🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Trinh Quán Chính Yếu - Phép Trị Nước Của Đường Thái Tông
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
TRINH QUÁN CHÍNH YẾU
Phép Trị Nước Của Đường Thái Tông —★—
Tác giả: Ngô Hách
Người dịch: Tiến Thành
Văn Lang phát hành
Nhà xuất bản Lao Động 2012
ebook©★★★ vctvegroup
31-03-2019
https://thuviensach.vn
LỜI NÓI ĐẦU
“Trinh Quán” là niên hiệu của Đường Thái Tông Lý Thế Dân (598−649). Lý Thế Dân sinh ra vào cuối thời kỳ thống trị của Tùy Văn Đế, lớn lên tận mắt chứng kiến toàn bộ quá trình nhà Tùy từ thịnh đến suy, cuối cùng bị diệt vong, đồng thời đích thân cùng với cha là Lý Uyên tham gia các hoạt động dẹp loạn, gây dựng nhà Đường. Lịch sử rối ren cuối Tùy đầu Đường đă để lại ấn tượng sâu sắc trong ông. Bởi vậy sau khi lên ngôi hoàng đế, ông đã chú ý tổng kết và đúc rút các bài học kinh nghiệm trị nước của các đời vua trước, nhìn thẳng vào hiện thực xã hội, lập ra hàng loạt chính sách có lợi cho sự thống nhất nước nhà, đoàn kết dân tộc, phát triển sản xuất và tiến bộ xã hội, từ đó điều hòa hữu hiệu mâu thuẫn giữa các giai cấp, dân tộc cũng như nội bộ tập đoàn thống trị, dần tạo nên một cục diện thái bình thịnh trị.
Theo sử sách ghi lại, thời kỳ Trinh Quán là thời kỳ thanh bình, quan lại thanh liêm, hình phạt không hà khắc, dân phong thuần phác. Khi Đường Thái Tông lên ngôi trong tình trạng rối ren cuối nhà Tùy, dân số thưa thớt, kinh tế tiêu điều, trăm họ ăn không đủ no, mặc không đủ ấm. Trước tình trạng đó, vua tôi Đường Thái Tông đã một mặt tích cực áp dụng mọi biện pháp làm trong sạch bộ máy thống trị, mặt khác tiết kiệm, đồng cam cộng khổ cùng nhân dân. Nhiều năm sau, kinh tế dần phát triển, nông nghiệp liên tục được mùa, xã hội ổn định, dân phong thuần phác, thậm chí đi đường gặp của rơi không nhặt, đêm ngủ không cần đóng cửa. Năm Trinh Quán thứ tư, cả nước chỉ có 29 người bị xử tử hình. Năm Trinh Quán thứ sáu, Đường Thái Tông cho phép 390 tử tù về từ biệt người nhà, mùa thu năm sau trở lại “thọ hình”.
https://thuviensach.vn
Đến hạn mà không một tội phạm nào bỏ trốn, đây là một kỳ tích vô tiền khoáng hậu trong lịch sử Trung Quốc.
Có thể nói, “Trinh Quán chi trị” là nét son rực rỡ nhất, chói lọi nhất trong lịch sử phong kiến Trung Quốc hơn hai nghìn năm. Vậy thì Đường Thái Tông Lý Thế Dân cùng quần thần đã thực hiện “Trinh Quán chi trị” như thế nào? Các nhà chính trị và sử học từ đầu nhà Đường trở đi đã nỗ lực tìm câu trả lời. Người đầu tiên coi trọng vấn đề này và cung cấp cho hậu thế sử liệu đầy đủ và tư tưởng nghiên cứu cơ bản là Ngô Hách thời Đường qua bộ “Trinh Quán chính yếu”.
Ngô Hách (670 − 749) là một nhà sử học, sinh ra vào thời Đường Cao Tông, người Tuấn Nghi, Biện Châu (nay là Khai Phong, Hà Nam). Từ nhỏ ông đã hiếu học, rất thích nghiên cứu sử sách, điều này đã đặt nền tảng vững chắc cho nghề viết sử của ông sau này.
Cách viết sử của Ngô Hách trọng “giản hạch” (đơn giản mà trúng trọng tâm), được gọi là “lương sử” (sử tốt). Đồng thời ông cũng coi trọng nguyên tắc viết “thẳng thắn không kỵ húy”, được người đương thời đánh giá rất cao.
“Trinh Quán chính yếu” là một bộ sử được viết theo chuyên đề, chủ yếu ghi lại lời bàn luận chính trị của vua tôi Đường Thái Tông. Bộ sách này được các nhà nghiên cứu Nhật Bản đánh giá cao hơn bộ “Tam quốc diễn nghĩa” về tư tưởng chính trị.
https://thuviensach.vn
TRINH QUÁN CHÍNH YẾU − QUYỂN 1 −
https://thuviensach.vn
ĐẠO LÀM VUA
Năm Trinh Quán thứ nhất, Đường Thái Tông bảo các đại thần thị tòng:
− Phép làm vua là phải bảo tồn dân trước nhất, nếu hại dân để nuôi mình thì giống như cắt thịt đùi mình lèn bụng, bụng tuy no đầy nhưng người sẽ chết. Nếu muốn yên thiên hạ thì trước nhất bản thân phải có hành vi đúng đắn. Chẳng bao giờ có chuyện thân ngay mà bóng cong, trên trị vì tốt mà dưới hỗn loạn. Ta thường nghĩ, cái làm tổn thương bản thân ta không xuất phát từ vật ngoài thân, mà phần lớn là tai họa do các sở thích và ham muốn gây nên. Nếu quá yêu thích của ngon vật lạ, chìm đắm trong tửu sắc thì ham muốn nhiều ắt cũng tổn thương lớn. Điều này vừa có hại đến việc trị nước, vừa phiền nhiễu dân. Huống chi lại nói ra những điều trái đạo lý thì sẽ khiến lòng dân ly tán, oán hận sản sinh, việc phản nghịch cũng xuất hiện. Cứ nghĩ đến những điều này ta lại không dám buông thả ham muốn để theo đòi hưởng lạc. Quan Gián nghị đại phu Ngụy Trưng đáp lời:
− Bậc minh quân thời xưa phần lớn biết tu dưỡng bản thân nên có thể trông xa thấy rộng. Xưa nước Sở tuyển dụng Chiêm Hà, hỏi ông đạo trị nước. Chiêm Hà dùng phương pháp chú trọng tu dưỡng phẩm đức bản thân để trả lời. Vua Sở lại hỏi hiệu quả trị nước ra sao? Chiêm Hà đáp: “Chưa từng nghe nói phẩm hạnh bản thân đứng đắn mà nước nhà vẫn rối ren”. Điều bệ hạ hiểu quả thực phù hợp với đạo lý cổ xưa.
✽✽✽
Năm Trinh Quán thứ hai, Đường Thái Tông hỏi Ngụy Trưng:
https://thuviensach.vn
− Thế nào là minh quân và hôn quân?
Ngụy Trưng đáp:
− Vua thánh minh là vì biết lắng nghe những ý kiến khác nhau; vua ngu tối là bởi chỉ biết nghe và tin lời một phía. “Kinh thi” nói: “Tiên nhân hữu ngôn, tuần vu sô nghiêu” (Người xưa có câu rằng, hãy hỏi ý kiến của kẻ cắt cỏ và đốn củi). Xưa ông Nghiêu, ông Thuấn mở rộng cửa ngõ bốn phương để thu nạp những người hiền đức trong thiên hạ; mở rộng tai mắt để hiểu tình hình các nơi, lắng nghe các ý kiến khác nhau. Vì thế minh quân không việc gì không biết, cho nên loại người như Cộng Cung, Cổn không thể bịt mắt được minh quân; lời xu nịnh và gian kế của lũ tiểu nhân gian tà cũng không thể mê hoặc được minh quân. Tần Nhị Thế thì không như vậy, sống trong thâm cung, xa lánh triều thần, xa rời dân chúng, chỉ tin lời Triệu Cao, đến khi thiên hạ băng hoại, dân chúng phản loạn cũng không biết. Lương Võ Đế chỉ tin lời Chu Dị, trọng dụng Hầu Cảnh. Hầu Cảnh dẫn phản quân đánh kinh thành mà Lương Võ Đế vẫn không hay biết. Tùy Dạng Đế chỉ tin lời Ngu Thế Cơ, quân khởi nghĩa các lộ đánh lấy thành trì, cướp lấy hương ấp mà vẫn không hay biết. Bởi thế, vua mà biết lắng nghe rộng rãi các ý kiến khác nhau, tiếp thu kiến nghị của bề tôi thì đại thần dù quyền thế cao đến mấy cũng không thể che giấu tình hình bên dưới, bịt mắt vua, mà tiếng kêu của bá tánh ắt có thể thấu tới tai vua.
Thái Tông rất tán thành ý kiến của Ngụy Trưng.
✽✽✽
Năm Trinh Quán thứ mười, Đường Thái Tông hỏi thị thần: − Sự nghiệp của đế vương, gây dựng và giữ gìn, việc nào khó hơn?
Thượng thư tả bộc xạ Phòng Huyền Linh đáp:
− Khi thiên hạ đại loạn, anh hùng các lộ tranh nhau dấy binh, ai bị công phá mới chịu hàng phục, ai bị đánh bại mới chịu tuân thủ, cho
https://thuviensach.vn
nên dựng nghiệp khó.
Ngụy Trưng đáp:
− Đế vương khởi binh ắt nắm được lúc thế đạo suy bại rối ren, tiêu diệt những kẻ cuồng loạn, bá tánh sẽ yêu mến, người trong thiên hạ đều quy thuận; trên có trời trao mệnh, dưới có dân đi theo, cho nên dựng nghiệp không coi là khó. Nhưng khi đã lấy được thiên hạ, lại chí thú vào việc xa xỉ dâm dật. Dân chúng mong muốn được nghỉ ngơi, nhưng các loại phục dịch không dứt; bá tánh đã cùng khốn mệt mỏi, mà việc xa xỉ lại không nguôi một khắc; sự suy bại thường nảy sinh từ đây. Từ đó mà luận thì giữ gìn công nghiệp đã gây dựng được còn khó khăn hơn.
Thái Tông nói:
− Huyền Linh trước kia theo trẫm bình định thiên hạ, nếm đủ mọi gian nan khốn khổ, ra vào cõi chết, may mắn được một con đường sống nên thấy được cái gian nan của quá trình dựng nghiệp. Ngụy Trưng và trẫm cùng an định thiên hạ, lo lắng việc nảy sinh mầm mống kiêu xa dâm dật, ắt sẽ trở lại cảnh nguy vong, cho nên thấy được nỗi gian nan của việc giữ gìn cơ nghiệp. Nay cái gian nan trong dựng nghiệp đã qua đi, còn việc khó khăn là giữ gìn cơ nghiệp, trẫm phải cùng các khanh suy nghĩ cẩn thận.
Năm Trinh Quán thứ 11, Đặc tiến Ngụy Trưng dâng lên Đường Thái Tông một bản tấu chương rằng:
− Theo thần thấy, từ xưa tới nay, các bậc quân chủ nhận được Hà đồ mà đón lấy vận trời, kế thừa đại nghiệp, giữ vững lễ nhạc, bảo vệ pháp lệnh, sử dụng nhân tài, ở ngôi vua mà trị vì thiên hạ đều mong muốn đức tốt của mình sánh ngang với trời đất, sự cao minh của mình tỏa sáng cùng nhật nguyệt; gốc vững thì chống đỡ được lâu dài, truyền ngôi không bao giờ dứt. Vậy nhưng, người làm tốt đến bước cuối cùng rất ít, còn kẻ thất bại và diệt vong lại liên tiếp, nguyên nhân bởi đâu? Tìm hiểu nguyên nhân, là bởi không tuân theo quy luật. Bài học mất nước của đời trước không xa, có thể dùng để chứng minh.
https://thuviensach.vn
Triều Tùy ngày trước thống nhất thiên hạ, quân đội lớn mạnh, trong hơn 30 năm, uy danh vang xa muôn dặm, chấn động các nước khác. Một khi vứt bỏ nó đi thì sẽ có người khác sở hữu. Vậy thì lẽ nào Tùy Dạng Đế ghét thiên hạ được thái bình, bá tánh được an ninh, mà không muốn cơ nghiệp lâu dài, cố tình thực hiện nền chính trị tàn bạo của vua Hạ Kiệt để rước lấy diệt vong cho minh hay sao? Ông ta ỷ vào sự giàu có lớn mạnh mà không nghĩ đến hậu hoạn. Bắt dân chúng thuận theo ham muốn xa hoa của mình, tiêu hết của cải của thiên hạ để mình hưởng lạc, gom tuyển gái đẹp trong thiên hạ, tìm kiếm vật quý ở phương xa. Cung thất sân vườn trang trí hoa lệ, lâu đài đình tạ xây dựng nguy nga, chinh phạt phục dịch không có thời hạn, dùng binh đánh trận không hề ngừng nghỉ. Bề ngoài thể hiện được sự uy nghiêm, nhưng trong lòng đầy cay độc và nghi kỵ. Kẻ nào dâng hiến cho ông ta hưởng lạc sẽ được ban phúc lộc, người trung thành chính trực lại không giữ được tính mạng. Trên dưới che giấu nhau, lễ nghĩa vua tôi trái ngược nhau, dân chúng không thể chịu nổi nền chính trị tàn bạo này, quốc thổ phân tranh. Thế nên là một hoàng đế được cả nước tôn sùng, lại chết trong tay kẻ tầm thường, con cháu bị tuyệt diệt, bị người trong thiên hạ chê cười, có thể không đau lòng sao?
Người có tài năng phi phàm thì thuận theo thời cơ, cứu nước nhà nguy vong và bá tánh trong nước sôi lửa bỏng. Nước nhà nghiêng ngả lại được uốn nắn, quy phạm đạo đức lỏng lẻo lại được chỉnh đốn, người phương xa đến triều bái, người ở gần an cư lạc nghiệp, tiêu diệt kẻ ác, cũng không cần đến trăm năm. Bây giờ cung điện lầu các, lâu đài đình tạ của triều Tùy đã bị chiếm hết; châu báu quý lạ đều bị thu giữ; mỹ nữ trong cung đều hầu hạ bên cạnh vua. Cả nước đều là bề tôi và nô bộc của vua, nêu biết xem gương bài học thất bại của triều Tùy thì hãy thường xuyên nghĩ xem mình lấy được thiên hạ bằng cách nào, cho nên ngày một cẩn thận, tuy có đức tốt mà không tự thị, thiêu cháy áo quý ở Lộc Đài, đốt trụi cung điện rộng rãi ở A Phòng, nhìn thấy nhân tố nguy vong từ trên cao, nghĩ đến sự an toàn khi ở dưới thấp,
https://thuviensach.vn
vậy thì sự tu dưỡng tinh thần của bản thân sẽ có tác dụng giáo dục thầm lặng đối với trăm họ, tư tưởng cũng ngầm tương thông với dân chúng, từ đó đạt đến tầm “vô vi nhi trị” (không làm mà trị), đó là phương pháp thượng đẳng trong việc dùng đức trị nước. Nếu không hủy hoại thứ đã tạo thành, thì vẫn giữ được diện mạo vốn có của nó, miễn trừ những việc không vội phải làm, giảm bớt rồi lại giảm bớt. Dù nhà cửa tuềnh toàng xen lẫn với cung thất hoa lệ, lan can bằng đá quý xen lẫn với bậc cấp bằng đất cũng không so đo, việc gì làm cho trăm họ vui thì khiến họ làm, đừng tiêu hao hết tinh lực của họ. Thường xuyên nghĩ rằng người ở không thoải mái an dật, còn người làm việc thì vô cùng vất vả, như thế trăm họ sẽ vui vẻ quy thuận quân vương như con chăm cha mẹ, mọi người đều dựa vào quân quốc vương mà tính tình quy về thuần phác, đó là phương pháp thứ đẳng trong việc dùng đức trị nước. Nếu quân vương có một ý nghĩ sai lầm, thì sẽ không biết cân nhắc trước sau, quên nỗi gian nan khi gây dựng nước nhà, cho rằng ý chỉ của trời cao có thể dựa dẫm được mà lơ là việc tiết kiệm trong cung thất, một mực theo đuổi sự xa hoa tráng lệ. Cứ tăng trưởng như thế, không biết dừng lại và thỏa mãn, trăm họ không nhìn thấy đức tốt của nhà vua, trái lại chỉ nghe thấy thông tin binh dịch không ngớt, đó là phương pháp trị nước hạ đẳng nhất. Biện pháp này chẳng khác nào vác củi đi dập lửa, đổ nước sôi cho ngừng sôi, dùng bạo tàn thay thế bạo tàn, dẫm vào vết xe đổ rối ren ban đầu, hậu quả của nó thực khó lường được. Cứ như thế, nối tiền triều thì có nghiệp tích gì thể hiện? Nhà vua không thể hiện được đức hạnh sẽ khiến trăm họ oán hận, thần linh phẫn nộ, tai họa nhất định sẽ xảy ra. Tai họa một khi xảy ra thì phản loạn nhất định sẽ trỗi dậy, phản loạn đã trỗi dậy thì khả năng bảo toàn được tính mạng, danh dự là rất nhỏ. Sau khi thay đổi triều đại theo ý chỉ của trời, đế nghiệp sẽ hưng thịnh bảy trăm năm và để lại cho con cháu, truyền đến muôn đời. Cơ nghiệp của nước nhà khó gây dựng mà dễ mất đi, có thể không suy nghĩ nghiêm túc hay sao?
https://thuviensach.vn
✽✽✽
Tháng sau, Ngụy Trưng lại dâng sớ rằng:
Thần nghe nói, muốn cây xanh tốt thì phải làm cho gốc vững chãi; muốn nước sông chảy xa thì phải đào sâu đầu nguồn; muốn chính cục nước nhà yên định nhất định phải năng tích đạo đức, nhân nghĩa. Đầu nguồn không sâu mà muốn nước sông chảy xa, gốc không vững mà muốn cây xanh tốt, đạo đức, nhân nghĩa không dày mà muốn nước nhà yên định, thần tuy thấp hèn ngu muội, cũng biết đó là điều không thể, huống hồ là bậc thánh nhân sáng suốt? Đức vua gánh vác trọng trách, ở ngôi cao cả nước coi trọng, muốn tuân theo đại đức của trời, giữ mãi phúc lộc vô biên mà không biết nghĩ đến nguy hiểm khi an lạc, ra sức tránh xa xỉ mà đề xướng tiết kiệm, không tích được đức dày, lý trí không thắng được tham dục thì chẳng khác nào chặt gốc cây mà muốn cây xanh tốt, chặn đầu nguồn mà muốn nước sông chảy xa.
Rất nhiều bậc làm vua, khi thừa mệnh trời gây dựng cơ nghiệp, không ai không suy nghĩ lo lắng, cẩn thận hành động, nhưng sau khi công thành danh toại, thì đức hạnh bắt đầu suy giảm. Lúc ban đầu người tốt quả thực rất nhiều, nhưng rất ít người giữ vững được cho đến cuối cùng, lẽ nào lấy được thiên hạ dễ mà giữ thiên hạ khó? Trước đây đoạt lấy thiên hạ thì sức mạnh có thừa, nay giữ lấy thiên hạ thì không đủ lực, đó là vì duyên cớ gì? Khi dựng nghiệp ở trong lo lắng, ắt sẽ hết lòng thành thật đối xử với kẻ dưới; một khi đắc chí, sẽ buông thả ham muốn, coi thường người khác. Khi hết lòng thành thật đối xử với người, dù những người xa lạ ở khắp nơi cũng sẽ thân mật như một nhà; khi coi khinh người khác, dù là anh em ruột thịt cũng xa lạ như kẻ qua đường. Tuy dùng hình phạt nghiêm khắc để răn đe, dùng uy phong và phẫn nộ để đe dọa, nhưng thuộc cấp luôn ứng phó bằng cách tránh tai họa, trong lòng không hề có ý tốt; bề ngoài cung kính vâng dạ, nhưng trong lòng lại không phục. Oán hận không ở lớn nhỏ, cái đáng sợ chỉ ở lòng người bội nghịch. Nước có thể chở thuyền cũng có thể làm lật thuyền, bởi vậy cần phải hết sức cẩn thận. Dùng dây thừng
https://thuviensach.vn
mục để đánh cái xe đang chạy, sự nguy hiểm của nó có thể coi thường được không?
Người làm vua, nếu khi nhìn thấy thứ mình thích là nghĩ đến việc biết đủ và tự cảnh giới; khi muốn xây dựng công trình lớn cần trăm họ phục dịch là nghĩ đến việc điều độ đúng mức để trăm họ được nghỉ ngơi; khi nghĩ đến địa vị cao mà nguy hiểm lớn phải biết khiêm tốn hòa nhã và tăng cường tu dưỡng bản thân; khi sợ tự mãn gặp tổn thất là nghĩ đến lòng độ lượng biển lớn chứa cả trăm sông; khi say sưa trong vui chơi, săn bắn là nghĩ đến giới hạn các đế vương, chư hầu cổ đại một năm chỉ đi săn ba lần; khi lo lắng mình lười biếng là luôn nghĩ đến việc phải luôn cẩn thận; khi lo lắng trên dưới không thông là nghĩ đến việc phải khiêm tốn tiếp thu ý kiến của kẻ dưới; khi nghĩ đến sự nguy hại của sàm ngôn là phải cân nhắc sửa mình, đẩy lùi tà ác; khi sắp thi hành ban thưởng là nghĩ đến việc có vì cao hứng nhất thời mà thưởng bừa hay không; khi sắp trừng phạt là nghĩ đến việc có vì phẫn nộ nhất thời mà lạm dụng trừng phạt hay không; tóm lại là làm được “thập tư” (mười điều suy nghĩ), phát huy được nhiều đức tốt, tuyển được người hiền tài, chọn được ý kiến hay, thì người có trí tuệ sẽ có thể vận dụng hết mưu trí, người có dũng lực sẽ vắt hết sức mạnh, người nhân đức sẽ nỗ lực tuyên truyền lòng nhân từ, người thành thực sẽ lấy lòng trung đền ơn nước. Văn võ bá quan sẽ tranh nhau ra sức vì nước, vua tôi sẽ không còn khúc mắc, như thế sẽ có thể hưởng trọn niềm vui, có thể sống lâu như Xích Tùng Tử, Vương Kiều, khảy ngũ huyền cầm hát bài ca “Nam phong” như Ngu Thuấn, không cần thuyết giáo mà thuần hóa được dân phong. Hà tất phải hao tổn tinh thần, trầm tư suy nghĩ, làm việc thay cho cấp dưới, nô dịch tai mắt thông minh của mình, từ bỏ biện pháp hay là “vô vi nhi trị” (không làm mà trị)?
