố Thảo, cách 15km, làng Thuận Hòa ngày nay. Tháng 4 năm 1840, có sự xung đột giữa người Việt và người Miên. Bên ta xây đồn Bảo (ở Bãi Xàu) và đánh với binh Miên ở Mahatup (sau gọi Mã Tộc) thuộc giồng Hòa Đức, bên Miên thua to. Tháng 9 năm 1840, binh ta thắng ở Trà Vinh, thừa thế đánh Chauvai Lim ở Sốc Trăng chạy về Chân Lạp. Nhưng năm 1841 dịch hạch nổi, làm hao dân nhiều, một đứa nít đổi một giạ lúa. (xem Văn Hóa nguyệt san số 13 tháng 7 năm 1956, bài c. Đào Văn Hội). (xem Phủ Ba Xuyên về sự tích Sốc Trăng). Bắc Kế Yên: gác yên, bắc yên lên trên lưng ngựa. Gọi tắt: bắc kế nghĩa bóng: chưng dọn: con ấy bắc kế xem ngon quá. Đồ Bắc Kế: nói về đồ phụ tùng khi dùng ngựa để cỡi, hoặc kéo xe ngh.b. đồ nghề: mới ra nghề nên con ấy chưa có đồ bắc kế (nữ trang) là bao nhiêu. Đồ phụ tùng: cũng như đồ bắc kế: đồ phụ tùng xe đạp mà đồ bắc kế xe ngựa, đồ phụ tùng ô tô và đồ bắc kế gả con lấy chồng. Bắc kế: dt, tiếng xưa của giới đánh xe ngựa: bắc là để lên trên, (như bắc nồi nấu cơm), tức gác lên yên ngựa; ngh. bóng: chưng diện, trang điểm: t.d con nhỏ nầy vừa phát mã, bữa nay bắc kế xem bảnh lảnh bẻo lẻo quá chừng (xem đẹp quá). https://thuviensach.vn 58 TVTNMN Bắt ấn: dt. nói về pháp sư dùng ngón tay ra bộ để trị tà ma: tay bắt ấn, miệng niệm chơn ngôn. Bắt bài: dt. a) lính hay cò bắt con bài đang đánh bài, đang ăn thua quyết chiến tại sòng: bắt bài mà không thâu được tiền tang thì ra tòa con bạc được tha bổng; b) một lối hát đối đáp của giới hát bội, theo nhịp trống kèn điệu bộ riêng biệt: hát bắt bài cho hay là một nghệ thuật đã gần thất truyền. c) nay dùng theo nghĩa mới: nói vô đề hay làm một việc gì: mầy bắt bài còn dở quá, làm sao tụi nó nghe cho mầy. Bắt bài (hát): một điệu hát của giới hát bội. Bắt bén: trt. ngh. tr. lửa bắt đầu cháy, bắt bén cháy: mới nhúm than vừa bắt bén, chưa cháy kịp: ngh. đen: ăn quen, khởi sự một lần rồi quen tánh: lại một lần thấy không có sự gì rồi bắt bén lại hoài hoài. Nó mới bắt bén với tôi. Bắt bịp: dt. đánh lừa người thật thà. Chơi gian lận trong trường hợp đổ bác. Lừa bịp bắt bịp. Bắt bó: dt. tiếng của người làm ruộng, xóc các bó lúa, xổ nó ra và trải trở đầu lại cho trâu đạp một lần nữa cho sạch hột: bắt bó từ giờ nầy cho trâu nó đạp, đến khuya lại ra rơm là vừa, không trễ đâu. Bắt bò lạc: dt. a) ban đầu có nghĩa là làng hay lính đi tìm giúp người chủ tìm con bò thất lạc quên chuồng không về; b) ngh. rộng lấy chơi, chơi qua đường, những gái những đàn bà lạc lõng gặp ngoài đường như của vô chủ; c) tiếng lóng trong nghề đổ bác, ăn ngon, chớp tiền vô thừa nhận trong một sòng bài (tiền bả rơi rớt hoặc tiền tang của con bạc bỏ lại khi bị lính cò rượt bắt): ngồi đây mà chờ như chờ bắt bò lạc thì còn lâu. Bắt bóng: dt. a) ngh. trắng chụp cái bóng y như trong câu Pháp văn: lâcher la proie pour l’ombre: nhả mồi bắt bóng (chuyện con chó xí được cục thịt to trong bếp, ngậm thịt lội qua sông, bỗng thấy bóng thịt dưới nước to hơn, tham vụt nhả cục thịt, chụp bắt lấy bóng, té ra thịt lặn mất, chó ngơ ngác mất cục mồi ngon); b) ngh. rộng, làm theo sự ước chừng không chắc; bắt bóng dè chừng; c) ngh. khác: làm việc không chắc có kết quả, mơ hồ: buông mồi bắt bóng anh ơi,... (nghĩa như trong a) nhưng nói về chuyện tâm tình, nhơn ngãi). Bắt bồ: dt. lóng. Thách thức, khiêu khích nhau. Nay hiểu là làm quen với nhau: con ấy bắt bồ với mầy từ hồi nào? Bắt bộ: dt. a) dùng tay không (không cầm binh khí), nã tróc được địch thủ; b) trong giới ca xướng, ra bộ để vô câu hát: kép Tư Úc bắt bộ khéo; c) trong giới hò khởi đáp lại một câu của người kia xướng, như trong câu: “Xin anh chị em ai nấy đừng cười, để cho tôi bắt bộ với người áo đen” (câu hát cũ). Bắt bớ: dt a) cũng như bố ráp, nói về việc bắt ai phạm phép: lúc nầy chộn nhộn, cò bót bắt bớ lung tung; b) nghĩa nhẹ và đồng nghĩa với bắt: bắt bớ làm chi cho uổng công, vì cờ bạc nhỏ đánh chơi giải trí, giải ra tòa thì tòa cũng tha bổng; bắt bớ làm chi cho thêm nhiều chuyện. https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN 59 Bắt bún: danh từ chuyên môn của nghề làm bún phân ra nhiều lối nghĩa gần nhau mà không giống nhau: a) khoanh bún tươi trên tàu lá chuối, cho thành nắm thành vắt; b) xếp những nắm bún ấy trên vỉ, tải ra từng giề để phơi; c) đếm bún lúc mua hay bán: bắt cho tôi năm đồng bún (bán bao nhiêu vắt tùy ý định của người bán); bắt cho tôi nửa tô ăn thêm. Bắt cá: dt. bắt con cá dưới nước: tát đìa bắt cá thấy ham; tiếng lóng của giới đổ bác: buổi sáng nơi trường đá gà tiếng bắt cá nghe xôm (tiếng phóng bắt đánh cuộc); - bắt cá hai tay: ôm đồm, bên nào cũng có đánh (lội qua lội lại để khi ăn thì ăn được nhiều, khi thua thì thua ít; nghĩa đen: bắt cá hai tay là làm chánh trị bắt bồ cả bên phe thuận cũng như bên phe nghịch: bắt cá hai tay, có ngày bị lộ). Bà Xôi Sơn: đd, tên chữ của núi Bà Xôi (xem chữ ấy). Bắc khấu, giặc Bắc Khấu: dt. giặc cướp gốc Bắc, từ biển vào khuấy phá Quảng Yên năm Mậu Thìn (1808), bọn hải phỉ này, bị Trương Tấn Bửu sai quân ra trừ dẹp. Ngày nay, vùng Bến Tre người lớp xưa còn dùng thành ngữ: “làm như giặc Bắc Khấu”, để gọi quân vô loại xưng hùng xưng bá, cướp của giết người. (L.T.X, tập kỷ yếu hội khuyến học NV, 1942), c.g. Giặc bắc cấu: bọn cướp biển nầy tổ chức theo nhà binh, dùng trống phương Bắc làm hiệu, gọi trống Bắc Cấu (Bắc Cổ), buồm lớn và vuông, xưng “Tề Ngụy Hải Phỉ”, mỗi lần quan ta bắt được phải giải nạp sang Trung Quốc cho xét xử, và phải nhiều năm điên đầu với chúng mới tẩy trừ xong. Trống của Trung Quốc có trống Bắc Cấu (Bắc Cổ) (Quảng Đông và trở lên bắc, thường dùng với trống múa lân. Tùa Lào Cấu: Đại Lão Cổ: trống của Triều Châu dùng; một thứ). Bạc Liêu: đd, tỉnh số 20 của N.V. đời Pháp thuộc, nơi sản xuất nhiều lúa gạo, muối, cá biển, cá đồng, tôm tép tươi và tôm khô. Có câu hát ví: Bạc Liêu nước chảy lờ đờ, Dưới sông cá chốt, trên bờ Tiều Châu Tiều Châu là người Triều Châu, vì thời Pháp, họ ở đây đông. Truy nguyên, Cơ Me gọi Bạc Liêu là Pô Loeu. (Pô là cây Lâm Vô, Phật nhập Niết bàn dưới gốc cây nầy, nên người Miên rất trọng vọng và không dám đốn. Còn loeu là trên cao Pô Loeu là chỗ, vùng có cây Bồ Đề (Lâm Vô) cao nhứt. Người Tiêu đọc Po-léo, âm ra tiếng ta là Bạc Liêu (bạc là mỏng, xấu, bạc bẽo). (Không nên nói Bắc Liêu, vì vốn ở về Nam trên địa đồ Việt Nam). Pô Loeu, cũng viết Pô Loeuh. Tỉnh Bạc Liêu nay là một phần của tỉnh Minh Hải (gồm Cà Mau và Bạc Liêu). Bách mộc: dt. do pémou, tiếng Trung Hoa dịch ra (xem chữ Ngọc Am (gỗ). Bạch đàn hương: dt, loại cây đàn, thơm, vì gỗ trắng nên gọi làm vậy, người ta thường dùng làm nhang khói, hương nó thơm hơn loại Huỳnh Đàn - H.T.C https://thuviensach.vn 60 TVTNMN Bạch Mã Sơn: đd, tên Hán của Hòn Bạch Mã (xem chữ ấy). Bạch Ngưu Giang: đd, tên Hán của Sông Trâu Trắng (xem sông Trâu Trắng) (PCGBCTVK). Bạch Thạch Sơn: đd, tên núi NV; nôm gọi núi Đá trắng, ở Biên Hòa (PCGBCTVK); cũng gọi hòn Đá trắng. Cơ Me (phnom sa thma rolin (Di cảo TVK, trong Le