🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tôn Tử Truyện Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn TÔN TỬ TRUYỆN Tác giả: Tào Nghiêu Đức Người dịch: Nguyễn Bá Thính NXB Văn hóa Thông tin – 1999 Khổ 13×19 Nguồn: hoi_ls (www.thuvien-ebook.com) https://thuviensach.vn Giới thiệu Tôn Tử, tự Trường Khanh, là nhà quân sự và nhà lý luận quân sự nổi tiếng của Trung Quốc ở cuối thời Xuân Thu, được người đời gọi bằng cái tên tôn kính là “Vũ thánh nhân”. Trước tác “Tôn Tử binh pháp” của ông, là cuốn binh thư quý báu đầu tiên trên thế giới, được các bậc danh tướng đời sau tôn sùng và truyền tụng, tiếng thơm lưu truyền, được coi là một viên ngọc quý của Trung Quốc và thế giới. Tác dụng và giá trị tác phẩm của Tôn Tử đã không gói gọn trong lĩnh vực quân sự, mà còn ở các mặt chính trị, ngoại giao, văn hoá, kinh tế. Ở Trung Quốc và một số nơi trên thế giới, từng có thời nổi lên những “cơn sốt Tôn Tử”. Bằng ngôn ngữ văn học giản dị, dễ hiểu, cuốn sách này đã miêu tả rất tỉ mỉ thời đại Tôn Tử đã sống, quá trình ra đời của mười ba bài binh pháp Tôn Tử, cũng như những chiến tích mà Tôn Vũ từng bách chiến bách thắng khi áp dụng thực tiễn cuốn sách này. Người viết truyện đã tái hiện một cách nghệ thuật những kinh nghiệm lịch sử mà Tôn Vũ đã cùng Ngô vương Hạp Lư, danh tướng Ngũ Tử Tư, v.v… lấy nước Ngô nhỏ yếu đánh thắng nước Sở hùng mạnh, để cho người đời sau còn phải suy ngẫm mãi. Tuy là chuyện lịch sử, nhưng cuốn sách này đã xây dựng những nhân vật sống động, mang đậm những dấu ấn lịch sử, nên cuốn sách dễ thu hút người đọc. Tôn Tử truyện là một tác phẩm đầu tiên về thể loại truyện ký viết về Tôn Tử có nội dung trong sáng, lành mạnh, mang tính giáo dục cao. https://thuviensach.vn TÔN TỬ TRUYỆN TẬP I https://thuviensach.vn CHƯƠNG I THÁI SƠN CAO CAO, TRI THỦY ÀO ÀO Dải đất mênh mông của nước Tề, nước Lỗ thu hút được tầm mắt của mọi người nhờ ở màu sắc thần bí của mình. Thái Sơn “đứng đầu năm núi lớn” cũng mọc lên ở mảnh đất này. Dòng Hoàng Hà thai nghén ra dân tộc Hoa Hạ cũng từ đây đổ vào biển lớn. Hai bậc “thánh nhân” một văn, một. võ của xã hội phong kiến là Khổng Khưu và Tôn Vũ cũng chào đời trên mảnh đất này… Thái Sơn, một quả núi kỳ dị hun đúc khí thiêng và toả hào quang thần thánh. Nó nuốt Tây Hoa, đè Nam Hoành, cưỡi Trung Tung, vượt Bắc Hằng, đứng đầu trong mọi quả núi, chiếm địa vị độc tôn trong năm núi lớn. Thái Sơn, đại biểu cho nền văn minh phương Đông, tượng trưng cho sự lớn lao và trang trọng. Nó lấy mình làm ranh giới nước Tề, nước Lỗ, phía đông là biển lớn với muôn vàn sóng bạc, tây dựa vào Hoàng Hà chảy mãi đến nơi xa, nam có sông Vấn, sông Hoài, sông Tứ, phía bắc một mình một giải Tri Hà. Phóng tầm mắt ra nhìn thế đất của cả một khu vực ven biển miền Đông, nó đứng cao nhìn xuống, bỗng trở thành “cây cột phía trời Đông” mọc trên miền đồng bằng muôn dặm. Ở đây khí hậu ôn hoà, đất đai màu mỡ là vùng trung tâm nảy nở sinh sôi và chung sống của loài người cổ đại, là nơi bắt nguồn quan trọng của một nền văn hoá cổ xưa. Đã mấy ngàn năm, ở đây luôn luôn là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của phương Đông. Đầu đời nhà Hạ, vua Vũ chia đất nước thành chín châu, năm châu là Ký, Dự, Thanh, Duyễn, Từ đã quây quần xung quanh nó. Thời thất hùng Chiến quốc, đây lại là kinh đô của Lục quốc… Thái Sơn được xây đắp bằng những câu chuyện thần thoại đẹp đẽ mà xúc động. Sau khi ông Bàn Cổ (người khai thiên lập địa ở thời viễn cổ, là vị thần sinh ra vạn vật) chết đi, thì đầu là Đông Nhạc, bụng là Trung Nhạc, cánh tay trái là Nam Nhạc, cánh tay phải là Bắc Nhạc, chân là Tây Nhạc. https://thuviensach.vn Thi thể của Bàn Cổ quay đầu về hướng đông nên hoá thành Đông Nhạc. Thái Sơn nghiễm nhiên trở thành quả núi đứng đầu trong ngũ nhạc, tức là năm quả núi cao. Ngày xưa, khi còn là thuở hồng quang, Thái Sơn là đảo Tiên ở trên biển Đông. Khi chim trinh vệ (còn gọi là chim thề, oan cầm, chi điểu, tục gọi là đế thước – tương truyền là Nữ Oa con gái nhỏ của Viên đế chết đi hoá thành) ngậm cây và đá thu về lấp biển Đông, đã lấp bằng mặt nước ở xung quanh Thái Sơn; và trong chốc lát Thái Sơn đã hiện ra bộ mặt vốn có của mình. Những dòng nước nhỏ hay đầm nước còn sót lại là sông Hoàng Hà, Hoài Hà, Vân Hà, Tứ Thuỳ, Tri Thuỷ và hồ Đông Bình, hồ Vi Sơn ngày nay. Về sau, Nữ Oa (tương truyền là em gái của Phục Hy đế, đã luyện đá ngũ sắc để vá trời, nặn đất sét thành người nên được gọi là bà mẹ của loài người) lại nặn thêm cơ man nào là người bằng đất sét, cho biến thành người cổ đại cao lớn, dựa vào núi và tận dụng có nước, sinh sôi nảy nở ra rồi chung sống với nhau. Tương truyền ở một chỗ thật sâu trên Thái Sơn; có một chàng dũng sĩ tên là “Gan Đá”. Con gái của Trương viên ngoại ở chân núi bị ma ám lâm bệnh nặng. Viên ngoại đã dán một bản cáo thị rằng: Hễ ai chữa khỏi bệnh cho tiểu nữ, thì nguyện sẽ gả tiểu nữ cho người ấy làm vợ. Chàng Gan Đá đã đến đó bóc tờ yết thị xuống, bảo nhà họ Trương chuẩn bị cho mình một cái thanh la bằng đồng, một chậu dầu thơm; một chiếc nồi lớn. Sau đó, chàng lấy bông bện thành mười sợi bấc đèn, thả vào chậu dầu thơm thắp sáng lên, rồi úp cái nồi lên trên và lấy chân dẫm lên mép nồi. Đến nửa đêm, bỗng nghe thấy cơn gió yêu quái từ đông nam thổi tới, chàng Gan Đá liền dẫm lật ngửa cái nồi lên rồi khua thanh la ầm ĩ. Con ma nhìn thấy lửa đèn, lại nghe tiếng thanh la bèn bỏ đi mất. Từ đó ma quỷ không dám đến nữa, bệnh của cô gái cũng khỏi theo. Con ma ấy lại đi quấy nhiễu các nơi, chàng Gan Đá nhận lời mọi người, đâu gọi thì tới, thế nhưng vì chỉ có một mình nên chàng bận tíu tít. Vì vậy, người ta liền khắc lên đá của Thái Sơn hay trên những viên gạch vuông mấy chữ “Chàng Gan Đá” rồi gắn lên tường nhà. Ma quỷ nhìn thấy tên chàng là hết hồn, vội bỏ trốn. Một hòn đá Thái Sơn https://thuviensach.vn nhỏ tí như vậy mà có uy lực đến thế, vậy cả quả núi Thái Sơn cao vút sẽ như thế nào, chắc ai cũng tưởng tượng ra được… Thái Sơn ở phía đông của giải đất bằng miền Hoa Hạ. Phương Đông là phương mặt trời lên, cổ nhân thì cho rằng đó là nơi vạn vật giao hòa, là nơi phát sinh buổi đầu xuân. Theo thuyết ngũ hành (kim mộc, thuỷ, hoả, thổ) thì phương đông thuộc hành mộc; theo ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) thì phương Đông là nhân; theo bốn mùa (xuân, hạ, thu, đông) thì phương Đông là mùa xuân; theo bát quái của “Chu dịch” (Càn Khôn, Chấn, Tốn, Khảm; Ly, Cấn, Đoài, tám quẻ tượng trưng cho tám loại hiện tượng tự nhiên là trời, đất, sấm, gió, nước, lửa, núi, đầm) thì phương Đông thuộc quẻ Chấn, tức là sấm; trong nhị thập bát tinh tú (Dốc, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Ky, Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích, Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Tư, Lâm, Tỉnh, Quỷ, Liễu, Trinh, Trương, Dực, Chẩn thì phương Đông là thương long. Chữ “Đông” trong chữ Hán, gồm chữ Mộc và chữ Nhật ghép lại với nhau. Chữ Mộc trong văn tự giáp cốt lại thông với chữ Tang, nên mới có thuyết “nhật xuất phù tang” (Mặt trời mọc ở đất Phù Tang), “nhân” là đạo đức lớn của trời đất, muôn vật sinh sôi vào mùa xuân. Chấn và thương long là đất nhẹ gót thang mây, là nơi vua chúa ra đời. Bởi thế Thái Sơn là một quả núi lành, là xứ sở của thần linh, là nơi bắt nguồn của khí thiêng. Thái Sơn, là thiên thần của vẻ đẹp, tất cả các đỉnh vây quanh một đỉnh, rừng rậm suối bay, tráng lệ huy hoàng, thấp thoáng lầu các, cổ tích ở khắp mọi nơi, vạn vật dồn tụ lại từng chỗ. Thái Sơn nhiều tùng bách, cây cảnh vươn cao, đủ mọi tư thế, đỉnh lạ nhấp nhô, đá tai mèo lởm chởm, mỗi một cảnh đẹp là một bài thơ, một bức tranh, một khúc nhạc; làm xao xuyến lòng người, gây bao niềm hứng thú. Những giải sương như khói như mây, như có tài biến hóa, khiến người ta thấy cảnh vật tĩnh nhưng lại động, khí thế càng thêm oai hùng. Tùng xanh bách thắm, vách đá cheo leo, sương mờ tựa mây, mặt trời le lói; ánh lên một vẻ vừa hùng vĩ tráng lệ, lại yểu điệu thướt tha. Trong cái hùng vĩ đó hàm chứa những hình tượng tươi đẹp, mà lạ, mà hiểm, mà xinh, mà u nhã, mà sâu kín, mà bao la… Chẳng hạn: “Thác ba https://thuviensach.vn đầm” ở trong suối Đông của cung Đấu Mẫu, trong cái hùng vĩ có chứa vẻ đẹp xinh. Mom Xả thân, mom Trăm trượng lại gửi vẻ hiểm trở vào trong cái dáng hùng vĩ. Cầu tiên, mom Rẻ quạt lại chứa vẻ đẹp thần tiên của tạo hóa, xứng với tên là kỳ quan trong thiên hạ. Trèo lên đến Nam thiên môn, mới thấm thía vần điệu thần kỳ của câu thơ “Thiên môn dài tiếng hú, ngàn dặm gió lành về” hoặc “thênh tháng trời đất nhỏ”; còn như hốc đá ở đằng sau đỉnh Đại Âm thì quả thật là nơi động phủ thiên tiên vô cùng u nhã… Thái Sơn, triết gia vĩ đại này đã nói với người ta nên xử thế như thế nào, làm người như thế nào. Nếu nói “hùng vĩ” là đặc trưng thứ nhất của Thái Sơn, thì “lớn lao” sẽ là đặc điểm thứ hai của quả núi này vậy – chân núi nằm ở hai nước Tề – Lỗ, không biết mấy trăm, mấy ngàn dặm. Nó nằm vắt ngang lên gò đồi của nước Tề, nước Lỗ, làm nên một sự so sánh mạnh mẽ về độ cao thấp khác nhau giữa đồng bằng và gò đồi xung quanh đó. Nó có nhiều đỉnh nhấp nhô, mà đỉnh núi chính xé đất vươn thẳng lên trời xanh. Từ chân núi cho đến Trung thiên môn, Nam thiên môn, đỉnh Ngọc Hoàng… tầng tầng lớp lớp, hình thành cảm giác tiết tấu từ trầm đến bổng và một khí thế thênh thang “nhìn qua muôn núi nhỏ”. Mạch núi của nó nối liền nhau với nền móng lớn rộng, hình thể tập trung. Nền móng lớn rộng sẽ gây nên cảm giác vững vàng, hình thế đồ sộ mà tập trung lại đem lại một ý tưởng sâu nặng, và thế là nó như muốn nói với người ta rằng bất kể trong tình hình. nào, cũng phải bình tĩnh lặng lẽ không cuống, không vội, “vững tựa Thái Sơn”, cũng phải can đảm mà nhận lấy; con người ta phải không biết sợ, phải kiên cường, phải tự tin, dám chịu đựng sự đả kích thế này hay thế khách, “Thái Sơn đè đầu” cũng chẳng cong lưng. Vĩ đại trang trọng, tự nhiên khiến người ta phải kính nể, xinh đẹp mỹ miều, như mời gọi người ta đến thăm. Một quả núi lành, ban phát cho người hạnh phúc. Thiên thần của vẻ đẹp, để người người ngưỡng vọng và ái mộ. Triết gia dạy người ta biết xử thế ra sao, thực sự lạ bạn là thầy của muôn ngàn dân chúng. Tuy nhiên, khí thiêng của Thái Sơn chủ yếu lại không thể hiện ở mặt này mà thể hiện ở chỗ bầu sữa ngọt dồi dào của nó, đã nuôi lớn vô số danh nhân văn hoá, chỉ riêng thời Xuân Thu Chiến quốc, https://thuviensach.vn nếu đi tìm theo một dải phía nam của Thái Sơn, ta sẽ thấy Khổng Khưu ở Ni Sơn, Mạch Nha ở Dịch Sơn, Mặc Trác ở Mông Sơn lại còn đông đảo những học trò hiền của Khổng Tử như Nhan Hồi, Tằng Sâm, v.v… Theo dòng Tri Thuỷ lên mạn bắc, ta thấy có Tề Hoàn Công, Quản Trọng, Yến Anh và hai ông cháu là Tôn Vũ và Tôn Tẫn. Nếu như ví Thái Sơn chót vót với một người bà tuổi cao mà phúc hậu có hai bầu vú sữa, thì bầu bên trái là những mạch núi nhô lên, lấy sữa ngọt nuôi nên những con người sùng đạo văn chương, bầu bên phải lại lõm xuống thành những dòng sông, lấy nguồn mạch của mình, nuôi lớn những con người thượng võ. Từ đó chẳng khó khăn gì khi liên tưởng ra rằng, cống hiến chủ yếu của Thái Sơn là đã hun đúc nền văn hoá Tề – Lỗ huy hoàng xán lạn. Bởi thế mới bảo nó là đại biểu cho nền văn hoá phương Đông. Núi là nguồn của nước; dòng sữa của núi lớn rì rầm tuôn chảy, rồi lại róc rách dồn tụ mà ào ào lao xuôi thao thao cuồn cuộn, đó chính là mạch nguồn của những dòng sông. Chỗ khuất của Thái Sơn, đằng sau lưng Nghi Sơn, muôn ngàn khe lách, dồn lại chảy về phía bắc mà thành Tri Thuỷ. Dòng Tri Thuỷ thao thao chảy, qua Lâm Tri, kinh đô nước Tề lên phía bắc rồi từ Lạc An nhập vào sông Tiểu Thanh, chảy xéo lên đông bắc, đổ vào Bột Hải. Đó là động mạch chủ yếu của nước Tề. Nó cùng với Hoàng Hà cũng đến đây thì đổ vào biển với những dòng sông lớn nhỏ như Thời Thuỷ, Nữ Thuỷ, v.v… tưới tắm cho mảnh đất lâu đời mà phì nhiêu này của nước Tề, nuôi lớn từng lớp, từng lớp những người con anh hùng của nước Tề, hun đúc nên nền văn hoá chói ngời của nước Tề, khiến nó trở nên vừa đằm thắm lại vừa có những điểm đặc sắc riêng của mình. Tinh thần thượng võ là đặc trưng nổi bật của nền văn hoá nước Tề. Những năm đầu thời Tây Chu, Thành Vương đã phong cho ông ngoại của mình là Lã Thượng (Khương thái công) làm Tề hầu, ban cho ông một giải đất “đông tới biển (Bột Hải), tây tới sông (Hoàng Hà), nam đến Di Lăng (Di Lăng quan phía đông sông Nghi Thuỷ bây giờ), bắc đến tận Vô Đệ (tức là phía bắc Huệ Dân bây giờ). Ngoài ra còn giao cho một số đặc quyền, có thể đem quân thảo phạt những chư hầu có tội (“Tả truyện” Hỷ công năm https://thuviensach.vn thứ tư). Giải đất được phong này mỡ màng và rộng hàng ngàn dặm, lại giàu nguồn lợi về muối và cá. Lã Thượng về đến nước của mình, bèn áp dụng phương châm “đơn giản lễ nghi cho quần thần, lựa theo phong tục ở đó “tiến hành quản lý thích nghi với từng nơi, khiến đất nước phát triển rất nhanh chóng, đến thời kỳ Xuân Thu, đã thâu tóm tới hơn ba mươi quốc gia xung quanh. Nước Tề vốn là một nước lớn ở phương Đông, qua sự kinh doanh phát triển và mở rộng của Hoàn Công, đã “chín lần hợp chư hầu, sắp xếp thiên hạ”, trở thành bá chủ thứ nhất ở thời Xuân Thu, xưng bá trong chư hầu. Quản Trọng trị vì nước Tề, chẳng những đưa ra hàng loạt biện pháp để phát triển kinh tế, mà còn tiến hành hàng loạt cải cách về chế độ. Trước hết là chính sách “ngụ binh ư nông” (lính ở trong nghề nông) chia cả những ra làm hai mươi mốt hương, trong đó có sáu hương làm nghề và đi buôn, mười lăm hương kia là sĩ hương, tức là theo nghề nông. Thời bình thì sẽ “thực điền” ăn vào đồng ruộng, thời chiến nông phu làm lính, sĩ thì làm giáp sĩ và làm tiểu sĩ quan. Trong sĩ hương thì cả năm người tổ chức thành một ngũ, ngũ có quỹ trưởng; năm mươi người thành một tiểu nhung, tiểu nhung lại đặt ra chức hữu tư; hai trăm người là một tốt, mỗi tốt có liên trưởng; hai ngàn người là một lữ, lữ thì có hương lương nhân; năm lữ là một vạn người thành một quân, nước lớn thì có ba quân, v.v… Đó vừa là tổ chức hành chính, lại cũng chính là biên chế quân sự. Hoàn công và Quản Trọng nhận thức được rằng: Nước giàu thì quân sẽ mạnh, quân mạnh được là nhờ ở nước giàu. Việc thứ hai là thực hành sĩ, nông, công, thương, bốn thứ dân định cư theo nghề nghiệp, trong đó đặc biệt là để cho kẻ sĩ không phải làm lao động, tạo cho họ một môi trường trong sạch để cho họ dạy học và bàn về võ nghệ, trở thành võ sĩ chuyên nghiệp. Thứ ba là lấy giáp binh chuộc tội. Bởi vì giáp binh (chỉ vũ khí trang bị) của nước Tề lúc ấy còn thiếu nhiều, Quản Trọng liền đặt ra chế độ lấy việc chế tạo trang bị vũ khí đề miễn giảm tội ác, từ đó khiến cho nước Tề “dư dật về trang bị vũ khí”. Thông qua một loạt những cải cách đó, nước Tề chẳng những trở thành một nước mạnh đứng đầu về quân sự thời bấy giờ, mà còn hình thành một tinh thần thượng võ từ trên xuống dưới trong cả nước. Tinh thần thượng võ ấy https://thuviensach.vn được truyền từ đời này qua đời khác, lâu dần mãi, đã trở thành một truyền thống tốt đẹp. Thuyết âm dương ngũ hành, là đặc điểm thứ hai của văn hoá nước Tề. Thuyết âm dương và thuyết ngũ hành, là hai học thuyết triết học dùng tư duy lý luận để nắm vững thế giới. Nó là môi trường phái triết học sản sinh ra ở nước Tề rồi được phát triển và trưởng thành. Người nước Tề lấy quan điểm âm đương ngũ hành để quan sát tinh tượng, chế định ra lịch pháp, rồi lại dùng nó để giải thích cho sự thay đổi của bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, sự chuyển đổi của các tiết khí và sự lặp đi lặp lại của ngày đêm, v.v… phạm vi ứng dụng thật vô củng rộng rãi. Học thuyết lý luận có đặc điểm riêng, là đặc điểm thứ ba của văn hoá nước Tề. Nó thể hiện ở hai mặt một là đã nói đến “nhân” và “lễ”, nhưng lại không đặt nó ở địa vị hàng đầu; hai là hết sức coi trọng công lợi. Khổng Tử ca ngợi Quản Trọng nhân đức: “Hoàn công chín lần hợp chư hầu mà không hề phải dùng đến binh xa, sức mạnh của Quản Trọng, là ở lòng nhân của ông, như lòng nhân của ông”. Lại nói: “Quản Trọng tướng quốc của Hoàn Công xưng bá trong chư hầu, sắp đặt lại thiên hạ, dân đến bây giờ vẫn còn được ban cấp mọi thứ. Không có Quản Trọng, họ đã thành dân mặc áo trái tà.[1] Chẳng lẽ lại như nhìn nhận của kẻ thất phu tầm thường, tự nó theo cống rãnh mà rồi không ai biết sao?”