✽✽✽
Đường Thái Tông đích thân viết chiếu thư trả lời Ngụy Trưng:
https://thuviensach.vn
Trẫm thấy khanh nhiều lần dâng sớ, thực là vô cùng trung thành. Lời nói của khanh rất sát thực tế, ta đọc mà quên mệt mỏi, thường đọc cho đến đêm khuya. Không phải lòng quan tâm đến nước nhà của khanh sâu đậm, trong đại nghĩa mà chỉ dẫn ta thì sao có thể viết ra sách lược hay cho trẫm đọc để bù đắp chỗ thiếu sót của trẫm? Trẫm nghe nói, Tấn Võ Đế sau khi bình định Đông Ngô đã theo đòi cuộc sống kiêu xa dâm dật, không còn lưu tâm trị nước. Thừa tướng Tấn triều Hà Tăng sau một lần bãi triều đã nói với con là Hà Thiệu: “Mỗi lần cha lên triều gặp chúa thượng, chúa thượng đều không bàn sách lược lâu dài trị nước, chỉ nói những điều bình thường, đó không phải là người có thể để giang sơn lại cho con cháu, có thể tránh được họa sát thân”. Lại chỉ vào tất cả các cháu, nói: “Lớp người này nhất định sẽ chết vì gặp thời loạn”. Đến thời cháu của Hà Tăng là Hà Tuy quả nhiên bị Đông Hải Vương Tư Mã Việt lạm dụng hình pháp giết chết. Sử sách tiền nhân viết ca ngợi Hà Tăng, cho rằng ông ta có cái sáng suốt biết nhìn trước. Trẫm thấy không phải như vậy, trẫm cho rằng Hà Tăng không trung với vua mình, có tội rất lớn. Là kẻ bề tôi, khi lên triều phải tận trung vì nước, khi bãi triều phải tu thân sửa lỗi. Vua làm điều đúng phải thuận thế trợ giúp cho thành công, vua có điều sai phải uốn nắn sửa chữa, đó là phương pháp giúp vua tôi đồng lòng trị nước. Hà Tăng làm quan đến thừa tướng, địa vị cao mà danh vọng nặng, phải nói thẳng không e dè, nghiêm khắc khuyên can, luận về đạo trị nước để phò tá thời chính. Ấy vậy mà sau khi bãi triều mới đem ra bàn tán, khi lên triều lại không nói thẳng, ca ngợi hạng người đó là bậc minh trí, chẳng phải là hoang đường sao? Nước nhà nguy cấp mà không phò trợ, sao có thể dụng hạng người đó làm thừa tướng? Ý kiến khanh tâu lên giúp trẫm biết được lỗi mình. Trẫm sẽ đặt nó lên bàn, giống như Tây Môn Báo đeo da mềm, Đổng An Vu đeo cung trên người, luôn nhắc nhở mình. Ắt sẽ kịp thời bù đắp, thu được hiệu quả. Trẫm sẽ không để cho bài hát “Khang tai lương tai” chỉ thịnh hành ở thời Ngu Thuấn. Mối quan hệ như cá nước giữa vua và tôi cuối cùng đã hiện rõ ở ngày nay. Trả lời thiện ngôn của khanh tuy có chậm,
https://thuviensach.vn
nhưng hy vọng khanh vẫn không sợ mạo phạm, nói thẳng được mất mà không che giấu. Trẫm sẽ rất mực khiêm tốn, an định tâm trí, cung kính chờ đợi thiện ngôn của khanh.
✽✽✽
Năm Trinh Quán thứ mười lăm, Đường Thái Tông hỏi các thị thần:
− Giữ chính quyền đã giành được khó hay dễ?
Thị trung Ngụy Trưng đáp:
− Khó lắm!
Thái Tông hỏi:
− Dùng người hiền năng, tiếp thu ý kiến của bề tôi là được, sao lại nói là khó lắm?
Ngụy Trưng đáp:
− Thần thấy các bậc đế vương xưa nay, khi họ ở trong lo lắng nguy cấp thì biết dùng người hiền năng, tiếp thu ý kiến. Đến khi yên định sung sướng thì trở nên lơi lỏng lười biếng. Đối với người tâu trình sự việc, chỉ cho phép người đó nói năng rụt rè, thận trọng, cứ theo đó thì thế nước sẽ ngày một suy, cho đến nguy vong. Thánh nhân sở dĩ biết khi sống yên ổn luôn nghĩ đến gian nguy chính là để tránh tình trạng này xảy ra. Khi sống yên ổn mà biết lo sợ, lẽ nào không phải là khó sao?
https://thuviensach.vn
CHÍNH THỂ
Năm Trinh Quán thứ nhất, Đường Thái Tông nói với Tiêu Ngu:
− Trẫm từ nhỏ đã thích cung tên, tự cho là đã biết hết sự huyền diệu của nó. Gần đây nhận được mười cây cung tốt, đem cho thợ làm cung xem. Thợ làm cung nói: “Không phải là đồ tốt”. Trẫm hỏi nguyên cớ, người thợ đáp: “Lõi gỗ không thẳng khiến cho thớ gỗ lệch, cung tuy mạnh, nhưng tên bắn đi không trúng, bởi vậy không phải là cung tốt”. Khi ấy trẫm mới hiểu được đạo lý của nó. Trẫm dùng cung tên bình định thiên hạ, số cung tên đã sử dụng rất nhiều, nhưng vẫn chưa hiểu sự huyền diệu của cung; huống hồ thời gian ta giành được thiên hạ chưa lâu, đạo lý trị nước biết được vốn không bằng sự hiểu biết của trẫm về cung; phẩm bình về cung tên còn thiếu chính xác huống hồ là đạo trị nước?
Sau đó, Thái Tông chiếu lệnh cho các quan ở kinh thành từ ngũ phẩm trở lên luân phiên nhau ở trong Trung thư nội tỉnh, mỗi lần triệu kiến đều ban cho ghế ngồi, cùng nói chuyện, hỏi về việc bên ngoài, ắt biết được nỗi thống khổ của dân gian và được mất của việc giáo hóa.
✽✽✽
Năm Trinh Quán thứ nhất, Đường Thái Tông nói với Hoàng môn thị lang Vương Khuê:
− Các loại chiếu sắc do Trung thư tỉnh ban ra, Môn hạ tỉnh có nhiều ý kiến khác nhau, đôi khi hai bên có sai sót gì thì có thể dùng những ý kiến khác nhau để sửa chữa. Ban đầu thiết lập Trung thư tỉnh, Môn hạ tỉnh là để tránh sai lầm cho nhau. Ý kiến của mọi người
https://thuviensach.vn
thường khác nhau, có đúng cũng có sai, vốn là đều vì đại sự nước nhà. Nhưng cũng có người bảo vệ sở đoản của mình, không muốn nghe sai lầm của mình, bất kể lời người khác nói đúng hay sai cũng đều oán hận. Có người thì làm việc cẩu thả, tránh né mâu thuẫn, chiếu cố thể diện của nhau, biết rõ là việc không chính đáng nhưng vẫn cho thi hành. Không dám làm mất sĩ diện cỏn con của cấp trên nhưng lại tức khắc trở thành đại họa của muôn người. Đây quả thực là cách làm khiến nước nhà nguy vong, các khanh phải đặc biệt chú ý phòng ngừa. Thời nhà Tùy, mọi viên quan trong ngoài xử lý công việc đều ba phải nên rước lấy tai họa, rất nhiều người không biết suy nghĩ sâu sắc về điều này. Khi ấy ai cũng cho là tai họa sẽ không xảy đến với mình. Ngoài mặt thì vâng dạ, sau lưng thì bàn tán, không cho là cách làm ấy sẽ gây ra tai họa. Sau đó đại họa xảy ra, nước mất nhà tan, tuy có người giữ được tính mạng, nhưng cũng phải trải qua trăm nghìn gian khổ mới tránh được cái chết, bị dư luận lên án. Các khanh phải diệt trừ lòng riêng, một lòng vì việc công, giữ vững chính đạo, xử lý mọi công việc phải hỗ trợ nhau, đừng để trên dưới không đồng thuận.
✽✽✽
Năm Trinh Quán thứ hai, Đường Thái Tông hỏi Vương Khuê: − Vua tôi thời cận đại trị nước thường kém hơn vua tôi thời thượng cổ, nguyên nhân do đâu?
Vương Khuê đáp:
− Đế vương thời thượng cổ trị nước coi trọng thanh tịnh vô vi, họ nghĩ những điều trăm họ nghĩ. Đế vương thời cận đại thì chỉ muốn tổn hại lợi ích của trăm họ để thỏa mãn lòng tham của mình, các đại thần được sử dụng không còn là những người tinh thông kinh học nho thuật. Tể tướng triều Hán chẳng ai không tinh thông kinh điển, triều đình có vấn đề nghi nan, đều dẫn dụng kinh thư, sử thư để ra quyết định. Bởi vậy bá tánh hiểu chuẩn mực lễ nghĩa, nước nhà được thái bình. Thời cận đại coi trọng võ bị mà xem nhẹ nho thuật, hoặc thích
https://thuviensach.vn
dùng pháp lệnh hình luật, chuẩn mực đạo đức bị tổn hại, dân phong thuần phác đôn hậu bị phá hoại nặng nề.
Thái Tông rất tán đồng lời Vương Khuê. Từ đó những người có học thức cao, có sở trường và biết trị nước trong bá quan phần lớn được thăng cấp.
✽✽✽
Năm Trinh Quán thứ ba, Đường Thái Tông nói với các thị thần: − Trung thư tỉnh, Môn hạ tỉnh đều là những bộ phận then chốt trong việc trông coi việc lớn nước nhà. Tuyển chọn người có tài đảm nhiệm công việc ở những nơi này, những việc giao cho họ vô cùng hệ trọng, mệnh lệnh hoàng đế ban ra nếu có chỗ không ổn thỏa, không tiện thi hành thì đều phải giữ vững lập trường, thẳng thắn bàn luận. Gần đây chỉ thấy a dua nịnh bợ, thuận theo cấp trên, thông qua các chiếu lệnh văn cáo sơ sài qua loa, không có một câu can gián thẳng thắn. Lẽ nào đó là điều bình thường? Nếu chỉ là ký chiếu lệnh, ban hành văn cáo thôi thì ai không làm được? Việc gì phải lao tâm khổ tứ tuyển chọn nhân tài để giao trọng trách? Từ nay về sau, ai thấy chiếu lệnh hoàng đế ban ra không ổn thỏa, không tiện thi hành đều phải kiên trì ý kiến của mình, không được rụt rè sợ sệt, biết không đúng mà vẫn im lặng.
✽✽✽
Năm Trinh Quán thứ tư, Đường Thái Tông hỏi Tiêu Vũ: − Tùy Văn Đế là vị vua như thế nào?
Tiêu Vũ trả lời:
− Giữ mình nghiêm cẩn, phù hợp lễ nghĩa, thành thật chăm chỉ, không sợ gian khổ ngày đêm suy nghĩ việc triều chính, mỗi lần lâm triều họp mặt quần thần đều siêng năng làm việc, có khi mặt trời lặn vẫn chưa nghỉ ngơi. Các quan trong triều từ ngũ phẩm trở lên đều
https://thuviensach.vn
được vua triệu kiến, cho ngồi cùng đàm luận việc nước, có lúc say sưa đến quên cả giờ cơm. Tuy rằng phẩm chất không được cho là nhân từ sáng suốt, cũng là một vị vua có ý chí, có tinh thần phấn đấu muốn cai trị tốt đất nước.
Thái Tông nói:
− Khanh chỉ biết một mà không biết hai. Tùy Văn Đế là người quá ư xét nét, còn không hiểu rõ đạo lí trong việc xử sự. Không sáng suốt thì không thể tự biết lỗi lầm của bản thân, quá xét nét dễ dẫn đến đa nghi trong đối nhân xử thế. Tùy Văn Đế từng vì bức hiếp kẻ cô thế quả phụ mà đoạt được thiên hạ, cho nên ông ta thường trút giận lên đầu những người bằng mặt nhưng không bằng lòng với những hành động của ông ta, không tin tưởng văn võ bá quan. Sự việc dù lớn hay nhỏ ông ta đều muốn tự mình xử lí và đưa ra quyết định, tuy là tinh thần lao lực, thân xác rã rời cuối cùng cũng không thể xử lí mọi việc một cách hợp tình hợp lí. Các quan trong triều tuy là hiểu được suy nghĩ của ông ta, cũng không dám thẳng thắn đưa ra lời can gián. Từ tể tướng cho đến các quan chức cấp thấp chỉ biết tuân theo lệnh, làm theo chỉ thị mà thôi. Còn cách nhìn nhận của ta thì không phải như thế. Thiên hạ vô cùng rộng lớn, người trong nước nhiều đến như thế, hằng ngày xảy ra hằng hà sa số các việc không giống nhau, cho nên không thể hành xử một cách khô cứng, chuyên nhất, cần phải linh hoạt. Ta cho rằng phàm việc gì cũng nên thương nghị với văn võ bá quan, chú ý lắng nghe kế sách của tể tướng đưa ra, đối với những việc cần xử lí phải có sách lược cụ thể nếu dự đoán kết quả có thể đạt được sự ổn thỏa, tiện lợi mới tiến hành thực hiện. Thử nghĩ một người làm sao có thể suy nghĩ để đưa ra quyết định cho vô số những việc cần phải xử lí trong một ngày! Vả lại một ngày phải xử lí mười việc, có năm việc mắc sai lầm, làm đúng đương nhiên là rất tốt, nếu như sai thì làm sao? Cho nên ngày tháng trôi qua, nhiều năm trôi qua, sai lầm càng chồng chất, không bị diệt vong thì còn đợi gì đây? Như thế làm sao so sánh được với người biết mở rộng việc dùng hiền tài, thân ở ngôi cao mà
https://thuviensach.vn
không việc gì không biết, không vấn đề gì không hay, tỏ tường sự việc, pháp lệnh nghiêm minh, cứ như thế còn ai dám làm càn làm bậy? Ngoài ra còn ban lệnh xuống cho tất cả các quan, nếu như phát hiện bên dưới có điều gì không ổn, hoặc không nên thực hiện, nhất thiết phải kiên trì trình báo ý kiến lên trên, không thể chỉ làm theo lệnh mà không đắn đo, suy xét. Nhất định phải làm cho tròn bổn phận của kẻ bề tôi.
✽✽✽
Năm Trinh Quán thứ năm, Đường Thái Tông nói với thị thần: − Trị nước với dưỡng bệnh có gì khác nhau đâu. Người bệnh sau khi đã trị khỏi thì tăng cường nghỉ ngơi, bảo vệ thân thể, tránh không để cho bệnh tái phát, nếu vô ý khơi dậy mầm bệnh, nhất định dẫn đến tử vong. Trị nước cũng cùng một đạo lí như thế, thiên hạ có hơi được yên ổn, thái bình, thì lại càng đặc biệt gia tăng cảnh giác, thận trọng hành sự. Nếu như cho rằng thiên hạ thái bình vô sự mà kiêu ngạo say đắm tửu sắc, sa đọa dâm tà, nhất định sẽ đi đến con đường diệt vong. Hiện tại sự an nguy của thiên hạ chất trên vai ta, cho nên ta ngày càng thận trọng hơn, tuy có điều kiện hưởng lạc nhưng cũng không truy cầu. Thế nên các khanh cần phát huy hơn nữa vai trò làm tai mắt cho ta trong thiên hạ, để cho quân vương và thần tử đoàn kết thành một khối thông nhất hiệp trợ lẫn nhau, hết lòng lo nước, an dân. Còn như có những việc, những chỗ chưa được ổn thỏa, nên dốc sức khuyên can, tuyệt không được che giấu. Nếu giữa quân thần mà nghi ngờ sợ hãi lẫn nhau, không thể nói ra những lời trung lương, tâm phúc thì đó chính là mốì lo lớn trong việc trị nước vậy.
✽✽✽
Năm Trinh Quán thứ sáu, Đường Thái Tông nói với các thị thần:
https://thuviensach.vn
− Trẫm xem những vị hoàng đế thời cổ có lúc hưng thịnh cũng có lúc suy bại, giống ngày qua đêm đến, kẻ làm vua bị che tai, bịt mắt, không biết đến sự được mất của nền chính trị đương thời. Người trung thần ngay thẳng không khuyên can, kẻ gian tà, xiểm nịnh ngày càng đắc thế, kẻ làm vua không nhìn ra được sai lầm của bản thân, cho nên dẫn đến diệt vong vậy. Ta ở trong chốn thâm cung không thể biết hết tất cả mọi việc trong thiên hạ, cho nên đem nhiệm vụ thấu hiểu dân tình giao cho các khanh, mong các khanh thay ta làm tai mắt trông coi các việc trong thiên hạ và trình báo lại với ta. Không nên cho rằng thiên hạ thái bình vô sự, bốn biển an định, thì lơi lỏng, không lưu tâm đến. Sách “Thượng thư” có nói rằng: “Người làm vua không thể yêu thương sao? Trăm họ không đáng sợ sao? Kẻ làm vua trong thiên hạ nếu như có đạo đức người dân sẽ ủng hộ, theo về; nếu như vô đạo người dân sẽ nổi dậy đấu tranh mà phế bỏ, điều này quả thật đáng sợ.
Ngụy Trưng đáp:
− Từ cổ đến nay, những đế vương làm mất nước, đều là do trong lúc an bình vô sự quên mất chuyện hiểm nguy, lúc thái bình no ấm không lo nghĩ đến loạn lạc nhiễu nhương, cho nên nghiệp đế không thể dài lâu cho được. Bây giờ bệ hạ có cả thiên hạ trong tay, nền chính trị trong ngoài ổn định thanh bình, nếu có thể lưu ý đến cách thức trị nước, phàm làm việc gì cũng phải cẩn trọng giống như đang đối mặt với vực sâu, hố thẳm, đạp lên lửa, đi trên băng, có như thế thì vận số của quốc gia mới được lâu dài, quốc thái dân an. Thần lại nghe có câu nói xưa thế này: “Vua là thuyền, dân là nước, nước có thể đẩy thuyền cũng có thể lật thuyền”. Bệ hạ cho rằng sức mạnh của muôn dân là rất đáng sợ, chính xác là như thế đấy.
✽✽✽
Năm Trinh Quán thứ sáu, hoàng thượng nói với các thị thần: − Cổ nhân có nói: “Nước nhà nguy cấp mà không gánh vác, xã tắc nghiêng ngả mà không phù trợ thì sao có thể dùng loại người này
https://thuviensach.vn
làm phò tá?”. Đạo nghĩa vua tôi nặng, có thể không tận trung ứng cứu được sao? Trẫm từng đọc sách, khi thấy Hạ Kiệt giết Quan Long Phùng, Hán Cảnh Đế giết Tiều Thố, trẫm đều than thở. Các khanh chỉ cần thẳng thắn khuyên can, có lợi cho việc giáo hóa là trẫm quyết không vì việc phạm húy mà tùy tiện trách móc các khanh. Gần đây trẫm lâm triều xử lý chính sự, cũng có những điều không phù hợp với pháp lệnh, các khanh cho là chuyện nhỏ nên không góp ý. Mọi việc lớn đều bắt đầu từ việc nhỏ, việc nhỏ không truy cứu, việc lớn ắt không thể cứu vãn, đất nước lâm nguy đều do đó mà nên. Tùy Dạng Đế tàn bạo, khi ông ta bị kẻ tầm thường giết chết, bá tánh chẳng mấy ai thương tiếc. Các khanh nghĩ đến việc nhà Tùy diệt vong giúp trẫm, trẫm nghĩ đến việc Long Phùng, Tiều Thố bị giết như thế nào giúp các khanh, quân thần bảo toàn cho nhau, lẽ nào không phải là điều hay sao?
✽✽✽
Năm Trinh Quán thứ bảy, Đường Thái Tông và Mật thư giám Ngụy Trưng rảnh rỗi mạn đàm về sự được mất trong trị nước xưa nay, Đường Thái Tông nói:
− Nay nước nhà đã sau thời đại loạn, trong thời gian ngắn, không thể làm cho phong tục thuần phác, thiên hạ thái bình.
Ngụy Trưng nói:
− Không phải thế, nhưng khi con người ta nguy cấp khó khăn thì sẽ lo sợ bị chết, lo sợ bị chết thì mong muốn nước nhà thái bình, mong muốn nước nhà thái bình thì dễ giáo hóa. Vậy thì sau đại loạn dễ giáo hóa, giống như kẻ đói dễ thỏa mãn với nhu cầu ăn uống vậy.
Thái Tông nói:
− Người hiền minh trị nước cũng phải đợi đến trăm năm mới có thể làm cho kẻ tàn bạo không làm việc ác, loại bỏ hình sát. Sau đại loạn thì mong muốn đạt được thiên hạ thái bình, làm sao có thể hy vọng đạt được trong thời gian ngắn?
https://thuviensach.vn
Ngụy Trưng đáp:
− Đấy là nói theo quan điểm của kẻ thường nhân, không thể áp dụng cho bậc quân chủ anh minh. Nếu bậc quân chủ anh minh thi hành giáo hóa, trên dưới đồng lòng hiệp lực thì trăm họ sẽ nhanh chóng hưởng ứng giống như tiếng vọng, dù không muốn nhanh chóng cũng có thể nhanh chóng đạt được thành công. Trong vòng một năm là có thể làm được, hẳn là không mấy khó khăn, ba năm mới đạt được thành công còn cho là quá muộn.
Thái Tông cho là đúng. Bọn Phong Đức Di nói:
− Sau ba triều Hạ, Thương, Chu, con người ta dần trở nên giảo hoạt trí trá, bởi vậy nhà Tần trị nước chuyên dùng hình pháp, nhà Hán áp dụng cả nhân nghĩa lẫn hình pháp, đều là muốn làm cho dân phong thuần chính mà chưa thực hiện được, sao có thể nói có thể làm cho dân phong thuần chính mà không muốn làm? Nếu tin lời Ngụy Trưng thì e nước sẽ gặp bại loạn.