Cisbassac). (phnom: núi; sa: trắng; thma: đá; rolin: trơn bóng. Sách Duy Minh Thị do Thượng Tân Thị dịch kể rằng Bạch Thạch Sơn, có đá quanh bọc, khe nước chảy ồ ào, dòm chợ Bến Cá, chữ gọi Ngư Tân Thị (tr. 18 NKLTĐDC). Bạch Thạch Sơn: đd. tên Hán của Hòn Đá Trắng (xem chữ ấy). (đừng lầm với Bạch Thạch Sơn ở Biên Hòa). Bạch Tháp Sơn: đd. tên Hán của Hòn Bạch Tháp (xem chữ ấy). Bạch Tháp Sơn: đd. th. Hà Tiên, xem núi Bạch Tháp. Bãi Cạnh: đd., tên bãi lớn ở cù lao Côn Lôn. Bãi Dừa: đd. tên bãi biển ở Ô Cấp, Pháp dịch “baie des cocotiers” nói “bãi dứa” là không đúng. Cũng gọi “bãi trước” (xem chữ ấy). Bãi Giá: đd. tên bãi biển thuộc tỉnh Bạc Liêu Nam Bộ. Bãi có nhiều cây giá mọc. Giá là một loại cây tràm, bông trắng, ong rút mật làm ra sáp trắng rất quí, ngày xưa dùng nạp vua (đời Minh Mạng) gọi Bạch Lạp, và sáp trắng này là một món thuế xưa của tỉnh Rạch Giá. Tỉnh Rạch Giá nay thuộc tỉnh Kiên Giang. Bãi Ngao: c.g. Cồn Ngao: đd. tên bãi thuộc địa phận tỉnh Vĩnh Long. Ngao Chư (PCGBCTVK) (Xem cửa biển Ngao Châu). Bãi Ớt: đd, rặng núi ở gần Phương Thành (Hà Tiên) NV. tên chữ là Châu Nham Sơn (PCGBCTVK). Núi Châu Nham, tục danh là Bãi Ớt, ở cách phía đông trấn 22 dặm, đỉnh núi tròn xoe, sườn đá chênh vênh, chạy thẳng ra bờ biển, có những gành rạn gồ ghề, vũng sâu bùn cát, quanh bọc hai bên tả hữu, trong vũng có đá tinh quang vừa trong vừa sáng, và dưới chằm có giống hàu có lằn chỉ đỏ rất đẹp. Tương truyền khi ông Mạc Cửu còn thiếu thời có bắt được dưới nham, một con trai có chứa một hạt châu bề kính gần một tấc ta, quí vô giá, ông dâng lên chúa. Ngoài ra, bên bờ nham có vực sâu rất thuận cho cá tôm làm chỗ ở, vì vậy diệc cò và le le tựu hội nơi đây ăn bơi lội giỡn cả bầy. Bài “Châu nham lạc lộ” (cò đậu Châu Nham là một bài thơ có giá trị vừa về lịch sử vừa về văn chương). (NKLTĐDC, tr 95, GĐTTC, tập 1, tr. 106 và thêm tài liệu khác). Hà Tiên nay thuộc tỉnh Kiên Giang. Bãi Ớt: Châu Nham Sơn, danh thắng ở Hà Tiên. Sao y Pháp văn của Aubaret để cùng thưởng thức: (GĐTTC, tr. 271). “La colline de Chau Nham, vulgairement appelée Nui Trat, est à 22 lis et demi dans l’est https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN 61 de la citadelle et terminée par un plateau sur lequel sont des jardins. A sa base se trouvent ou anfractuosités battues sans cesse par la mer, sur le rivage de laquelle est située la colline. Cette partie du littoral est semée d’une foule de roches formant brisants et environnées de sable et de vase dans lesquels on voit des pierres extrêmement brillantes. Au-des-sous de ces roches on remarque également en grand nombre une sorte de coquillage veiné de rouge. On rapporte que Mạc Cửu, n’étant pas encore revêtu du mandarinat, arriva en ce lieu et découvrit une perle d’une valeur inestimable, qu’il offrit à l’empereur d’Annam(1). Au pied de cette colline sont quelques grottes dans lesquelles l’eau atteint une grande profondeur; ces grottes sont habitées par une grande quantité de poissons qui y attirent beaucoup de pélicans et autres oiseaux pêcheurs. Cette colline de Châu Nham compte parmi les dix sites remarquables de la province de Hà Tiên. Bãi Sau: đd, bãi biển ở Vũng Tàu, vì ở sau chặn núi nên đặt tên làm vậy, để đối với Bãi Trước: khi tắm ở Bãi Sau, phải cẩn thận đề phòng cát lún (nguy hiểm) và sứa lửa. Tắm ở Bãi Trước ít nguy hiểm, nhưng nước không được tinh khiết vì miệng cống châu thành đều đổ xuống đây. Nay thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Bãi Sau, tên chữ là Bãi Thùy Vân (xem chữ ấy). Bãi Sậy: đd. Tên bãi lớn thuộc t. Hưng Yên Bắc bộ. Bãi Sậy: đd. Chiến khu Cần Vương trong một vùng hiểm yếu đầy lau sậy thuộc Hải Dương BV, do Nguyễn Thiện Thuật lập để chống Pháp theo lời hiệu triệu của Phan Đình Phùng sau cuộc chánh biến ở Huế đêm 23 th. 5 năm Ất Dậu (1885) (th. VNTĐLVĐ). Bãi Thùy Vân: đd, c.g. Bãi Sau, bãi biển sau núi Thùy Vân, gần châu thành Vũng Tàu - Nam Bộ. Bãi Trước: đd. c.g. Bãi Dừa (baie des Cocotiers); bãi biển ở Vũng Tàu (cap Saint-Jaques), nơi nghỉ mát có danh ở NV, đủ thuận tiện, gần Sài Gòn, có nhiều khách sạn lớn, nhiều quán giải khát. Bãi Trường Sa: đd, Bãi cát kéo dài ở về t. Quảng Bình, Quảng Trị đến Quảng Nam. Chữ Hán gọi là Vạn Lí Trường Sa. Dải cát này gồm một quần đảo dài, trước thuộc tỉnh Bà Rịa. Bãi Vọp: đd, tên để y bên Hán tự của cửa Bãi Vọp (xem chữ ấy). Bãi Xàu: đd, ở Sóc Trăng, thị trấn bán mua lúa gạo lớn, trên con sông gọi Mỹ Xuyên, nên làng ấy gọi Mỹ Xuyên thôn. Cơ Me: Srok bày chau (di cảo TVK trong Le Cisbassac). c) Tương truyền ngày xưa Người Cơ Me, nhơn chạy giặc, đang nấu cơm nơi đây, bỗng nghe 1. C’est de là que la colline tire son nom de Chau Nham (colline de la Perle). https://thuviensach.vn 62 TVTNMN tin giặc kíp tới, nên hối hả ăn cơm còn sống để chạy nữa và lấy tích đó làm tên gọi. b) Một tích khác, xưa có người vào rừng làm củi, đến chiều, hốt trứng trong rừng đem về, bỏ trứng vào nước luộc chưa chín thì cặp rắn thần về rượt cả bọn chạy trối chết, lúc trở lại, lửa tắt queo, trứng rắn thần đã thâu, còn nồi cơm vẫn sống nhăn nên gọi Bãi Xàu. Nay có miếu ông Ba Thắc ở xóm Chợ Cũ Bãi Xàu xưa có hang rắn hổ ngựa đồn rằng chỗ đó. Rắn nay đã đi mất duy tích còn, giả chơn khó biết. a) Trong vùng có một giống chim, tiếng kêu nghe như: “Chít chọt, Chít chọt” và đặt tên là chim Chít Chọt. Người Tiều ở đó đặt ra câu hát “Chít chọt, chít chọt, khứ Bãi Xáu”, vừa nhớ quê hương cũ, vừa nên thơ. Chim ấy có người gọi chim Chìa Vôi người khác nói chim Quyên. Cả ba điển đều nên thơ: a) điển chim kêu nghe như “Bãi Xàu, chít chọt khiến người ly hương thất thổ chạnh lòng nhớ nhà; b) điển thứ hai, rắn rượt để cướp trứng rắn nghe rùng rợn, khiến nhớ công lao khai thác đổ mồ hôi nước mắt vật lộn với tử thần, rắn độc; c) thuyết kia, thứ ba, gây ác cảm thêm cho dân tộc Miên và Việt bấy lâu sống chung đụng mà nào có giận nhiều như giữa Cơ Me - Nam Vang và dân ta ngày nay, tuy vậy có cái giận nào mà không ngày nguôi ngoai, và khi hết giận cái thương thêm nhiều nhiều, khi hiểu nhau hơn. Ngày nay Bãi Xàu còn di tích: một cái bảo bằng đất, chỗ công xi nấu rượu nếp và gần đó có nhà máy xay lúa quen gọi là nhà máy ông hội đồng Diệp Văn Giáp; gần đó còn một nền đất lù lù đó là nền kho bạc cũ của trào vua Cơ Me, khéang, cho ta danh từ srok khléang, biến ra Sốc Trăng; còn bảo kia là di tích trận chiến tranh giữa Miên Việt vào đời đàng cựu; d) một di tích nữa là trên đường từ chợ Mỹ Xuyên đi vô chợ cũ Bãi Xàu xóm Phước Kiến, có một tòa miếu nhỏ, trên cửa đề “Ba Thắc cổ miếu”, sau miếu còn thấy hang rắn và tương truyền đó là cặp rắn hổ ngựa của thần và dân quê mùa sở tại vẫn tin đó là rắn lưu lai của cặp rắn thần đời xưa nhưng nay đã đi tu nên không thấy nữa. Bãi Xàu: đd, tên Nôm của huyện Phong Nhiêu đời đàng cựu, nay thuộc tỉnh Sốc Trăng. (PCGBCTVK) (xem thẻ Bãi Xàu khác). (Bãi Xàu thuộc tỉnh Sóc Trăng). Tại Bãi Xàu, bên xóm Chợ cũ, có: - đình thờ thần, cất năm 