. Khổng Tử là người hay nói đến luân lý nhất, vậy mà ông đã ca ngợi Quản Trọng đến như thế, đủ thấy phẩm chất của Quản Trọng cũng như con người và đạo đức của ông khi làm chính trị đã phù hợp nhân đạo như thế nào. Một lần, trong khi trả lời câu hỏi của Hoàn công, Quản Trọng nói: “Người giữ chữ tín, thì dân tin; người có lòng nhân, thì dân nhớ; người nào nghiêm, thì dân sợ; người biết lẽ, thì dân khen. Có câu rằng: Nhận lệnh mà không thay đổi, là tín vậy, cái gì mình không muốn, không đem đến cho người khác, là nhân vậy; ngoài nhân ra có sự cứng rắn, là nghiêm vậy; chất phác tin tưởng và biết nhường, là lễ vậy (Quản Tử – Tiểu vấn). Cốt lõi tư tưởng của nhà Nho là “nhân”, Khổng Tử đã giải thích đó là “mình đã không muốn, chớ mang cho người” (Luận ngữ – Vệ Linh công). Từ đây https://thuviensach.vn cũng đủ thấy chữ “nhân” trong lý luận của văn hoá Tề, về căn bản cũng giống như của nhà Nho, thế nhưng địa vị của nó trong học thuyết luân lý, thì lại không giống nhau, không giống như nhà nho, nó không đặt “nhân” lên địa vị hàng đầu. Quản Trọng cho rằng, luân lý đạo đức, cần phải xây dựng trên nền tảng đời sống vật chất nhất định. Ông nói: “Kho lẫm đầy mới biết đến lễ tiết, ăn mặc đủ mới nghĩ đến vinh nhục” (“Quản Tử – Mục dân”). Bởi thế, ông đã dành phần lớn tinh lực vào việc làm cho nước giàu quân mạnh. Trọng công lợi, lại là một đặc điểm nữa của học thuyết luân lý của văn hoá Tề, nó khác với nhà nho khi bàn về nghĩa lợi thường trọng nghĩa khinh lợi. Triết học đạo đức của Quản Trọng coi nặng về công lợi từ góc độ bàn về nhân tính, ông từng nói: “Phàm là tình cảm của con người, thấy lợi chẳng ai là không muốn lấy, thấy hại chẳng ai là không muốn tránh” (Quản Tử – Cấm tặng) “Dân thấy lợi thì đến, thấy hại thì bỏ đi. Người dân với cái lợi, cũng như nước luôn chảy xuôi” (Quản Tử – Hình thế giải). Tính người, bản thân đã mang sẵn đặc tính là hướng tới cái lợi, rời xa cái hại, còn như đạo đức, thực ra không phải bản thân tính người vốn sẵn có, nó là một quy phạm hành vi do vua chúa vạch ra. Đã như thế, muốn nhân dân thực hành những quy phạm đạo đức, thì cần thiết phải dùng biện pháp công lợi để thuận với mong muốn của dân, để mà thi hành. Thế nên, ngoài những điều thuyết giáo nơi cửa miệng, còn cần phải có những thủ đoạn vật chất, dùng sự thưởng phạt để dẫn dắt nhân dân làm theo. Tóm lại, vừa coi trọng công lợi, lại coi trọng lễ nghĩa, là đặc điểm học thuyết luân lý của văn hoá nước Tề. Dòng Tri Thuỷ thao thao từ phía nam chảy tới, xuyên qua Lâm Tri kinh đô nước Tề, vào Lạc An rồi chảy xế lên đông bắc, quanh co uốn khúc rồi dồn vào sông Tiểu Thanh chảy ra vịnh Lai Châu. Tính cách của Tri Thuỷ biến hoá khôn lường, mùa lũ nước dâng, mênh mang dào dạt, không thấy bến bờ, như hổ lồng xuống núi, như ngựa tuột dây cương, gầm réo, vật vã, lồng lộn, nuốt đi ngàn dặm, cuốn trôi rều rác, rửa sạch mọi cáu bẩn và bùn nhơ. Tri Thuỷ lúc này là hoá than của sự ngang ngược, tượng trưng của bạo https://thuviensach.vn lực hung tàn, đồng nghĩa với bá chủ, ngang hàng với quyền uy, hỏi có ai đã dám ra oai trước mặt nó, bởi nó sẵn sàng mang đến cho người ta mối tai hoạ lút đầu. Đầu xuân và giữa mùa thu, nó như một chàng trai hớn hở, như một chú ngựa tung tăng, như con chim nhạn xuyên mây, như chim hoàng oanh đang cánh lượn. Nó cuồn cuộn, nó chồm lên, nó reo ca, vui mừng lao về phía trước. Khí thế mạnh mẽ, tràn trề sức sống thanh xuân là đặc trưng chủ yếu của dòng sông vào những lúc này. Đến mùa nước cạn, dòng sông bỗng trở thành một cô gái vui vẻ hồn nhiên, với những nép váy trắng muốt từ xa bước tới, nhẹ nhàng hát ca, rải khắp dọc triền sông những tiếng cười lảnh lót như chuông đồng. Ra khỏi kinh thành Lâm Tri, nàng thiếu nữ ấy mang theo tiếng cười đi thẳng lên hướng bắc, đi chừng hơn mười dặm, nàng hơi rẽ về hướng đông, thấy trước mặt là mảnh đất phẳng phiu, màu mỡ, sông ngòi chằng chịt và không gian thoang thoảng từng làn hương lúa, tức cảnh sinh tình, nàng như bay như múa lên, vui vẻ bước đi. Chính chỗ dòng sông mang tâm hồn thiếu nữ chảy đến chỗ chuyển dòng, đã gặp một thôn làng rất lớn, toàn thôn có tới hai trăm nóc nhà, người trong thôn chủ yếu mang họ Điền, bởi thế mới gọi là thôn Điền Ban,[2]trong thôn đó có một gia đình danh môn quý tộc, đó chính là Điền Thư, tự Tự Chiếm, thế tập Tề đại phu, có địa vị quan trọng ở nước Tề, cùng bốn gia tộc lớn là Loan, Bào, Quốc, Cao cùng nắm chính quyền của nước Tề, chúa tể vận mệnh của nước Tề, cũng giống như “Tam Hoàn” của nước Lỗ. Con trai của Điền Thư là Điền Bằng, tự Khởi Công, làm khanh của nước Tề, tuổi trẻ và có triển vọng, là con người mưu trí và tháo vát năng nổ, nên được Tề Cảnh công yêu vì và kiêng nể. Mặc dù vậy phủ đệ của nhà họ Điền lại hết sức bình thường. Tuy nói rằng diện tích chiếm đất của nó rất lớn, đằng trước đằng sau, bên phải bên trái có tới mười dinh cơ, mấy trăm gian nhà cửa, thế nhưng lại thấp bé, không có gì nổi bật, hơn thế nữa lại lợp tranh xen ngói, không khác gì mấy so với những nhà bình thường. Ở đây mang tiếng cửa tướng phủ soái, nhưng lại không có cảnh canh gác nghiêm ngặt, dân thường cũng có thể vào ra dễ dàng, đấy cũng là một điểm khác so với những chốn cửa son kín cổng cao tường, bởi thế lại càng làm cho tiếng tăm của ông https://thuviensach.vn vang khắp xa gần, khiến ai cũng phải khen ngợi và ngắm nghía. Từ khung cửa lớn ở giữa đi vào, đi qua sảnh đường, đến sảnh đường thứ hai và sảnh đường thứ ba thì đến một vườn hoa. Lấy chỗ này làm đường trục, nhà ở chia thành hai phần bên đông, bên tây đối xứng với nhau. Hai bộ phận đó bố cục như nhau, quy cách như nhau, kiểu dáng cũng như nhau. Sảnh đường thứ ba là giới hạn tự nhiên, còn dãy bên đông và bên tây, trước sau có khác nhau. Gian trước là nơi tiếp khách, làm việc, hội họp, dãy nhà sau là nơi ăn ở, nơi ngủ và nơi ở của gia đình. Năm 545 trước CN, tức là năm Chu Linh vương thứ hai mươi bảy, năm Tề Cảnh công thứ ba, ngày hai mươi tám tháng tám, trời thu xanh ngắt, cao vời vợi, trong như lọc. Bỗng nhiên không biết ở đâu nổi lên một cơn gió bắc, thổi qua kinh thành Lâm Tri, vượt ngang dòng Tri Thuỷ, ập đến thôn Điền Ban. Gió bắc thổi kéo theo mây đen, khiến cho thôn Điền Bán lớn như thế mà bị che kín mít, trời đất tối tăm, ánh mặt trăng, mặt trời đều mờ lại, trong Điền phủ, từ trên xuống dưới, người già, người trẻ của thôn Điền Ban, không ai là không lo sợ, không ai là không thảng thốt bởi sự u ám bao trùm lên tất cả đó. Mướt mồ hôi lo lắng cho sự an nguy của bà trẻ – phu nhân Điền Bằng, người nào người nấy tranh nhau cúi đầu vái lia vái lịa, khẩn cầu các bậc thần linh phù hộ độ trì cho bà trẻ mau mau sinh nở, để hổ tử của nhà tướng sớm được chào đời, được mẹ tròn con vuông, cả nhà đoàn tụ… Bà trẻ họ Phạm, tên là Ngọc Lan, cũng thuộc con nhà dòng dôi và có nề nếp gia giáo. Nàng có khuôn mặt trái xoan trắng trẻo, nước da mịn màng như thể là nặn bằng sáp, luôn ánh lên vẻ bóng bảy mượt mà. Dưới hai nét mày ngài là đôi mắt như hai làn nước hồ trong, diễn đạt tình cảm còn hơn cả lời nói. Vốn tính ôn tồn nhã nhặn, cử chỉ khoan thai, luôn luôn tỏ ra trên kính dưới nhường, có dịp tiếp xúc với nàng xong, không ai là không tấm tắc ngợi khen. Nàng ưa mặc những thứ hàng nền nã màu trắng, chẳng hạn một chiếc váy sa tanh trắng, bên trong là một chiếc áo chẽn bằng đoạn trắng. Nàng khẽ cất bước đi, chẳng khác gì đoá hoa sen trắng nhẹ nhàng lướt trên mặt nước. Hoặc khi nàng đứng lại, nhìn từ xa, chẳng khác gì một https://thuviensach.vn bông hoa ngọc lan. Thế nhưng bông hoa lan ấy lúc này lại đang khốn khổ vì những cơn đau dằn vặt, Phạm Ngọc Lan đang lăn lộn trên chiếc giường ngà, vật vã, kêu rên, trên khuôn mặt nhợt nhạt của nàng mồ hôi tuôn ra như vã nước. Hai tay nàng nắm chặt lấy thành giường, các khớp xương kêu răng rắc, hàm răng trên bặm vào môi dưới hằn lên một vết máu đỏ tươi. Nàng muốn kêu la, muốn văng ra chửi rủa một cái gì đó, thế nhưng lực bất tòng tâm… Nàng đã kêu rên vật vã như thế ba ngày ba đêm rồi. Đừng nói một người đàn bà yếu đuối mà ngay cả một gã đàn ông sức dài vai rộng, rơi vào hoàn cảnh này cũng chẳng biết làm gì hơn. Nàng lả đầu sang một bên, mớ tóc dài bị xổ tung ra buông xoã nằm thở dốc từng cơn, phần bụng dưới nhô cao, căng lên trắng như sắp, mệt mỏi phập phồng theo hơi thở. Nàng không thể vật vã được hơn nữa, đành để mặc cho số mệnh định đoạt, muốn ra sao thì ra. Bà mẹ chồng sốt ruột đi đi lại lại trong phòng, quanh quẩn bồn chồn như kiến bò trong chảo nóng, bà đang cầu trời, bà đang khấn đất, đang kêu xin các vị thần linh… Rồi bà lại lẩm nhẩm, lại ca cẩm, lại chửi rủa, sau cùng bà không biết nói gì, không biết làm gì… như điên như cuồng… Bà nội tuổi đã trên mức xưa nay hiếm, liên tục ngồi bên cạnh cháu dâu của mình, im lặng khóc thầm lo lắng. Đột nhiên bà cụ quỳ xuống đất, chắp hai tay lại, ngửa mặt lên trời, kêu lên như xé ruột, xé gan: – Ông trời ơi! Sao mà ông độc địa thế? Bà đất ơi sao bà ở chẳng công bằng? Thần trên trời, ma dưới đất ơi! Sao lòng dạ các người lại ác độc đến thế? Nhà họ Điền này đời đời kiếp kiếp, chưa bao giờ dám làm một việc gì phương hại đến đất trời, cháu dâu của tôi hiền lành thật thà như một con cừu non mới đẻ ra, tại sao các người lại đày đoạ nó thế này, mong các người hãy trông lại, làm sao cho Ngọc Lan, cháu dâu của tôi sinh nở được thuận lợi an toàn, cho chắt nội của tôi được bình an chào đời, thân già này dù có phải chết để chuộc lấy tội nghiệt của kiếp trước và cả kiếp này… Nói xong, bà vùng đứng dậy, lấy vạt áo che lên mặt rồi nhào tới đập đầu vào án thư. https://thuviensach.vn Kẻ hầu người hạ ra ra vào vào, hết thở dài, lại than vắn, khóc chán lại lau nước mắt… không ai có cách gì hơn. Những bà đỡ hơi có tiếng tăm một chút ở quanh vùng cũng đã được mời cả đến, bằng kinh nghiệm của mình, trổ tài khoe giỏi một hồi, hoàn toàn chẳng giải quyết được gì; thế là lúc đến hăng hái hý hửng bao nhiêu, thì lúc lui ra tiu nghỉu lặng lẽ bấy nhiêu, khiến cho không khí trong Điền phủ lại thêm buồn bã hơn, căng thẳng và ngột ngạt hơn. Gió bấc vân đang gào rít, mỗi lúc một dữ dội hơn; mây đen vẫn đang vần vụ, mỗi lúc một dày đặc hơn; mỗi người đều như thấy tim mình rung lên, tức thở và đang ứ máu… Một cỗ xe ngựa trang trí rất lộng lẫy ra khỏi kinh thành Lâm Tri, ven theo con đê ngoằn ngoèo bên sông Tri Hà, vội vã lăn bánh về phía thôn Điền Ban. Người ngồi bần thần trong xe là quan thái y trong cung nhà Tề là Công Tôn Hồi Xuân, đang theo lệnh của Thái tể Yến Anh đến thôn Điền Ban, đỡ ca khó đẻ cho Điền phu nhân. Thái y nguyên tên là Công Tôn Du. Sáu năm trước, Tề Tráng công mắc bệnh hiểm nghèo lại rất oái oăm, người đời ai cũng bảo đó là thứ bệnh không tài gì chữa khỏi, vậy mà Công Tôn Du lại chữa được cho nhà vua khỏi bệnh, khiến ngài vui mừng và không ngớt lời khen thái y chữa bệnh rất cao tay, là “nhờ khéo tay nên được hồi xuân”. Thế rồi, thái y thấy hay, đổi ngay tên mình là Hồi Xuân, và cho rằng đó cũng là niềm vinh dự nhất đời mình. Công Tôn Hồi Xuân tới Điền phủ, không kịp nghỉ ngơi, nước cũng không thiết uống, vội vàng lấy đồ nghề của mình ra, bắt đầu cuộc vật lộn để cứu lấy hai mạng người… Cũng vào giữa lúc này, ở trong Tấn Dương cung, Tấn Bình công đang dương dương tự đắc, chễm chệ ngồi trên ngai vàng “bá chủ” để nhận lễ mừng của vua chúa các nước Tề, Trần, Thái, Bắc Yên, Khởi, Hồ, Thẩm, Bạch Địch, v.v… Xem xét đồ tiến cống của các nước, ông ta ưỡn ngực vênh vang, coi khinh mọi người, làm như mình chính thức trở thành bá chủ của thế giới này. Quan chấp sự Triệu Vũ thì khoa chân múa tay, hô hét chỗ này, doạ nạt chỗ kia, làm ra vẻ nhất trên đời này. https://thuviensach.vn Chư hầu tám nước tại sao phải đến triều cống nước Tấn như thế? Từ khi Bình vương dời đô về Lạc Ấp, triều nhà Chu suy thoái, lệnh vua không ai theo, thiên hạ rối bời bời. Các nước chư hầu tranh giành nhau làm bá chủ, kẻ mạnh bắt nạt kẻ yếu, cậy đông lấn át kẻ ít, kẻ yếu bị kẻ mạnh ăn thịt… chiến tranh nổ ra liên miên, công thành chiếm đất khiến cho thành ấp bị phá huỷ, ruộng vườn hoang sơ, cha con khuất mặt nhau, anh em mỗi người một ngả, người chết đầy đồng, nước mất nhà tan. Trước tình hình đó, Tống đại phu Hướng Nhung, Triệu Vũ của nước Tấn, Khuất Kiến của nước Tề… với những mục đích khác nhau, liên hiệp ra lời đề nghị “dẹp binh”. Qua một phen du thuyết, các nước mạnh như Tấn, Sở, Tề, Tần lần lượt hưởng ứng, và thông cáo cho các nước nhỏ. Năm 546 trước CN, đã họp liên minh ở nước Tống, đến dự gồm có mười ba nước là Tấn, Sở, Tề, Lỗ, Vệ, Trần, Thái, Trịnh, Hứa, Tào, Trâu, Đằng và Tống. Khi họp liên minh, nước Tấn, nước Sở tranh nhau đứng đầu, Thúc Hướng của nước Tấn khuyên Triệu Vũ hãy nhường nước Sở, thế là Sở Khang vương đứng đầu. Lần này, tám nước chầu nước Tấn là làm theo những điều đã hứa hẹn với nhau khi họp liên minh ở chầu nước Sở, chưa tới ngày thì Sở Khang vương chết, Tấn Bình công quay về. Chư hầu tám nước lần lượt mang những gì quý hiếm trên đời của nước mình để dâng lên làm vui lòng Tấn Bình công. Phái đem vật quý của nước mình cho không những người khác, không đau lòng xót ruột lắm sao? Thế nhưng đấy là việc không còn cách nào hơn mà phải làm như thế? Ai mà chẳng phải nhường nước Tấn lớn mạnh, nếu làm họ tức giận, họ sẽ đem quân đến hỏi tội gây nên chuyện can qua, huỷ hoại tông miếu, đào bới mồ mả, giết hại sinh linh. Đúng là quả đấm lớn thì làm anh. Cọp ăn sói, sói bắt dê, đó là chân lý ngàn năm không đổi, ai có thể làm khác được? Các nhà nho, mà Khổng Tử là đại biểu, muốn thay đổi nó. Nguyện vọng ấy tốt đẹp đấy, tấm lòng ấy từ thiện đấy, mọi người ai ai cũng đều ca ngợi, nhưng mong muốn đó đi đến đâu cũng gặp trở ngại. Cuối cùng nhà Tần giành được chính quyền cũng lại vẫn phải dựa vào sức mạnh trong tay mình để tiêu diệt sáu nước, đưa thiên hạ, vốn liên tục tranh giành nhau mấy trăm https://thuviensach.vn năm, về được một mối. Bởi vậy, đừng có phàn nàn rằng tâm địa của sói quá ác độc, mà muốn khỏi bị sói ăn thịt, thì hãy trở thành một con cọp! Báu vật nước Trần tiến cống là cái chén nóng lạnh. Rót rượu vào chén này, mùa đông sẽ ấm lên, mùa hè sẽ lạnh đi, uống ngàn chén không say, vạn chén không lú lẫn. Báu vật của nước Thái là dạ minh châu. Hạt châu to như quả đào, đặt trong chỗ tối hay ban đêm, ánh sáng toả ra chói lọi, tựa như ban ngày. Vật tiến cống của nước Bắc Yên là Uyên ương kiếm. Loại kiếm này, kiếm chồng kiếm vợ sánh đôi nhau, nếu có kẻ nào muốn hại chủ mình, cây kiếm sẽ tự tung ra khỏi bao, chém đầu kẻ ấy ngay tại chỗ. Của quý của nước Khởi là cái làn thuỷ tinh. Treo. làn này ở nhà nhà, tự nhiên sẽ thành gió, nếu có ánh sáng chiếu vào, có thể tạo ra mưa. Vật quý của nước Hồ là con ngựa Xích thố. Đây là một giống ngựa tốt, không uống nước, không ăn cỏ, một ngày cũng chạy được ngàn dặm, tiến thì có thể đuổi gió lướt trăng, thoái lại ẩn thân như vô hình. Vật cống của nước Thẩm là cái ô cản bụi: Ngày mưa mà che ô này, không dột một giọt nước nào; ngày nắng đi ô này thì có thể tránh được hết bụi trần. Vật cống của nước Bạch Địch là cái đai bằng sừng tê giác. Nếu mang cái đai này trên người thì lửa nước không bén được tới, tai ương phải lánh xa. Tám nước đến triều cống, thì nước Tề là lớn mạnh nhất, nhưng lại không thấy Tề Cảnh công có báu vật dâng lên. Tấn Bình công rất lấy làm tức giận. Sự tức giận ấy đã thể hiện ra mặt, mặt ông sa sầm, từng thớ thịt run lên bần bật, một lúc lâu không nói gì, còn trong lòng sự bực bội bị nén xuống, nén xuống mãi, đột nhiên bật lên như nổ ra thành câu hỏi: – Tề là nước lớn đến cả ngàn cỗ xe, đất đai rộng, đồng ruộng phì nhiêu, sản vật dồi dào, cơ man nào là châu báu, vậy mà tại sao không thấy có gì là vật cống dâng lên quả nhân nhỉ? Cặp mắt của Tấn Bình công như hai lưỡi đoản đao sắc nhìn xoáy vào Cảnh công. Dưới ánh sáng lạnh lùng ấy, vóc dáng bé nhỏ của Cảnh công https://thuviensach.vn như bị co dúm thêm, và run lên trong tư thế co ro ấy. Ông hết nhìn sang phải lại ngó sang trái; tựa hồ như đang muốn tìm kiếm vật gì, cầu cứu một thứ gì… Không khí sảnh đường im phăng phắc như thể chỉ khẽ động vào là sẽ nổ tung. Giữa lúc đó, bỗng có một người từ sau lưng Tề Cảnh công bước ra. Người này mình cao phải đến một trượng hai, đầu to như cái đấu, mắt lồi như đôi chuông đồng, tiếng sang sảng như chuông, vai rộng ngựa nở, lưng như hổ, lườn như beo, mình đầy giáp mãng, ưỡn ngực ngẩng đầu đứng nghiêm ở đó như một cây tháp sắt, khiến cho Tấn Bình công giật mình xo lại, như muốn núp thân vào một chỗ nào đó, lắp bắp hỏi: – Ngươi là ai? Có điều gì muốn nói? Người võ sĩ oai vệ như cây thép sắt, bình thản tự nhiên đáp: – Thần là Điền Bằng, tướng quân hộ giá cho Tề vương đây, đang muốn dâng đồ tiến cống lên đại vương. – Đồ tiến cống ở đâu, hãy mau mau dâng lên. – Tấn Bình công cuống quýt lên như một gã ăn mày nhìn thấy cơm. Điền Bằng khum táy làm lễ, tủm tỉm cười nói: – Đại vương hà tất phải nôn nóng thế. Người ta thường nói: Cơm ngon không sợ muộn, tướng tài áp trận sau, trò hay ở cuối buổi diễn. Đại vương đã nói nước Tề là nước lớn ở phương Đông, quân khoẻ ngựa lớn ruộng tốt hàng ngàn dặm, sản vật dồi dào, lắm muối nhiều cá, nam có Thái Sơn bền vững, bắc có Bột Hải hiểm trở, tây có Hoàng Hà chắn ngang, là nước sau cùng dâng vật cống, chẳng phải là sự việc hợp tình hợp lý hay sao? – Tướng quân nói phải lắm, quả thực đó là việc ở trong tình lý. – Nỗi tức giận của Tấn Bình công tạm dịu xuống, vẻ mặt tươi cười hỏi. – Nhưng không biết nước Tề định tiến cống vật gì đây. Điền Bằng chậm rãi nói: – Lão Sính là tác giả của “Đạo đức kinh” có nói: “Người giàu sang thì cho người tiền bạc; người nhân thì cho người lời nói”, vua tôi nước Tề tuy không dám nhận xằng nhân nghĩa, tuy nhiên tiên quân là Hoàn công cũng https://thuviensach.vn đã từng chín lần hợp được chư hầu, không phải động đến binh xa, mà sắp xếp được thiên hạ, trở thành bá chủ đầu tiên ở vùng Hoa Hạ, bởi vậy xin mạo muội dâng lên vài lời: “Việc trên đời đắc đạo thì nhiều người giúp, thất đạo thì ít người giúp, làm nhiều điều bất nghĩa tất sẽ tự giết mình? Nếu đại vương biết lấy điều này để làm kim chỉ nam, xử sự phải nghiêm với mình thì ích lợi sẽ không phải nhỏ, và còn hơn châu báu ở trần gian này rất nhiều…”. Như một quả bóng xì hơi, Tấn Bình công ngồi phịch xuống ngai vàng, khóc dở mếu dở. Bởi những điều vị tướng của nước Tề là Điền Bằng vừa nói, thật không có thể bắt bẻ vào đâu được, ngẫm nghĩ mỗi lời nói của ông, câu nào cũng rất ý nhị, câu nào cũng mang hình ảnh bóng gió – một nước lớn ở phương đông, lính mạnh ngựa khoẻ, đồng ruộng phì nhiêu muôn dặm, sản vật dồi dào, lắm muối nhiều cá, rồi nam có Thái Sơn bền vững, bắc có Bột Hải hiểm trở, tây có Hoàng Hà chắn ngang; rồi Tề Hoàn công ngày xưa chín lần hợp chư hầu, không phải động đến binh xa, mà sắp xếp lại được thiên hạ, trở thành nước bá chủ đầu tiên vùng Hoa Hạ… Những điều hắn nói ra đây bảo rằng là khuyên răn, sao không bảo là đe doạ, là cảnh báo nhau… Những lời lẽ ấy của Điền Bằng quả là có sức rung động, làm cho Tấn bình công định nổi nóng thì không dám, không nổi nóng thì không chịu nổi, tiến thoái lưỡng nan, thật là thảm hại! Chư hầu bảy nước đều đang ngầm chúc mừng thắng lợi, Điền Bằng đã giúp cho họ hả giận, đúng là uốn dẻo ba tấc lưỡi, thắng cả triệu binh hùng. Cũng như chiến thắng ở xa trường, Điền Bằng thừa thắng xông lên truy kích, nói: – Trời có khi râm, khi nắng, có ngày lại có đêm, trăng có khi tròn khi khuyết, một năm có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông lần lượt đổi thay. Muôn vật trên đời này, có sinh ra, thì có chết đi. Ngay như mãnh hổ là ông vua trong muôn loài thú, khi xưa từng hay hung hăng tàn bạo biết bao, vậy như khi đã già rụng hết răng, thì chỉ một con chó săn cũng có thể kết liễu được đời nó. Những đạo lý nghe mãi quen tai này lẽ nào lại không. đáng để cho https://thuviensach.vn những bậc quân vương, những ai muốn xưng bá xưng hùng phải để tâm nghiền ngẫm?