🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Từ Điển Triết Học Kant
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
Table of Contents
HƯỚNG TỚI MỘT TỪ ĐIỂN TRIẾT HỌC TÂY PHƯƠNG HỆ THỐNG CÁC TRÍCH DẪN VÀ VIẾT TẮT A
B
C
D
Đ
G
H
K
L
M
N
O
P
Q
R
S
T
V
X
Y
PHỤ LỤC
https://thuviensach.vn
THƯ MỤC THAM KHẢO
THƯ MỤC KHUYẾN CÁO
BẢNG CHỈ MỤC NỘI DUNG
VIỆT - ĐỨC - ANH
ĐỨC - ANH - VIỆT
ANH - ĐỨC - VIỆT
Chia sẻ ebook : http://downloadsach.com/
Follow us on Facebook : https://www.facebook.com/caphebuoitoi
https://thuviensach.vn
https://thuviensach.vn
Từ điển triết học Kant
- Howard Caygill -
A KANT DICTIONARY
by Howard Caygill, Blackwell Publishing
Copyright © 1995 by Howard Caygill. All rights reserved.
First published 1995
Reprinted 1995, 1996 (twice), 1997, 1999, 2000 (twice), 2002, 2003, 2004 Library of Congress Cataloging-in-Publication Data has been applied for ISBN 0-631-17534-2 (hbk) – ISBN 0-631-17535-0 (pbk)
TỪ ĐIỂN TRIẾT HỌC KANT
Bản quyền tiếng Việt © 2013 Công ty Sách Phương Nam và tập thể dịch giả: Châu Văn Ninh - Cù Ngọc Phương - Đinh Hồng Phúc - Hoàng Phong Tuấn - Hoàng Phú Phương
- Huỳnh Trọng Khánh - Lê Quang Hồ - Mai Sơn - Mai Thị Thùy Chang - Nguyễn Thị Thu Hà - Nguyễn Văn Sướng - Như Huy - Phan Thị Vàng Anh - Thân Thanh - Thánh Pháp - Trần Kỳ Đồng - Trần Thị Ngân Hà
Bùi Văn Nam Sơn chủ trương và hiệu đính.
Bản tiếng Việt được xuất bản dựa theo thỏa thuận với John Wiley & Son, Inc, UK.
https://thuviensach.vn
HƯỚNG TỚI MỘT TỪ ĐIỂN TRIẾT HỌC TÂY PHƯƠNG
“ Một quyển từ điển bắt đầu
khi nó không còn mang lại
nghĩa của các từ, mà cho thấy
trách vụ của chúng”.
Georges Bataille
Ngày nay, thuật ngữ triết học hay có nguồn gốc triết học thâm nhập sâu vào các ngành khoa học nhân văn, khoa học xã hội và cả khoa học tự nhiên. Tính giao thoa, liên ngành và chất lượng lý thuyết được khái niệm hóa đang gia tăng không ngừng khiến cho các loại sách công cụ như từ điển, từ vựng, sách tra cứu v.v.. trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Đáp ứng nhu cầu tìm hiểu, học tập và tra cứu ấy bằng tiếng Việt lại càng cấp thiết, nhưng lại rất khó khăn, vì công việc này đòi hỏi nỗ lực biên soạn vượt khỏi năng lực của một cá nhân, đó là chưa nói đến trở ngại lớn nhất là việc phiên dịch kịp thời và thỏa đáng các thuật ngữ có nguồn gốc nước ngoài.
Nhằm góp phần nhỏ vào công cuộc này, NXB Tri thức và Công ty văn hóa Phương Nam, từ khá lâu, đã có ý định tổ chức biên soạn một bộ từ điển triết học Tây phương. Khi nhận sự ủy thác khó khăn này, chúng tôi thấy rằng trong ba bộ phận hợp thành (từ điển các thuật ngữ triết học; từ điển các triết gia và các trường phái triết học; từ điển các tác phẩm triết học tiêu biểu), thiết tưởng bộ phận thứ nhất (từ điển thuật ngữ) là cần thiết hơn hết, do đó, cần bắt tay làm trước. Tuy nhiên, ai cũng biết rằng phần lớn các thuật ngữ triết học đều có một lịch sử, và trong số đó, không ít thuật ngữ, khái niệm đã làm nên lịch sử! Lịch sử này thường rất lâu dài và phức tạp; nội dung và ý nghĩa của mỗi khái niệm biến chuyển tùy
https://thuviensach.vn
theo cách hiểu và cách sử dụng - có khi trái ngược hẳn nhau - của các triết gia và các trường phái triết học. Vì thế, việc biên soạn một từ điển thuật ngữ triết học, dù ở dạng phổ thông, cũng khó có thể quá vắn tắt, ngắn gọn, thoát ly khỏi lịch sử của thuật ngữ, nếu không muốn gây nên những sự hiểu lầm đáng tiếc cho người sử dụng. Nhưng, một từ điển, để tiện dụng, cũng không thể quá rườm rà và chi ly. Để tránh khỏi thế “lưỡng nan” ấy, song song với quá trình biên soạn một từ điển thuật ngữ có tính tổng hợp và tương đối ngắn gọn, chúng tôi thấy cần thiết phải có một số bước chuẩn bị, nhất là trong điều kiện còn quá thiếu sách công cụ bằng tiếng Việt như hiện nay. Trước hết, chúng tôi chọn lọc và lần lượt giới thiệu hệ thống thuật ngữ của một số triết gia quan trọng, có ảnh hưởng quyết định đến tiến trình hình thành thuật ngữ triết học Tây phương. TỪ ĐIỂN TRIẾT HỌC KANT do Howard Caygill biên soạn, thuộc tủ sách “ The Blackwell Philosophers Dictionaries” là dịch phẩm đầu tiên trong việc chuẩn bị ấy. Tủ sách giá trị này còn cung cấp một loạt “Từ điển” chuyên sâu về hệ thống thuật ngữ của các đại triết gia như Descartes, Hobbes, Locke, Rousseau, Hegel, Wittgenstein v.v..., bên cạnh nhiều tủ sách khác về triết học cổ đại và các triết gia đương đại. Theo dự kiến, bản dịch TỪ ĐIỂN TRIẾT HỌC HEGEL của Michael Inwood cũng thuộc tủ sách Blackwell này sẽ sớm được ra mắt trong thời gian tới.
Khi nắm vững được bộ khung khái niệm của các đại triết gia và các thời kỳ triết học chủ yếu, ta có tạm đủ chất liệu cho một từ điển thuật ngữ triết học được chắt lọc.
Quan niệm rằng việc biên soạn một bộ từ điển triết học Tây phương là một việc làm dài hơi, chúng tôi mong nhận được sự kiên nhẫn, thông cảm và giúp sức của bạn đọc, khi chúng tôi chọn cách làm có vẻ nghịch thường: chuẩn bị phần chuyên sâu trước phần phổ thông. Cách làm này tuy khá vất vả và chậm chạp, nhưng hy vọng có thể phục vụ tốt hơn cho mục đích tìm hiểu cặn kẽ một lĩnh vực đặc thù, rất phức tạp và trừu tượng là triết học, cũng như, với sự cố gắng và cẩn trọng, đề nghị cách phiên dịch những thuật ngữ thuộc nhiều truyền thống và trường phái khác nhau, vốn không bao giờ dễ dàng nhận được sự tán đồng rộng rãi. Trong công việc này, chúng tôi được thừa hưởng bao nỗ lực và thành tựu của những bậc đi trước, với tất cả lòng biết ơn sâu xa của những kẻ hậu học.
Là kết quả đầu tay của một tập thể những anh chị em yêu thích triết học đến với nhau trong một “lớp học tự nguyện”, bản dịch này ghi dấu những kỷ niệm
https://thuviensach.vn
khó phai của một tình bạn và một sự hợp tác chân tình, đầy say mê trong bước đầu tiên của con đường vạn dặm. Tập thể dịch giả mong nhận được sự chỉ giáo của các bậc cao minh; những khuyết điểm, sai sót không thể tránh khỏi trước hết thuộc về trách nhiệm của người chủ trương và hiệu đính.
KANT VÀ NGÔN NGỮ TRIẾT HỌC
Không phải ngẫu nhiên khi chúng tôi đề nghị bắt đầu đến với thuật ngữ triết học Tây phương bằng TỪ ĐIỂN TRIẾT HỌC KANT. Đúng như soạn giả Howard Caygill, trong Lời tựa ngắn “Kant và ngôn ngữ triết học” đã nhận định: “Ảnh hưởng của triết học Kant đã và đang tiếp tục sâu rộng đến độ không dễ dàng nhận ra được. Việc nghiên cứu triết học trong truyền thống “phân tích” của khu vực Anh Mỹ lẫn trong truyền thống “lục địa” Âu châu là không thể hình dung được nếu không thừa hưởng nguồn thuật ngữ và khái niệm do Kant để lại. Ngay cả bên ngoài triết học, trong các ngành khoa học nhân văn, khoa học xã hội và khoa học tự nhiên, các khái niệm và cấu trúc lập luận của triết học Kant hiện diện khắp nơi. Bất kỳ nỗ lực thực hành phê phán nào về văn học hay xã hội đều là một đóng góp cho truyền thống Kant; bất kỳ ai phản tỉnh về những nội hàm nhận thức luận hay khoa học luận của công trình của chính mình đều thấy mình đang làm việc bên trong những thông số mà Kant đã xác lập. Thật thế, nhiều cuộc tranh luận hiện nay, dù trong mỹ học, lý thuyết văn học hoặc lý thuyết chính trị, cho thấy rõ xu hướng độc đáo là lập tức chuyển thành cuộc tranh luận trong việc lý giải Kant. Nhìn chung lại, hai trăm năm sau ngày mất của tác giả, triết học Kant đã tự khẳng định như là một điểm tựa không thể thiếu được trong việc định hướng về tinh thần”. Bên cạnh ảnh hưởng sâu rộng ấy, không ai có thể nghi ngờ cống hiến lịch sử của Kant trong việc “san định” và hiện đại hóa thuật ngữ triết học. Trước hết, Kant đã tiếp thu có phê phán và phát triển hệ thuật ngữ “cổ điển” từ cổ đại đến trung đại, minh định rành mạch ý nghĩa, nhất là mang lại sức sống mới cho chúng qua quá trình tư duy triết học bền bỉ và đầy sáng tạo của chính mình, chứ không làm cho các thuật ngữ trở nên xơ cứng, cằn cỗi và võ đoán như nơi một nhà “từ điển học” đơn thuần. Thứ hai, Kant tiếp tục triển khai nỗ lực đầy dũng cảm của triết gia tiền bối Christian Wolff là phiên dịch có hệ thống kho tàng thuật ngữ triết học từ tiếng Latinh sang tiếng Đức bản địa. Công việc này không chỉ góp phần quyết định vào sự hình thành ngôn ngữ triết học Đức, đặt nền móng vững chãi cho sự phát triển rực rỡ của triết học Đức từ nửa sau thế kỷ XVIII cho đến ngày
https://thuviensach.vn
nay, mà còn giúp tăng cường lòng tự tin vào khả năng truyền bá và “bản địa hóa” thuật ngữ và ngôn ngữ triết học nơi mọi quốc gia khác. Kant đã minh chứng hùng hồn rằng không một ngôn ngữ nào - kể cả tiếng Đức “quê mùa” của thời ông - phải vĩnh viễn cam chịu số phận “nôm na mách qué”! Thứ ba, Kant đã mạnh dạn tiếp cận những lĩnh vực kinh nghiệm vốn bị loại trừ ra khỏi triết học trước đó. “Kant đã tái phát hiện ngôn ngữ triết học bằng cách du nhập những thuật ngữ và khái niệm mới mẻ từ bên ngoài triết học, cũng như tự giác tái định nghĩa rất nhiều những thuật ngữ và khái niệm truyền thống. Ma trận của những biến đổi về ngữ học và khái niệm này bắt nguồn từ các bài giảng của ông trong suốt bốn mươi năm về hàng loạt chủ đề khác nhau. Trong các bài giảng của mình, Kant minh giải những khái niệm triết học truyền thống đã định hình trong các sách giáo khoa chính thức bằng những chất liệu rút ra từ khoa học tự nhiên đương thời, từ báo chí, tiểu thuyết, thi ca, cũng như từ các sách y học và du ký”. Điều này cho thấy Kant thực sự đã mở đầu cho tinh thần giao thoa giữa triết học và đời sống, chấp nhận tính mạo hiểm trong những thử nghiệm tư duy, kể cả những khái niệm còn chao đảo, để mở rộng những chân trời suy tưởng, một truyền thống sẽ được các thế hệ sau tiếp bước, từ Hegel, Nietzsche, Husserl, Heidegger, Wittgenstein cho đến Deleuze, Derrida, Foucault v.v..
Đối với các tác gia lớn, việc biên soạn “từ điển” về họ là nhu cầu hiển nhiên. Thế hệ những nhà từ điển học đầu tiên về Kant là Mellin (1797) và Schmidt (1798). Là những người sống đồng thời với Kant, hai tác giả ca ngợi công lao xây dựng thuật ngữ triết học của Kant, nhưng “xuyên suốt các công trình của họ, ta vẫn thấy có một sự căng thẳng nào đó giữa một bên là sự chính xác được Kant mang lại khi cải tiến ngôn ngữ triết học và bên kia là sự chưa ngã ngũ trong việc làm giàu ngôn ngữ triết học”. Một thế kỷ sau, sự căng thẳng này hầu như biến mất trong công trình đồ sộ Kant Lexikon (1930) của Rudolf Eisler. Trong công trình này, hệ thuật ngữ của Kant mang dáng dấp hàn lâm, kinh điển, không còn mang tính “tranh cãi” như nơi Mellin và Schmidt nữa, trái lại, là một cái “toàn bộ tự tồn”. Quan niệm này đã ảnh hưởng sâu sắc đến chủ trương biên tập và ấn hành Toàn tập Kant của Viện Hàn lâm Berlin, nổi tiếng với tên gọi quen thuộc: “Ấn bản Hàn lâm” (“Akademie-Ausgabe”) . Quá trình “điển phạm hóa” của đời sau hầu như là số phận không thể tránh khỏi của các đại triết gia!
https://thuviensach.vn
Vậy, ý kiến của bản thân Kant sẽ ra sao, nếu giả thử ông đọc được các công trình biên soạn từ điển về ông? Câu hỏi thật thú vị khi ta biết rằng tinh thần xuyên suốt và thấm nhuần toàn bộ sự nghiệp của Kant là tinh thần phê phán và tự-phê phán . Đối với công việc triết lý và san định thuật ngữ triết học, Kant luôn giữ thái độ nghi vấn (problematisch) và không tuyệt đối hóa, bởi tất cả nằm trong mối tương quan chặt chẽ với nhau. Trong cách nói của chính Kant, các khái niệm triết học là có tính suy lý (akroamatisch/diskursiv) chứ không phải có tính định đề (axiomatisch) , nghĩa là, khác với các khái niệm hình học có định nghĩa không thể tranh cãi, các khái niệm triết học là kết quả suy lý của một tiến trình phản tư không có kết thúc về các vấn đề triết học. Chúng thường là sự trình bày gián tiếp, mà kỳ cùng chỉ dựa trên một sự loại suy dựa vào sự tương tự (Analogie). Trong Phê phán năng lực phán đoán (§59) , Kant cho thấy ngay cả những khái niệm then chốt của triết học như bản thể (Substanz) và cơ sở/căn cứ (Grund) cũng là kết quả của một tiến trình loại suy từ mối quan hệ trong một lĩnh vực này (cái nâng đỡ và cái được nâng đỡ) sang một mối quan hệ khác trong tư duy triết học. Thêm vào đó, “định nghĩa” về chúng luôn phải dựa vào các thuật ngữ khác. Chẳng hạn, bản thể chỉ có thể được định nghĩa trong sự đối lập bổ sung với tùy thể, khái niệm với trực quan, chất thể với mô thức v.v.. Chúng không chỉ được định nghĩa theo kiểu phân đôi (disjunktiv), mà còn tham gia vào một mạng lưới những khái niệm làm cho ý nghĩa của chúng ngày càng phức tạp và phong phú.
Từ những nhận định ấy, soạn giả đề ra chủ trương biên soạn của mình như sau: “Từ điển này cố mang lại một bảng lược đồ về các phương diện nghi vấn và tương quan của từ vựng Kant. Thay vì giới thiệu một khái niệm như là một yếu tố cố định, có tính định đề trong “ triết học” Kant theo kiểu của Eisler, các mục từ điểm lại lịch sử của vấn đề mà thuật ngữ là một sự đối trị, và cho thấy những phương thức để Kant đi đến chỗ xác định ý nghĩa của nó trong diễn trình suy tưởng. Thêm vào đó, mỗi mục từ gắn liền với một danh mục những thuật ngữ có liên quan, tạo nên một mạng lưới, trong đó nó đạt được trọn vẹn các tầng nấc ý nghĩa. Sau cùng, khi thấy thích hợp, các mục từ cũng xem xét số phận của khái niệm sau Kant, qua đó cho thấy vị trí then chốt của Kant ở giữa truyền thống và hiện đại. Tôi hy vọng rằng chiến lược biên soạn này sẽ giúp người đọc cảm nhận được sức mạnh và đẳng cấp của công trình suy tư triết học của ông, và từ đó, ít nhiều nhận ra lý do tại sao triết học Kant gây ảnh hưởng khổng lồ và hầu như không thể tát cạn lên nền văn hóa hiện đại”.
https://thuviensach.vn
Từ điển này sẽ được sử dụng hiệu quả hơn khi kết hợp với ba quyển Phê phán của Kant đã được dịch và chú giải. Chính vì thế, chúng tôi xin phép tỉnh lược và không dịch bài dẫn nhập “ Kant và “thời đại phê phán”” của soạn giả. Để có cái nhìn khái quát nhưng súc tích về triết học Kant, bạn đọc có thể đọc ngay mục từ Triết học phê phán trong từ điển này với sự giới thiệu ngắn gọn ba quyển Phê phán nổi tiếng của Kant.
BÙI VĂN NAM SƠN
Thay mặt tập thể dịch giả
Xuân Nhâm Th.n 2012
https://thuviensach.vn
HỆ THỐNG CÁC TRÍCH DẪN VÀ VIẾT TẮT TRÍCH DẪN TỪ TÁC PHẨM CỦA KANT
Hầu hết tên các tác phẩm của Kant được trích dẫn trong từ điển này đều được viết tắt. Muốn tìm nhan đề của tác phẩm nào, xin bạn đọc trước hết hãy xem “Bảng danh mục viết tắt tên các tác phẩm của Kant” dưới đây. Mỗi chữ viết tắt (theo thứ tự chữ cái trong cách viết tắt tiếng Việt) trong Bảng danh mục cho biết năm xuất bản và nhan đề tóm tắt. Nhan đề đầy đủ bằng tiếng Đức (với bản dịch sang tiếng Anh) được đặt trong “Danh mục chi tiết các tác phẩm đã xuất bản của I. Kant từ 1747 đến 1967” ở cuối sách. Trong mọi trường hợp, năm xuất bản sẽ là dấu hiệu chính để dễ tìm tên đầy đủ của tác phẩm trong “Danh mục chi tiết...” nói trên.
Các trích dẫn thường nêu số trang trong bản dịch tiếng Anh hoặc số tiểu đoạn (§) chung cho nguyên bản tiếng Đức lẫn bản dịch tiếng Anh và tiếng Việt (nếu có). Riêng tác phẩm Phê phán lý tính thuần túy có hai Ấn bản (bản A: 1781; bản B: 1787), được trích dẫn theo thông lệ căn cứ vào số trang trong nguyên bản tiếng Đức của cả hai ấn bản (vd: PPLTTT, A324/B380 (bản tiếng Việt của Bùi Văn Nam Sơn có ghi thêm số trang theo bản B)). Ở đâu có hai số trang (vd: CSSĐ, tr. 425, tr. 33) thì số trước là số trang trong nguyên bản tiếng Đức theo “Ấn bản Hàn lâm” (Akademie-Ausgabe), còn số sau là trong bản dịch sang tiếng Anh (cả hai đều có trong “Danh mục chi tiết...” ở cuối sách).
TRÍCH DẪN TỪ TÁC PHẨM CỦA CÁC TÁC GIẢ KHÁC
Được trích dẫn theo tên tác giả hay nhà ấn hành và năm xuất bản. Chi tiết đầy đủ xin xem trong “THƯ MỤC THAM KHẢO” đặt ở cuối sách, theo tên tác giả.
BẢNG DANH MỤC VIẾT TẮT
TÊN CÁC TÁC PHẨM CỦA KANT
(Xếp theo mẫu tự a,b,c,...)
BSL 1762 Sự tinh vi sai lầm của bốn dạng tam đoạn luận
https://thuviensach.vn
BTL 1791a Về sự thất bại của mọi nỗ lực triết học trong Biện Thần luận CSSĐ 1785e Đặt cơ sở cho Siêu hình học về Đức lý
DB 1768 Về cơ sở tối hậu của sự dị biệt hóa các khu vực trong không gian ĐĐH 1924 Các bài giảng về Đạo đức học
ĐHTD 1786c “Định hướng trong Tư duy là gì?”
ĐLPĐ 1763b Thử du nhập Khái niệm về đại lượng phủ định vào trong Triết học ĐTLVL 1756d Sử dụng Siêu hình học kết hợp với Hình học trong Triết học tự nhiên ĐVCC 1764a Các quan sát về tình cảm đối với cái Đẹp và cái Cao cả GM 1766 Giấc mơ của Thầy Bùa được lý giải bởi giấc mơ của Siêu hình học HBVC 1795 Hướng đến nền Hòa Bình Vĩnh Cửu
HHTĐ 1763a Luận cứ duy nhất khả hữu để ủng hộ cho một sự chứng minh về sự hiện hữu của Thượng đế
KMLG 1784b Trả lời câu hỏi: “Khai minh là gì?”
L 1800a Lôgíc học
LA 1770 Luận án Tiến sĩ: Về hình thức và các nguyên tắc của thế giới khả giác và thế giới khả niệm
LS 1747 Các ý tưởng về sự lượng định đúng đắn các Lực sống LSPQ 1784a Ý tưởng về một lịch sử phổ quát với cứu cánh làm công dân thế giới LSTN 1755a Lịch sử Tự nhiên phổ quát và lý thuyết về Bầu Trời LTTH 1793b Về câu ngạn ngữ: “Có thể đúng về lý thuyết, nhưng vô dụng trong thực hành.”
NLH 1798b Nhân loại học từ quan điểm thực tiễn
NTĐT 1755c Nova dilucidatio: Một giải thích mới về các Nguyên tắc đầu tiên của Nhận thức Siêu hình học
OP 1936 Opus postumum (Di cảo)
PĐ 1786b Phỏng đoán về khởi đầu của lịch sử nhân loại PH 1790c Về một phát hiện theo đó bất kỳ sự Phê phán mới mẻ nào về lý tính thuần túy đều thừa thãi so với sự phê phán lần thứ nhất
PPLTTH 1788b Phê phán lý tính thực hành
PPLTTT 1781 1787
Phê phán lý tính thuần túy (Ấn bản A và B)
https://thuviensach.vn
PPNLPĐ 1790a Phê phán năng lực phán đoán
PPNLPĐ (DN I)
1790b Dẫn nhập lần I cho Phê phán năng lực phán đoán
SHHĐL 1797a Siêu hình học về Đức lý
SHHTN 1786a Các cơ sở Siêu hình học của Khoa học Tự nhiên SL 1783a Sơ luận về bất kỳ Siêu hình học nào trong tương lai muốn có thể xuất hiện như là khoa học
SN 1925- 34
Các suy niệm
TBSHH 1791b Siêu hình học đã có sự tiến bộ thực sự nào ở nước Đức từ thời Leibniz và Wolff?
TG 1793a Tôn giáo trong các ranh giới của lý tính đơn thuần
THTH 1817 Các bài giảng về Thần học Triết học
THTN 1764c “Luận văn dự giải thưởng”: Nghiên cứu về sự phân biệt giữa các Nguyên tắc của Thần học tự nhiên và luân lý
TT 1967 Thư Tín triết học
VĐĐY 1758 Một lý thuyết mới về Chuyển động và Đứng yên
XPK 1798a Sự xung đột giữa các phân khoa
( Chú thích : a, b, c, d... sau năm xuất bản là trình tự xuất bản các tác phẩm trong năm ấy. Xem thêm: “Danh mục chi tiết các tác phẩm đã xuất bản của I. Kant từ 1747 đến 1967” ở cuối sách). Bảng chỉ mục Việt - Đức - Anh; Đức - Anh - Việt và Anh - Đức - Việt ở cuối sách.
https://thuviensach.vn
A
A priori/a posteriori: → xem: Tiên nghiệm/ Hậu nghiệm
Ác (cái) [Hy Lạp: kakon; Latinh: malum; Đức: Böse, Übel; Anh: evil] Xem thêm: Tâm thế, Tự do, Thiện (sự)/ Tốt (cái), Châm ngôn, Ý chí
Bàn luận của Kant về cái ác thừa hưởng một truyền thống tôn giáo và triết học phức tạp và lâu dài; nếu không biết đến truyền thống ấy, ắt nhiều sự phân biệt và nhấn mạnh có phê phán của ông hầu như không thể hiểu được. Truyền thống này, - kết hợp những ý niệm triết học Do Thái giáo, Kitô giáo và Hy Lạp, liên quan trước hết đến a) vị trí và b) nguồn gốc hay nguyên nhân của cái ác. Về vị trí, cái ác được đặt cố định trong một sự đối lập nhị nguyên với cái thiện: cái thiện được quan niệm về mặt triết học như đức hạnh hay sự tuyệt hảo, hoặc về mặt tôn giáo như sự công chính hay sự kính sợ Thượng đế. Bản tính của cái thiện đến lượt nó lại được quan niệm đa dạng, dựa vào ý niệm về cái thiện như ý chí của Thượng đế, hay như cuộc sống tốt đẹp hay sung sướng. Định nghĩa về cái thiện đã góp phần định nghĩa về cái ác. Nếu cái thiện được xem là một ý niệm như nơi Platon, thì liệu có buộc phải xem cái ác cũng là một ý niệm, hay nó được đồng nhất với cái đối lập với ý niệm, tức là, với vật chất, hoặc nó là một nguyên lý (tồn tại) độc lập, xung đột với cái thiện? Platon lập luận trong nhiều chỗ khác nhau cho mỗi lập trường ấy, như thực tế Kant sau này đã làm. Tương tự, quan niệm về khởi nguồn thiêng liêng của cái thiện cũng nảy sinh những vấn đề về địa vị của cái ác; liệu nó, giống như cái thiện, cũng có nguồn gốc từ Thượng đế, hay từ một địch thủ của Thượng đế, hay nó chỉ là một ảo tượng được sinh ra bởi sự thiếu thức nhận của con người về những cách thức của Thượng đế? Các nghiên cứu về cái ác của Aristoteles và Epicur lảng tránh các câu hỏi ấy. Aristoteles xem cái ác như một sự đi lệch thái quá khỏi cái trung dung; còn Epicur xem nó như bất kỳ cái gì gây ra đau khổ, nhưng chính những lập trường ấy đã để lại nhiều vấn đề cho hậu thế.
https://thuviensach.vn
Định nghĩa về cái ác còn bị làm phức tạp hơn bởi những sự khác biệt về tiêu điểm riêng trong những sự bàn luận về cái ác. Liệu cái ác có nên được xem xét một cách siêu nhiên, quy chiếu đến thần học về cái ác, hoặc một cách tự nhiên quy chiếu đến những sự kiện ác trong thế giới, hoặc thậm chí một cách tâm lý học, quy chiếu đến những tâm thế và hành động ác của con người? Hầu hết các tác giả đều nối kết cả ba phương diện ấy, đáng chú ý nhất là Platon và phái Khắc kỷ trong triết học, tác giả của Sách của Job trong truyền thống Do Thái giáo, và những tác giả của kinh điển Kitô giáo. Những nhà Kitô giáo ngày càng nhấn mạnh kích thước tâm lý học của cái ác – một sự nhấn mạnh được rút ra từ học thuyết tự nhiên và thần học về tội tổ tông – và rồi lại nhấn mạnh đến vai trò của ý chí trên lý tính. Sự định hướng này đã đạt đến apogee [cực điểm] thần học của nó trong những trước tác của Augustinus vốn đóng vai trò trung tâm trong sự phản tư Kitô giáo về ý chí thiện và ác về sau (xem Augustinus, 1960, Quyển VII). Tư biện Kitô giáo trung đại về cái ác có thể được chia khái quát thành sự nhấn mạnh vào cái tự nhiên/siêu nhiên của Aquinas; và nặng hơn về hướng siêu nhiên/ ý chí luận theo phái Augustinus như Bonaventura, và rất lâu sau này là Luther.