Ngụy Trưng nói:
− Khi Ngũ Đế, Tam Hoàng trị nước, không hề thay đổi dân phong mà thực hiện được việc giáo hóa. Thực hiện đạo vô vi nhi trị (không làm gì mà trị) thì làm nên đế nghiệp, thực hiện đạo nhân nghĩa thì làm nên vương nghiệp, điều này phụ thuộc vào việc trị vì, giáo hóa của bậc quân chủ đương thời, khảo sát ghi chép trong sách vở cổ là biết được. Ngày xưa Hoàng Đế và Xi Vưu đánh nhau hơn 70 trận, khi đó vô cùng hỗn loạn, sau khi chiến thắng Xi Vưu hung tàn, Hoàng Đế tập trung vào việc giáo hóa và làm cho thiên hạ thái bình. Tộc Cửu Lê làm loạn, Chuyên Húc đem quân chinh phạt họ, sau khi chiến thắng, không hề quên việc giáo hóa. Hạ Kiệt dâm loạn bạo ngược, Thương Thang đánh đuổi và thiên hạ thái bình. Trụ vương nhà Thương vô đạo, Chu Võ Vương thảo phạt, đến thời con của Võ Vương là Chu Thành Vương cũng đạt được thái bình. Nếu nói con người ta càng ngày càng giảo hoạt trí trá, không thể làm cho thuần chính chất phác thì đến nay hẳn đã biến thành quỷ quái yêu tinh, sao có thể còn giáo hóa được?
https://thuviensach.vn
Bọn Phong Đức Di không tìm được lời phản bác Ngụy Trưng, nhưng vẫn cho là không thể thực hiện được. Thái Tông thường tiếp thu kiến nghị của Ngụy Trưng, ra sức thi hành, không hề lười biếng, trong vòng mấy năm, cả nước trên dưới an khang hòa mục, người Đột Quyết nhiều năm gây họa bị đánh bại nên thần phục. Thế nên Thái Tông bảo quần thần:
− Năm Trinh Quán thứ nhất, các khanh đều có ý kiến khác nhau, rằng đời nay chắc chắn không thể thực hiện đế đạo, vương đạo, chỉ có Ngụy Trưng khuyên ta. Ta nghe lời Ngụy Trưng, chỉ trong vòng mấy năm đã làm cho toàn quốc an định hòa mục, ngoại tộc phương xa thần phục. Tộc Đột Quyết xưa nay thường xuyên là kình địch của Trung Quốc, nay thủ lĩnh của bọn họ mình đeo đao kiếm, túc trực cảnh vệ trong cung cấm, mà nhân dân trong bộ tộc họ đều dùng quần áo của Trung nguyên. Giúp ta cuối cùng làm được như vậy chính là công lao của Ngụy Trưng.
Rồi quay lại bảo Ngụy Trưng:
− Ngọc dù có bản chất tốt đẹp, nhưng khi nó vẫn còn trong đá, chưa gặp được người thợ ngọc có tay nghề cao thì có khác gì gạch đá? Gặp được người thợ ngọc có tay nghề cao sẽ lập tức trở thành báu vật vô giá lưu truyền muôn đời. Trẫm tuy không có bản chất tốt đẹp như ngọc để khanh chạm trổ, nhưng nhờ khanh đem nhân nghĩa đến yêu cầu trẫm, lấy đạo đức soi sáng trẫm giúp cho công nghiệp của trẫm được như ngày nay, khanh xứng đáng được gọi là thợ ngọc có tay nghề cao siêu rồi đấy!
✽✽✽
Năm Trinh Quán thứ chín, Đường Thái Tông bảo quần thần: − Ngày trước, khi mới bình định được đô thành nhà Tùy, mỹ nữ và các đồ quý giá trong cung nhà Tùy đầy ắp khắp nơi mà Tùy Dạng Đế vẫn thấy không thỏa mãn, trưng thu không dứt, lại thêm đông chinh tây phạt, làm kiệt quệ binh lực, trăm họ thực không thể chịu
https://thuviensach.vn
đựng nổi, nên dẫn đến diệt vong. Đó đều là những điều trẫm tận mắt trông thấy. Bởi vậy trẫm sớm tối nỗ lực không sờn, chỉ mong được thanh tịnh vô vi nhi trị, làm cho thiên hạ thái bình vô sự, cuối cùng không còn phải dấy lên binh đao, hàng năm ngũ cốc được mùa, trăm họ an cư lạc nghiệp. Trị nước giống như trồng cây, gốc có vững cành lá mới xanh tươi. Bậc quân vương làm được điều thanh tịnh vô vi nhi trị thì sao trăm họ không thể có được cuộc sống an cư lạc nghiệp?
✽✽✽
Năm Trinh Quán thứ mười sáu, Đường Thái Tông bảo quần thần: − Có trường hợp vua ở trên hôn loạn, bề tôi ở dưới trị vì; có trường hợp bề tôi ở dưới làm loạn, vua ở trên trị vì. Nếu so sánh hai trường hợp thì trường hợp nào nghiêm trọng hơn?
Đặc tiến Ngụy Trưng đáp:
− Nhà vua hết lòng trị nước sẽ có thể minh xét lỗi lầm của bề tôi, xử phạt một người sẽ cảnh cáo được trăm người, ai còn dám không sợ oai nghiêm mà tận lực làm việc? Nếu vua ở trên hôn ám tàn bạo, không nghe lời can gián của trung thần thì dù có các bậc tôi hiền như Bách Lý Hề, Ngũ Tử Tư ở nước Ngu, nước Ngô cũng không thể cứu được họa hoạn, nguy cơ nước mất thân vong cũng theo đó sinh ra.
Thái Tông nói:
− Nếu nhất định là như vậy thì Văn Tuyên Đế của Bắc Tề là một hôn quân tàn bạo, Dương Tôn Nhan lại dùng phương pháp đúng đắn để phò trợ ông ta trị vì tốt Bắc Tề, như thế lý giải thế nào? Ngụy Trưng nói:
− Tôn Nhan bù đắp cho lỗi lầm của vua, cứu trị được trăm họ nên mới giúp Bắc Tề tránh được họa loạn, nhưng đôi khi ông ấy cũng rất gian nguy khốn khổ. Điều này không thể so sánh với việc vua nghiêm minh sáng suốt, bề tôi biết sợ quốc pháp và dám thẳng lời khuyên can, mọi người đều được tin dùng.
https://thuviensach.vn
✽✽✽
Năm Trinh Quán thứ mười chín, Đường Thái Tông bảo quần thần:
− Trẫm thấy các bậc đế vương xưa nay có vô số người vì kiêu ngạo tự mãn mà cuối cùng thất bại. Không cần nói đâu xa xôi thời cổ, gần đây Tấn Võ Đế bình định được nước Ngô, Tùy Văn Đế công diệt triều Trần, trong lòng ngày càng kiêu ngạo, sống ngày càng xa xỉ, tự cho mình tài giỏi, bề tôi không ai dám khuyên gián, chính sự pháp độ vì thế lỏng lẻo rối ren. Trẫm từ khi bình định Đột Quyết, đánh bại Cao Ly, lại thôn tính Thiết Lặc, đánh chiếm sa mạc, lập nên các châu huyện, các tộc xa xôi thần phục, uy danh, giáo hóa của nước nhà ngày một rộng lớn. Trẫm rất sợ tình hình này sẽ ươm mầm cho sự kiêu ngạo tự mãn trong lòng, cho nên luôn răn mình, xử lý việc nước thường bận đến khuya mới ăn cơm, lo lắng việc nước nên cũng thường thức đêm không ngủ, ngồi đợi trời sáng. Cứ nghĩ đến bề tôi có người trực ngôn khuyên can, điều gì có thể dùng được vào việc giáo hóa chính trị, trẫm đều rửa mắt cho sáng, coi những người ấy là thầy tốt bạn tốt. Làm như thế, hy vọng có thể làm cho thời cuộc khang ninh, xã tắc bình an vậy!
✽✽✽
Khi Đường Thái Tông mới lên ngôi, gặp tai họa do sương muối đại hạn, giá lương thực tăng vọt, tộc Đột Quyết lại liên tục quấy phá biên giới, rất nhiều châu huyện rối ren. Thái Tông một lòng lo cho trăm họ, chuyên tâm trị nước, đề cao tiết kiệm, ra sức bố thí ân đức. Khi ấy từ kinh thành đến vùng Hà Đông, Hà Nam, Lũng Thạch mất mùa rất nghiêm trọng, một súc lụa mới đổi được một đấu gạo. Trăm họ tuy đi lánh nạn khắp nơi nhưng chẳng mảy may oán thán. Đến năm Trinh Quán thứ ba, Quan Trung lương thực bội thu, trăm họ đều trở về quê cũ. Đường Thái Tông được lòng người đến mức như vậy. Lại thêm lắng nghe và tiếp thu lời khuyên can của bề tôi, yêu thích học
https://thuviensach.vn
thuật Nho gia, tìm kiếm nhân tài trị nước không biết mệt mỏi, lựa chọn người thích hợp ra làm quan nên đã cải cách được tình hình chính trị tồi tệ trước kia, xây dựng và khôi phục chế độ pháp luật, gặp việc gì cũng cân nhắc kỹ lưỡng nhằm tránh ác theo thiện. Ban đầu, đồng đảng của Kiến Thành, Nguyên Cát có hàng trăm, thậm chí hàng nghìn kẻ cùng mưu hại Thái Tông. Sau khi sự biến được dẹp yên, Thái Tông lại bổ nhiệm một số người trong đó làm cận thần tả hữu của mình, đối xử với họ bằng tâm địa bao dung, không hề hoài nghi và xa cách, các đánh giá khi ấy đều cho rằng Thái tông có thể quả đoán quyết định đại sự, có khí độ của bậc đế vương. Ông rất ghét hành vi tham ô bẩn thỉu của quan lại, quan lại nào nhận tiền mà hành sự trái pháp luật nhất định sẽ bị xử phạt nghiêm, tuyệt đối không xá miễn. Bất kể làm quan ở kinh thành hay ở vùng xa xôi, ai phạm tội nhận hối lộ đều phải tâu rõ rồi căn cứ tình tiết phạm tội để xử trị theo pháp luật. Vì vậy, quan lại phần lớn thanh liêm cẩn trọng. Thái Tông còn chú ý kiểm soát nhà các vương công, quý phi, những người thuộc hào tộc và những kẻ gian giảo đều sợ uy lực của quốc pháp mà ẩn giấu hành tích của họ, không dám bắt nạt áp bức nhân dân. Thương nhân lữ khách trú ở bên ngoài cũng không còn bị cướp bóc, nhà ngục thường vắng bóng người. Trâu ngựa thành đàn khắp các cánh đồng, cửa nhà cũng không cần đóng. Lại liên tiếp được mùa bội thu, mỗi đấu gạo giá chỉ ba bốn tiền, lữ khách từ kinh thành đến các nơi, từ Sơn Đông đến Đông Hải đều không cần mang theo lương khô, có thể lấy dùng dọc đường. Đi vào các thôn xóm ở Sơn Đông, khách qua đường chắc chắn sẽ được cung cấp và tiếp đón nồng hậu, có người khi ra đi còn được tặng quà. Đó là điều xưa nay chưa từng có.
https://thuviensach.vn
TRINH QUÁN CHÍNH YẾU − QUYỂN 2 −
https://thuviensach.vn
BỔ NHIỆM NGƯỜI HIỀN
Phòng Huyền Linh là người Lâm Tri huyện Tề, ban đầu làm quan nhà Tùy, chức huyện úy Tập Thành, sau vì bị tội mà bị cách chức, di cư đến quận Thượng. Đường Thái Tông dẫn quân tuần hành Vị Bắc, Phòng Huyền Linh chống gậy đến cửa quân doanh bái kiến, Thái Tông vừa gặp Phòng Huyền Linh thì như cố nhân lâu ngày không gặp, nên tạm bổ nhiệm ông làm Hành quân ký thất tham quân ở đạo Vị Bắc. Huyền Linh gặp được tri kỷ nên tận lực cống hiến. Khi ấy cứ bình định được một phương, người ta lại tranh nhau vơ vét của cải quý giá, Huyền Linh chỉ thu nhận nhân tài, đưa họ đến phủ, nếu có văn thần có tài hay võ tướng có võ nghệ cao cường, ông ngấm ngầm giúp đỡ họ, hẹn ước với nhau tận lực báo quốc. Sau nhiều lần thăng tiến, ông được bổ làm Tần Vương phủ ký thất kiêm Thiểm Đông đại hành đài khảo công lang trung. Huyền Linh ở Tần vương phủ làm việc mười năm, chủ quản ký thất trong thời gian dài. Ẩn Thái tử Kiến Thành, Sào thích vương Nguyên Cát vì Huyền Linh và Đỗ Như Hối là thân tín của Thái Tông nên rất căm ghét ông, bởi vậy bọn họ nói xấu hai người trước mặt Cao Tổ, vì thế, ông và Đỗ Như Hối cùng bị Cao Tổ xua đuổi lánh xa. Khi Ấn Thái tử sắp làm loạn, Thái Tông bèn cho vời Huyền Linh và Như Hối, lệnh cho hai người mặc trang phục đạo sĩ, bí mật vào nơi ở của Thái Tông thương nghị. Sau khi dẹp được sự biến ở Huyền Võ Môn, Thái Tông vào Xuân Cung làm Hoàng thái tử, thăng Huyền Linh làm Thái tử tả thứ tử. Năm Trinh Quán thứ nhất, Huyền Linh lại được thăng làm Trung thư tỉnh trưởng quan. Năm Trinh Quán thứ ba, ông được bổ làm Thượng thư tỉnh tả bộc xạ, trông coi việc tu soạn quốc sử, lại được phong làm Lương quốc công, thực ấp được phong thực tế
https://thuviensach.vn
là một nghìn ba trăm họ. Vừa được bổ làm Tể tướng tổng quản bá quan, ông lại sớm tối tận lực làm việc, không để xảy ra sơ sót trong bất kỳ chuyện gì. Nghe người khác có ưu điểm thì giống như mình cũng có. Ông hiểu rõ công việc, lại dùng văn từ tu sức, thẩm tra hoặc lập pháp lệnh, chú ý khoan hoãn bình hòa. Ông dùng người không cầu toàn trách móc, cũng không dùng sở trường của mình để đánh giá người khác, mà luôn sử dụng hoặc khen thưởng theo tài năng và công tích, không hiềm người có xuất thân thấp hèn. Năm Trinh Quán thứ mười ba, ông lại được gia phong làm Thái tử thiếu sư. Huyền Linh làm chức tể tướng 15 năm, nhiều lần dâng tấu chương lên Thái Tông xin từ chức tể tướng, Thái Tông hạ chiếu không đồng ý. Năm Trinh Quán thứ mười sáu, Huyền Linh lại được tấn phong làm Tư không, vẫn tổng quản việc triều chính, trông coi việc tu soạn quốc sử. Huyền Linh lại xin từ quan với lý do tuổi già sức yếu. Thái Tông phái sứ giả đến bảo Huyền Linh: “Nước nhà một khi đột nhiên không có tể tướng hiền lương thì giống như một người bị mất hai tay. Nếu khanh còn sức lực thì đừng từ chức, nếu tự thấy mình sức yếu thì hãy làm bản tấu khác nói rõ”. Khi ấy Huyền Linh mới thôi yêu cầu. Thái Tông còn thường xuyên nghĩ đến nỗi gian nan khi dựng đế nghiệp và công lao phò tá dựng nghiệp của Huyền Linh, bèn làm bài phú “Uy phong” để ví với mình, rồi tặng bài phú cho Phòng Huyền Linh, từ đó có thể thấy được mức độ tin tưởng mà Thái Tông dành cho Huyền Linh.
✽✽✽
Đỗ Như Hối là người Vạn Niên − Kinh Triệu. Năm Đường Cao Tổ Võ Đức thứ tư, ông làm Binh tào tham quân ở Tần vương phủ, không lâu sau được điều đến phủ tổng quản Thiểm Châu làm Trưởng sứ. Khi ấy trong Tần vương phủ có rất nhiều nhân tài, nhưng số người bị điều đi dần tăng lên, Thái Tông rất lo lắng về tình trạng này. Ký thất Phòng Huyền Linh tâu:
https://thuviensach.vn
− Tuy rằng đồng liêu trong phủ bị điều đi rất nhiều, nhưng phần đông không đáng tiếc. Đỗ Như Hối là người thông minh sáng suốt, thông hiểu mọi chuyện, là nhân tài phò tá đế vương. Nếu đại vương chỉ muốn giữ địa vị phiên vương, ngồi khoanh tay không làm gì thì không dùng đến ông ấy; còn nếu đại vương muốn trị vì thiên hạ, làm nên đế nghiệp thì không có người này không được.
Từ đó Thái Tông càng kính trọng Như Hối, coi ông là tâm phúc, sau đó tâu xin Cao Tổ điều Như Hối làm thuộc quan trong phủ mình, thường xuyên cho tham gia mọi việc. Khi ấy quốc chính và hành động quân sự rất nhiều, mà Như Hối phân tích sự việc, quyết đoán rất nhanh, được người đương thời khâm phục, ông được thăng quan đến Thiên sách phủ tùng sự trung lang, kiêm Văn học quán học sĩ. Ấn Thái tử Kiến Thành làm loạn thất bại, công lao của Như Hối và Huyền Linh đứng hàng đầu, do đó ông được thăng làm Thái tử hữu thứ tử. Không lâu sau, lại được thăng làm Binh bộ thượng thư, tiếp đó được thụ phong làm Thái quốc công, thực ấp được ban thực tế là một nghìn ba trăm hộ. Năm Trinh Quán thứ hai, ông làm Binh bộ thượng thư kiểm hiệu thị trung. Năm Trinh Quán thứ ba, ông được bổ làm Thượng thư tỉnh hữu bộc xạ, kiêm nhiệm Lại bộ tuyển sự, vẫn cùng Huyền Linh trông coi việc triều chính. Còn về quy mô tổ chức của bộ máy trung ương, chế độ pháp lệnh, lễ nghi v.v... đều do hai ông chế định, được người đương thời đánh giá rất cao, gọi chung hai ông là “Phòng Đỗ”.
✽✽✽
Ngụy Trưng là người Cự Lộc, sau di cư đến Lâm Hoàng − Tương Châu. Cuối năm Đường Cao Tổ Võ Đức, ông làm quan đến Thái tử tuyển mã. Thấy Thái tông và Ẩn Thái tử ngấm ngầm đấu đá, tranh nhau làm người thừa kế đế vị, ông thường khuyên ẩn Thái tử Kiến Thành sớm có dự tính. Sau khi giết được Ẩn Thái tử, Thái Tông triệu Ngụy Trưng vào trách ông:
− Ngươi chia rẽ quan hệ anh em ta là lý làm sao?
https://thuviensach.vn
Mọi người đều lo sợ cho tính mạng của Ngụy Trưng. Ngụy Trưng bình thản, đáp:
− Nếu hoàng Thái tử nghe lời ta thì nhất định không có tai họa ngày hôm nay.
Thái Tông bị xúc động bởi lời nói của ông, lấy làm kính trọng, cho ông làm Gián nghị đại phu. Thái Tông còn nhiều lần cho vời ông vào cung hỏi chuyện được mất trong trị quốc. Ngụy Trưng rất có tài trị nước, tính cách lại cương trực, không a dua, không gì có thể khiến ông lùi bước, khuất phục. Thái Tông mỗi lần nói chuyện với ông đều lấy làm thích thú. Ngụy Trưng cũng vui mừng khi gặp được đấng quân vương tri kỷ nên cống hiến hết tài năng của mình. Thái Tông còn úy lạo Ngụy Trưng:
− Những điều khanh can gián trẫm, trước sau cộng cả thảy hơn hai trăm việc, đều rất hợp ý trẫm, nếu không nhờ khanh trung thành vì nước thì sao được như vậy?
Năm Trinh Quán thứ ba, ông nhiều lần được thăng quan đến Bí thư giám, tham dự triều chính, ông mưu sâu lo xa, có rất nhiều kiến nghị có ích cho việc trị vì đất nước. Thái Tông từng bảo Ngụy Trưng:
− Tội của khanh còn lớn hơn Quản Trọng bắn Tề Hoàn Công, trẫm tín nhiệm khanh còn hơn Tề Hoàn Công tín nhiệm Quản Trọng, vua tôi ngày nay quan hệ khăng khít, lẽ nào còn có ai như trẫm với khanh?
Năm Trinh Quán thứ sáu, Thái Tông đến cung Cửu Thành, khoản đãi các đại thần thân cận, Trưởng Tôn Vô Kỵ nói:
− Vương Khuê và Ngụy Trưng năm xưa theo hầu Ấn Thái tử, tôi gặp bọn họ như gặp kẻ thù, không ngờ hôm nay lại cùng tham gia bữa tiệc này.
Thái Tông nói:
− Ngụy Trưng trước kia quả thực là người trẫm căm ghét, nhưng ông ấy tận trung với người mình thờ thì cũng có chỗ đáng khen. Trẫm trọng dụng ông ấy, có chỗ nào thẹn với bậc minh quân thời xưa? Thế
https://thuviensach.vn
mà Ngụy Trưng dám thẳng thắn can gián mà mạo phạm trẫm, thường không cho phép trẫm làm sai, bởi vậy trẫm trọng dụng ông ấy. Ngụy Trưng vái lạy nói:
− Bệ hạ dẫn dắt thần can gián nên thần mới dám thẳng thắn can gián, nếu bệ hạ không tiếp thu ý kiến của thần thì thần nào dám mạo phạm?
Thái Tông nghe xong vui lắm, lần lượt ban thưởng cho các đại thần mỗi người mười lăm vạn tiền. Năm Trinh Quán thứ bảy, Ngụy Trưng thay Vương Khuê làm Thị trung, được gia phong làm Trịnh quốc công. Không lâu sau, vì bị bệnh nên ông xin từ chức Thị trung, yêu cầu được từ quan. Thái Tông nói:
− Trẫm tuyển dụng khanh trong số những kẻ thù địch, bổ nhiệm khanh vào những chức vụ trọng yếu trông coi đại sự nước nhà, khanh thấy trẫm có sai lầm đều khuyên can. Lẽ nào khanh không thấy rằng vàng trong quặng chẳng đáng quý hay sao? Nhờ được thợ luyện cao tay mà thành đồ vật được người ta cho là quý giá. Trẫm tự ví mình như quặng vàng chưa được gia công, ví khanh như người thợ luyện cao tay nghề. Khanh tuy có bệnh, nhưng chưa già yếu, sao lại xin rút lui giữa chừng?