… Tấn Bình công thẹn đỏ cả mặt, cúi gằm mặt xuống, quần thần văn võ trong triều cũng như cỏ mùa thu gặp sương muối, héo queo đi… Không khí trong đại sảnh từ căng thẳng đến im lặng, từ mừng vui đến sống động hẳn lên. Chư hầu bảy nước và đám tuỳ tùng của họ, chỉ muốn la to lên để ra oai, nhưng ngặt vì lễ phép ngoại giao, buộc phải nén tình cảm của mình lại, cho nên sảnh đường bỗng như thầm reo lên khúc nhạc tươi vui như mùa xuân. Bị vui lây trong không khí đó, Điền Bằng bỗng trở nên sôi nổi, hăng say thêm, ông đã khảng khái bày tỏ rằng: – Mặt trời rừng rực, mặt trăng dịu dàng, muôn sao lấp lánh… tất cả đều toả sáng, trong sạch và lớn lao. Tuy nhiên, thoát khỏi sự nâng đỡ của bầu trời, thì sẽ lần lượt theo nhau mà rơi xuống, tan tành ra từng mảnh… Tiếp đó, Điền Bằng lại kể cho Tấn Bình công nghe hai câu chuyện ngắn gọn để nói rõ cốt lõi những điều mình nói ra: “Đắc đạo được nhiều người giúp; thất đạo thì ít người giúp. Làm lắm điều bất nghĩa, tất sẽ tự giết mình”. Có một nhà quý tộc họ Trương tên là Thanh Càn, trong nhà không thiếu gì tiền cả, trong tay cũng phải phải có ít quyền hành, trong xã hội lại có thế lực, bởi thế nên hắn ỷ thế chẳng sợ gì ai, hoành hành ngang ngược trong thôn xóm, hà hiếp dân chúng, đánh đàn ông, cướp đàn bà con gái, muốn sao được vậy, khiến dân chúng căm ghét đến bầm gan tím ruột. Một hôm, trang viên của Trương Thanh Càn bị cháy, khói đen cuồn cuộn, ngọn lửa ngút trời cao, chỉ dựa nguyên vào mấy tên gia đinh kêu rát cổ, gõ vỡ cả thanh la, dân chúng bến bên vẫn khoanh tay đứng nhìn. Mà đâu chỉ có khoanh tay đứng nhìn mà thôi, họ còn sung sướng khi thấy người khác mắc hoạ, còn vỗ tay khen hay, khi thấy một trang viên lớn lao như thế biến thành tro bụi, gia sản hàng vạn quan bỗng nằm trong biển lửa mênh mông. https://thuviensach.vn Có một viên huyện lệnh, yêu dân như con, một lòng một dạ nghĩ cho dân, hết lòng phục vụ nhân dân, tất cả đều vì lợi ích của dân chúng, dù có phải vào nơi rừng gươm biển lửa, cũng vẫn vui lòng làm. Một năm, vào giữa mùa hè, mưa như trút nước, nước lũ từ trên núi mang cả đất đá cuốn theo, cuốn chảy như thác. Xem chừng nhà của huyện lệnh sắp bị nước lũ cuốn trôi, nên hàng chục người dân đã xả thân quên chết, xông lên phía trước, cứu được mẹ già tám mươi tuổi cùng vợ con cháu chắt của ông. So sánh hai câu chuyện này, ăn ở với mọi người thế nào, xử thế ra sao, làm quan thế nào, nắm quyền và dùng quyền như thế nào, chẳng đã trong như nước sáng như gương đó sao? Điền Bằng nói đĩnh đạc mà trơn tru, vừa thấu tình, vừa đạt lý, những lời lẽ đó chẳng những chỉ là nói cho Tấn bình công nghe, mà cũng là nói để cho Tề Cảnh công và bảy nước chư hầu khác nghe. Tấn Bình công hầu như đã bị những lời nói của Điền Bằng tác động, lắng nghe rất thích thú. Triệu Vũ thì không thể đợi lâu hơn được nữa, mấy lần định cắt ngang câu chuyện, nhưng rốt cuộc chẳng có dịp nào để xía ngang vào, bởi vì lời lẽ của Điền Bằng như dòng thác từ trên cao lao xuống như bay. Hắn cuống lên, bồn chồn, dậm chân đấm ngực, rồi lại đưa tay nắm lấy đốc kiếm. Hắn vốn biết chúa công của mình vốn dễ bùi tai, rất sợ rằng sẽ bị Điền Bằng của nước Tề thạo đường ăn nói thuyết phục mất. Tất cả những điều đó, Điền Bằng đều nhìn nhận thấy hết, nhưng lại lờ đi làm như không biết, cho mãi tới lúc cuối cùng câu chuyện của mình, mới nói: – Triệu tướng quốc sao phải bồn chồn không yên như thế? Phía sau kia đã chẳng có lính phục sẵn đó sao, lẽ ra phải hành động từ lâu rồi chứ… Đòn này quả thật là hết sức bất ngờ với Triệu Vũ, nên hắn không kịp phản ứng, mà chỉ giương to đôi mắt như một phản xạ có điều kiện, đặt tay vào đốc kiếm, bước lên nói: – Mi… Điền Bằng đặt tay vào đốc kiếm, bước lên nói: https://thuviensach.vn – Thế nào? Triệu tướng quân muốn thử sức một chút hay sao? Có điều chắc hẳn tướng quốc đã rõ trong lòng, nếu thực sự thử sức với nhau, thì ông còn lâu mới xứng là địch thủ của tôi, tôi sẽ lấy đầu vua tôi các người để tạ thiên hạ… Cả sảnh đường tuốt kiếm giương cung, không khí căng thẳng đến mức sắp có thể bùng nổ. Tấn Bình công run lẩy bẩy nói: – Tướng quốc không được vô lễ, đãi khách sao có thể bất nghĩa… Triệu Vũ lùi ra sau mấy bước, Điền Bằng nói: – Triệu tướng quốc sao chẳng nghĩ coi, xưa nay việc văn cũng phải đề phòng bằng võ chứ, trước một quốc gia như hổ như sói, lẽ nào cả tám nước chúng tôi mang thịt cho hổ đói mà lại không đề phòng hay sao?… Tấn Bình công tự đánh trống lấp nói: – Các nước với nhau, phải hoà thuận với nhau mới phải, chớ có gặp nhau bằng binh đao thế này. Điền Bằng khí thế hiên ngang nói: – Xin đại vương và Triệu tướng quốc chớ nên quên, nước Tề là nước lớn ở phía đông, những người con của nước Tề đều là dòng dõi của Hoàn Công, Quản Trọng, sao có thể chịu lép vế với người khác?… Điền Bằng nói xong, ngửa mặt cà cười, khí thế ngút trời xanh. Buổi triều cống thế là kết thúc chẳng lấy gì làm vui vẻ Lúc sắp ra đi, Điền Bằng e rằng nước Tấn cho quân mai phục ở nơi quan ải, nên đã đề xuất với Tấn Bình công, để đề phòng bọn lục lâm cướp đường làm xấu cả nước Tấn hùng mạnh, nên xin Triệu tướng quốc dẫn đường cho đông đảo chư hầu chúng tôi an toàn qua khỏi những nơi quan ải. Tấn Bình công đã vui vẻ nhận lời. Nước Tấn phần lớn là đường núi, dọc đường quân Tấn mai phục bốn phía. Tuy nhiên, có Triệu tướng quốc dẫn đường, nên dọc đường cũng https://thuviensach.vn thông đồng bén giọt. Tính mạng của Triệu Vũ cũng nằm trong tay các chư hầu, quân Tấn làm sao mà dám hành động khinh xuất được? Cũng đúng vào lúc ấy, Điền Thư, cha của Điền Bằng đang thống soái quân Tề đánh nhau ở Hiệp Cốc, đánh cho quân Lỗ cả người lẫn ngựa thua liểng xiểng. Đêm đã khuya, trong nhà Điền phủ ở Điền Ban, thái y Công Tôn Hồi Xuân đang đỡ đẻ cho bà trẻ họ nhà Điền là Phạm Ngọc Lan, không biết xoay xở bao nhiêu lâu rồi, xương chậu của Ngọc Lan như được nới lỏng, một nàng hầu nhanh mắt đã reo lên: – Lạy trời lạy Phật! Thế là đẻ được rồi!… Mọi người có mặt nghe thấy reo thế đều xúm nhau lại nhưng đó lại mới chỉ là cái đầu gối tròn xoe. Tuy nhiên, nói ra thì đây là là một điềm lành, đứa trẻ quý mà ra như thế, là tượng trưng cho chữ “quý” tức ]à quý tử, sản phụ nếu nhịn được đau, phối hợp nhịp nhàng với thầy thuốc, cố sức mà rặn ra, thì cũng vẫn đẻ được ra. Thế nhưng Phạm Ngọc Lan lúc này làm gì còn sức mà phối hợp, nằm thẳng đờ ra đấy, không còn cả sức để vật vã kêu rên như lúc đầu nữa. Thái y Công Tôn luống cuống cả chân tay, trán cũng toát mồ hôi, nổ cả đom đóm mắt ra, hai tay run rẩy, chúi đầu xuống đất… Đúng vào lúc đó, ngoài sân có tiếng hỏi: – Thế nào? Sinh rồi chứ, cả mẹ cả con đều bình an chứ? Mau tránh ra, để ta vào xem nào!… Trong khi còn đang nói, còn chưa kịp bẩm báo vào trong, một người đàn bà trông hệt như Dạ Xoa bước vào… https://thuviensach.vn CHƯƠNG II ĐIỀN PHỦ HAI TIN MỪNG – CỬA TƯỚNG THÊM HỔ TỬ Như trên vừa kể, Điền Bằng phu nhân Phạm Ngọc Lan đẻ khó, thai nhi ra ngang, Thái y Công Tôn Hồi Xuân đành chịu bó tay, vã mồ hôi trán, mắt nổ đom đóm, hai tay run rẩy, chúi đầu xuống đất, đúng lúc đó, có một người đàn bà như quỷ dạ xoa, tuổi nạ dòng xông vào nhà. Sau khi vào nhà, người đàn bà ấy chẳng hỏi đầu đuôi xuôi ngược, liền đi rửa sạch tay và bắt đầu hành động, vừa làm vừa ca cẩm trách mọi chẳng biết cái gì cả, chê thái y là đồ vô tích sự, làm như chỉ có bà ta, mới là chủ nhân của Điền phủ, mới là chúa tể của căn phòng này. Cách làm của bà ta hoàn toàn ngược lại với thái y, không bắt phu nhân cố rặn muốn cái thai nhanh chóng được đẻ ra, mà là để cho sản phụ thu bụng về thở đều, còn bà ta thì lấy tay đẩy cái đầu gối của thai nhi trở lại, sau đó dùng cả hai tay mình nhẹ nhàng xoa bóp, sờ nắn trên cái bụng nhô cao như mỏm đồi của Ngọc Lan. Như thế, Ngọc Lan có cảm giác sự dày vò có bớt đi nhiều, mồ hôi hột trên mặt cũng dần dần ít đi, nét mặt từ trắng bệch như giấy bỗng chuyển sang vàng như sáp, rồi dần dần xuất hiện vài tia máu hồng, nhịp thở cũng đều đặn hơn trước đó. Không biết như thế bao nhiêu lâu bà dạ xoa ấy ấn mạnh vào phần bụng dưới nhô cao, Ngọc Lan giật bắn mình như một người chết sống lại tiếp tục vật vã miệng lại tru tréo kêu rên. Bà ta bảo Ngọc Lan hãy nghiến răng và nín hơi, không được kêu, nhưng đời nào Ngọc Lan chịu nghe cho được, mà còn kêu dữ dội hơn. Cực chẳng đã, bà ta đưa tay bịt lấy miệng Ngọc Lan, tay kia tiếp tục xoa bóp, như thế là toàn bộ hơi sức của Ngọc Lan lúc này đã có thể dồn xuống dưới, mà không thể dồn lên. Áng chừng hút tàn điếu thuốc, phần thai nhi nhô ra không phải là đầu gối của đứa trẻ, mà là cái đỉnh đầu tròn trịa đen láy. Cái đầu nhô ra của thai nhi mỗi lúc mỗi to dần, đột nhiên bà đỡ ôm ngang lưng Ngọc Lan, như thể vực nàng ngồi phắt dậy. Ngọc Lan hét lên một tiếng như xé ruột. Cũng lúc đó ở ngoài trời, tiếng sấm long trời lở đất như muốn nổ tung căn phòng bị bóng tối bao trùm này, tiếp đó là tiếng https://thuviensach.vn kêu gào đầu tiên của đứa trẻ sinh ra trên cõi đời đầy tai ương hoạn nạn này… Tiếng khóc của đứa trẻ rộ lên từng cơn đã xua tan những đám mây che phủ bầu trời, làm khô đi những giọt mồ hôi trên trán mọi người, những trái tim thấp thỏm lo âu cũng được yên ắng lại, cả gian phòng rạng rỡ ánh mắt tươi vui và đầy không khí phấn khởi. Phạm Ngọc Lan ngủ thiếp đi, mặc cho người khác sắp đặt. Khi nàng chợt tỉnh bởi tiếng khóc oa oa của đứa trẻ, nàng mới ý thức được rằng thế là mình đã hoàn thành được sứ mạng mà người đàn bà nào cũng phải hoàn thành. Mọi nỗi khổ đau như đã bị tiêu tan hết, lúc này bao trùm lấy nàng chỉ còn ấm áp, ngọt ngào và sung sướng. Vất vả lắm, nàng mới trở nghiêng được mình, định đưa đầu vú vào miệng con, thế nhưng chàng tí nhau lúc đó mắt cũng không thèm mở, chỉ biết ra công khóc, hai bàn tay nhỏ xíu nắm chặt lại, đôi chân thay nhau đạp cựa lung tung. Xem chừng đây cũng lại là một con người quật cường, không cam chịu theo sự thăng trầm của thế tục, một võ tướng muốn ra tay chống lại cái xã hội rối loạn này. Người đàn bà nạ dòng trông như quỷ dạ xoa ấy là Ngô Xuân Nương, lang thang đây đó chữa bệnh kiếm ăn, do sở trường về đỡ đẻ, nên nổi tiếng xa gần, cứu được nhiều người nên người ta gọi bà là Ngô Bồ Tát. Trước đây, do quê hương bị thiên tai đói kém, bà phải theo cha lưu lạc sang Tề, may mà được Điền phủ chu cấp cưu mang, nên mới giữ được mạng sống cho cả nhà từ trẻ đến già, bởi thế mà mang ơn. Gần đây, nghe nói Điền Bằng phu nhân trở dạ đẻ khó, cho nên bà từ tỉnh ngoài đi ngày đi đêm để về kịp và sự việc đã diễn ra đúng với sở nguyện của mình nên lòng thấy được an ủi rất nhiều. Theo phong tục nước Tề, sau khi sinh (con trai thì sáu ngày, mười hai ngày, con gái thì năm ngày) có nghĩa là sau khi đứa trẻ ra đời, đến một trong những ngày này, phải sửa tiệc đãi khách, chúc mừng rầm rộ. Mức độ long trọng đến đâu, đương nhiên phải cân nhắc theo hoàn cảnh từng người. Như nhà họ Điền, mang tiếng một danh môn quý tộc, đứa trẻ lại là con trai, đương nhiên là không thể không bày tiệc lớn, bè bạn cao sang chật quanh https://thuviensach.vn mâm, thân thích họ hàng đến chật nhà trên nhà dưới, rồi dăng đèn kết hoa, trang trí trong ngoài để rầm rộ chúc mừng một phen. Tuy nhiên, họ không làm như vậy, vì cha của đứa trẻ là Điền Bằng đang cùng với vua đi sứ nước Tấn; ông nội của đứa trẻ là Điền Thư, hiện đang đem quân đi đánh lớn ở Hiệp Cốc, muốn chúc mừng thế nào, cũng phải đợi cha và ông đứa trẻ trở về rồi mới quyết định được. Chưa nói đến ăn mừng, mà đứa trẻ ra đời đã mười hôm rồi, cái tên còn chưa đặt được nữa là… Bởi theo phong tục thì tên đứa trẻ là gì, phải do ông nội của nó đặt cho. Tuy có lời đề nghị “dẹp binh” của Hướng Nhung nước Tống, Triệu Vũ nước Tấn, Khuất Kiến nước Sở v.v…nêu ra, rồi hiệp nghị về nghiêm cấm các nước công phạt nhau mà mười ba nước Tấn, Sở, Tề, Lỗ v.v… Đã đi đến nhất trí khi họp liên minh ở nước Tống năm 546 trước CN, thế nhưng trong cái thời đại phân tranh này, minh ước tuy cũng có tác dụng ràng buộc nhất định, nhưng những chư hầu thực sự giữ tín nghĩa, nghiêm chỉnh thực hiện minh ước thì chẳng có bao nhiêu, nhất là các nước lớn, các nước mạnh, họ coi việc xé bỏ những lời cam kết như trò trẻ con. Mùa thu năm thứ hai, sau khi mười ba nước liên minh với nhau ở Thương Khưu, nước Lỗ đã gây nên xung đột ở biên giới, Tề Cảnh Công sai đại tướng Điền Thư mang quân đi đánh dẹp. Tề, Lỗ là hai nước ở sát vách nhau, lại có mối liên duyên lâu đời trong tình cậu cháu, nhưng quan hệ lại rất là tồi tệ, thường xuyên loè bịp lừa gạt nhau, tranh giành nhau, khiến nhân dân hai nước luôn sống trong cảnh nước sôi lửa bỏng. Nước Tề mạnh, nước Lỗ yếu, nên số lần nước Tề mang quân sang xâm lấn nước Lỗ cũng nhiều hơn. Tuy nhiên, nước Lỗ cũng không phải tay vừa, cứ như một con dế ham đấu, thường dám nhảy cả lên mào gà mà ra oai. Mùa xuân năm 545 trước CN, minh ước Thương Khưu còn chưa ráo mực, nước Lỗ lấy cớ quân Tề bắt và giết dê cừu của dân du mục nước mình, nên đã gây cuộc xung đột biên giới, cử một trong “Tam Hoàn” là Mạnh Tôn Thị làm tướng, đem mười vạn quân đi chinh phạt nước Tề. Nhận được tin báo từ biên giới, Tề Cảnh Công cho chiêu tập quần thần https://thuviensach.vn để bàn việc trừng phạt lại nước Lỗ. Thế tập đại phu Điền Thư tướng quân, nguyện đem quân đi đánh, và xin rằng: – Mạnh Tôn Thị của nước Lỗ, chỉ là một phường phàm phu tục tử, sao lại dám ngông cuồng ngang ngược thế, thần sẽ đem quân đi bắt hắn về đây việc ấy thật dễ như lấy đồ trong túi! Tề Cảnh Công nghe vậy liền nói: – Xưa nay kiêu binh tất sẽ bại, sao ái khanh lại có thể khinh địch đến thế? Điền Thư biện bạch: – Không phải là thần kiêu căng khinh địch. Lỗ Tương Công với “Tam Hoàn” quả thực là không hiểu gì về chiến sự. Đất Hiệp Cốc núi cao rãnh hiểm, rừng sâu cây rậm, đem quân mười vạn chẳng khác chi hùm vào ngõ sâu, cá kình lên suối nhỏ, quân có nhiều đến đâu, tướng soái có mạnh đến đâu, cũng phỏng có ích gì. Thần chỉ xin mang một vạn quân tinh nhuệ, đến đó để ứng chiến, không thu toàn thắng, xin chịu quân pháp! Thấy lời lẽ của Điền Thư có lý, vả lại thấy ông xưa nay chưa bao giờ nói điều gì quá đáng, chưa làm việc gì liều lĩnh, sự vững mạnh thì có thừa, nhưng hăng hái xem ra còn chưa đủ, Tề Cảnh Công liền tranh thủ sự đồng ý của các bậc lão thần, rồi mới giáng chỉ phát binh, kéo quân đến Hiệp Cốc. Hiệp Cốc ở vào vùng núi Nghi Mông, là đất cát cứ để phân chia ranh giới giữa nước Tề và nước Lỗ, núi non trập trùng hiểm trở, suối khe dọc ngang chằng chịt, trời không râm cũng tự tối, ngày đang nắng vẫn âm u, lang sói thấp thoáng trên rừng, rắn rết từng bầy dưới đất, ngựa leo lên cũng trẹo chân, xe vào khe cũng mất lối. Quân Lỗ muốn triển khai tác chiến đại binh đoàn ở đây, chẳng có khác gì lùa đàn cừu ra chợ. Đương nhiên, Lỗ Tương Công với “Tam Hoàn” cũng không phải ngốc đến mức không biết ngày rạng đêm đen, cha khôn con dại, mà họ muốn xuất kỳ bất ý, mau chóng vượt qua vùng núi Nghi Mông, đánh thẳng vào Lâm Tri kinh đô nước Tề, đặt nước Tề vào đất chết. Nhưng họ có biết đâu rằng: Nước Tề chẳng hề giống như con chó chết, mà là một con sói đang còn sống, đang https://thuviensach.vn lúc Mạnh Tôn Thị gảy bàn tính rào rào, Điền Thư đã đem quân chặn ngang đường, còn bít mất cả đường về của quân Lỗ. Gần mười vạn quân bị vây chặt ở vùng rừng thiêng nước độc, cây đá âm u, muốn tiến không được, muốn lui cũng không xong, cứ y như chuột chui vào bễ lò rèn. Điền Thư không hề đem quân trực tiếp đọ sức với nước Lỗ, mà ém quân mình ở chỗ hiểm yếu của những nơi quan ải, nằm kín ở trong rừng cây bụi cỏ, chiếm lấy đỉnh của núi cao, tìm cơ hội để đánh úp tiêu diệt địch. Do những nguyên nhân hình thành trong lịch sử quân Lỗ xưa nay vốn đã sợ quân Tề, đối với người giỏi cầm quân như tướng quân Điền Thư, nghe đến tên lại càng sợ mất mật. Thêm nữa, từ lúc giao chiến trở đi, quân Lỗ phơi ra chỗ trống, quân Tề ở chỗ kín. Quân Tề đã bỏ xe mà đổi sang dùng ngựa, cơ động linh hoạt, xuất quỷ nhập thần, làm cho quân Lỗ loay hoay bị động, đi đến đâu bị đánh đến đấy, lúng túng tứ bề, không tự chủ được, lòng quân nhốn nháo, hơi tí đã sợ, nhìn đâu cũng thấy quân Tề. Cầm cự chưa được nửa tháng, lương thảo của quân Lỗ mang theo gần cạn, hàng chục vạn người ngựa bị vây hãm giữa rừng sâu, quan quân đói khát không chịu nổi quay ra oán thán lẫn nhau, thường chỉ vì chuyện tranh giành lương thực mà chẳng ai đánh cũng tan hoặc tự chém giết nhau. Trước hiện thực như vậy của quân Lỗ, Điền Thư đã áp dụng hàng loạt chiến thuật dụ địch hoặc đánh vào lòng người. Một toán con buôn, lùa theo một đoàn ngựa, chở lương thực và đồ dùng đi qua hẻm núi, nhìn bộ dạng có vẻ như đem các thứ sang nước Lỗ bán. Từ xa, quân Lỗ đã phát hiện thấy, đời nào lại chịu bỏ qua, vội vàng đuổi gấp theo sau hòng cướp lấy để nhét vào những cái dạ dày đang lép kẹp. Đương nhiên đám con buôn cũng chẳng chịu khoanh tay chịu trói, nghe thấy tiếng hô hoán, vội vàng bỏ chạy. Thế là một bên chạy, một bên đuổi, đuổi mãi đến hẻm của một quả núi cao; hàng vạn mũi tên bắn ra rào rào như mưa, đá lớn từ trên dốc cao lăn xuống, lần lượt đập cho quân lính nước Lỗ nát nhừ như tương. Chẳng lẽ quân Lỗ lại không biết tìm đường quay lui? Đương nhiên là có! Nhưng đường về của chúng đã bị quân Tề ém chặt, đành phải https://thuviensach.vn chịu để cho quân Tề đông gấp nhiều lần từ trên cao xô xuống chém giết mà chết. Mưa xong trời tạnh, từng đoàn các cô gái quần áo loè loẹt mang làn tre trên tay, miệng hát sơn ca nói nói cười cười, ríu rít đi vào rừng sâu hái nấm. Bị gò bó lâu ngày ở trốn xa trường, quân lính nước Lỗ nhìn thấy bóng đàn bà con gái làm gì mà chẳng nhao nhao lên như ngồi vào lửa, tên nào tên ấy lồng lên như thú muốn