Tiêu điểm bàn luận của Kant thay đổi vào nhiều giai đoạn khác nhau trong sự nghiệp của ông, mặc dù quan tâm của ông về mối quan hệ giữa cái ác với ý chí của con người vẫn giữ nguyên. Trong Mệnh đề IX cuốn NTĐT, chẳng hạn, ông đi từ một bàn luận thần học về sự cùng-tồn tại của cái thiện và cái ác trong sự sáng tạo hoàn hảo nhất của Thượng đế đến một nguyên nhân học (aetiology) về cái ác, một học thuyết tìm kiếm nguồn gốc của nó không ở Thượng đế mà trong “ một nguyên tắc bên trong ” của sự “ tự-quy định ” đặc thù của con người. Nguyên tắc này, sau này sẽ trở nên rõ ràng, không giống nguyên tắc mà nhà duy lý Wolff đã lập luận, tức nguyên tắc dựa trên tri thức có khiếm khuyết của ta về cái thiện, mà là một nguyên tắc về tính ác tận căn (radically evil principle), cố hữu trong ý chí con người. Dựa theo sự phân biệt trong NTĐT, cái ác của con người là một cái ác tiêu cực của khuyết tật ( malum defectus ) không phải của lý tính mà là của ý chí; nó không phải là một cái ác tích cực của sự thiếu vắng ( malum privationis ); cái trước là một sự phủ định cái thiện, trong khi cái sau đưa ra những căn cứ thực định để thủ tiêu cái thiện.
Vào thời điểm của các trước tác chín chắn của ông, Kant đã tập trung nghiên cứu về cái ác hầu như chuyên biệt vào vấn đề ý chí của con người. Trong khi ông
https://thuviensach.vn
tỏ ra quen thuộc với những lập luận ủng hộ và chống lại tính tương hợp giữa sự hiện hữu của Thượng đế với cái ác trong thế giới, ông phát biểu rõ trong BTL rằng câu hỏi về cái ác được đặt ra theo cách này thì sẽ không thể xử lý được bằng nhận thức. Tuy nhiên, điều mà nhận thức có thể xử lý là cái ác có thể biện biệt được trong ý chí con người, và Kant đã xem xét điều này trong PPLTTH và TG.
Trong bối cảnh bàn luận về những đối tượng của lý tính thực hành trong PPLTTH, Kant phát triển một sự phân biệt giữa hai hình thức của cái ác. Những đối tượng khả hữu duy nhất của lý tính thực hành là cái thiện và cái ác, tức những thuật ngữ mà Kant nói là đã được sử dụng để dịch hai chữ Latinh: bonum và malum. Rồi ông chỉ ra rằng “ tiếng Đức có may mắn là sở hữu các cách diễn đạt ” [PPLTTH, tr. 59 [A 104] cho phép đưa ra một sự phân biệt giữa hai hình thức của cái thiện và cái ác. Kant dịch bonum vừa như das Gute (cái thiện/the good) vừa như das Wohl (cái tốt/well-being); tương tự, ông dịch malum như das Böse (cái ác/evil) và das Übel (cái xấu/bad). Sự đối lập giữa cái tốt và cái xấu quy chiếu đến “cảm năng và đến tình cảm vui sướng hay không-vui sướng do nó tạo ra” . Vì thế, nó lặp lại sự xếp ngang hàng cái thiện và cái ác với sự vui sướng và đau khổ của Epicur, trong khi Kant phân biệt sự vui sướng và đau khổ với cái thiện và cái ác đích thực. Thiện và ác đích thực không quy chiếu đến “trạng thái cảm tính của con người”, trái lại, biểu thị “một mối quan hệ với ý chí”, do đó, “chỉ có phương thức hành động..., chỉ có châm ngôn của ý chí mới có thể được gọi là thiện hay ác chứ thiện và ác không phải là một sự vật” (PPLTTH, tr. 60 [A 106]).
Việc định vị cái ác bên trong những châm ngôn của ý chí được tiếp tục khảo sát trong TG, nơi Kant phát triển luận điểm về cái ác tận căn (radical evil). Nguồn gốc của cái ác không nằm trong một đối tượng quy định ý chí, cũng không nằm trong một xu hướng hay xung lực tự nhiên, mà chỉ nằm trong “một quy tắc được ý chí tạo ra để sử dụng sự tự do của mình, tức là, trong một châm ngôn” (TG, tr. 21, tr. 17). Lý do cho việc lựa chọn giữa một châm ngôn thiện hoặc ác không thể được tìm thấy trong kinh nghiệm; nó là một hành vi tự do không đặt cơ sở trên những xu hướng cảm tính lẫn trên một châm ngôn nào khác của ý chí. Con người lựa chọn những châm ngôn quy định ý chí dựa theo những động cơ của quy luật luân lý hoặc của những bản tính cảm tính của họ. Sự phân biệt giữa một ý chí thiện và một ý chí ác phụ thuộc vào việc “cái nào trong hai
https://thuviensach.vn
động cơ [được lấy làm] điều kiện cho cái kia” (TG, tr. 36, tr. 31). Kant tiếp tục nói rằng tình trạng lựa chọn gay go này là không thể tránh được bởi đặc tính căn nguyên của cái ác, vốn được mô tả như một “thiên hướng tự nhiên, không thể nhổ tận gốc được của những năng lực của con người” (TG, tr. 37, tr. 32). Tuy nhiên, trong khi bản tính người thì yếu đuối, nó không độc ác – nó không biến bản thân cái ác thành một động cơ của ý chí; đúng hơn, bản tính con người thiếu sức mạnh để đi theo những nguyên tắc và sự biện biệt để phân biệt các động cơ. Tuy vậy, do bởi cùng sự tự do đã dẫn đến malum defectus [sự khuyết tật ác] của cái ác căn nguyên, thì cũng chính sự tự do ấy cho phép con người có thể vượt qua, - tuy không nhổ tận gốc -, thiên hướng ưa thích những động cơ của những bản tính cảm tính của họ hơn quy luật luân lý. Vì vậy, trong khi những thiên hướng đối với cái thiện và với cái ác đấu tranh với nhau để định hướng những châm ngôn của ý chí, thì “hạt mầm của sự thiện [bị ngăn cản để] không phát triển theo cách bình thường”, mặc dù điều này không ngăn cản ý chí được đào luyện và sở hữu một lịch sử. Điều này không đề nghị một cái trung dung tựa theo kiểu Aristoteles giữa cái thiện và cái ác – Kant công khai bác bỏ điều này trong một chú thích của quyển TG trang 39, 34 – trái lại, cho rằng cái thiện và cái ác liên tục đấu tranh với nhau để giành ưu thế (TG, tr. 82, tr. 77).
Khái niệm về cái ác tận căn của Kant là một ví dụ về một malum defectus , chứ không phải về một malum privationis : nó phủ nhận cái thiện hay quy luật luân lý làm động cơ cho các châm ngôn của ý chí, nhưng nó không thay thế cái thiện bằng một động cơ thiên về châm ngôn ác. Khái niệm này về cái ác đã cho phép Kant khẳng định khả thể của một lịch sử tiến bộ của con người, trong đó cái thiện được thành tựu thông qua việc đào luyện ý chí. Những sự tinh tế của lập trường này đã bị nhiều nhà phê bình ông không nhận ra; họ xem học thuyết của ông về cái ác tận căn là để bào chữa cho sự tự do con người và vì thế, nói theo từ ngữ của Goethe, “đã bôi bẩn bộ áo triết học của ông”. Tuy nhiên, phiên bản của Kant về mối quan hệ giữa tự do và cái ác đã truyền cảm hứng cho nhiều trầm tư triết học lớn của thế kỷ XIX về cái ác, nổi bật là Triết học Pháp quyền của Hegel (1821, §§139 – 140), Về Tự do con người của Schelling (1809), Khái niệm về Âu lo của Kierkegaard (1844), Phả hệ học của Đức lý của Nietzsche (1887). Dưới ánh sáng của những sự kiện chính trị thế kỷ XX, quan niệm của Kant về cái ác tận căn như một malum defectus đối với nhiều nhà phê bình là có vẻ không đủ. Cuộc tàn sát người Do thái trong Thế chiến II được nhiều tác giả xem như một
https://thuviensach.vn
malum privationis độc ác chứa đựng sự lựa chọn một nguyên tắc ác; những người khác, nổi bật là Hannah Arendt (1964), đã lên tiếng theo một hướng có nhiều tính chất Kant hơn về “tính tầm thường của cái ác” nảy sinh từ một ý chí được thấm nhuần không bởi những động cơ độc ác hay cảm tính, mà từ một sự phục tùng không phản tỉnh và có tính quan liêu đối với “nghĩa vụ” [trong chủ nghĩa quốc xã].
Hoàng Phú Phương dịch
Ấn tượng [Đức: Eindruck; Anh: impression]
Xem thêm: Tác động, Tâm thức (G emüt) , Thụ nhận (tính, sự), Phản tư, Cảm năng
Ấn tượng-cảm tính là nguồn suối chính yếu của kinh nghiệm và nhận thức đối với các triết gia hoài nghi và các triết gia duy cảm cổ điển chống Platon như Democritus, Lucretius và Pyrrho chẳng hạn. Diogenes Laertius tường thuật rằng các nhà khắc kỷ xem ấn tượng và tri giác cảm tính là cái có trước tư duy và là nguồn gốc của “một tiêu chuẩn quyết định chân lý của sự vật”. Họ cũng phân chia ấn tượng tùy theo chúng thuộc giác quan hoặc không thuộc giác quan, một sự phân biệt được những người kế tục ở thời hiện đại là Locke và Hume phát triển thành sự phân biệt giữa ấn tượng cảm tính và ấn tượng phản tư . Với Kant, khái niệm “ấn tượng” đã trở nên nổi trội trong quyển CSPĐ thời kỳ tiền-phê phán, ở bản văn này, điều Kant quan tâm nhất là bảo vệ những ranh giới thích đáng giữa kinh nghiệm “thực” và kinh nghiệm “tưởng tượng”. Tuy chưa được phát triển, nhưng “ấn tượng” vẫn hiện diện rõ rệt trong nghiên cứu của Kant về tính thụ nhận của cảm năng, ở đó nó có vai trò như cơ sở của tri giác, tức như là chất liệu của tri giác bằng giác quan. Trong quyển LA chẳng hạn, sự phát hiện rằng không gian và thời gian là những yếu tố mô thức của trực quan được xác định bằng cách cho rằng chúng - và những phương diện mô thức khác của nhận thức - không được rút ra từ những ấn tượng cảm giác như là “những ấn tượng được phản tư”, trái lại, chỉ được kích thích và khởi động bởi chúng; thông qua chúng, tâm thức “kết hợp những ấn tượng cảm giác lại với nhau do sự hiện diện của một đối tượng gây ra, theo một phương cách cố định” (§15). Những ấn tượng vẫn có một địa vị tương tự trong quyển PPLTTT, tại đây tính thụ nhận của tâm thức (qua đó những đối tượng được mang lại cho ta) được xác định là “tính thụ
https://thuviensach.vn
nhận những ấn tượng” (A 50/B 74). Đối với “thuyết duy tâm phê phán” của Kant thì điều cần thiết là duy trì những ấn tượng trong hình thức nào đó để tránh gặp “vỏ dưa” của thuyết “duy tâm tuyệt đối”, nhưng chúng cũng phải được xem là thứ yếu thôi để tránh đụng “vỏ dừa” của thuyết duy nghiệm.
Mai Thị Thùy Chang dịch
Ảo tượng [Đức: Schein; Anh: illusion]
Xem thêm: Cảm năng học/Mỹ học, Hiện tượng, Đẹp (cái), Biện chứng pháp, Lẫn lộn (sự), Chân lý
Sự phân tích về bản tính của ảo tượng là một trong những chủ đề không thay đổi trong tác phẩm của Kant, và là động cơ chính thúc đẩy ông định nghĩa lại siêu hình học. Ngay từ GM (1766), Kant đã tuyên bố như là cương lĩnh rằng siêu hình học phải là “môn khoa học về những ranh giới của lý tính con người” , là môn khoa học “loại bỏ ảo tưởng và tri thức rỗng tuếch tâng bốc giác tính” (GM tr. 386, tr. 354). Ông lấy lập trường tương tự trong LA (1770), theo đó siêu hình học cần phải tự thanh lọc khỏi các tiên đề và các nguyên tắc ảo tưởng “đánh lừa giác tính và tràn ngập toàn bộ siêu hình học một cách thảm hại” (LA §24). Phù hợp với dự án này, PPLTTT được chia ra thành Phân tích pháp làm nhiệm vụ xác định những ranh giới của siêu hình học, và Biện chứng pháp hay “Lôgíc học về ảo tượng” , là môn cho thấy những ranh giới này bị lý tính vượt qua như thế nào khi tạo ra những ý niệm siêu việt và vì thế, là những ý niệm ảo tưởng.
Cách hiểu của Kant về bản tính của ảo tượng được phát triển đáng kể từ các tác phẩm thời tiền-phê phán đến PPLTTT. Trong GM, ông tập trung vào những ảo tượng của trí tưởng tượng được hiểu bằng cách loại suy với ảo tượng quang học. Ở đây, ông quan tâm đến phương cách mà “các nhà thấu thị” như Emanuel Swedenborg “chuyển dịch ảo tượng trong trí tưởng tượng của họ và đặt nó ở ngoài bản thân họ” (tr. 343, tr. 331). Một quan niệm tương tự xem ảo tượng là một dạng sai lầm của thị giác cũng chiếm ưu thế trong NH (§13). Bên cạnh quan điểm xem ảo tượng là ảo giác có thể tránh được trong GM, Kant cũng gợi ý một xu hướng cơ bản hơn và không thể tránh khỏi của con người hướng đến ảo tượng khi đưa ra ẩn dụ về sự thiên lệch của giác tính con người quá hướng về “hy vọng trong tương lai” (GM tr. 349, tr. 337).
https://thuviensach.vn
Trong LA, Kant đã cải tiến một cách đáng kể nghiên cứu của ông về ảo tượng, bằng cách tập trung vào “những ảo tượng của giác tính” hay “những tiên đề lẫn lộn” “đang cố bỏ qua những gì là cảm tính như thể điều này nhất thiết thuộc về một khái niệm của giác tính” (LA §24). Ông đề nghị phải nghiên cứu chúng sâu hơn để tìm ra “viên đá thử”, nhờ đó phân biệt phán đoán đúng với phán đoán sai. Nhằm mục đích này, ông trình bày ba loại tiên đề lẫn lộn hay “những ảo tượng của các nhận thức cảm tính”: một là, điều kiện khả thể cho việc trực quan một đối tượng bị nhầm tưởng là một điều kiện khả thể cho bản thân đối tượng; hai là, những điều kiện cảm tính được dùng để so sánh cái được mang lại để tạo ra một khái niệm lại bị nhầm tưởng là những điều kiện cho khả thể của đối tượng; ba là, những điều kiện cảm tính của việc thâu gồm một đối tượng vào dưới một khái niệm bị nhầm tưởng là những điều kiện cho khả thể của các đối tượng (LA §26- 9). Trong mỗi trường hợp, ảo tượng là sự sai lầm khi xem một hiện tượng là chân lý. Trong LA, Kant vẫn tán thành với những hoài nghi của Descartes về bản tính ảo tượng của bản thân (per se) hiện tượng, cho dù ông bắt đầu tiến hành khai triển sự phân biệt, rất hệ trọng đối với triết học phê phán, giữa hiện tượng và ảo tượng. Sự phân biệt này xuất hiện trong Về ảo tượng cảm giác và hư cấu thi ca (1777) (tr. 203) và tạo thành một trong những luận cứ trung tâm của PPLTTT.
Trong PPLTTT, Kant trình bày sự phân tích chín muồi của mình về ảo tượng. Ông phân biệt rạch ròi giữa hiện tượng (Erscheinung) với ảo tượng (Schein) căn cứ vào sự phán đoán: những hiện tượng được mang lại cho cảm năng không phải là những ảo tượng, mà là những hiện tượng tất yếu, trong khi “chân lý và sai lầm... và, do đó, cả ảo tượng như là sự dẫn dắt sai lạc đến chỗ sai lầm, chỉ được tìm thấy ở trong phán đoán, tức là chỉ trong mối quan hệ giữa đối tượng với giác tính của ta” (PPLTTT A 293/ B 350). Giác tính của ta có thể, chẳng hạn, suy luận một cách sai lầm rằng các sự vật của hiện tượng được trực quan qua các mô thức của trực quan (không gian và thời gian) không phải là những đối tượng của hiện tượng mà là những vật-tự thân. Trong trường hợp này, “sẽ là lỗi riêng của tôi nếu tôi làm cho những gì mà tôi xem là hiện tượng trở thành ảo tượng bề ngoài” (B 69). Sự khai triển này về các tiên đề lẫn lộn trong LA là hết sức quan trọng cho sự phân tích phê phán về những ranh giới của giác tính, nhưng nó không còn là tiêu điểm chính cho sự giải phẫu của Kant về ảo tượng trong PPLTTT nữa. Trong PPLTTT, nó nằm trong “ảo tượng siêu nghiệm” của lý tính con người, được khảo
https://thuviensach.vn
sát trong phần “Biện chứng pháp siêu nghiệm” và trong sự soi xét kỹ lưỡng của phần này về những suy luận sai lầm.
Kant bắt đầu phần Biện chứng pháp siêu nghiệm bằng một dẫn nhập có nhan đề: “Về ảo tượng siêu nghiệm” , trong đó ông phân biệt ảo tượng siêu nghiệm với các “ảo tượng lôgíc” ngẫu nhiên và có thể tránh được của các phán đoán sai lầm cũng như với các “ảo tượng thường nghiệm” có liên quan của sự lẫn lộn. Ảo tượng siêu nghiệm là “ tự nhiên và không thể tránh khỏi” (PPLTTT A 298/B 354) và cốt yếu là “sự mở rộng giả trá [các phạm trù] của giác tính thuần túy ” đến những điều kiện tuyệt đối của chúng, vượt khỏi những ranh giới của kinh nghiệm khả hữu. Biện chứng pháp siêu nghiệm hướng vào việc vạch trần sự mở rộng có tính siêu việt (transzendent) các khái niệm của kinh nghiệm, và phép biện chứng tất yếu mà nó gợi ra, tức phép biện chứng “không thể tránh khỏi của lý tính con người, dù đã bị vạch rõ sự lừa dối của nó, vẫn tiếp tục lừa phỉnh lý tính” (A 298/ B 355). Kant mô tả ba trường hợp của phép biện chứng tự nhiên về ảo tượng siêu nghiệm trên đó các “khoa học tự phong” được xác lập: tâm lý học, vũ trụ học và thần học. Trong mỗi trường hợp, các thuộc tính của “điều kiện chủ quan của tư duy” được mở rộng và được xem là sự “nhận thức về đối tượng” (A 397). Ở những trường hợp này, đó là nhận thức về các đối tượng như: linh hồn, thế giới như là toàn thể, và Thượng đế. Kant tiếp tục cho thấy làm thế nào, trong mỗi trường hợp, các khoa học về những đối tượng ảo tượng này không chống nổi một “phép biện chứng tự nhiên” và sau đó, đưa ra một nghiên cứu hay một môn lôgíc học về những ảo tượng của chúng.
Trong PPNLPĐ, Kant khai triển một nghiên cứu sâu hơn về ảo tượng, trong trường hợp này là ảo tượng nghệ thuật. Tác phẩm mỹ thuật không xuất hiện như là một sản phẩm, mà “phải có vẻ như là tự nhiên, cho dù ta ý thức rằng nó là nghệ thuật” (PPNLPĐ §45). Lập trường này chủ yếu là hệ quả của những điều kiện nghiêm ngặt đã được Kant xác lập cho một phán đoán thẩm mỹ đúng nghĩa trong phần “Phân tích pháp về cái Đẹp” , là phần đã tước bỏ bất cứ sự quy chiếu nào đến mối quan tâm ở những phán đoán như thế. Quan niệm rằng tác phẩm nghệ thuật trình bày một “tự nhiên thứ hai” có tính chất ảo tượng đã tỏ ra có ý nghĩa rất lớn đối với mỹ học lãng mạn, và vẫn còn tồn tại lâu dài sau khi đã nhìn nhận những giới hạn của sự mô tả của Kant về phán đoán thẩm mỹ về sở thích.
Thánh Pháp dịch
https://thuviensach.vn
Ảo tưởng siêu nghiệm [Đức: transzendentale Illusion; Anh: transcendental illusion] → Biện chứng pháp, Ảo tưởng
https://thuviensach.vn
B
Ban bố quy luật/ Lập pháp (sự) [Đức: Gesetzgebung; Anh: legislation] Xem thêm: Quy luật, Pháp quyền, Quy tắc, Nhà nước
Kant sử dụng mô hình ban bố quy luật trong triết học lý thuyết lẫn triết học thực hành của ông. Trong PPLTTT, giác tính được mô tả là “kẻ ban bố quy luật cho tự nhiên”, khi Kant yêu sách rằng tự nhiên chỉ có thể có được là do “sự thống nhất tổng hợp cái đa tạp của những hiện tượng theo những quy tắc” (A 127). Sau đó, ông đề cập đến “bậc Triết gia lý tưởng” như là “người ban bố luật lệ cho lý tính con người” (A 839/B 687), và, trong ngữ cảnh bàn luận về tác phẩm Cộng hòa (Politeia/Republic) của Platon, ông mô tả lý tưởng về nhà nước hoàn hảo như là sự hài hòa giữa lập pháp và hành pháp bên trong một hiến pháp, làm cho sự tự do của mỗi người phù hợp với sự tự do của mọi người. Những mô phỏng về nhà nước lý tưởng này được viết thành một trong những phát biểu về mệnh lệnh nhất quyết trong CSSĐ, qua đó, “tất cả các châm ngôn nào không phù hợp với sự ban bố quy luật phổ quát của chính ý chí tự do đều bị bác bỏ” (tr. 431, tr. 38). Một phát biểu như thế về mệnh lệnh nhất quyết phù hợp với các tiêu chuẩn của sự ban bố quy luật đạo đức được trình bày trong SHHĐL: có một quy luật phổ quát đi liền với một động cơ trong nghĩa vụ; ngược lại, sự ban bố quy luật bằng “một động cơ không phải là bản thân ý niệm về nghĩa vụ” thì chỉ có tính pháp lý (tr. 219, tr. 46).
Huỳnh Trọng Khánh dịch
Bản chất [Hy Lạp: ousia; Latinh: essentia; Đức: Wesen; Anh: essence]
Xem thêm: Tùy thể, Định nghĩa (sự), Hiện hữu (sự), Mô thức, Chất liệu, Tự nhiên, Bản thể, Tổng hợp (sự)
Theo nghĩa cổ điển, bản chất là cái cấu thành bản tính riêng của sự vật và là cái được mang lại trong định nghĩa về nó. Quan niệm về “bản chất” được Aristoteles phát triển trong Siêu hình học ( Metaphysics ) như là bộ phận của câu trả lời cho câu hỏi “một sự vật là cái gì?” Khi định nghĩa về một sự vật, bản chất được phân biệt với các tùy thể và bản thể: các tùy thể luôn luôn được đặt làm thuộc từ cho một chủ từ và chỉ đóng vai trò là xác định tính chất cho một bản chất
https://thuviensach.vn
(Aristoteles, 1941, 1007b, 1-15), trong khi bản thể lại biểu thị sự vật là cái đó chứ không biểu thị sự vật là gì . Do đó, bản chất xác định “giống của một loài” hay đặc tính riêng có của nó (1030a). Aquinas làm rõ những điểm này khi ông bàn về bản chất như là một chức năng của sự kết hợp giữa chất thể và mô thức. Định nghĩa về bản chất không phải là định nghĩa theo mô thức, không tách khỏi chất thể, cũng không phải là định nghĩa theo chất thể và không được rút ra từ “việc cá biệt hóa chất thể”. Khi lấy ví dụ về bản chất của “con người”, Aquinas nói rằng bản chất này không phải “mô thức” của con người, cũng không phải “thịt, xương và các tùy thể nói lên chất thể này” mà đúng hơn là “thành tố có tính mô thức trong quan hệ với chất thể được cá biệt hóa” (Aquinas, 1952, I, 3, 3, chữ in nghiêng là nhấn mạnh của soạn giả, không phải của Aquinas).
Một trong những tác động của định nghĩa của Aristoteles về bản chất là sự xuất hiện của một mối quan hệ nước đôi giữa bản chất và sự hiện hữu. Với tư cách là một chức năng của quan hệ giữa mô thức và chất thể, bản chất không hoàn toàn có tính hình thức, tách biệt với sự hiện hữu, cũng không thuần túy có tính chất thể, được đồng nhất với sự hiện hữu. Với Descartes, và theo sau ông là Spinoza, tính nước đôi này được biến thành một sự đối lập giữa cái có thể được quan niệm với cái đang hiện hữu. Vì thế, trong “Suy niệm thứ năm”, Descartes gán bản chất cho những đối tượng khả hữu, cho dù những đối tượng này có thể không hiện hữu, đây là một điểm mà ông đã nhấn mạnh trong Các đối thoại với Burman , trong đó ông tuyên bố rằng đối tượng của vật lý học là “cái gì đang thực sự hiện hữu về mặt vật lý”, trong khi đối tượng của toán học “xét đối tượng của nó chỉ đơn thuần là khả hữu” (Descartes, 1976, tr. 23). Việc biến bản chất thành khả thể đã được Wolff và trường phái của ông hệ thống hóa; đối với họ, bản chất được định nghĩa là khả thể đơn giản (chẳng hạn – “Bản chất của một sự vật là khả thể của nó”, Meissner, 1737, mục từ Wesen ). Chính từ truyền thống này, Kant đã xây dựng quan niệm của mình về bản chất.