Thế nên Ngụy Trưng thôi xin từ quan. Sau này ông lại kiên quyết xin từ quan, Thái tông nghe theo, miễn chức Thị trung, bổ làm Đặc tiến, vẫn chủ quản việc ở Môn hạ tỉnh.
Năm Trinh Quán thứ mười hai, do sinh hoàng tôn (cháu trai) nên Thái tông mở tiệc thết đãi bá quan văn võ. Trong tiệc, Thái Tông vui lắm, bảo thị thần:
− Trước năm Trinh Quán, trong số những người theo trẫm bình định thiên hạ, xông pha gian lao khốn khó phải tính công lớn cho Phòng Huyền Linh, không ai sánh được. Sau năm Trinh Quán, người tận trung với trẫm, đóng góp những ý kiến chân thành chính trực, yên định nước nhà, có lợi cho trăm họ, giúp ta làm nên nghiệp lớn ngày
https://thuviensach.vn
nay, được cả thiên hạ khen ngợi chỉ có Ngụy Trưng mà thôi. Các bậc thanh thần thời xưa sao có thể vượt qua Ngụy Trưng được? Nói xong đích thân cởi đao mang theo người ra ban cho Phòng Huyền Linh và Ngụy Trưng. Sau đó Thái tử bị phế làm thứ nhân là Thừa Càn ở Xuân Cung, không chịu tu dưỡng đạo đức. Mà Ngụy vương Thái ngày càng nhận được nhiều ân sủng của Thái Tông, bá quan trong ngoài cung đình đều nghi hoặc bàn tán. Thái Tông nghe thấy rất ghét, bảo thị thần:
− Nay các đại thần trong triều, trung thành chính trực không ai bằng Ngụy Trưng, trẫm cử ông ấy đi dạy cho hoàng Thái tử để chấm dứt vọng tưởng của người trong thiên hạ.
Năm Trinh Quán thứ mười bảy, phong Ngụy Trưng làm Thái tử thái sư, chủ quản các việc trong Môn hạ tỉnh không thay đổi. Bản thân Ngụy Trưng dâng tấu nói có bệnh, Thái Tông nói:
− Thái tử là gốc rễ của tông miếu xã tắc, phải có thầy chỉ dẫn, bởi vậy cần chọn dùng người chính trực vô tư để dạy bảo hướng dẫn Thái tử. Trẫm biết khanh mắc bệnh, có thể nằm để dạy bảo Thái tử.
Khi ấy Ngụy Trưng mới chịu làm chức Thái tử thái sư, không lâu sau lại sinh bệnh. Trong nhà của Ngụy Trưng vốn không có chính đường, Thái Tông khi ấy đang cho tu sửa miếu nhỏ, bèn bảo dừng lại chuyển vật liệu tu sửa cho Ngụy Trưng xây chính đường, năm ngày thì hoàn công. Tiếp đó Thái Tông lại phái sứ giả trong cung ban chăn vải và đệm màu trắng cho Ngụy Trưng để đáp ứng nguyện vọng sống giản dị của ông. Sau đó vài ngày, Ngụy Trưng qua đời. Thái Tông đích thân đến linh đường lớn tiếng khóc, truy tặng cho ông làm Tư không, thụy hiệu là “Văn Trinh”. Thái Tông đích thân soạn văn bia, lại đích thân chấp bút viết lên bia đá. Đặc biệt ban cho nhà Ngụy Trưng thực ấp chín trăm hộ. Sau đó Thái tông bảo thị thần:
− Dùng đồng làm gương, có thể sửa sang mũ áo cho ngay ngắn; dùng thời cổ làm gương, có thể biết nguyên nhân thiên hạ hưng vong và triều đại thay đổi; dùng người làm gương có thể biết sự được mất
https://thuviensach.vn
của chính mình. Trẫm thường giữ ba tấm gương này, dùng để tránh mình mắc lỗi. Nay Ngụy Trưng mất đi, coi như ta đánh mất một tấm gương.
Vì thế ông khóc rất lâu. Sau đó xuống chiếu rằng:
− Trước kia chỉ có Ngụy Trưng chỉ ra lỗi lầm của ta, từ khi ông ấy mất đi, trẫm tuy có lỗi mà không có người hiểu được chỉ ra. Lẽ nào trước kia trẫm có sai lầm mà nay toàn đúng hết cả hay sao? Nguyên nhân chẳng qua là chúng quan cẩu thả thuận theo, không dám động đến vảy rồng mà thôi. Bởi thế trẫm thật lòng trưng cầu ý kiến, giải mối nghi hoặc trong lòng, nội tâm kiểm điểm. Nếu các khanh góp ý mà không được tiếp thu, trẫm cũng lấy làm vui mừng, nếu trẫm muốn tiếp thu mà các khanh lại không góp ý, thì đó là trách nhiệm của ai? Từ nay về sau, ai nấy phải tận trung, nếu trẫm có chỗ đúng đắn hay sai lầm cũng đều phải nói thẳng, không được che giấu.
✽✽✽
Vương Khuê là người huyện Kỳ − Thái Nguyên. Thời Đường Cao Tổ Võ Đức, ông làm Trung doãn trong Đông cung của Ẩn Thái tử, rất được Thái tử Kiến Thành kính trọng. Sau vì liên lụy việc Kiến Thành mưu tạo phản nên bị lưu đày đến Tây Châu. Sau khi Kiến Thành bị giết, Thái Tông lên ngôi hoàng đế, ông được vời làm Gián nghị đại phu. Ông hết lòng với tư cách là một bề tôi, hiến nhiều mưu kế hay. Vương Khuê từng dâng mật tấu, khuyên can thẳng thắn, Thái Tông bảo ông:
− Những điều khanh phê bình trẫm đều rất đúng với lỗi lầm của trẫm, xưa nay những kẻ làm vua không ai không muốn nước nhà thịnh trị lâu bền, nhưng không thực hiện được, chỉ vì nghe không lọt tai khi người khác chỉ trích lỗi lầm của mình, hoặc có nghe mà không sửa được. Nay ta có lỗi, khanh có thể thẳng lời khuyên can, trẫm lại biết nghe rồi sửa, còn lo gì nước nhà không bình yên?
Thái Tông từng bảo Vương Khuê:
https://thuviensach.vn
− Nếu khanh làm gián quan mãi thì trẫm sẽ không bao giờ có lỗi lầm.
Rồi đối xử với Vương Khuê ngày càng hậu.
Năm Trinh Quán thứ nhất, Vương Khuê bổ làm Hoàng môn thị lang, tham dự đại sự triều chính, kiêm nhiệm Thái tử hữu thứ tử. Năm Trinh Quán thứ hai được thăng làm Thị trung. Khi ấy Phòng Huyền Linh, Ngụy Trưng, Lý Tịnh, Ôn Ngạn Bác, Đới Trụ và Vương Khuê cùng chủ trì triều chính, thường vì vậy mà được hầu tiệc. Thái Tông bảo Vương Khuê:
− Khanh có tài phân biệt thẩm tra, nhất là giỏi bàn luận, từ bọn Huyền Linh trở đi đều có thể đánh giá được, lại còn có thể tự đánh giá, vậy khanh thử so sánh xem mình hiền năng hơn ai trong số bọn họ? Vương Khuê đáp:
− Xử lý việc nước không biết mệt mỏi, biết rằng không việc gì không làm được, thần không bằng Huyền Linh. Thường canh cánh trong lòng chuyện can gián, làm cho nhà vua hổ thẹn mình không bằng Nghiêu Thuấn, thần không bằng Ngụy Trưng. Văn tài võ lược song toàn, ra đi thì có thể dẫn quân, vào triều có thể làm tướng, thần không bằng Lý Tịnh. Trình bày sự việc, chi tiết rõ ràng, truyền đạt thánh chỉ, trên cung kính dưới hòa nhã, kiên trì công bằng, thần không bằng Ôn Ngạn Bác. Xử lý sự vụ khéo léo, mọi việc đều chăm chỉ thực hiện, thần không bằng Đối Trụ. Còn về tiễu trừ ô trọc, biểu dương thanh liêm, căm ghét tà ác, yêu thích thiện lương, thần hơn mấy người bọn họ một chút.
Thái Tông rất tán đồng lời ông, mọi đại thần cũng đều cho Vương Khuê đã nói đúng những điều mình nghĩ, cho rằng lời bình luận của ông là đúng đắn.
✽✽✽
Lý Tịnh là người Tam Nguyên — Kinh Triệu. Cuối năm Tùy Dạng Đế Đại Nghiệp, ông làm Mã ấp quận thừa, khi ấy Đường Cao
https://thuviensach.vn
Tổ Lý Uyên làm Thái Nguyên lưu thú, Lý Tịnh quan sát mọi việc làm của Cao Tổ, biết rằng ông có chí lớn lấy thiên hạ. Bởi vậy ông tự mình phong tỏa giữ ấp, báo cáo triều đình tình hình Cao Tổ sắp dấy binh, đồng thời dự định đến Giang Đô tấn kiến Tùy Dạng Đế. Đến Trường An, vì đường đi bị tắc nghẽn nên dừng lại. Cao Tổ tấn công kinh thành Trường An, bắt được Lý Tịnh, định giết ông. Lý Tịnh lớn tiếng kêu lên:
− Ngài khởi nghĩa là để diệt trừ bạo loạn, không muốn làm nên đại nghiệp thống nhất thiên hạ, lại lấy ân oán cá nhân mà giết tráng sĩ sao?
Thái Tông cũng đến xin, Cao Tổ bèn tha cho ông. Trong năm Võ Đức, Lý Tịnh vì bình định Tiêu Tiển, có công lớn nên được thăng quan làm Dương Châu đại đô đốc phủ trưởng sử. Thái Tông kế vị, bổ Lý Tịnh làm Hình bộ thượng thư. Năm Trinh Quán thứ hai, Lý Tịnh làm Hình bộ thượng thư kiêm Trung thư lệnh. Năm Trinh Quán thứ ba, ông chuyển sang làm Binh bộ thượng thư, kiêm nhiệm Đại châu đạo hành quân tổng quản, tiếp đó dẫn quân tấn công thành Định Tương bị người Đột Quyết chiếm lĩnh và giành lại thành. Các bộ lạc Đột Quyết đều trốn đến sa mạc lớn về phía bắc, còn bắt được con trai Tề vương Dương Giản nhà Tùy là Dương Chính Đạo và Tiêu hoàng hậu của Tùy Dạng Đế, giải họ đến Trường An; Đột Lợi Khả Hãn của tộc Đột Quyết đến xin đầu hàng, Hiệt Lợi Khả Hãn một mình bỏ trốn. Thái Tông bảo Lý Tịnh:
− Ngày trước Lý Lăng dẫn năm nghìn bộ binh đánh nhau với quân Hung Nô, không tránh được thất bại mà đầu hàng Hung Nô, còn được ghi tên vào sử sách. Khanh chỉ dẫn ba nghìn kỵ binh, đánh sâu vào nội địa Đột Quyết, thu phục Định Tương, uy chấn các tộc phương bắc, quả thực là xưa nay chưa từng có, đủ để báo thù cho sự nhẫn nhịn ở Vị Thủy năm xưa.
Nhờ lập công lớn mà ông được tấn phong làm Đại quốc công. Thủ lĩnh Đột Quyết Hiệt Lợi Khả Hãn vô cùng sợ hãi. Năm Trinh
https://thuviensach.vn
Quán thứ tư, rút quân về thủ ở Thiết Sơn, đồng thời phái sứ giả vào triều thỉnh tội, xin đưa cả nước theo nhà Đường. Thái Tông lại bổ Lý Tịnh làm Định Tương đạo hành quân tổng quản, đến Đột Quyết đón tiếp Hiệt Lợi Khả Hãn. Hiệt Lợi Khả Hãn tuy về ngoài xin đầu hàng, nhưng trong lòng lại có ý do dự. Thái Tông hạ chiếu phái Hồng lư khanh Đường Kiệm, Đại lý lư bộ thượng thư tướng quân An Tu Nhân đến an ủi Hiệt Lợi Khả Hãn. Lý Tịnh bảo phó tướng Trương Công Cẩn:
− Sứ giả mà triều đình phái khiển đến Đột Quyết, Hiệt Lợi Khả Hãn được an ủi nhất định sẽ buông lỏng cảnh giác, ngươi hãy chọn ra kỵ binh tinh nhuệ, mang theo hai mươi ngày lương thực, dẫn họ từ Bạch Đạo đến tập kích Đột Quyết.
Trương Công Cẩn nói:
− Đã cho phép Hiệt Lợi Khả Hãn xin hàng, sứ thần triều đình phái đi còn ở đó thì không nên đi thảo phạt.
Lý Tịnh nói:
− Đây là cơ hội tốt để dụng binh, thời cơ không được bỏ lỡ. Thế rồi ông thúc quân nhanh chóng tiến đến nơi ở của Hiệt Lợi Khả Hãn. Hành quân đến Âm Sơn thì gặp hơn một nghìn kỵ binh trinh sát của Hiệt Lợi Khả Hãn, bắt hết bọn họ và áp giải đến trước quân Tùy. Hiệt Lợi Khả Hãn thấy sứ giả mà Thái Tông phái đi rất vui mừng, không ngờ quan binh Đường triều đã theo sứ thần đến. Quân đội của Lý Tịnh nhân sương mù tiến lên, cách quân doanh của Hiệt Lợi Khả Hãn chỉ có bảy dặm đường, Hiệt Lợi Khả Hãn mới phát giác, ông ta hốt hoảng dẫn binh bày trận, trận thế chưa bày xong thì người ngựa của Lý Tịnh đã đến, ông ta bèn cưỡi một con ngựa trốn chạy, người ngựa của ông ta vì thế tan rã bỏ trốn. Quân Đường giết chết hơn một vạn người của Hiệt Lợi Khả Hãn, còn giết cả vợ ông ta − Nghĩa Thành công chúa của nhà Tùy, bắt hơn mười vạn nam nữ, cương thổ mở rộng từ Âm Sơn đến đại sa mạc phía bắc, cuối cùng tiêu diệt được Đột Quyết. Không lâu sau lại bắt được Hiệt Lợi Khả Hãn ở bộ lạc
https://thuviensach.vn
khác, khi ấy bộ hạ của Hiệt Lợi Khả Hãn mới đầu hàng toàn bộ. Thái Tông rất mừng, bảo thị thần:
− Trẫm nghe nói nhà vua lo lắng, bề tôi phải lấy làm hổ thẹn; nhà vua hổ thẹn, bề tôi phải tận tiết. Ngày trước khi mới mở nước, Đột Quyết hung bạo, Thái thượng hoàng vì trăm họ mà xưng thần với Hiệt Lợi Khả Hãn, sao trẫm lại không vì thế mà đau lòng, vì thế trẫm lập chí tiêu diệt Hung Nô, đứng ngồi không yên, ăn cũng không thấy ngon. Nay mới điều động được một cánh quân, đến đâu thắng đó, rửa được nỗi nhục này.
Quần thần đều hô vang vạn tuế. Không lâu sau, gia phong Lý Tịnh làm Quang Lộc đại phu, Thượng thư hữu bộc xạ, ban cho ông thực ấp năm trăm hộ. Tiếp đó lại bổ Lý Tịnh làm Tây hải đạo hành quân đại tổng quản, chinh phạt Thổ Cốc Hồn, đại phá nước này. Cải phong cho Lý Tịnh làm Vệ quốc công. Sau đó khi Lý Tịnh qua đời, Thái tông ban chiếu lệnh, cho phép xây một công trình kiến trúc cao lớn trước mộ Lý Tịnh, tượng trưng cho núi Yên Nhiên ở lãnh thổ Đột Quyêt và núi Thích Thạch ở lãnh thổ Thổ Cốc Hồn, để ca ngợi công huân to lớn của Lý Tịnh.
✽✽✽
Ngu Thế Nam là người Dư Diêu − Hội Kê. Năm Trinh Quán thứ nhất, Thái Tông cho vời ông vào triều và đãi làm thượng khách, mở quán văn học. Khi ấy những người được cho là nhân tài trong quán văn học nhiều vô cùng, nhưng mọi người đều tôn Ngu Thế Nam là bậc thầy văn học. Thái Tông bổ nhiệm ông làm Ký thất, cùng Phòng Huyền Linh trông coi công văn thư tín. Thái Tông từng lệnh cho ông soạn “Liệt nữ truyện” để trang trí bình phong, khi ấy chưa có sách “Liệt nữ truyện”, Ngu Thế Nam bèn âm thầm viết ra, không một chút sơ sót. Năm Trinh Quán thứ bảy, ông nhiều lần được thăng làm Bí thư giám. Thái Tông thường cho vời ông đến bàn luận đại sự hoặc cùng xem kinh sử vào những lúc rảnh rỗi sau khi xử lý chính sự; Ngu Thế
https://thuviensach.vn
Nam tuy dung mạo nho nhã, cơ thể gầy yếu, như thể không chịu nổi ngay cả trọng lượng của quần áo, nhưng ông có ý chí kiên định, tính cách cứng rắn, mỗi lần bàn luận đến thành bại trong trị nước của các đế vương cổ đại ông đều gửi gắm lời can gián trong ngôn từ của mình, điều này rất có ích cho việc trị nước của Thái Tông. Sau khi Cao Tổ Lý Uyên qua đời, Thái Tông để tang vượt quá quy định của “lễ”, bi ai quá mức khiến ông trở nên gầy yếu tiều tụy, hơn nữa bỏ bê triều chính trong một thời gian dài, văn võ bá quan không biết phải làm sao. Ngu Thế Nam thường vào cung khuyên can Thái tông, Thái Tông khen lòng trung của ông và tiếp thu lời khuyên can, do đó ngày càng gần gũi và nể trọng ông.
Thái Tông nói với thị thần:
− Lúc nhàn rỗi, trẫm thường đàm luận chuyện cổ kim cùng Ngu Thế Nam. Trẫm có một lời hay, Thế Nam thảy đều lấy làm mừng; trẫm có một lời sai, Thế Nam đều lấy làm tiếc. Ông ấy thực là trung thành nên trẫm khen ngợi ông ấy. Mọi đại thần đều được như Ngu Thế Nam thì còn lo thiên hạ không trị được hay sao?
Thái Tông từng khen Ngu Thế Nam có năm ưu điểm đáng quý nhất: một là đức hạnh tốt, hai là lòng trung chính, ba là học vấn uyên bác, bốn là văn chương hoa mỹ, năm là thư pháp xuất chúng. Sau đó khi Thế Nam qua đời, Thái Tông đã làm lễ tế ai điếu trước Thiên điện, khóc rất đau lòng. Tang sự của Ngu Thế Nam, chi phí đều được cấp, truy tặng làm Lễ bộ thượng thư, thụy hiệu là Văn Ý. Thái Tông còn đích thân viết một chiếu thư cho Ngụy vương Thái, nói: “Ngu Thế Nam đối với trẫm giống như một chỉnh thể không thể tách rời. Ông ấy trám các lỗ hổng cho quốc sự, không một ngày tạm quên, thực xứng là bậc danh thần thời đại, làm tấm gương cho mọi người. Trẫm có điều thiện nhỏ, ông ấy nhất định tán thành; trẫm có một lỗi nhỏ, ông ấy không sợ mạo phạm mà thẳng lời khuyên can. Nay ông ấy đã mất đi, không còn thấy được bóng dáng ông ấy trong Thạch Cừ, Đông Quan, nỗi tiếc thương này sao có thể nói hết được bằng lời?”. Không lâu sau,
https://thuviensach.vn
Thái Tông làm một bài thơ hồi ức đạo lý trị và loạn thời xưa, tiếp đó cảm thán muôn phần, nói:
− Chung Tử Kỳ chết đi, Du Bá Nha đập vỡ cây đàn, bài thơ này của trẫm sẽ cho ai dọc đây?
Rồi sai người mang bài thi cảo đến trước linh cữu Ngu Thế Nam, đọc xong rồi đốt bài thơ để điếu. Nỗi xót xa thương tiếc của Thái Tông đối với Ngu Thế Nam quả thực là sâu sắc. Thái Tông lại lệnh vẽ hình hai mươi bốn người trong đó có Ngu Thế Nam, Phòng Huyền Linh, Trưởng Tôn Vô Kỵ, Đỗ Như Hối, Lý Tịnh... lên tường lăng Yên Các.
✽✽✽
Lý Tích là người Ly Hồ − Tào Châu, ông vốn họ Từ, lúc đầu làm quan thuộc hạ của Lý Mật, chức Tả võ hầu đại tướng quân. Sau đó Lý Mật bị Vương Thế Sung đánh bại, dẫn quân theo nhà Đường, Lý Tích còn chiếm cứ mười quận trước kia thuộc đất của Lý Mật. Năm Đường Cao Tổ Võ Đức thứ hai, Lý Tích nói với Trưởng sử Quách Hiếu Khác:
− Ngụy công (Lý Mật) đã quy thuận nhà Đường, nay nhân khẩu đất đai ở đây đều thuộc sở hữu của Ngụy công. Nếu ta dâng biểu hiến cho Đại Đường thì là mưu lợi nhân khi chủ nhân thất bại, coi là công lao của mình, dùng để đổi lấy quyền quý, đó là điều ta cho là sỉ nhục. Nay nên đăng ký toàn bộ đất đai và quân đội, nhân khẩu trăm họ của châu huyện, tổng kết lại rồi báo lên Ngụy công, để mặc người tự đi dâng hiến. Làm như vậy là công lao của Ngụy công, chẳng phải rất tốt ư?
Rồi ông phái sứ giả gửi một bức thư đến Lý Mật. Sứ giả vừa đến, Cao Tổ nghe nói không có tấu chương, chỉ có một bức thư gửi cho Lý Mật thì rất lấy làm lạ. Sứ giả bèn tâu suy nghĩ của Lý Tích cho Cao Tổ hay, Cao Tổ mới lấy làm vui mừng, nói:
− Từ Tích cảm kích ân đức, nhường công lao, thực là bề tôi trung trinh chính trực.
https://thuviensach.vn
Xong bổ nhiệm ông làm Lê Châu tổng đốc, đồng thời ban cho họ Lý, giao họ hàng thân thích của ông cho Tông Chính trông coi. Phong cho cha ông là Lý Cái làm Tế âm vương, Lý Cái kiên quyết từ chối vương vị, nên đổi thành Thư quốc công. Không lâu sau, gia phong Lý Tích làm Hữu võ hầu đại tướng quân. Sau đó, Lý Mật làm phản bị triều đình giết, Lý Tích đích thân phát tang cho Lý Mật, mặc tang phục, hoàn toàn theo nghi lễ quân thần. Đồng thời ông còn dâng một bản tấu chương, xin cho để tang Lý Mật, Cao Tổ bèn giao thi thể Lý Mật cho Lý Tích. Lý Tích bèn chế ra nghi lễ mai táng, quân đội do ông thống lĩnh đều mặc tang phục màu trắng, táng Lý Mật ở núi Lê Dương. Tang lễ kết thúc, ông cởi tang phục bảo mọi người tự quay về. Triều đình và dân gian đều cho là Lý Tích tuân thủ đạo nghĩa. Không lâu sau, Lý Tích bị Đậu Kiến Đức tấn công, ông lại một mình trốn về kinh thành. Sau đó ông theo Thái Tông chinh phạt Vương Thế Sung, Đậu Kiến Đức, bình định được bọn họ. Năm Trinh Quán thứ nhất, Lý Tích được bổ nhiệm làm Tính Châu đô đốc, mệnh lệnh phát ra lập tức chấp hành, cấm lệnh vừa ra lập tức dừng lại, được cho là một đô đốc tận trách, người Đột Quyết rất sợ ông.
Thái Tông bảo các thị thần:
− Tùy Dạng Đế không biết tỉ mỉ tuyển chọn nhân tài hiền tướng để trấn giữ biên cương quan ải, vỗ về bá tánh, chỉ dựa vào nơi xa xôi để tu sửa Trường Thành, đóng thật nhiều quân để phòng ngừa người Đột Quyết, tư tưởng ông ta thật hồ đồ hết mức. Nay trẫm bổ nhiệm Lý Tích làm đô đôc ở Tính Châu là khiến Đột Quyết sợ mà lánh xa, thành trì biên cương được bình yên, lẽ nào không hơn Trường Thành vạn dặm hay sao?
Sau đó, Tính Châu đặt Đại đô đốc phủ, lại bổ Lý Tích làm Trường sử, gia phong là Anh quốc công. Lý Tích trấn thủ 16 năm ở Tính Châu, lại được điều về kinh thành làm Binh bộ thượng thư, còn kiêm trông coi đại sự triều chính. Có lần Lý Tích đột ngột mắc bệnh, Nghiêm Phương nói than do râu đốt thành có thể chữa được, Thái
https://thuviensach.vn
Tông bèn tự tay cắt râu mình cho Lý Tích làm thuốc. Lý Tích dập đầu chảy máu, khóc lóc tạ ơn. Thái Tông nói:
− Trẫm chỉ nghĩ cho nước nhà thôi, không cần phải tạ ơn. Năm Trinh Quán thứ mười bảy, Lý Trị vào ở Xuân cung làm Thái tử, Lý Tích lại được điều làm Thái tử chiêm sự, gia phong làm Đặc tiến, vẫn tham gia trông coi đại sự triều chính. Thái Tông bày tiệc khoản đãi các đại thần, trong tiệc ông nhìn Lý Tích rồi nói: − Trẫm dự tính phó thác Thái tử cho người khác, suy nghĩ mãi không thấy có ai thích hợp hơn khanh. Khanh trước kia không bỏ Lý Mật, nay lẽ nào lại phụ trẫm?
Lý Tích gạt nước mặt đáp tạ và cắn ngón tay, máu tươi chảy xuống. Một lát sau, Lý Tích uống say mèm, Thái Tông cởi y phục của mình đắp cho ông. Ông đã được Thái Tông tin tưởng sâu sắc. Lý Tích mỗi lần hành quân đánh trận, lên kế hoạch dụng binh, gặp địch thì linh hoạt đối phó, mọi hành động đều phù hợp với thời cơ. Từ năm Trinh Quán thứ nhất trở đi, Hiệt Lợi Khả Hãn, Tiết Diên Đà... đều bại dưới tay ông. Thái Tông từng nói:
− Hai người Lý Tịnh, Lý Tích, các danh tướng Hàn Tín, Bạch Khởi, Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh ngày xưa sao sánh bằng được?
✽✽✽
Mã Chu là người Trang Bình − Bác Châu. Năm Trinh Quán thứ năm, ông đến kinh thành Trường An, sống trong nhà Trung lang tướng Thường Hà. Khi ấy Đường Thái Tông lệnh cho văn võ bá quan dâng sớ bàn về sự được mất trong trị nước, Mã Chu kể ra cho Thường Hà hơn hai mươi việc cần làm, Thái Tông lệnh dâng bản tấu, những việc tấu lên đều hợp ý Thái Tông. Thái Tông lấy làm lạ trước tài năng của Thường Hà, bèn hỏi Thường Hà. Thường Hà đáp:
− Đây không phải là ý kiến do thần đề ra, mà là Mã Chu, gia khách của thần.
https://thuviensach.vn
Ngay hôm đó Thái Tông cho triệu kiến Mã Chu, trong thời gian Mã Chu chưa vào cung, Thái Tông đã bốn lần sai người đốc thúc, lúc ấy ông mới vào cung bái kiến, Thái Tông nói chuyện với ông rất lấy làm vui mừng. Sau đó, Thái Tông ra lệnh sắp xếp ông vào Môn hạ tỉnh, ban cho chức Giám sát ngự sử, rồi được thăng đến Trung thư xá nhân. Mã Chu rất cơ trí khéo léo, giỏi tấu trình, hiểu sâu sắc từng sự việc, do đó những việc ông dâng tấu đều phù hợp với thực tế. Thái Tông từng nói:
− Ta đối với Mã Chu, chỉ cần tạm thời không gặp là thấy nhớ. Năm Trinh Quán thứ mười tám, ông được thăng làm Trung thư lệnh kiêm Thái tử tả thứ tử. Mã Chu đã kiêm nhiệm hai chức quan, xử lý công việc lại hòa nhã công chính, nên rất được người đương thời khen ngợi. Sau đó lại được bổ làm Lại bộ thượng thư, Thái Tông từng nói với bá quan:
− Mã Chu quan sát sự vật nhạy cảm nhanh chóng, phẩm tính lại rất trung thành chính trực, còn về bình luận đánh giá người khác, cũng rất công bằng thẳng thắn. Gần đây trẫm bổ nhiệm người ông ấy tiến cử, đa số đều hợp ý trầm. Ông ấy đã ra sức trung thành, gần gũi quy phục trẫm, quả thực là có thể nhờ ông ấy để cùng làm cho chính cục nước nhà khang ninh.
https://thuviensach.vn
YÊU CẦU CAN GIÁN
Đường Thái Tông có vẻ ngoài uy nghi, sắc mặt nghiêm túc, bách quan vào tấn kiến đều có cử chỉ bối rối. Thái Tông biết vậy nên mỗi ngày tiếp kiến bề tôi dâng tấu sự việc, đều tỏ ra vui vẻ, hy vọng nhận được lời can gián thẳng thắn của các đại thần để biết sự được mất trong giáo hóa chính trị. Năm Trinh Quán thứ nhất, Thái Tông từng bảo các vương công đại thần:
− Người ta muốn nhìn thấy mặt mình thì phải có một tấm gương; một bậc quân vương muốn biết lỗi lầm của mình phải nhờ vào trung thần. Nếu quân vương tự cho mình hiền năng, bề tôi lại không uốn sửa mà muốn không rơi vào cảnh thất bại thì làm sao được? Bởi vậy vua mất nước, bề tôi cũng không thể bảo toàn cho cả nhà. Còn những chuyện tàn bạo dâm dật như Tùy Dạng Đế, bề tôi đều im lặng không nói, cuối cùng khiến mình không nghe thấy lỗi lầm của mình, kết quả là nước mất thân vong, bọn Ngu Thế Cơ bề tôi của ông ta không lâu sau cũng bị tru di. Việc ở triều trước không xa, các khanh sau này thấy việc gì trẫm làm bất lợi cho trăm họ thì nhất định phải thẳng thắn khuyên can.
Năm Trinh Quán thứ nhất, Đường Thái Tông bảo thị thần: − Nhà vua chính trực mà dùng bề tôi gian tà sẽ không thể giúp nước nhà thịnh trị; bề tôi trung chính thờ vua tàn ác cũng không thể giúp nước nhà thịnh trị; chỉ có nhà vua chính trực gặp bề tôi trung chính giống như cá gặp nước thì thiên hạ mới được yên định. Trẫm tuy không thông minh, nhưng may nhờ có các khanh bao lần sửa đổi bổ
https://thuviensach.vn
cứu, cho nên mong các khanh dâng tấu thẳng thắn để thiên hạ được thái bình.
Gián nghị đại phu Vương Khuê nói:
− Thần nghe nói gỗ được kẻ bằng dây mực có thể được cưa thẳng, quân vương tiếp thu can gián sẽ thánh minh. Bởi vậy các bậc minh quân thuở xưa nhất định có bề tôi thẳng thắn can gián, nếu lời can gián không được quân vương tiếp thu sẽ lấy cái chết để can. Bệ hạ khơi mở suy nghĩ thánh minh, tiếp thu ý kiến của kẻ thấp hèn, ngu thần được ở trong triều đại không có kỵ húy, xin nguyện đem hết sức khuyển mã phò tá.
Thái Tông khen ngợi lời Vương Khuê rồi hạ lệnh từ nay về sau tể tướng vào cung bàn việc lớn nước nhà nhất định phải cho gián quan cùng theo vào cung tham dự để tìm hiểu tình hình, nếu có can gián nhất định sẽ khiêm tốn tiếp thu.
Năm Trinh Quán thứ hai, Đường Thái Tông bảo các thị thần: − Bậc minh quân luôn nghĩ đến điểm yếu của mình cho nên càng ngày càng tốt, kẻ hôn quân che giấu điểm yếu của mình nên mãi mãi ngu muội. Tùy Dạng Đế thích khoe khoang điểm mạnh, che giấu điểm yếu của mình nên không chịu nghe lời can gián, bề tôi quả thực khó xử. Ngu Thế Cơ không dám thẳng thắn thì cũng không thể coi là tội lớn. Cơ Tử nhà Thương giả điên để bảo toàn tính mệnh, Khổng Tử cũng nói nhân. Sau đó Tùy Dạng Đế bị giết, Ngu Thế Cơ phải chết theo ông ta hay sao?
Đỗ Như Hối đáp:
− Thiên tử có bề tôi cương chính trực ngôn thì dù vô đạo cũng không đến nỗi đánh mất thiên hạ. Khổng Tử nói: “Sử Ngư là người cương trực. Đất nước có đạo, ông cũng thẳng như tên; đất nước vô đạo, ông cũng thẳng như tên”. Ngu Thế Cơ sao có thể vì Tùy Dạng Đế vô đạo, không tiếp thu can gián mà im lặng không nói? Ở địa vị trọng yếu mà sợ sệt cầu an, lại không biết tự xin thôi giữ chức thì so với việc Cơ Tử giả điên bỏ trốn, đạo lý khác hẳn. Xưa Tấn Huệ Đế, Giả Hậu
https://thuviensach.vn
định phế bỏ Thái tử Mẫn Hoài, với tư cách là Tư không, Trương Hoa lại không ra sức can gián, mà nghe theo ý chỉ của Huệ Đế và Giả Hậu để tránh tai họa. Triệu vương Luân bèn dấy binh phế truất Giả Hậu, phái người trách móc Trương Hoa, Trương Hoa nói: “Khi phế Thái tử, không phải là tôi giữ im lặng, mà khi ấy lời nói ra không được tiếp thu”. Sứ giả nói: “Ông ở chức Tam công, Thái tử không có tội mà bị phế truất, lời can gián lại không được tiếp thu, sao không tự từ quan về ở ẩn?”. Trương Hoa không biết đối đáp sao, sứ giả giết chết ông ta, diệt cả ba họ. Cổ nhân nói: “Nước nhà nguy cấp mà không giúp đỡ, nghiêng ngả mà không ứng cứu thì sao có thể dùng loại người này làm phò tá?”. Vì thế “quân tử đứng trước tử nạn mà khí tiết không đổi”. Trương Hoa nói lời trốn tránh trách nhiệm đã không thể bảo toàn tính mạng, tiết tháo của bậc bề tôi vốn đã mất. Ngu Thế Cơ giữ chức Thừa tướng, ở địa vị có thể nói được, vậy mà không có một lời ngay thẳng khuyên can Dạng Đế, quả thực là đáng chết.
Thái Tông nói:
− Lời khanh nói rất đúng. Bề tôi nhất định phải trung lương phò tá mới có thể giữ được an toàn cho bản thân và giúp nước nhà thái bình. Lẽ nào Tùy Dạng Đế không phải vi dưới không có trung thần, bản thân lại không thấy lỗi lầm của mình, nên tội ác chồng chất, nên họa mất nước vong thân mới giáng xuống ông ta đó sao? Nếu việc vua làm không đúng mà bề tôi lại không khuyên can giúp đỡ, một mực a dua thuận theo, việc gì cũng nói là hay thì vua đó là hôn quân, bề tôi đó là nịnh thần, vua ngu tối, bề tôi xu nịnh, nước nhà nguy vong không cần nhiều thời gian đâu. Chí hướng của ta hiện nay là làm cho vua tôi trên dưới đồng lòng, ai nấy đều công chính để giúp cho thiên hạ đại trị. Các khanh phải hết mực trung thành, thẳng thắn khuyên can, sửa chữa khuyết điểm và lỗi lầm của trẫm, trẫm nhất định sẽ không coi lời khuyên can thẳng thắn của các khanh là ngược lại ý chỉ mà nổi giận trách cứ.
✽✽✽
https://thuviensach.vn
Năm Trinh Quán thứ ba, Đường Thái Tông nói với Tư không Bùi Thúc:
− Gần đây có đại thần dâng sớ tấu việc, điều khoản quá nhiều, trẫm đã cho dán lên tường để đi ra đi vào đều nhìn thấy và suy ngẫm. Sở dĩ chăm chỉ không biết mệt như vậy là muốn hiểu rõ tư tưởng của quần thần. Trẫm mỗi lần nghĩ đến việc trị vì nước nhà, đôi khi đến canh ba mới ngủ. Cũng mong các khanh cố công suy nghĩ, đừng lười biếng, để hợp với ý trẫm.
✽✽✽
Năm Trinh Quán thứ năm, Đường Thái Tông nói với Phòng Huyền Linh:
− Xưa nay trong số các bậc đế vương có nhiều người phóng túng tính tình, hỷ nộ vô thường, vui thì tùy tiện ban thưởng cho kẻ không có công lao, giận thì giết bừa người vô tội. Vì thế nước nhà gặp tổn thất, gây nên hỗn loạn, tất cả đều bắt đầu từ đó. Nay trẫm sớm tôi không lúc nào không để chuyện này trong lòng, thường hy vọng các khanh hết lòng ra sức khuyên can. Các khanh cũng phải tiếp thu lời khuyên can của người khác, sao có thể vì lời người ta không hợp ý mình mà lập tức lấp liếm sở đoản không chịu tiếp thu? Nếu mình không thể tiếp thu lời khuyên của người khác thì sao có thể khuyên can người ta?
✽✽✽
Năm Trinh Quán thứ sáu, vì Ngự sử đại phu Vi Đỉnh, Trung thư thị lang Đỗ Chính Luân, Bí thư thiếu giám Ngu Thế Nam, Trước tác lang Diêu Tư Liêm cùng dâng mật tấu, những việc được tấu đều hợp ý Thái Tông, nên Thái Tông cho vời bọn họ vào gặp và nói với họ:
− Trẫm nhận thấy, các bề tôi xưa nay xây dựng sự nghiệp trung quân báo quốc, nếu gặp vua hiền minh thì phải hết lòng trung thành
https://thuviensach.vn
khuyên can, còn như các bề tôi như Long Phùng, Tỷ Can đã không tránh được hình sát, còn liên lụy gây họa cho vợ con. Làm một đấng minh quân không dễ, làm một bậc bề tôi trung trực cũng rất khó. Trẫm lại nghe nói rồng có thể thuần dưỡng mà hàng phục nó, nhưng dưới cằm nó có vảy ngược, chạm vào vảy ngược sẽ chết người, quân vương cũng vậy. Mấy người các khanh không ngại chạm vảy ngược, ai nấy dâng sớ tấu việc. Thường xuyên được như vậy, trẫm sao có thể lo nước nhà nghiêng ngả? Cứ nghĩ đến tấm lòng trung quân của các khanh, trẫm không một khắc dám quên, bởi vậy cho vời các khanh đến bày tiệc cùng vui hưởng.
Tan tiệc, còn ban thưởng gấm vóc cho họ.
✽✽✽
Thái thường khanh Vi Đỉnh thường xuyên dâng sớ trình bày sự được mất trong việc trị nước, Đường Thái Tông viết một bức thư cho ông, rằng: “Nhận được tấu chương khanh viết, trong đó đều là những lời lẽ trung thành chính trực, ngôn từ và đạo lý đều hay, đọc xong, trẫm cảm thấy rất mừng. Nếu thời Xuân Thu nước Tề xảy ra nội loạn, Quản Di có tội bắn trúng móc áo của Tề Hoàn Công; binh dịch xảy ra ở Bồ Thành nước Tấn, Bột Đề có thù dùng kiếm chém gấu áo của Tấn Văn Công. Tuy nhiên Tề Hoàn Công không vì tội bắn móc áo mà hoài nghi Quản Trọng, Tấn Văn Công đối xử với Bột Đề vẫn như cũ, lẽ nào không phải nghĩ đến việc vua tôi cùng chí hướng đó sao? Thành ý sâu sắc của khanh có thể thấy được qua bản tấu chương. Nếu kiên trì giữ được tiết tháo này sẽ có thể giữ được danh tốt; nếu lơ là lười biếng há chẳng đáng tiếc lắm sao? Từ đầu tới cuối khuyên răn mình, để lại tấm gương cho hậu thế, nên làm cho người đời sau nhìn người đời nay cũng giống người đời nay nhìn người đời xưa, chẳng phải rất tốt hay sao? Trẫm gần đây không được nghe người ta bàn luận về lỗi lầm của mình, không nhìn thấy được khiếm khuyết của mình, hoàn toàn nhờ vào lòng trung nghĩa của khanh, nhiều lần dâng lời hay lên trẫm, tưới
https://thuviensach.vn
nhuần tâm điền trẫm, lòng trung thành chính trực của khanh nhất thời không nói hết được.
✽✽✽
Năm Trinh Quán thứ tám, Thái Tông bảo thị thần:
− Mỗi lần trẫm nhàn rỗi tĩnh tọa, lại tự kiểm lòng mình, thường sợ việc làm của mình trên không hợp ý trời, dưới bị dân oán hận. Chỉ muốn có được người chính trực hết lòng khuyên can, hy vọng điều mình mắt thấy tai nghe tương thông với bên ngoài, làm cho trăm họ không oán hận trong lòng mà cố kết không thông. Ngoài ra, gần đây nhìn thấy những người đến dâng tấu, phần lớn vì lòng sợ hãi mà lời nói không ra đầu cuối. Tấu việc bình thường mà tình hình còn như vậy huông hồ là muốn trực ngôn can gián, chắc chắn sẽ sợ chạm phải vảy rồng ngược. Bởi vậy dù việc tấu lên không hợp ý trẫm, trẫm cũng không cho là phạm thượng. Nếu khi ấy trẫm trách mắng, trẫm sợ người tấu việc sẽ sợ hãi, sao còn dám nói nữa?
✽✽✽
Năm Trinh Quán thứ mười lăm, Đường Thái Tông hỏi Ngụy Trưng:
− Gần đây các đại thần trong triều đều không bàn chính sự, tại sao vậy?
Ngụy Trưng đáp:
− Bệ hạ khiêm tốn tiếp thu ý kiến của bề tôi, đáng lẽ phải có chuyện để nói. Nhưng như cổ nhân nói: “Người không tín nhiệm đến khuyên can thì bị cho là phỉ báng mình; người tín nhiệm không đến khuyên can thì gọi là được ăn lộc mà không tận chức”. Thế nhưng, tài năng khí độ mỗi người mỗi khác. Kẻ yếu đuối tuy có cái tâm chính trực nhưng không thể nói ra; kẻ bị vua xa lánh thì lo không được tín nhiệm nên không dám nói; kẻ trong lòng chỉ nghĩ đến bổng lộc thì chỉ
https://thuviensach.vn
lo bất lợi cho bản thân, cho nên không dám nói. Bởi vậy người ta giữ im lặng, để trôi theo sóng, sống qua ngày.
Thái Tông nói:
− Quả như khanh nói. Trẫm thường nghĩ đến việc này, bề tôi tuy muốn can gián, nhưng lại sợ chuốc lấy họa tử vong, khác nào gần vạc thì bị nấu, chơi kiếm sắc thì bị chém. Cho nên bề tôi trung trinh không phải không muốn hết lòng trung thành, mà là rất khó xử. Bởi thế ông Vũ nghe được lời hay thì bái tạ, lẽ nào là vì nguyên cớ này? Nay trẫm mở lòng, tiếp thu ý kiến can gián trực ngôn, các khanh đừng quá lo sợ, mà không dám hết lòng khuyên can.
✽✽✽
Năm Trinh Quán thứ mười sáu, Đường Thái Tông bảo Phòng Huyền Linh:
− Người hiểu đúng bản thân mình là sáng suốt, nhưng thật khó làm được điều này. Giống như người viết văn và người thợ đều tự cho mình có tài hơn người, người khác không bì kịp. Nếu người thợ và văn sĩ nổi tiếng đánh giá so sánh nhau thì những ngôn từ để hạ thấp nhau dễ dàng xuất hiện. Như vậy, bậc quân vương phải được bề tôi phò tá, can gián chỉ ra lỗi lầm của mình. Trong một ngày, quốc sự rất nhiều mà chỉ một người giải quyết thì dù suy nghĩ cân nhắc mệt mỏi cũng đâu có thể xử lý tốt mọi việc? Trẫm thường nghĩ đến Ngụy Trưng luôn khuyên can trẫm trong bất cứ việc gì, nhiều việc nhằm đúng lỗi lầm của trẫm, giống như tấm gương sáng soi vào mình, đẹp xấu đều lộ ra hết.