ra vồ ngay đến các cô gái. Các cô gái thấy vậy, cũng bỏ chạy tán loạn khắp nơi, trốn vào rừng cây, chui vào búi cỏ. Có biết đâu chỗ các cô gái vào ra đấy, lại là nơi mai phục của quân Tề. Chờ cho quân Lỗ đuổi gần đến trước mặt, sau một tiếng huýt sáo báo hiệu, quân Tề nhất loạt đánh ra, do không có đề phòng, nên quân Lỗ bị đánh cho tơi tả; chạy tán loạn các nơi, máu me bê bết. Cùng với ngày tháng trôi đi, đói khát đã đe doạ nghiêm trọng đến quan quân nước Lỗ, thậm chí đã tới mức phải giết ngựa để ăn trừ bữa. Từ lính đến quan bỏ ngũ ngày một nhiều. Quanh những chuyện như lương ăn, tìm đường sống, số mệnh, tiền đồ… Giữa Mạnh Tôn Thị và các tướng lĩnh, giữa cấp trên với cấp dưới trong quân đội, giữa các phái hệ với nhau v.v… Mâu thuẫn ngày càng phức tạp kịch liệt đến mức độ căng thẳng công khai, tựa hồ như một đám nhựa khô, chỉ cần một tia lửa là có thể bốc cháy thành biển lửa ngút trời. Dần về sau, những chuyện đánh nhau giành lương thực, giết chết quân quan thường xuyên xảy ra. Quân Lỗ đói đến mức như một bầy ong, rối loạn lên như một nồi canh hẹ, như thế khó mà nói đến những gì là sức chiến đấu. Quân Tề vốn hoàn toàn có thể thừa dịp mà mở cuộc tấn công toàn diện, đánh một trận để tiêu diệt địch. Tuy nhiên, Điền Thư lại không muốn làm như thế, bởi vì “chó cùng rứt giậu”, đánh giết chúng, tất cả hai bên đều sẽ bị thương vong, dù cho nó nắm được phần thắng tuyệt đối, thì phía mình cũng phải trả giá, mà ông thì lại không muốn nhìn thấy tướng sĩ của mình phải đổ máu hy sinh. Hơn thế nữa, giết nhiều địch, không hẳn là thiên chức của một nhà quân sự, cầm quân không đánh mà khuất phục được địch, thế mới là một nhà chỉ huy sáng suốt. https://thuviensach.vn Từ trong khe núi, trên bãi cỏ, trong lùm cây, quân lính nước Lỗ đói đến nỗi không cất nổi đầu lên, ôm khí giới trong lòng, đứa nằm sấp, kẻ nằm ngửa, hoặc đứng hoặc ngồi dựa vào nhau, bỗng nhiên từ đâu thoảng tới mùi cơm chín, người nào người nấy thèm nhỏ dãi ra. Trong số binh lính ấy có kẻ nào bạo dạn, hoặc đói quá không chịu nổi, len lén bò dậy, nhoài tới hướng có mùi cơm thơm. Một tên, hai tên, rồi cả chục tên, đám quân Lỗ ấy bấp chấp cả nguy hiểm tới tính mạng, đã sang xin ăn bên quân Tề. Trong trường hợp này, chỉ làm sao giữ được mạng sống của mình, còn bất kể việc gì chúng cùng có thể làm được. Tướng sĩ quân đội nước Tề, chẳng những hữu hảo, mà còn khảng khái và rộng bụng, họ coi quân lính nước Lỗ như người thân, như anh em mình, không những họ cho ăn no, mà còn để người nào người nấy thả sức mang về. Cấp trên của quân Lỗ phát hiện ra, đương nhiên là chửi mắng, đánh đập và cấm đoán họ. Có điều, cấp trên cũng là người do cha mẹ sinh ra, cũng là xương thịt, cũng biết rằng chịu đói “sung sướng” như thế nào rồi nên dần dần họ có thấy thế cũng làm ngơ coi như không biết. Thậm chí còn ngầm xúi giục và ủng hộ cho lính ra đi, bởi đám lính tráng ấy quay về rất có thể còn đem về cho chút cơm thừa canh cặn, đủ ăn để sống. Binh lính quân Lỗ đã mắt thấy tai nghe sự đãi ngộ quân Tề hết sức nồng hậu, chẳng những có thể được ăn no cơm trắng và ánh hấp, mà lại còn có thịt, có rượu nữa. Rượu của quân Tề mới thơm, mới quyến rũ làm sao khiến cho họ không thể nào không nhỏ dãi ra vì thèm được. Quân Tề đem cho quân Lỗ từng bao gạo, từng xe bột mì kèm theo những bức thư chan chứa nhiệt tình, khuyên quân sĩ bên Lỗ hãy cải tà qui chính, làm lại cuộc đời. Ngón đòn ấy của Điền Thư quả là ghê gớm, chẳng mất một nhát dao một cây thương, chẳng thiệt một mạng lính nào, mà làm cho quân Lỗ như tảng băng trong lửa, như tuyết dưới mặt trời, tự động tan rã, mỗi ngày chạy trốn sang trại lính Tề có tới hàng ngàn quân. Mạnh Tôn Thị thấy tình thế tồi tệ, vội vàng xin hàng lại ký minh ước với Điền Thư, thu thập đám quân bại tướng thảm hại quay về chịu tội. https://thuviensach.vn Lúc Điền Thư ca khúc khải hoàn về đến nhà mình, đã là ngày bảy tháng chạp, hôm sau đã là ngày thứ một trăm Tôn Tử ra đời. Theo phong tục nước Tề, thì ngày này phải làm lễ thật to, để lấy may, buổi lễ mừng này tục gọi là “sống trăm năm”. Vì cha là Điền Bằng và ông là Điền Thư đều công cán nơi xa, nên ăn mừng ngày thứ sáu ngày thứ mười hai đều chưa làm được, do vậy nên lễ “trăm năm” đương nhiên là long trọng khác thường, lại rộn rã treo đèn kết hoa, khách khứa đầy nhà, đàn hát rộn rã, niềm vui ngập tràn. Rượu được ba tuần, thức ăn năm món, Điền Thư sai vú em bế ông nhỏ ra cho các vị bạn bè và người thân xem mặt. Đương nhiên điều đó cũng không ngoài ý muốn khoe khoang, mà cũng theo lệ thường, mỗi vị đến dự tiệc đều phải cho tiền mừng tuổi, cho nên tiền mừng và những lời khen ngợi tâng bốc, cứ như nước rửa tội ở nhà thờ tới tấp trút lên mình cậu bé, có lúc tiền còn rơi leng keng cả dưới đất. Có người hỏi đến tên cậu bé, Điền Thư ớ người ra, liền quay sang hỏi mẹ già cao tuổi ngồi bên, bà mẹ nói như có ý trách móc: – Đã đến lễ trăm năm rồi mà còn chưa có tên. – Tại sao thế? – Điền Thư hầu như rất lấy làm lạ. – Có mà ánh mừng quá hoá lú lấp mất rồi! – Bà nội cười lên ha hả, hai mắt tít lại thành một vạch ngang – ông nội nó đi đánh giặc xa, hôm qua mới về, thì lấy ai đặt tên cho thằng bé? – À ra thế! À ra thế… – Điền Thư thẹn đỏ cả mặt, đó là cử chỉ cáo lỗi với mẹ và với con trai mình. Ông đón cháu nội mình vào lòng, hôn hít một hồi, rồi trêu chọc một hồi, vui mừng hể hả nói – các vị hãy xem đây, thằng bé này vóc dáng to lớn hơn những đứa trẻ bình thường, chân tay to khoẻ, đầu như đầu hổ, hai mắt trong sáng tinh anh, nhất định lại sẽ trở thành một viên võ tướng. Điều đó cũng nói lên rằng: Họ Điền nhà ta về sau sẽ có người nối dõi, võ vận sẽ lâu dài, thế thì lấy tên là Điền Vũ, tự Tử Khanh, các vị thấy thế nào? Sảnh đường bỗng ran lên tiếng vỗ tay khen ngợi và tiếng reo vui hồi lâu không dứt… https://thuviensach.vn Nước Tề khi Điền Vũ ra đời, cục diện chính trị rất không ổn định. Tề Tráng công tư thông với Đường Khương là vợ của quan hữu khanh Thôi Trữ. Đường Khương là người đàn bà có nhan sắc, Tráng Công mong nhớ đêm ngày, quên ăn quên ngủ. Hai người đã giấu Thôi Trữ, đầu gối tay ấp, chung chăn chung gối, chung tình mây mưa. Trên đời này bức vách có tai; có kim bọc giẻ lâu ngày rồi cũng lòi ra. Thôi Trữ về sau cũng phát hiện ra điều bí ẩn đó nên ngày Ất Hơi tháng năm mùa hè năm 548 trước CN đã bầy mưu giết chết Tề Tráng Công và dũng sĩ tuỳ tùng của ông ta là Giả Cử, Châu Xước v.v… sau khi Tráng Công qua đời, Thôi Trữ lập em mình là Chử Cữu lên làm vua, tức là Cảnh Công. Khi Tráng Công chết, Yến Anh khóc lóc thảm thiết, vừa khóc vừa chửi rủa bọn gian tặc. Thôi Trữ tuy căm hận hắn đến bầm gan tím ruột, nhưng sợ vì Yến Anh xưa nay vẫn được lòng dân, nên không dám hỏi tội. Bất kể một kẻ nào có âm mưu hay một kẻ nào có dã tâm nào cũng đều không dám nhìn thẳng vào sự thực. Thôi Trữ tuy có gan và có bản lĩnh giết Tráng Công, nhưng lại không dám để cho các thái sử viết những sự thực đó vào trong lịch sử. Ông ta còn bịa ra tin đồn, nói láo rằng Tráng Công chết vì sốt rét, mong bóp méo lịch sử đánh lừa người đời sau. Thái sử không theo lệnh ấy, với đại nghĩa đường hoàng lẫm liệt đã viết rằng: “Ngày Ất Hợi mùa hè năm Chu Linh Vương thứ hai mươi bốn, Thôi Trữ đã giết vua của mình là Quang”. Ba anh em nối tiếp nhau viết thế, đều bị Thôi Trữ giết hết. Đến người em thứ tư cũng vẫn không chịu khuất phục, vẫn cứ viết như trước. Thôi Trữ giằng lấy cái thẻ gỗ vừa đe vừa dụ: – Ba anh của ông đều chết, chẳng lẽ ông lại không thiết đến cái mạng của mình? Nếu cũng viết như thế, đêm nay ông sẽ chết. Người em thứ tư ấy đáp: – Căn cứ vào sự thực mà viết thẳng ra, đó là chức trách của sử gia. Sống mà không tròn chức trách, thì chẳng thà chết đi còn hơn! Xưa Triệu Thuẫn giết Tấn Linh Công, Thái sử là Đổng Hồ đã viết thẳng ra rằng: “Triệu Thuẫn giết vua của mình là Di Bao”. Thuẫn là chính khanh, không lấy làm lạ, vì biết rằng chức viết sử không thể bỏ đi được. Người nào đó không viết https://thuviensach.vn ngay, thì sẽ có người khác viết, lời lẽ vu vơ bằng mực làm sao có thể che đậy được sự thực bằng máu… Thôi Trữ chẳng biết làm sao, đành vứt thẻ gỗ trả cho thái sử, mặc cho ông viết thẳng ra, bực bội bỏ đi. Tề Cảnh Công lên ngôi, lấy Thôi Trữ làm hữu thừa tướng, Khánh Phong làm tả thừa tướng, cùng nắm việc triều chính. Năm Tề Cảnh Công thứ hai, gia đình họ Thôi hỗn loạn, Khánh Phong thừa cơ diệt cả dòng họ ấy. Thôi Trữ tự sát, Khánh Phong một mình nắm quyền bính trong nước. Năm Tề Cảnh Công thứ ba, cũng là năm Điền Vũ ra đời, các dòng họ Loan, Cao, Trần, Bào cùng đánh họ Khánh, Khánh Phong trước còn lánh sang nước Lỗ, tiếp đó lại theo nước Ngô. Điền Vũ như một mầm cây non được sống trong mảnh ruộng mà điều kiện mọi mặt đều tốt đẹp, ở đấy chất đất phì nhiêu, nước nôi đầy đủ, ánh sáng chan hoà, khí hậu thích hợp, không khí trong sạch và ẩm ướt mầm cây cứ thế mà đón gió và mặt trời lớn lên nhanh chóng. Cậu lại giống như một chồi cây ngô đồng mọc ở hốc núi chỗ thừa ánh nắng mà lại khuất gió, xanh ngăn ngắt, mượt như nhung, đẫy đà và bóng bẩy, non mơ màng như củ cải, bấm một cái nước tứa ngay ra. Chồi cây đó kiêu hãnh vươn mình lớn lên từng ngày. Cậu lại rất giống như một chú ngựa non, mắt to, tai dỏng, bụng thon mông tròn, mặc lĩnh khoác đoạn lên mình, bóng láng như nước, bờm xanh rung lên, bốn vó kêu như gió, vươn cổ hý dài, sư tử quay đầu, hỗ dữ cũng phải tránh. Những điều mô tả ở trên, không có nghĩa là chỉ nói về vẻ tướng mạo của Điền Vũ, mà nhiều hơn là biểu hiện làm cảnh sống, tài khí, học thức và sự trưởng thành của cậu bé. Thông minh, nhanh nhẹn là đặc tính chủ yếu của Điền Vũ ở tuổi thiếu thời. Vầng trán rộng và sáng bóng lên của cậu đánh dấu về nhịp độ và dung lượng tri thức mà cậu có thể tiếp thu. Đôi mắt sáng và như bốc lửa của cậu https://thuviensach.vn nói lên với mọi người rằng: Thần trí của cậu bé này nhạy bén hơn người, sâu không thể nào dò. Có một cái hồ chứa nước có dung lượng rất lớn, qua cái ống ngầm thiết kế ở dưới đáy hồ, xả nước ra tưới cho hàng chục vạn mẫu ruộng ở phía hạ lưu. Mỗi khi mở cái cửa kè ở miệng cống, hồ nước sẽ bị xoáy hút, rồi sóng nhô cao lên đập thành bọt trắng, xô nhau vào miệng cống, gầm réo lên, rung động cả vách núi. Nếu như ví vốn liếng tri thức mà loài người sáng tạo ra với hồ nước mênh mông, thì việc học tập của Điền Vũ chính là động tác mở cửa kè để xả nước, vừa hút xuống vừa nuốt trôi đi ùng ục ùng ục, tốc độ nhanh như thế, số lượng nhiều như thế, dung lượng lớn như thế khiến người ta phải trố mắt ngạc nhiên. Điền Thư và Điền Bằng quanh năm xa nhà, gánh nặng nuôi dạy Điền Vũ hầu như đặt cả lên đôi vai của bà mẹ trẻ Phạm Ngọc Lan. Cũng may mà Ngọc Lan lại xuất thân ở một gia đình danh môn khuê tú, từ nhỏ đã được tiếp thu một nền giáo dục tốt đẹp, tri thức rất phong phú và nắm được rất sâu. Mở đầu, bà mẹ ấy đã kể cho Điền Vũ con mình những thần thoại từ ngày xưa, dùng những hình tượng anh hùng để vũ trang cho đầu óc của cậu bé, hun đúc tiết tháo cho cậu, làm phong phú sức tưởng tượng và tinh thần sáng tạo của cậu. Chẳng hạn như chuyện Bàn Cổ khai thiên lập địa, chim tinh vệ tha gỗ tha đá lấp biển Đông, Nữ Oa luyện đá màu để vá trời và lấy đất sét để nặn ra loài người. Để cho giống người được sinh sôi nảy nở, anh em Phục Hy và Nữ Oa đã lấy nhau làm vợ chồng; Viêm đế dạy nhân dân trồng ngô lúa; Hoàng đế đóng xe đóng thuyền cho dân, Khoa Phụ đuổi mặt trời, Ngu công dời núi, Hậu Nghệ bắn rơi chín mặt trời, Đại Vũ đi trị thuỷ xa nhà ba năm ba lần đi qua cửa nhà mình mà không về v.v… Tiếp đó, Ngọc Lan lại giảng cho Điền Vũ nghe về “Thi”, về “Lễ”, về “Thư”, về “Chu Dịch”, dạy con bày bát quái. Hoặc là ngày, hoặc là đêm, hai mẹ con ngồi đối diện bên bàn, một người thì nói có ngọn có ngành, một người thì chăm chú nghe như nuốt từng lời. Đáng tiếc là bà mẹ học vấn uyên thâm như thế nhiều lúc bị cậu con như đói như khát hỏi cho đến cứng cả họng không sao trả lời được. Thí dụ cậu con hỏi, trước khi có trời đất, tất cả đều https://thuviensach.vn hỗn độn tối om như trong một quả trứng, thế thì ông Bàn Cổ ở đâu ra? Cái búa ông dùng để khai thiên lập địa là ai làm cho ông ấy? Tại sao chim tinh vệ lại đi tha gỗ tha đá về lấp biển? Mẹ nó bảo nó làm như thế hay sao? Tại sao mẹ nó không dẫn nó cùng đi lấp? Nữ Oa đã là mẹ của loài người, không có Nữ Oa thì không có xã hội loài người ngày nay, thế thì tại sao đàn bà lại bị xã hội khinh ghét như thế, chẳng có một chút địa vị xã hội nào như thế? Ngu công cũng chẳng phải là thông minh lắm, tại sao ông ta không dời nhà ra xa núi mà ở? Dời nhà chẳng dễ hơn dời núi hay sao? Hoàng đế và Viêm đế đều rất vĩ đại, tại sao họ lại gây chiến công phạt lẫn nhau, đoàn kết hợp tác với nhau có phải tốt hơn không? Đế Tuấn là người xấu như thế, suốt ngày làm việc ác, dâng nước lũ trừng phạt loài người, Hậu Nghệ bắn trăm phát trăm trúng như thế, tại sao không bắn chết hắn đi để trừ hại cho nhân gian?… Mỗi lúc như thế, người mẹ trẻ chỉ còn biết đỏ bừng mặt lên, thẹn không biết lánh đi đâu. Để khỏi ảnh hưởng đến sự phát triển trí lực và tăng thêm hiểu biết cho con, nhất là không làm chậm trễ bước đi sau này của con, Ngọc Lan bỗng nảy ra ý định lập trường tư, mời gia sư về dạy học. Một hôm, Ngọc Lan đang kể cho con nghe câu chuyện Hằng Nga; nói về vẻ đẹp siêu thần thoát tục của Hằng Nga, kể về chuyện nàng theo chồng xuống trần gian, sống không quen với cuộc sống gian khổ tương cà mắm muối, nói về chuyện nàng đã ăn vụng thuốc tiên của chồng, bay lên cung trăng, bỏ lại người chồng sống cuộc sống đơn côi cực khổ ở trần gian, nói chuyện Thượng đế giáng chức Hằng Nga biến nàng thành con cóc xấu xí ai ai cũng ghét. Ngọc Lan bình luận: “Một nàng tiên sinh đẹp như thế, bị biến thành một con cóc xấu xí, thật là đáng tiếc, bụng dạ của Thiên đế cũng thật là quá ác độc”. Cậu bé Điền Vũ mới lên năm, tỏ ra không đồng ý với cách nhìn nhận của mẹ mình, bác lại rằng: – Mười mặt trời cùng mọc, mặt đất quá nóng bỏng, lúa mạ chết hết, vườn ruộng hoang vu, chim thú chạy mất hết, mặt đất trở nên hoang vắng, để cứu loài người đang trong cơn nước sôi lửa bỏng, mặc dù bị các thiên thần địa kỳ nhao nhao phản đối, Hậu Nghệ đành phản lại triều đình, bỏ xuống trần https://thuviensach.vn gian, giương cung lên bắn chín mặt trời, cứu được nhân loại đang sắp bị tai ương lút đầu đó là một hành động lớn lao anh hùng biết bao? Thế mà Hằng Nga lại phản bội chàng, ăn vụng thuốc tiên để lên cung trăng, thì đó lại là một linh hồn ti tiện nhơ bẩn biết bao, Thiên đế bắt nàng biến thành con cóc xấu xí để ngàn người khinh ghét, vạn người phỉ nhổ, chẳng phải là đáng tội lắm sao? Chỉ có cái xác xinh, mà không có một linh hồn đẹp, thì không bằng đống phân chó của loài người, có quái gì mà đáng tiếc? Mẹ mà cũng chê nghèo yêu giàu, mạnh ai ôm áo người ấy như Hằng Nga, thì con cũng chẳng nhận một người mẹ như thế… Phạm Ngọc Lan đâm ra e thẹn cúi đầu, một lúc lâu không nói gì. Lại có một lần Phạm Ngọc Lan kể cho con trai mình nghe về công đức vô lượng của Đường – Nghiêu. Cứ như lời nàng tả, thì Nghiêu là một ông vua chí nhân chí thánh, là một con người trọn vẹn mọi vẻ từ chân đến đầu… – Theo ý con Nghiêu chưa chắc đã cái gì cũng tốt như thế – Điền Vũ cắt ngang lời mẹ mình, hiên ngang ngẩng mặt lên nhìn thẳng vào mặt mẹ mình không chớp mắt. Câu nói ấy của Điền Vũ Khiến cho người mẹ trẻ kinh ngạc và sợ hãi đến sởn gai gà, một tí tuổi đầu mà lại dám xấc xược với các bậc thánh triết tiên hiền thế có chết người không kia chứ, đúng là “điếc không sợ sấm”… Vẻ mặt của người mẹ khiến cậu con trai sững sờ, chẳng hiểu ra làm sao, liền hỏi: – Mẹ ơi! Con nói sai câu gì hay sao? “Ngọc không thể không có vết., người không thể cái gì cũng tốt”, chính mẹ đã chẳng thường dạy con như thế đó sao? Phạm Ngọc Lan nghiêm nét mặt nói: – “Ngọc không thể không có vết, người không thể cái gì cũng tốt”, là nói với người thường, với thánh nhân thì phải nói khác. Điền Vũ đã thẳng thắn phản bác lại: https://thuviensach.vn – Nghiêu có những bề tôi như Tương Liễu, Khổng Nhâm, Tam Miêu, đều là những hạng hại dân hại nước, là đồ chết còn chưa hết tội, thế mà Nghiêu đối với họ có thể nói là nhân đức hết mực, hết lần này đến lần khác tha cho họ những tội ác tày đình. Cổn theo lệnh vua đi trị thuỷ chín năm, bỏ cả vợ con, chịu đủ trăm ngàn cay đắng. Tuy rằng ông có những điểm lớn như kiêu ngạo tự phụ, ương ngạnh bướng bỉnh, thế nhưng suy cho cùng ông cũng dốc lòng vì việc công, luôn nghĩ đến dân, để cứu muôn dân trăm họ ra khỏi cơn tai hoạ nặng nề, đã chẳng từ nan xông vào nơi khó khăn nước lửa. Về sau chủ yếu là do mưa bão, rò rỉ, động đất v.v… nên những con đê to Cổn đắp lên có chỗ bị sạt vỡ, gây nên nạn lụt kinh hoàng cho dân chúng, Nghiêu bèn xử ông ta tội chết ở Vũ Uyên. Đối với bọn độc ác như Tương Liễu, sao Nghiêu lại khoan dung thế, nhưng đối với người phạm sai lầm như Cổn thì sao lại tàn khốc thế. So sánh hai việc, lẽ nào lại là công bằng ư? Việc xử sự của Nghiêu chẳng lẽ lại không có chỗ nào sai sót hay sao? Thế nên mới bảo “người không thể nói cái gì cũng tốt” là kể cả thánh nhân. Người mẹ trẻ lại một lần nữa cứng họng ra chẳng nói được gì, ửng đỏ hết cả mặt. Bà nhìn đứa con trai trước mặt mình, bỗng thấy nó cao lớn hẳn lên, như Thái Sơn, Bắc Đẩu, phải ngửa mặt lên mới nhìn thấy. Trước mặt người mẹ bỗng xuất hiện một mặt biển với sóng nước ỳ ầm, như rộng lớn khôn lường, như sâu thẳm khôn đoán, đó tựa như hình ảnh về khối óc, về tầm suy nghĩ của con trai mình. Bà mẹ ấy cứ say sưa nhìn, mê mải nghĩ và thấy tự trong lòng mình đang có một dòng mật ngọt từ từ tan ra và ngấm dần, sao nó ngọt ngào đến thế, êm dịu đến thế, thấm thía đến thế. Bỗng nhiên, bà nhào tới phía trước, quờ ôm lấy cậu bé, riết chặt vào lòng, như thể có ai đó sắp cướp đi mất… Nước mắt của người mẹ trẻ lã chã tuôn rơi, nhỏ cả lên khuôn mặt hồng hào bầu bĩnh của cậu bé – đó là những giọt những mắt xúc động, những giọt nước mắt hy vọng, những giọt nước mắt ngọt ngào, những