Trong SHHT, Kant định nghĩa bản chất theo kiểu Wolff là “nguyên tắc bên trong và hàng đầu của tất cả những gì thuộc về khả thể của một sự vật”, và phân biệt nó với bản tính (nature) hay “nguyên tắc bên trong và hàng đầu của tất cả những gì thuộc về sự hiện hữu của một sự vật” (tr. 467, tr. 3). Sự phân biệt này được thấm nhuần bởi yêu sách của Kant trong cuốn L rằng ta không thể nào định nghĩa “bản chất thực tồn hay bản chất tự nhiên của các sự vật” (tr. 566-567) và
https://thuviensach.vn
rằng giác tính của ta bị hạn chế vào “bản chất lôgíc” mà thôi. Lập luận của ông được làm sáng tỏ trong lá thư đề ngày 12 tháng 5 năm 1789 gửi cho K. L. Reinhold, trong đó Kant phê phán Baumgarten và những người theo thuyết Wolff vì đã mang lại cái vị thế siêu hình học cho “sự bàn luận về bản chất, các thuộc tính , v.v...” (TT, tr. 139). Trái lại, Kant một mực cho rằng khả thể chỉ duy nhất có ý nghĩa lôgíc. Bản chất lôgíc hay “những thành tố” thứ nhất [primary constitutiva] của một khái niệm có thể được xác định bằng “sự phân tích các khái niệm của tôi thành tất cả những gì tôi nghĩ về chúng”, trong khi đó, “bản chất thực tồn (bản tính tự nhiên) của bất kỳ đối tượng nào, tức là cơ sở sơ đẳng bên trong của tất cả những gì vốn tất yếu thuộc về một sự vật được mang lại, thì con người không thể nào khám phá ra được” (TT, tr. 140). Khái niệm về chất thể sở hữu bản tính lôgíc là quảng tính và tính bất khả thâm nhập vốn “là tất cả những gì được hàm chứa một cách tất yếu và sơ khởi trong khái niệm của tôi và của mọi người về chất thể”, trong khi bản chất thực sự của chất thể, tức “cơ nền sơ đẳng, bên trong, [tự] đầy đủ của mọi vật và nhất thiết thuộc về chất thể, điều này vượt khỏi năng lực của các quan năng con người” (sđd). Lý do là vì có một “cơ sở cho sự tổng hợp” về bản chất “ít nhất cho con người chúng ta, đã mang chúng ta đến một chỗ để dừng lại”. Vì thế, đó chính thị là địa vị cổ điển của bản chất với tư cách là một chức năng của sự nối kết giữa mô thức và chất thể (theo cách nói của Kant là “sự tổng hợp”). Nó giới hạn nhận thức của ta về bản chất lôgíc vào sự cấu tạo có tính tổng hợp của các hiện tượng mà thôi và nói lên rằng ta không đủ sức để có bất kỳ nhận thức nào về bản chất thực sự, thực tồn.
Trần Kỳ Đồng dịch
Bản thể [Đức: Substanz; Anh: substance] → Tùy thể, Chủ thể Bản thể học/ Hữu thể học [Ðức: Ontologie; Anh: ontology]
Là một từ mới được tạo ra trong thế kỷ XVII, bản thể học nguyên được sử dụng để biểu thị “siêu hình học tổng quát” đi trước các “siêu hình học chuyên biệt” gồm vũ trụ học, tâm lý học và thần học. Theo cách nói của Wolff (1719), bản thể học liên quan đến “những Nguyên lý Đệ nhất của nhận thức và của các Sự vật Nói chung” và chuẩn bị nền tảng cho việc nhận thức về những sự vật đặc thù như thế giới, linh hồn và Thượng đế. Đối với Baumgarten, trong cuốn Metaphysica [Siêu hình học] chịu ảnh hưởng từ Wolff, bản thể học là “khoa học
https://thuviensach.vn
về các thuộc tính của sự vật nói chung” (§4). Trong suốt cuộc đời giảng dạy của mình, Kant đã giảng về Siêu hình học dựa theo các văn bản của Baumgarten, nhưng, vì các mục đích sư phạm, ông đã không đi theo thứ tự trình bày của Baumgarten bằng việc bắt đầu với môn bản thể học (hầu như chiếm phần lớn nhất trong siêu hình học của Baumgarten). Như ông giải thích trong “Thông báo về việc tổ chức các bài giảng” vào năm 1765-1766, các bài giảng của ông về Siêu hình học bắt đầu với tâm lý học thường nghiệm, tiếp theo là vũ trụ học, và chỉ sau đó mới đến bản thể học, tâm lý học thuần lý và thần học (tr. 309, tr. 295).
Sự quan tâm về bản thể học trong các bài giảng về Siêu hình học đảm bảo rằng chúng được xếp hạng cao trong nghị trình phê phán của Kant. Thực tế, kiến trúc của cuốn PPLTTT đã báo hiệu sự phê phán đối với kiến trúc siêu hình học của trường phái Wolff, với ba đề mục của siêu hình học chuyên biệt được xét trong “Biện chứng pháp siêu nghiệm”, còn bản thể học thì ở trong “Phân tích pháp siêu nghiệm”. Kant rõ ràng đã lấy “Phân tích pháp đơn thuần về giác tính” thay chỗ cho “môn học với tên gọi rất tự hào là môn bản thể học, tự cho là chuyên mang lại những nhận thức tổng hợp tiên nghiệm về những sự vật nói chung” (PPLTTT A 247/B 303). Qua điều này, ông muốn nói rằng các nguyên tắc của phân tích pháp siêu nghiệm “chỉ là những quy tắc cho sự trình bày về các hiện tượng”, không liên quan gì đến các sự vật nói chung, trái lại, chỉ liên quan đến các đối tượng của kinh nghiệm mà thôi. Trong các văn bản sau này, Kant đơn giản xem phân tích pháp siêu nghiệm là bản thể học; vì thế, trong TBSHH, bản thể học được mô tả như “khoa học cấu thành một hệ thống của mọi khái niệm và nguyên tắc của giác tính, nhưng chỉ trong chừng mực chúng trình bày các đối tượng được mang lại bằng các giác quan và vì thế có thể được biện minh bởi kinh nghiệm” (TBSHH, tr. 260, tr. 53) hay, chứa đựng “các yếu tố của nhận thức tiên nghiệm của con người, gồm các khái niệm lẫn các nguyên tắc nền tảng” (tr. 315, tr. 161).
Bối cảnh bản thể học cho “Phân tích pháp siêu nghiệm” của cuốn PPLTTT đã được các học giả Đức như Heimsoeth (1956) và Heidegger (1929) tái phát hiện trong thế kỷ XX. Tác phẩm của họ đã tái phát hiện những phương diện trong tư tưởng của Kant vốn đã bị lãng quên trước những sự lý giải mang nặng màu sắc nhận thức luận của những nhà Kant-mới cuối thế kỷ XIX. Một ví dụ là những phương cách đa dạng mà Kant đã dùng để nói về “sự vật” hay đối tượng. Những
https://thuviensach.vn
phân biệt của Kant giữa Ding [sự vật], Objekt [Đối tượng/Khách thể] và Gegenstand [Đối tượng của tư tưởng] đã bị đánh mất trong những cách đọc theo nhận thức luận của các nhà Kant-mới, và hầu như không thể nhận ra được nữa trong bản dịch [sang tiếng Anh] kiểu Kant-mới như của Kemp Smith, trong khi tầm quan trọng riêng của chúng hẳn đã có thể được nhận ra trong những cách đọc nhạy cảm với bối cảnh bản thể học của triết học phê phán. Những cách đọc Kant theo bản thể học đã thúc đẩy việc đánh giá cao vị trí của Kant trong lịch sử triết học, cũng như đã đào sâu sự hiểu biết của ta về mối quan hệ giữa những phần khác nhau trong triết học của ông.
Trần Kỳ Đồng dịch
Bảng các phán đoán/ Bảng các phạm trù [Đức: Urteils- und Kategorientafel; Anh: table of judgements/ categories]
Xem thêm: Phạm trù [các], Nối kết [sự], Phán đoán, Tổng hợp [sự], Thống nhất [tính, sự]
Trong PPLTTT , Kant mô tả “bảng các phán đoán” như là “manh mối nhằm phát hiện tất cả các khái niệm thuần túy của giác tính”. Với ý này, Kant muốn nói rằng 12 phạm trù hay 12 khái niệm thuần túy của giác tính có thể được rút ra từ 12 “chức năng của tư duy trong phán đoán ” ( PPLTTT A 70/B 95-BVNS, tr. 231). Khái niệm kết nối hai bảng nói trên là khái niệm về sự tổng hợp hay sự thống nhất cái đa tạp. Bằng một bước đi quan trọng trong lập luận của mình, Kant khẳng định rằng “cùng một chức năng đã mang lại sự thống nhất những biểu tượng khác nhau trong một phán đoán cũng mang tới sự thống nhất trong sự tổng hợp đơn thuần những biểu tượng khác nhau trong một trực quan ; và sự thống nhất này, nói một cách khái quát, chúng ta gọi là các khái niệm thuần túy của giác tính” ( PPLTTT A 79/B 104-BVNS, tr. 240). Do đó, một khái niệm thuần túy của giác tính tương ứng với mỗi phán đoán, vì vậy sự tương ứng có thể được nhận ra nếu ta so sánh hai bảng này – (Xem bảng 1 và bảng 2 trong mục từ CÁC PHẠM TRÙ.)
Kant khẳng định rằng các phạm trù đưa ra một “bảng danh mục trọn vẹn” toàn bộ năng lực của quan năng giác tính ( PPLTTT A 80/B 106-BVNS, tr. 241), một quan điểm được bàn thảo liên tục từ sau khi xuất bản PPLTTT. Các nhà phê phán từ Strawson (1966) tới Derrida (1978) đều đồng thanh chỉ trích cái cách mà
https://thuviensach.vn
bảng các phán đoán và các phạm trù không chỉ thống trị sự trình bày của Kant về các tư tưởng của mình trong PPLTTT , mà còn trong cuốn PPLTTH và PPNLPĐ . Quyển Phê phán thứ hai ( PPLTTH ) trình bày một “Bảng các phạm trù của tự do”, trong khi quyển Phê phán thứ ba trình bày phán đoán thẩm mỹ về sở thích dựa vào bốn đề mục phạm trù: lượng, chất, tương quan và tình thái. Các quan điểm vẫn còn chia rẽ xung quanh việc phải chăng bảng các phán đoán đơn thuần là hình thức trình bày mang tính lịch sử và không cần thiết, hay nó là bộ phận hợp thành của triết học Kant.
Nguyễn Văn Sướng dịch
Bất tử (sự, tính) [Đức: Unsterblichkeit; Anh: immortality]
Xem thêm: Cái Tôi, Hữu tận, Võng luận, Định đề, Tâm lý học, Linh hồn, Chủ thể
Trong PPLTTT, Kant tuyên bố đã phản bác các chứng minh tư biện về sự bất tử của linh hồn – như những chứng minh mà Moses Mendelssohn đã đưa ra trong Phädon (1767) – bằng cách vạch trần tính võng luận của chúng (xem PPLTTT B 413). Những sự chứng minh như thế phụ thuộc vào giả định rằng cái Tôi với tư cách là điều kiện hình thức hay chủ thể lôgíc của tư tưởng cũng đồng thời là một Tự ngã [hay cái Tôi] có tính cách bản thể, sở hữu phẩm tính là sự trường tồn. Tuy nhiên, khi hoàn toàn phá bỏ các cơ sở của những chứng minh tư biện ấy, Kant không buộc phải từ bỏ sự xác tín vào sự bất tử. Trong PPLTTH, sự bất tử tái xuất hiện cùng với sự tự do và Thượng đế như một “định đề của lý tính thuần túy thực hành”, tức “việc gán cho chủ thể sự kéo dài cần thiết” (tr. 133, tr. 138) vốn đã bị phủ nhận bằng những võng luận làm cho sự chứng minh tư biện ấy trở nên rối rắm. Kant nhận thấy rằng định đề về tính bất tử là “rút ra từ điều kiện tất yếu có tính thực hành của một sự kéo dài tương ứng với việc hoàn tất trọn vẹn quy luật luân lý” (tr. 132, tr. 137), một điều kiện được nâng đỡ bởi các định đề đi kèm với nó là sự tự do và Thượng đế. Các tác giả kế tục, như Heine (1965, tr. 295) và Nietzsche (1882), đã phản bác cả ba định đề ấy, xem chúng hoặc như các nỗ lực của Kant trong việc an ủi người giúp việc tên Lampe của ông hoặc như những sai sót trong việc phá hủy tận căn những chứng minh tư biện đã được hoàn tất trong phần Biện chứng pháp siêu nghiệm của cuốn PPLTTT. Cả hai lập trường này (của Heine và Nietzsche) dường như không công bằng, mặc dù đáng lưu ý rằng có rất
https://thuviensach.vn
ít sự biện hộ đương thời cho nghiên cứu của Kant về tự do và hành động luân lý lại viện đến hai định đề còn lại về Thượng đế và tính bất tử, vốn được cho là không thể tách rời với định đề về sự tự do.
Trần Kỳ Đồng dịch
Bên trong (cái)/ Bên ngoài (cái) [Đức: das Innere und Äussere; Anh: inner/ outer]
Xem thêm: Khái niệm của sự phản tư (các), Đồng nhất (sự), Ảo tượng, Đối lập (sự)
Sự đối lập này, cùng với những sự đối lập như: đồng nhất và dị biệt, nhất trí và đối lập, chất liệu và mô thức, tạo thành những khái niệm của sự phản tư được bàn trong PPLTTT. Đây là những khái niệm đã được năng lực phán đoán sử dụng trước khi có sự tổng hợp, và chúng được dùng để quy các biểu tượng vào cho trực quan hoặc cho giác tính.
Nếu những khái niệm này được ứng dụng trực tiếp cho kinh nghiệm, thì chúng sẽ làm xuất hiện những tính nước đôi (amphibolies) mà Kant đã nhận diện trong tác phẩm của Locke và Leibniz, đó là: Leibniz “ đã trí tuệ hóa những hiện tượng”, còn Locke thì “cảm tính hóa tất cả các khái niệm của giác tính” (PPLTTT A 271/B 327). Trong trường hợp của cái bên trong và cái bên ngoài, tính nước đôi xuất hiện cốt yếu ở việc những khái niệm tương quan dùng để định hướng khái niệm và trực quan đã bị coi như là những phẩm tính khách quan. Thay vì để đánh dấu mối tương quan giữa đối tượng và phán đoán của chúng ta thì chúng lại được xem một cách không đúng đắn như những quan hệ khách quan giữa những sự vật. Những ảo tượng mà tình trạng nước đôi tạo ra là một loạt những ảo tượng của giác tính được bàn luận trước tiên trong AM [Các ảo mộng của Thầy Bùa. Lý giải bằng các ảo mộng của Siêu hình học] về sự lẫn lộn về cái bên trong và cái bên ngoài.
Trần Kỳ Đồng dịch
Biện chứng pháp [Đức: Dialektik; Anh: dialectic]
Xem thêm: Tuyệt đối, Phân tích pháp, Nghịch lý, Vũ trụ học, Thượng đế, Ý niệm, Ảo tượng, Võng luận, Tâm lý học, Chủ thể, Thần học, Siêu việt, Nhất thể, Thế giới
https://thuviensach.vn
Nội dung của môn Lôgíc học siêu nghiệm trong PPLTTT được chia thành hai đề mục: “Phân tích pháp” và “Biện chứng pháp”. Phân tích pháp tháo rời những công việc có tính hình thức của giác tính và lý tính thành những yếu tố, và giữ vai trò như một bộ chuẩn tắc (canon), hay “hòn đá thử tiêu cực về chân lý”, trong khi biện chứng pháp là việc sử dụng những yếu tố này “như thể [chúng] là một bộ công cụ (organon) nhằm thực sự tạo ra – hay ít nhất cũng có vẻ tạo ra – các khẳng định khách quan” (PPLTTT A 61/B 85). Biện chứng pháp siêu nghiệm là một “ môn Lôgíc học về ảo tượng ”, được đối lại bằng một “sự phê phán ảo tượng biện chứng ” (PPLTTT A 62/B 86) trong triết học phê phán. Biện chứng pháp với tư cách là sự phê phán ảo tượng biện chứng, do đó, đi sau phân tích pháp trong cả ba quyển phê phán.
Kant biện minh việc ông sử dụng biện chứng pháp bằng cách quy chiếu đến “những ý nghĩa khác nhau” “mà người xưa đã sử dụng từ “biện chứng pháp” để đặt tên cho một môn khoa học hay nghệ thuật” (PPLTTT A 61/B 86), nhưng định nghĩa riêng của ông dứt khoát theo lối Aristoteles. Đây chỉ là một trong ba định nghĩa có ảnh hưởng về thuật ngữ được lưu truyền từ thời cổ đại. Thứ nhất là định nghĩa nâng biện chứng pháp lên “trên hết thảy những nghiên cứu khác để làm viên đá gờ tường, có thể nói như vậy, – và không một nghiên cứu nào khác có thể được đặt một cách chính đáng lên trên nó” (Platon, 1961, Cộng hòa , 534e). Nó không gì khác hơn là phương pháp của bản thân sự nghiên cứu khoa học, tức phương pháp tìm định nghĩa qua những công việc tập hợp và phân chia có tính cách biện chứng (Platon, 1961, Phaedon . 266b). Ngược lại, trong Topics , Aristoteles phân biệt rạch ròi lập luận chứng minh (khoa học) với lập luận biện chứng: cái trước suy ra từ những tiền đề “đúng và tiên khởi”, còn cái sau suy ra từ “những tư kiến được chấp nhận một cách phổ biến” (Aristoteles, 1941, 100a, 28-30). Trong Phân tích pháp II (Aristoteles) , biện chứng pháp “về nguyên tắc” được ví như môn tu từ học, vì nó sử dụng lập luận tam đoạn theo cách quy nạp từ những tiền đề được một người nghe nào đó chấp nhận để thuyết phục và tạo niềm tin. Với Aristoteles, biện chứng pháp, nói như Kant, thực ra là một môn Lôgíc học về ảo tượng. Cicero phát triển xa hơn tiềm năng tu từ học của biện chứng pháp khi ông cố đặt tu từ học lên trên triết học. Ông chia tu từ học hay khoa học về lập luận thành hai phần: phần thứ nhất liên quan đến sự tổ chức các chất liệu của một lập luận mà ông gọi là Topica; phần thứ hai liên quan đến phương pháp
https://thuviensach.vn
đưa ra những phán đoán, và ông gọi là “Biện chứng pháp” (Long và Sedley, 1987, tr. 185).
Qua Boethius, truyền thống ngự trị của biện chứng pháp được truyền lại cho triết học Tây Âu là truyền thống của Cicero, với toàn bộ khoa học về lập luận giờ đây được gọi là “Biện chứng pháp”. Theo tên gọi này, truyền thống biện chứng pháp chuyển dịch giữa lập trường của Cicero và lập trường của Aristoteles, với nỗ lực chủ yếu cuối cùng nhằm hòa giải chúng là Những định chế biện chứng (1543) của Ramus. Công trình này chia biện chứng pháp – “năng lực diễn ngôn chính xác” – thành sự phát hiện và sự sắp đặt (phán đoán) (xem Ramus, 1549, tr. 12-14). Cách phân chia của Ramus được sao chép rộng rãi và trở thành tiêu chuẩn cho sự trình bày các văn bản lôgíc học: sự phân chia riêng của Kant về lôgíc học thành phân tích pháp (phát hiện) và biện chứng pháp (phán đoán) mang âm hưởng sự phân chia này, nhưng ông cũng dứt khoát phá vỡ nó. Biện chứng pháp của ông không hề đưa ra các quy tắc để thực hiện các phán đoán có sức thuyết phục, mà lại dạy cho ta biết làm thế nào để phát hiện và vạch trần những phán đoán có vẻ như là chân lý, nhưng thực ra chỉ là ảo tưởng. Nó là một “sự phê phán về ảo tưởng biện chứng” và không phải như trước đây là “một nghệ thuật kích hoạt ảo tưởng biện chứng một cách giáo điều (một nghệ thuật tiếc thay rất phổ biến trong đủ loại ngụy biện siêu hình học” (PPLTTT A 63/B 88).
Những ảo tượng mà Kant sẽ phê phán không chỉ đơn thuần là những ngụy luận nảy sinh từ ham muốn thuyết phục, mà còn suy ra từ “ảo tưởng tự nhiên, không thể tránh khỏi” của lý tính con người. Những ảo tượng siêu nghiệm như thế nảy sinh từ “những nguyên tắc nền tảng và những châm ngôn sử dụng hoàn toàn có quyền uy của những nguyên tắc khách quan” (PPLTTT A 297/B 353). Nguồn suối cơ bản của ảo tượng là việc lý tính con người theo đuổi sự hoàn chỉnh và sự thống nhất để “không ngừng đi lên tới các điều kiện cao hơn để ngày càng tiếp nhận sự hoàn chỉnh của chuỗi các điều kiện và qua đó đưa sự thống nhất tối cao có thể có của lý tính vào trong nhận thức của ta” (PPLTTT A 309/B 365). Lý tính đi tìm cái toàn thể tuyệt đối của những điều kiện cho một sự vật có điều kiện nào đó, nhưng thay vì coi sự tìm kiếm này là theo đuổi một nguyên tắc tiệm cận có tính cách điều hành (regulativ), thì lý tính, qua các lối suy luận siêu việt và biện chứng, cố định hóa mục tiêu của sự hoàn chỉnh thành “ những khái
https://thuviensach.vn
niệm siêu việt của lý tính thuần túy” (PPLTTT A 309/B 366). Đấy là đối tượng của sự phê phán trong cả hai quyển về “Biện chứng pháp”.
“Biện chứng pháp” trong PPLTTT gồm hai ‘quyển’: quyển thứ nhất phê phán các khái niệm siêu việt là Thượng đế, thế giới và chủ thể (linh hồn); còn quyển thứ hai phê phán những lối suy luận của các khoa học có tham vọng muốn nhận thức các đối tượng này. Khoa học về Thượng đế, tức thần học, được cho thấy là phải dùng đến những ý thể khi lập luận, còn khoa học về thế giới, tức vũ trụ học, lại rơi vào những nghịch lý; trong khi đó, khoa học về linh hồn, tức tâm lý học, lại mang tính võng luận. Trong từng môn này, nỗ lực tạo ra sự hoàn chỉnh và sự thống nhất về Thượng đế, thế giới và linh hồn được trình bày như là biện chứng và dựa trên những tiền đề ảo tưởng và những lối suy luận không thể biện minh được.
Kant cũng tổ chức những nội dung trong các phê phán thứ hai và thứ ba (PPLTTH và PPNLPĐ) thành phân tích pháp và biện chứng pháp. Biện chứng pháp của lý tính thực hành nảy sinh từ việc cố gắng định nghĩa “sự Thiện tối cao”, là cái đưa đến “nghịch lý của lý tính thuần túy” (PPLTTH tr. 108, tr. 112). Rồi Kant đưa ra một “giải pháp phê phán” về nghịch lý này dựa trên những kết quả của sự phân tích về lý tính thuần túy thực hành. Tương tự vậy trong PPNLPĐ, biện chứng pháp của năng lực phán đoán thẩm mỹ và mục đích luận nảy sinh từ việc tìm kiếm những nguyên tắc nền tảng của phán đoán. “Nghịch lý của sở thích” gồm chính đề và phản đề rằng phán đoán về sở thích được, và không được, dựa trên những khái niệm. Thêm nữa, điều này đã mang lại một giải pháp phê phán vốn là giải pháp cứu vãn sự đối lập bằng cách định nghĩa khái niệm được bao hàm là “không xác định”. Biện chứng pháp của năng lực phán đoán mục đích luận trình bày một sự nghịch lý giữa các châm ngôn của sự giải thích vật lý/ cơ học và sự giải thích mục đích luận mà Kant giải quyết một cách có phê phán bằng cách vạch ra một sự lẫn lộn giữa nguyên tắc của phán đoán phản tư và nguyên tắc của phán đoán xác định.
Trong cả hai quyển phê phán sau, biện chứng pháp không còn được chú trọng nhiều như trong PPLTTT. Trong phần biện chứng pháp của năng lực phán đoán thẩm mỹ, nó chẳng còn gì hơn là một tập hợp linh tinh các suy tưởng và quan sát. Đặc trưng phân biệt chính của nó không còn là lôgíc học về ảo tượng mà là nghịch lý của chính đề và phản đề được kết thúc bằng một hợp đề có tính
https://thuviensach.vn
phê phán. Cái trước đây chỉ đơn thuần là một hình thức suy luận biện chứng (nghịch lý/ antinomy) thì giờ đây, trong hai quyển phê phán sau, lại làm đặc trưng cho toàn bộ biện chứng pháp. Theo sau Kant, chỉ có Hegel trong Khoa học lôgíc (1812) theo đuổi biện chứng pháp như là môn Lôgíc học về ảo tượng với sự nghiêm ngặt có thể sánh với biện chứng pháp được hoàn tất trong PPLTTT. Sau Hegel, biện chứng pháp lại hầu như được đồng nhất hoàn toàn với sơ đồ nghịch lý (antinomic shema) hẹp hòi. Trong truyền thống mác xít, quan niệm này về biện chứng pháp đạt đến đỉnh điểm trong “chủ nghĩa duy vật biện chứng”, nhân danh phép biện chứng, đã mở rộng sơ đồ nghịch lý chính đề-phản đề-hợp đề vào cho lịch sử của thế giới, giới tự nhiên và mọi sự vật. Bất chấp những nỗ lực của Kant trong PPLTTT, biện chứng pháp, lại một lần nữa, rơi vào tay “các nhà ngụy biện siêu hình học”.
Đinh Hồng Phúc dịch
Biện chứng pháp siêu nghiệm [Đức: transzendentale Dialektik; transcendental dialectic] → Nghịch lý, Biện chứng pháp, Ý thể, Ảo tưởng, Suy luận, Võng luận
Biện thần luận [Đức: Theodizee; Anh: theodicy]
Xem thêm: Đức tin, Thượng đế, Lịch sử, Thiên hựu, Thần học
Trong BSL (1791), Kant quay trở lại vấn đề biện thần luận, là vấn đề làm ông bận tâm suốt từ giữa cho đến cuối những năm 1750. Trong giai đoạn sớm hơn, ông đã đề cập biện thần luận của Leibniz hay “sự bảo vệ cho sự nghiệp tốt lành của Thượng đế”, tóm lược trong mệnh đề rằng “thế giới này là tốt nhất trong tất cả những thế giới khả hữu”. Mặc dù trong Một nỗ lực phản tư về thuyết lạc quan (1759), về tổng thể, Kant bảo vệ sự nghiệp tốt lành của Thượng đế, nhưng ông có những hoài nghi trên bình diện phương pháp luận về năng lực của con người trong việc nhận ra những con đường của Đấng Toàn năng ( sđd ., tr. 35, tr. 76). Những hoài nghi này được phát biểu lại trong BSL trên cơ sở của triết học phê phán giới hạn sự nhận thức trong những ranh giới của kinh nghiệm khả hữu.