1880; - chùa Cao Miên, cất năm 1872; - chùa Phật của người VN cất năm 1875; - chùa Ông Lớn, do 7 bang lập, cất năm 1876; - chùa Ba Thắc, trùng tu năm 1927; https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN 63 nơi Bãi Xàu (gọi Xóm Mới), có: - chùa Bà Mã Châu, cất năm 1892; - chùa ông Xén Cón (Tiên công?) cất năm 1901 thờ Xén Cón và Na Tra; - Miếu Hội thờ thần, do Phạm Bình Cân cất năm 1884. Tương truyền, năm 1876 khi xây chùa Ông Lớn, người Tàu cất lại miếu Ba Thắc theo kiến trúc Trung Hoa, vì trước đó miếu xây bằng gỗ theo kiến trúc Miên. Năm 1927, xây lại miếu bằng bê tông kiến trúc bán cổ bán kim, mất dấu tích xưa. Đồn rằng thần Ba Thắc thường báo mộng, bọn tổ chức xổ đề thua lỗ nên sai phù thủy trấn áp vì vậy nay thần bớt linh thiêng (V.H.N.S. số 13 th. 7 năm 1956, bài của Đào Văn Hội). Bắt cái: danh từ chuyên môn trong giới cờ bạc: khi ngồi vào sòng rồi, người nào ưng “làm cái” mời một con bạc bẻ cái để mình chia bài, đó là bắt cái. Bắt cặp: dt. ngh. tr. học trò hoặc lính đứng kế nhau để thành cặp thành đôi: bắt cặp không đều, đứng bắt cặp đừng nói chuyện b) kết làm nhơn ngãi, nhơn tình: mới bao nhiêu tuổi đã biết bắt cặp rồi; c) giao hợp: đầu mùa mưa, ếch nhái lo bắt cặp mà quên bị bắt. Bắt cóc: dt. Ban đầu hiểu là đi soi ếch, bắt ếch hoặc bắt nhái; sau đó, hiểu là bắt lén để cho chuộc một người nào đó; sau rốt hiểu rộng ra, bắt cóc để thủ tiêu hoặc giam (về chánh trị), hoặc “lấy nhau”: chị ấy bắt cóc chồng tôi. Bắt chỉ: danh từ chuyên môn của nhiều nghề: thợ đậu bắt chỉ (nghề làm nữ trang); thợ may bắt chỉ; thợ làm cửa sắt bắt chỉ, gò từng lá từng bông; thợ bánh bắt chỉ trước khi cho cái bánh vào lò; nhà văn bắt chỉ (tô điểm câu văn); chị ả ăn sương đang bắt chỉ thằng bồ. Bắt chim chim: chứng bịnh đau mê man, người bịnh mắt nhắm lại, hai tay co vô xòe ngón ra tựa hồ bắt con chim tưởng tượng, sự thật không có chim nào (chữ trong ĐNQATV HTC). Tỷ dụ: người bịnh đang bắt chim chim, đã gần miền, sợ qua không khỏi đêm nay. Bắt chợt: trt. Bất thần, thình lình đến, bất ngờ: bất chợt xảy ra không đoán trước được. Anh đến bất chợt quá, tôi không có tiền, làm sao trả anh. Bất chợt nó đến làm óc trâu cả đám (phá đám). Bắt đầu: dt. Nói về đèn khi cháy sáng: Đèn khó bắt đầu, nửa đêm vụt tắt, coi lại tim nghẹt vì dầu có nhiều chất dơ. Bắt dế: dt. Bắt con dế ngoài đồng. Rước mối giành giựt khách bộ hành, mời đi xe mình: xe lô bắt dế ồn ào, níu kéo hỗn xược vô lễ. Bắt gió: cũng gọi cạo gió, chà vuốt hai màng tang và hai bên sống mũi cho bớt nhức đầu hoặc cạo sau lưng và bắt đầu gân nơi cổ phía sau ót hoặc những chỗ nhức mỏi, có lẽ là một trong những phương pháp trị bịnh cổ truyền còn lại, trong khi thuốc men và cách trị bịnh chưa phát triển tiến bộ. - một nghĩa nữa là lấy tay bắt, chụp trên thinh không, như nắm gió, lại mà xem xét: t.d trong truyện Tây Du, Tôn Hành Giả https://thuviensach.vn 64 TVTNMN dùng cân đẩu vân nhảy lên mây, che mắt ngó bốn phương, dùng tay bắt gió, miệng niệm chơn ngôn, xem luồng gió ấy là của con yêu tinh nào, và có trốn trong ấy chăng. - một nghĩa thứ ba là bắt hụt, như đá gió là đá hụt trong không khí, tức không trúng đích. Bằng lăng: dt. gỗ ở Bộ Lagertroemia divers (Lythracées). Cũng gọi thao lao. Mật độ (densité) D.O,74 Gỗ nhì hạng nhưng thông dụng nhứt vì giỏi chịu đựng với sương nắng, ngâm nước lâu hư, làm mái chèo, vật dụng trong nhà bàn ghế và tủ sách không sợ mối mọt. (xem thêm thẻ thao lao) Bắt gân: Tiếng lóng của giới đổ bác, có môn đánh đề, chủ cái, sau khi ra thai đựng trong hộp nhỏ, thì bày các con bài đố (khi 12 con khi 36 con) nơi trước mặt và các tay con đặt đề, được phép lấy tay chỉ từng con và hỏi dằn từng tên con bài và ngó trâng trâng những lằn gân mặt chủ cái mà tâm lý khiến khi chỉ trúng ngay con tẩy trong hộp thì khiến gân mặt giựt giựt, người ra đề phải cao tay ấn lắm mới khỏi lộ tẩy, v.v...; nay mượn ngh. bóng để gọi sự dò xét, tìm hiểu hành động, cử chỉ của người kia; tỷ dụ ông chồng thấy bà vợ đi chơi về khuya, bắt gân bà xem có ăn chè cháo gì chăng (có ngoại tình trăng gió gì không). Ngh. trắng: bóp đúng gân làm cho tê liệt của vũ thuật, qua ngh. đen: xem dáng để độ ý tứ. Có lẽ do bắt gió mà ra (xem bắt gió). Bắt nọn: tiếng Bắc, như bắt bí. Nọn là một chét, một vốc: một nọn tiền. - Nói dè chừng để người ta tưởng mình đã biết nên phải thú thật; - trong Nam gọi bắt chẹt, vì bị hai bên ép lại, nên phải khai thật; chẹt tay há miệng. Bình linh (gỗ): dt. vitex pubescens (Verbénacées). Mật độ (densité) D.I,00. Gỗ nhứt hạng, thớ mịn và nặng, dễ giồi bóng, dễ tiện và dùng đóng thùng xe, v.v... và bánh xe bò. Bời lời: (gỗ) dt. tên gỗ ở NV litsea Vang (Lauracées). Mật độ (densité) 0,700 à 0,800. Thớ mềm, vỏ ngoài và ruột cùng một màu vàng vàng hoặc vàng sậm, dễ chẻ, ít nhót, giỏi chịu đựng ngoài sương nắng, sâu bọ. Dùng đóng thùng bộng, đồ mộc rẻ tiền, và dùng làm lát mỏng để ghép thùng (merrain). Bô tê: dt. tiếng nghe ở Huế, chỉ định người đàn bà làm nghề ăn sương; do tiếng Pháp “beauté” (đẹp) mà ra, đi tìm bô tê, đi tìm thú gái đẹp. Bông lông: tr.t, bâng quơ. Nói bông lông: chửi bông lông: trổng, không dựa vào đâu, không chỉ rõ ai. Bị bắt bông lông: bị lính bắt mà không đủ bằng cớ, bắt oan. Ban bot, Băng bột và sông Thủy vọt: Ban bot (ruisseau) là chữ viết trong quyển Gia Định Thung chi, Histoire de la Basse Cochinchine, xuất bản ở Paris năm 1863, tức bản dịch ra Pháp văn của G. https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN 65 Aubaret, dịch bộ Gia Định thành Thông chí của Trịnh Hoài Đức viết bằng Hán văn. Băng bột lại là hai chữ của ông Nguyễn Tạo, vì dựa theo bản khắc của thợ Tàu không thạo chữ nôm nên dịch như vậy. Thủy vọt, sông Thủy vọt là nguồn lạch của con sông Sài Gòn, và đây là chữ của Trương Vĩnh Ký trong quyển Petit cours de géographie de la Basse - Cochinchine, in năm 1875 tại Sài Gòn. Vậy xin cải chính: không phải Ban Bot, cũng không phải Băng Bột mà vốn là sông Thủy Vọt. Ban Lân: đd. tên một vùng thuộc t. Biên Hòa đời đàng cựu. Banh: dt. tiếng lóng để gọi khám nhốt tội phạm nặng. Mượn từ ngữ Pháp “bagne” có đến ba bốn nghĩa: a) Sơ khởi là nhà để tắm ở thành Constantinople thuở xưa; b) khám nhốt tội phạm nơi hải cảng; c) khám nhốt tù khổ sai; nghĩa thứ 4 hơi lạm dụng: nơi bị nhốt bắt làm việc nhọc: ta dùng để gọi khám lớn Sài Gòn thời Pháp thuộc: thằng ấy coi việc vô banh (vô nằm khám) như ăn cơm bữa (dễ dàng) (không sợ). Bàn chụp: dt. đồ nghề của thợ làm chuỗi hột, dùng chụp ống vàng cho gom miệng lại, rồi mới dùng búa nhỏ gõ lần hồi ống vàng trên đầu con chim sắt cho ống tròn vo thành hột chuỗi. Bàn tĩnh: tiếng Bắc, để gọi chỗ nằm hút á phiện (Thơ Nghiên Hoa Mộng của Hư Chu tr. 31). Trong Nam, gọi: bàn đèn, mâm hút. Tĩnh: bàn thờ chư vị; lập tĩnh thờ mẫu (trong Nam: lập trang thờ bà; nghĩa bóng: sợ vợ). Bàn trám: dt. đồ nghề của thợ chạm kim hoàn, khúc gỗ đẽo hình vuông dài, và dùng trám (khằng) gắn trên mặt: món vàng sẽ chạm (kiềng, miếng