giọt nước mắt sung sướng… Điền Thư và Điền Bằng ghé qua nhà, Ngọc Lan đã thưa trình lại với bố chồng và khoe với chồng về sự trưởng thành của Điền Vũ, và được sự đồng https://thuviensach.vn ý của hai người, đã mở trường tư thục ngay trong phủ, mời gia sư về dạy cho con. Tuy nhiên, làm thầy dạy cho Điền Vũ rất khó, mới có ba năm, đã phải đổi tới bốn ông thầy. Thí dụ có một ông tên là Trương Phụng Chi, thi thư đầy một bụng, suy nghĩ về văn chương rất nhạy bén, xuất khẩu thành chương. Mỗi lần đi đâu ông đều hay tức cảnh,sinh tình, cùng Điền Vũ ngâm thơ học đối. Lòng đầy xúc động và hứng thú, ông ngâm một câu thơ, trong tình hình không hề có sự chuẩn bị chút gì về tư tưởng, ông bảo Điền Vũ đối vào vế sau, mà lại phải đối thật chỉnh, đúng niêm luật. Ông muốn dùng cách đó để thử tài Điền Vũ và bồi dưỡng cho cậu sự linh cảm, nâng cao tốc độ phản ứng và năng lực ứng biến của cậu. Một ngày giữa mùa xuân, thầy trò đã trẩy thuyền ven dòng Thời Thuỷ lên phía bắc. Lòng sông khúc khuỷu quanh co, nước sông rì rào cuộn chảy, gió xuân mang lại niềm sảng khoái, liễu xanh rủ dọc bờ đê, én dệt thoi mây, chim ca ríu rít, tình thơ ý hoạ, hun đúc nên tính tình của con người. Phía trước không xa, ai đã bắc lên chiếc cầu cong bằng đá, ven theo chân đê ngoằn ngoèo, chiếc thuyền con lướt lên phía trước và đã tới chân cầu, rồi xuyên thẳng qua. Trương Phụng Chi ngâm lên: – Xa đáo sơn tiền tất hữu lộ (Xe lên trước núi hẳn có đường). Điền Vũ như đã đoán định từ trước rằng đến lúc này, thầy giáo không thể không ngâm lên câu đó, nên cậu đã buột miệng thêm rằng: – Thuyền đáo kiều đấu tự nhiên trực (Thuyền đến chân cầu tự nhiên thẳng). Thầy giáo Trương vui quá, ôm ghì Điền Vũ vào trong lòng mình hết lắc lại lay, lại ngâm thơ, lại cười cười nói nói, thậm chí cà cả chiếc cằm đầy râu khô cứng lên khuôn mặt bầu bĩnh của cậu bé, rậm đến nỗi Điền Vũ phải rụt xo lại như một con mèo nằm gọn trong lòng thầy giáo. Ở đây chỉ có tình cảm và lòng mến yêu, sự tôn nghiêm của đạo thầy trò đã tạm thời biến mất. Thời Thuỷ hội nhập vào Tri Thuỷ, đến đây lòng sông rộng ra, nước sông cũng chảy lững lờ hơn, người nằm ngửa trên thuyền, như đứa trẻ nằm trong https://thuviensach.vn nôi, nhìn mây trời đang bay và cây ở hai bên bờ thì theo nhau lùi về phía sau, nước va vào lòng thuyền nghe róc rách vui tai, thế là thầy giáo Trương bỗng ngâm lên: – Sóng đẩy thuyền đi bờ không đi. Điền Vũ liền ứng khẩu đọc theo: – Gió thổi mây động trời không động. Lại một lần nữa, mặt sông vắng ran lên một trận cười. Cũng ngày rằm tháng tám năm ấy, Phạm Ngọc Lan đã sắp sẵn một khoản lễ hậu, sai con mang đến biếu thầy giáo Trương, chúc thầy ăn Tết Trung thu vui vẻ. Thầy trò như cá gặp nước. Thấy người học trò ngoan được nâng niu như ngọc quý trên tay lần đầu đến cửa nhà thầy, còn thầy giáo Trương thì hết sức vui mừng và tỏ ra vô cùng thân mật, sư mẫu vội vàng đi làm những món ăn ngon nhất để thết đãi cậu ấm của Điền phủ. Thời giờ của một ngày thấm thoắt qua đi rất nhanh, chẳng mấy chốc mà mặt trăng đã nhô lên đầu núi đằng đông, to như một cái ô, cả ánh sáng lung linh như nước, chiếu cho khắp nơi sáng tựa ban ngày. Gió hiu hiu thổi như mang theo mùi thơm hoa quế ở nguyệt cung. Điền Vũ bồi hồi ở bên cạnh thầy giáo Trương. Tuy người hầu đã mấy lần giục giã, nhưng cậu vẫn bịn rịn chưa muốn dời chân. Vợ chồng Trương Phụng Chi cố nài giữ cậu ngủ lại một đêm rồi mai hãy về, nhưng lúc sang đây còn chưa hỏi mẹ mình trước, nên Điền Vũ không dám tự tiện ở lại; cậu buột miệng ngâm rằng: – Thanh phong hữu ý nan lưu ngã (Gió mát có lòng không giữ lại). Và theo thông lệ xưa nay của thầy trò họ, thầy giáo nhẽ ra nên ứng khẩu đối rằng “Minh nguyệt vô tâm khước chiếu nhân” (Trăng trong vô ý chiếu người đi), thế nhưng thầy giáo Trương lúc này đang đứng ngay trước mặt lại chỉ há miệng ra, không có lời nào đối lại, đứng ngây ra nhìn Điền Vũ và đám gia nhân ra về trên mặt không để lộ một chút tình cảm gì. Đêm ấy, thầy giáo Trương Phụng Chi mắc chứng bệnh tim, rồi mọc nhọt sau lưng mà chết, hưởng thọ sáu mươi lăm tuổi. Sửng sốt được tin buồn, Điền Vũ khóc đến nỗi chết đi sống lại và ốm một trận rất nặng. https://thuviensach.vn Ông thầy thứ ba dạy Điền Vũ họ Phương tên là Bác Cổ, là một vị lão học cữu,[3]suốt ngày cứ dài thuỗn ra, không hay nói hay cười, mà hay mang bộ mặt “thiết bì” ra để dạy người. Ông ta sùng bái Chu công, giữ nghiêm Chu lễ rất hay bàn về nhân nghĩa, phản đối bạo lực và chiến tranh. Nói thực ra, phải đến nhà võ tướng để làm thầy dạy học, không phải là điều mà ông muốn, chẳng qua vì sinh kế o ép, đành phải cúi lưng “xin ăn”. Xuất phát từ sự tôn nghiêm của đạo làm thầy trong thời buổi phong kiến, ông đòi hỏi học trò phải tuyệt đối nghe theo mình, không được tỏ ra ngang bướng chút nào, và như vậy thế tất sẽ sinh ra mâu thuẫn và sự chống trả của người có tư tưởng sôi nổi như Điền Vũ, quan hệ thầy trò rất không hoà hợp. Một lần, thầy Bác Cổ bắt đầu từ tiên đề đặt ra và làm theo Chu lễ, nói rất nhiều đến nhân nghĩa, nhấn mạnh rằng đây là một nét đẹp ở trong thiên hạ. Điền Vũ không đồng ý với quan điểm đó của ông thầy. Cậu nói, nhân nghĩa chỉ là một phạm vi lý tưởng hoàn mỹ, Chu công là một người mộng tưởng hão huyền không nhìn thẳng vào hiện thực, dục vọng mới là bản tính của con người sinh ra đã có. Ví như chim trĩ và con vịt, cùng là giống chim, chim trĩ từ vỏ trứng nở ra đã bay lên rừng xanh, còn con vịt con thì lại ra bờ sông. Đứng trước hiện thực là các nước đang phân tranh, người có nước tất phải dùng pháp chế để trị vì đất nước, lấy vũ trang để ngăn ngừa. Nhưng lời phản bác lại của Điền Vũ, khiến thầy Bác Cổ nổi giận đùng đùng. Điền Vũ lại dám giữa ban ngày ban mặt chà đạp lên Chu lễ, láo lếu với Chu công, va chạm với người hơn tuổi, như thế thử hỏi, ai còn nhịn được! Trong nóng nảy, chẳng những. thầy đã tranh cãi với trò, còn giơ tay đánh cả Điền Vũ. Trận sóng gió xảy ra trong trường tư thục ấy, đương nhiên Điền Vũ về nhà không dám hé răng nói ra với mẹ, với bà, chỉ có điều cậu Điền Vũ mọi ngày hồn nhiên và sôi nổi thế mà hôm ấy về bên cạnh mẹ, lại trở nên lầm lỳ, ít nói, cơm tố cũng ăn rất ít. Ngọc Lan cho rằng con mình có sự khó chịu trong người nên tối đến đã đưa con trai đi ngủ sớm. Ngày hôm sau, ăn cơm trưa xong, ông Phương Bác Cổ xưa nay vốn không hay đi lại lung tung đã hộc tốc tới Điền phủ để xin thôi việc, bởi vì, https://thuviensach.vn buổi sáng Điền Vu đã xua chó săn cắn chết con cừu non của nhà ông. Với thầy giáo, học sinh lại lấy oán để trả ơn, ông không thể nào chịu được. Nghe thấy tin này, mọi người trong Điền phủ từ trên xuống dưới chẳng ai là không kinh ngạc: cậu Điền Vũ làm sao có thể làm những việc như thế. https://thuviensach.vn CHƯƠNG III ĐẦY BỤNG MƯU MÔ – CHỨA CHAN CHÍNH KHÍ Hôm ấy, ăn cơm trưa xong, Phạm Ngọc Lan đang bàn công việc với mẹ chồng, bỗng thấy ông Phương Bác Cổ xưa nay vốn rất chín chắn, đi xồng xộc vào nhà xin thôi việc vì cậu học trò Điền Vũ đã lấy oán trả ơn, tung chó săn ra cắn chết năm con cừu non của nhà ông. Nghe nói thế cả nhà đều kinh ngạc mọi người chẳng ai bảo ai cùng nói: – Không phải thế! Dứt khoát không có chuyện như thế! – Đó là sự thực hoàn toàn chính xác! – Đang lúc mọi người xôn xao bàn tán, Điền Vũ xuất hiện trước đám động, giọng nói non nớt trẻ thơ của cậu nghe ra rất lảnh lót và rõ ràng. Cậu tỏ ra dám làm thì dám nhận, không hề ngập ngừng ấp úng, dứt khoát như đóng đinh lên cột. Hôm ấy là tiết Thanh minh, trường tư của Điền phủ nghỉ học, thầy trò đi dạo chơi một ngày. Khi mặt trời vừa từ từ ló lên ở phương đông, Điền Vũ một tay dắt con chó săn, một tay cầm cây thương ngắn đi thẳng đến lán cừu của nhà thầy giáo Phương. Con chó săn đã ngửi thấy mùi hôi của cừu, thè dài lưỡi ra, tai dỏng lên, dãi nhỏ ra hàng thước và sủa lên inh ỏi, xồng xộc lao lên phía tước. Điền Vũ buông tay ra, con chó kéo theo sợi xích kêu xoang xoảng, xông vào lán nhốt cừu, thấy cừu là cắn. Mấy con cừu lớn núp vào chỗ kín, con chó săn xông vào một con cừu non lông trắng như tuyết, há mõm ra ngoạm lấy cổ nó, con cừu nhỏ đáng thương còn chưa kịp kêu lên tiếng nào đã bị cắn chết tươi. Theo thói quen đã được huấn luyện, con chó săn cứ cắn chết một con lại ngoạm tha ra để một bên, tiếp tục xông vào con khác. Sáng sớm, Phương Bác Cổ đang ở trong lán vắt sữa cừu thấy con chú săn xông vào lại dữ tợn như thế, tức quá muốn nổ cả ruột, dụi mắt nhìn cho kỹ, hoá ra là chó săn của Điền phủ, ông càng chẳng hiểu ra sao. Đúng lúc ấy, Điền Vũ hổn hà hổn hển đuổi theo vào lán cừu, ngỏ lời xin lỗi Phương Bác Cổ: https://thuviensach.vn – Thật là có lỗi! Thưa thầy giáo Phương! Con chó ranh này đã giằng tuột xích, chạy đến đây gây sự chẳng lành. – Tiếp đó cậu quay sang con chó, nghiêm trang mà có ngành có ngọn mắng nó. – Con kia, mày là đồ bất nhân, là quân vô nghĩa, vô cớ đến đây xâm phạm “quyền của lũ cừu”, để đến nỗi mấy con cừu non vô tội phải chết oan. Hành động dã man của mày, Chu lễ không dung thứ, nếu Chu công mà còn sống, thế nào cũng sẽ chửi mắng và trừng phạt mày. Mày phải nhớ rằng, cừu và chó đều là vật nuôi trong nhà, là chỗ thân cận như anh em, lẽ ra mày phải thương yêu hoà thuận với nhau, phải nhân ái với nhau, phải đối xử với nhau bằng lễ, sao có thể ngang ngược vô lối, chẳng lẽ mày lại không sợ các bậc chân nhân quân tử trong thiên hạ mắng quở phạt hay sao?… Súc vật thì làm sao hiểu được cái gì là đạo nghĩa, đang lúc Điền Vũ thao thao dạy dỗ như thế, lại thêm hai con cừu non nữa bỏ xác trong tiếng kêu thảm thiết. Điền Vũ thấy vậy, liền van nài thầy giáo Phương: – Con đã nói như thế mà con chó này không nghe, xin ân sư hãy thương đến những con cừu non kia mà làm cho con chó săn kia hiểu được đại nghĩa của nhân đức khuyên nó đổi ác thành thiện, đừng có dùng bạo lực thế này với đồng loại của nó nữa ạ. Phương Bác Cổ tức đến run người, lắp ba lắp bắp chỉ vào Điền Vũ: – Mà… mà… ỳ!… Điền Vũ bỗng thấy thầy giáo Phương quả thực đáng thương, vội vàng cầm cây thương chạy theo con chó săn đang định vồ con cừu đực, nhằm trúng đầu nó xỉa mạnh, con chó săn lập tức lăn quay ra đất rú lên và lăn lộn mấy vòng rồi tắt thở. Điền Vũ làm như trêu cợt chỉ vào con chó nói: – Giỏi nhỉ! Thì ra cũng không chịu được đâm như thế này, mới có một nhát mà đã toi mạng. – Cậu cúi xuống vỗ vỗ vào đầu con chó nói. – Thế nào? Anh bạn của tôi, còn dám giở trò ngang ngược nữa hay thôi? – Rồi lại tỏ ra cảm động, cậu than thở tiếp. – Ôi!… không phải ai cũng có thể trở thành Nghiêu,Thuấn, chỉ có dựa vào sự thuyết giáo suông về nhân đức, thì chẳng có cách gì làm thay đổi bản tính ham muốn của loài người, vẫn cứ là https://thuviensach.vn vũ khí trong tay mới có thể nói chuyện được. – Vừa nói cậu vừa bước tới chỗ xác một con cừu còn bê bết máu, cúi xuống nhấc nó lên, ôm vào lòng vuốt ve, vỗ về nó, làm như vô cùng thương tiếc, xót xa nó. – Cừu non đáng thương ơi, giá như trong tay mày cũng có một cây thương nhọn, hay một hàm răng sắc, thì mày đã không phải chết thế này. Hãy nhớ lấy bài học này nhé, trước một kẻ thù hung ác, thì chớ có tỏ ra quá lành hiền… Điền Vũ còn đang muốn nói nữa, nhưng thầy giáo Phương tức đến run người, rồi lăn ra đất, co giật chân tay, sùi cả bọt mép ra, cậu vội gọi người khiêng về nhà để nằm nghỉ yên một chỗ. Khoảng nửa canh giờ sau, Phương Bác Cổ mới dần dần tỉnh lại, đầu óc cũng dần sáng suốt và ông thực thà thừa nhận rằng: Mình mang tiếng cả một đống tuổi tác thế này, mà lại trở thành bại tướng dưới tay một đứa trẻ ranh. Ông không hề quở trách Điền Vũ, cái trò tai ác của cậu, mặc dù có làm cho ông thật thảm hại, nhưng cách nghĩ của cậu, mưu lược của cậu cũng như gan dạ của cậu, quả là kinh người, khỏi phải nói, sau này chắc hẳn đây sẽ là một bậc hùng kiệt trên đời, là rường cột của đất nước. Một đời làm thầy, chỉ cần dạy ra được một người học trò như thế, cũng đã đủ lắm rồi! Tuy rằng nghĩ như thế, nhưng ông vẫn không chịu thay đổi ý định thôi việc của mình, bởi vì Điền Vũ làm như thế, đã quá khiến cho ông mất mặt với mọi người. Câu chuyện mang tình tiết hài hước đó, như một làn gió xuân thổi khắp kinh thành Lâm Tri, Điền Thư nghe xong, hể hả cả cười. Từ đó ông đã dự đoán ra rằng, Điền Vũ sau này sẽ trở thành nhà mưu lược quân sự bậc nhất trên đời; bởi ngay từ lúc này, cậu đã tỏ ra biết nhìn nhận, có tài thao lược cũng như gan dạ và hiểu biết. Thầy giáo Phương cố tình xin thôi việc, Điền phủ cũng chẳng biết làm thế nào hơn, đành để ông nghỉ việc mới món thù lao có một con số kinh người. Danh nghĩa là trả công, nhưng thực tế là lấy tiền xin lỗi, lấy tiền để chuộc lấy điều không phải với thầy. Thôn Điền Ban có một nhà tên là Lưu Nghĩa Đức, tổ tiên để lại cho mấy chục mẫu điền sản, cuộc sống rất phong lưu khá giả. Hắn suốt ngày mặc thì https://thuviensach.vn gấm vóc lụa là, ăn thì luôn luôn thịt cá, ra khỏi cửa không xe thì ngựa, về đến nhà thì luôn mồm sai con ở nàng hầu. Tên hắn cha mẹ đặt cho là “Nghĩa Đức”, nhưng thực tế việc hắn làm thì lại chẳng nghiêm trang, rượu chè cờ bạc, chẳng thiếu việc gì hư hỏng mà hắn chưa làm, lường gạt lọc lừa, bóp nặn hết làng trên xóm dưới. Trong nhà hắn, thê thiếp đã hàng đàn, nhưng vẫn đến mọi nơi trêu hoa ghẹo nguyệt. Thôn Đoạn Hà có một người nông dân đôn hậu, tên anh ta là Đoạn Thừa Thuận, người vợ là Liễu Dương Hoa, xinh đẹp hơn người, tính khí lẳng lơ, vốn từ lâu đã tằng tịu vụng trộm với Lưu Nghĩa Đức. Năm Lưu Nghĩa Đức sáu mươi ba tuổi, người vợ kết tóc xe tơ của hắn là Loan thị ốm chết, hắn bèn nghĩ kế giết hại Đoạn Thừa Thuận, cưới Liễu Dương Hoa về nhà mình, lấn át mọi người khác, trở thành vợ cả kế của hắn. Đoạn Thừa Thuận có một đứa con trai mồ côi, tên tục là Lai Phúc, năm ấy vừa tròn mười hai tuổi, theo mẹ tái giá, về ở nhà họ Lưu. Bất kể bề bậc thế nào, thì Lai Phúc cũng chỉ là một cậu ấm trong nhà họ Lưu, thế nhưng cậu lại mặc rất lam lũ, ăn thì không bằng chó bằng lợn. Hàng ngày, dưới làn roi của Lưu Nghĩa Đức cậu phải đi chăn cừu, chăn lợn, chăn chó, tưới rau, hót phân, đào đất, quét cửa quét nhà. Rất rõ ràng là Lưu Nghĩa Đức đang rắp tâm cố tình đày đoạ cậu, những chỉ mong đẩy được cậu đến chỗ chết mới hả. Lưu Nghĩa Đức còn sợ rằng Lai Phúc lớn lên thành người, sẽ trả thù người “cha” dượng lòng lang dạ thú, kẻ thù đã giết cha cướp mẹ của cậu. Bởi vậy nên tâm địa hắn mới ác độc đến thế, thủ đoạn mới tàn khốc đến thế. Tận mắt nhìn thấy đứa con rứt ruột đẻ ra của mình bị đày đoạ đến mức gầy như que củi, lẽ nào Liễu Dương Hoa không thấy xót xa trong lòng? Làm người ai chẳng có một trái tim, trâu bò còn biết âu yếm liếm con, huống chi là con người? Thế nhưng đau lòng xót ruột thì phỏng có cách gì? Lúc đầu hai người mới tằng tịu với nhau, Lưu Nghĩa Đức dùng đủ lời ngon ngọt, hẹn biển thề non, nói hết đủ mọi lời tốt đẹp ở trên đời. Hai người đến với nhau, đêm ngày hú hý, như keo như sơn, đảo điên loan phượng, làm mây làm mưa… Đến khi chiếm được Liễu Dương Hoa về tay, Lưu Nghĩa Đức đã thực sự biến nàng thành con mèo hoa ở đầu giường của hắn, lúc https://thuviensach.vn thích lên thì ôm ấp vỗ về, âu yếm yêu chiều, khi chán chường rồi thì chửi cha mắng mẹ, thượng cẳng chân hạ cẳng tay. Hoa nở phỏng tươi được mấy ngày? Đến khi Lưu Nghĩa Đức lại đi tìm của lạ, Liễu Dương Hoa bị vứt bỏ như một chiếc giày rách, ngoài chuyện bị chà đạp giày vò, còn phải đi làm những công việc nặng nhọc trong nhà, chẳng khác chi một con hầu trong phủ. Lưu Nghĩa Đức mở miệng ra là chửi, đưa tay lên là đánh, đến mức thực sự không còn coi nàng là một con người nữa. Liễu Dương Hoa lúc này, vừa là chỗ để Lưu Nghĩa Đức thoả mãn dục vọng, lại là nơi để hắn trút bực dọc, đúng là một vật nuôi biết nói trong nhà họ Lưu. Tượng đất qua sông, lúc này Liễu Dương Hoa lo cho mình còn chưa xong, sức đâu còn lo thay cho con trai được nữa. Điền Vũ từ lâu đã biết được cảnh ngộ không may của Lai Phúc, tỏ ra hết sức cảm thông. Một hôm, hai người gặp nhau trên phố, thấy Lai Phúc trên đầu chằng chịt gân xanh, Điền Vũ vô cùng thương hại vội vàng giúp đỡ, móc túi đưa cho Lai Phúc mấy đồng tiền lẻ rồi chủ động chuyện trò. Mới đầu, Lai Phúc thấy trước mặt mình là một cậu ấm sang trọng mà lại rất xa lạ, cậu bỗng như một chú chuột ngày, lấm lét nhìn trước ngó sau, chỉ sợ có mèo đến bắt. Dần dần, cậu phát hiện ra Điền Vũ là con người hiền lành, đôn hậu, lại sôi nổi nhiệt tình, đối xử hoà nhã, không như lũ chó má trong nhà họ Lưu, động mở miệng ra là chửi cậu “đồ lộn giống”. Trong lòng đã hết nghi ngại, Lai Phúc cũng trở nên cởi mở hơn, cậu cũng tỏ ra rất nhanh nhạy, lại hay nói chuyện. Điền Vũ hỏi đến đâu, cậu trả lời trôi chảy đến đấy, chỉ mỗi tội kể đến đâu khóc đến đấy, thật khổ! Nghe những lời kể lể của Lai Phúc, từ chỗ thương hại, cảm thông, Điền Vũ bỗng trở nên phẫn uất bất bình, oán hận với kẻ ác, định bụng sẽ làm cho Lai Phúc hả giận một phen, dù có phải dạy cho Nghĩa Đức một bài học cũng được. Điền Vũ dò hỏi Lai Phúc: – Muốn trị bọn người xấu này, cậu có dám làm không? Lai Phúc nghển cái cổ bọ ngựa của mình lên đáp lại: – Có hễ mà trả được thù, tôi chẳng sợ cái gì hết! Chết cũng xong! Sống mà chịu tội với nó thế này, chẳng thà liều một phen rồi chết cũng sướng! https://thuviensach.vn Điền Vũ lại dò hỏi thêm: – Cậu có gần nơi Lưu Nghĩa Đức ăn uống được không? – Có, sáng nào Lưu Nghĩa Đức cũng uống trà sâm, đều do tôi bưng từ dưới bếp lên tận buồng ngủ cho hắn. – Lai Phúc trả lời rất gãy gọn. Điền Vũ nửa tin nửa ngờ, hỏi: – Bên cạnh Lưu Nghĩa Đức đông đảo con ở người hầu như thế, tại sao lại sai có mình cậu bưng trà sâm? – Cái đó thì… – Lai Phúc không biết trả lời thế nào. Điền Vũ cau mày, làm ra vẻ phân tích, nói: – Tớ nghĩ rằng, hắn làm thế đúng là chỉ mượn cớ để giày vò cậu. Ví dụ cận bưng lên sớm hay muộn, nhanh hay chậm, trà nóng hay nguội, v.v… hắn đều lấy đó làm có để đánh cậu, mắng cậu, trừng phạt cậu… – Đúng thế! Chính là vì mục đích ấy đấy. – Lai Phúc ngắt ngang lời Điền Vũ. – Có một lần, tớ bưng sâm đến cửa phòng ngủ của hắn, quên gõ cửa, đẩy cửa bước vào, thấy Lưu Nghĩa Đức đang đè một cô gái hầu xuống giường. – Lai Phúc thẹn thò cúi đầu, mãi sau mới xụt xịt nói tiếp – Sáng hôm ấy, Lưu Nghĩa Đức đã đánh tớ chết đi sống lại… Điền Vũ bỗng hớn hở nói: – Nếu như thế, là chúng ta có chỗ để thừa cơ rồi? – Cậu vẫy tay gọi Lai Phúc: – Lại đây, ghé tai đây tớ bảo cái này. Lai Phúc ghé sát lại, Điền Vũ thì thầm một thôi một hồi như thế, như thế, cuối cùng hỏi: – Cậu dám làm theo mẹo tớ thế không? – Chuyện đó thì có gì nhà không dám, cậu cứ chờ đấy mà xem. – Lai Phúc mừng rỡ, tất bật đi ngay. Buổi sáng sớm ba ngày sau đó, như mọi ngày, Lưu Nghĩa Đức vẫn uống trà sâm, đang kiếm cớ để gây chuyện với Lai Phúc, bỗng thấy nhâm nhẩm đau bụng, rồi tiếp đó từng cơn đau nối nhau, đau quằn quại, như có đao đâm, như xé gan xé ruột. Thế rồi bỗng nhiên thấy lục phủ ngũ tạng như https://thuviensach.vn cũng biến ra nước ùng ục ùng ục như nước lũ phá đê chỉ muốn tuôn ra ngay. Hắn vội vàng xông ra cửa, chân không kịp xỏ vào giày, tay xách lấy cạp quần, chạy một mạch ra nhà xí. Lúc ấy ngoài trời, những bông tuyết to như lông gà bay tới tấp, dưới mặt sân, tuyết cũng phủ dày hàng thước, Lưu Nghĩa Đức bước đi trong tuyết ngập ống chân, tuy chỉ có một đoạn đường, mà còn khó hơn vượt đèo leo núi, hắn bước thấp bước cao, ngả nghiêng xiêu vẹo như gà con mắc tóc, vất vả lắm mới ra tới cửa nhà xí, vừa định bước vào thì thấy trên bức tường thấp có vắt một giải thắt lưng bằng lụa đỏ. Trời mịt mờ, đất tối tăm, nhà cửa, sân vườn, cây cối, hoa cỏ đều trắng xoá một màu, mênh mang một giải, chỉ có chiếc thắt lưng là màu đỏ, lấp ló như một ngọn đèn, nở tung như một bông hoa, cháy rực lên như ngọn lửa. Chiếc thắt lưng đỏ ấy nói với Lưu Nghĩa Đức rằng nàng dâu thứ tám của hắn vừa mới cưới hiện đang ở trong đó, đương nhiên không thể tự ý bước vào. Đành đứng ở ngoài chờ một lát vậy sao? Không được! Một là hai bàn chân trần đã buốt như kim châm, hai là để nàng dâu thứ tám nhìn thấy thì quá bất nhã, thế là vội vội vàng ôm bụng quay về phòng ngủ. Phong tục của nước Tề, bất kể nhà giàu đến đâu, đàn ông đàn bà đều cùng dùng chung một hố xí, mà đều làm lộ thiên, chứ nếu làm riêng như ở thành phố bây giờ thì Lưu Nghĩa Đức đã không phải khổ sở đến thế. Lưu Nghĩa Đức về đến phòng ngủ, khăn áo chỉnh tề rồi lúc thì phủ phục trên giường ép bụng cho đỡ đau, lúc thì cuống quýt chạy quanh phòng, tay bưng lấy hông, nhăn nhăn nhó nhó, chốc chốc lại rên lên từng chập. Mãi đến lúc đoán chừng nàng dâu đã về phòng mình rồi, hắn mới lại lò dò ra nhà xí. Thế nhưng còn chưa ra đến nơi, mãi từ xa đã nhìn thấy ở trên bức tường, chiếc thắt lưng đỏ vẫn vắt ngang ở đấy, không làm thế nào hơn, lại phải co ro bóp bụng trở lại phòng ngủ, ngồi im mà chờ. Tuy nhiên, những thứ gì sục sôi trong bụng lại không buông tha hắn, buộc hắn phải ra nhà xí lần nữa với tốc độ nhanh nhất. Chiếc thắt lưng đỏ vẫn chặn hắn lại ở bên ngoài, đẩy hắn trở về phòng ngủ. Lưu Nghĩa Đức cứ thế lật đật quanh đi quanh lại ba bốn lần, thế nhưng cái thắt lưng đỏ trên tường vẫn cứ như một ngọn đèn chưa đến lúc cạn dầu, nằm nguyên ở đó, như hoa vẫn chưa tàn, https://thuviensach.vn như lửa còn chưa tắt. Hắn không thể chịu đựng thêm được nữa, bỗng nghe thấy một tiếng “bục” âm vang, cả phân lẫn nước tung toé ra trong đũng quần, một thứ nước dơ bẩn vàng vàng theo ống quần tuôn chảy ra ngoài, cả căn phòng thối nồng thối nặc… Thế là Lưu Nghĩa Đức phải một phen mất mặt với tất cả người già, người trẻ, chỉ những muốn tụt quần ra mà che lấy mặt. Hắn không hiểu sao cô con dâu thứ tám vào làm gì trong ấy mà lâu đến thế, hay là nó cũng bị tháo dạ thế này? Liệu có bị lả đi rồi chết cóng ở trong hố xí không? Nghĩ đến đây, tự dưng hắn thấy chột dạ, vội sai người hầu gái ra hố xí xem sự thể ra sao, nhưng ở đấy làm gì có ai? Đương nhiên, cái thắt lưng đỏ trên tường cũng không thấy nữa. Lưu Nghĩa Đức lại cho người đến tận phòng ở của nàng dâu thứ tám hỏi xem sao, mặt trời lên ba con sào rồi đôi vợ chồng trẻ vẫn còn ôm nhau ngủ say như chết. Lưu Nghĩa Đức biết mình đã trúng kế gian, bị người ta lôi ra làm trò cười, liền cho gọi mọi người lại hỏi tội, để làm cho ra ngô ra khoai rồi sẽ trị tội đến nơi đến chốn. Lai Phúc cố nhiên trở thành trọng điểm của cuộc xét hỏi. Thế nhưng dù ầm ĩ lên hàng mười mấy hôm liền khiến cho cả phủ đệ xôn xao náo động, ăn không ngon ngủ không yên, ai cũng bị nghi ngờ, ai cũng phải xét hỏi, nhưng chẳng có kết quả gì, Lưu Nghĩa Đức đành cuốn cờ tắt trống, vội vã thu quân. Mọi việc đều xảy ra trong phủ và đều bí mật tiến hành, không để tin tức lọt ra ngoài, nhưng tin đồn vẫn không cánh mà bay, làm cho cả kinh thành xôn xao, trẻ già đều biết câu chuyện mang tựa đề “Lưu Nghĩa Đức và cái thắt lưng đỏ của nàng dâu thứ tám”. Mưu kế Lai Phúc trừng trị Lưu Nghĩa Đức là trộn thuốc tả vào trà sâm, vắt thắt lưng đỏ lên tường nhà xí… tất cả đều do Điền Vũ sắp đặt. Lai Phúc suy cho cùng cũng chỉ là một đứa trẻ, thấy có vẻ sóng yên bể lặng rồi và cũng để bày tỏ lòng biết ơn đối với Điền Vũ nên đã vô tình để lộ câu chuyện ra. Sau khi biết chuyện, Lưu Nghĩa Đức nghiến răng nghiến lợi tỏ ra căm ghét Điền Vũ, chỉ những mong làm sao ăn sống nuốt tươi. Thế nhưng Điền phủ là một nơi thế tập danh môn lệnh tộc của nước Tề, Điền Thư lại là nhân vật làm mưa làm gió khiến ngả nghiêng cả triều chính nước https://thuviensach.vn Tề, một cái lông chân còn lớn hơn tấm lưng của Lưu Nghĩa Đức, cho nên hắn không dám tự ý làm. Ba tháng sau, vườn hoa trong Điền phủ bị một ngọn lửa không tên đốt cháy sạch sành sanh, sau đó không lâu, Liễu Dương Hoa bị đem bán, Lai Phúc mất tích. Điền phủ đúng là có truyền thống về nhân đức, vườn hoa bị đốt cháy cũng chẳng đáng gì, không dò hỏi căn nguyên. Điền Vũ cũng không hề bị cha ông trách mắng. Thấy cháu mình gặp việc nghĩa dám làm, tinh thần đáng quý, kế đem ra dùng lại không chỗ nào sơ hở, Điền Thư cho rằng, cháu mình đạt được hai điều ấy, dù có phải trả giá bằng một khu vườn cũng đáng. Đồng thời, ông cũng nhân dịp này dạy cho Điền Vũ biết rằng: Làm việc gì cũng đừng có chỉ biết sướng bụng trong chốc lát, mà phải cân nhắc thiệt hơn, phải cân nhắc tới hiệu quả. Nếu so với việc cầm quân đánh trận thì trận này đã thất bại thảm hại, không làm hại gì lớn cho Nghĩa Đức, cháy một một khu vườn không nói làm gì, mà hại là hại cho mẹ con Liễu Dương Hoa… Thầy giáo mới đồi đến của Điền Vũ họ Triệu, tên là Hựu Phúc, người cao to, khuôn mặt trắng trẻo, cử chỉ nhã nhặn, nói năng ôn tồn, làm việc chắc chắn, rất được mọi người trên dưới trong Điền phủ kính nể. Gần đây, thầy giáo Triệu có điều gì tâm sự nặng nề, suốt ngày mặt ủ mày ê, lầm lỳ chẳng nói, không thiết gì ăn uống… Qua sự dò hỏi mấy lần của Điền Vũ, ông mới nói ra điều tâm sự của mình. Phía đông thành Lạc An có một nhà viên ngoại họ Trương, tài sản có mười mấy mẫu ruộng thượng đẳng điền, vài nếp nhà lá khá to, cuộc sống cũng khá sung túc. Trương viên ngoại sinh hạ được một trai một gái, con gái đã gả cho Quả Thường Sơn ở thôn Đông, con trai là Phúc Thuận mới lên năm tuổi. Trời có khi mưa khi nắng, con người có lúc phúc lúc hoạ khôn lường, vợ của Trương viên ngoại bỗng đâu mắc bệnh hiểm nghèo, nằm liệt giường mấy tháng rồi về chầu tiên tổ. Trương Viên ngoại quá đau buồn cũng mắc bệnh tim, nằm liệt trên giường. Phúc Thuận thơ ngây mới vừa năm tuổi còn ham nghịch ham chơi, không có ai lo liệu việc cửa nhà, https://thuviensach.vn viên ngoại đành phải đón con gái, con rể về ở để chia nhau hoạn nạn. Nào ngờ con gái và con rể đều là những hạng tiểu nhân thấy tiền quên nghĩa, thấy tình hình bệnh tật của Trương viên ngoại ngày một xấu đi, xem chừng không còn hy vọng gì sống nổi, trong bụng chúng đã tính toán làm sao để nắm trong tay gia sản của nhà này. Hai vợ chồng nhỏ to bàn soạn mấy hôm, cuối cùng đã vạch ra một kế độc: Một buổi sáng, Quả Thường Sơn lấy cớ vào nâng giấc trong tay cầm sẵn hai tờ “di chúc” đã viết sắn, đến trước giường bệnh của ông bố vợ đang hấp hối, ép ông phải điểm chỉ vào hai tờ “di chúc” ấy. Trương viên ngoại nghe nói thế, đưa tay run run đón lấy tờ “di chúc” cố hết sức mở mắt ra, thấy trên đó viết rằng: “Trương viên ngoại thành đông chỉ sinh một con, tất cả gia sản toàn bộ để lại con rể, người ngoài không được lấy đi”. Thấy con rể nhân lúc nguy nan tính bài vơ vét bịa ra “di chúc” hòng bá chiếm toàn bộ tài sản của ông, Trương viên ngoại bất giác tức giận quá, lắp bắp nói chẳng nên lời, thều thào từng tiếng, mắng rằng: “Mày… mày là đồ súc… vật…”. Chưa nói hết câu, hộc máu ra mà chết. Quả Thường Sơn thừa dịp kéo tay Trương viên ngoại lần lượt điểm chỉ lên hai tờ “di chúc”. Có “di chúc” trong tay, vợ chồng Quả Thường Sơn đã có chỗ dựa không còn lo gì nữa, họ coi Phúc Thuận không còn ra con người nữa, suốt ngày không đánh thì chửi, còn bắt nó rửa nồi, nhóm bếp, đổ thùng phân,.. sự ác độc của họ, còn hơn cả rắn rết. Vợ chồng nhà họ Quả còn lo Phúc Thuận lớn lên sẽ giành lại gia tài, nên đã đuổi nó ra khỏi nhà, thành kẻ ăn mày. Làng trên xóm dưới ai ai cũng thấy bất bình, nhưng trong tay vợ chồng họ Quả lại có “di chúc” của Trương viên ngoại, giấy trắng mực đen, thì biết làm thế nào?… Trương viên ngoại ở thành đông này lại không phải ai khác mà chính là anh rể của thầy giáo Triệu Hựu Phúc, Phúc Thuận là cháu ngoại của ông, lúc này ông đang rất đau khổ buôn rầu về cảnh ngộ không may của cháu mình mà trở nên rầu rĩ. Nghe thầy giáo Triệu kể thế, Điền Vũ hỏi: – Sao thầy không lên quan phủ mà kiện vợ chồng nhà họ Quả ạ? https://thuviensach.vn – Kiện? Thầy làm sao lại chẳng muốn đi kiện chúng nó? – Thầy giáo Triệu làm ra vẻ rất băn khoăn. – Trong tay chúng nó đã có “di chúc” của bố vợ, thầy làm sao mà kiện nổi được chúng nó. Điền Vũ như có điều suy nghĩ, nói: – Trong tay Phúc Thuận chẳng phải cũng có một bàn “di chúc” đó sau? Đó chính là chứng cứ. Triệu Hựu Phúc buồn bã nói: – Hai bản “di chúc” chẳng sai nhau chữ nào, đều viết rành rành là “tất cả gia sản toàn bộ để lại cho con rể, người ngoài không được lấy đi”, lấy đó làm chứng cứ thì có khác gì hai tay dâng gia tài cho vợ chồng tên súc vật ấy – Thầy giáo Triệu vừa nói vừa đưa bản “di chúc” cho Điền Vũ. Cầm bản “di chúc” trên tay, Điền Vũ đọc qua một lượt rồi bảo: – Ân sư sai rồi! Cứ theo như ngu kiến của trò, thì “di chúc” đã viết rất rõ ràng: “Để toàn bộ gia sản lại cho con trai là Phúc Thuận”. Thầy giáo Triệu tỏ ra rất không hài lòng: – Thầy đang lo như lửa đốt trong lòng, xin cao túc đừng có nói rỡn. – Trò đâu dám nói rỡn, xin thầy hãy xem đây. – Điền Vũ cầm “di chúc” đọc. – Trương viên ngoại thành đông, chỉ sinh một con, tất cả gia sản, toàn bộ để lại, con rể người ngoài, không được lấy đi.” Qua sự ngắt câu như thế của Điền Vũ, thầy giáo Triệu như sáng tỏ ra, thấy trước mắt như thoáng rộng thêm. Ông cầm lại bản “di chúc” xem lại, rồi đọc lên, mỗi con chữ trong bản di chúc như nhảy lên, lấp lánh, toả ra ánh hào quang hy vọng. Điền Vũ còn phân tích thêm rằng Trương viên ngoại đã có con trai, nhưng còn nhỏ dại, sao lại có thể mang toàn bộ tài sản truyền lại cho con rể chứ? Nếu như thế, thì để cho con trai là Phúc Thuận mới lên năm sống thế nào? Với lại, từ xưa đến nay, có con trai sờ sờ ra đấy, đâu lại có lý đem tài sản truyền lại cho con rể kia chứ?… https://thuviensach.vn Những điều phân tích của Điền Vũ, rõ ràng là đã nêu ra cho thầy giáo Triệu nội dung lời tố tụng. Thầy giáo Triệu nghe qua là hiểu ngay. Ngày hôm sau, đơn từ tố tụng của Triệu đã đệ lên sảnh đường của phủ huyện, cũng rất may, huyện lệnh là một ông quan thanh liêm “gương sáng treo cao”, vừa trình đơn lên đã được duyệt ngay. Đèn trời phán quyết, toàn bộ gia tài của Trương viên ngoại được trả về cho Phúc Thuận, vợ chồng Quả Thường Sơn bị phạt vạ bốn mươi roi, lập tức phải cút khỏi nhà họ Trương, không được ở thêm ngày nào. Có một thời gian, do không mời được ông thầy nào vừa ý, Điền Vũ buộc phải đi đến trường công học, thời gian ấy không dài, nhưng Điền Vũ đã có thêm nhiều bạn bè ở lứa tuổi thiếu niên. Phía bắc thôn Đoạn Hà có một ngôi miếu Long Vương, trong miếu đó có một lão thủ tự vừa tham vừa ác. Phía dưới miếu Long Vương có một vịnh nước sâu gọi là vịnh Rồng. Vịnh này rộng không thấy bờ, sâu không thấy đáy, nước màu xanh đen, âm u khí lạnh, vẻ uy nghiêm khiến người ta dễ sởn da gà. Tương truyền đây là cửa phụ để Đông Hải Long vương ra vào Long cung, mỗi lần Long vương đi ngang qua đây, nước đen dựng lên cột nước vút lên đến trời, gió lay gẫy cả cây, sấm chớp như xẻ núi ra, mưa đá to bằng quả đấm, mưa bão xối xả đem lại tai nạn lớn lao cho dân chúng cả vùng này. Để cầu xin Long vương ban phúc, hàng năm dân chúng đều phải tế lễ Long vương, đổ một số lớn rượu thịt và đồ tế lễ xuống vịnh. Thôn Đoạn Hà lại có một người thợ mộc khéo tay, tên là Đoạn Ngọc Tài, ông thứ gì cũng làm được và làm thứ gì cũng khéo, ngay cả những việc tinh xảo trong cung vua Tề, cũng thường phải mời ông đến làm. Một hôm lão thủ tự đến tìm Đoạn Ngọc Tài, vừa hay là gặp Đoạn Ngọc Tài vừa khoác túi đồ bước ra khỏi cổng, định sang thôn bên làm việc. Gã thủ tự nói: – Người sống trên đời giúp người là thiện, ông làm cho ta cái tủ bạc, rồi ta sẽ cầu Long vương ban phúc cho ông. “Thủ tự” tức là người coi miếu, thế mà lão thủ tự này lại có lai lịch khá dài dòng, tương truyền vốn là một tên thị vệ hộ giá cho Long Vương, từng https://thuviensach.vn có lần cứu sống Long vương, nên lúc về già mới đến cái vịnh Rồng này để gác cửa… Đoạn Ngọc Tài nói: – Tôi lao động để kiếm cơm ăn, kiếm tiền bằng nghề nghiệp của mình, việc quái gì cần phải Long vương ban phúc!… Lão thủ tự bị cụt hứng, bị tẩy chay bẽ mặt, thẹn quá hoá cùn, vùng vằng bỏ đi. Ngày hôm sau, hăn đi xin gặp Thiên Thừa quận thú, nói: – Đêm qua lão già này về Đông Hải chơi, Long vương có lệnh cho lão mang về một bức thư, trình quan phụ mẫu xem. – Nói xong hắn dâng bức thư mạo danh Long vương lên cho Quận thú. Quận thú mở thư ra xem, thấy trong viết rằng “Người là chúa Thiên Thừa, ta là vua Đông Hải. Từ lâu nghe nói trong vùng ngươi quản hạt có tên thợ mộc là Đoạn Ngọc Tài kỹ nghệ cao siêu, mà như sấm rền bên tai, xin cho hắn tới Long cung ít ngày, để xây cho tiểu vương một toà long môn. Người ta vẫn nói lợi người tức là lợi mình, nếu xong việc này, ta sẽ giữ cho Thiên Thừa luôn luôn gió hoà mưa thuận, ngô lúa bội thu; nhược bằng hơi trái lời, tất phải ra tay nghiêm trị…” Câu “ra tay nghiêm trị” của Long vương, Quận Thú đã biết trong đó hàm chứa những gì, đó tức là sấm chớp là bão dông, là nhà đổ, là cây gãy, là chìm ngập ruộng đồng, là con người làm mồi cho tôm cá… nghĩ đến đấy, quận thú thấy không rét mà run, vội sai gọi Đoạn Ngọc Tài đến kể rõ tình đầu, lệnh cho ông ta chuẩn bị cho mau, ba ngày sau sẽ đem ông tiến Long cung. Còn như đường đi đến Long đình, trong thư Long vương đã nói rõ: “Sẽ do thủ tự của miếu ta chỉ đường” Vịnh Rồng là cửa thông ra biển Đông, khỏi phải bàn, đến lúc ấy cứ vứt Đoạn Ngọc Tài xuống vịnh Rồng để ông ta tự ra biển Đông. Đoạn Ngọc Tài thừa biết, đây là đòn trả thù của lão thủ tự, chỉ vì mình không chịu làm tủ bạc cho hắn, lại còn đấu khẩu với hắn, cho nên hắn đã mạo danh Long vương, mượn tay quận thú, định đưa mình vào chỗ chết. Một lão thủ tự coi miếu thì chẳng khó gì mà không đối phó được, đáng sợ https://thuviensach.vn là với quận thú, hắn nắm quyền bính trong tay, trị chết một người dân thường cũng như lấy chân di chết một con kiến. Đoạn Ngọc Tài tuy cũng là con người bụng đầy thao lược nổi tiếng làng trên xóm dưới, nhưng lúc này lòng ông như một nồi cháo loãng, có bao nhiêu mạch nguồn của sự tài giỏi khôn ngoan đã bị lấp kín hết, không làm sao nghĩ cho ra một kế thoát thân, hoặc một cách trị cho tên thủ tự kia một mẻ. Đang giữa lúc ông rầu rĩ, bởi mình như đang bị treo trên vách đá cheo leo thì bỗng có một tia sáng chiếu cho con đường trước mặt ông trở nên bằng phẳng thênh thang, từ dưới chân ông dẫn thẳng tới một tương lai xán lạn. Đại Bảo là con trai của Đoạn Ngọc Tài học ở trường công, bạn cùng lớp cùng bàn với Điền Vũ, họ là đôi bạn thân nhau nhất trong trường, đôi bên chẳng bao giờ giấu nhau điều gì. Cha mình đang bị tên thủ tự tàn ác hãm hại, xem chừng tai nạn sắp giáng xuống đầu, Đại Bảo đương nhiên trước hết đã nói cho Điền Vũ biết cảnh ngộ không may này của nhà mình. Và Đại Bảo chẳng qua là thuận miệng thì kể để cho vơi đi niềm u uất trong lòng, không ngờ Điền Vũ lại có cẩm nang diệu kế, khiến cho cả nhà bạn từ tuyệt vọng bỗng có ngày sống lại mà còn trừ cho dân được một gã ác ôn. Điền Vũ theo Đại Bảo về nhà họ Đoạn, hỏi lại cho rõ gót đầu, rồi như thế như thế vạch ra phương án, Đoạn Ngọc Tài thì không ngớt gật đầu lia lịa, nghe theo lời, làm theo kế. Thời gian ba ngày đi như chớp mắt, thời gian hạn định đã đến nơi, quận thú,. thủ tự, huyện lệnh, bô lão quan thuộc, hào sĩ và cả dân chúng đến xem có tới cả ngàn người, tất cả đều tập trung ở bên bờ vịnh Rồng để đưa tiễn Đoạn Ngọc Tài. Đoạn Ngọc Tài được tắm rửa thay quần áo, trang điểm cho mới mẻ từ gót đến đầu, đúng với dáng vẻ của một người sắp sửa đi xa. Bên bờ vịnh đã sẵn bày tiệc rượu, người dự tiệc đều lần lượt nâng cốc, lũ lượt thay nhau đi chúc rượu nhau, mọi người đều tỏ ý tiễn biệt Đoạn Ngọc Tài cho ra vẻ. Mặt trời ngả về tây, tiếng sáo của người chăn cừu vang lên lánh lỏi, cừu bò lũ lượt về chuồng. Lão thủ tự nói: – Đã đến giờ Thân, Đoạn sư phụ phải bắt đầu khởi hành. https://thuviensach.vn Thế là bữa tiệc tàn, lão thủ tự chỉ huy bốn gã mình beo đã được bảo sẵn từ trước, nâng Đoạn Ngọc Tài lên rồi gieo xuống vịnh, chỉ thấy Đoạn Ngọc Tài vùng vẫy rồi chìm dần, rồi ùng ục nổi lên hàng loạt bong bóng nước, và chỉ trong nháy mắt đã tiêu tán hết. Bà con đứng ở trên bờ người thì khóc lóc, người thì than thở, người thì đấm ngực, người thì dậm chân, người thì luôn mồm chửi rủa… Đêm ấy, ở miếu Long vương, lão thủ tự ngồi một mình tự rót tự uống, rồi ê a hát một mình, uống cho đến khi say