Khi định nghĩa biện thần luận như là “những sự bảo vệ cho sự hiền minh tối cao của Đấng Sáng tạo chống lại những than phiền của lý tính khi chỉ ra sự hiện hữu của những sự vật trong thế giới mâu thuẫn lại với cứu cánh hiền minh ấy” (BSL tr. 283), Kant đưa ra ba lĩnh vực than phiền: (a) sự thiêng liêng của Đấng
https://thuviensach.vn
Sáng tạo mâu thuẫn với cái ác luân lý trong thế giới, (b) lòng tốt của Đấng Sáng tạo mâu thuẫn với những bất hạnh và đau khổ, (c) công lý của Đấng Sáng tạo mâu thuẫn với sự miễn tội (BSL tr. 285). Ông cho rằng trong các trường hợp ấy, “lý tính đều hoàn toàn bất lực khi nó tiến hành xác định mối quan hệ giữa thế giới này như ta biết qua kinh nghiệm với sự hiền minh tối cao ” (BSL tr. 290). Hoàn toàn phù hợp với những kết quả của triết học phê phán, Kant mô tả việc thực hiện “những giới hạn cần thiết cho các phản tư của ta” như là một “sự khôn ngoan phủ định” bằng cách chỉ ra sự thất bại của một biện thần luận tư biện, phát quang con đường cho một biện thần luận thực hành. Qua lý giải về câu chuyện của Job [xem: Sách Gióp. Kinh thánh, Cựu ước: người thánh thiện tên là Job/Gióp bị Thượng đế đến thử thách nhưng vẫn giữ lòng tin vào Thượng đế], Kant đi đến kết luận rằng “biện thần luận không phải là một nhiệm vụ của khoa học mà là một vấn đề của đức tin” (BSL tr. 293).
Huỳnh Trọng Khánh dịch
Biểu trưng [Đức: Symbol; Anh: symbol] → Loại suy, Sơ đồ, Niệm thức
Biểu tượng, Hình dung thành biểu tượng (sự) [Latinh: repraesentatio; Đức: Vorstellung; Anh: representation]
Xem thêm: Phạm trù, Nhận thức (sự), Khái niệm, Trực quan; Ý niệm; Tri giác, Diễn tả (sự), Cảm giác
Trong PPLTTT, Kant định nghĩa biểu tượng là “những quy định bên trong của tâm thức ta trong mối quan hệ với thời gian lúc này hay lúc khác” (A 197/ B 242). Nhưng định nghĩa có vẻ ngắn gọn này dễ mang lại ấn tượng sai về tầm quan trọng trung tâm của khái niệm về biểu tượng trong triết học phê phán. Vì thế, để có một ý niệm rõ hơn về phạm vi của khái niệm này, ta có thể theo dõi sự phân loại các biểu tượng được giới thiệu sau đó cũng trong PPLTTT. Loại “ biểu tượng nói chung ” được chia thành những biểu tượng có hoặc không có ý thức. Mặc dù trong các trước tác tiền-phê phán chịu nhiều ảnh hưởng của trường phái Leibniz, Kant thường xuyên bàn về các biểu tượng không có ý thức (ĐLPĐ, tr. 191, 228 – 229), nhưng trong PPLTTT, Kant lại chỉ quan tâm đến các biểu tượng có ý thức, và đề xuất một sự phân chia các biểu tượng có ý thức bao gồm mọi yếu tố của nghiên cứu của ông về nhận thức và kinh nghiệm. Các biểu tượng có ý
https://thuviensach.vn
thức được gọi là các tri giác, các tri giác này lại được chia thành những cảm giác, hay những tri giác “chỉ quan hệ với chủ thể, diễn tả sự biến thái của trạng thái của chủ thể” và “những tri giác [có giá trị] khách quan” hay những nhận thức (PPLTTT A 320/B 376). Trước đây, Kant đã phê phán quan điểm của trường phái Leibniz, tức quan điểm cho rằng cảm năng là “ biểu tượng mù mờ về các sự vật ”; thay vào đó, Kant đã cho rằng cảm năng và các cảm giác của nó là “hiện tượng của cái gì đó, và là phương cách để ta được cái gì đó kích động” (A 44/B 51). Tri giác chủ quan này “về mọi mặt (toto coelo) đều khác” với tri giác khách quan.
Tri giác khách quan lại được chia thành trực quan và khái niệm; cái trước liên hệ “trực tiếp với đối tượng và có tính riêng lẻ, còn cái sau là gián tiếp, thông qua một đặc điểm có chung trong nhiều đối tượng” (PPLTTT A 320/B 377). Cả trực quan và khái niệm đều được sản sinh trong một “tác vụ của tính tự khởi ”, trong đó trực quan “được mang lại trước mọi tư duy” (B 132); nhưng, trong khi trực quan mang lại một diện trường để trong đó cái đa tạp của trực quan có thể xuất hiện như một biểu tượng, thì chính khái niệm mới là cái tổng hợp các biểu tượng này thành kinh nghiệm và nhận thức. Sự áp dụng một khái niệm vào một trực quan trong phán đoán không gì khác hơn là “ biểu tượng của một biểu tượng ” về một đối tượng (A 68/B 93). Quan trọng hơn, cái “ Tôi tư duy ”, cái cho phép tôi đưa ra phán đoán này, tự nó được mô tả như “một biểu tượng nhất thiết phải có thể đi kèm tất cả mọi biểu tượng khác [của tôi]” (B 132). Bản thân các khái niệm cũng được phân biệt dựa theo việc chúng là thường nghiệm hoặc thuần túy. Các khái niệm thuần túy hay “ các ý niệm ” như Kant gọi chúng ở đây, hoặc là các phạm trù như Kant gọi chúng ở chỗ khác, được mô tả là có “ nguồn gốc phát sinh ” của chúng “ chỉ từ trong giác tính ” (A 320/B 377). Thêm vào cho những biểu tượng đặc biệt này, còn có lớp các Ý niệm [siêu nghiệm] hay “ các khái niệm của lý tính ”, chúng là “ các Ý niệm ” vượt ra khỏi khả thể của kinh nghiệm.
Mặc dù biểu tượng có vai trò cốt yếu đối với nghiên cứu của Kant về nhận thức và kinh nghiệm, nhưng lại ít có sự bàn luận minh bạch về cái gì đang được hình dung, bởi ai (hay bởi cái gì), và [được hình dung] bằng cách nào. Trong PPLTTT, Kant dường như gợi ý rằng tâm thức (Gemüt) sở hữu một “ năng lực biểu tượng ” được sắp đặt một cách thụ động trong “ quan năng tiếp nhận những biểu tượng ” và một cách chủ động trong “tính tự khởi [trong sự sản sinh] của các khái niệm” (PPLTTT, A 50/B 74). Bản tính của năng lực biểu tượng này còn
https://thuviensach.vn
phức tạp hơn trong PPNLPĐ khi Kant phát biểu rằng “mọi biểu tượng bên trong chúng ta, bất kể chúng là đơn thuần cảm tính một cách khách quan hay hoàn toàn có tính trí tuệ, thì đều có thể được nối kết một cách chủ quan với sự thích khoái hay đau đớn, cho dù cả hai có thể không được ta nhận ra” (PPNLPĐ, § 29 [Phần 1, Chương 1, Quyển 2: “Phân tích pháp về cái cao cả” ] – BVNS, tr. 195). Chúng có hiệu quả này là nhờ chúng có “sự ảnh hưởng lên cảm giác về sự sống”và bởi việc chúng góp phần hoặc là “tạo thuận lợi hoặc là gây trở ngại cho các sức sống [Lebenskräfte]” (sđd). Với điều này, toàn bộ lý thuyết về biểu tượng được đề xuất trong PPLTTT đã được đặt vào bên trong nghiên cứu về sự vui sướng và về triết học của trường phái Epicur về sự sống được phát triển kín đáo trong cuốn PPNLPĐ. Sự nối kết giữa biểu tượng và khoái cảm cơ thể mà Kant đã ngầm nói đến trong PPNLPĐ có thể giúp giải thích tại sao bản tính của chính biểu tượng, chứ không chỉ bảng phân loại của nó, vẫn chưa được khảo sát một cách tương xứng trong PPLTTT.
Hoàng Phú Phương dịch
Bổn phận [Đức: Verbindlichkeit; Anh: obligation]
Xem thêm: Mệnh lệnh nhất quyết, Yêu cầu, Nghĩa vụ, Luật học, Quy luật, Phải là (cái)
Trong SHHĐL, Kant định nghĩa bổn phận là “sự phụ thuộc của một ý chí, vốn không phải là tuyệt đối tốt, vào nguyên tắc của sự tự trị” và chỉ rõ “tính tất yếu khách quan của một hành động từ bổn phận” là nghĩa vụ (Pflicht/ duty) (tr. 439, tr. 44). Ở đây bổn phận biểu thị tình trạng phụ thuộc của ý chí, trong khi nghĩa vụ quy chiếu đến tính tất yếu của việc làm theo bổn phận. Điều này được khẳng định ở quyển PPLTTH, trong đó bổn phận được định nghĩa là sự phụ thuộc phổ biến của ý chí con người vào quy luật luân lý, và nghĩa vụ được định nghĩa là “sự cưỡng chế một hành động” theo sau bổn phận ấy (tr. 32, tr. 32). Trong SHHĐL, Kant vẫn giữ quan niệm tổng quát này về bổn phận và nghĩa vụ bên cạnh một sự mở rộng khái niệm về bổn phận đế bao gồm cả [khái niệm] quyền hạn. Với định nghĩa rộng hơn, bổn phận có giá trị như là “tính tất yếu phổ biến của một hành động tự do dưới một mệnh lệnh nhất quyết” trong khi nghĩa vụ là “hành động mà ai đó phải làm”. Từ điều này, Kant kết luận rằng trong khi chỉ có một nghĩa vụ để thực hiện một hành động, thì lại nhiều hình thức khả hữu về bổn
https://thuviensach.vn
phận (SHHĐL tr. 222, tr. 49) nhưng nghĩa vụ và bổn phận ấy không thể xung đột, vì cả hai đều là tất yếu (tr. 224, tr. 50). Bổn phận không chỉ thấm nhuần nghĩa vụ mà còn cả quyền hạn, vì quyền hạn sẽ được Kant giải thích bằng “năng lực đặt những người khác vào dưới bổn phận” (tr. 239, tr. 64).
Sự thảo luận của Kant về mối quan hệ giữa bổn phận và quyền hạn thiên quá nhiều về tư pháp, hay những bổn phận của các cá nhân với nhau, và hiếm khi mở rộng đến bổn phận chính trị. Ông nói đến bổn phận chính trị trong quyển SHHĐL khi bàn về bổn phận của người đứng đầu nhà nước đối với pháp luật của cơ quan nắm chủ quyền tối cao [nhân dân], nhưng đấy chủ yếu là một nhận xét ngẫu nhiên (tr. 317, tr. 128). Lý do để Kant nhấn mạnh đến bổn phận riêng tư chứ không phải bổn phận chính trị có thể được suy ra từ bài điểm sách của ông đối với tác phẩm Grundsatz der Naturrechts ( Nguyên lý của pháp quyền tự nhiên , 1786) của triết gia theo trường phái Wolff là Hufeland. Kant phê phán Hufeland là đã ưa chuộng, theo kiểu Wolff, cái nguyên tắc về việc tạo ra con người hoàn hảo, mà để đạt đến được sẽ dùng đến vũ lực nếu cần, hơn nguyên tắc về lòng tôn kính các quyền và các bổn phận được rút ra từ hình thức của ý chí tự do. Sau đấy, Kant mong muốn lấy các quyền giữa các cá nhân với nhau, và nói rộng ra là quyền của các cá nhân đối với nhà nước, làm cơ sở cho bổn phận chính trị, và muốn rút những quyền này ra từ bổn phận cơ bản là tuân theo quy luật luân lý. Với luận cứ này, Kant đã phá vỡ lập trường của triết học Wolff muốn rút các quyền và các bổn phận cá nhân ra từ bổn phận cơ bản của nhà nước là thúc đẩy phúc lợi chung.
Thánh Pháp dịch
https://thuviensach.vn
C
“Các cơ sở siêu hình học của khoa học tự nhiên” [Đức: “Metaphysische Anfangsgründe der Naturwissenschaft”; Anh: “Metaphysical Foundations of Natural Science”]
Xuất bản năm 1786, công trình này được Kant mô tả như là một sự “áp dụng” “Siêu hình học về tự nhiên” mà ông dự định viết dựa trên những nguyên tắc phê phán vào giữa thập niên 1780. Nó là một nỗ lực cung cấp “những nền tảng siêu hình học của lý thuyết về vật thể” (TT tr. 119), một nỗ lực, như Lời tựa sách đã nói, trình bày những điều kiện làm cho việc “áp dụng toán học vào học thuyết về vật thể” có thể có được (SHHTN tr. 472). Nỗ lực này đòi hỏi một “sự phân tích đầy đủ về khái niệm vật chất nói chung”, được trình bày trong bốn chương tương ứng với bốn đề mục của bảng phạm trù. Trong các chương này, Kant truyền tải “khái niệm vật chất cho cả bốn chức năng của giác tính” (SHHTN tr. 476, tr. 13), xem xét nó dựa vào sự vận động, vì “mọi thuộc tính gắn liền với bản tính tự nhiên của vật chất” có thể truy nguyên đến “sự vận động” (tr. 477 tr. 14). Chương thứ nhất, về “Những cơ sở siêu hình học của vận động học”, xét những phương diện về lượng của vật chất, xem xét vật chất dựa theo đại lượng thuần túy của sự vận động. Chương thứ hai, về “Những cơ sở siêu hình học của động lực học”, xem xét những phương diện về chất của vật chất dựa theo sự biểu hiện của lực hút và đẩy. Chương thứ ba, về “Những cơ sở siêu hình học của cơ học”, xét những phương diện về tương quan của vật chất, cụ thể là mối tương quan của các bộ phận vật chất đang vận động với nhau. Chương thứ tư, cũng đồng thời là chương cuối cùng, về “Những cơ sở siêu hình học của hiện tượng học” tương ứng với nhóm tình thái của các phạm trù, và xem xét “sự vận động hay đứng yên của vật chất chỉ đơn thuần được xác định bằng cách quy chiếu đến phương cách biểu tượng, hay tình thái, tức là, như là một hiện tượng của những giác quan bên ngoài” (tr. 417, tr. 15).
Nguyễn Thị Thu Hà dịch
Cách mạng (cuộc) [Đức: Revolution; Anh: revolution]
Xem thêm: Hiến pháp, Khai minh, Bài viết chính trị (các), Nhà nước
https://thuviensach.vn
Mặc dù trong KMLG, Kant xem cách mạng như việc ngầm đặt “một sự cáo chung cho chế độ độc tài chuyên chế, tham lam hoặc cho sự đàn áp tìm kiếm quyền lực” (tr. 36, tr. 55), ông cũng xem nó như một tiềm lực cho những tiên kiến mới, những tiên kiến sẽ được dùng như là một cái ách kiểm soát khối đông quần chúng thiếu tư duy, “không khác gì với những tiên kiến mà chúng thay thế”. Ông không đặt niềm tin của mình đối với sự biến đổi xã hội và sự mở rộng của tư tưởng khai minh vào việc thay đổi định chế, mà vào sự phát triển của một công chúng được khai minh và một “sự cải cách thực sự trong tư duy”. Lập trường cải cách này được thôi thúc còn mạnh mẽ hơn nữa trong SHHĐL, trong đó Kant không tán thành một “quyền chống đối” (tr. 320, tr. 131). Nếu sự thay đổi định chế là cần thiết, thì nó phải được thực hiện “chỉ thông qua cải cách bởi chính người cầm quyền, chứ không do nhân dân, và do đó không phải bởi cuộc cách mạng ” (tr. 322, tr. 133).
Thế nhưng, phản ứng của Kant trước những cuộc cách mạng trong thời đại ông lại mang tính nước đôi hơn là những bình giải lý thuyết của ông. Ông là một người ủng hộ nhiệt tình cho cuộc Cách mạng Mỹ, và phản ứng của ông về Cách mạng Pháp thì hết sức phức tạp. Trong PPNLPĐ § 65, các nhận xét của ông về “cuộc chuyển đổi toàn diện, mới được đảm nhận gần đây, của một dân tộc vĩ đại thành một nhà nước” là hoàn toàn có tính chất ủng hộ cho cuộc Cách mạng Mỹ: trong XPK ông nói về một “sự đồng cảm gần với lòng nhiệt tình” đang chiếm lấy những người chứng kiến cuộc cách mạng Pháp, là cuộc Cách mạng chứa đựng trong nó “tâm thế luân lý trong chủng loài người” (tr. 85, tr. 182). “Chủ đề luân lý” bàn đến ở đây có hai khía cạnh: thứ nhất đó là “quyền của mọi người đem lại cho mình một hiến pháp dân sự”, và thứ hai là sự đóng góp của một hiến pháp cộng hòa cho hòa bình. Thế nhưng trong một cước chú, Kant một mực cho rằng những nhận xét này không có nghĩa cho phép những ai sống dưới những chế độ quân chủ có quyền thay đổi chúng. Trong SHHĐL, lập trường của Kant thậm chí được phát biểu một cách mạnh mẽ hơn, với “xúc cảm luân lý” của những khán giả của cuộc cách mạng chuyển thành sự khiếp sợ trước cảnh tượng hành hình nhà vua mà ở đó - ông nói - “như thể nhà nước phạm tội tự sát” (SHHĐL, tr. 321, tr. 132). Ta có thể đọc thấy được sự nhất quán trong hai nhận xét này bằng cách xem những sự dị biệt trong các phản ứng của Kant là do những thời kỳ cách mạng khác nhau, hay thậm chí có thể xem ông như một người theo phái Jacobin đang lo che đậy những dấu vết của mình. Tuy nhiên, điều có vẻ đúng sự thật hơn
https://thuviensach.vn
cả đó là ông cho phép lập trường của mình được kiểm nghiệm và thay đổi trước những biến cố lịch sử.
Hoàng Phong Tuấn dịch
Cái Tôi [Đức: Ich; Anh: I]
Xem thêm: Trừu tượng, Thông giác, Ý thức, “Tôi tư duy”, Đồng nhất, Võng luận, Tâm lý học, Tự-Ý thức, Chủ thể
Kant phân biệt hai nghĩa của “ cái Tôi ”, cho dù ông đã biến đổi các thuật ngữ trong đó ông tạo ra sự phân biệt, tùy lúc quy chiếu đến cái Tôi “thường nghiệm” và cái Tôi “ siêu nghiệm ”, cái Tôi “ tâm lý học ” và cái Tôi “ lôgíc học ”, và sau cùng, “ cái Tôi như đối tượng ” và “ cái Tôi như chủ thể ”. Sự phân nhánh cái Tôi nảy sinh từ bản tính của Tôi - Ý thức: “việc cái Tôi ý thức về chính mình là một tư tưởng đã bao hàm một cái Tôi hai lớp” (TBSHH, tr. 270, tr. 73) – nó đòi hỏi rằng cái Tôi được suy tưởng vừa như một đối tượng của trực quan vừa như cái suy tưởng (xem thêm PPLTTT B 155). Cái Tôi thứ nhất là “cái Tôi tâm lý học” làm cơ sở cho “mọi tri giác và mối quan hệ của chúng, mà sự lĩnh hội (apprehensio) chúng là cách thức chủ thể bị kích động” (TBSHH, tr. 270, tr. 73). Cái Tôi này có thể được xem xét như một đối tượng của trực quan, và các công việc của nó được mô tả bằng những quan sát tâm lý học hoặc nhân học (xem NH §1).
Cái Tôi thứ hai thì khó mô tả hơn vì nó không phải là một đối tượng của trực quan. Kant lặp đi lặp lại lời cảnh báo chống lại việc biến cái Tôi siêu nghiệm với tư cách là một chủ thể lôgíc của nhận thức, tức cái Tôi của [biểu tượng] “ Tôi tư duy ” hay “cái còn lại sau khi mọi tùy thể (tức các thuộc tính) bị lược bỏ” (SL §46), thành một bản thể. Cái Tôi này không thể là một “ chủ thể tuyệt đối ” hay thậm chí cũng không thể là một khái niệm mà “chỉ là sự quy chiếu các hiện tượng bên trong đến chủ thể vô danh của chúng” (SL §46). Việc biến cái Tôi này thành một bản thể có năng lực hành động như một “ nền tảng của tư tưởng ” là rơi vào một võng luận (paralogism) và là việc áp dụng các phạm trù bản thể và nguyên nhân chỉ có thể áp dụng thích hợp vào các hiện tượng cho một cái gì đó vốn không phải là một hiện tượng. Tuy nhiên, dù chỉ có thể nói rất ít về cái Tôi siêu nghiệm của “ cái Tôi tư duy ”, nhưng nó vẫn là tâm điểm trong nghiên cứu của Kant về kinh nghiệm. Nó đóng vai trò như “ một điều kiện luôn đi kèm theo toàn
https://thuviensach.vn
bộ tư tưởng ”, chứ không như một đối tượng của một kinh nghiệm khả hữu, mà chỉ như “điều kiện hình thức, tức là sự thống nhất lôgíc của bất kỳ ý tưởng nào khi cái Tôi trừu tượng hóa khỏi mọi đối tượng” (PPLTTT, A 398).
Kant mô tả cái Tôi siêu nghiệm như một “tiền tố đơn thuần để chỉ một vật có ý nghĩa bất định” (SHHT, tr. 543, 103) và như một “biểu tượng “ cái Tôi ” đơn thuần và tự nó hoàn toàn trống rỗng, không có nội dung nào, do đó cũng không thể gọi biểu tượng ấy là một khái niệm mà chỉ là một ý thức đơn thuần đi kèm theo mọi khái niệm” (PPLTTT A 436/B 404). Nó không gì khác hơn là điểm cuối cùng có tính lôgíc của một tiến trình trừu tượng hóa khỏi các vị từ của nhận thức để đạt đến một chủ thể tối hậu được định đề hóa làm cơ sở cho chúng và không thể chi tiết hóa được nữa. Kant sẵn sàng đặc trưng nó bằng sự loại suy: trong một trường hợp, ông khẳng định điều đó rằng “qua cái Tôi, hay Anh/ Chị ta hay Nó (sự vật) đang tư duy thì đều không có gì được hình dung ngoài một chủ thể siêu nghiệm của những tư tưởng = X” (PPLTTT A 346/ B 404), nhưng trong trường hợp khác, ông mô tả nó như “cái đối ứng phổ quát của thông giác, và bản thân chỉ là một tư tưởng đơn thuần” (SHHT, tr. 542, 103). Ông nhấn mạnh rằng cái Tôi là một “biểu đạt hoàn toàn trống rỗng” không biểu thị cái gì khác hơn “tư tưởng về một sự thống nhất tuyệt đối nhưng chỉ là sự thống nhất lôgíc của chủ thể mà thôi” (PPLTTT A 356); bản thân nó không tồn tại như một bản thể hay nền tảng tối hậu làm cơ sở cho nhận thức và kinh nghiệm, mà chỉ đơn thuần là một chức năng lôgíc tất yếu đi kèm theo nó.
Thay vì biến cái Tôi thành chủ thể chân chính của tư tưởng và hành động, Kant còn cho rằng ta có thể sẽ không bao giờ biết được đặc tính của nó ngoại trừ bằng sự loại suy. Ông mô tả mối quan hệ giữa cái Tôi thường nghiệm của con người cá nhân và cái Tôi siêu nghiệm vừa như chủ thể của nhận thức vừa như cái gì đó cực kỳ khó chỉ ra, nếu không nói là không thể nào chỉ ra được. Những nhà kế tục trực tiếp Kant thì lại ít ngại ngần hơn khi biến cái Tôi thành chủ thể siêu nghiệm mà về nguyên tắc ta có thể biết được đặc tính và những hoạt động của nó . Những nhà duy tâm siêu nghiệm, trên hết là Fichte (1794) và Schelling (1800), đã biến cái Tôi siêu nghiệm thành một nền tảng mang tính bản thể cho mọi nhận thức và hành động. Hegel (1807) đã phê phán Kant vì đã đặt ra một sự phân biệt hình thức giữa cái Tôi và Tự-Ý thức, phê phán Fichte và Schelling vì đã hòa tan mọi sự phân biệt trong cái Tôi siêu nghiệm. Thay vào đó, bằng một hiện tượng
https://thuviensach.vn
học, Hegel đã lần theo những hình thái cụ thể có tính lịch sử được giả định bởi những sự phân mảnh của cái Tôi, được suy tưởng vừa như chủ thể vừa như bản thể. Sau đó, “ các nhà Hegel trẻ ” như Feuerbach (1830) và Marx (1843) đã tìm cách hợp nhất cái Tôi siêu nghiệm và cái Tôi thường nghiệm vào trong một chủ thể người, một sự phát triển vẫn còn ảnh hưởng và sức thuyết phục to lớn cho đến tận những nhà hiện sinh chủ nghĩa sau Thế chiến II như Sartre (1960). Tuy nhiên, gần đây, sự đồng nhất hóa chủ thể thường nghiệm và chủ thể siêu nghiệm trong chủ thể người đã bị nhiều nghiên cứu đặt thành vấn đề, trên hết là Nietzsche (1886) và Freud (1915). Những nghiên cứu này đã, một lần nữa, tách cái Tôi siêu nghiệm (hay “ cái Vô thức ”) khỏi cái Tôi thường nghiệm, và kháng cự lại sự cám dỗ muốn quy một chủ thể tối hậu – chủ thể người hoặc chủ thể gì khác – cho tư tưởng và hành động.
Hoàng Phú Phương dịch
Cảm giác [Đức: Empfindung; Anh: sensation]
Xem thêm: Kích động, Tâm thức, Tri giác, Biểu tượng
Một cảm giác nảy sinh khi năng lực biểu tượng bị kích động bởi sự hiện diện của một đối tượng (PPLTTT A 19/B 34). Nó được gọi là “chất liệu” của hiện tượng và được phân biệt với tri giác (Wahrnehmung/perception) vốn là cảm giác có ý thức đi kèm, mặc dù đôi khi nó cũng được coi là “chất liệu” của tri giác. Nó còn được (trong LA §15) coi là chất liệu của cảm năng, được bổ sung bởi mô thức hay “sự phối kết” của nó.
Mai Sơn dịch
Cảm năng [Đức: Sinnlichkeit; Anh: sensibility]
Xem thêm : Cảm năng học/ Mỹ học, Nước đôi, Ấn tượng, Trực quan, Thụ nhận, Không gian và thời gian, Giác tính
Học thuyết của Kant về cảm năng - đóng một vai trò cốt yếu trong triết học phê phán - là một sự tập hợp không dễ dàng của nhiều hình thức lập luận không tương thích với nhau. Những lập luận xa xưa cho lập trường của Kant là của Platon và Epicurus (đáng ngạc nhiên là Aristoteles lại vắng mặt trong văn cảnh này). Platon đại diện “phái duy trí” hạ thấp cảm năng, đẩy nó xuống những lĩnh vực của tính thụ động và ảo tưởng, còn Epicurus đại diện phái duy cảm “cho rằng
https://thuviensach.vn
tính hiện thực chỉ ở trong những đối tượng cảm tính” (PPLTTT A853/B881). Các nguồn suối gần nhất cho những thảo luận của Kant là những đại diện hậu kỳ của phái duy trí và phái duy cảm, đó là Leibniz và Locke. Kant cho rằng cả hai khuynh hướng đã bỏ qua sự phân biệt giữa cảm năng và giác tính, một bên xem cảm năng phụ thuộc vào giác tính, bên kia xem giác tính phụ thuộc vào cảm năng. Kant cố gắng tránh việc lựa chọn một trong hai hướng bằng cách dị biệt hóa mối quan hệ giữa cả hai, sao cho cái này không tan biến vào cái kia, nhưng lại cho phép chúng kết hợp với nhau trong kinh nghiệm.