mề đay), hoặc đẽo hình giống - giống con rùa, có cổ thò ra, để tròng chiếc vòng sẽ chạm, vòng này cũng gắn bằng trám cho thêm vững chắc, dễ chạm. Bàn trám thường có khoét nơi đáy làm ra chỗ nắm để lúc hơ trám gắn vàng đỡ nóng tay và làm ra hình con rùa cho thấy khéo, và gọi đó là “bàn trám con rùa”. Bần: dt. (thực): tên cây gỗ tạp, mọc dựa mé nước, rễ nhiều, bám theo đất phù sa mà làm cho đất có phần vững chắc không trôi khi sóng đánh. Cây bần có lá xanh rất đẹp, ban đêm đôm đốm đậu nhiều trông rất xinh, có trái, ăn với mắm sống rất ngon, chúa Nguyễn Ánh đang nếm và ban cho tên chữ là Thủy Liễu, rễ của bần dùng làm nút ve được. Phân ra có loại bần chua, trái lớn và bần ổi trái nhỏ hơn và tương đối ít chua hơn. Xưa nay, nghề uốn và chơi kiểng, phàm cây kiểng lão và gốc bần quá già, khi nào gốc gie ra ngoài bờ ngoài nước thì gọi là nó chiếu thủy, ý nói bóng cây ấy làm dáng và dòm xuống nước. Câu đối xưa, tuy tục mà không thay được chữ nào: “Nước chảy, cặc bần rung bây bẩy, https://thuviensach.vn 66 TVTNMN “Gió đưa, dái mít giãy tê tê. Bánh Xà tón (Xà Túnh): bánh chiên trong cống của người Cơ Me chiên và bán tại chợ Tri Tôn (thuộc t. Châu Đốc) ăn chấm nước mắm ớt; nhưn đậu xanh. Bánh xầy Xại Nả và chợ Sốc Trăng: cũng là một thứ bánh như ở Xà tón, nhưn đậu xanh có trộn với cơm nguội, ngon đặc biệt vì bột dẻo mềm, đậu xanh lựa kỹ, không hột đậu sượng, nhứt là có con tép trên mặt bánh chiên vàng lườm giòn rụm, cũng ăn với nước mắm ớt và phải húp nước mắm nghe sùm sụp mới thú. Bánh giá: cũng thì bánh xầy như kiểu ở Sốc Trăng, và Xoài Cả Nả (Xại Nả), nhưng nhưn lấy giá thay đậu xanh và chiên trong dầu thay cho mỡ cho đỡ tốn. Bánh cống: lại cũng cái bánh kể trên nhưng chiên và bán tại Sài Gòn, ăn kèm với bánh cuốn. Bánh tôm khô chiên: cũng bánh kể trên, nhưng của người Tàu làm và gánh bán dạo, trên mặt bánh có một vài tôm khô chiêu hàng, lấy đó đặt tên để gọi. Khi gánh cải lương của Thày Năm Tú hát tại Mỹ Tho, lối năm 1918, trong một bài ca mở đầu bằng câu “Bánh tôm khô chiên, Bánh dầu cha quảy chiên, Nó là đồ bên Tàu, Các Chú đem qua, v.v... đó là bài ca do hề Ba Du ca, đã làm xao xuyến chúng tôi không ít, nay kẻ còn người mất, bài ca cũng lui về dĩ vãng vì nhàm rồi... Duy cái bánh, tên đếm hơn nửa chục, ăn hoài còn ngon hoài hoài duy răng đã rụng và có lẽ chuộng bánh mềm bánh cũ hơn là bánh mới từ trong chảo vớt ra. Bành thắng: dt., tên một thứ bánh mặn của người Tàu bày. Bành thánh Hoàng thắng: xem chữ “Vân thôn”. Bần Quì: đd, thường nói luôn “Miếu Ông Bần Quì”. Dây bần này mọc gần miếu ông Xá lại Mai Bá Hương, thuộc Tân An cũ, vì mọc gần mé sông nước siết gió mạnh đất lở, lâu ngày gốc ngã “chiếu thủy”, nên gọi “bần quì” (th. L.T.X.) (trích vài câu hát nói về bần: a) Cây bần gie, cây bần ngã... cây bần quì, Cám thương con khỉ đột, lấy gì nó ăn? b) Tuổi thân con khỉ ăn bần, chuyền qua chuyền lại té ùm xuống sông; c) Cây bần gie, bầy đom đóm đậu sáng lòa, bơi qua thương em bậu, bởi qua nhớ em bậu, (nè bớ em bậu ơi?) bởi qua thương qua nhớ, cho nên giữa nửa đêm tăm tối, giữa nửa đêm tăm tối, anh cũng thả bè mà anh lội qua sô...ô...ng” (L.T.X. ĐNVT 15). Bao: túi lớn để đựng vật khô: bao bố; bao hàng, bao nhím, bao kim. Bao bố: bao dệt đan bằng bố: bao lúa, gạo,đường. - một nghĩa khác (tiếng lóng): người bị bắt trong buổi tao loạn hoặc đứa ra đầu thú, bị dẫn nhìn mặt đồng bọn, vì muốn không nhìn mặt được để tránh hậu hoạn, nên lấy bao bố trùm che mặt mày chân thân: Có bị bao bố nhìn chưa? https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN 67 Bao: chừng nào; ít hay nhiều: bao chừ? bao dai, bao lăm, bao nài, bao nở, bao quản. Bao: bọc ở ngoài. Bao: đảm nhận; lo hết, mão việc: việc ấy tôi bao cho; bao một cỗ xe. Bảo An huyện: đd. tên cũ của một huyện thuộc phủ Hoằng đạo, tỉnh Vĩnh Long đời đàng cựu đất Lục tỉnh, nôm gọi xứ Cái Bông. Nay thuộc tỉnh Bến Tre. (PCGBCTVK). Bảo Định hà: đd. tên một khúc của kinh Vũng Gù (xem chữ ấy) vét lại năm 1819 do lịnh vua Gia Long. Nay thuộc tỉnh Long An. Bảo Hựu huyện: trước đó là Bảo Trị huyện (Bến Tre): đd. tên cũ của một huyện thuộc phủ Hoằng đạo, tỉnh Vĩnh Long đời đàng cựu (PCGBCTVK). Nay thuộc tỉnh Bến Tre. Bát và cạy: cũng nói hoát cạy: đt. Hoát: cho ghe qua phía cột chèo mũi (tay mặt). Cạy: cho ghe qua phía cột chèo lái (bên tay trái). Nguyễn Cư Trinh truyền ghe phải khắc tự (chạm tên và chỗ ở của chủ trên be ghe. Bát cạy cũng do ông dạy (như luật đi đường ngày nay). (LTX ĐNVT 15). Bat: tiếng Miên để gọi “bình bát đi xin cơm Bố thí của sãi Miên đi khất thực (marmite à quêter le riz, dict. J.B. Bernard). Đi hành khất theo lối tu của Miên: tou bent bat. Tou là đi. Bình bát là hai danh từ Việt: cái bình, cái bát. Gọi chung thì dễ lầm với dt. Miên tou bent bay nầy. (Nước nào có trước và dùng trước?). Cái bình cái bát hiệp lại thành “bình bát” hay “benh bat” trong “tou benh bat", qua tiếng Việt thành “bình bát”? Dãk bat: faire l’aumône au bonze (dict. J.B. Bernard): dâng cơm cho sãi Miên khi họ đến trước nhà, niệm một câu kinh và chờ dâng cúng. Nếu dịch sát: “đặt bát” có được không? Dịch như thế lâu ngày sẽ lầm tưởng là hoàn toàn tiếng Việt và quên rằng danh từ “dãk bat” là có trước? Tôi nói rồi tôi tự cải chính: không nên làm như vậy đâu. Bát Chiên giang: đd, tên chữ của rạch Bát Chiên (xem rạch Bát Chiên). Bát Đông giang: đd, tên Hán của rạch Bát Đông (xem rạch Bát đông). (PCGBCTVK) Bát Tân giang: đd, tên Hán của vàm Bát Tân (xem vàm Bát Tân). Bát Tân Châu: đd, xem cù lao Bích Trân. Bát Trấn: đd, tám trấn cũ đời Minh Mạng của đất Đồng Nai hay đất Gia Định, nay thuộc tỉnh Đồng Nai. 1) Gò Sặt (Pursat), 2) Nam Vang (Phnom Penh), 3) An Giang (Châu Đốc), 4) Vĩnh Thanh (Vĩnh Long hay Long Hồ), 5) Định Tường (Mỹ Tho), 6) Phan Yên (Gia Định), 7) Biên Hòa (Đồng Nai), 8) Hà Tiên (PCGBCTVK) Bàu, lung bàu: dt, ao sâu mọc cỏ loạn, bèo, lác, muống, sen, lục bình. Bàu bèo, nói mãi hóa ra bà bèo. Lung đìa: đìa cá để cho cỏ loạn mọc làm ổ cho cá đẻ. https://thuviensach.vn 68 TVTNMN (Tiếng Miên “lung” là đào khoét lỗ trong đất, trong cây (creuser terre, bois) lung chhoeu: creuser un tronc d’arbre Chik oi săt thléăk: faire un fossé pour y faire tomber les animaux: tục người Miên đào hầm thật sâu rồi thả cỏ trên mặt làm cho thú rừng sa cơ bị bắt: voi cọp v.v... Con cò ở bên bàu hói, con cói ở bên kia sông, có phải đạo vợ chồng, lại đây ta trồng chung một bụi (câu hát Nghệ An trích trong V.N.T.