Thế rồi nâng cốc, ban rượu cho bọn Phòng Huyền Linh để khích lệ họ.
✽✽✽
Đường Thái Tông hỏi Gián nghị đại phu Chử Toại Lương:
https://thuviensach.vn
− Ngày trước, Ngu Thuấn chế tạo đồ sơn, Đại Vũ chạm mâm cúng, khi ấy đã có mười mấy người can gián Thuấn Vũ. Những việc nhỏ nhặt như chế tạo đồ đựng trang trí, cần gì phải nhọc công khuyên can?
Chử Toại Lương đáp:
− Chạm đẽo đồ vật sẽ làm lỡ việc đồng áng, dệt vải màu sẽ làm lỡ việc của phụ nữ, trước hết là khuyến khích lối sống xa hoa dâm dật, đó là khởi đầu của việc nước nhà nguy vong. Đồ sơn không ngừng được chế tạo, nhất định lại dùng vàng để làm. Đồ vàng không ngừng được chế tạo, nhất định sẽ dùng ngọc để làm. Bởi vậy bề tôi chính trực nhất định phải khuyên ngăn khi sự việc mới bắt đầu. Đến khi lỗi lầm đã quá nhiều thì không cần phải khuyên ngăn nữa.
Thái Tông nói:
− Khanh nói đúng. Việc trẫm làm nếu có chỗ không thỏa đáng, có việc có thể mới bắt đầu, có việc e rằng đã kết thúc, bất kể trường hợp nào cũng đều phải khuyên can. Gần đây trẫm xem sách sử đời trước, có bề tôi can vua, vua bèn đáp: “Đã làm xong rồi”. Hoặc giả nói: “Đã hứa rồi” mà không dừng ngay cách làm sai lầm và sửa đổi. Cứ thế thì tai họa nước nhà nguy vong sẽ đến nhanh chóng như lật bàn tay.
https://thuviensach.vn
TIẾP THU LỜI CAN GIÁN
Năm Trinh Quán thứ nhất, Đường Thái Tông và Hoàng môn thị lang Vương Khuê nói chuyện với nhau trong bữa tiệc, khi ấy có một mỹ nhân đứng hầu bên cạnh Đường Thái Tông. Nàng vốn là ái cơ của Lư Giang vương Lý Ái, Lý Ái làm loạn bại vong nên nàng được vào cung. Trong bữa tiệc, Thái Tông chỉ vào người đẹp và bảo Vương Khuê:
− Lư Giang vương hoang dâm vô đạo, âm mưu sát hại chồng nàng để chiếm hữu nàng. Lý Ái tàn bạo dâm ô đến cực điểm, sao có thể không diệt vong được?
Vương Khuê vội đứng dậy nói:
− Bệ hạ cho rằng Lư Giang vương cưỡng chiếm người đẹp này là đúng hay là không đúng?
Thái Tông đáp:
− Làm gì có chuyện giết người rồi chiếm đoạt vợ người ta? Sao khanh lại hỏi trẫm việc làm này đúng hay không, thế là thế nào? Vương Khuê nói:
− Thần nghe nói sách “Quản tử” có chép: Tề Hoàn Công đến nước Quắc, hỏi trăm họ ở đó: “Vì sao nước Quắc mất nước?”. Trăm họ đáp: “Vì vua thích người lương thiện mà ghét kẻ tà ác”. Tề Hoàn Công nói: “Nếu như lời ông nói thì vua nước Quắc là một vị vua hiền minh, sao có thể mất nước?”. Trăm họ đáp: “Không phải vậy, vua nước chúng tôi tuy thích người lương thiện nhưng lại không biết dùng họ, ghét kẻ tà ác nhưng lại không biết lánh xa chúng, bởi vậy mới mất nước”. Nay người đẹp này còn ở bên cạnh bệ hạ nên thần cho rằng bệ
https://thuviensach.vn
hạ tán thành việc làm của Lư Giang vương. Nếu bệ hạ cho rằng Lư Giang vương sai thì là biết tà ác mà lại không lánh xa. Thái Tông rất mừng, khen Vương Khuê nói đúng, rồi lập tức hạ lệnh trả người đẹp về nhà.
✽✽✽
Năm Trinh Quán thứ tư, Thái Tông ban chiếu trưng binh dịch để tu sửa điện Càn Nguyên ở Lạc Dương dùng làm hành cung tuần hành thị sát. Cấp sự trung Trương Huyền Tố dâng sớ can gián:
“Bệ hạ thánh minh nhân trí chiếu khắp vạn vật, bao la bốn bể. Việc thi hành chiếu lệnh, ở đâu mà không tiếp nhận? Việc thiên tử muốn làm, có gì mà không thuận theo? Tiểu thần trộm nghĩ, Tần Thủy Hoàng làm vua là nhờ vào nghiệp thừa của nhà Chu, dựa vào quốc lực cường thịnh của sáu nước, dự tính lưu truyền đế nghiệp đến muôn đời, nhưng đến đời con thì nước nhà bị diệt vong, quả thực là do buông thả ham muốn, đi ngược ý trời làm hại trăm họ mà ra. Qua đó thấy rằng, thiên hạ không thể chinh phục bằng vũ lực, thần linh cũng không thể dựa vào thân cận. Chỉ có phát huy tinh thần cần kiệm, giảm thuế khóa, thận trọng hành xử mới có thể giữ mãi được sự bền vững của nền móng nước nhà.
“Nay bệ hạ thừa kế cơ nghiệp muôn đời, muốn dùng chế độ lễ nghi để tiết chế thiên hạ, bệ hạ cần lấy mình làm gương. Ngày tuần du Đông Đô còn chưa sắp xếp đã chiếu lệnh trưng binh đi xây sửa; các phiên vương hiện nhất tề dời kinh đến đất phong để nhậm chức, lại phải xây dựng cung thất. Số người bị trưng dụng nhiều, lẽ nào đây là điều mà trăm họ mong mỏi? Đây là một trong những nguyên nhân không thể trùng tu điện Càn Nguyên. Khi bệ hạ vừa bình định Đông Đô Lạc Dương, những lâu đài trùng điệp, cung điện rộng lớn đều được lệnh dỡ bỏ tiêu hủy, cả nước hiệp đồng, trăm họ cùng một lòng khâm phục kính ngưỡng bệ hạ. Làm gì có chuyện ban đầu thì ghét sự xa hoa của cung điện Lạc Dương, nay lại kế thừa cách bài trí của nó? Đây là
https://thuviensach.vn
nguyên nhân thứ hai không thể trùng tu điện Càn Nguyên. Nhận được thánh chỉ của bệ hạ, lập tức đi thị sát, đây chính là việc chưa cấp thiết phải làm, dễ trở thành hành động gây lãng phí sức người, sức của. Nước nhà tích lũy chưa được hai năm, hà tất phải có sự phô trương của Đông Đô và Tây Đô? Lao dịch vượt quá giới hạn thì oán hận sẽ nảy sinh, đây là nguyên nhân thứ ba không thể trùng tu điện Càn Nguyên. Trăm họ sau khi bị chiến loạn lưu ly, tài lực tổn thương, con đường sống còn chưa yên định, trong vòng ba đến năm năm e rằng cũng chưa hồi phục được. Sao có thể vì xây một đô thành để tuần du mà khiến sức lực của trăm họ kiệt quệ? Đây là nguyên nhân thứ tư không thể trùng tu điện Càn Nguyên. Ngày trước Hán Cao Tổ định dựng đô ở Lạc Dương, chỉ một câu nói của Lâu Kính mà Cao Tổ tây hành ngay trong ngày hôm đó. Lẽ nào không biết Lạc Dương nằm trong quốc thổ, đường đi bằng phẳng, có điều địa hình địa lý của nó không hiểm yếu bằng Quan Nội. Bệ hạ giáo hóa trăm họ đang suy nhược mệt mỏi, cải cách phong tục đang nông cạn, thời gian vẫn còn ngắn, dân phong vẫn chưa thuần phác bình hòa, cân nhắc đến điều này, liệu có thể tuần du phương đông? Đây là nguyên nhân thứ năm không thể trùng tu điện Càn Nguyên.
“Thần từng nhìn thấy tình cảnh nhà Tùy vừa xây dựng cung Càn Nguyên, cột và xà của tòa điện đó hầu hết đều rất lớn, gỗ lớn không phải địa phương lân cận có, mà phần lớn là chuyển về từ Dự Chương. Hai nghìn người kéo một cây cột lớn, phía dưới cột có gắn bánh xe, cái bánh xe đó được đúc bằng sắt. Nếu dùng bánh gỗ thì khi di chuyển sẽ gây cháy. Tính sơ chi phí một cây cột thì số tiền cũng lên đến hàng chục vạn, tính cho chính xác thì các chi phí còn lại sẽ nhiều gấp bội. Thần nghe nói, cung A Phòng xây xong, người Tần ly tán; đài Chương Hoa xây xong, nước Sở chúng phản thân ly; điện Càn Nguyên hoàn công, trăm họ nhà Tùy tan tác. Huống hồ quốc lực hiện tại của bệ hạ sao có thể sánh bằng nhà Tùy năm đó? Sau khi kế thừa một đống hoang tàn, sai dịch trăm họ đã nếm đủ vết thương chiến tranh, hao phí
https://thuviensach.vn
hàng ức vạn tiền tài, nối gót tệ nạn của đế vương trăm đời, từ đó thấy rằng lỗi lầm của bệ hạ còn vượt rất xa Tùy dạng Đế. Thần rất mong bệ hạ cân nhắc những việc này, đừng để bị người Tây Nhung chê cười, ấy là điều may mắn lớn của thiên hạ vậy”.
✽✽✽
Đường Thái Tông hỏi Trương Huyền Tố:
− Khanh cho rằng trẫm không bằng Tùy Dạng Đế, thế còn so với vua Kiệt nhà Hạ, vua Trụ nhà Thương thì thế nào?
Trương Huyền Tố đáp:
− Nếu điện Càn Nguyên được trùng tu thì có thể nói kết quả chẳng khác nào Kiệt Trụ.
Thái Tông thở dài nói:
− Trẫm không cân nhắc kỹ càng để cuối cùng sai lầm đến mức này.
Rồi quay lại nói với Phòng Huyền Linh:
− Nay Trương Huyền Tố dâng biểu, Lạc Dương quả thực cũng không cần tu tạo, sau này nếu có chuyện gì, phải đi tuần hành, dù có ngủ ngoài trời cũng có sao? Mọi việc xây dựng và điều phái phu dịch đều phải dừng lại. Tuy nhiên người có địa vị thấp mạo phạm người có địa vị tôn quý, xưa nay thật không dễ, không phải Huyền Tố trung thành cương trực thì sao có thể như vậy? Huống hồ lời vâng vâng dạ dạ của bao người cũng chẳng bằng lời can gián thẳng thắn của một kẻ sĩ trung thành. Có thể ban cho ông ấy năm trăm vuông lụa.
Ngụy Trưng than rằng:
− Trương công có tài xoay chuyển ý trời, có thể nói lời người nhân mang lại lợi ích to lớn xiết bao!
✽✽✽
https://thuviensach.vn
Thái Tông có một con tuấn mã, rất yêu thích nó, thường ngày nuôi trong cung. Một hôm con ngựa này không bệnh mà chết. Thái Tông trút giận lên cung nhân chăn ngựa, định giết anh ta. Trưởng Tôn hoàng hậu khuyên Thái Tông:
− Ngày trước Tề Cảnh Công vì ngựa chết nên định giết người, Yến Tử bèn xin liệt kê ra tội lỗi của người chăn ngựa: “Con ngựa nhà ngươi chăn bị chết, đó là tội thứ nhất của ngươi. Để nhà vua vì ngựa chết mà giết người, trăm họ nghe xong nhất định sẽ oán hận vua, đó là tội thứ hai của nhà ngươi. Chư hầu hay biết tin này ắt sẽ khinh thị đất nước ta, đó là tội thứ ba của nhà ngươi”. Tề Cảnh Công bèn miễn tội cho người chăn ngựa. Bệ hạ từng đọc được chuyện này trong sách, lẽ nào quên rồi sao?
Khi ấy Thái Tông mới nguôi cơn giận, còn nói với Phòng Huyền Linh:
− Hoàng hậu giúp đỡ ta rất nhiều việc, quả thực có ích vô cùng. ✽✽✽
Năm Trinh Quán thứ bảy, Đường Thái Tông định tuần du cung Cửu Thành, Tán kỵ thường thị Diêu Tư Liêm khuyên can: − Bệ hạ ở ngôi cao, yên định thiên hạ, cứu tế trăm họ, nên làm cho ham muốn của mình phục tùng trăm họ, không được để trăm họ phục tùng ham muốn của mình. Vậy thì xa hoàng cung đến nơi khác tuần du tìm vui, đó là việc làm của Tần Thủy Hoàng, Hán Võ Đế chứ không phải là việc làm của Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, Hạ Vũ, Thương Thang.
Ngôn từ rất khẩn thiết chặt chẽ. Thái Tông bảo ông:
− Trẫm có bệnh khí, thời tiết nóng thì bệnh tình lập tức nặng thêm, bởi vậy không phải trong lòng thích thú du ngoạn. Trẫm rất hài lòng về thành ý của khanh.
Vì thế ban mười lăm khúc gấm cho Diêu Tư Liêm.
https://thuviensach.vn
✽✽✽
Năm Trinh Quán thứ nhất, Lý Đại Lượng làm đô đốc Lương Châu, từng có một sứ giả do Trung ương quan thử phái đến vùng Lương Châu, thấy địa phương có loài chim ưng săn rất tốt, bèn bảo Lý Đại Lượng dâng lên. Đại Lượng mật tấu việc này lên Đường Thái Tông:
“Bệ hạ đã lâu không đi săn, mà sứ giả đến đòi chim ưng săn. Nếu là suy nghĩ của bệ hạ thì đã vi phạm ý chỉ ngày trước; nếu là sứ giả tự chủ trương thì bệ hạ đã dùng sai người rồi”.
Thái Tông viết một phong thư cho Đại Lượng rằng:
“Vì khanh có văn tài võ lược, có chí hướng trung trinh kiên cường nên bổ nhiệm khanh làm trưởng quan vùng biên thùy trọng yếu, gánh vác trọng trách như vậy. Gần đây khanh trấn thủ ở Lương Châu, uy danh nghiệp tích đã vang khắp biên thùy, nghĩ đến lòng trung và tinh thần chăm lo chính sự của khanh, trẫm đi ngủ cũng không thể quên. Sứ giả đòi khanh dâng chim ưng săn, khanh không thuận theo, viện dẫn chuyện xưa để nói chuyện nay, từ nơi xa xôi dâng lời trung trực, thể hiện chân tâm của khanh, rất khẩn thiết chu đáo. Trẫm đọc xong tấu chương của khanh, mãi không kìm được lòng cảm kích. Có một bề tôi như vậy, trẫm còn có gì để lo lắng! Nên giữ vững lòng trung như vậy, từ xưa đến nay thủy chung như nhất. Kinh Thi viết: “Yên với chức vị, mến người chính trực, thần linh hay chuyện, sẽ ban phúc lành”. Cổ nhân nói, một câu nói thẳng thắn trung trực đáng giá nghìn vàng, những điều khanh nói là rất đáng quý. Nay ban cho khanh bình vàng, chén vàng mỗi thứ một cái, tuy không nặng bằng nghìn vàng, nhưng chúng đều là những đồ vật chính trẫm sử dụng. Khanh lập chí chính trực, hết lòng trung thành, hoàn toàn vì việc công, đảm nhiệm chức quan luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ. Nay giao cho trọng trách để tỏ lòng trọng dụng của trẫm. Lúc làm xong việc công, rảnh rỗi nên đọc nhiều điển tích cổ. Nay đồng thời ban cho khanh một bộ “Hán kỷ” của Tuần Thuyết, bộ sách này kể chuyện chặt chẽ, văn tự ngắn
https://thuviensach.vn
gọn, nghị luận sâu sắc, rộng rãi, trình bày toàn diện cái gốc của việc trị nước và đạo nghĩa vua tôi. Nay ban nó cho khanh, hãy chịu khó đọc và nghiền ngẫm”.
✽✽✽
Năm Trinh Quán thứ tám, huyện thừa huyện Thiểm là Hoàng Phủ Đức Tham dâng sớ tấu việc, khiến Đường Thái Tông nổi giận, Thái Tông cho rằng Hoàng Phủ Đức Tham phỉ báng triều đình. Thị trung Ngụy Trưng khuyên can:
− Ngày xưa, Giả Nghi dâng sớ lên Hán Văn Đế tấu việc, trong đó nói: “Có việc có thể khóc vì quân vương, cũng có việc có thể thở dài vì quân vương”. Xưa nay dâng sớ tấu việc thường dùng ngôn từ gay gắt mà bức thiết, nếu không gay gắt bức thiết thì không thể đánh động lòng người. Gay gắt bức thiết có vẻ giống như phỉ báng, mong bệ hạ suy xét điều dâng tấu đúng hay không đúng.
Thái Tông nói:
− Ngoại trừ khanh ra không còn ai nói ra được những đạo lý này. Thế rồi ban cho Hoàng Phủ Đức Tham hai mươi súc lụa.
✽✽✽
Giữa thời Trinh Quán, Thái Tông phái sứ thần đến Tây Vực phong lập Diệp Hộ Khả Hãn. Sứ thần vẫn chưa về, lại phái người mang theo vàng bạc lụa là, đến các nước Tây Vực mua ngựa. Ngụy Trưng khuyên can:
− Nay phái sứ thần đến Tây Vực là lấy danh nghĩa phong lập Khả Hãn, nhưng Khả Hãn chưa lập xong mà đã phái người đến các nước Tây Vực mua ngựa, nhất định họ sẽ cho bản ý là mua ngựa chứ không phải là lập Khả Hãn. Khả Hãn dù được phong lập cũng không thật biết ơn; không được lập sẽ nảy sinh oán hận sâu sắc. Các nước Tây Vực hay tin sẽ không còn tôn trọng Trung Nguyên. Chỉ cần để Đột Quyết
https://thuviensach.vn
bình yên thì ngựa ở các nước sẽ không cần mua cũng tự tìm đến. Ngày trước vào thời Hán Văn Đế, có người dâng cho ông một con thiên lý mã, Văn Đế nói: “Khi trẫm tuần hành tế lễ, một ngày đi ba mươi dặm, khi xuất binh đánh trận, một ngày đi năm mươi dặm, xe loan đi phía trước, xe phụ theo sau, mình ta cưỡi thiên lý mã thì biết đi đâu?”, thế nên thưởng lộ phí cho người dâng ngựa, bảo anh ta trở về. Ngoài ra, vào thời Hán Quang Võ Đế, có người dâng cho ông thiên lý mã và bảo kiếm, Quang Võ Đế dùng thiên lý mã kéo xe chở trống, ban bảo kiếm cho kỵ sĩ. Nay mọi việc làm của bệ hạ đều vượt qua Vũ, Thang và Chu Văn Vương, sao đến nay lại muốn ở dưới Hán Văn Đế và Quang Võ Đế? Ngoài ra, Ngụy Văn Đế tìm mua châu báu Tây Vực, Tô Tắc nói: “Nếu ân trạch của bệ hạ ban khắp thiên hạ thì không cần tìm mua, châu báu cũng tự tìm đến, tìm mua mới có được nó thì không còn quý giá nữa”, bệ hạ dù không ngưỡng mộ đức hạnh cao trọng của Hán Văn Đế, nhưng có thể không sợ lời nói của Tô Tắc không?
Thái Tông vui vẻ dừng việc mua ngựa.
✽✽✽
Năm Trinh Quán thứ mười bảy, Thái tử hữu thứ tử Cao Quý Phụ dâng một bản tấu chương, trình bày sự được mất trong trị nước, Đường Thái Tông ban cho ông một liều thuốc chung nhũ và bảo:
− Những lời khanh tấu là những lời hay nhắm vào tệ nạn đương thời nên dùng thuốc để báo đáp.
✽✽✽
Năm Trinh Quán thứ mười tám, Thái Tông nói với bọn Trưởng Tôn Vô Kỵ:
− Bề tôi đối với đế vương phần lớn là thuận theo ý chỉ chứ không dám nghịch, dùng lời đường mật để được lòng đế vương. Nay trẫm
https://thuviensach.vn
đưa ra vấn đề, các khanh không được có bất kỳ kỵ húy, phải nói ra lỗi lầm của trẫm theo thứ tự.
Bọn Trưởng Tôn Vô Kỵ, Đường Kiệm đều nói:
− Bệ hạ thánh minh giáo hóa, làm cho thiên hạ được thái bình, theo chúng thần nhận thấy thì không có lỗi lầm gì.
Hoàng môn thị lang Lưu Ký đáp:
− Bệ hạ dẹp loạn dựng nghiệp, quả thực là công lớn muôn đời, đúng như Trưởng Tôn Vô Kỵ và các đại thần khác nói. Nhưng cách đây không lâu có người dâng sớ tấu việc, ngôn từ đạo lý không hợp ý bệ hạ, bệ hạ truy vấn trách mắng tại chỗ khiến người tấu việc không ai không xấu hổ mà lui xuống. E rằng đó không phải là biện pháp khích lệ dâng lời trung.