Việc dị biệt hóa cảm năng như vậy dẫn đến một luận chứng cực kỳ phức hợp và đôi lúc gây bế tắc về tính chất của cảm năng. Cảm năng phải được phân biệt với giác tính, nhưng lại có một yếu tố mô thức; tuy nhiên, yếu tố mô thức này không thâu gồm các đối tượng của cảm năng theo cùng một cách như cách thâu gồm của một khái niệm. Tương tự, cảm năng là có tính thụ nhận, đối lập với tính tự khởi của giác tính, nhưng điều này không có nghĩa nó là một tabula rasa [tấm bảng trắng] thụ động chỉ đơn thuần ghi nhận các ấn tượng, vì cảm năng cũng có một yếu tố tiên nghiệm, dù yếu tố này không giống với các phạm trù tiên nghiệm. Yếu tố này không được rút ra từ sự thống nhất nguyên thủy của thông giác. Vì thế, cảm năng không phải là tri giác mù mờ về một sự hoàn hảo thuần lý như quan niệm của phái Leibniz, cũng không phải là tính thụ nhận trực tiếp các ấn tượng của Locke, trái lại, có vẻ chia sẻ các phương diện của cả hai lập trường trong khi không đứng hẳn về một bên nào hết.
Việc cân bằng giữa hai lập trường ấy của Kant thể hiện rõ trong LA, cả trong việc tạo ra những thuật ngữ dùng để chỉ cảm năng và cái khả giác/cái cảm tính lẫn trong lập luận ở phần hai của luận án: “Bàn về sự phân biệt giữa những sự vật khả giác và khả niệm nói chung” . Trong LA §3, ông định nghĩa cảm năng như “ tính thụ nhận của một chủ thể nhờ đó trạng thái hình dung của riêng chủ thể có thể bị kích động theo một cách xác định bởi sự hiện diện của một đối tượng nào đó”. Tính chất của tính thụ nhận này, hay những phương cách mà một chủ thể có thể bị kích động bởi sự hiện diện của một đối tượng, vẫn bị Kant để mặc không định nghĩa; trong §4, Kant tiến hành phân biệt giữa chất liệu và mô thức của một “biểu tượng của giác quan”. Chất liệu hay “cảm giác” của một “biểu tượng cảm tính” không được một chủ thể cảm nhận trực tiếp [bằng giác quan], trái lại, “chất lượng” của nó phụ thuộc vào cách thức mà bản tính của chủ
https://thuviensach.vn
thể “có thể được điều chỉnh bởi đối tượng liên quan”. Tính chất bổ sung của mối quan hệ giữa chủ thể và đối tượng thậm chí còn được nói rõ hơn trong trường hợp về mô thức của cảm năng. Trong §2 của LA, Kant quan tâm trước hết đến việc phân biệt mô thức của cảm năng với mô thức của giác tính, và mô tả nó như nảy sinh từ sự “phối kết” của các đối tượng tác động lên giác quan “theo một quy luật tự nhiên nào đó của tâm thức”. Ông dùng thuật ngữ “phối kết” để phân biệt mô thức của cảm năng với sự “phác họa hay bất cứ loại niệm thức nào về đối tượng” có thể được giác tính mang lại; mô thức phối kết các đối tượng của giác quan được mô tả như một “phương diện” che đậy hay phủ lên chất liệu của cảm năng dựa theo “các quy luật bẩm sinh và bền vững”.
Trong khi phần bàn về cảm năng ở §2 trong LA nhấn mạnh những phương cách khác với nghiên cứu của phái duy lý về cảm năng như một tri giác mù mờ (xem §7), thì trong §3 “Bàn về những nguyên tắc về mô thức của thế giới cảm tính”, Kant phân biệt nó một cách rạch ròi với những lập luận của phái duy nghiệm. Ông nhận diện hai nguyên tắc của thế giới cảm tính, đó là không gian và thời gian. Kant cho rằng cả hai nguyên tắc ấy không thể được rút ra từ các giác quan, mà được tiền giả định bởi các giác quan (§§14-15) và vì thế, đều là những nguyên tắc thuần túy chứ không phải thường nghiệm. Hơn nữa, cả hai là những trực quan hay những điều kiện chủ quan “nhờ vào bản tính của tâm thức con người, cho việc phối kết mọi sự vật cảm tính trong một quy luật cố định” (§14). Tính chất của chúng, với tư cách là những trực quan thuần túy, phân biệt chúng với những tính chất được rút ra từ những đối tượng của giác quan, bởi lẽ chúng tiền giả định những đối tượng như thế, vừa với những khái niệm, bởi lẽ những đối tượng của giác quan được quan niệm như “được đặt vào trong thời gian, chứ không phải như được thâu gồm vào bên dưới khái niệm chung về thời gian”.
Với những luận cứ này, bản phác họa cơ bản của quan niệm phê phán về cảm năng hầu như đã được đưa ra. Trong PPLTTT, Kant phân biệt cảm năng và giác tính như “hai nguồn suối của nhận thức con người”: các đối tượng được “mang lại cho chúng ta” qua cảm năng, còn “tư tưởng” được mang lại cho ta bởi giác tính (PPLTTT A15/B19). Cảm năng là có tính thụ nhận (A19/B32), nhưng lại chứa đựng những nguyên tắc tiên nghiệm được bàn trong phần “Cảm năng học siêu nghiệm”, phần này tạo thành phần đầu tiên của học thuyết về các yếu tố cơ bản của nhận thức. Chất liệu của cảm năng hay “hiện tượng tương ứng với
https://thuviensach.vn
cảm giác” có thể được “sắp đặt theo những quan hệ nào đó”; những quan hệ này tạo nên mô thức của cảm năng. Đó chính là những trực quan thuần túy, tiên nghiệm về không gian và thời gian. Là thuần túy và tiên nghiệm bởi tính ưu tiên của chúng trước các hiện tượng, nghĩa là chúng không được rút ra từ các hiện tượng; là các trực quan bởi chúng phối kết chứ không thâu gồm các cảm giác theo phương cách thâu gồm của các khái niệm. Các đối tượng của giác quan được mang lại cho tính thụ nhận của chúng ta, nhưng theo một phương cách được khớp nối và có tổ chức cao; và mặc dù sự tổ chức này là chủ quan, nó không phải là một sản phẩm của tính tự khởi của chúng ta theo cách thái của các khái niệm thuần túy của giác tính. Và trong khi cảm năng được phân biệt nghiêm ngặt với giác tính, các trực quan của nó sẽ trống rỗng nếu không có những đóng góp của các khái niệm. Các trực quan của cảm năng và các khái niệm của giác tính thích ứng và được làm cho thích ứng với nhau, cái đa tạp được phối kết của cái này vừa cấu trúc, vừa được cấu trúc bởi những sự thống nhất hình thức của cái kia.
Với lập trường này, Kant có vẻ muốn tránh “vỏ dưa” của phái duy tâm muốn quy giản cảm giác thành “những tri giác mù mờ của lý tính” (xem PPLTTT A13/B61) và tránh “vỏ dừa” của phái duy nghiệm muốn tách rời lý tính khỏi giác quan. Đối với ông, cả hai lập trường đều đưa đến một quan niệm khách quan luận về không gian và thời gian; phái này xem chúng như những mối quan hệ khái niệm có tính khách quan được tri giác một cách mù mờ, phái kia xem chúng như là những đặc tính của các đối tượng trong thế giới được các giác quan tri giác. Kant cố gắng xác lập một lập trường bao hàm được những cái hay trong các viễn tượng của phái duy tâm và phái duy nghiệm, nhưng không hoàn toàn đồng ý với lập trường nào cả. Ông làm vậy bằng cách duy trì tính chất thuần lý của phái duy tâm, và tính chất thụ nhận trong các lập luận của phái duy nghiệm, và bằng cách phân biệt các mô thức của cảm năng với các khái niệm, giữa chất liệu của cảm năng với cảm giác trực tiếp. Tuy nhiên, giải pháp của ông đã giải đáp cho bao nhiêu vấn đề thì cũng làm nảy sinh bấy nhiêu vấn đề khác, và đã tỏ ra cực kỳ dễ bị tổn thương trước những sự phản bác từ cả lập trường duy tâm lẫn lập trường duy nghiệm mà nó tưởng đã vượt qua được rồi.
Lê Quang Hồ dịch
Cảm năng học siêu nghiệm [Đức: transzendentale Ästhetik; Anh: transcendental aesthetic] → Cảm năng học, Trực quan, Thụ nhận, Cảm
https://thuviensach.vn
năng, Không gian, Thời gian
Cao cả (cái) [Đức: Erhabene, das; Anh: sublime]
Xem thêm: Mỹ học/ Cảm năng học, Đẹp (cái), Vui sướng, Cân đối, Lý tính
Trong THTN, cái Cao cả xuất hiện trong một danh mục “các khái niệm có thể phân tích được một phần nào”, gồm không gian và thời gian, cũng như những tình cảm về cái đẹp và cái đáng ghét (tr. 280, tr. 252). Lý do ta không thể phân tích được các tình cảm như cái Cao cả và cái Đẹp là vì sự xuất hiện của chúng “không đến từ bản tính của các sự vật bên ngoài khơi dậy các tình cảm ấy cho bằng việc dựa trên tâm thế riêng của mỗi người được kích động bởi những sự vật ấy hướng đến sự vui sướng và đau khổ” (ĐVCC, tr. 207, tr. 45). Tuy nhiên, Kant thực sự đã đưa ra một sự đặc trưng hóa một phần về tình cảm về cái Cao cả, chủ yếu bằng cách đặt nó tương phản với cái Đẹp: cả hai [cái Đẹp và cái Cao cả] đều làm ta hài lòng, nhưng trong khi cái Đẹp quyến rũ ta, thì cái Cao cả lại “khuấy động” tâm thức (ĐVCC, tr. 209, tr. 47); cái Cao cả nhất định phải đơn giản, còn cái Đẹp thì lộng lẫy và được tô điểm. Trong ĐVCC, Kant sử dụng sự phân biệt này chủ yếu như một phương tiện để nêu đặc điểm của các đối tượng và các loại người, nhưng trong PPNLPĐ, ông đã mở rộng khái niệm này để bao hàm cả tình cảm được nảy sinh từ sự thất bại của trí tưởng tượng để bao quát “cái Lớn-tuyệt đối”, hoặc dựa theo sự đo lường (cái cao cả toán học) hoặc mãnh lực (cái cao cả năng động).
Trung tâm trong nghiên cứu về cái Cao cả là phương cách khiến nó có vẻ như “trái ngược với tính hợp mục đích xét về mặt hình thức đối với quan năng phán đoán của ta, vừa không thích hợp đối với quan năng diễn tả và hầu như còn bạo hành đối với trí tưởng tượng” (PPNLPĐ §23). Tuy nhiên, trong khi cái Cao cả tuy là một sự “kìm hãm sức sống trong giây phút”, thì nó lại “lập tức để cho sức sống tuôn trào càng mạnh mẽ hơn nữa” (PPNLPĐ §23). Sự chuyển dịch này xảy ra là vì sự kìm hãm quan năng phán đoán được tiếp diễn bằng một sự hiện thực hóa sức mạnh và phạm vi của các ý niệm của lý tính (PPNLPĐ §27). Cái Cao cả trong tự nhiên không gì khác hơn là một sự phản ánh các ý niệm của lý tính mà chúng ta hiểu sai nó do bởi sự lẫn lộn nào đó hay sự thay thế nào đó “(tôn kính đối tượng thay vì tôn kính Ý niệm về Con người trong chính chủ thể của ta)” (PPNLPĐ §27). Phương diện không thể diễn tả được này của cái Cao cả đã làm
https://thuviensach.vn
cho phần “Phân tích pháp về cái Cao cả” trở nên cực kỳ có ý nghĩa đối với các lý giải của Derrida (1978) và Lyotard (1991), nhấn mạnh những con đường mà triết học phê phán đã không ngừng bị gián đoạn bởi những mô men không thể kìm hãm được của cái quá mức như cái Cao cả.
Trần Kỳ Đồng dịch
Câu hỏi của lý tính (các) [Đức: Vernunftfragen; Anh: questions of reason] → Khai minh, Quan tâm, Triết học, Lý tính
Cấu tạo (sự) [Đức: Konstruktion; Anh: construction]
Xem thêm: Cảm tính hóa, Toán học, Niệm thức (thuyết)
Trong Bình giải về quyển đầu tiên của bộ Các tiên đề Euclid , Proclus liệt kê sự cấu tạo cùng với sự phát biểu [định lý], trình bày, nêu đặc điểm, chứng minh và kết luận như là những bộ phận cấu thành của một định lý hình học Euclid. Nó “bổ sung những gì còn thiếu vào cái đã cho để tìm ra cái được tìm” (Prolus, 1970. tr. 159). Kant đã giữ lại nghĩa hình học này của từ nhưng đã mở rộng phạm vi của nó để bao gồm một nghiên cứu khái quát về sự trình bày hay hypotyposis [diễn tả bằng những biểu tượng cảm tính] . Nghiên cứu của Kant về sự cấu tạo giữ vai trò mấu chốt cho cả triết học chuyên biệt về toán học lẫn một nghiên cứu khái quát hơn của ông về tri thức và nhận thức.
Kant trả lời câu hỏi được đặt ra trong quyển SL: “Làm thế nào toán học thuần túy có thể có được?”, bằng cách phát biểu “điều kiện đầu tiên và cao nhất cho khả thể” của nó, đó là “trực quan thuần túy nào đó phải tạo nên cơ sở cho nó, trong đó mọi khái niệm của nó có thể được trình bày hay được cấu tạo, tuy in conreto [cụ thể] nhưng lại là tiên nghiệm” (SL §7). Sự cấu tạo nối kết cái tiên nghiệm với cái cụ thể, và nó làm thế bằng cách “trình bày những khái niệm của nó trong trực quan”. Một khi khái niệm của giác tính hay “cơ sở của sự thống nhất cho sự cấu tạo” được trình bày trong trực quan, thì theo đó nó “xác định một không gian để giả định hình thức của một hình tròn” hay các dạng của một hình nón và hình cầu (SL §38). Kant đã mô tả thức nhận về bản tính của sự cấu tạo như là “cuộc cách mạng trí tuệ” đã làm nảy sinh toán học, cuộc cách mạng ở chỗ nhà toán học đưa ra “những gì được bao hàm một cách tất yếu trong những khái niệm mà ông tự nghĩ ra một cách tiên nghiệm , và diễn tả nó bằng sự cấu tạo” (PPLTTT B 12).
https://thuviensach.vn
Kant mở rộng nghiên cứu của mình về sự cấu tạo theo hai hướng không hoàn toàn nhất quán. Trong phần Học thuyết siêu nghiệm về phương pháp của quyển PPLTTT, ông dùng nó để phân biệt phương pháp toán học với phương pháp triết học. Đây là phần tiếp tục cho sự tranh cãi của ông với phong cách trình bày hình học của Wolff được khai mào trong THTN. Nhận thức toán học là có tính tiên đề (axiomatic) và xét “cái phổ biến trong cái đặc thù, hay thậm chí trong cái cá biệt”, trong khi đó nhận thức triết học là có tính suy lý bằng ngôn từ (acroamatic) và “chỉ xem xét cái đặc thù trong cái phổ biến” (PPLTTT A 714/B 742). Tuy nhiên, Kant cũng biến ý niệm về sự cấu tạo thành ý niệm then chốt trong nghiên cứu của mình về những nguồn gốc của kinh nghiệm trong sự nối kết giữa khái niệm với trực quan. Trong PH, sự cấu tạo được định nghĩa là “mọi biểu tượng của một khái niệm thông qua sự tác tạo (tự khởi) của một trực quan tương ứng” (PH tr. 192, tr. 111). Sự cấu tạo như thế là thuần túy, “nếu nó diễn ra thông qua trí tưởng tượng đơn thuần phù hợp với một khái niệm tiên nghiệm”, và là thường nghiệm, “nếu nó được thực hành dựa trên một loại chất liệu nào đó” (sđd.). Loại cấu tạo trước là có tính niệm thức và được đưa vào chương thuyết niệm thức của PPLTTT, trong khi loại cấu tạo sau là có tính kỹ thuật, được bàn trong PPNLPĐ, nhất là trong “Lời tựa cho lần xuất bản thứ nhất”. Trong cả hai trường hợp, ý nghĩa của sự cấu tạo được mở rộng vượt khỏi ngữ cảnh hình học nguyên thủy thành một nghiên cứu khái quát về sự trình bày các khái niệm ở trong trực quan.
Việc Kant mở rộng sự cấu tạo hình học thành một nghiên cứu về sự trình bày nói chung có tầm quan trọng đối với những phát triển triệt để trong hiện tượng học thế kỷ XX, nhất là quyển Những nguồn gốc của Hình học (1954) của Husserl, và sự bình luận của Derrida (1962) về công trình này, cũng như trong công trình của Lyotard về “sự trình bày” từ năm 1971, nhưng trên hết là trong cuốn Sự khác biệt (1983). Nó đưa ra một điểm xuất phát cho việc nghiên cứu về sự trình bày khái niệm hay quy luật nhưng vẫn tôn trọng tính cá biệt cụ thể.
Cù Ngọc Phương dịch
Châm ngôn [Đức: Maxime; Anh: maxim]
Xem thêm: Mệnh lệnh nhất quyết, Điều răn, Tự do, Mệnh lệnh, Ý chí
https://thuviensach.vn
Một châm ngôn được định nghĩa như một “nguyên tắc chủ quan của ý muốn” và được phân biệt với nguyên tắc khách quan hay “quy luật thực hành” (CSSĐ, tr. 100, tr. 13). Trong khi quy luật thực hành có giá trị hiệu lực đối với mọi tồn tại có lý tính và là “một nguyên tắc mà họ phải làm theo”, thì một châm ngôn “chứa đựng quy tắc thực hành do lý tính quy định phù hợp với những điều kiện của chủ thể (thường ngu muội hoặc chiều theo những xu hướng của bản năng), do đó, là nguyên tắc mà chủ thể làm theo trong thực tế ” (CSSĐ, tr. 421, tr. 30). Trong CSSĐ, Kant liệt kê những điều kiện cho một châm ngôn dựa theo những phạm trù về lượng là nhất thể, đa thể và toàn thể. Một châm ngôn phải là nhất thể trong mô thức của tính phổ quát nảy sinh từ nhất thể [sự thống nhất] của ý chí; là đa thể trong chất liệu hay “các mục đích” của nó; và là toàn thể trong sự “xác định trọn vẹn” của “mọi châm ngôn bằng công thức rằng mọi châm ngôn bắt nguồn từ sự tự-đề ra luật cho chính mình phải được làm cho hài hòa với vương quốc khả hữu của mục đích như vương quốc của tự nhiên (tr. 436, tr. 41-42). Theo quan niệm của Kant, hành động luân lý chủ yếu là ở việc thẩm tra các châm ngôn bằng những phát biểu khác nhau của mệnh lệnh nhất quyết. Việc thẩm tra các châm ngôn là phương cách để xét xem quy luật khách quan của lý tính quan hệ như thế nào với một ý chí vốn phục tùng những ảnh hưởng và những xu hướng khác. Mệnh lệnh nhất quyết giữ vai trò như là bộ chuẩn tắc để đánh giá những châm ngôn hành động; hành vi luân lý đòi hỏi ta phải “hành động như thể châm ngôn hành động của bạn phải trở thành một quy luật phổ quát của tự nhiên thông qua ý chí của bạn” (tr. 421, tr. 30). Do vậy, châm ngôn hành động của sự khôn ngoan nói rằng “khi tôi ở trong cảnh khốn cùng tôi có thể đưa ra lời hứa dối trá” sẽ thất bại trước sự thẩm tra của mệnh lệnh nhất quyết; bởi lẽ, Kant khẳng định rằng, “quả tôi có thể muốn nói dối nhưng tuyệt nhiên không thể muốn việc nói dối trở thành một quy luật phổ quát” (tr. 403, tr. 15).
Hoàng Phong Tuấn dịch
Chân lý [Hy Lạp: aleitheia; Latinh: veritas; Đức: Wahrheit; Anh: truth]
Xem thêm : Phân tích pháp, Hiện tượng, Xác tín (sự), Xem-là-đúng (sự), Ảo tượng
https://thuviensach.vn
Câu trả lời của Kant cho câu hỏi “chân lý là gì” được trình bày dựa vào “tiêu chuẩn phổ biến và chắc chắn để biết được chân lý của một nhận thức” (PPLTTT A58/B82). Sau khi xem xét định nghĩa duy danh được xem là đương nhiên về chân lý như “sự trùng hợp của nhận thức với đối tượng của nó” (A58/B82), ông tuyên bố rằng không thể có tiêu chuẩn phổ biến nào “có giá trị cho mọi nhận thức không phân biệt những đối tượng của chúng” (A58/B83). Tuy nhiên, trong khi điều này là đúng với nội dung của nhận thức, thì ta có thể xác lập một tiêu chuẩn lôgíc, tiêu cực về chân lý trong chừng mực “những quy luật phổ biến và tất yếu của giác tính” (A59/B84) được lôgíc học trình bày như là một điều kiện không thể thiếu [conditio sine qua non] . Bởi lẽ, “cái gì mâu thuẫn lại với những quy luật ấy là sai” (sđd) mặc dù sự trùng hợp với những quy luật này tự nó không phải là một tiêu chuẩn đầy đủ của chân lý.
Bên trong khuôn khổ phê phán, quan niệm về “sự trùng hợp của một nhận thức với đối tượng của nó” mang một ý nghĩa mới, đặc biệt là dưới ánh sáng của tiên đề cơ sở của nó phát biểu rằng “những điều kiện cho khả thể của kinh nghiệm nói chung cũng đồng thời là những điều kiện cho khả thể của những đối tượng của kinh nghiệm ” (PPLTTT A158/B197). Điều này có nghĩa là những điều kiện của kinh nghiệm qui định sự trùng hợp giữa nhận thức và đối tượng, hay như Kant nói, “kinh nghiệm mang lại cho ta quy luật và là nguồn suối của chân lý” (A318/B375). Những điều kiện của kinh nghiệm bao gồm những hiện tượng được mang lại thông qua trực quan tiên nghiệm và được tổng hợp bằng những khái niệm tiên nghiệm thuần túy của giác tính. Vì thế, Kant có thể nói rằng sự tổng hợp những yếu tố này “như là nhận thức tiên nghiệm, lại chỉ có được chân lý (là sự trùng hợp với đối tượng) là khi nó không chứa đựng gì khác hơn là những gì tất yếu cần thiết để mang lại sự thống nhất tổng hợp của kinh nghiệm nói chung (A158/B197). Điều này phải bao gồm, như Kant giải thích kỹ, “những điều kiện mô thức của trực quan tiên nghiệm, sự tổng hợp của trí tưởng tượng và sự thống nhất tất yếu của tổng hợp ấy trong một Thông giác siêu nghiệm” (A158/B197). Với lập luận này, Kant bác bỏ bất kỳ quan điểm nào theo thuyết Platon xem chân lý như là sự phù hợp giữa nhận thức với một ý niệm, đồng thời cũng bác bỏ một sự đánh đồng kiểu Platon giữa cảm năng và ảo tượng. Những hiện tượng không còn được xem như những ảo tượng nữa, mà là một yếu tố bản chất của kinh nghiệm và do đó, là của chân lý.
https://thuviensach.vn
Bên cạnh nghiên cứu này về chân lý như là “sự phù hợp với đối tượng”, Kant cũng trình bày một chân lý được trình bày dựa theo tính giá trị hiệu lực. Trong phiên bản này, chân lý được bàn luận dựa vào “việc xem-là-đúng” hay tính giá trị hiệu lực chủ quan và khách quan của các phán đoán. Nó có ba mức độ: tư kiến , tức cái có ý thức nhưng không đầy đủ cả về mặt chủ quan lẫn khách quan; lòng tin , tức cái có ý thức chỉ đầy đủ về mặt chủ quan nhưng không đầy đủ về mặt khách quan; tri thức , tức cái đầy đủ cả hai mặt chủ quan lẫn khách quan và do đó là sự xác tín (PPLTTT A822/B850). Tuy nhiên, quan niệm về sự đầy đủ khách quan có thể được đưa ra để bao hàm bên trong nó định nghĩa về “chân lý như sự phù hợp với đối tượng” (A58/B82).
Hoàng Phong Tuấn dịch
Chất [Đức: Qualität; Anh: quality] → Cảm năng học, Phạm trù, Phán đoán, Bảng các phạm trù
Chất liệu [Đức: Materie; Anh: matter] → Chất thể
Chất thể/Chất liệu/Vật chất [Đức: Materie; Anh: matter]
Xem thêm: Tùy thể, Vật thể, Khái niệm phản tư (các), Động lực học, Mô thức, Cơ học, Chuyển động (sự), Hiện tượng học, Chuyển động học, Bản thể
Trong triết học phê phán, Kant dành một vai trò tương đối hạn chế cho khái niệm “chất thể” hay “vật chất”. Chất thể được xác định về mặt tính từ là “chất thể của hiện tượng” và “chất liệu cho nhận thức”, với nghĩa trước thì chất thể là “hiện tượng tương ứng với cảm giác” (PPLTTT, A 20/B 34) và với nghĩa sau là cái gì “thu hoạch được từ các giác quan” (PPLTTT, A 86/B 118). Chất thể luôn đối lập với mô thức, và cùng với mô thức làm thành một trong bốn cặp các khái niệm phản tư. Chất thể có nghĩa là “cái có thể được quy định nói chung” đối lập với mô thức, vốn có nghĩa là sự quy định nói chung (PPLTTT, A 267/B 323). Cũng như với mọi khái niệm phản tư, chất thể và mô thức không phải là cái gì tự thân mà biểu thị những phương cách để giác tính hướng mình đến kinh nghiệm. Do đó chất thể chỉ đơn thuần biểu thị những gì được các mô thức của trực quan và giác tính quy định ở trong kinh nghiệm, vì vậy, chất thể là một thuật ngữ của sự phản
https://thuviensach.vn
tư về “các sự vật tự thân xuất hiện ra” (PPLTTT, A 268/B 324), chứ không phải là một hiện tượng đơn thuần hoặc một vật tự thân.