Đ hội Khai trí (Như vầy, tiếng “bàu” ta có từ lâu, lấy Nghệ An làm gốc). Bàu sấu: đd, tên chữ là Ngạc đàm, ở làng Đại An, phủ An Nhơn, (Bình Định) (L.T.X. tập kỷ yếu hội khuyến học NV, 1942). Bảy bà ba cậu: th.ng. bà chúa Tiên, bà chúa Ngọc, bà chúa Xứ, bà chúa Động, bà Cố Hy, bà Thủy, bà Hỏa; cậu Trày, cậu Qui, đều là con bà chúa Ngọc, làm bạn với một vị thái tử Trung Quốc mà sanh ra, cả thảy đều là thần quỉ hay làm họa phước; còn có cậu Lý, cậu Thông, nói theo vần kể có ba cậu; về hai người sau không rõ sự tích. (ĐNQATV HTC) Bảy Háp: đd, tên một con sông ở vùng mũi Cà Mau, Nam Bộ, chảy từ eo biển Cà Mau vô sâu t. An Xuyên để chia ra nhiều rạch như Mương Do, Đồng Cùng và nối qua sông Gành Hàu bằng một con kinh đào. Bãi Háp: đd, tên một con sông dài nằm vắt ngang mũi Cà Mau, từ đông sang tây, từ Nhựt Nguyệt hay Nhị Nguyệt (?) (phía đầu ngoài kinh xáng cụt, tiếp giáp với con sông chảy xuyên qua tỉnh lỵ Cà Mau), đổ ra vịnh Thái Lan, và từ Nhị Nguyệt tới vịnh Thái Lan này, sông Bãi Háp chảy xuyên qua những nơi nổi tiếng mà tên gọi cần phải điều tra lại, như: Ván Ngựa, Sên Chim, Bầu Tròn, Bà Hinh, Cái Keo, Cái Nháp, Đồng Cùng, Cái Đôi, v.v... (thuật theo lời ông Nguyễn Văn Đính, giáo sư gốc gác ở Cà Mau). Bãi Háp: gọi làm vậy vì bãi này thường bị nước mặn của biển lên, hễ làm trễ, sái mùa thì lúa háp là cái chắc. Trên địa đồ có khi ghi Bay Hạp (ghi sai, nên đính chính: Bãi Háp). Bảy Hiền: đd, tên một xóm đông đúc vùng ngoại ô Sài Gòn: Ngã Tư Bảy Hiền trước thuộc t. Gia Định nay thuộc q. Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh. Bảy Ngàn: đd, tên một con kinh do xáng đào ở Cần Thơ gọi là kinh Xà No kinh dài 14 kilômét chỗ trung tâm của kinh là 7000m, nên lấy đó mà đặt tên, khi kinh đào xong, các điền chủ đua nhau tiền vay bạc hỏi, thi nhau giành khẩn đất dọc hai bờ biến thành ruộng, ban đầu đất phát chậm, phèn nhiều, các địa chủ thất bại đến sạt nghiệp, còn lại câu hát kỷ niệm mỗi lần gặp nhau: “Hỏi anh còn nhớ Bảy Ngàn? Củ co ăn với củ bàng thế cơm!” (khuyết danh) Thương cho các điền chủ: đi tìm đất mới là ước mong đóng góp chút công với xã hội, đem mồ hôi nước mắt vợ con đổi ra chén cơm hột gạo, rốt cuộc gạo cơm đâu https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN 69 thấy, phải đào moi củ co củ bàng nuôi sống... Ngày nay khu vực hai bên bờ kinh Xà No này trở nên vựa lúa miền Nam, ai xét công cho, hay chỉ mang danh địa chủ bóc lột, cường hào ác bá? Bắc Hà: dt, tên gọi đời trước của những tỉnh ở phía Bắc tỉnh Quảng Bình trở lên (G.Đ.T.C. Aubaret, tr. 11). Bắc Thảo: đúng là “bắc đầu”, nói theo giọng Phước Kiến; đd, tên xứ bên Trung Quốc: nay ta còn nói “đầu thảo” (hụi). - hàng Bắc Thảo: hiểu là hàng lụa tốt, do Trung Quốc đem qua NV trước đây và dệt toàn tơ tằm. - giò heo Bắc Thảo: dịch chữ giò heo jambon, vì thời xưa hiểu lầm jambon do Trung Quốc làm đem qua đây bán. - cải Bắc Thảo: cải muối mặn của người Tàu dùng nêm gia vị, cũng gọi “Tang xại”, dịch ra Hán là “đông thái”, còn “kiềm xại” là cải mặn dùng nấu canh hoặc ăn cháo trắng (kiềm: diêm?). Bắc Trang: đd, ở Nam Bộ; tên một quận th.t. Trà Vinh cũ. Cơ Me: srok cà phlớn (di cảo TVK trong Le Cisbassac). Trong tự điển J.B. Bernard, chaphlâng: smau chaphlâng là một loại cỏ mọc rất cao (nom d’une espèce d’herbe qui devient très haute). Băng Cung: đd, thuộc Bến Tre cũ, chữ Hán là Cửa Bân Côn. (L.T.X. Đồng Nai văn tập số 14). Cửa Ban Cung: địa danh trong PCGBCTVK đưa thuyền vào Ban Cung (sic TVK). Cửa Bang Cung: đd, ghi trong Aubaret. Bảo, cù lao Bảo: đd, thuộc Bến Tre cũ, Nam Bộ ở giữa sông Hàm Luông và cửa Đại, trên đầu cù lao có sông Ba Lai, nay đã lấp nghẹt lối. Bến Tre có hai cù lao là cù lao Minh và cù lao Bảo. Bảo Định hà: đd, tên Hán của khúc sông Vũng Gù, nơi vua Gia Long ra lịnh đào vét khai thông thêm năm 1819 (xem kinh Vũng Gù). Bằng lăng: dt. (thực): loại cây danh mộc, to lớn, lá lớn có lông, hoa tím dợt khá đẹp trổ dài theo đọt nhánh; vỏ chứa chất tanin, trị được tiêu tả, trái và lá trị được bệnh đái đường (lagerstrosmia speciosa), cũng gọi cây thao lao (do tiếng Cơ Me srâlau Việt hóa), người radé gọi trueul, ngoài vỏ trắng trắng lấm chấm những lằn đều đều ăn khuyết như búa nện, cây mọc cao và đứng thẳng tựa như cột thánh đường giữa rừng già miệt Hớn Quản, gỗ dùng đẽo chèo xuống nước dẻo dai và đóng tủ bàn làm nhà không bị mối mọt gậm ăn; duy cây dùng lâu năm vẫn còn nhót và ban đêm thường trở mình gây ra tiếng động, người nhát gan gọi có con mộc. Bằng lăng bàn: dt, (thực) một loại bằng lăng (dua banga sonneratiodes). Bằng lăng ổi: dt, (thực) vỏ giống vỏ cây ổi (lagestroemia augusstifolia). Thao lao: đd. tên xứ ở về tỉnh Phước Tuy (nay là một phần của tỉnh Đồng Nai). Đường thao lao: dt. đường đen đổ từ táng tròn tròn, sản phẩm của nơi gọi như vậy. https://thuviensach.vn 70 TVTNMN Bàu Các: đd, tên một bàu nước ở làng Hiệp Hòa, tổng Vĩnh Lợi, t. Trà Vinh cũ, NV. (theo L . M a l l e r e t , L e Cisbassac, 1963). Bàu Ót giang: đd, tên chữ của sông Bò Ót (xem chữ ấy) thuộc tỉnh Cần Thơ. Bấn trống chiến trong bụng: th.ng. bấn là bấn loạn, bụng hồi hộp, ngực tim nhảy thình thịch lung tung như trống trận đánh vô trật tự. Bể nghể: (dấu hỏi, chữ trong ĐNQATV HTC): bộ rã rời. Thường nói về sự đau mình, đau xương. Đau bể nghể: đau rêm cả thân mình. (H.T.C). T.d: hôm qua đánh bạc chơi bài suốt đêm, nay còn bể nghể, không muốn làm gì hết. Bễ nghễ: (dấu ngã, viết theo VNTĐKTTĐ): ngấp nghé dòm nom (có ý muốn lấy) / Bễ nghễ thần khí (trình cướp ngôi vua) (VNTĐKTTĐ) Theo (VNTĐ LVĐ): Bể nghê tt. bải oải, rêm nhức: bể nghể trong mình. (viết theo H.T.C). VNTĐ LVĐ Bễ nghễ: dt. Thấy nhăn, liếc để dọ tình ý, gấm ghé muốn kết tình (viết theo (VNTĐKTTĐ). Bề hội đồng: tiếng lóng: hiếp dâm tập thể. Do baiser của Pháp: “baises-la ensemble” nói pha chè ra như vậy. Bến Gỗ: đd, tên của chợ làng An Hòa, thuộc t. Biên Hòa, vì ngày xưa dùng chỗ này làm bến kéo súc gỗ lên từ dưới sông theo bè trên rừng và sông cái xuống nên thành danh. Một địa danh khác là Bến Súc, cũng đồng một thể ấy mà có. Bến Nghé: đd. th. NV; x. Sông Bến Nghé, Vùng Bến Nghé. Cơ Me: hai địa danh: đều tr. di cảo TVK. Sông Bến Nghé: Tonlé bàn kón krabei (Le Cisbassac, tr. 192). Bến Nghé: bằn nè (kompong kón krabei) (dt. tr. 197). Phải phân biệt rõ: Bến Nghé, miền trung du Bắc Việt, bến trên sông Chanh (Quảng Yên). Bến Nghé (sông): cg. Tân Bình giang, hay Đức Giang, tên nôm nữa là sông Sài Gòn, nguồn ở Bình Long, chảy ngang Bình Dương, qua Gia Định, hiệp với sông Đồng Nai tại Thạnh Mỹ Lợi chảy qua Sài Gòn trổ ra cửa Lôi Rạp. Bến Nghé: rạch từ sông Bến Nghé trong đô thành Sài Gòn (q. 1,2). Bến Nghé: tên cũ của Sài Gòn (trong lời nói dân cố cựu miền quê). Vùng Bến Nghé: (xem chữ ấy). Bến Tranh: nhiều khi “bến”, không dịch “Tân”, “Chữ” lại dịch “giang”, như: Bến Tre: Trúc Giang; Bến Tranh: Tranh Giang; Bến Lức: Lật Giang (L.T.X). Còn T.V.Ký trong (PCGBC) in năm 1875 thì dịch: Thuận An Giang. R ạ c h C h a n h : Đ ă n g Giang, cũng gọi Kinh Bà Bèo (PCGBCTVK). Đăng Giang: Đăng: tả mộc hữu đăng, thuộc loại cây, nó là cây chanh, Rạch Chanh, Kinh Bà Bèo. https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN 71 (Hán Việt tự điển Thiều Chưu đọc Tranh và giải là cây tranh). (Đồng Nai văn tập số 13). Trong Gia Định tổng trấn Tả quân Lê Văn Duyệt, Ngô Tất Tố viết “Rạch chênh” là không đúng. (Chênh chênh bóng nguyệt xế mành - KVK). Bị đánh như dần tương: th.ng. bị đánh nhiều, không khác mình mẩy bầm trầy y