mềm ra. Ba tháng sau, vào một buổi sáng, Đoạn Ngọc Tài xuất hiện ở trước mặt viên quận thú, ông ăn mặc quần áo rất cầu kỳ và hợp thời trang, cử chỉ nhã nhặn, phong độ đàng hoàng, da dẻ mịn màng như một gã thư sinh. Quận thú vừa nhìn thấy, giật mình kinh hoàng, vã mồ hôi hột, bủn rủn chân tay, hồn lìa khỏi xác, không làm chủ được mình, ngồi giữa công đường mà ngây ra như con rối. Không biết như thế bao nhiêu lâu, hắn mới dần dần tỉnh lại, nhìn kỹ vào Đoạn Ngọc Tài, nghĩ rằng gặp ma giữa ban ngày, như thế thì mình cũng chẳng sống trên đời được bao lâu nữa. Cái tướng thảm hại của quận thú, Đoạn Ngọc Tài nhìn thấy tận mắt và cười thầm trong bụng, nhưng ông cứ làm như không thấy, kính cẩn nói rằng: – Đội ơn ông lớn sai khiến, Ngọc Tài tôi mới được xuống Long cung thi thố tay nghề, làm vui lòng Long vương, kinh động các loài thuỷ tộc. Ba tháng Long môn đã khánh thành, hôm nay được ca khúc khải hoàn, đồng thời cũng mang theo một bức thư của Long vương, trình để ông lớn quận thú thân chinh lĩnh đọc. Đến lúc này, quận thú mới hơi hơi định thần, tay run run nhận lấy bức thư rồi bóc phong bì ra đọc; thấy trong thư viết rằng: “Kỹ nghệ của sư phụ Đoạn thật là hơn hẳn mọi người trên đời, Long môn được dựng lên nguy nga huy hoàng, mong sẽ được trọng thưởng! Tái bút! Ba ngày sau trong cung sẽ làm lễ khánh thành Long môn, xin báo cho biết thủ tự ở miếu của tôi cũng đến dự, đương nhiên là cũng tới Long cung bằng con đường trước đây ông thợ mộc đã đi.” https://thuviensach.vn Quận thú đương nhiên là ban cho Đoạn Ngọc Tài cả trăm lạng vàng và sai người gọi thủ tự vào chầu rồi đưa cho hắn xem thư của Long vương. Thủ tự đọc thư, hết hồn hết vía, mặt như đổ chàm… Hắn định thần nhìn rõ ông thợ mộc, da mịn và trắng, khác hẳn so với ba tháng trước, bất giác nghĩ rằng: Lão thợ mộc mình trần mắt thịt, mà còn có thể vào được Long cung, gặp Long vương, ta giữ miếu cho Long vương bao nhiêu lâu nay, lại có công tiến cử, đã mời dự tiệc khánh thành, hẳn là có trọng thưởng; rồi làm gì mà chẳng được quan tâm cất nhắc! Thủ tự nghĩ như vậy, liền vui vẻ nhận lời. Vào giờ Thân của ba ngày sau đó, lão thủ tự được ném xuống vịnh Rồng đúng như lần trước. Tuy nhiên, hắn ừng ực uống luôn mấy ngụm nước vào bụng, rồi chìm nghỉm tận đáy nước mãi mãi không bao giờ lên được nữa, chắc hẳn là được Long vương giữ lại mãi ở trong cung để sai khiến. Lại nói về ba tháng trước đó, căn cứ vào sự sắp đặt của Điền Vũ, Đoạn Ngọc Tài đã đi kiếm một cái bồ rách, một cái ống tre dài, một hòn đá lớn. Đến đêm, ông bỏ hòn đá vào cái bồ buộc cái ống tre vào miệng bồ sau đó dìm cái bồ xuống đáy vịnh Rồng, đặt đầu kia của cái ống tre vào búi cỏ ở ven bờ vịnh, sau khi Đoạn Ngọc Tài bị vứt xuống nước, sẽ mò đến chỗ cái bồ, rồi ngồi vào đó, miệng ngậm vào chiếc ống tre, ngồi im không động đậy. Chờ cho đến tối, ông mới ngoi lên bờ lẻn về nhà, trốn liền ba tháng ở trong nhà. Trong ba tháng đó, chẳng những cứ ngày ba bữa thịt cá đầy đủ lại còn rửa mặt bằng sữa bò, cho nên da thịt mới trắng như thế. Ở Đạo Trang xóm tây thôn Đoạn Hà có một lão nhà giàu tên là Hách Trọng Tường, hắn là con thứ hai nên mọi người gọi là ông hai Hách. Anh ruột hắn là Hách Mạnh Tường ốm chết sớm, bỏ lại vợ goá con côi, trông cậy hết vào ông hai giúp đỡ. Hách Trọng Tường là một gã gian giảo điêu toa, bề ngoài tỏ ra quan tâm hết mực, thể thiết từng ly từng tý đến chị dâu và cháu mình, nhưng tận xương tận tuỷ thì lại để bụng vào đống tài sản mà họ được hưởng. Người chị dâu làm sao mà hiểu được bụng dạ xấu xa đó của hắn, luôn luôn bày tỏ bằng những lời biết ơn. Hách Trọng Tường cũng từng bày tỏ rằng chị dâu già coi ngang như mẹ, hiếu kính với chị dâu, cưu https://thuviensach.vn mang cháu ruột, là nghĩa vụ và trách nhiệm không thể chối từ. Người chị đâu là Lưu thị vốn dòng dõi khuê tú, ngay từ nhỏ đã được tiếp thu một nền giáo dục tốt đẹp, hiểu biết sách vở và thông đạt lễ nghi, coi trinh tiết còn quan trọng hơn cả sinh mạng của mình. Hách Trọng Tường đã nắm lấy đặc điểm này của chị dâu mình, tìm cách cố làm ra thân mật, có ý tạo cho người khác một cảm giác sai lầm rằng chị dâu em chồng có quan hệ mờ ám, ngày một ngày hai trong thôn xóm bông đồn thổi ầm ĩ cả lên. Lời người đáng sợ, điều đó gây cho Lưu thị một áp lực rất lớn trong tâm linh, sợ rằng sẽ xảy ra điều gì không hay bất ngờ. Lưu thị cũng đã từng mấy lần nhắc nhở Trọng Tường, bảo hắn về sau phải chú ý nhiều hơn. Trọng Tường luôn tỏ ra không thèm để ý và nói: – Sự nhìn nhận của tiểu nhân, hà tất phải bận tâm. Dần dần, vợ của Hách Trọng Tường cũng linh cảm thấy điều này, lục vấn hắn mấy lần, thậm chí thường thường còn để ý theo dõi hành động của hai người. Càng như thế, Hách Trọng Tường lại càng nửa nạc nửa mỡ, cho thêm chanh vào giấm,[4]càng tỏ ra săn sóc mẹ con Lưu thị chu đáo hơn, ôn tồn dịu dàng hơn khiến cho vợ hắn đã phải mấy lần ngầm cãi nhau với hắn. Thấy lửa đã sắp bén, Hách Trọng Tường quyết định đóng kịch như thật, khiến cho Lưu thị phải xấu hổ mà chết. Hôm ấy nhà họ Hách mở tiệc lớn, họp mặt đông đủ mọi thứ khách, Hách Trọng Tường sắp xếp cho vợ xuống bếp phủ trông coi nấu nướng, còn hắn và Lưu thị ở trên nhà mời cơm rượu khách, nghiễm nhiên thành đôi vợ chồng, khiến cho trong bữa tiệc có khối người nháy mắt cho nhau. Hết mời lại ép, Hách Trọng Tường sớm đã đỏ mặt tía tai, lấy rượu mà che mặt, bắt đầu có hành động bằng chân bằng tay với Lưu thị, khách mời có nhiều người thấy ngứa mắt không chịu nổi, nên đã bỏ về. Đúng lúc ấy, Hách Trọng Tường nhìn thấy vợ hắn bưng thức ăn lên phòng tiệc, hắn cố làm ra lả lơi khiến cho vợ hắn ném cả đĩa thức ăn và làm ầm ĩ cả lên, chỉ vào đầu Lưu thị mà nhiếc mắng xỉ vả rằng là đồ tanh hôi, là hồ ly tinh, rủ rê quyến rũ chồng người. https://thuviensach.vn Bữa tiệc tàn không mấy vui vẻ, mụ đàn bà đanh đá làm cho trời đất rối mù. Lưu thị không chịu nổi nỗi nhục quá lớn lao, ngay đêm ấy đã treo cổ tự tử. Sau khi Lưu thị chết rồi, con trai bà là Kế Nghiệp như rơi vào hố băng, như tụt xuống hố sâu ngàn trượng, bị vợ chồng Hách Trọng Tường ngược đãi, giày vò, sống cuộc sống không bằng trâu ngựa. Năm mười tuổi, cậu bị đuổi ra khỏi nhà, đi ăn xin qua ngày. Năm cậu mười lăm tuổi, cậu được người giới thiệu đã lên huyện ly học nghề, hầu như tất cả mọi khoản thu nhập đều phải trao cho chú, còn mình thì sống khổ sống sở, áo không đủ che thân, ăn không đủ ấm bụng. Gia tài của Hách Trọng Tường tăng lên gấp đôi, nhà cửa vườn tược được chiếm cả hai phần nên cuộc sống ngày càng thêm khấm khá. Chẳng mấy chốc mà ba năm đã trôi qua, sau khi Kế Nghiệp xa nhà, không bao giờ còn trở lại nữa. Mỗi năm đến tháng chạp người ta đua nhau đi sắm tết để chuẩn bị năm mới. Năm ấy Hách Trọng Tường, mua rất nhiều hàng Tết và cũng rất đầy đủ mọi thứ. Tiền vào như nước không tiêu thì để làm gì đúng là “không ăn không uống, chết đi cũng uổng”… Buổi tối ngày ba mươi Tết, Hách Trọng Tường mang ra đủ các loại bài vị của tổ tiên nhiều đời rồi đặt theo thứ tự để các ngài lần lượt ngồi vào, sau đó bầy lên đủ thứ gà vịt thịt cá, vật tế bằng lợn bằng cừu để cúng thỉnh tổ tiên về cùng hâm hưởng, để năm tới sẽ ban phúc cho họ nhiều hơn. Mọi thứ sắp sửa đâu vào đấy rồi, Hách Trọng Tường thắp đèn lồng lên, mở cửa ra phố, gọi là đi “đón thần”. Chắc rằng trước đó, thần linh của các bậc tổ tiên đều còn đang bay vơ vẩn trên không, chỉ có đến lúc này mới theo chân của hiếu tử, hiếu tôn để về đây ngồi vào giữa nhà này hưởng những đồ tế lễ của cháu con. Cửa lớn của Hách phủ rộng mở, Hách Trọng Tường dẫn ba người con trai nâng cao đèn lồng cùng bước vào trong sân rồi thắp hương – chuốc rượu – đọc văn tế – lễ tạ v.v… mời các vị thần về phủ để hâm hưởng. Nghi thức vừa xong, Hách Trọng Tường bò dậy, trong mung lung thấy bên ngoài https://thuviensach.vn cổng có một chàng trai đang đứng, trên mình giáp mãng chỉnh tề như một vị tướng sắp sửa ra trận. – Này! Kế Nghiệp đấy phải không? Đã về ăn Tết, sao không vào nhà? – Hách Trọng Tường rất lấy làm lạ hỏi. Vị tướng trẻ mình đầy giáp mãng có vẻ như rất sợ người, nghe thấy hỏi, co giò định chạy. Muốn chạy nhưng lại bịn rịn không nỡ đi, cho nên động tác mới chậm chạp lại thế. Hách Trọng Tường đang nhẩm tính trong bụng, không biết đây là người hay ma. Giả sử như đây là Kế Nghiệp, thì nó lấy đâu ra mũ đỏ giáp vàng? Nếu không phải, thì tại sao lại giống Kế Nghiệp như đúc vậy? Vừa nghĩ thế, hắn vừa nhào lên phía trước định tóm người ấy lại xem rốt cuộc là cái gì, thế nhưng lại chỉ túm được cái vạt áo. Theo đà, vị “tướng quân” ấy giằng ra, “soạt” một tiếng, vạt áo bào rách, “tướng quân” chạy thoát, không thấy bóng dáng đâu nữa. Hách Trọng Tường vội vàng về nhà, dưới ánh sáng của ngọn nếp chập chờn, vạt áo bào trong tay lại là những mảnh lá xâu lại với nhau, bất giác hắn rú lên, ngã kềnh ra đất, hôn mê bất tỉnh nhân sự!… https://thuviensach.vn CHƯƠNG IV CĂNG THẲNG CHA CON – ÔNG CHÁU ĐI DẠO Hách Trọng Tường sợ hãi quá nên mới ngất đi như thế. Thời bấy giờ, người sống thì mặc vải mặc lụa, chỉ có chết đi làm ma thì mới mặc lá cây, khoác vỏ cây, hơn nữa, người sống mà gặp ma như thế, tức là không sống ở trên đời lâu nữa. Khỏi phải nói, cái Tết năm ấy, nhà họ Hách đâm ra phải ăn Tết trong tiếng khóc than lo buồn, Hách Trọng Tường lúc thì tỉnh, lúc thì mê, lúc tỉnh thì sắp xếp việc ma chay hậu sự, khi mê thì lảm nhảm luôn mồm, chưa hết tháng giêng đã về chầu tiên tổ. Ngày rằm tháng chạp trước Tết, một buổi chiều, gió đông bắc rít từng cơn, tuyết bay đầy trời, một mình Điền Vũ đang luyện kiếm ở một rừng cây bên bờ sông Tri Thuỷ, bỗng thấy một bóng người từ trong lùm cây nhảy ra, chạy về phía bờ đê. Bốn bề mênh mang, tuyết trắng như bạc, vạn vật đều chìm trong tuyết chim thú cũng mất tăm, con người ấy tại sao lại náu mình trong lùm cây? Và hắn chạy ra bờ đê làm gì? Điền Vũ dự cảm thấy một việc chẳng lành xảy ra, nên xách kiếm bám theo sau người ấy. Đứng trên bờ đê ở trước mặt Điền Vũ lúc ấy, là một cậu bé đang ở tuổi vị thành niên, nhìn cái đầu cậu ta, Điền Vũ đoán cũng chỉ tầm trạc tuổi mình. Do địa hình và thế nước, phía chân đê là một đầm nước sâu, vào tháng chạp giữa mùa đông, nước ở đầm vẫn đen ngòm và từ từ cuộn chảy, sâu đến lạnh người. Chàng thiếu niên đứng ở trên đê, nhìn đầm nước như một chậu máu ngoác ra, mà kể lể, mà kêu khóc: – Người ta cứ bảo:”trời không bịt hết đường sống, nơi tối tăm nhất vẫn có thể tìm ra ánh sáng” thế nhưng trời ơi đường sống ở đâu? Ánh sáng ở đâu? Toàn là những câu lừa bịp… Mẹ đáng thương ơi, mẹ ở đâu, hãy để cho con theo với… https://thuviensach.vn Chàng thiếu niên nói xong, định lao đầu xuống nước. Điền Vũ nhanh mắt nhanh tay, người tập võ bao giờ phản xạ cũng nhanh, cậu nhảy bắn tới, đưa tay túm lấy người vừa định nhảy xuống nước. Chàng thiếu niên chán đời ấy chính là Kế Nghiệp, theo đề nghị của Điền Vũ, cậu đã nức nở nghẹn ngào kể lại hết mọi chuyện khúc nhôi về cảnh ngộ của mình. Hôm qua, đói quá không chịu nổi, cậu đã ăn vụng thức ăn của nhà chủ giành cho chó, sau khi chủ nhà bắt được đã đánh cậu một trận tả tơi rồi đuổi ra khỏi nhà, tiền công nửa năm trời đi ở, ông chú Hách Trọng Tương chưa đến tính toán, nhà chủ tất sẽ lấy cớ cậu ăn vụng, không trả xu nào, như vậy thì ông chú cũng không đời nào tha tội. Cậu không dám chạy theo người chú vốn coi của trọng hơn người là Hách Trọng Tường nữa. Bây giờ năm hết tết đến. rồi, Kế Nghiệp thấy đã hết đường, muốn về nhà cũng không có nhà mà về, đành định nhảy xuống sông xuống đầm để chấm dứt cuộc đời non trẻ của mình… Không biết họ đã đứng thế bao nhiêu lâu, gió vẫn cứ thổi, tuyết vẫn cứ rơi, tuy màn đêm đông sắp buông xuống, nhưng vì trời đất mênh mang, đâu đâu cũng toàn là tuyết trắng, thêm vào đó trên những đám mây, âm u kia là một vầng trăng treo lơ lửng cho thêm cảnh đêm lại được tăng thêm một chút ánh sáng, màu trắng của tuyết phản chiếu ánh trăng soi sáng khắp mọi nơi. Hai chàng thiếu niên không biết tự lúc nào đã ngồi bên nhau thổ lộ với nhau những điều cay đắng. Đột nhiên, Kế Nghiệp phát hiện ra thanh kiếm lấp loáng sáng mà Điền Vũ đang đeo bên mình; bỗng nhoài người sang, đưa tay định rút lấy. Thuận đà, Điền Vũ đã tóm chặt được cổ tay Kế Nghiệp hỏi: – Làm cái gì thế? Kế Nghiệp nài nỉ: – Hãy cho tôi mượn thanh kiếm này, để tôi đi giết Hách Trọng Tường, người đã chiếm đoạt tài sản và còn làm hại mẹ tôi đến chết kia đi! Điền Vũ tủm tỉm cười nói: https://thuviensach.vn – Giết người hà tất cứ phải dùng kiếm, Hách Trọng Tường đã làm cho mẹ cậu phải chết, có phải là cũng chẳng cần dùng binh đao gì đúng không? Tại sao không dùng cách ấy để trị lại chính hắn?… Điền Vũ nói xong, tiếp tục cười hì hì thành tiếng, rất tự nhiên thoải mái và đầy vẻ tự tin. Cười chán rồi, Điền Vũ mới quay ra bày cho Kế Nghiệp ngón trò giết người không dao. Những việc mà Điền Vũ đã làm ở bên người đã nhanh chóng đồn đến tai Phạm Ngọc Lan. Người ta đều kể lại nhưng sự việc, những câu chuyện xúc động ấy với Ngọc Lan với vẻ mặt và lời lẽ ca ngợi, đồng tình. Nghe những lời ca trọng và khen ngợi đó, trong lòng Phạm Ngọc Lan rất khó tả, không biết là vui vẻ hay buồn lo, bởi vì cứ thế này mãi, rất dễ dẫn đến tai ương rồi đi đến chỗ thiệt thân và mang tiếng xấu, thậm chí còn mang hoạ cho cả họ Điền. Càng nghĩ đến những nỗi sau này, Phạm Ngọc Lan càng tỏ ra lo sợ và quyết định sẽ ngăn chặn bớt những hành vi ấy của con mình, để làm sao nó có thể đem sự thông minh tài trí của mình dùng vào việc học hành và luyện võ, đặng sau này cũng như lớp cha anh của mình, văn thì có thể an bang, võ cũng có thể định quốc, để tiếng thơm trong sử xanh. Nhưng ngặt mỗi nỗi không biết phải bắt tay từ đâu, cho nên Phạm Ngọc Lan suốt ngày rầu rĩ, ăn không biết ngon, đêm đêm nằm ngủ không yên. Đúng lúc ấy Điền Bằng về nhà. Không phải ông về thăm nhà hoặc nghỉ ngơi, mà là về để dưỡng bệnh, nên sẽ ở nhà một thời gian khá lâu. Triều đình nước Tề cũng đang âm ỉ nguy cơ một cuộc nội loạn, các dòng họ Loan, Cao, Bào v.v… mưu mô lừa đảo, bài xích gạt chân nhau, thâu tóm thế lực kéo bè kéo đảng… Điền Bằng e rằng mình cũng bị cuốn vào những dòng xoáy ấy, nên mượn cớ là dưỡng bệnh, về nhà tạm lánh ít ngày… Chồng đã trở về, Ngọc Lan như trút được gánh nặng trên vai; nàng đẩy hết trách nhiệm trong việc giáo dục và bồi dưỡng cho con về phía Điền Bằng. Là một con người vừa nghiêm khắc vừa cứng nhắc, trước mặt vợ con Điền Bằng càng tỏ ra uy nghiêm và nguyên tắc cứng nhắc không ai được vi phạm. Điền Vũ vốn tính ương bướng giống như một con trâu ngang ngạnh, https://thuviensach.vn giắt không đi, đánh còn lùi trở lại. Do sự khác nhau về tính tình, nên đã báo trước một sự trục trặc tất xảy ra, khi cha con họ Điền chung sống với nhau, thậm chí ở một mức độ nhất định nào đó, còn có thể là sự chống đối nữa! Nghe Ngọc Lan nôi qua về sự trưởng thành của con trai, Điền Bằng thấy mát rượi sung sướng trong lòng, vui đến mức đêm khuya vẫn chưa ngủ được. Con người ta luôn luôn đặt niềm sở cậy vào lớp người sau, mong con khôn lớn lên người, Điền Vũ đã thông minh sáng dạ tháo vát như thế, trong lòng đã thành nếp nghĩ, càng nghĩ càng khôn khéo hơn, mai sau tất sẽ trở thành rường cột. Thấy nhà họ Điền có người thừa kế, càng lớp sau càng giỏi giang hơn, Điền Bằng làm gì mà chả vui mừng sung sướng chứ! Nhưng tình cảm vui mừng sung sướng ấy, ở trước mặt con mình, không bao giờ ông để lộ ra. Ông cũng không bao giờ hé răng nói đến nhưng gì đáng được khẳng định của Điền Vũ, mà chỉ luôn luôn chỉ ra những chỗ còn thiếu sót của cậu, nhấn mạnh những điều răn đe, nêu hậu quả và sự nguy hại đến mức ghê người và đáng sợ. Con người vốn sẵn có lòng tự trọng ở một ý nghĩa nào đó, lòng tự trọng của con trẻ còn lớn hơn mạnh hơn của người lớn, thuần chất hơn và trong sáng hơn nhiều. Ngay ở buổi trò chuyện và gặp gỡ đầu tiên, giữa hai cha con, Điền Bằng đã làm thương tổn đến tình cảm ấy. Từ trong cõi sâu thẳm của tấm lòng ngây thơ của Điền Vũ, những hạt giống của sự chống đối đã được gieo xuống! Điền Vũ thôi không đi học trường công nữa, mà ở nhà để cha tự dạy. Người xưa đã bảo “quân tử không dạy con”, bởi vì ở cái thế rất khó xử. Giáo dục thì phải dùng lý lẽ đúng đắn, cha mà dạy con, khi dùng lý lẽ đúng đắn không được, tất nhiên là sẽ nổi lôi đình. Khi đã bực bội lên như thế tất sẽ thương tổn đến tình cha con, thế nào người con cũng bực bội nói ngầm trong bụng: “Ông lấy lý lẽ đúng đắn để dạy tôi, thế nhưng bản thân ông lại không làm theo lý lẽ đó!