Trong PPLTTT, chất thể được phân biệt với bản thể hay với cái thường tồn trong kinh nghiệm, vì nó “không có nghĩa là một loại bản thể hoàn toàn khác biệt và dị tính với đối tượng của giác quan bên trong (linh hồn), mà chỉ có sự khác nhau về loại của những hiện tượng về những đối tượng – không nhận thức được đối với ta về mặt tự thân – mà những biểu tượng về chúng được ta gọi là những biểu tượng bên ngoài” (PPLTTT, A385). Thực vậy, cái được gọi là chất thể không gì khác hơn là các kết quả trong giác quan bên ngoài của “những biến đổi về vị trí”, trong khi các lực thấm nhuần chất thể không gì khác hơn “là nỗ lực đơn thuần quy về các mối quan hệ trong không gian như là các kết quả của chúng” (A 386). Chất thể cũng không phải là một vật tự thân; với tư cách là một khái niệm phản tư, nó “không ở trong số những đối tượng của giác tính thuần túy” và cho dù ta có xét đến nó như thế, “đối tượng siêu nghiệm có thể làm nền tảng cho hiện tượng mà ta gọi là vật chất chỉ là một cái gì đó mà ta không hiểu gì về bản tính của nó, dù có ai đó tự cho rằng có thể truyền đạt cho ta” (A 277/B 333). Khái niệm phê phán (của Kant) về chất thể quả thực đã tước bỏ toàn bộ những phẩm cách vốn được gán cho khái niệm này trong lịch sử triết học, nghĩa là, vừa không phải là “vật chất tự thân” (hyle) vừa không phải bản thể vật chất làm nền tảng cho các tùy thể.
Tuy nhiên, với SHHTN, Kant dành trọn quyển sách để bàn về vật chất, hay đúng hơn là bàn về “những nguyên tắc cho sự cấu tạo các khái niệm thuộc về khả thể của vật chất” (SHHTN tr. 472, tr. 9), cụ thể là những nguyên tắc đi trước mọi nỗ lực áp dụng toán học vào cho “học thuyết về vật thể” hay khoa học tự nhiên. Theo những đề mục của bảng các phạm trù, Kant trình bày “tất cả những sự quy định của khái niệm phổ quát về vật chất nói chung, và do đó tất cả những gì có thể được suy tưởng tiên nghiệm về nó” (SHHTN tr. 476, tr. 12). Ông mô tả cách tiến hành của mình như một cách vận hành “khái niệm về vật chất thông qua tất cả bốn chức năng của các khái niệm của giác tính” (tr. 476, tr. 13). Sự quy định cơ bản của vật chất đối với cảm năng của ta là sự vận động, và vì thế, “tất cả những thuộc tính gắn liền với bản tính của vật chất” có thể được truy nguyên đến “sự vận động này” (tr. 477, tr. 14). Vì thế vật chất được phân tích dựa vào sự vận động: đầu tiên, bằng chuyển động học , như là một lượng vận động thuần túy, sau
https://thuviensach.vn
đó bằng động lực học như là chất của sự vận động như là sự biểu hiện của một lực, sau đó lại bằng cơ học , về tương quan của các bộ phận đang chuyển động của vật chất với nhau, và sau cùng bằng hiện tượng học , như là “sự vận động hoặc sự đứng yên của vật chất được quy định chỉ liên quan đến phương cách của sự hình dung thành biểu tượng hay tình thái , tức là, như là một hiện tượng của các giác quan bên ngoài” (tr. 477, tr. 15).
Mai Thị Thùy Chang dịch
Chết (cái) [Đức: Tod; Anh: death] → Hữu hạn, Bất tử, Trừng phạt, Thời gian, Sợ hãi
Chiếm hữu (sự) [Latinh: possessio; Đức: Besitz; Anh: possession] Xem thêm: Sở đắc (sự), Khế ước, Hôn nhân, Sở hữu, Quyền
Trong SHHĐL, sự chiếm hữu được định nghĩa như “điều kiện chủ quan của mọi sự sử dụng có thể có” (tr. 245, tr. 68) và được chia thành sự chiếm hữu “khả giác” và sự chiếm hữu “khả niệm” hay possessio phaenomenon và sự possessio noumenon. Cái trước là sự chiếm hữu bằng cách chiếm lấy một đối tượng bên ngoài trong không gian và thời gian, trong khi cái sau là “sự chiếm hữu hợp pháp” mà không bị hạn chế vào việc chiếm hữu một đối tượng trên phương diện vật lý. Cái sau được biện minh hay được mang lại một sự diễn dịch dựa theo một định đề của lý tính thực hành rằng: “một bổn phận của pháp quyền là hành động hướng đến người khác sao cho cái gì ở bên ngoài (có thể sử dụng) cũng có thể trở thành sở hữu của ai đó” (một châm ngôn phù hợp với mệnh lệnh nhất quyết), vì thế nó chỉ ra rằng khái niệm về sự chiếm hữu bên ngoài tiền giả định sự chiếm hữu khả niệm (SHHĐL tr. 252, tr. 74). Do đó, sự chiếm hữu được xem như một phán đoán tổng hợp tiên nghiệm nối kết sự chiếm hữu một đối tượng trên phương diện vật lý với sự biện minh khả niệm của việc chiếm hữu nó như thế. Hơn nữa, qua việc phân biệt sự chiếm hữu khả giác với sự chiếm hữu khả niệm, Kant có thể giải quyết nghịch lý của sự chiếm hữu. Điều này được tiến hành như sau: chính đề : có thể có một cái gì đó bên ngoài như là của tôi, mà không chiếm hữu nó; phản đề : không thể có một cái gì đó mà không có sự chiếm hữu nó. Giải pháp của Kant cho nghịch lý này là ở chỗ trình bày các nghĩa nước đôi mà sự chiếm hữu được sử dụng trong chính đề và phản đề.
https://thuviensach.vn
Trong SHHĐL, nghiên cứu của Kant về sự chiếm hữu là quan trọng cho việc soi sáng ẩn dụ về sự sở hữu các khái niệm trong PPLTTT. Kant chỉ ra điều này trong SHHĐL khi ông mô tả làm thế nào một trực quan tiên nghiệm được cho là làm cơ sở cho một khái niệm được mang lại, để tạo ra một phán đoán tổng hợp và do đó bổ sung cho sự chiếm hữu khả giác về một đối tượng trong trực quan. Việc sở hữu các khái niệm vừa phải đối mặt với câu hỏi về sự kiện ( quid facti – đúng với sự thực ) quy chiếu đến sự sở hữu khả giác, vừa với câu hỏi về quyền ( qui juris – đúng với pháp luật ) quy chiếu đến sự sở hữu khả niệm (PPLTTT A 84/ B 116). Sự biện minh cho cái sau đòi hỏi một sự diễn dịch trong cả SHHĐL lẫn PPLTTT để xác lập danh nghĩa hợp pháp của chúng.
Trần Thị Ngân Hà dịch
Chiến tranh [Đức: Krieg; Anh: war]
Xem thêm: Tranh cãi, Liên hiệp các Quốc gia, Hòa Bình (nền), Nhà nước
Trong SHHĐL, Kant mô tả mỗi quốc gia “quan hệ với quốc gia khác trong trạng thái tự do tự nhiên và do đó, trong một trạng thái chiến tranh không dứt” (tr. 343, tr. 150). Quyền hạn của các quốc gia này đối với nhau liên quan đến việc tiến hành chiến tranh, hành động trong chiến tranh và quyền hạn sau chiến tranh “nhằm cưỡng chế lẫn nhau để thoát khỏi trạng thái chiến tranh này và từ đấy hình thành một hiến chế, và hiến chế này sẽ xác lập nền hòa bình lâu dài” (tr. 343, tr. 150; xem thêm HBVC). Với Kant, chiến tranh là phương tiện để quốc gia thực thi quyền hạn của mình đối với các quốc gia khác bằng sức mạnh của mình. Lý do để một quốc gia tiến hành chiến tranh không chỉ bao gồm việc quốc gia khác chủ động vi phạm như “sự gây hấn trước” hay “việc một nhà nước cho mình có quyền nhận được sự đền đáp thỏa đáng [từ nhà nước khác] vì nhân dân của một nước khác đã gây ra tội chống lại nhân dân của mình” (SHHĐL tr. 346, tr. 153), mà còn do nước khác hăm dọa gây chiến. Điều này bao gồm việc nước khác chuẩn bị hành động thù địch hay thậm chí “tăng cường sức mạnh một cách đáng lo ngại ” ( sđd .). Quyền hạn của một quốc gia trong lúc lâm chiến bao gồm việc sử dụng bất cứ phương tiện phòng vệ nào ngoại trừ những phương tiện “tước đi quyền công dân của người dân”, và những phương tiện “sẽ hủy hoại sự tín nhiệm cần thiết cho việc xác lập một nền hòa bình trường cửu trong tương lai”, chẳng hạn như những chủ định dùng người dân của mình vào hoạt động gián điệp, ám
https://thuviensach.vn
sát, và loan truyền những tin đồn thất thiệt (tr. 346, tr. 154). Khi tiến hành chiến tranh, nó được phép “đòi kẻ thù cung ứng quân nhu và các đảm phụ quốc phòng”, nhưng không được cướp bóc nhân dân, vì với Kant, nhân dân và nhà nước không phải là một. Kant xem chiến tranh là nguồn gốc của “những tội ác lớn nhất đè nặng lên các quốc gia văn minh” (PĐ tr. 121, tr. 231), và chiến tranh trên thực tế không nhiều như “ sự chuẩn bị không ngừng và thực sự ngày càng tăng cho cuộc chiến tranh trong tương lai” ( sđd .). Ông lưu ý, như là đã lường thấy trước điều này, rằng mọi “nguồn lực của nhà nước, và toàn bộ những thành quả của nền văn hóa lẽ ra phải được dùng để tăng tiến văn hóa thì lại được hiến dâng cho mục đích này”, với kết quả đáng buồn cần phải nói thêm là “sự tự do vẫn mang thân phận rất nhọc nhằn tại nhiều nơi [trên thế giới]” (PĐ tr. 121, tr. 232).
Lê Quang Hồ dịch
Chủ nghĩa công dân thế giới [Đức: Komospolitanismus; Anh: cosmopolitanism]
Xem thêm : Nhà nước liên bang, Lịch sử, Công lý, Pháp quyền tự nhiên, Quyền hạn, Hòa bình, Nhà nước, Chiến tranh
Chủ nghĩa công dân thế giới được mô tả trong LSPQ là “ma trận trong đó mọi năng lực căn nguyên của loài người có thể phát triển” (tr. 28, tr. 51). Nó là một bước đi tất yếu hướng đến giải pháp về “những vấn đề trọng đại nhất đối với loài người”, đó là “đạt được xã hội dân sự có thể quản trị công lý một cách phổ quát” (tr. 22, tr. 45). Mục đích này không thể đạt được bên trong một nhà nước cá biệt đang tham gia vào một trật tự đối kháng của những quan hệ bên ngoài. Do đó, trong văn bản này và trong HBVC, Kant tập trung vào một “hệ thống chủ nghĩa công dân thế giới cho sự an ninh chính trị phổ biến” (tr. 26, tr. 49) giữa các nhà nước, một hệ thống mà ông mô tả như một “liên bang của các dân tộc trong đó mỗi nhà nước, thậm chí nhà nước nhỏ nhất, có thể mong đợi có được sự an ninh và các quyền hạn của mình không phải từ sức mạnh của bản thân hoặc từ phán quyết pháp lý của riêng mình, mà chỉ từ liên bang vĩ đại này (foedus Amphictyonum) , từ một quyền lực thống nhất và những quyết định hợp pháp của một ý chí thống nhất” (tr. 24, tr. 47). Ngược lại, ở những trang cuối của NH, bản thân chủ nghĩa công dân thế giới được mô tả như mục đích của sự phát triển của giống loài người. Không phải một nguyên tắc cấu tạo mà một nguyên tắc điều
https://thuviensach.vn
hành sẽ đòi hỏi rằng mỗi cá nhân, chứ không chỉ mỗi nhà nước, phải “nhượng mình một cách rộng lượng trước xã hội công dân thế giới xét như vận mệnh của giống loài người” (NH tr. 331, tr. 249). Phù hợp với ý niệm điều hành về chủ nghĩa công dân toàn thế giới, mỗi cá nhân phải hướng các hành động của mình đến “sự tổ chức tiến bộ của những công dân trên trái đất ở bên trong và hướng đến giống loài như một hệ thống được hợp nhất bởi những mối ràng buộc toàn hoàn vũ” (NH tr. 333, tr. 251).
Cù Ngọc Phương dịch
Chủ nghĩa hình thức [Đức: Formalismus; Anh: formalism]
Là một phê phán có tính cách bao trùm và mang nhiều lốt vỏ khác nhau, “chủ nghĩa hình thức” được nêu lên để chống lại triết học phê phán [của Kant]. Các phiên bản phê phán đi từ Hamann và Hegel tới Nietzsche và Husserl, với những sự đóng góp gần đây hơn từ hiện tượng học và lý luận phê phán. Về cơ bản nó luôn cho rằng sự bận tâm của Kant về các phương diện mô thức của kinh nghiệm và hành động đã dẫn Kant tới việc gạt ra ngoài những khía cạnh chất liệu và kích động của chúng. Sự bận tâm nói trên của Kant về mô thức [hình thức], được nhiều người cho là đã dẫn tới một nghiên cứu xuyên tạc và không vô tư về kinh nghiệm và hành động, đã không thể biện minh một cách đầy đủ ngay những tiền đề có tính mô thức của nó và đè nén những phương diện khác của kinh nghiệm. Bảng các phạm trù, quy luật luân lý và “hình thức thẩm mỹ của tính hợp mục đích” đều được trích dẫn như là bằng chứng của một sự định hướng hình thức chủ nghĩa.
Nhiều triết gia đã nỗ lực vạch ra các nguồn gốc của chủ nghĩa hình thức nói trên của Kant. Người phê phán Kant sớm nhất là Hamann đã thấy nguồn gốc của nó nằm ở sự thuần túy hóa ngôn ngữ (xem Hamann, 1967); với Hegel, chủ nghĩa hình thức nảy sinh từ một nghiên cứu trừu tượng, phi lịch sử về kinh nghiệm (xem Hegel, 1807); trong khi đó với Nietzsche, nguồn gốc của “ý chí muốn định hình” bắt nguồn từ nhu cầu của các triết gia khổ hạnh muốn chế ngự thân xác và những kích động của thân xác (xem Nietzsche, 1886). Các nhà lý luận phê phán như Adorno nhìn thấy ở chủ nghĩa hình thức của Kant một hình mẫu về phép biện chứng của sự khai minh đã quy giản kinh nghiệm vào một phép toán mang tính hình thức để dễ dàng kiểm soát nó (xem Adorno và Horkheimer, 1944). Sự
https://thuviensach.vn
phê phán phả hệ học này thường, nhưng không tất yếu, đi kèm với một nỗ lực phát triển một triết học phi-hình thức như đạo đức học phi-hình thức (tức là, chống-Kant) của Max Scheler dựa trên sự thiện cảm và những xúc cảm khác (Scheler, 1973), và thuyết duy vật phản-hình thức, phản-duy tâm của Georges Bataille (Bataille, 1985).
Nguyễn Văn Sướng dịch
Chủ quan (tính) [Đức: subjektiv; Anh: subjective]
Xem thêm: Ý thức, Ảo tưởng, Thực tại, Tự-ý thức
Ngoài một ngoại lệ quan trọng, tính từ này thường được sử dụng trong sự đối lập với “khách quan”. Nó có nghĩa rằng một tuyên bố hay phán đoán đặc thù không được bảo đảm là khách quan, nhưng lại nảy sinh từ sự cấu tạo riêng có của chủ thể thường nghiệm. Kant sử dụng sự phân biệt này cho thời gian và không gian trong LA; thời gian và không gian không “khách quan và thực tồn” mà đúng hơn là “[các] điều kiện chủ quan tất yếu, bởi chính bản tính của tâm trí con người, để phối kết mọi sự vật cảm tính phù hơp với một quy luật cố định” (LA § 14). Trong PPLTTT, theo một cách tương tự, Kant phân biệt sự thống nhất [nhất thể] “chủ quan” và “khách quan” của Tự-ý thức, cái trước là “ một sự quy định của giác quan bên trong , nhờ đó cái đa tạp của trực quan được mang lại một cách thường nghiệm cho một sự nối kết như thế” (PPLTTT B 139) – và giữa “cái Tôi” thường nghiệm và “cái Tôi” siêu nghiệm, một cái hình thành điều kiện thường nghiệm của tư tưởng, cái kia hình thành điều kiện lôgíc của tư tưởng. Tương tự, trong CSSĐ, Kant phân biệt giữa các mục đích khách quan có giá trị hiệu lực cho mọi hữu thể có lý tính, và các mục đích chủ quan mà “các cơ sở chủ quan của sự ham muốn là động cơ” của chúng và là riêng có đối với con người thường nghiệm (tr. 427, tr. 35). Tuy nhiên, trong PPNLPĐ, khi Kant phân biệt giữa tính hợp mục đích khách quan và tính hợp mục đích chủ quan, hay “tính tất yếu khách quan” của một phán đoán nhận thức với “tính tất yếu chủ quan” của phán đoán thẩm mỹ về sở thích, ông xem phán đoán thẩm mỹ chủ quan khác biệt nhưng không tất yếu là thấp kém hơn phán đoán khách quan (§ VIII và §22).
Điểm cuối cùng biểu thị một phẩm chất quan trọng gắn với khái niệm về tính khách quan, đối lập với tính chủ quan. Qua tính khách quan, Kant không có ý nói rằng nó hoặc “được rút ra từ các đối tượng” hoặc “được rút ra từ các ý niệm
https://thuviensach.vn
(kiểu Platon)”. Một cơ sở hay phán đoán khách quan thực tế được rút ra từ chủ thể, nhưng chủ thể được hiểu theo nghĩa siêu nghiệm. Cách hiểu này về tính khách quan hình thành điểm then chốt của triết học phê phán, và sự khó khăn trung tâm của nó là việc “ bằng cách nào các điều kiện chủ quan của tư duy lại phải có giá trị khách quan , tức là mang lại các điều kiện cho khả thể của mọi nhận thức về các đối tượng” (PPLTTT, A 89/ B 122). Kant dứt khoát bác bỏ khả thể của tính khách quan theo bất kỳ nghĩa nào đã nói ở trên; tính khách quan được đặt cơ sở trong “trật tự và tính hợp quy luật nơi những hiện tượng” “do chính chúng ta đặt vào”. “Các cơ sở chủ quan” cho sự thống nhất xuyên suốt trật tự và tính hợp quy luật ấy có nguồn gốc từ “các điều kiện chủ quan” của “các quan năng của tâm thức” và có giá trị hiệu lực nhờ vào việc chúng cấu thành “những cơ sở cho khả thể để, nói chung, nhận thức được một đối tượng ở trong kinh nghiệm”, “đồng thời có giá trị khách quan” (PPLTTT A 125). Do đó, nghiên cứu của Kant về tính khách quan không loại trừ tính chủ quan, nhưng thực tế nó được đặt cơ sở ở trong tính chủ quan. Bản tính của sự đặt cơ sở này, được khảo sát trong PPLTTT, lại được đào sâu nhất trong PPNLPĐ, ở đó Kant kiên quyết treo lửng sự đối lập giữa chủ quan và khách quan trong khái niệm về tính cân đối [tỷ lệ].
Trần Thị Ngân Hà dịch
Chủ thể siêu nghiệm [Đức: transzendentales Subjekt; Anh: transcendental subject] → Thông giác, Tôi, Chủ thể, Đối tượng siêu nghiệm, Chủ thể
Chủ thể/ Chủ ngữ [Hy Lạp: hupokeimenon; Latinh: subiectum; Đức: Subjeckt; Anh: subject]
Xem thêm: Tùy thể, Tôi (cái), “Tôi tư duy” (cái), Vị ngữ/ thuộc tính, Bản thể
Theo Aristoteles, chủ thể, hay hupokeimmenon , biểu thị “cái nằm bên dưới” và được sử dụng theo nhiều nghĩa. Nó được sử dụng một cách lôgíc để nói về chủ ngữ; nó cũng được dùng như một phương cách biểu thị chất liệu, và như một cách biểu thị bản thể như là “chủ thể tối hậu” hay những tồn tại nào “được gọi là bản thể bởi vì chúng không phải là thuộc tính của một chủ thể, trái lại, mọi thứ khác lại là thuộc tính của chúng (1841, 1017b, 14). Với Descartes, chủ thể tối hậu
https://thuviensach.vn
được đồng nhất với cái Tôi tự-ý thức đã được khai mở bằng [mệnh đề] “tôi tư duy, vậy tôi tồn tại” (cogito ergo sum) và điều này sau đó được xem như là một căn cứ hay cơ sở của vị ngữ hóa (hay thuộc tính hóa). Trong khi Kant chấp nhận rằng chủ thể với tư cách là cái Tôi là điều kiện mô thức lôgíc của kinh nghiệm, ông kịch liệt chống lại tuyên bố rằng nó biểu thị một bản thể thực tồn.
Nghiên cứu của Kant về chủ ngữ lôgíc rất gần với lý luận chính thống của Aristoteles. Ông khẳng định rằng tất cả các phán đoán (dù là phán đoán tổng hợp tiên nghiệm hoặc là phán đoán phân tích) là những phương cách của tư duy về “quan hệ của một chủ ngữ với vị ngữ” (PPLTTT A 6/B 10). Trong phán đoán phân tích: “tất cả vật thể đều có quảng tính” và trong phán đoán tổng hợp tiên nghiệm: “tất cả vật thể đều nặng” (thì) khái niệm vật thể là chủ ngữ”; những khái niệm quảng tính và trọng lượng là những vị ngữ của phán đoán. Trong khi Kant sẵn sàng thừa nhận rằng cái Tôi tự-ý thức là chủ thể tối hậu của nhận thức và hành động, nhưng ông không muốn dành cho chủ thể này bất cứ sự hiện hữu có tính bản thể nào: cái Tôi như là chủ thể tuyệt đối là một chức năng lôgíc chứ không phải là một tồn tại hiện có. Vì vậy, trong khi tôi có thể tự hình dung “một cái gì đó có thể tồn tại đơn thuần như một chủ thể (chứ không phải một thuộc tính)... tôi hoàn toàn không biết biểu tượng lôgíc này về chủ thể thuộc về sự vật dưới những điều kiện nào... do đó không hề biết khái niệm ấy thực sự có nghĩa gì không” (PPLTTT A 243/B 301). Vì vậy cái Tôi như một chủ thể chỉ là “một tiền tố đơn thuần” hay “một biểu tượng hoàn toàn trống rỗng”.
Kant cực kì nhạy cảm với sự nguy hiểm của việc đảo ngược chủ ngữ lôgíc và những vị ngữ của nó thành bản thể và những tùy thể của môn bản thể học. Chủ thể lôgíc của nhận thức là cái Tôi “vẫn còn lại sau khi tất cả những tùy thể (như là những thuộc tính) được tước bỏ hết” (SL §45), nhưng quá trình của bản thân sự trừu tượng hóa này không thể bảo đảm sự tồn tại của cái Tôi. Trông chờ vào việc nó đảm bảo cho sự tồn tại của cái Tôi là rơi vào sự sai lầm của võng luận, như trong võng luận thứ nhất của Tâm lý học thuần lý là võng luận sai lầm khi đi từ các tiền đề rằng: “ chủ thể tuyệt đối của các phán đoán của ta” là bản thể, và rằng: “tôi, với tư cách là một tồn tại tư duy, là chủ thể tuyệt đối của tất cả những phán đoán có thể có của tôi” đến kết luận rằng: “do đó, tôi với tư cách là một tồn tại tư duy (linh hồn) là bản thể (PPLTTT A 348). Vì thế, Kant chấp nhận cogito hay “cái Tôi tư duy” như một mệnh đề về một cái tôi hay một chủ thể tuyệt đối,
https://thuviensach.vn
nhưng chống lại ergo sum hay sự suy luận mang tính võng luận rằng chủ thể này là một tồn tại bản thể.
Chủ nghĩa triệt để trong việc xem xét chủ thể trên bình diện lý thuyết của Kant được nêu rõ trong một số phương diện, nhất là đối với chủ thể thực hành. Trong những nghịch lý của PPLTTT và trong PPLTTH, Kant giả định rằng chủ thể hành động là một bản thể. Chủ thể hành động chiếm lĩnh cả vương quốc khả niệm của tự do lẫn vương quốc của tính nhân quả tự nhiên; trong tính cách khả niệm của nó, “chủ thể ấy phải được xét như là được giải phóng ra khỏi mọi ảnh hưởng của cảm năng” mặc dù những hành động của nó tạo ra những kết quả trong thế giới thường nghiệm (PPLTTT A 541/B 569). Kết luận rằng chủ thể hành động, cũng giống như chủ thể tư duy, đều chỉ là một chức năng lôgíc chứ không có tồn tại bản thể đã được Nietzsche (1886) và Freud (1915) đưa ra. Theo nguồn cảm hứng của họ, các tác gia cuối thế kỷ XX như Foucault (1980, 1988), Lacan (1986) và Derrida (1967) đã rút ra những hệ quả của sự phân ly nguyên thủy giữa cái cogito (tôi tư duy) khỏi ergo sum (vậy tôi tồn tại) ở Kant.
Mai Thị Thùy Chang dịch
Chuẩn tắc (bộ) [Latinh: Canon; Đức: Kanon; Anh: canon]
Xem thêm: Phân tích pháp, Kỷ luật học, Phán đoán, Lôgíc học, Siêu hình học, Quy tắc
Cơ sở lịch sử của việc Kant đối lập bộ chuẩn tắc (Canon) với bộ công cụ (Organon) là sự phê phán của Epicurus (341-271 tcn) về bộ công cụ của Aristoteles. Thay cho Bộ công cụ phương pháp của Aristoteles, vốn là cuốn sách trình bày những quy tắc để đạt được nhận thức chứng minh, Epicurus đề xuất một Bộ chuẩn tắc về các quy tắc để đưa ra những phán đoán đúng. Nhan đề của văn bản ông bàn đến chủ đề này là Canon , gồm nhiều quy tắc và tiêu chuẩn khác nhau để phân biệt phán đoán đúng và phán đoán sai (Diogenes Laertius, 1925, Q. II, tr. 559-61). Epicurus phân biệt chuẩn tắc pháp với biện chứng pháp, coi nó có liên quan đến tính đúng đắn của phán đoán hơn là liên quan đến sự mở rộng tri thức.
Kant đã hình thức hóa sự phân biệt lịch sử này trong PPLTTT, cho dù ông có ám chỉ đến những căn nguyên của nó trong L, ở đó ông bàn về Lôgíc học như là “nghệ thuật phổ quát của lý tính ( caninica Epicuri)” (L tr. 529). Sự phân biệt
https://thuviensach.vn
hình thức của riêng Kant giữa bộ chuẩn tắc và bộ công cụ vẫn gắn mật thiết với tiền lệ lịch sử của nó. Chẳng hạn như phân tích pháp siêu nghiệm được quan niệm theo tinh thần của bộ chuẩn tắc Epicurus là một phương tiện cho việc phân biệt giữa phán đoán đúng và phán đoán sai, “để phán đoán trong sự sử dụng thường nghiệm của giác tính” (PPLTTT A 63/B 88). Khác với bộ công cụ của Aristoteles, nó không tự nhận là đưa ra những quy tắc cho sự mở rộng của giác tính; thay vào đó, với Kant, “nó sẽ bị lạm dụng nếu người ta cho nó có giá trị như là bộ công cụ cho một sự sử dụng phổ biến và vô giới hạn” (A 63/B 88).