như hột tương bị dần nát để làm nước chấm. Bích Câu Châu: đd, tên Hán của cù lao Ba ngang Long Hồ (xem chữ ấy), nay thuộc tỉnh Vĩnh Long. Bích Trân châu: đd, th. Nam Việt nguyên là tỉnh Trấn Biên đời Gia Long. Cơ Me: kompăp sraké trei (di cảo TVK trong Le Cisbassac). - năm 1832, đời Minh Mạng đổi gọi Biên Hòa. - thời thuộc Pháp, mang số 13 của Nam Kỳ. - năm 1956, tách ra một phần lớn, lập t. Long Khánh (Xuân Lộc cũ); và t. Phước Long (quận Bà Rá cũ); (Bà Rá thời Pháp nhốt tội làm chánh trị, cách mạng, chống chánh phủ). - năm 1959, cắt quận Tân Uyên hiệp với Hiếu Liêm, Phú Giáo làm ra t. Phước Thành; Biên Hòa có lâm sản gồm gỗ danh mộc (tạo tác, bàn ghế) và củi tạp, thêm có nông sản (lúa, cao su, mía, cà phê, thuốc lá, bưởi ngọt cùng nơi săn bắn thú rừng, có phong cảnh đẹp, núi Biên Hòa tuy nhỏ, đã cho đá đỏ gọi đá ong dùng trải đường, và có nhiều hầm đá sạn dùng đúc cầu kỳ sàn gác cột bê tông). (Nơi Xuân Lộc còn di tích thượng cổ, Pháp gọi monolithe de Xuan Loc: cổ thạch Xuân Lộc). Biên Hòa: kompăp sraké trei: không dịch được, vì tìm không ra chữ kompăp. Riêng sraké trei, theo tự điển Miên-Pháp J.B. Bernard nghĩa là vảy cá, hoặc đánh vảy cá: écaille de poisson, écailler un poisson. Biên Hòa tỉnh: đd, tên một trong sáu tỉnh Nam Bộ đời Thiệu Trị chỉ Tự Đức gồm: phủ: huyện: 1 Phước Chánh (Do Sa) 1 Phước Long (Do Sa) 2 Bình An (Thủ Dầu Một) 2 phủ 3 Ngãi An (chợ Thủ Đức) và 4 Phước Bình (Biên Hòa) 7 huyện: 1 Phước An (Mô Xoài) 2 Phước Tuy (Mô Xoài) 2 Long Thành (Đồng Môn) 3 Long Khánh (Thôn mọi bà Kí) (PCGBCTVK) Biên Hòa trấn: đd, một trong tám trấn đời Minh Mạng. Bảy trấn kia là: Nam Vang, Gò Sặt, An Giang, Vĩnh Thanh, Định Tường, Phan Yên và Hà Tiên (PCGBCTVK). Tỉnh Biên Hòa mất vào tay Pháp (Bonard) ngày 9.12.1861 (TVK). Biên Hòa danh nhơn (triều nhà Nguyễn): Cao Văn Cửu (Biên Hòa) (? - ?), cai cơ Đoàn Văn Khoa (Biên Hòa) (? - 1765), chưởng cơ Hồ Văn Khoa (Long Thành) (? - ?), cai cơ https://thuviensach.vn 72 TVTNMN Hồ Văn Vui (Bôi) (Thủ Đức), (? - 1804), chưởng cơ quốc công Huỳnh Tấn Cảnh (Biên Hòa) (? - 1787), chưởng cơ Lưu Tấn Hòa (Long Thành) (? - 1801), chưởng cơ Nguyễn Văn Dực (Bà Rịa) (? - 1790), chưởng cơ Nguyễn Văn Đắc (Biên Hòa) (? - 1795), chưởng dinh Nguyễn Văn Hương (Biên Hòa) (? - 1794), tham mưu Nguyễn Văn Lận (Biên Hòa) (? - 1784), cai cơ Nguyễn Văn Nghĩa (Biên Hòa) (? - ?), chưởng cơ Nguyễn Văn Phú (Biên Hòa) (? - ?), vệ úy Nguyễn Văn Tánh (Long Thành) (? - 1805), chưởng dinh Nguyễn Văn Tính (Thủ Dầu Một) (? - 1822), thống chế Nguyễn Văn Thành (Biên Hòa) (? - ?), cai cơ Phạm Văn Khoan (Long Thành) (? - 1800), chánh trưởng chi Trịnh Hoài Đức (Biên Hòa) (1765 - 1825), Cần chánh điện đại học sĩ Trương Văn Chánh (Long Thành) (? - ?), chưởng cơ Võ Công Tánh (Biên Hòa) (? - ?), cai cơ (theo Lê Thọ Xuân) Biên Hùng: đd, tên khác của Biên Hòa NV. Thuận Biên: đd. tên trạm xưa ở giáp cõi Bình Thuận (HTC). Tịnh Biên: đd. tên phủ ở tỉnh An Giang (HTC). An Biên: đd, tên phủ. Ghe bắc biên: dt. ghe ở gành bãi thuộc về tỉnh Quảng Bình (HTC). Biên Thạnh: đd, một trong bốn trạm của t. Biên Hòa đời đàng cựu, được 20 lý. Ba trạm kia là: Biên Long, Biên Phước, Biên Lễ. (PCGBC TVK) Biên Long: đd, một trong bốn trạm của t. Biên Hòa đời đàng cựu được 40 lý. Ba trạm kia là: Biên Thạnh Biên Phước Biên Lễ (PCGBC T.V.K) Biên Phước: đd, một trong bốn trạm của t. Biên Hòa đời đàng cựu được 28 lý. Ba trạm kia là: Biên Thạnh, Biên Long, Biên Lễ. (PCGBC T.V.K) Biên Lễ : đd, một trong bốn trạm của t Biên Hòa đời đàng cựu được 28 lý. Ba trạm kia là Biên Thạnh Biên Long Biên Phước (PCGBC T.V.K. 1875) Biên Trấn: đd, tên cũ của Biên Hòa, vào đời Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát. Hai trấn kia là Phan Trấn và Long Hồ (PCGBCTVK). VNSLTTK viết: Trấn Biên dinh. Biên Trấn: đd, một trong năm trấn của Đồng Nai đời Gia Long (1806). Bốn trấn kia là: Phan Trấn (Gia Định), https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN 73 Vĩnh Trấn (Vĩnh Long / An Giang), Định Trấn (Định Tường), Hà Tiên. Biển Hà Tiên: đd, ở phía tây của đất Gia Định; long mạch địa thế dồn ra biển này. Lần qua hướng nam có đảo Hòn Khoai đứng ngoài ngăn che sóng dữ mà bồi thêm cồn bãi cùng với các hòn la liệt lẫn lộn ăn giáp biển bắc biển nam nước Xiêm La. Nơi khoảng giữa thành vũng rộng lớn bao bọc chung quanh làm thêm vững cho đất Hà Tiên nào cồn cát, nào gành đá vực sâu hay cạn khác nhau, sản xuất nhiều thứ hải sản: cá ngon, hải sâm, ba ba, đồi mồi, ngao sò, cá cơm, hải kình và ốc tai tượng, v.v... Nơi đây gió nam và gió bắc đều là nghịch phong. Ngư phủ đến tháng ba mới hành nghề. Ngoài ra thuyền buồm khách Quỳnh Châu (Hải Nam), khách Quảng Đông, thường đến đậu các đảo ấy để đánh cá, xẻ phơi khô, và bắt hải sâm (đồn đột), sống chung đụng với các ghe thuyền của dân ta trên mặt biển Dương Trì đất Hà Tiên hiền lành. Cũng có bọn cướp biển Qua Oa (Chà Và) đến núp trong các đảo vắng vẻ chờ dịp làm một mối thình lình, cho nên Hà Tiên vẫn phòng bị khí giới và vẫn có ghe tuần thám của Trấn binh mỗi khi gió nam đến thì tuần tiễu cẩn mật để tránh cho dân chài nạn cướp biển cướp chén cơm này. (GĐTTC, tập 1, tr.III và NKLTĐDC, tr.99). Binh Hoa Ngoại: danh từ này sai. Nguyên trong sách của Trịnh Hoài Đức, thì đạo binh do Lý Tài lập là “đạo binh Hòa Nghĩa”, Aubaret, khi viết lại không bỏ dấu, thành “Hoa Ngai”, đến lượt một soạn giả viết cóp theo lại bỏ dấu trật, thành “hoa ngoại”. (L.T.X., ĐNVT 15). Vả lại, Hòa Nghĩa, viết cách khác là Hòa Ngãi cũng cùng một danh từ, nếu soạn giả kia suy nghĩ kỹ thì ắt không có sự lầm lạc như vậy. Bình An: đd, tên cũ một huyện của phủ Phước Long thuộc tỉnh Biên Hòa NV, đời Tự Đức (PCGBCTVK) nôm gọi Thủ Dầu Một. Bình Dương: (Sài Gòn) đd, tên một huyện của phủ Tân Bình, thuộc tỉnh Gia Định, NV, đời Tự Đức, vị trí cũ là Sài Gòn (PCGBCTVK) tỷ dụ: ông Đồ Chiểu sanh tại Bình Dương. Nay thuộc TP. Hồ Chí Minh. Bình Dương: đd. tên mới của tỉnh Thủ Dầu Một (xem Thủ Dầu Một). Tên này có, sau khi truất quận Hớn Quản từ 1956 lập ra tỉnh Bình Long. Tỉnh lỵ châu thành là Phú Cường, nay đặt tại thị xã Thủ Dầu Một. Bình Dương gồm có lúa gạo (nông nghiệp), cao su, trái cây, mía, thuốc lá, đậu phộng, gỗ danh mộc để tạo tác kiến trúc, củi tre dây mây, tức lâm sản, cây công nghiệp có đủ, nay thuộc tỉnh Sông Bé. Vì tên mới, không có tên Miên. Bình Dương giang: đd. tên Hán của Vàm Bến Nghé (xem Vàm Bến Nghé). Bình Hương: dt, bình đựng hương (H.T.C) làm bằng đồng, bạc, hay sứ, có khi tiện trong gỗ quí như trắc, cẩm lai, mun, huyền v.v... https://thuviensach.vn 74 TVTNMN thì giá trị nào thua bằng kim khí. (Tôi từng thấy một bình hương nhỏ tiện trong một chất đá quí, mỗi lần để nước vào bình, trong giây lát, bình tiết ra son, nước đỏ như mực đỏ và đó là bình ngọc, bình hương bằng ngọc thạch vậy). S Bình Long: đd. trước là quận Hớn Quản của t. Thủ Dầu Một, NV tỉnh lỵ An Lộc; tách ra từ 1956. (Le Cisbassac Malleret 1963). Bình Long Hóc Môn: đd, tên