Thái Tông nói:
− Đúng thế, trẫm nhất định tiếp thu ý kiến của khanh và sửa đổi. ✽✽✽
Đường Thái Tông từng nổi giận với Viện giám Mục Dụ, hạ lệnh giết ông ta ngay tại triều đường, khi ấy Cao Tông Lý Trị là Hoàng Thái tử, vội mạo phạm cơn thịnh nộ của Thái Tông mà đưa lời khuyên can, cơn giận của Thái Tông mới nguôi. Tư đồ Trưởng Tôn Vô Kỵ nói:
− Xưa nay lời khuyên can của Hoàng Thái tử luôn là từ từ nói ra lúc rảnh rỗi. Nay bệ hạ đang nổi giận, Thái tử lại dám mạo phạm thánh nhanh bày tỏ ý kiến, thực là chuyện xưa nay chưa từng có. Thái Tông nói:
− Con người sống với nhau lâu dài tự nhiên sẽ nhiễm tập tính của nhau. Từ khi trẫm thống trị thiên hạ đến nay, khiêm tốn tiếp thu lời chính trực, nên có Ngụy Trưng sớm tối đưa lời can gián. Từ khi Ngụy Trưng qua đời, bọn Lưu Ký, Sần Văn Bản, Mã Chu, Chử Toại Lương lại kế tục Ngụy Trưng không ngừng can gián. Hoàng Thái tử từ nhỏ ở
https://thuviensach.vn
bên mình trẫm, thường gặp những người thích can gián nên nuôi dưỡng được tập tính tốt, bởi vậy mới có lời khuyên can ngày hôm nay.
https://thuviensach.vn
THẲNG THẮN KHUYÊN CAN
Năm Trinh Quán thứ hai, con gái Thông sự xá nhân Trịnh Nhân Cơ nhà Tùy tuổi vừa đôi tám, là một tuyệt thế giai nhân, dung mạo xinh đẹp không ai sánh bằng. Văn Đức hoàng hậu tìm đến, thỉnh cầu cho giữ lại hậu cung làm quý phi, Thái Tông tuyển nàng và phong làm Sung hoa. Chiếu thư đã ban đi, nhưng sứ giả sách phong vẫn chưa xuất phát. Ngụy Trưng nghe nói người con gái này đã được hứa gả cho nhà họ Lục, bèn vội vào cung gặp Thái Tông nói:
− Bệ hạ là cha mẹ trăm họ, nên lo cái lo của trăm họ, vui cái vui của trăm họ. Xưa nay bậc đế vương có đức coi tâm nguyện của trăm họ là tâm nguyện của mình, cho nên đế vương sống trong lâu đài đình tạ thì nghĩ đến trăm họ phải có nhà ở yên thân; đế vương ăn sơn hào hải vị thì nghĩ đến trăm họ không có nỗi lo đói rét; khi tuyển chọn quý phi thì nghĩ đến trăm họ cũng có niềm vui lấy vợ thành gia. Đó là cái đạo thường tình của bậc đế vương. Nay con gái họ Trịnh trước kia đã được hứa gả cho người khác, khi bệ hạ tuyển nàng mà không hoài nghi, cũng không hề hỏi han, việc này truyền khắp cả nước, lẽ nào là đạo nghĩa cần có của bậc đến vương với tư cách là cha mẹ trăm họ sao? Điều thần nghe nói tuy không phải mười phần chính xác, nhưng rất e nó sẽ tổn hại đến mỹ đức của thánh thượng, sự tình không dám giấu. Nhất cử nhất động của quân vương đều nhất định phải được ghi lại, điều thần mong mỏi là bệ hạ đặc biệt lưu tâm cân nhắc.
Thái Tông nghe Ngụy Trưng nói xong vô cùng kinh ngạc, đích thân viết chiếu thư trả lời ông, tự trách mình sâu sắc và dừng phái sứ giả đi sách phong, hạ lệnh đưa con gái họ Trịnh trả về cho chồng cũ
https://thuviensach.vn
của nàng. Tả bộc xạ Phòng Huyền Linh, Trung thư lệnh Ôn Ngạn Bác, Lễ bộ thượng thư Vương Khuê, Ngự sử đại phu Vi Đỉnh nói: − Con gái họ Trịnh hứa gả cho nhà họ Lục, không có chứng cứ xác đáng, nghi lễ long trọng đã cử hành, không thể dừng lại nửa chừng.
Ngoài ra, nhà họ Lục cũng dâng biểu tấu:
− Phụ thân của thần là Lục Khang khi còn sống có qua lại với nhà họ Trịnh, đôi khi có tặng nhau của cải, nhưng không hề giao ước chuyện hôn nhân làm thân thích.
Còn nói:
− Người ngoài không biết tình hình thực tế nên thêu dệt ra chuyện này.
Các đại thần lại khuyên Thái Tông lấy con gái họ Trịnh. Bởi vậy Thái Tông rất hồ nghi, bèn hỏi Ngụy Trưng:
− Quần thần có thể thuận theo ý chỉ, nhưng sao họ Lục lại biện giải quá mức như thế?
Ngụy Trưng đáp:
− Theo thần nghĩ, có thể biết được bản ý của họ Lục, hắn đánh đồng bệ hạ với Thái thượng hoàng.
Thái Tông hỏi:
− Tại sao?
Ngụy Trưng đáp:
− Lúc Thái thượng hoàng bình định kinh thành, được vợ của Tân Xứ Kiệm nên bí mật sủng ái. Tân Xứ Kiệm khi ấy là Thái tử xá nhân, Thái thượng hoàng hay được chuyện này nên rất không vui, bèn hạ lệnh điều Tân Xứ Kiệm ra khỏi Đông cung đến làm huyện lệnh Vạn Niên. Tân Xứ Kiệm lo sợ sẽ không giữ được cái đầu. Lục Sảng cho rằng bệ hạ nay tuy khoan dung cho hắn, nhưng hắn lo sau này sẽ ngầm khiển trách biếm quan nên nằng nặc tự biện bạch, bản ý là như vậy, không có gì là lạ.
https://thuviensach.vn
Thái Tông cười nói:
− Suy nghĩ của người ngoài có lẽ là như vậy. Tuy nhiên lời trẫm nói chưa thể khiến người ta nhất định tin vào.
Rồi ban chiếu thư rằng:
“Nay nghe nói con gái họ Trịnh trước kia đã nhận sính lễ của người khác, trước đây khi ban chiếu thư, không thẩm tra kỹ việc này, đó là lỗi của trẫm, cũng là lỗi của quan thử. Chiếu sách tuyển Sung hoa phải ngưng thực hiện.
Mọi người khi ấy không ai không ca ngợi.
✽✽✽
Năm Trinh Quán thứ ba, Đường Thái Tông xuống chiếu: Quan Trung miễn trừ hai năm tô thuế, Quan Đông miễn trừ một năm tô thuế sai dịch.
Không lâu sau lại có văn thư rằng: Số tráng đinh điều đi phục dịch vẫn phái đi phục dịch, số tô thuế đã nộp vẫn dâng nạp cho xong, sang năm sẽ tính lại làm căn cứ chiết toán.
Cấp sự trung Ngụy Trưng dâng sớ nói:
− Thần đọc thấy chiếu thư ngày 9 tháng 8, cả nước đều được miễn trừ tô thuế phục dịch một năm, già trẻ ai nấy đều hân hoan ca hát nhảy múa. Nay lại nghe có văn thư rằng, nam giới thành niên ai đã bị điều đi phục dịch thì vẫn để họ đi phục dịch hết hạn rồi chiết toán tô thuế, các vật tư còn lại cũng phải giao nộp hết, đợi đến sang năm tính lại làm căn cứ chiết toán. Trong trăm họ có người cảm thấy thất vọng. Cách làm này quả thực xem trăm họ như nhau, giống như con trai mình. Nhưng kẻ ngu muội rất khó thương lượng sự việc với họ ngay từ đầu, họ đều cho là nhà nước hối tiếc lời đã nói, thay đổi thất thường. Thần trộm nghe có lời nói thế này, trời xanh phù hộ cho người nhân từ, trăm họ giúp đỡ những người tín nghĩa. Nay bệ hạ vừa kế tục ngôi vua, ức vạn dân đều đang mong chờ đức hạnh của bệ hạ. Nếu vừa
https://thuviensach.vn
ban ra thánh chỉ trang trọng mà đã có thay đổi thì sẽ khiến cả nước trên dưới sinh lòng nghi, cho là bệ hạ không giữ tín nghĩa, giống như xuân hạ thu đông mất trật tự. Dù nước nhà có nguy nan cần phải ứng cứu cũng nhất định không thể làm như vậy, huống hồ là dựa vào cục diện vững tựa Thái Sơn. Người nghĩ ra biện pháp này cho bệ hạ tuy có một vài lợi ích, nhưng lại tổn thất rất lớn về đức nghĩa. Thần tuy trí tuệ nông cạn, tài học khiếm khuyết, nhưng trộm lấy làm tiếc cho bệ hạ. Mong rằng bệ hạ xem qua tấu chương của thần, lựa chọn những việc có ích để làm. Tội mạo muội dâng sớ, thần xin cam tâm chịu nhận.
Bọn Giản Điểm Sứ, Hữu bộc xạ Phong Đức Di đều muốn sung hết những người con trai thứ tuổi từ mười tám trở lên vào quân. Văn thư ban ra ba bốn lần, Ngụy Trưng đều cố chấp dâng tấu, cho rằng không thể làm như vậy. Phong Đức Di lại một lần nữa dâng tấu nói:
− Nay nghe Giản Điểm Sứ nói: “Những người con trai thứ phần lớn là những người tráng kiện”.
Đường Thái Tông cả giận, ban chiếu lệnh:
− Con trai thứ trở lên, tuy có kẻ chưa đủ mười tám tuổi, như ai có sức khỏe tốt, thân thể cao lớn đều sung quân.
Ngụy Trưng lại không phục tùng, không chịu ký văn thư. Thái Tông bèn cho triệu Ngụy Trưng và Vương Khuê vào gặp, bực bội nói: − Trong số con trai thứ nếu thật sự có kẻ thấp bé thì tất nhiên không sung quân, nhưng nếu thân hình cao lớn thì cũng có thể sung quân. Điều này có trở ngại gì với khanh? Cố chấp như vậy, trẫm không hiểu ý khanh.
Ngụy Trưng nghiêm túc đáp:
− Thần nghe nói, tát cạn nước ao bắt cá, không phải không bắt được cá, mà là sang năm không còn cá để bắt nữa; đốt hết cây rừng để săn thú, không phải không săn được dã thú, mà là sang năm không còn dã thú nữa. Nếu đem con trai thứ sung quân hết thì tô ruộng và thuế khóa cùng các thứ phục dịch lấy nguồn đâu cung cấp? Huống hồ, gần đây cảnh vệ binh sĩ của nhà nước không thể tấn công tác chiến, lẽ nào
https://thuviensach.vn
là vì số người ít ư? Chỉ là bởi mất đi đãi ngộ đáng có đối với họ nên binh sĩ không còn tâm tư chiến đấu. Nếu sung quân nhiều người mà vẫn đi làm tạp sự thì nhân số tuy nhiều nhưng rốt cuộc cũng chẳng ích gì. Nếu cẩn thận tuyển chọn đàn ông thành niên tráng kiện, đối xử với họ bằng lễ thì ai cũng sẽ đều dũng cảm trăm lần, cần gì phải nhiều người? Bệ hạ thường nói, bệ hạ làm vua, lấy thành khẩn tín nghĩa đãi người, muốn làm cho quan lại, trăm họ đều không có lòng gian trá giả dối. Từ khi bệ hạ lên ngôi đến nay, việc lớn mới xử lý được dăm ba việc, toàn là những việc bất chấp tín nghĩa, vậy thì lấy gì để lấy lòng tin của trăm họ?
Thái Tông kinh ngạc hỏi:
− Việc không giữ tín nghĩa mà khanh nói là những việc gì? Ngụy Trưng đáp:
− Bệ hạ vừa lên ngôi hoàng đế, đã ban chiếu thư rằng: “Tô ruộng còn thiếu, nợ nần từ lâu và vật tư nhà quan còn nợ đều được miễn trừ”. Rồi lệnh cho bộ phận chủ quản liệt nó vào điều khoản trị sự. Tần vương phủ là công sở nhà nước, cũng không coi là vật tư nhà quan, bệ hạ từ Tần vương lên làm thiên tử, Tần vương phủ không coi là vật tư nhà quan thì những thứ còn lại còn có cái gì có thể coi là vật tư nhà quan? Ngoài ra, Quan Trung miễn hai năm tô thuế, Quan Ngoại miễn một năm tô thuế và phục dịch, trăm họ được hưởng ơn vua, không ai không hân hoan mừng rỡ. Kết quả lại có văn thư nói: “Số tráng đinh trưng tập tạm thời năm nay phần nhiều đã mãn thời gian phục dịch, nếu bắt đầu miễn trừ phục dịch tô thuế từ bây giờ thì đều là nhận không ơn nước. Số tô thuế đã nộp vẫn phải giao nộp lên hết, những thứ được miễn trừ bắt đầu từ sang năm”. Biện pháp tráng đinh đi phục dịch hồi hương xong mới thay đổi trưng thu tô thuế, trong lòng trăm họ không thể không có oán trách. Đã trưng thu vật tư, lại lập tức trưng binh nhập ngũ, coi năm thứ hai là năm bắt đầu miễn tô thuế phục dịch, vậy thì lấy cái gì để lấy lòng tin của dân? Còn nữa, những người cùng tham gia trị nước là các quan địa phương như thứ sử, huyện lệnh, bình
https://thuviensach.vn
thường thu tô thuế đều ủy thác cho họ, đến khi tuyển chọn tráng đinh lại hoài nghi họ có hành vi gian trá. Thế thì muốn thuộc cấp thành khẩn giữ tín nghĩa chẳng phải cũng rất khó hay sao?
Thái Tông nói:
− Trẫm thấy khanh cố chấp, hoài nghi rằng khanh không hiểu những chuyện này. Nay khanh nói triều đình không giữ tín nghĩa, không hiểu tình hình dân gian, trẫm không suy xét cẩn trọng, lỗi lầm cũng thật lớn. Xử lý sự việc thường sai lầm thất sách như vậy sao có thể giúp nước nhà đại trị?
Rồi cho dừng việc sung con trai thứ nhập ngũ, ban thưởng cho Ngụy Trưng một hộc vàng và Vương Khuê năm mươi súc lụa.
✽✽✽
Năm Trinh Quán thứ năm, Trị thư thị ngự sử Quyền Vạn Kỷ, Thị ngự sử Lý Nhân Phát đều vì cáo giác công kích vu hại người khác nên nhiều lần Thái Tông cho gọi vào gặp. Thế nên bọn họ tùy tiện chỉ trích, lừa dối che giấu, khiến Thái Tông thịnh nộ, triều thần không được yên ổn. Người ngoài biết rõ là không đúng nhưng không ai có thể tranh luận với Thái Tông. Cấp sự trung Ngụy Trưng nghiêm túc khởi tấu Thái Tông:
− Quyền Vạn Kỷ, Lý Nhân Phát đều là bọn tiểu nhân, không biết đại cục, coi vu hãm người khác là điều đúng đắn, coi cáo giác công kích người khác là chính trực, những người bị bọn họ chỉ trích chẳng ai có tội lỗi. Bệ hạ che đậy khuyết điểm của hai người này, nghe mọi lời xấu của bọn họ, bọn họ sẽ càn rỡ thi hành gian kế, xu nịnh quân chủ, ức hiếp quần thần, hành sự phần lớn đi ngược lễ phép, qua đó ăn cắp cái mỹ danh cương cường chính trực. Bọn họ vu oan cho Phòng Huyền Linh, giá họa cho Trương Lượng, hoàn toàn không có tác dụng chỉnh đốn khích lệ, làm hại đến sự thánh minh của bệ hạ. Dân chúng đều bàn tán chỉ trích. Thần hiểu tâm ý của bệ hạ, nhất định không phải cho rằng hai người này mưu sâu lo xa, có thể ủy thác trọng trách, chỉ
https://thuviensach.vn
định dùng hành vi không kiêng kỵ của bọn họ để cánh cáo khuyên miễn quần thần. Dù bệ hạ tin tưởng kẻ tà ác bất chính thân cận cũng không thể dùng tiểu thần để mưu hại đại thần, quần thần xưa nay không hề có hành vi gian trá giả dối, làm như thế chỉ khiến quần thần ly tán. Như các đại thần Phòng Huyền Linh, Trương Lượng, còn không biện hộ được cho sự ngay thẳng của mình, vậy thì những bề tôi xa, địa vị thấp, ai có thể tránh được sự ức hiếp vu cáo của bọn họ? Mong bệ hạ chú ý cân nhắc chuyện này, từ khi bệ hạ dùng hai người này, bọn họ mà có một việc có ích cho nước nhà thì thần cam tâm chịu chết, chịu nhận tội bất trung. Bệ hạ dù chưa chọn được người tốt để phát huy thánh đức, lẽ nào có thể trọng dụng gian tế để tự hại mình sao?
Thái Tông vui vẻ tiếp thu ý kiến của Ngụy Trưng, ban cho Ngụy Trưng năm trăm súc lụa. Quyền Vạn Kỷ lại dần lộ bộ mặt gian trá, Lý Nhân Phát cũng bị bãi quan, Quyền Vạn Kỷ bị biếm đến Liên Châu làm Tư mã, quần thần trong triều đều chúc mừng nhau.
✽✽✽
Năm Trinh Quán thứ sáu, có người cáo giác Thượng thư hữu thừa Ngụy Trưng là thiên vị cho thân thích. Đường Thái Tông cho Ngự sử đại phu Ôn Ngạn Bác đi thẩm tra xử lý việc này, được biết người cáo giác Ngụy Trưng không công chính. Ngạn Bác tấu rõ với Thái Tông rằng Ngụy Trưng đã bị người khác chỉ trích, tuy không có hành vi thiên tư, nhưng cũng có chỗ đáng trách. Thế nên Thái Tông bảo Ôn Ngạn Bác nói với Ngụy Trưng:
− Khanh can gián uốn sửa trẫm hàng trăm điều, việc gì phải vì chuyện nhỏ này mà làm tổn hại đến rất nhiều ưu điểm của khanh trước kia? Từ nay về sau, khanh cũng không thể không tự kiểm điểm lời nói cử chỉ của mình.
Vài ngày sau, Thái tông hỏi Ngụy Trưng:
https://thuviensach.vn
− Gần đây khanh ở bên ngoài có nghe thấy việc gì không đúng không?
Ngụy Trưng đáp:
− Mấy ngày trước, Ôn Ngạn Bác phụng lệnh tuyên đọc lời bệ hạ nói với thần: “Tại sao không kiểm điểm lời nói hành động của mình?”. Lời nói này rất không đúng. Thần nghe nói, quân thần ý khí tương hợp, về đạo nghĩa đều là một chỉnh thể, chưa từng nghe nói không giữ công đạo, chỉ chú ý đến lời nói cử chỉ. Nếu vua tôi đều tuân thủ đạo lý này thì sự hưng thịnh suy vong của nước nhà có lẽ không thể biết được.
Thái Tông thất kinh, đổi sắc mặt, nói:
− Trước đây nói những lời này, không lâu sau đã thấy hối hận, thực là rất không nên. Khanh cũng không thể vì thế mà muốn ẩn mình lánh mặt.
Ngụy Trưng bèn quỳ xuống và nói:
− Thân giao thân mình cho nước nhà, hành sự theo chính đạo, nhất định không dám có hành vi ngông cuồng. Mong bệ hạ để cho thần trở thành tôi hiền, đừng để thần trở thành một tôi trung. Thái Tông hỏi:
− Tôi hiền và tôi trung có chỗ nào khác nhau?
Ngụy Trưng đáp:
− Tôi hiền có thể làm cho mình có được danh tiếng tốt, giúp quân vương có danh tiếng cao vời, con cháu đời đời nối nghiệp, vinh hoa phú quý không bao giờ dứt. Tôi trung làm cho chính mình bị tru diệt, đổ cho quân vương tiếng ác to lớn. Nhà và nước đều bị tổn thất, mà y lại được hưởng tiếng tôi trung. Từ đó thấy rằng, tôi hiền và tôi trung khác nhau rất xa.
Thái Tông nói:
− Mong khanh đừng đi ngược lời nói này, trẫm nhất định sẽ không quên việc lớn căn bản của nước nhà.
https://thuviensach.vn
Rồi ban thưởng cho Ngụy Trưng hai trăm súc lụa.
✽✽✽
Năm Trinh Quán thứ sáu, Hung Nô bị bình định, các dị tộc phương xa đến triều cống, dấu hiệu tốt lành ngày một xuất hiện, ngũ cốc năm nào cũng được mùa, quan lại các châu phủ nhiều lần xin Thái Tông phong thiền, quần thần lại ca ngợi công đức của Thái Tông, cho là “thời cơ không thể bỏ lỡ, ý chỉ của trời xanh không thể vi phạm, nay cử hành đại lễ phong thiền, chúng thần còn cho là đã quá muộn”. Chỉ có Ngụy Trưng cho là không được. Thái Tông nói:
− Trẫm mong khanh nói thẳng những ý kiến của mình, đừng giấu giếm. Công tích của trẫm không cao sao?
Ngụy Trưng đáp:
− Công tích cao.
Thái Tông hỏi:
− Đức hạnh trẫm không dày sao?
Ngụy Trưng đáp:
− Đức hạnh dày.
Thái Tông hỏi:
− Hoa Hạ có nơi nào chưa trị lý được sao?
Ngụy Trưng đáp:
− Đều đã trị lý tốt.
Thái Tông hỏi:
− Ngũ cốc mỗi năm không được mùa sao?
Ngụy Trưng đáp:
− Đều được mùa.
Thái Tông hỏi:
− Vậy thì sao không thể phong thiền?
Ngụy Trưng đáp:
https://thuviensach.vn
− Công tích của bệ hạ tuy cao nhưng trăm họ vẫn chưa ghi lòng ân huệ của bệ hạ; đức hạnh của bệ hạ tuy dày nhưng ân trạch vẫn chưa ban hết cho mọi người. Hoa Hạ tuy yên định, nhưng vẫn chưa đủ để gánh vác chi phí cử hành đại lễ tế cáo trời đất. Ngoại tộc phương xa tuy ngưỡng mộ, nhưng không có nhiều thứ để đáp ứng nhu cầu. Dấu hiệu tốt lành tuy xuất hiện, nhưng lưới hình phạt lớn nhỏ vẫn giăng kín khắp thiên hạ. Liên tục mấy năm tuy được mùa, nhưng kho đụn vẫn trống không. Đó chính là nguyên nhân mà thần trộm cho là không thể tổ chức phong thiền. Thần không thể dùng chuyện xa xôi để ví von, tạm dùng con người gần đây làm thí dụ. Có một người nọ, mười năm bệnh tật, sau khi được chữa khỏi bệnh, chỉ còn da bọc xương mà đã muốn vác một thạch gạo, ngày đi trăm dặm đường, nhất định là không làm nổi. Họa loạn nhà Tùy không dứt suốt mười năm. Bệ hạ là lương y “chữa trị” cho đất nước rối ren này, giải tỏa được nỗi đau đớn của nó, tuy đã chữa lành, nhưng chưa khỏe hẳn, tế cáo trời đất thành công, thần trộm lấy làm nghi hoặc, huống hồ bệ hạ đến Thái Sơn ở phía đông tổ chức phong thiền, sứ giả các nước đến dự lễ đều sẽ tụ hội tại đó, người ở phương xa đều phải cấp tốc đến. Nay từ Doãn Thủy, Lạc Thủy đến Đông Hải, Thái Sơn, cây cỏ rậm rạp, khắp nơi đầm lầy, trăm họ thưa thớt, không nghe thấy tiếng gà gáy chó sủa, đường đi hoang vắng, tiến lui đều rất khó khăn. Làm sao có thể thu hút các ngoại tộc kia đến mà không mang cái hư nhược ra cho họ thấy? Dốc hết tài lực để ban thưởng không thể thỏa mãn ham muôn của người phương xa. Tăng số năm miễn thuế dịch không thể bù đắp nỗi lao khổ của trăm họ. Nếu gặp hạn hán lụt lội, thiên thời biến đổi, thì những lời bàn tán tà ác của bọn tầm thường sẽ khiến hối hận không kịp. Lẽ nào chỉ có một mình thần thành tâm khẩn cầu, còn có lời bàn tán của dư luận nữa.