Trong PPLTTT, phần “Học thuyết siêu nghiệm về phương pháp”, chương II “Bộ chuẩn tắc cho lý tính thuần túy” – Kant nhận diện “sự sử dụng duy nhất của một triết học về lý tính thuần túy” phải là một bộ chuẩn tắc phục vụ “không phải như là một bộ công cụ cho sự mở rộng tri thức mà như là một kỷ luật học cho sự giới hạn của lý tính thuần túy” (A 795/B 823). Ông mô tả phần phân tích pháp của môn Lôgíc học phổ biến là “một bộ chuẩn tắc cho giác tính và lý tính nói chung” và phần Phân tích pháp siêu nghiệm là một “bộ chuẩn tắc của giác tính thuần túy, vì chỉ có nó mới mang lại những phương thức tổng hợp đúng đắn của nhận thức tiên nghiệm” (A 796/B 824). Ông tiếp tục xét bộ chuẩn tắc của lý tính thuần túy, vốn chỉ có thể được áp dụng trong ngữ cảnh của sự sử dụng thực hành của lý tính. Bộ chuẩn tắc của lý tính thuần túy xử lý hai câu hỏi liên quan đến mối quan tâm thực hành, đó là: “Thượng đế có tồn tại không?” và “có đời sống trong tương lai chăng?” (A 803/B 831). Những câu hỏi này được phiên dịch thành hai tiêu chuẩn của bộ chuẩn tắc của lý tính thực hành: “Tôi phải làm gì?” và “Tôi được phép hy vọng gì?” (A 805/B 835), là những tiêu chuẩn mang lại những định đề về sự tồn tại của Thượng đế và đời sống tương lai.
Ý niệm về bộ chuẩn tắc được tiếp nhận từ Epicurus có thể được mở rộng ra để làm đặc trưng cho toàn bộ công cuộc phê phán. Có thể nói triết học phê phán cung cấp những quy tắc hay tiêu chuẩn để phân biệt phán đoán đúng thật (true judgement) với phán đoán sai lầm, trong khi không trực tiếp đưa ra một nghiên cứu có hệ thống về các phán đoán đúng đắn (correct judgements) và những phương tiện dùng để mở rộng chúng. Theo nghĩa này, bộ môn chuẩn tắc học của Epicurus có thể được xem là đã được làm sống lại bởi triết học phê phán và được tiếp tục trong những bộ môn phê phán được nó truyền cảm hứng.
Thân Thanh dịch
https://thuviensach.vn
Chức năng [Đức: Funktion; Anh: function]
Xem thêm: Thông giác, Nối kết (sự), Phán đoán, Biểu tượng, Tổng hợp [sự], Bảng các [hình thức] phán đoán, Thống nhất [tính, sự]
Trong PPLTTT , Kant định nghĩa chức năng là “sự thống nhất của hành vi sắp xếp những biểu tượng khác nhau dưới một biểu tượng chung”. Một hành vi như vậy của giác tính là phán đoán, “ nhận thức gián tiếp về một đối tượng ” hay “ biểu tượng của một biểu tượng [về đối tượng] ” (A 68/B 93). Kant khẳng định rằng việc khám phá tất cả các chức năng của giác tính là có thể có được, thông qua việc trình bày các chức năng của sự thống nhất trong phán đoán. Kant sắp xếp các chức năng ấy dưới bốn đề mục của các phán đoán: lượng, chất, tương quan, tình thái và rút ra bảng các phạm trù từ các chức năng ấy. Kant truy tìm nguồn gốc tính thống nhất của một chức năng, ngoài ra, ông cũng mô tả chức năng như là năng lực nối kết một cách tổng hợp, năng lực hướng đến sự thống nhất siêu nghiệm của thông giác hay “ ý thức nguyên thủy và tất yếu về sự đồng nhất của bản ngã” ( PPTT A 108). Trong chương bàn thảo về “Phenomena và Noumena” , Kant khẳng định thêm rằng các chức năng ấy của sự thống nhất là vô nghĩa nếu ở bên ngoài một quan hệ với đối tượng, vì chúng chỉ cung cấp những điều kiện mang tính hình thức của nhận thức và những chức năng ấy phải được bổ sung bằng các niệm thức và các nguyên tắc.
Trần Kỳ Đồng dịch
Chuyển động học [Đức: Phoronomie; Anh: phoronomy]
Xem thêm: Động lực học, Vật chất, Cơ học, Vận động (sự), Hiện tượng học
Trong SHHT, Kant phân loại khoa học vật chất và khoa học vận động theo bốn đề mục của bảng các phạm trù. Động lực học, cơ học, và hiện tượng học lần lượt tương ứng với chất, tương quan và tình thái; còn chuyển động học tương ứng với lượng. Vì thế chuyển động học chỉ liên quan đến phương diện lượng của sự vận động của vật chất, và được bàn luận trong SHHT (tr. 48-95, tr. 18-39).
Thân Thanh dịch
Cơ học [Đức: Mechanik; Anh: mechanics]
https://thuviensach.vn
Xem thêm: Động lực học, Quy luật, Chất liệu/Vật chất, Hiện tượng học, Bảng các phạm trù
Cơ học là một trong bốn phần của hệ thống vật chất được trình bày trong SHHTN. Mỗi một phần tương ứng với vật chất được xét đến trong từng đề mục của bảng các phạm trù: chuyển động học tương ứng với lượng và là khoa học về lượng của sự vận động vật chất; động lực học tương ứng với chất và là khoa học về các tính chất của vật chất, cụ thể là lực hút và lực đẩy; hiện tượng học tương ứng với tình thái và là khoa học về hiện tượng của sự vận động vật chất đối với tri giác, trong khi đó cơ học tương ứng với tương quan , và là khoa học về quan hệ giữa các bộ phận của vật chất với nhau (xem SHHTN tr. 536-53, tr. 95-117).
Trong phần II của PPNLPĐ, Kant nghi ngờ năng lực của lối giải thích cơ học (tức tin rằng mọi thứ có thể được giải thích bằng mối tương quan giữa những bộ phận vật chất với nhau) về các sinh thể hữu cơ. Ông giải quyết nghịch lý của “Phê phán năng lực phán đoán mục đích luận” , tức cái nghịch lý đối lập chính đề cho rằng tự nhiên có thể được lượng định “như là khả hữu chỉ dựa trên các quy luật cơ học” với phản đề cho rằng tự nhiên không thể được lượng định như vậy, bằng cách lập luận rằng lý tính không thể chứng minh cho cả hai, và do đó, năng lực phán đoán nên được sử dụng theo phương cách phản tư chứ không phải theo phương cách xác định (§70). Tương tự, các quy luật của sự tự do vốn thấm nhuần hành vi luân lý của con người cũng đã vượt khỏi những ý niệm cơ học về nhân quả, và tuân theo tính nhân quả riêng của chúng, tức tính nhân quả phi-cơ giới, một lập trường được khảo sát tỉ mỉ trong “Nghịch lý thứ ba” của PPLTTT (xem PPLTTT A 444/B 472 ff)
Huỳnh Trọng Khánh dịch
Cơ sở/ Căn cứ/ Nguyên nhân [Hy Lạp: arche, aiton; Latinh: ratio; Đức: Grund; Anh: ground]
Xem thêm: Nhân quả, Mâu thuẫn, Lôgíc học, Bản thể học, Nguyên tắc, Lý tính, Siêu nghiệm
Grund là một khái niệm cực kỳ phong phú và hàm hồ vì Kant sử dụng theo nhiều nghĩa, gồm “cơ sở hình thức”, “cơ sở tự nhiên”, “cơ sở luân lý”, “cơ sở siêu hình học” và “cơ sở mục đích luận”, ở đây mới chỉ là một vài sự sử dụng thôi. Nó thường đồng nghĩa với ratio hay lý do cũng như với nguyên nhân và,
https://thuviensach.vn
thỉnh thoảng, với nguyên tắc . Tính đa nghĩa này đã làm phát sinh nhiều khó khăn nghiêm trọng trong việc dịch thuật ngữ này, kết quả là làm cho sự sử dụng của Kant thậm chí còn tối tăm hơn. Tuy nhiên, ta có thể nhận ra ba nghĩa rộng mà thuật ngữ này được sử dụng: a) như một tiên đề trong một lập luận hay cơ sở khởi động cho một phán đoán; b) nguyên nhân của một kết quả; c) lý do hay ý đồ cho một hành động. Mặc dù mỗi nghĩa này đều chia sẻ một khuôn mẫu nằm bên dưới của tư tưởng có chung với những tư tưởng khác, một sự mơ hồ nước đôi mà Kant thường khai thác, ông cũng quan tâm đến việc phân biệt và xác lập các ranh giới giữa chúng.
Động cơ của Kant cho cả việc khai thác lẫn xác định rõ tính mơ hồ nước đôi quanh [khái niệm] cơ sở có thể được lần đến sự đối lập có tính phê phán của ông với cái đã nổi tiếng như “triết học Leibniz-Wolff”. Đặc biệt, Wolff đã đặt nền tảng cho toàn bộ hệ thống của ông trên những sự mơ hồ nước đôi của thuật ngữ “cơ sở”, sử dụng nó để thống nhất các lĩnh vực lôgíc học, siêu hình học, đạo đức học và chính trị học thành một hệ thống duy lý. Kant nhất mực chống đối dự án này xuyên suốt sự nghiệp của ông, từ cuốn NTĐT (1755) đến cuốn PH (1790) và tiêu điểm của phê phán của ông chính là khái niệm mơ hồ nước đôi về cơ sở.
Trong NTĐT, Kant định nghĩa cơ sở như “cái xác định một chủ từ đối với bất kỳ thuộc từ nào của nó” hoặc cái “xác lập một sự nối kết và một sự kết hợp giữa chủ từ và thuộc từ này hoặc thuộc từ khác” (NTĐT, tr. 392, tr. 11). Ông nhấn mạnh rằng cơ sở “luôn đòi hỏi” một chủ từ và một thuộc từ có thể được nối kết với chủ từ. Mối quan hệ giữa chủ từ và thuộc từ là khuôn mẫu của tư tưởng làm cơ sở cho các nghĩa lôgíc, bản thể học và thực hành của cơ sở. Sau đó, Kant tiến hành phân biệt giữa cơ sở quy định “trước” và “sau”; cái đầu là cơ sở bản thể học “đặt cơ sở cho cái tại sao (why) hay cơ sở của tồn tại hay sự trở thành”, trong khi cái sau là cơ sở lôgíc và nhận thức luận “đặt cơ sở cho cái thế này (that) , hay cơ sở nhận thức” (sđd). Sự phân biệt này được Kant sử dụng minh nhiên để phê phán “ngài Wolff trứ danh” vì đã nhập nhằng cơ sở bản thể học và lôgíc, với hàm ý rằng sự nhập nhằng này làm hại toàn bộ hệ thống duy lý của Wolff.
Hẳn không phải quá thổi phồng khi xem công trình triết học về sau của Kant như nỗ lực có hệ thống nhằm suy tưởng thông qua những hàm ý của việc phản bác sự thống nhất cơ sở lôgíc và cơ sở bản thể luận (nói nôm na là, giữa nhận thức và tồn tại) trong khi không từ bỏ khoa học để đi theo huyền học theo cách
https://thuviensach.vn
của Crusius (xem Caygill, 1989, tr. 207-211). Trong PPLTTT, Kant chấp thuận phương pháp của Wolff trong khi vẫn phê phán yêu sách giáo điều của ông rằng sự phân biệt giữa cái khả giác và cái khả niệm chỉ đơn thuần có tính lôgíc chứ không có tính siêu nghiệm (xem PPLTTT B 37 và A 44/B 61). Thay cho sự nhập nhằng của các cơ sở của nhận thức và tồn tại, Kant tách rời chúng để khảo sát những thông số của mối quan hệ thực sự của chúng. Một kết quả của nghiên cứu này là sự phân biệt giữa cơ sở hiện thực và cơ sở lôgíc (vang vọng sự phân biệt giữa cơ sở quy định trước và sau), với cái trước tiếp tục phân chia dựa theo “cơ sở hình thức-hiện thực” hay trực quan về một đối tượng, và “cơ sở chất thể-hiện thực” hay sự hiện hữu của một đối tượng (xem thư gửi Reinhold ngày 12 tháng 5 năm 1789, phác họa bản tính của sự hiểu sai của Eberhard về triết học phê phán, TT, tr. 139). Một kết quả tiếp theo là sự phân biệt giữa cả cơ sở hiện thực lẫn cơ sở lôgíc với cơ sở thực hành. Các cơ sở của hành động không thể bị phụ thuộc vào bất kỳ cơ sở nào của loại trước (cơ sở hiện thực và cơ sở lôgíc), vì nếu thế, chúng hóa ra sẽ định tính chất cho sự tự do của hành động (một phê phán liên tục được viện ra để chống lại Wolff trong thế kỷ XVIII). Do đó, các cơ sở thực hành phải là “các cơ sở của lý tính [vốn] mang lại quy tắc một cách phổ quát cho các hành động, dựa vào các nguyên tắc, không chịu ảnh hưởng của các hoàn cảnh thời gian hay nơi chốn” (SL, § 53).
Các phương diện lý thuyết của nghiên cứu phê phán về cơ sở được Kant giải thích rõ trong sự đối đáp với những phản bác kiểu Leibniz của Eberhard đối với cương lĩnh của PPLTTT. Kant nhận thấy nơi Eberhard một sự nhập nhằng giữa “nguyên tắc lôgíc (mô thức) của nhận thức” rằng “ mọi mệnh đề phải có một cơ sở ” phục tùng “nguyên tắc mâu thuẫn” với “nguyên tắc siêu nghiệm (chất liệu)” rằng “ mọi thứ phải có cơ sở [nguyên nhân] của nó ” phục tùng nguyên tắc lý do đầy đủ (PH, tr. 193-194, tr. 113-114). Sau đó, Kant liên tục nhấn mạnh vào sự tách rời hai nghĩa của cơ sở, giới hạn nghĩa “nguyên nhân” vào cho “các đối tượng của trực quan cảm tính” (PH, tr. 194, tr. 113). Cấp độ của nhận thức và cấp độ của tồn tại được liên kết lại, nhưng theo những cách thức phức hợp hơn nhiều so với việc thừa nhận chúng bởi sự nhập nhằng một cách đơn giản. PPLTTT đã cho thấy kinh nghiệm là không thể có được mà không có “sự hài hòa giữa giác tính và cảm năng trong chừng mực nó làm cho một nhận thức tiên nghiệm về các qui luật phổ quát có thể có được”, nhưng nó không mang lại lý do nào để giải thích tại sao “hai nguồn suối nhận thức hoàn toàn dị loại nhau lại luôn nhất trí
https://thuviensach.vn
đến như thế để làm cho nhận thức thường nghiệm có thể có được” (PH, tr. 250, tr. 159). Hai cách hiểu này về cơ sở tuy nhất trí với nhau, nhưng bản thân các cơ sở cho sự nhất trí ấy không thể được xác định một cách dễ dàng nên chỉ được giả định mà thôi.
Bàn luận về “cơ sở” vẫn tiếp tục sau Kant, và khơi ra một khảo luận rất hay và một sự xét lại có tính lịch sử từ Schopenhauer (1813) về chủ đề này. Trong đó, Schopenhauer chỉ ra rằng vấn đề về cơ sở là một sự khúc xạ của một vấn đề triết học nền tảng liên quan đến mối quan hệ giữa tồn tại và logos. Lập trường này cũng xuyên suốt trong các phản tư của Heidegger về vấn đề cơ sở trong Các Nền tảng Siêu hình học của Lôgíc học (1928), cuốn này đề xuất một sự giải thích cho mối quan hệ giữa cơ sở lôgíc, cơ sở hiện thực và cơ sở thực hành, hay theo cách nói của Heidegger, là lý do, nguyên nhân và ý đồ. Đối với Heidegger, điều này cốt yếu ở mối quan hệ giữa logos và techne , hay giữa “việc chúng ta tồn tại trong thế giới khi tạo ra một tồn tại này từ tồn tại khác” ( techne ) và việc chúng ta tồn tại trong lời nói với nhau ( logos ) (tr. 118).
Đinh Hồng Phúc dịch
Có thể phân chia (tính, sự) [Đức: Teilbarkeit; Anh: divisibility] Xem thêm: Liên tục (tính), Chất liệu, Đơn tử, Không gian, Bản thể
Cùng với tính liên tục, tính có thể phân chia là một mối quan tâm thường trực trong tư tưởng của Kant. Nó đã có mặt trong ĐTLVL và còn được tiếp tục tìm tòi trong nghịch lý thứ hai của quyển PPLTTT và trong SHHT. Nó tạo nên phần then chốt trong lập luận của ông rằng cho dù vật chất trong không gian có thể phân chia một cách vô hạn, nhưng nó không giống như một chuỗi được cấu thành từ một số lượng vô hạn của những bộ phận đơn giản. Kant trình bày tư tưởng này trong mệnh đề thứ ba của ĐTLVL là “Không gian mà vật thể lấp đầy thì có thể phân chia đến vô hạn, vì thế, không gian không gồm những bộ phận sơ thủy và đơn giản” (SHHT tr. 149, tr. 54). Lập luận của ông ở giai đoạn này là: vì lẽ không gian là một quan hệ, nên sự phân chia vô hạn của một quan hệ sẽ không bao giờ đạt đến những bộ phận đơn giản hay những bản thể. Trong phiên bản phê phán, ở nghịch lý thứ hai của quyển PPLTTT, cả trường hợp theo và chống tính có thể phân chia vô hạn của vật chất đều bị phê phán vì đã quên rằng chính các hiện tượng trong không gian và thời gian đã được phân chia rồi. Vì “những cái đa
https://thuviensach.vn
hợp” là những hiện tượng, nên mọi bộ phận được hình dung ra cũng vậy, bởi lẽ “sự phân chia chỉ đạt xa đến mức kinh nghiệm đạt đến” và ta không thể nào thông qua việc phân chia những hiện tượng để đạt đến “một sự hiện hữu có trước kinh nghiệm” (SL §52c). Vì thế, Kant luôn cho rằng sự lựa chọn mà nghịch lý đưa ra giữa số lượng hữu hạn và số lượng vô hạn của những bộ phận đơn tố là kết quả của một “vấn đề bị ngộ nhận” vốn không thừa nhận rằng đối tượng của sự phân chia là một hiện tượng bị giới hạn trong không gian-thời gian. Trong SHHT, ông khuếch đại điểm này bằng cách lập luận rằng vì không gian trực quan là có thể phân chia vô hạn về mặt toán học, nên vật chất trong không gian cũng vậy; do đó mệnh đề “vật chất là có thể phân chia đến vô hạn, và thực tế là thành những bộ phận, mỗi bộ phận lại là vật chất” (SHHT tr. 503, tr. 49) nhấn mạnh luận điểm cho rằng tính có thể phân chia được lặp đi lặp lại vô hạn mà không đạt đến những bộ phận đơn tố, tối hậu được.
Châu Văn Ninh dịch
Có thể truyền thông (thông báo) (tính) [Ðức: Mitteilbarkeit; Anh: communicability]
Xem thêm: Cảm năng học/ Mỹ học, Lương thức/ Cảm quan chung, Cộng đồng, Lịch sử, Sự vui sướng, Sở thích
Tính có thể truyền thông là trung tâm của nhân học và triết học lịch sử của Kant, cũng như trong sự giải thích của ông về phán đoán thẩm mỹ về sở thích. Trong PĐ, ông mô tả “sự thôi thúc phải truyền thông” của con người đầu tiên, được thể hiện bằng các âm thanh có ý muốn “thông báo sự hiện diện của họ đến với những sinh vật bên ngoài mình” (tr. 110, tr. 222). Trong PPNLPĐ (§ 41), ông mô tả mục đích của lịch sử dựa vào sự tinh tế hóa năng lực ấy: “Rồi sau cùng, khi nền văn minh đạt đến đỉnh cao, sự quan tâm này biến công việc thông báo phổ biến hầu như thành công việc chính yếu của một xu hướng ham thích đã được tinh tế hóa; và toàn bộ giá trị của những cảm giác được đánh giá tùy theo mức độ chúng được thông báo phổ biến như thế nào”. Trạng thái truyền thông thuần túy này được báo trước trong hoạt động phản tư của sensus communis (cảm quan chung) hay “cảm quan công cộng” thoát ly khỏi nội dung của một phán đoán, chỉ quan tâm đến tính có thể truyền thông hình thức của nó. Điều này được đặt nền tảng trên, và cũng đặt nền tảng cho, mối quan hệ giữa trí tưởng tượng và giác
https://thuviensach.vn
tính, mà “không cần tới sự trung gian của một khái niệm” (§40), vốn là đặc điểm riêng có của phán đoán thẩm mỹ của sở thích. Kant cũng cho rằng sự quan tâm về tính có thể truyền thông có thể giải thích tại sao các phán đoán về sở thích được cho là bao hàm “một loại nghĩa vụ” nhưng lại không đặt cơ sở trên quy luật luân lý.
Các bình luận của Kant về tính có thể truyền thông ngày càng trở nên quan trọng đối với triết học thế kỷ XX. Các bình luận này xuyên suốt trong các nỗ lực của Arendt và Lyotard áp dụng mô hình phán đoán phản tư của Kant vào chính trị và nghệ thuật, cũng như sự cố gắng của Habermas muốn xác lập một đạo đức học truyền thông dựa trên cơ sở của một lý thuyết truyền thông về hành động (Habermas, 1981). Dựa theo sự luận giải của Kant, họ chỉ ra một kích thước của tính liên chủ thể làm cơ sở cho những nghiên cứu kỹ lưỡng hơn về phán đoán lý thuyết và phán đoán thực hành trong hai cuốn Phê phán đầu [của Kant].
Thánh Pháp dịch
Con cái [Đức: Kinder; Anh: children] → Hôn nhân, Tính dục, Phụ nữ Con số [Đức: Zahl; Anh: number] → Toán học
Công bằng/ Công lý/ Pháp quyền [Đức: Recht; Anh: justice]
Xem thêm: Hôn nhân, Sở hữu, Quyền sở hữu, Hình phạt, Quyền, Xã hội, Nhà nước
Những bàn luận của Kant về pháp quyền trong SHHĐL có thể được phân chia thành dân luật và hình luật: dân luật liên quan đến những mối quan hệ của những cá nhân với nhau; hình luật liên quan đến những mối quan hệ giữa những cá nhân và luật hình sự công cộng. Ông trình bày ba hình thức của luật dân sự, tức luật phòng vệ, luật giao dịch và luật phân phối, xem hai cái đầu bao gồm tư pháp, cái thứ ba bao gồm công pháp. Ông còn xếp luật giao dịch và luật phân phối vào dưới quyền tự nhiên, hay còn gọi là quyền không theo luật định mà mọi người có lý tính đều có thể nhận biết một cách tiên nghiệm; như thế, quyền tự nhiên “không chỉ bao gồm công lý giữa các nhân thân với nhau (iustitia commutative) mà cả công lý phân phối nữa (iustitia distributive) ” (SHHĐL, tr. 297, tr. 113). Hai hình thức đầu của công lý hiện diện trong trạng thái tự nhiên,
https://thuviensach.vn
nhưng hình thức thứ ba chỉ có thể có trong “điều kiện dân sự ” với sự hiện hữu của một tòa án để thực thi công lý phân phối.
Sự phân biệt giữa công lý giao dịch và công lý phân phối được Kant minh họa rất hay qua ví dụ về việc mua một con ngựa. Một quyền được xác lập “theo đúng những thủ tục của hành vi trao đổi (commutatio) giữa chủ sở hữu sự vật và người đang [muốn] thủ đắc nó” (SHHĐL, tr. 301, 116). Nhưng đây chỉ là một quyền giữa những nhân thân ( ius ad personam ), chứ không phải một quyền đối với một sự vật ( irus ad rem ). Do đó, những chủ sở hữu với những quyền nhân thân ưu tiên dựa theo công lý giao dịch có thể lấn lướt và đứng ra tuyên bố một quyền lợi. Điều này dẫn đến tình huống trong đó “không có sự giao dịch nào về những sự vật bên ngoài, cho dù nó có thể nhất trí với những điều kiện hình thức của loại công bằng này ( iustitia commutativa ) như thế nào đi nữa, có thể bảo đảm một sự thủ đắc chắc chắn” (SHHĐL, tr. 302, 117). Trong khi sự thủ đắc không thể được đảm bảo trong một trạng thái tự nhiên, có thể dẫn đến sự không công bằng, thì bên trong trạng thái dân sự, nó có thể được đảm bảo trước một tòa án bằng sự công bằng phân phối. Điều này đạt đến được bằng việc tòa án biến đổi một quyền nhân thân thành một quyền hiện thực: “Cái gì tự thân là một quyền dựa vào một nhân thân, khi được mang ra trước một tòa án , sẽ được xem như một quyền đối với một sự vật” (SHHĐL, tr. 303, 118). Bằng cách này, công bằng phân phối được sử dụng để đảm bảo những yêu sách của công bằng giao dịch đối với sự sở hữu và sự trao đổi.
Quan niệm của Kant về pháp quyền hình sự là sự đáp trả kiên quyết có tính trừng phạt, dựa trên ius talionis [luật đáp trả] hay một “nguyên tắc” tiên nghiệm “về sự bình đẳng” qua đó tòa án áp dụng một hình phạt cho người phạm tội ngang bằng với sự phạm tội của họ. Chẳng hạn, kẻ trộm có thể bị trừng phạt bằng tình trạng khổ sai tạm thời hoặc vĩnh viễn; những kẻ giết người và những tòng phạm của chúng phải chịu hình phạt tử hình, ở đây Kant phản bác thẳng thừng những ý tưởng của Cesare Beccaria (1783-1794) (xem Beccaria, 1764); và Kant cho rằng những kẻ hãm hiếp và những kẻ đồng bóng phải bị hoạn. Ông cũng không khoan nhượng trước lôgíc có tính đáp trả này trong những trường hợp như giết trẻ sơ sinh của người mẹ đối với một đứa trẻ bất hợp pháp: việc sinh ngoài giá thú đặt đứa trẻ “bên ngoài sự bảo vệ của pháp luật” và vì thế luật pháp sẽ “làm ngơ” trước “sự tiêu diệt một đứa trẻ như thế” (SHHĐL, tr. 337, tr. 145).
https://thuviensach.vn
“Tính nhân thân bẩm sinh” của con người đòi hỏi rằng không được đối xử với con người như “những sự vật” chỉ đưa đến việc là hình phạt chỉ dành cho tội ác, chứ không phải như một phương tiện cho mục đích khác nào đó (chẳng hạn, khiến những người khác sợ không làm, hoặc phục hồi [nhân phẩm]). Nó không nói lên quyền trừng phạt của nhà nước, mà đảm bảo rằng hình phạt là có thể tiên liệu và không-thiên lệch. Mặc dù luận cứ về trừng phạt như là sự đáp trả của Kant đã được Hegel phát triển (1821), [nhưng] mãi đến gần đây nó vẫn bị che mờ bởi những nghiên cứu “ngoại trị” nhấn mạnh đến mục đích ngăn chặn và phục hồi [nhân phẩm] qua vai trò của hình phạt. Tuy nhiên, từ thập niên 1980, đã có sự quan tâm trở lại đối với những triết học về hình phạt như là sự đáp trả, nổi bật với phiên bản của Kant.