một huyện của phủ Tân Bình, th. tỉnh Gia Định NV; nay thuộc TP. Hồ Chí Minh đời Tự Đức, trước là quận Hóc Môn. (PCGBCTVK). Bình Phụng Giang: đd. tên Hán của sông Cái Muối (xem chữ ấy) thuộc địa phận Sài Gòn. Bình Sơn: đd. tên Hán của núi Bình (xem chữ ấy). Bình Tuy: đd. t.l. Hàm Tân T.V. Tỉnh nối liền Trung Việt và Nam Việt do sự sáp nhập một phần Đồng Nai Thượng (Haut Donnai) và một phần tỉnh Bình Thuận (Hàm Tân Tấn Linh (c.v. Tánh Linh). Nay thuộc tỉnh Bình Thuận (Le Cisbassac Malleret - 1963). Bình Thủy: đd. th. NV; tên một làng thuộc t. Cần Thơ, gọi làng Long Tuyền (Luông Tuyền), quê hương và có mộ chôn thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa. Cơ Me: kompul mas (di cảo TVK trong Le Cisbassac). Dịch từ chữ: kompul mas là viết theo lối xưa, nay viết rẻ lại cho ít gai gốc, thì: kompul, hay là kômpòl: huppa (Dict. J.B. Bernard) mãs: méas: vàng, kim. Như vậy Bình Thủy: kômpòl méas: Xứ chóp vàng, chóp, ngọn chót bằng vàng. cũng viết kompoul méas: chóp vàng (sommet d’or). Bình Thủy Đà: đd, chỗ thâu thủy lợi ở Bình Thủy (Cần Thơ) lối 1875 (PCGBCTVK). Bình Trị Giang: đd, tên Hán của Rạch Bà Nghè (xem rạch Bà Nghè). Bình Trước: đd, làng Châu Thành của tỉnh Biên Hòa, thuộc tổng Phước Vĩnh Thượng, có chợ gọi Chợ Dinh. (Hai tiếng Chợ Dinh, đâu đâu cũng nghe và cũng có. Câu hát xưa thường nhắc đến Chợ Dinh. Cái chợ Dinh ở Huế là chợ gần dinh ông Trần Tiễn Thành, quan thượng. Theo ông Huỳnh Tịnh Của, chợ Dinh là chợ Thiềng Thị, (thành thị) trái với chợ quê là chợ chốn quê mùa. Bong Veng (Bàu Giai): đd, do Trapan Ven, (nay viết gọn Trapan Ven (chánh tả t. Le Cisbassac), tên một chùa Cơ Me ở Trà Vinh. Bàu này ở xóm Nô Lợ (sic), làng Nhị Trường (sic), tổng Vĩnh Lợi t. Trà Vinh (theo Le Cisbassac của L. Malleret). (xem Sơn Thọ). Bố Thảo, Búa Thảo: đd. NV, tên chữ Phụ Đầu Giang ở Sốc Trăng (PCGBCTVK), nay gọi làng Thuận Hòa (Bố Tảo). Cơ Me: pãm prêk tumnup (di cảo TVK trong Le Cisbassac). Dịch từ chữ: pãm: vàm; prêk: sông, kinh, rạch; tumnup, trong tự điển Miên Pháp J.B. Bernard cũng viết tămnup, tâmnôp: https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN 75 barrage. Vì ở xứ tôi nên tôi biết chắc, nơi vàm kinh nầy, quả có bị chận lại, và người Thổ nhà quê ở đó gọi “Tà Nóp” vì không nói được đúng chữ đúng giọng như sách viết, người Triều Châu ở đó dịch “Bua Tháo” biến lần ra Phụ đầu (vì tháo là đầu), trong sổ bộ ngày xưa viết “Bố Thảo”, sau rốt đổi lại là làng Thuận Hòa vậy. Bồ Đề đd, tên để y bên Hán tự của Cửa Bồ Đề (xem cửa Bồ Đề). Bò Ót: dt. một loại mắm tép để nguyên con, như của Việt ta gọi mắm tép, khi phơi đúng nắng, không bị giòi tửa (và mặc dầu có giòi, miễn lấy ra sạch), thì màu vàng đỏ trông rất ngon mắt, thấy bắt thèm, ăn với bún, rau sống, nhứt là củ riềng thái mỏng, ớt thật cay, thì thơm ngon và lạ miệng không chỗ nói, bữa cơm thịnh soạn nhiều cao lương mỹ vị cách mấy cũng không bì. Cho đến nay, thú thật, tôi chưa biết mắm tép do ta bày trước, hoặc đó là món ăn Cơ Me và ta đã bắt chước làm theo. Nguyên Cơ Me ở xứ cá, họ chuyên ăn mắm muối nhiều hơn ăn thịt thà, và mắm của họ, có nhiều thứ, tôi chưa biết đúng chánh tả mỗi danh từ, nên chưa dám đi sâu vào đề, tỷ dụ: - mắm làm bằng cá, họ có mắm pra-hok (?), để nguyên con; (làm bằng cá lóc). - pra-hok ốp, mắm cá để nguyên con, khi dùng, ăn mắm sống, xé tay, ăn bốc với cơm nguội thì là tuyệt diệu; (làm bằng cá lóc); - mắm cá trê, cũng ăn sống như pra-hok ốp (mắm ốp); và mắm tép, gọi “Bò Ót” này, chính tả không rành nên xin miễn bàn nhiều. Vùng Hậu Giang (Cần Thơ, Sốc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau) luôn tới Long Xuyên, tôi nhớ có nhiều chỗ đều trùng tên Bò Ót, cũng viết Bàu Ót, khi khác viết Bàu Hốt (xem sông Bò Ót), trong Aubaret lại viết Bao Hot, ngoài dân chúng còn nghe “Bù Húc” vân vân, bởi nhiều cách gọi nên xin chừa. Từ sau ngày 30.4.1975, cá đắt tiền quá, nên miền Nam ít thấy có bán Pra-hok loại ngon, con mắm trắng sạch, và đã mất một món ăn đặc biệt khoái khẩu là bún và sum lo và canh pra-hok-slo... Chữ Slo (canh), biến thể hóa ra sum lo (canh sum lo theo Thổ), và pra-hok quen gọi mắm bò hóc, gọi tắt là mắm bò (lại dễ lầm và khiến liên tưởng mắm làm bằng thịt bò). (Người Việt có tánh kỳ thị, gớm và chê quyết không nếm “bún Sumlo”, nhưng khi ở gần người Cơ Me và quen thưởng thức món này rồi thì lại bắt thèm, không khác nào thèm mì Dương Châu của Trung Quốc, thịt bò chiên, kiểu Chateaubriand Pháp và phô-mát (fromage) có giòi cũng lại là của Pháp. Bố Thảo: đd, tên của làng Thuận Hòa ở Sốc Trăng, người Tiều gọi Pâu tháo, nghĩa là đầu rạch, tháo là đầu. Năm 1827, Chauvai Lim là quan Miên nổi loạn, chống triều đình Nam, Lim đóng binh https://thuviensach.vn 76 TVTNMN tại Bưng Tróp và sai đắp một cái đập đê chận đường thủy của quan binh trên Châu Đốc xuống tiếp viện binh Nam. Đập ở ngay ngọn rạch nên người Triều Châu đặt tên là Pâu tháo, và nơi đóng binh của Lim thì gọi “Xin Xụ” (tức Tân Trụ), tên Tàu này nay còn gọi (V.H.N.S số 13 th. 7 n. 1956, bài của Đào Văn Hội). Bối Diệp Giang: đd, tên Hán của sông hay rạch Lá Buôn. (xem s. hay r. Lá Buôn). Bồn Giang: đd, tên chữ của sông Cái Vồn (xem chữ ấy) thuộc tỉnh Vĩnh Long. Bồn Giang: đd, xem sông Bồn. Bổng: tiếng Bắc, thường đi đôi với lương. Lương bổng: Lương là tiền nhà nước cấp, bổng là lộc, lợi lộc do dân biếu, nói trắng ra là hối lộ. Sơ khởi, ông quan được nhận một số tiền do vua hay nhà nước ban, gọi lương. Ngoài ra, khi hành sự, xử án hay xem xét vụ khẩn đất, vân vân, người xin việc có dâng một số tiền nhẹ, hoặc dâng chút lễ vật, đó là lộc. Về sau, quan thường đòi thêm nặng, đó là hối lộ vậy. Nếu không đòi và tự ý dân biếu, tỷ dụ dâng lễ cho người trị mình lành bịnh, thì đâu phải là hối lộ. Một tỷ dụ thầy tôi là ông B. Bourotte, một hôm nọ có tên học trò nhỏ đến nhà dâng ông một thúng (hay rổ) trái lê mà rằng: “Maman m’a dit de vous apporter ces poires, parce que chez nous, les cochons n’en veulent plus”, thầy tôi cười mà vui lòng chấp nhận, cắt nghĩa rằng của này thừa thãi đến nỗi heo nhà nó chê, thì không nhận tức là thất lễ và chạm lòng tự ái của người cho, vẫn muốn ơn đền nghĩa trả vậy (công dạy dỗ). Trong thơ Nghiên Hoa Mộng, tr. 34 Hư Chu viết: - Của ông cha để lại, cụ lớn cũng còn toan, huống hồ là cái bổng (đây là việc khác). Bồng Giang: đd, tên Hán của sông hay rạch Lá buông (buông có g). (xem s. hay r. Lá buông). Bớ Sớ: (chữ trong ĐNQATV H.T.C). Bứ Sứ: (chữ trong bản dịch truyện Đại Minh Hồng Võ của Trần Phong Sắc). Bộ chưa tỉnh táo. Ngủ mới dậy, còn bớ sớ, tức còn mê. Còn Sặc sừ hay Sậc sừ, chưa định hồn. Cũng nói: còn say ke. Bức: dt, một tấm, một khuôn, một phuông (tiếng kêu kể) (ĐNQATV H.T.C) bức tranh; tượng; màn; sáo; thơ; khăn; vách; cửa; bình phong: tấm che gió. Bức: ngặt, làm ngặt, ép uổng bức hiếp: hiếp đáp, làm hiếp; bức tức: thổn thức, áy náy; bức bối: tức tối, khó chịu; bức ngang: tức ngang, làm tức ngang, làm thình lình không cho hay biết. làm