Thái Tông khen là lời hay rồi cho dừng việc phong thiền. ✽✽✽
https://thuviensach.vn
Năm Trinh Quán thứ bảy, cha của Thục vương phi là Dương Dự truy đuổi tì nữ ở cấm địa hoàng cung, Đô quan lang trung Tiết Nhân Phương bắt ông ta lại tra hỏi, chưa kịp xử trí thì con trai Dương Dự làm Thiên ngưu dâng sớ bẩm tấu trên cung điện:
− Quan ngũ phẩm trở lên nếu không phạm tội phản nghịch thì không nên bắt giữ, vì cha thần là thân thích hoàng thất, nên có nhiều vấn đề chưa thể quyết đoán.
Thái Tông nghe xong cả giận:
− Đã biết là thân thích của trẫm mà cố tình làm như vậy ư? Rối lập tức hạ lệnh đánh Tiết Nhân Phương một trăm roi, phế chức quan ông đang nhậm. Ngụy Trưng tấu nói:
− Con cáo dưới tường thành và con chuột dưới miếu thờ đều là những con vật bé nhỏ, vì chúng có chỗ dựa nên khó trừ bỏ chúng. Huống hồ nhà quan lại và thân thích hoàng thất, ngày xưa đã có tiếng là khó trị, từ thời Đông Hán, Tây Tấn đến nay đã phát triển đến mức không cấm cản kiểm soát được. Vào năm Võ Đức, đã có nhiều hiện tượng kiêu ngạo phóng túng, sau khi bệ hạ lên ngôi mới bắt đầu giảm đi. Tiết Nhân Phương đã thực hiện chức trách của mình, có thể chấp pháp vì nước, sao có thể xử phạt để tăng thêm dục vọng cho ngoại thích? Nếu có tiền lệ này thì các tệ nạn sẽ bắt đầu trỗi dậy, sau này nhất định sẽ hối hận, khi đó thì không còn cách nào thay đổi. Xưa nay người cấm tuyệt ngoại thích hoành hành chỉ có một mình bệ hạ. Làm tốt việc chuẩn bị, phòng ngừa sự bất ngờ là đạo lý thông thường trong trị nước. Lẽ nào có thể khi nước chưa tràn đã muốn hủy hoại đê? Thần suy nghĩ mãi mà không thấy cách làm này khả thi.
Thái Tông nói:
− Đúng như lời khanh nói, trước đây trẫm không hề nghĩ tới. Nhưng Tiết Nhân Phương tự ý bắt giữ tù nhân mà không tấu báo, đó là chuyên quyền, tuy không nên trị tội nặng, nhưng cũng phải phạt nhẹ để cảnh cáo.
Và lệnh cho hai mươi roi rồi xá miễn cho Nhơn Phương.
https://thuviensach.vn
✽✽✽
Năm Trinh Quán thứ tám, Tả bộc xạ Phòng Huyền Linh, Hữu bộc xạ Cao Sĩ Liêm gặp Thiếu giám Dậu Đức Tố trên đường, bèn hỏi cửa bắc gần đây xây dựng những gì. Đậu Đức Tố bèn bẩm chuyện Phòng Huyền Linh và Cao Sĩ Liêm hỏi chuyện. Thái Tông bèn bảo Phòng Huyền Linh:
− Khanh chỉ cần trông coi việc ở nam nha là được, còn ở phía bắc trẫm xây dựng những gì, việc gì đến khanh?
Bọn Phòng Huyền Linh quỳ lạy Thái Tông tỏ ý xin lỗi. Ngụy Trưng nói:
− Thần không hiểu lời trách cứ của bệ hạ, cũng không hiểu sao Phòng Huyền Linh, Cao Sĩ Liêm lại phải xin lỗi. Huyền Linh đã là đại thần, là tay chân và tai mắt của bệ hạ, xây dựng nhà cửa sao lại không được biết? Trách cứ họ hỏi chủ quản bộ phận, thần không hiểu. Huống hồ xây dựng nhà cửa là có lợi hay có hại, sử dụng bao nhiêu nhân công, việc bệ hạ làm nếu là việc tốt thì nên trợ giúp bệ hạ hoàn thành; nếu là việc làm không đúng thì dù đã khởi công cũng nên tấu xin bệ hạ cho dừng lại. Đó chính là nguyên tắc vua dùng bề tôi, bề tôi thờ vua. Huyền Linh không có tội mà bệ hạ trách cứ bọn họ, thì bọn họ không biết việc mình trông coi, chỉ biết quỳ xuống xin tội, thần cũng không thể hiểu nổi.
Thái Tông lấy làm xấu hổ.
✽✽✽
Năm Trinh Quán thứ tám, nguyên Quế Châu đô đốc Lý Hoằng Tiết có tiếng là liêm khiết cẩn thận, sau khi ông mất, nhà ông đem bán châu báu. Thái Tông hay chuyện bèn tuyên bố trên triều đình:
− Người này bình thường có công, tể tướng còn nói ông ấy liêm khiết, thế mà nay trong nhà bán châu báu, lẽ nào người tiến cử không có tội? Nhất định phải xử lý nghiêm, không được bỏ qua.
https://thuviensach.vn
Ngụy Trưng tìm dịp nói với Thái Tông:
− Bệ hạ nói con người này làm quan bất chính, không thấy ông ta nhận của cải; nay nghe nói nhà ông ta bán châu báu, dự định xử phạt người tiến cử, thần không biết là lý do gì. Từ thánh triều đến nay, người tận trung vì nước, liêm khiết cẩn thận, trước sau như một chỉ có Khuất Đột Thông, Trương Đạo Nguyên mà thôi. Ba người con trai của Khuất Đột Thông đến ứng tuyển, chỉ có một con ngựa gầy; con trai của Trương Đạo Thông không thể sinh tồn tự lập, không hề nghe thấy bệ hạ có một câu nói đến họ. Nay Lý Hoằng Tiết lập công vì nước, trước sau nhận nhiều thứ bệ hạ ban thưởng, nhậm chức cho đến chết chẳng thấy ai nói ông ấy tham tàn, vợ con ông ấy bán châu báu không bị coi là có tội. Biết rõ là làm quan thanh liêm mà không có một lời vỗ về; hoài nghi làm quan tham ô thì ngay cả người tiến cử cũng đòi xử phạt, tuy nói ghét kẻ ác không thể nghi ngờ, thực ra đây cũng là thích người tốt không sâu sắc. Thần trộm nghĩ, ngay cả khi cách làm này đúng thì e kẻ có kiến thức nghe được chuyện này nhất định cũng bàn tán bừa bãi.
Thái Tông vỗ tay nói:
− Vội vàng không suy xét, nghe được lời này của khanh mới biết nói chuyện không dễ dàng. Không truy cứu chuyện này nữa. Con trai của Khuất Đột Thông, Trương Đạo Nguyên mỗi người được giữ một chức quan.
✽✽✽
Năm Trinh Quán thứ chín, người từ bắc phiên trở về báo cáo với triều đình:
− Lãnh thổ Đột Quyết tuyết rơi lớn, dân đói, dê ngựa chết hết. Người Đường ở đó đều trốn vào rừng núi làm cướp, lòng người hỗn loạn, tình thế nguy hiểm.
Thái Tông bảo thị thần:
https://thuviensach.vn
− Quan sát các bậc đế vương ngày xưa, thi hành nhân nghĩa, bổ nhiệm trọng dụng người hiền lương thì thiên hạ đại trị; thi hành bạo chính, trọng dụng gian tà thì thất bại. Người mà Đột Quyết tín nhiệm, trẫm và các khanh đều thấy cả, hẳn là không có người trung lương chính trực đáng tin. Hiệt Lợi lại không quan tâm đến trăm họ, muốn làm gì thì làm. Theo trẫm đánh giá thì sao có thể lâu dài?
Ngụy Trưng kể:
− Xưa Ngụy Văn Hầu hỏi Lý Khắc rằng, trong chư hầu ai diệt vong trước? Lý Khắc đáp: “Nước Ngô diệt vong trước”. Ngụy Văn hầu hỏi: “Tại sao?”. Lý Khắc nói: “Nước Ngô đánh trận nào thắng trận ấy. Chiến thắng xong, quân chủ ắt sinh kiêu ngạo, sau mấy trận chiến, trăm họ ắt mệt mỏi khốn khổ, không diệt vong thì còn đợi gì?”. Hiệt Lợi gặp lúc Tùy mạt, Trung Nguyên rối ren nên ỷ nhân mã nhiều, xâm nhập nội địa, đến nay vẫn chưa dừng lại, đây chính là nguyên nhân khiến hắn ắt diệt vong.
Thái Tông cho lời này rất đúng.
✽✽✽
Năm Trinh Quán thứ mười, Việt Vương, do Trưởng Tôn hoàng hậu sinh, em trai Thái tử (Thừa Càn), thông minh tuyệt đỉnh, trí tuệ hơn người, Thái Tông đặc biệt sủng ái. Có người nói với Thái Tông, đại thần tam phẩm trở lên đều khinh miệt Việt Vương, dụng ý nhằm vu hãm bọn Thị trung Ngụy Trưng, lấy đó để khích cho Thái Tông nổi giận. Thái Tông đến điện Tề Chính, cho vời các đại thần tam phẩm trở lên vào gặp, sau khi bảo bọn họ ngồi xuống, Thái Tông nổi giận lôi đình, nói:
− Trẫm có một câu muốn nói với các khanh. Ngày trước thiên tử là thiên tử, bây giờ thiên tử không còn là thiên tử sao? Ngày trước con trai thiên tử là con thiên tử, ngày nay con trai thiên tử không phải là con thiên tử sao? Trẫm thấy các hầu vương nhà Tùy, những người từ đại quan hiển hách trở xuống đều không khỏi bị bọn họ trêu chọc quấy
https://thuviensach.vn
nhiễu. Con trai của ta đương nhiên không được phép phóng túng kiêu ngạo, các khanh qua lại với nhau, sao có thể cùng nhau khinh miệt chúng?
Nếu trẫm phóng túng cho chúng, lẽ nào không thể làm khó chư công?
Bọn Phòng Huyền Linh, quỳ hết xuống xin tội. Ngụy Trưng sắc mặt nghiêm chỉnh khuyên can:
− Các vị đại thần ngày nay nhất định không hề khinh miệt Việt Vương. Nhưng về lễ nghĩa, bề tôi, con trai là như nhau. Kinh truyện nói rằng, người bên cạnh đế vương tuy thấp hèn, nhưng xếp trên chư hầu. Chư hầu nhiệm dụng họ làm công thì là công; nhiệm dụng họ làm khanh thì là khanh. Nếu không phải là công khanh thì ở dưới hầu hạ chư hầu. Nay những người tam phẩm trở lên, địa vị ngang với công khanh, đều là đại thần của thiên tử, là những người được bệ hạ lễ kính ưu đãi. Mặc dù họ có chút không đúng, nhưng Việt Vương sao có thể tùy tiện làm nhục? Nếu pháp chế luân thường của nhà nước đã bị phế bỏ phá hoại, thì đó chẳng phải là điều thần có thể hiểu. Trong thời đại thánh minh ngày nay, Việt Vương sao có thể làm như vậy? Huống hồ Tùy Văn Đế không biết lễ nghĩa, sủng ái chư vương kiêu ngạo, khiến các con làm những việc vô lễ, không lâu sau, vì phạm tội mà bị bãi truất. Không thể làm tấm gương thì có gì đáng để khen ngợi?
Thái Tông nghe Ngụy Trưng nói xong mừng ra mặt, bảo quần thần:
− Lời khanh nói lý lẽ đầy đủ chu đáo, không thể không phục. Lời trẫm nói xuất phát từ lòng riêng của bản thân. Điều Ngụy Trưng nói là đại pháp căn bản của nước nhà. Vừa rồi trẫm nổi giận, tự cho là có đầy đủ lý do mà tin tưởng sâu sắc, nay nghe Ngụy Trưng nói, mới thấy lời của mình thực không có đạo lý. Lời nói của kẻ làm vua thực không dễ chút nào.
Rồi triệu kiến bọn Phòng Huyền Linh trách cứ, ban thưởng cho Ngụy Trưng một nghìn súc lụa.
https://thuviensach.vn
✽✽✽
Năm Trinh Quán thứ mười, Thái Tông nói với thị thần: − Thầy dạy của Thái tử xưa nay rất khó tuyển chọn. Chu Thành Vương kế vị khi còn nhỏ tuổi, dùng Chu Công Đán, Triệu Công Sảng làm Thái bảo, Thái phó, tả hữu đều là người hiền, đủ dùng để tăng thêm nhân nghĩa, chính trị được thái bình, được gọi là bậc minh quân. Đến Hồ Hợi nhà Tần, Thủy Hoàng sủng ái ông, Triệu Cao làm thầy ông. Triệu Cao dạy cho hình pháp. Sau khi Hồ Hợi soán ngôi làm vua thì tru diệt công thần, giết thân thích, tàn khốc bạo liệt vô cùng, nên nhanh chóng bị diệt vong. Như vậy, sự thiện ác của con người quả thực học được từ người thân cận. Những người trẫm giao du lúc hai mươi tuổi chỉ có Sài Thiệu, Đậu Đán, bọn họ không phải là những người có ba sở trường. Sau này trẫm ở ngôi hoàng đế, trị vì thiên hạ, tuy thánh minh không sánh bằng Nghiêu, Thuấn, nhưng cũng tránh được sự tàn bạo của Tôn Hạo, Cao Vĩ. Từ đó thấy rằng, lại không phải là học được từ người thân cận, thế nghĩa là thế nào?
Ngụy Trưng nói:
− Người có trí năng bình thường, có thể cùng người làm việc thiện, cũng có thể cùng người làm việc ác, nhưng người có trí năng thượng đẳng thì tự nhiên không chịu ảnh hưởng. Bệ hạ nhận sứ mệnh trời trao, dẹp yên đạo loạn cho giặc cướp gây ra, cứu tính mệnh của muôn dân, trị nước được thái bình, lẽ nào những người như Sài Thiệu, Đậu Đán có thể làm tổn hại đức hạnh của bệ hạ?
Nhưng kinh điển nói rằng: “Bỏ âm thanh dâm loàn, xa lánh kẻ gian tà”. Người thân tín càng phải đặc biệt thận trọng. Thái Tông nói:
− Chính phải.
✽✽✽
https://thuviensach.vn
Năm Trinh Quán thứ mười một, có viên quan bẩm với Thái Tông chuyện Lăng Kính kinh doanh cầu lợi. Thái Tông trách bọn Thị trung Ngụy Trưng tiến cử người bừa bãi, Ngụy Trưng nói:
− Mỗi lần được bệ hạ hỏi, chúng thần đều nói rõ ưu điểm và khuyết điểm của Lăng Kính. Có học vấn, dám can gián là ưu điểm của ông ấy; quá lưu tâm đến sinh kế, thích kinh doanh là nhược điểm của ông ấy. Nay Lăng Kính viết văn bia cho người ta, dạy người ta đọc “Hán thư”, lấy đó làm cớ trao đổi cầu lợi, điều này khác với những gì chúng thần nói. Bệ hạ không dùng sở trường của ông ấy, chỉ thấy được sở đoản của ông ấy mà cho rằng chúng thần che giấu bệ hạ, thực không dám tâm phục.
Thái Tông tiếp thu ý kiến của ông.
✽✽✽
Năm Trinh Quán thứ mười một, Đường Thái Tông nói với thị thần:
− Hôm qua trẫm đến Hoài Châu, có người dân mật tấu: “Tại sao thường xuyên sai phái rất nhiều nam giới thành niên ở vùng Sơn Đông xây dựng ở Uyển Nội? Lao dịch ngày nay dường như không ít hơn thời nhà Tùy. Hoài Châu, Lạc Hà trở về đông, trăm họ còn sống sót sau chiến loạn không chịu đựng được nền chính trị hà khắc này, mà những cuộc săn bắn vẫn diễn ra liên miên, thực là quân chủ kiêu xa dâm dật! Nay lại đến Hoài Châu săn bắn, lời can gián trung thành không còn đến Lạc Dương nữa”. Bốn mùa săn bắn đã là nghi lễ thường xuyên của đế vương, nay săn bắn ở Hoài Châu chẳng hề phạm đến trăm họ. Việc dâng sớ can gián sửa chữa tự có tiêu chuẩn thông thường, bề tôi đáng quý ở chỗ có lời khuyên can, quân chủ đáng quý ở chỗ biết sửa lỗi lầm. Lời phỉ báng thế này hơi giống với chửi mắng.
Thị trung Ngụy Trưng dâng tấu nói:
− Nước nhà mở rộng con đường nói năng chính trực, cho nên người dâng mật tấu rất nhiều, bệ hạ đích thân giở đọc để mong lời bề
https://thuviensach.vn
tôi có chỗ tiếp thu được, bởi vậy những người muốn ngẫu nhiên thành công được phóng túng ác ngôn của họ. Bề tôi khuyên can nhà vua phải thật chính xác, phải sử dụng ngôn từ uyển chuyển để khuyên can. Hán Nguyên Đế từng dùng rượu nguyên chất để tế miếu Cao Tổ, từ Biện Môn Trường An đi ra, dự định ngồi thuyền lầu, Ngự sử đại phu Tiết Quảng Đức chặn xa giá và bỏ mũ xuống nói: “Nên đi bằng cầu, bệ hạ không nghe lời thần, thần sẽ tự sát, dùng máu trên cổ nhuốm lên bánh xe, bệ hạ sẽ không thể vào tổ miếu”. Nguyên Đế rất không vui. Quang lộc đại phu Trương Mãnh nói: “Thần nghe nói vua thánh minh thì bề tôi chính trực. Đi thuyền nguy hiểm, qua cầu an toàn. Vua thánh minh không ngồi xe thuyền nguy hiểm, lời Quảng Đức có thể nghe theo”. Nguyên Đế nói: “Hiểu dụ người khác, không nên giống thế này hay sao?”. Rồi đi qua cầu. Như vậy Trương Mãnh có thể nói là bề tôi chính trực khuyên can nhà vua.
Thái Tông rất vui mừng.
✽✽✽
Năm Trinh Quán thứ mười một, Thái Tông hỏi Ngụy Trưng: − Gần đây sự được mất trong những việc trẫm làm và việc giáo hóa chính trị so với trước thì thế nào?
Ngụy Trưng đáp:
− Nếu nói về tình hình ân trạch thanh uy đạt được, các ngoại tộc phương xa đến triều cống thì không thể sánh bằng năm Trinh Quán thứ nhất. Nếu xét từ việc đạo nghĩa tương thông với trăm họ, lòng dân vui vẻ thành phục thì kém rất xa năm Trinh Quán thứ nhất.
Thái Tông hỏi:
− Ngoại tộc phương xa đến quy phục, hẳn là do thi hành đạo nghĩa, sao công nghiệp ngày trước lại lớn hơn?
Ngụy Trưng đáp:
https://thuviensach.vn
− Ngày trước thiên hạ chưa yên định, thường ghi khắc đức nghĩa trong lòng, không lâu sau, vì nước nhà bình yên vô sự nên dần tăng tính kiêu xa tự mãn. Bởi vậy công nghiệp tuy rằng lớn nhưng đạo nghĩa lại không sánh bằng năm Trinh Quán thứ nhất.
Thái Tông lại hỏi:
− Những việc làm hiện giờ có gì khác trước?
Ngụy Trưng đáp:
− Năm Trinh Quán thứ nhất, chỉ lo người khác không can gián nên dẫn dụ quần thần khuyên can. Ba năm sau, thấy có người khuyên can là có thể tiếp thu nghe theo. Một hai năm gần đây thì không thích người khác khuyên can, tuy cố gắng lắng nghe và tiếp thu nhưng trong lòng lại không vui, quả thực có vẻ khó xử.
Thái Tông hỏi:
− Ở những việc nào thì như thế?
Ngụy Trưng đáp:
− Lúc mới lên ngôi, phán xử Nguyên Luật Sư tử hình, Tôn Phục Ca can rằng: “Chiếu theo pháp luật thì không đến mức bị xử tội chết, không thể cho phép xử hình phạt khắt khe một cách tùy tiện”. Bệ hạ bèn thưởng Lan Lăng công chúa cho ông ta, giá trị vạn nguyên tiền. Có người nói: “Điều Tôn Phục Ca nói chỉ là đạo lý thông thường, mà lại được ban thưởng quá hậu”. Khi ấy bệ hạ nói: “Từ khi trẫm lên ngôi đến nay, chẳng có người khuyên can, cho nên ban thưởng cho ông ấy”. Đó chính là dẫn dụ quần thần khuyên can. Tư hộ Từ Châu là Liễu Hùng ban bổng lộc cấp bậc bừa bãi cho những người còn sót lại của nhà Tùy, có người tố cáo ông ta, bệ hạ bèn lệnh cho Liễu Hùng thẳng thắn bộc bạch, không thẳng thắn bộc bạch sẽ định tội. Liễu Hùng kiên quyết nói là xử lý theo thực tế, không chịu thẳng thắn bộc bạch. Đại lý tự điều tra được biết sự trí trá của Liễu Hùng, bèn xử Liễu Hùng tội chết, Thiếu khanh Đới Trụ bẩm tấu rằng, chiếu theo pháp luật, chỉ đáng xử tội tù. Bệ hạ nói: “Trẫm đã phán quyết, nên xử tội chết”. Đới Trụ nói: “Bệ hạ đã không cho lời thần là đúng, vậy xin lập tức giao
https://thuviensach.vn