Kant kết thúc cuốn SHHĐL với một số suy nghĩ về công lý thần linh. Ông lập luận rằng công lý thần linh không được hiểu thông qua những sự tương tự [loại suy] với công lý dân sự hay công lý trừng phạt. Công lý thần linh không thừa nhận những quyền và những bổn phận, nó cũng không có tính trừng phạt; những mối quan hệ như thế chỉ có thể được áp dụng cho những mối quan hệ giữa con người, chứ không phải đối với tính thần linh. Điều này đánh dấu một sự áp dụng thú vị sự ngăn cấm có tính phê phán nói chung về việc mở rộng những mối quan hệ dựa trên tính hữu hạn của con người vào những đối tượng tuyệt đối.
Hoàng Phú Phương dịch
Công chúng/ Công khai (tính) [Đức: Publizität; Anh: public/ publicity] Xem thêm: Khai minh, Hòa bình, Tiên kiến
Trong HBVC, từ các phương diện chất liệu của quyền chính trị và công pháp quốc tế, Kant rút ra “thuộc tính mô thức của tính công khai [Publizität] (HBVC tr. 381, tr. 125), vốn là thuộc tính có thể được diễn đạt, theo “công thức siêu nghiệm” phủ định, như là “Mọi hành động gây tác động đến quyền hạn của người khác là sai nếu châm ngôn của họ không tương hợp với điều họ công bố” (HBVC tr. 381, tr. 126). Bởi lẽ “hạnh phúc” là “mục tiêu phổ quát của công chúng”, nên những châm ngôn về chính trị hướng đến mục đích này buộc phải hài hòa không chỉ với “công thức siêu nghiệm” phủ định mà còn hài hòa với “công thức siêu nghiệm” khẳng định, đó là: “Châm ngôn nào cũng đòi hỏi tính công khai nếu nó không muốn thất bại trong việc mục đích của mình có thể được
https://thuviensach.vn
hòa giải với luật pháp lẫn với chính trị” (HBVC tr. 386, tr. 130). Trong KMLG, sự “tự do để sử dụng công khai lý tính của mỗi người trong mọi vấn đề” là tiền đề của sự khai minh, tức ở chỗ nó đặt mọi tiên kiến một cách công khai trước sự thẩm tra của lý tính, dù đó là một tiên kiến bảo thủ đã hình thành từ lâu hay một tiên kiến cách mạng, mới được hình thành. Cái chung của cả hai hình thức tiên kiến là sự khích lệ của tính thụ động thông qua một quyền uy bị cưỡng chiếm. Các “vệ binh”, bị phê phán trong KMLG, có được quyền uy bằng việc chiếm đoạt quyền tư duy thay cho những người khác, dù đó có là tăng lữ, thầy thuốc, những chính khách, sĩ quan quân đội hay những nhà trí thức. Quyền uy của họ không phục tùng sự thẩm tra công khai của lý tính, mà thay vào đó là làm cho năng lực phán đoán của công chúng mất hiệu lực bằng cách làm cho công chúng thụ động và không đủ năng lực sử dụng một cách tự do lý tính của mình.
Sự kết hợp giữa lý tính, sự truyền thông và sự khai minh được khởi đầu trong HBVC và được phát triển trong PPNLPĐ là một sự khích lệ đáng kể cho sự phát triển của lý luận chính trị trong thế kỷ XX. Arendt đã khảo sát những hàm ý của khái niệm của Kant về tính công khai một cách đầy đủ nhất trong Những nguồn gốc của chủ nghĩa toàn trị (1951) và Thân phận con người (1958), trong khi đó mối quan hệ giữa tính công khai và lý tính truyền thông lại được Habermas (1981) nghiên cứu một cách rộng rãi.
Lê Quang Hồ dịch
Cộng đồng tương tác/ Cộng đồng [Đức: Gemeinschaft; Anh: community]
Xem thêm: Loại suy của kinh nghiệm (các), Phạm trù (các), Nhà thờ, Tính có thể thông báo [truyền thông], Chủ nghĩa công dân thế giới, Nhà nước
Nói chặt chẽ, cộng đồng tương tác là phạm trù thứ ba về tương quan, và giống như mọi phạm trù được rút ra từ một mô thức của phán đoán, trong trường hợp này là từ phán đoán phân đôi. Nó mang lại một niệm thức và một nguyên tắc trong sự loại suy thứ ba. Phán đoán phân đôi là một phán đoán gồm có các mệnh đề loại trừ lẫn nhau nhưng lại bổ sung cho nhau thành một toàn bộ tri thức. Kant trình bày cái toàn bộ như “một cái toàn bộ được chia ra làm nhiều bộ phận (tức các khái niệm nằm trong các phán đoán ấy), và bởi vì một bộ phận này không thể được chứa đựng trong một bộ phận kia, nên chúng đều phải được suy tưởng như
https://thuviensach.vn
phối kết với nhau chứ không phải lệ thuộc vào nhau, khiến chúng không quy định nhau theo kiểu một chiều như trong một chuỗi mà là quy định lẫn nhau theo kiểu qua lại như trong một hỗn hợp (nếu một bộ phận của sự phân chia được thiết định thì mọi bộ phận còn lại đều bị loại trừ và ngược lại)” (PPLTTT B 112). Bằng sự loại suy, ông mở rộng mối tương quan lôgíc này của các khái niệm đến “một cái toàn bộ của mọi sự vật”, khẳng định rằng trong cái sau “ta cần phải suy tưởng một sự nối kết tương tự như vậy”. Đó là vì, tương phản với phạm trù về tính nhân quả, “mỗi sự vật không lệ thuộc vào sự vật khác giống như kết quả bị lệ thuộc vào nguyên nhân cho sự tồn tại của nó, mà là ở bên nhau [phối kết] một cách đồng thời và hỗ tương qua lại như nguyên nhân này quy định nguyên nhân khác” (PPLTTT B 112). Sự phối kết này được đặc trưng bởi những bộ phận đang tồn tại một cách độc lập với nhau “nhưng vẫn được nối kết với nhau trong một cái toàn bộ” (PPLTTT, B 113).
Cũng như với mọi phạm trù, Kant rút ra từ cộng đồng tương tác một niệm thức và một nguyên tắc. Niệm thức làm cho phạm trù trừu tượng phù hợp với những điều kiện của một trực quan hữu hạn; đối với cộng đồng tương tác, điều này dẫn đến “niệm thức của cộng đồng tương tác hay tác động qua lại”, tức là “tính nhân quả qua lại của những bản thể trong quan hệ với những tùy thể, là sự tồn tại đồng thời của những quy định trong một cái này với những quy định trong những cái khác theo một quy luật chung” (PPLTTT, A 144/B 183). Nguyên tắc, như đã được trình bày trong loại suy thứ ba của kinh nghiệm, cho rằng các bản thể được tri giác là cùng tồn tại trong không gian đều “nằm trong cộng đồng tương tác toàn diện, đó là, trong sự tương tác lẫn nhau” (PPLTTT, A 211), hay “nằm trong sự tương tác toàn diện với nhau” (PPLTTT, B 256). Đây là một nguyên tắc không thể được rút ra một cách thường nghiệm từ sự hiện hữu đơn thuần của nhiều đối tượng khác nhau – sự cùng-tồn tại của chúng phải được giả định một cách tiên nghiệm và không thể “trở thành một đối tượng cho một tri giác khả hữu” (PPLTTT, A 212/B 258).
Khi bàn về loại suy thứ ba, Kant chỉ ra một sự “mơ hồ nước đôi” trong chữ Gemeinschaft [cộng đồng tương tác] mà ông đã giải quyết bằng cách đưa ra một sự phân biệt giữa communio và commercium trong tiếng Latinh . Ông định nghĩa phạm trù cộng đồng tương tác theo cái sau, “như là một cộng đồng năng động, nếu không có ý niệm đó thì sự chung đụng về không gian (communio spatii)
https://thuviensach.vn
không bao giờ có thể được nhận thức một cách thường nghiệm” (PPLTTT A 213/B 260). Nếu không có ảnh hưởng năng động tương hỗ của những bản thể trong commercium thì hẳn sẽ không thể có mối quan hệ thường nghiệm của sự cùng-tồn tại hay communio nào hết .
Sự phân biệt sau tạo ra sự quan tâm đối với những quan niệm của Kant về cộng đồng xã hội và cộng đồng chính trị. Cách hiểu của Kant về cộng đồng chính trị được định hướng chính yếu đến commercium [cộng đồng hiện thực] chứ không phải là communio [cộng đồng] . Thuật ngữ communion, vốn được rút ra từ chữ Latinh biểu thị một sự gia cố thêm, xem xét cộng đồng tương tác dựa vào một sự chia sẻ chung không gian riêng biệt được bảo vệ khỏi cái bên ngoài, trong khi cái trước [tức commercium] phái sinh từ quá trình trao đổi và truyền thông. Vì thế, khi Kant mô tả cộng đồng xã hội hay cộng đồng chính trị thì thường dựa vào sự trao đổi tự do và sự tôn trọng giữa các cá nhân chứ không phải dựa vào các đặc tính hay không gian được chia sẻ chung. Rõ ràng ông ưa chuộng thuật ngữ Gesellschaft (xã hội) hoặc Reich (vương quốc) hơn là Gemeinschaft (cộng đồng tương tác), thực vậy, ông rất hiếm khi sử dụng thuật ngữ sau, mặc dù đôi khi ông cũng sử dụng thuật ngữ Gemeinwesen (khối cộng đồng). Tuy nhiên, quan niệm của Kant về cộng đồng xã hội và cộng đồng chính trị là gần gũi trong suy nghĩ của ông với phạm trù cộng đồng tương tác, nhấn mạnh sự phối kết và cùng tồn tại của những lợi ích riêng biệt có đi có lại, dù đối lập với nhau nhưng cùng mở rộng đến một cái toàn bộ. Mô hình này được mở rộng từ các mối quan hệ giữa các cá nhân, đến mối quan hệ giữa những nhóm xã hội và sau cùng là đến mối quan hệ giữa những nhà nước với nhau (Xem TG tập 3, Division L, PPNLPĐ §83; HBVC tr. 367, tr. 113).
Cù Ngọc Phương dịch
Công lý [Đức: Recht; Anh: justice] → Công bằng
Cuộc cách mạng Copernicus [Đức: Kopernikanische Revolution; Anh: Copernican revolution]
Cuộc “ cách mạng ” được Nicolaus Copernicus mô tả trong phần Dẫn nhập cho quyển De revoluionibus orbium coelestium ( Về những chuyển động tròn của các thiên thể ) (1543) của ông như là “ giả thuyết” “bắt trái đất chuyển động và đem một mặt trời bất động đặt vào trung tâm vũ trụ” . Giả thuyết này đã nỗ lực
https://thuviensach.vn
giải thích các hiện tượng chuyển động của hành tinh bằng việc thay thế khung lý thuyết địa tâm của Ptolemy bằng khung lý thuyết nhật tâm trong khi vẫn giữ lại cơ chế chuyển động theo thuyết Ptolemy về các vòng ngoại luân (epicycles) và sự chuyển động tròn của thiên thể. Trong “Lời tựa” cho ấn bản lần 2 của cuốn PPLTTT, Kant đã mô tả triết học phê phán của ông được tiến hành theo đường lối của “giả thuyết sơ khởi của Copernicus”. Trong khi trước đây, siêu hình học vẫn cho rằng “ nhận thức của ta phải phù hợp với những đối tượng ”, thì bây giờ “ chúng ta hãy thử làm ngược lại ” và “ giả định rằng những đối tượng phải phù hợp với nhận thức của chúng ta” (PPLTTT B 16) . Vì vậy, Copernicus “ thấy không thể đi xa hơn được trong việc giải thích các vận động của bầu trời nếu giả định rằng toàn bộ đội ngũ những thiên thể quay xung quanh người quan sát, nên đã thử xem có thể thành công hơn không khi ông cho người quan sát quay xung quanh, còn ngược lại, để cho các thiên thể đứng yên ” (sđd) . Nhưng trong khi cuộc cách mạng của Copernicus dựa trên một giả thuyết mà chỉ sau này mới được xác nhận bởi Kepler , “ người đã tìm ra một cách thức đáng ngạc nhiên để quy những quỹ đạo không tròn (hình elip) của các hành tinh thành những định luật xác định ”, và bởi Newton , “ người đã giải thích những định luật này bằng một nguyên nhân tự nhiên phổ quát (LSPQ tr. 18, tr. 42) thì Kant khẳng quyết rằng cuốn PPLTTT của ông sẽ còn đi xa hơn Copernicus bằng việc chứng minh “ một cách hiển nhiên chứ không có tính giả thuyết nữa, xuất phát từ bản tính của biểu tượng của ta về không gian và thời gian và từ những khái niệm cơ bản của giác tính” (PPLTTT B 23) rằng các đối tượng [phải] phù hợp với nhận thức, chứ không phải nhận thức [phải] phù hợp với các đối tượng.
Trần Kỳ Đồng dịch
https://thuviensach.vn
D
Dễ chịu (sự) [Đức: Angenehm; Anh: agreeable]
Xem thêm : Cảm năng học/ Mỹ học, Kích động (sự), Đẹp, Hài lòng (sự), Tình cảm, Vui sướng (sự), Sở thích
Là một trong các thuật ngữ trong triết học mỹ học và triết học thực hành của Kant, “cái dễ chịu” được dùng để mô tả tình cảm về sự vui sướng. Nó xuất hiện như một thuật ngữ trong sự đối lập lịch sử mà Kant nhắc lại để xác định lập trường riêng của mình. Ông liên hệ nó với các trước tác của trường phái “cảm quan luân lý” của Anh mà ông đối lập với trường phái thuần lý-hoàn hảo chủ nghĩa của Đức của Christian Wolff và những người theo Wollf. Trong CSSĐ, tình cảm về cái dễ chịu “tác động đến ý chí chỉ bằng cảm giác” một cách chủ quan (CSSĐ, tr. 413, tr. 24) và được đặt đối lập với sự quy định thuần lý của ý chí do những người theo thuyết Wolff đề ra. Kant đặt mình vào giữa hai lập luận ấy bằng cách khai triển khái niệm về một mệnh lệnh vừa có đặc tính chủ quan lẫn khách quan.
Một hình thức lập luận tương tự được theo đuổi trong PPNLPĐ §3-7, ở đây sự đối lập giữa cái dễ chịu (lý thuyết của Anh về “sở thích”) và cái thiện (lý thuyết “mỹ học” Đức) được dùng để tô đậm cho lập trường thứ ba của riêng Kant. Cái dễ chịu, cái thiện và cái đẹp đều là các “giống” của “loài” là “sự hài lòng”; mỗi cái là một “sự biến thái của tình cảm vui sướng hoặc không-vui sướng” cũng như là một quan hệ của một biểu tượng với đối tượng của nó (PPNLPĐ §3). Nhưng sự hài lòng nơi cái dễ chịu cốt yếu ở “cái gì làm hài lòng các giác quan trong cảm giác” (§3) hay ở tình cảm về sự vui sướng được khơi gợi bởi sự hiện diện của một đối tượng của cảm giác. Ngược lại, cái thiện bao hàm sự hiện diện của một khái niệm của giác tính. Quan niệm của Kant về bản tính của sự hài lòng trong cái đẹp được định nghĩa một cách phủ định đối lập lại sự đối lập này, nghĩa là như cái gì vừa không phải cảm tính vừa không thuần lý, không đòi hỏi sự hiện diện của cả đối tượng lẫn khái niệm.
Để khai thác đầy đủ sự tương phản giữa cái dễ chịu và cái thiện, Kant phóng đại những đặc tính không hay của cái trước. Nó không cần đến quan năng phán đoán và làm vừa lòng quan năng ham muốn, và nó đưa ra sự hài lòng chỉ như sự
https://thuviensach.vn
thích khoái đơn thuần “mang tính sinh lý có điều kiện (thông qua sự kích thích)” (§5). Thậm chí tệ hơn, nó là nhân tố có ý nghĩa cả “cho mọi sinh vật không có lý tính”, một “tình cảm riêng tư”, về bản chất là không có tính xã hội. Hình thức lập luận này được dùng như là một ví dụ về những tác động xấu lên sự phân tích triết học về tư duy dựa vào những sự đối lập lưỡng phân (dichotomies). Thực tế, một số tác giả xem phương thức tiến hành của Kant là sự đồng lõa với một loạt những công thức lưỡng phân được thừa hưởng từ quá khứ và vốn là đặc trưng cho triết học Tây phương, trong số đó là sự lưỡng phân dành đặc quyền cho lý tính hơn là thể xác, giống đực cao hơn giống cái, Âu châu cao hơn không-phải-Âu-châu. Tuy nhiên, phương thức của Kant có thể được biện hộ như sự phát hiện ra cách nói khác về các công thức triết học bằng cách nhắc lại những sự đối lập đã được thừa nhận trên bình diện văn hóa.
Hoàng Phong Tuấn dịch
Dị biệt/ Khác biệt [Đức: Unterschied; Anh: difference] → Khái niệm phản tư (các), Đồng nhất
Dị tính/ Dị loại [Đức: Heterogenität/Ungleichartigkeit; Anh: heterogeneity] → Đồng tính/Đồng loại
Dị trị/ Ngoại trị [Đức: Heteronomie; Anh: heteronomy] → Ngoại trị/ Dị trị
Diễn dịch [Latinh: deductio; Đức: Deduktion; Anh: deduction]
Xem thêm: Thông giác, Phạm trù, Nối kết (sự), Khái niệm, Sự kiện, Tưởng tượng, Quy nạp, Trực quan, Sở hữu, Không gian, Tổng hợp, Thời gian, Giác tính
Trong mỗi Phân tích pháp của ba quyển Phê phán, Kant đều đưa ra một sự diễn dịch: trong PPLTTT, là diễn dịch những khái niệm thuần túy của giác tính; trong PPLTTH, diễn dịch những nguyên tắc của lý tính thuần túy thực hành; và trong PPNLPĐ, diễn dịch tính chính đáng của những phán đoán thuần túy thẩm mỹ về sở thích. Không giống như Descartes, Kant không dùng sự diễn dịch theo nghĩa hình học để nói lên “bất kỳ cái gì được suy ra một cách tất yếu từ những sự vật khác vốn đã được nhận biết với sự chắc chắn” (Descartes, 1968, p.8). Ngược
https://thuviensach.vn
lại, sự sử dụng của Kant được rút ra từ thực tiễn hoạt động của những luật gia của Đế chế là những người “khi bàn về thẩm quyền và yêu sách, phân biệt trong hành động pháp luật vấn đề về thẩm quyền (hợp pháp luật) ( quid juris ) với vấn đề về sự kiện thực tế (vấn đề có thật và đang tồn tại) ( quid facti ); và họ đòi hỏi cả hai phải được chứng minh. Bằng chứng của vấn đề thứ nhất là phải khẳng định quyền hay yêu sách pháp luật, họ gọi đó là sự diễn dịch ” (PPLTTT A 84/B 116). Sự diễn dịch triết học trong mỗi quyển phê phán đều đòi hỏi phải biện minh sự sở hữu và/ hoặc sự sử dụng những khái niệm thuần túy lý thuyết của giác tính, những nguyên tắc thực hành của lý tính thuần túy thực hành và những phán đoán thẩm mỹ về sở thích.
Kant mô tả một cách nhất quán sự “diễn dịch về các phạm trù” trong PPLTTT như là một “vấn đề cực kỳ khó khăn” và cũng là một vấn đề trước nay chưa được ai thử làm” (PPLTTT A 98). Trong PPLTTT, Kant đã đảm nhận [vấn đề này] để biện minh “làm thế nào [mà] những khái niệm này [những khái niệm thuần túy của giác tính = những phạm trù] có thể quan hệ với những đối tượng trong khi những khái niệm ấy không được rút ra từ bất kỳ kinh nghiệm nào” (A 85/B 117). Kant phân biệt hình thức này của sự diễn dịch siêu nghiệm , tức cái tìm cách xác lập tính hợp pháp của những khái niệm như vậy, với một sự diễn dịch thường nghiệm , tức là sự đi tìm những nguồn gốc của chúng ở trong kinh nghiệm.
Trong SL và ấn bản lần hai của quyển PPLTTT, Kant đã quy cách thức tiến hành diễn dịch thường nghiệm cho Locke và Hume (SL tr. 260, tr. 6, PPLTTT B127) và đã đối lập nó với sự diễn dịch siêu nghiệm của chính mình, và để nhấn mạnh điểm này, một lần nữa Kant mô tả công việc này như “một nhiệm vụ khó khăn nhất phải đảm nhận để phụng sự siêu hình học” (SL tr. 260, tr. 6). Sự diễn dịch của Locke và Hume là một “sự phái sinh tự nhiên học”, không liên quan với sự hợp pháp ( quid juris ) mà chỉ liên quan đến sự kiện thực tế ( quid facti ) của việc sở hữu những khái niệm.
Cách thức tiến hành của Kant về diễn dịch siêu nghiệm có nhiều giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên, Kant xác lập tính hợp pháp [tính chính đáng] của những mô thức của trực quan (không gian và thời gian). Vì lẽ các đối tượng chỉ có thể xuất hiện ra cho ta “nhờ vào các mô thức thuần túy như thế của cảm năng”, nên không gian và thời gian là “các trực quan thuần túy” hợp pháp “chứa đựng một cách tiên
https://thuviensach.vn
nghiệm các điều kiện cho khả thể của những đối tượng như là những hiện tượng” (PPLTTT A 89/B 121). Từ đây Kant tiếp tục đặt câu hỏi phải chăng “cũng có các khái niệm đi trước một cách tiên nghiệm như là các điều kiện [cũng có sẵn trong tâm thức] chính nhờ đó mà một cái gì - dù không được trực quan - vẫn được suy tưởng như một đối tượng nói chung, và nếu quả như vậy thì mọi nhận thức thường nghiệm về những đối tượng cũng phải phù hợp một cách tất yếu với các khái niệm này bởi, nếu không có tiền đề này, không có gì có thể trở thành đối tượng của kinh nghiệm được cả” (PPLTTT A 93/B 126). Sự diễn dịch về các phạm trù sẽ được hoàn tất nếu có thể chứng minh rằng “chỉ nhờ chúng, một đối tượng mới có thể được suy tưởng” (PPLTTT A 97). Số lượng và tính cách của những phạm trù đã được xác lập trong một sự diễn dịch siêu hình học từ những hình thức của phán đoán (xem PPLTTT A 70/B 95ff).
Trong SL và Lời nói đầu cho ấn bản lần thứ hai của PPLTTT, Kant biểu lộ sự không hài lòng của mình với Chương hai của Phân tích pháp về diễn dịch siêu nghiệm, và đã viết lại chương này cho lần tái bản vào năm 1787. Vì lẽ có nhiều sự khác nhau giữa hai ấn bản [nên] đã dẫn đến việc chúng được mô tả, với vài sự cường điệu, như sự diễn dịch “chủ quan” và “khách quan”. Chìa khóa cho cả hai sự diễn dịch là ở chỗ “mọi hiện tượng ở trong kinh nghiệm không những phải phục tùng các điều kiện của sự thống nhất tất yếu của thông giác giống như trong trực quan đơn thuần chúng cũng phải phục tùng các điều kiện mô thức của không gian và thời gian” (PPLTTT A 110). Sự thống nhất của thông giác mang lại “trật tự và tính hợp quy luật trong những hiện tượng” (A 125) hoàn thành “sự thống nhất mang tính tổng hợp của tất cả những hiện tượng dựa theo những mô thức của những phạm trù. Trong ấn bản năm 1781, sự diễn dịch, sự nghiên cứu về tính thống nhất của thông giác được diễn tả bằng những hoạt động tổng hợp (sự lĩnh hội, sự tái tạo, sự tổng hợp) của một chủ thể hữu hạn mà tất cả những biểu tượng của nó đều “phục tùng điều kiện mô thức của giác quan bên trong, tức phục tùng thời gian” (A 99). Ấn bản này nhấn mạnh công việc của “trí tưởng tượng tác tạo” khi quan hệ với “sự thống nhất của thông giác” cấu tạo nên giác tính, với những phạm trù của nó hay “những phương cách thuần túy một cách tiên nghiệm ”.
Nghiên cứu về diễn dịch siêu nghiệm trong lần xuất bản thứ hai khác biệt với ấn bản lần thứ nhất ở đặc tính được gán cho sự thống nhất của thông giác: bây giờ nó được “tuyên bố là khách quan , và... được phân biệt với sự thống nhất
https://thuviensach.vn
chủ quan của ý thức, vốn là một sự quy định của giác quan bên trong ” (PPLTTT B 139). Điều này dẫn đến một sự nhấn mạnh hơn vào sự nối kết và việc giảm nhẹ sự tổng hợp chủ quan, nhưng kết luận toàn thể vẫn không thay đổi: “ những quy luật của những hiện tượng trong tự nhiên phải phù hợp một cách tiên nghiệm với giác tính và với mô thức tiên nghiệm của giác tính – tức với quan năng của giác tính nối kết cái đa tạp nói chung” (B 164).
Tuy nhiên, việc biểu lộ một sự ưu ái đối với ấn bản này hay ấn bản kia của các sự diễn dịch như đã nói trên dần trở thành một tiêu ngữ trong những nghiên cứu về triết học Kant, trong đó Heidegger và truyền thống lục địa ưu ái ấn bản lần thứ nhất, còn truyền thống Anh-Mỹ (Anglo-American) thiên về Descartes nhiều hơn lại chọn lấy ấn bản lần thứ hai.
Những diễn dịch của Kant trong quyển phê phán thứ hai và thứ ba còn xa mới có tính tỉ mỉ như diễn dịch siêu nghiệm của quyển phê phán đầu tiên. Trong quyển phê phán thứ hai, Kant tuyên bố rằng “tính thực tại khách quan của quy luật luân lý” không thể nào được chứng minh bằng bất kỳ một sự diễn dịch nào, tuy thế nó vẫn được xác lập (một cách vững chắc) tự bản thân mình như một nguyên tắc của sự diễn dịch về một quan năng không thể dò tìm vì không kinh nghiệm nào có thể chứng minh được” (PPLTTH tr. 47, 48).
Đó là “sự tự do như là một tính nhân quả của lý tính thuần túy”, và sự diễn dịch nó thông qua quy luật luân lý bù đắp sự thiếu hụt trong các Ý niệm vũ trụ học của quyển phê phán thứ nhất, mà Kant từng tuyên bố ắt là không chịu phục tùng một “sự diễn dịch khách quan” nào (PPLTTT A 336/B 393). Sự diễn dịch trong quyển thứ ba cũng đặc biệt ở chỗ, đối tượng của diễn dịch là một hình thức của phán đoán. Ở đây, sự diễn dịch cốt yếu là hợp pháp hóa những yêu sách của phán đoán thẩm mỹ về sở thích để chúng có hiệu lực phổ quát và tất yếu, cho dầu nó là một phán đoán chủ quan. Kant đề xuất một số cơ sở cho tính hiệu lực này, bắt đầu từ một “thông báo phổ biến” đã được định đề hóa đến sự “hài hòa lẫn nhau giữa trí tưởng tượng và giác tính” cho tới một “cơ sở siêu cảm tính”.
Trần Kỳ Đồng dịch
Diễn dịch siêu hình học [Đức: metaphysische Deduktion; Anh: metaphysical deduction] → Diễn dịch
https://thuviensach.vn