bức: làm tức ngang, làm bướn, làm hiếp nhau; bươn bức: vội vã, lật đật. bức hậu: ăn ở độc ác, ở không có hậu: con nhỏ chơi bức hậu, thôi chồng ngang xương. Cây Tầm Bức: tên cây. Tim Bức: lõm cỏ bấc, vật làm tim đèn (H.T.C) https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN 77 Búa thầu: búa thật to dùng đập sắt sửa cầu. Thầu là đầu, nói theo giọng Triều Châu. cũng gọi “búa tài xồi”, có lẽ do chữ “đại tài”, nói giọng Triều Châu. Gọi đại tài, vì khen búa đắc lực, cho kết quả tốt, mau lẹ. Thầu (đầu). Tài xồi (đại tài). Bún bò: có hai thứ rất khác nhau: - Bún bò Huế là món ăn ngon bún ăn với nước canh có thịt giò, xương heo và thịt bò hầm, giặm rau thơm, rau muống xé nhỏ và ớt thật cay. (đừng lầm với “bò bún” Sài Gòn là món ăn bún xào với thịt bò, không có nước). - bún sum lo: bún nấu theo Cơ Me, rau sống, giá tươi bún chan nước canh cá lóc nấu với bò hóc (prâhok) (có bán nhiều các chợ và xóm Miên ở Rạch Giá, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, vùng Sài Gòn thỉnh thoảng xóm Minh Phụng ở Thị Nghè cũng có bán). Bùng, cân bùng: dt. cân lớn dùng cân lúa, gạo, thập vật hàng xén do tiếng Triều Châu “pùn” và tiếng này mượn của Anh ngữ: “pound” (mesure anglo-saxonne de masse valant 455,59 g.Petit Larousse, xấp xỉ đơn vị, “cân Tàu, cân ta” là 600g). - cân ở Nam dùng cân lúa là cân bùng, Pháp gọi bascule. Bưng: dt đất thấp nổi nước tư niên. Đất thấp đầy những cỏ rác (ĐNQATV HTC). Bưng tráp: tiếng gọi chung, sau còn lại duy tiếng bưng. Bưng tráp có lẽ do beng trop, tên một địa danh Cơ Me Việt hóa ra. (danh từ “bưng” là âm theo Việt, và trong các sách Pháp thường âm “beng” là tiếng Cơ Me chỉ định những vũng nước bùn lầy có cỏ mọc lúp xúp, dựa theo sông Cái Cửu Long trên đất Cao Miên, những chỗ sâu của rừng ngập mùa nước lớn, làm nơi trú ẩn cho nhiều cá tôm sinh đẻ, và khi nào nước rút hạn khô, những beng này biến thành ao cá trên cạn. Dọc bờ Cửu Long Giang vẫn có nhiều beng, khi viết trapéang, khi khác thâu gọn lại còn beng rồi bưng, từ tiếng Miên qua tiếng Việt miền Nam không mấy hồi. Vả lại sự biến hóa của tiếng thật mau lẹ, tỷ dụ tiếng Préa Trapéang, sau nói gọn còn Préa Patang, rồi thành danh luôn nếu không khéo biên chép lại thì ngày sau khó truy căn lắm. Xét ra Cửu Long Giang rất khác với những sông ta thường thấy. Mùa nước lụt, Cửu Long có đến ba giòng nước, giòng giữa là con sông chính, hai bên là hai giòng beng, bưng, chứa đầy cá tôm, và Cửu Long chảy tràn hòa với đất liền, nhờ vậy khỏi đắp bờ đê, cá và tôm tha hồ lên ruộng lên bưng sinh sản và ở luôn tại chỗ cho thổ dân nhờ, chớ không chạy thẳng ra biển như Nhĩ Hà đất Bắc. Từ lâu đời, người Cơ Me trên Nam Vang đã biết lợi dụng và biến đổi beng, bưng thành đất liền để sau trở nên ruộng tốt bằng cách đào thêm mương cạn cho beng bưng ăn vào trong sâu. Phù sa nhơn đó theo lên lâu đời sình lầy đông đặc lại thành đất nạc. https://thuviensach.vn 78 TVTNMN Beng, bưng chia ra có ba hạng, hạng thật sâu, thì có một loại cây mọc dày đến voi tượng không tuông pha trong ấy được, hạng trung sâu độ năm sáu thước thì chứa loại lác cọng rất dài, dùng dệt chiếu và hạng có nước lé đé độ non thước Tây như đã kể. Bưng: đất sình lầy lấp xấp nước, cá tôm ở nhiều, cỏ lác mọc loạn xạ: đi bưng, vô bưng, ở bưng. Bưng, do tiếng Cơ Me “trapéang” đổi ra péang, bâng, bưng, nói dồn lại. Bưng biền: do “bưng” (Cơ Me) ráp với “biên” (Hán tự) biên, bờ dọc mé sông. Các tiếng Cơ Me biến ra tiếng Việt miền Nam. Trapéang (thuộc tỉnh Rạch Giá cũ): Trà Bang (Long Mỹ). Préach Trapéang: Trà Vinh. Préach là Phật, Trapéang: vũng, bưng: Phật tìm gặp dưới ruộng bưng. Vũng biến ra Vinh. Trapéang thmo: Bưng Xa Mo, vùng ruộng ở làng Hòa Tú (Sóc Trăng). Thmo là đá, thạch. Bưng Xa Mo, trước đây là điền ruộng của bà quả phụ Lê Văn An (bà Phu An). Beng: một danh từ thấy trong quyển monographie de la province de KomponCham, có nghĩa là ao lấp xấp nước. Đây là một lối viết theo giọng người Cơ Me, cái mà ta gọi “bưng”. Tỷ dụ: Beng Thom là bưng lớn. Beng Kok ta dịch Bưng Cót (ở tỉnh Sốc Trăng). Beng Trop: ta dịch Bưng Tróp, cũng ở tỉnh Sốc Trăng. Beng Xa Mo: Bưng có đá lộn đất sét, ở Hòa Tú (Sốc Trăng). Tóm lại: beng, trapéang, Prah-bang, v.v... chưa được thống nhứt nhưng hiểu đó là vũng sâu cấy lúa được, lội đi bắt cá tôm được không sợ chết đuối, vì nước tới bụng tới ngực là cùng. Bưng trấp: đất bưng cỏ (H.T.C). Bưng: vũng sình lầy lấp xấp nước, cá tôm trú ẩn, cỏ lác mọc loạn xạ. Đi bưng, vô bưng. Bưng: do trapéang dồn lại: bâng, bưng. Bưng biền: 1 ngữ Miên, 1 ngữ Hán ráp lại. Bưng samo: Bâng Thmo. Bâng thmo: thuộc làng Hòa Tú (Sốc Trăng): vùng ruộng điền Bà Phủ An, sản xuất một giống lúa ngon cơm, gọi “lúa samo”. Nguyên ruộng có lộn đá (thmo). Préah trapéang: Trà Vang, Trà Vinh (nguyên tìm gặp 1 Phật (préah) bằng đá giữa ao nước, nên lấy đó đặt tên). Trà Bang: ắt cũng do Trapéang = đ.d. thuộc Rạch Giá cũ. Long Mỹ Trà Bang. Bưng Ca-âm: đd, tên một đường nước ở NV, chữ gọi Ca-âm-táo (tao, táo là chở bằng đường thủy) (HVTĐ Đào Duy Anh), còn trong (PCGBCTVK) ông Trương Vĩnh Ký viết Ca-âm-tráo, tự tôi sửa chữ này ra táo. Bưng Cóc: đd, tên một làng Miên ở Sốc Trăng, nay là làng Phú Mỹ (cùng tỉnh). Bâng Prọn: cũng gọi Bưng Pọn, Miên gọi Trapéang Prọn, Prọn là https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN 79 cây ráng, dùng làm chổi cứng, có người nói đọt ráng ăn được, và đó là rau vi? Bưng snor: đd, nay là làng Viên An (Sốc Trăng) snor là cây điên điển, hoa dùng làm bánh. Bưng tróp: đd, ở tỉnh Sóc Trăng, chỗ ngã ba An Trạch: Thổ gọi kompong-trop. Bửu Phong Sơn: đd, tên Hán của núi Lò Gốm (xem chữ ấy). Bửu Sơn: đd, tên Hán của Núi Cậu (xem chữ ấy). https://thuviensach.vn 80 TVTNMN C Cái Tàu thượng: đd. xem sông Hội An. Cái Tắc (sic) Cầu Sơn: đd, ở vàm kinh Thiêm Kiều (sic) cách tây bắc tỉnh lỵ 7 dặm, từ hướng tây bắc Bình Giang chảy đến đường quan Thiêm Kiều, chuyển qua hướng bắc 8 dặm, chảy ra sông lớn Bình Đồng. (NKĐDC TTT, tr.37). Cửa Kinh Tất Kiều: tục danh Cái Sắt (sic) Cầu Sơn: theo bản dịch N.T. (GĐTTC, tập thượng, tr. 40). Tắt, lối ngắn gần hơn hết: đi tắt (Lê Ngọc Trụ) (nên viết t). Trong sách, dịch giả không ghi tỉnh lỵ nào, biết th. Bình Giang. Cái Trầu: đd, tên một chỗ ở NV. Cơ Me: srok prêk mlu (di cảo TVK trong Le Cisbassac). Mlu là trầu; si mlu: “ăn” trầu. Cái Tre: đd, chỗ thâu thủy lợi 1875 của Long Xuyên thuộc về Tiền Giang, (không thấy tên chữ gọi là gì và ở đâu?) Cái Vồn: đd, tên một chỗ th.t. Cần Thơ (nay thuộc tỉnh Vĩnh Long). Cơ Me: srok tà von (di cảo TVK trong Le Cisbassac). Cái Vồn: Q. của t. Cần Thơ, nơi đây có chiếc bắc sang sông trên quốc lộ số 4 Sài Gòn/Cà Mau, gọi Bắc Cái Vồn. Sông Cái Vồn: đd, tên sông ở Cái Vồn (Cần Thơ), chữ gọi Bồn Giang (PCGBCTVK). Vồn: không dịch được. Cần Thơ: Tòa bố tỉnh lỵ, lối 1867, đặt ở Trà Ôn, do de Serravalle trấn. Được một năm, dời về Cái Răng, sau rốt đặt vĩnh viễn như ngày nay tại nơi gọi Phong Phú (Cần https://thuviensach.vn