…” Giữa người với người, sợ nhất là tình cảm bị sứt mẻ, giữa cha con lại càng như thế, cho nên người xưa mới phải “đổi con mà dạy”, để làm cho hai cha con không đến mức chỉ muốn tốt mà đâm ra trách móc nhau. Chính Điền Bằng đẽ đi ngược lại nguyên tắc giáo dục ấy, bởi ông cứ đinh ninh rằng: Tự mình dạy con mình thì sẽ nghiêm khắc hơn, https://thuviensach.vn đáng tin cậy hơn, yên tâm hơn… Nhưng kết quả thường hoàn toàn ngược lại, không những phương hại đến hoà khí giữa cha con mà chút nữa thôi, còn đi đến chỗ sứt mẻ trong tình cảm. Điền Vũ học cứ như một anh chàng ăn khoẻ mà đói bụng, dù cho đầu bếp có mải toát mồ hôi ra, cũng khó mà nhét cho đầy cái bụng đói của cậu; và cũng giống như một cái thùng không đáy, mặc cho ai đó có nhét vào đầy dù là bạc vàng châu báu hay mảnh sành. mảnh gạch, thượng vàng hạ cám nó đều chứa được hết. Cậu rất giống một con tuấn mã, bất kể là chất lên mình có bao nhiều đồ đạc, cũng không đè ngã được. Người cha vừa giảng xong bài, sắp xếp công việc cần cho học tập thoáng một cái, con trai đã hồ hởi chạy ra ngoài đùa nghịch rồi. Những đòi hỏi mà Điền Bằng đưa ra với con mình, cũng giống như ngày xưa ông nội Hoàn Tử Vô Vũ từng đòi hỏi chính bản thân ông vậy, suốt ngày ngồi trong phòng học, ngắc ngư cái đầu mà ra rả kêu “chi hồ giả dã”. Từ trong đáy lòng, ông cảm động trước sự giáo dục và bồi dưỡng của ông nội mình: Nếu không có sự trừng phạt nghiêm ngặt ngày nào của ông nội, thì ông làm gì có được tri thức và học vấn như lúc này. Điền Vũ ngược lại giống y như một con ngựa bất kham, ở trong phòng học rất ít khi thấy bóng cậu ta. Khi người hầu đi tìm được cậu về, kiểm tra việc học hành, thì cậu lại luôn luôn đọc vanh vách ra trơn như cháo, trả lời câu hỏi cũng luôn luôn trôi chảy, làm Điền Bằng bỗng như một quả bóng xì hơi, trong nháy mắt đã quên hết bực bội, lại bắt đầu giảng sang bài mới, tăng thêm nhiều cho gánh nặng của cậu. Một đứa trẻ mười mấy tuổi, phần lớn là tinh nghịch, hiếu kỳ, ham chơi, ý chí lỏng lẻo, khả năng tự kiềm chế tương đối kém, thì Điền Vũ cũng không phải là ngoại lệ, nên cậu thường quên nhiệm vụ học tập mà cha mình đã sắp đặt. Mỗi khi như thế, cậu thường bị phạt rất nghiêm. Điền Bằng thường phạt con bằng hai cách, một là quỳ lên ghế, một cách nữa là dùng thước đánh vào lòng bàn tay. Trong phòng học, Điền Vũ quỳ trên chiếc ghế băng hai người ngồi, vì cậu không học thuộc bài mà người cha đã sắp đặt cho. Điền Bằng bắt con quỳ trên ghế mà nghĩ, cho đến lúc nào nghĩ ra mới thôi. Điền Vũ không https://thuviensach.vn phải vì đọc không thuộc mà quên, cậu thường đọc qua một lượt, nắm được nội dung là mãi không bao giờ quên. Nhưng lúc này vì quá mải chơi, nên cậu chưa học qua một lượt, giờ thì lấy đâu ra mà nhớ lại? Cậu quỳ ở đấy, nước mắt ròng ròng như hai dòng suối, thánh thót nhỏ xuống không ngừng. Cậu quỳ đến đau đầu gối, đến tê dại, quỳ đến sưng lên, đến nứt ra, giữa mùa hè, từng giọt máu tươi thấm ướt cả vạt áo. Người cha hoặc là giận dữ hằm hằm ngồi ở trước mặt yên lặng để xem con trai nhớ ra như thế nào, hoặc chắp tay sau lưng, đi đi lại lại trong phòng, gót chân nện xuống đất nặng nề, cong cóc kêu lên thành tiếng, để chờ cho cậu con nhớ ra, hoặc bỏ mặc đấy, ra bàn đọc sách đề cho cậu dần dần nhớ lại. Kỳ thực những lúc thế này, đầu óc của Điền Vũ như một cánh cửa đã khép chặt, cậu chẳng cân nhắc gì, chẳng nghĩ đến một cái gì hết, để mặc cho người cha giận dữ giày vò, bắt quỳ lâu quá, đến mức bỗng trượt từ trên ghế xuống đất. Ngọc Lan với bà mẹ chồng đứng ở ngoài cửa, nước mắt lưng tròng, ruột đau như thắt, nhưng họ cũng không dám vào để mang Điền Vũ ra ngoài, bởi họ là đàn bà. Cũng là đàn bà, thế nhưng bà nội của Điền Bằng thì lại khác. Trong Điền phủ, bà. có uy quyền cao hơn ai hết, Điền Thư cũng còn phải tỏ ra hết mực cung kính với mẹ già của mình. Sau khi cụ cố biết tin, gậy đầu rồng gõ cồng cộc lên nền đất, cụ đến trước cửa gian phòng học, đẩy đánh “uỳnh” một nhát cho cửa bật ra, trừng mắt nhìn Điền Bằng một cái, có lúc còn đưa gậy chỉ lên tận đầu ông ta, không nói không rằng, đỡ Điền Vũ từ trên ghế đứng xuống đất, rồi dắt ra ngoài. Chỉ có cụ nội là mới giải được vây trong trường hợp này, cụ nội là đại cứu tinh của Điền Vũ. Dần dần Phạm Ngọc Lan và bà mẹ chồng cũng rút ra kinh nghiêm, mỗi khi thấy Điền Vũ phải quỳ trên ghế, bèn đi bẩm báo với bà nội chồng. Bà cụ mà đến, là mọi sự đâu vào đấy hết ngay, trong lòng Điền Bằng dù có bực bội đến mấy đi nữa, cũng không dám làm gì. Dần dần, Điền Vũ đã nghiệm ra một quy luật, phải quỳ trên ghế cũng chẳng có gì đáng sợ, cứ quỳ một hồi rồi sẽ có cứu tinh từ trên trời xuống. Từ đó, cậu không còn coi bài vở mà cha của mình sắp đặt cho là cái gì nữa, quên mất không nói làm gì, còn không quên cũng không học đến nơi đến chốn. Cha con xung khắc với nhau, lời qua tiếng lại với nhau, khiến Điền Bằng tức giận đến trợn tròn cả mắt lên. https://thuviensach.vn Nỗi đau khi bị thước kẻ đánh vào lòng bàn tay cũng chẳng kém gì phải quỳ trên ghế băng, vì có lúc bàn tay bi đánh sưng vù lên như một cái chân giò. Đương nhiên những bề trên có kinh nghiệm thì không bao giờ đánh vào bàn tay phải, vì chẳng may nếu bàn tay phải mà sưng lên thì không thể cầm bút viết chữ được và cũng không cầm được đũa ăn cơm. Làm cha mà giày vò tàn khốc con mình như thế, chẳng lẽ ông không đau lòng hay sao? Nghe đâu, đấy mới chính là sự thể hiện của lòng yêu, lý luận của trường phái này là “yêu cho vọt ghét cho chơi”, “yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”, hoặc là bảo “ghét sắt thì không thành thép” cho nên mới phải cho vào lửa, phải nấu luyện. Những người ấy còn có cả những lời di huấn của tổ tiên, nào là “nuôi không dạy, sai ở cha; dạy không nghiêm, do thầy nhác”. Ở đây Điền Bằng vừa là cha, lại vừa là thầy, với Điền Vũ đương nhiên là phải dạy cho nghiêm, phải rèn cho thành thép. Dưới sự chỉ đạo của những lý luận đó, Điền Bằng có phạt roi con trai cũng chẳng qua là bột phát từ lòng yêu con, nên có thể dằn lòng được. Sức mê hoặc vào lý luận của trường phái này rất mạnh, tuổi thọ của nó cũng khá dài, cho đến tận hai ngàn năm trăm năm sau cũng còn có rất nhiều bậc làm cha làm mẹ, làm phụ huynh vẫn dốc lòng tin. Tuy nhiên, con người suy cho cùng không phải là gang thép, mà con người là một động vật có cảm tình. Kết quả rèn luyện kiểu ấy của Điền Bằng, thực sự đã biến tình cha con và lòng yêu nhân luân thành gang thành thép lạnh tanh, thành một thế lực chống đối. Nên bất kể là cha mình đánh thế nào, Điền Vũ cũng không rụt tay lại nữa, cũng chẳng xin tha, mà chỉ nghiến răng lại và im lặng khóc thầm, trong lòng bỗng cháy lên ngọn lửa chống đối, dồn nén sức mạnh trả đũa. Một hôm, do Điền Vũ không trả lời được câu hỏi của cha mình đặt ra nên phải phạt đòn. Người cha cầm lấy thước, Điền Vũ chủ động chìa bàn tay trái ra, ngửa tay lên đón đợi cây thước đánh xuống. Khác với những học trò khác khi bị đòn, nói chung khi thấy ông thầy cầm cây thước giơ lên, học trò thường rụt tay ra phía sau, ông thầy thấy vậy càng tức nên càng đánh dữ hơn. Điền Vũ thì không thế, cậu chủ động chìa tay ra, sân sàng nhận hình phạt của thầy giáo, hoá ra lại thường thức dậy lòng thương hại của thầy, https://thuviensach.vn nên có khi lại đánh nhẹ tay hơn. Điền Bằng cũng khác với thầy giáo khác, bởi vì ngoài ông thầy, ông còn là một người cha, thấy con trai chủ động chìa tay ra, thì nỗi tức giận không chỉ là một phía, và thế là nghiêm trị không tha. Hôm nay lại có điều hơi khác thường, bởi gần đây thấy con ôm đau luôn, sức khoẻ không được tốt lắm, câu hỏi ông nêu ra cũng hơi khó làm cậu chưa trả lời được ngay, nên ông thấy có thể tha thứ được. Thế nên tuy giơ thước nên rõ cao, nhưng khi vụt xuống, ông không dùng sức bao nhiêu, thế mà khi cây thước vừa chạm vào lòng bàn tay, liền rời ra rơi tứ tung, vỡ vụn làm nhiều mảnh. Điều đó khiến Điền Bằng băn khoăn không hiểu tại sao, còn cậu con trai thì hiểu rất rõ, cậu đang thầm chúc mừng cho thắng lợi của mình. Cụ cố nghe tin lật đật chạy tới, không cần hỏi đầu đuôi xuôi ngược ra sao, vung cây gậy đầu rồng lên phang lia lịa vào Điền Bằng. Không dám chống lại, cũng không dám chạy đi, Điền Bằng chỉ cố đưa tay đỡ và xin bà bớt giận. Cụ cố vừa đánh vừa mắng: – Tao đánh cho chết cái quân súc vật này đi! Hổ dữ còn không nỡ ăn con, thế mà mày lại nỡ ra tay độc ác với con mày như thế!… Sau khi mắng mỏ một hồi như thế, cụ cố dắt tay Điền Vũ bước ra. Được mấy bước còn hậm hực quay lại nói: – Chưa hết chuyện đâu! Thằng bé mà có làm sao thì để xem tao tính chuyện với mày thế nào, nhé!… Cây thước làm bằng gỗ, làm sao lại có thể vỡ vụn ra như thế được? Thì ra hàng ngày ra nhà xí, Điền Vũ thấy vữa với gạch bị tróc ra từng mảng, tuy không biết được tại sao như thế, nhưng cậu ý thức được rằng: Phân người là thứ rất ghê gớm. Phân làm cho gạch ngói còn phải hỏng, thế thì, cây thước làm bằng gỗ đối với thứ đó là cái gì, thế là hàng ngày cậu lén lấy cây thước mà cha mình vẫn dùng để đánh mình ra ngâm vào nước phân. Quả nhiên không ngoài dự đoán, sau một số ngày tháng làm như thế, nó mới biến thành một thứ bở như vôi, không chịu nổi một nhát vụt như thế. https://thuviensach.vn Sức mạnh của phong tục cũng không phải là nhỏ bởi thế cũng là thứ rất đáng sợ. Ngay cả những nơi danh môn lệnh tộc như Điền phủ đây cũng không ở ngoài sự ràng buộc đó, nhà xí vẫn xây lộ thiên. Ở vào thời xa xưa, khi chưa có nước để xối rửa, thì thực tế là rất khoa học rất vệ sinh, tuy không tránh khỏi nỗi khổ những khi mưa gió, nhưng mùa hè đỡ phải chịu mùi hôi thối xông lên. Nhà xí thuộc khu nhà ở của Điền Bằng tương đối rộng, đến mùa xuân, trên cành còn nở đầy hoa, toả mùi hương thơm ngát. Hố phân, hoa đào, ấy thế mà lại gây nên hứng thú! Thời gian cứ trôi đi, hoa đào trên cành tàn tạ hết, nhưng ở phía gốc cây, lại mọc lên một nhánh chồi cây. Đến khi Điền Bằng về tới nhà, chồi cây ấy đã lớn bằng ngón tay cái rồi. Điền Bằng chinh chiến nơi xa trường, phần lưng từng đã bị thương nặng, đứng ngồi không được thoải mái lắm, khi ra hố xí hoặc ngồi xuống hay muốn đứng lên, thường quen vịn vào cành đào mới mọc thêm này. Hôm ấy, ông lại ra nhà xí, bám vào cành đào ấy, đang định ngồi xuống, cái cành cây ấy bỗng gãy rời ra, Điền Bằng ngửa người rơi xuống hố phân. Cũng còn may hố phân vừa mới dọn xong, ở dưới có lót một lớp đất mùn, nên ông vừa không bị rơi ngập trong nước phân, mà cũng không đến nỗi bị ngã đau, nếu không, hậu quả của nó không biết còn bi đát đến đâu. Mặc dù vậy, vì kinh hãi, Điền Bằng đã ốm mất mấy ngày. Biết con không ai bằng mẹ, Phạm Ngọc Lan ngầm hiểu trong lòng đây là cái trò quỉ quái mà Điền Vũ bầy ra để trả thù vặt với cha mình, thế nhưng bà không dám nói với chồng sợ sẽ làm cho ông bực mình và đưa đến sự xung độ lớn hơn giữa hai cha con. Phạm Ngọc Lan từng mong ngày mong đêm cho chồng sớm trở về để cùng với mình quản lý và giáo dục con. Nào ngờ mới về đến nơi, cha con bỗng thành thù địch, và cứ thế này mãi thì sao được rồi chẳng hoá ra sẽ đi đến chỗ bên sứt đầu, bên mẻ trán hay sao. Càng nghĩ đến nông nỗi sau này, bà càng thấy sợ và bất giác rơi lệ khóc thầm. Cũng may là thôn Điền Ban ở gần kề ngay Lâm Tri nên thường có những người phu trạm đi đi về về. Khi nghe tin bố chồng vừa ở chiến trường chiến thắng trở về, Phạm Ngọc Lan liền nhờ người đưa thư mời ông về nhà ngay. https://thuviensach.vn Điền Thư về đến nhà, nghe con dâu Phạm Ngọc Lan kể lại từng vụ việc về xung đột xảy ra giữa hai cha con Điền Vũ, ông không hề trách cháu mình, mà đã răn dạy con mình một trận đến nơi đến chốn. Điền Bằng ngã ở hố xí, quả đúng là do con trai bày trò ngỗ ngược gây nên, cả quá trình đó lại chính ở mồm Điền Vũ tự nói ra với ông nội mình. Qua quan sát lâu ngày, Điền Vũ đã nắm được quy luật và thói quen của cha mình khi đi đại tiện, cậu đã lấy dao cắt tiện vòng quanh cành đào mà cha mình hay vịn khi ngồi xuống đứng lên; khiến cho nó gần đứt hẳn ra, để khi ông dùng sức bíu vào đấy, cành đào sẽ tự nhiên gãy ra làm ông mất đà ngã ngửa. Còn như việc lại sắp đặt để xảy ra ở hố phân mới hót là chẳng qua làm con cũng chỉ muốn báo thù vặt để nhắc nhở ông một chút, cho ông thấy một bài học vậy thôi, chứ không hề muốn đẩy ông đến chỗ chết. Nghe Điền Vũ kể lại mọi chuyện có ngành có ngọn như thế, Điền Thư chẳng những không hề nổi nóng, ngược lại còn ngửa mặt cả cười, bởi thực chất đây là một trận đánh bằng mưu lược rất đặc sắc và khéo léo. Ngày thứ ba sau khi Điền Thư về nhà, đã cử hành một buổi lễ tế tổ rất to và long trọng, khi mọi thủ tục thắp hương, chuốc rượu, hành lễ, đọc chúc v.v… đều đã xong xuôi, mọi người lần lượt ra về, trong gia miếu lúc này chỉ còn lại hai ông cháu là Điền Thư và Điền Vũ. Trước những thứ như tộc phả, thần chủ, bài vị, tế khí v.v… Bầy chật trong gian miếu, Điền Thư đã kể cho đứa cháu nội yêu quý của mình về gia sử dài dòng của tiên tổ mấy đời của họ Điền. Trần Lịch Công tên là Tha, là con út của Trần Văn Công, mẹ ông là Thái Thị. Văn Công chết, con trai cả là Bào được lên ngôi, đó là Hoàn Công. Hoàn Công với Tha khác mẹ, thời gian ở ngôi rất ngắn, bỗng mắc bệnh nặng. Người của Thái giết Hoàn Công và thái tử Miễn, lập Tha, đó chính là Trần Lịch Công. Lịch Công có phu nhân là Thái Thị, sinh con trai tên là Hoàn. Con thứ của Hoàn Công là Lâm, oán hận Lịch Công đã giết cha anh mình, bèn mua chuộc người của Thái dụ Lịch Công mà giết đi. Lâm tự lên ngôi, tức là Tráng Công, cho nên Trần Hoàn không được lập, làm Trần đại phu. Tráng Công chết, lập em là Chử Cữu lên ngôi, đó là Tuyên Công. Năm https://thuviensach.vn Tuyên Công thứ hai mươi mốt, giết Thái tử của mình là Ngư Khấu. Trần Hoàn với Ngư Khấu thân nhau như một người, e luỵ đến thân, bèn trốn sang Tề. Thấy Trần Hoàn dáng vẻ bệ vệ, nói năng khác thường xem ra rất có tài chọc trời quấy nước, cho nên Tề Hoàn Công muốn phong cho làm khanh. Trần Hoàn nghĩ rằng, ở xa Tổ quốc, lưu vong ở nước người, chẳng có công lao gì, nếu ở địa vị cao, tất sẽ bị quần thần đố kỵ. Quần thần mà đố kỵ tất sẽ luỵ đến thân cho nên đã khăng khăng không nhận, mà nói: “Thần ăn đậu ở nhờ, may mà không chết, đã mang ơn vua lắm rồi, không dám ở ngôi cao” đưa đẩy mấy lần, không còn cách nào, Hoàn Công sai làm công chính, công chính là người đứng đầu trăm nghề. Đó là chuyện từ năm Tề Hoàn Công thứ mười bốn, Ý Trọng của nước Tề đem con gả cho Trần Hoàn làm vợ. Sau khi chạy sang Tề, Trần Hoàn không muốn gọi bằng tên cũ ở nước mình, thế là đổi Quỳ Tự thành họ Điền, sau khi chết được truy phong là Kính Trọng. Một vương tộc của nước Trần được sinh sôi nảy nở ở nước Tề như thế đó: Từ Trần Hoàn, đến Trĩ Mạnh Di, đến Dẫn Mạnh Trang, đến Văn Tử Tu Vô, đến Hoàn Tử Vô Vũ. Vô Vũ sinh được ba người con: Con trưởng là Vũ Tử Khai; con thứ là Li Tử Ngật, con thứ ba là Điền Thư, tự Tử Chiếm. Điền Hoàn Tử Vô Vũ có sức khoẻ vật được hổ theo Tề Trang Công, rất được sủng ái. Thời Cảnh Công mới lên ngôi, bốn nhà đại quý tộc là Cao Đường, Loan Thi, Điền Vô Vũ, Bào Quốc nắm hết triều chính. Bốn dòng họ ấy chia làm hai phái, hai nhà Loan, Cao thân nhau; hai nhà Điền, Bào thân với nhau, hai bên xâm lăng nhau, loại trừ nhau, đối lập nhau như nước lửa. Bỗng một hôm, họ Điền và họ Bào liên quân đánh họ Loan và họ Cao. Vì họ Loan họ Cao không có sự đề phòng, bị thua phải chạy sang Lỗ. Điền, Bào đuổi vợ hai nhà kia đi, tịch thu toàn bộ thực ấp và gia tài của họ, đăng ký lập sổ sách, rồi dâng lên Cảnh Công, Cảnh Công mừng hết chỗ nói. Mẹ của Cảnh Công là Mạnh Cơ, tham lam hám lời, Điền Vô Vũ đã dâng cho bà một số châu báu. Mạnh Cơ rất lấy làm cảm động, nói với Tề Cảnh Công: “Điền Vô Vũ giết hết nhà Đường, mở rộng chấn hưng công thất, công lớn như thế, https://thuviensach.vn sao chẳng lấy đất Cao Cường mà ban cho hắn?”. Theo lệnh mẹ, Tề Cảnh Công đã đem đất Cao Đường phong cho Vô Vũ, họ Điền càng giàu thêm, thế lực càng mạnh hơn… Nghe ông nội giới thiệu và giảng giải như vậy, trong lòng Điền Vũ bỗng thấy có gì xao xuyến, thì ra tổ tiên nhà mình đều là những bậc anh hùng hào kiệt. Là lớp cháu con đời sau của họ, mình cũng phải làm thế nào tự vươn lên thành tài, mới khỏi phụ lại niềm sở cậy của lớp lớp tổ tiên? Lần đầu tiên cậu nghĩ đến vấn đề này. Đồng thời cậu cũng thầm oán trách cha mẹ mình, tại sao không sớm đưa cậu đến đây để xem như thế này và nói cho cậu nghe thật nhiều về công trạng của tổ tiên như thế?… Hôm sau, Điền Thư đưa cháu đến Mai Cúc trai tham quan nơi tàng thư. Mai Cúc trai là tên thư trai của nhà họ Điền, đại khái lấy ý của bài ngạo tuyết linh sương. Phía trước là một thư phòng quy mô rất lớn, ở đây môi trường yên tĩnh, bày biện đơn sơ và sang trọng, không khí trong lành, ánh sáng đầy đủ, rất thích hợp để xem sách, viết lách về học thuật, trong phòng có bốn năm thanh niên đang bận rộn với công việc, hoặc đọc các thẻ sách, hoặc đang phục xuống bàn viết lách… Thấy Điền Thư tới, mọi người đều dừng công việc đứng dậy chào ông. Điền Thư nói với cháu mình rằng những người này đều thuộc dạng trí thức uyên bác, văn hay chữ tốt, họ đang thực hiện theo ý của ông, biên soạn một cuốn sách mới về mặt quân sự, tên của cuốn sách này còn chưa xác định. Phía sau của thư phòng là căn gác hai tầng, tầng trên tầng dưới xếp đầy những sách, Điền Vũ đi theo ông nội mình để xem, ông còn liên tục chỉ dẫn, giải thích cho cậu. Ở đây có “tam phần”, đó là sách của Phục Hy, Thần Nông, Hoàng đế; có “ngũ điển”, tức là sách của Thiếu Hạo, Chuyên Húc, Cao Tân, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn v.v… có “Bát sách” tức là những sách sớm nhất về bát quái; có “Cửu khưu” tức là sách về đất đai, phong tục tập quán của Cửu Châu; có “Thừa” của nước Tấn, có “Đào ngột” của nước Sở v.v… là sách sử của các nước; lại có “thi” ghi chép về vật, “thời” ghi chép về tuổi tác, có “hành” nói về điều lợi hại của dân; có “bốc” để xem lành dữ; có “thế” ghi chép về các thế hệ tiên vương; có “lệnh” ghi chép vế sự nghiệp của bách quan; có https://thuviensach.vn “ngữ” ghi những điều hay về trị nước; có “cố chí” ghi về những thành bại của người đời trước; có “huấn điển” ghi chép về ngũ đế, có sử sách các triều đại, như “Hạ thư”, “Thương thư”, “Chu thư” v.v…; có “Số” để ghi chép về ý nghĩa của chín con số; có “Hạ thời” ghi chép về bốn mùa ở nhà Hạ; có “Càn khôn” ghi về âm đương thời Ân – Thương; lại có cả “đồ” và “pháp”. Ngoài ra còn có đủ các loại sách và các loại tư liệu văn hiến về đủ mọi mặt như thiên văn, lịch pháp, y dược, nông tang, công nghệ, dân ca, thần thoại v.v… Và có các bản khác của một số sách khác. Nhiều hơn cả là những sách và tư liệu hồ sơ về mặt quân sự, như “Hoàng đế” thập lục biên, “Thần nông binh pháp”, “Lục thao” của Khương Thái Công; những bài về quân sự trong các sách “quân chính”, “quân chí”, “binh lược huấn trong Hoài Nam Tử”, “liệt tử”, “chu dịch”, “chu lễ”, “Thượng thư”, “Thi” v.v… Như các chiến dịch nổi tiếng trong lịch sử các thời đại, Tề Hoàn Công và Quản Trọng, chinh chiến sa trường của tổ tiên họ Điền… Ôi! Có thể nói là một đại quân về sách, một dòng sông lớn về thư tịch, một biển tư liệu. Điền Vũ đang thầm ca cẩm: Sao cha mẹ lẩm cẩm thế, lại cứ lấy ở đây ra từng quyển bắt con đọc, bắt con thuộc lòng, mà không làm như ông nội là đưa con đến đây để mở rộng tầm mắt cho con, cho con được nhìn nhận cuộc đời… Thế rồi cậu lại như hỏi lại chính mình: “Điền Vũ ơi là Điền Vũ! Sách nhiều như thế này, mày đã đọc được mấy quyển? Và có những quyền nào là do mày viết ra?… Cậu ngầm nêu ra quyết tâm: Từ nay về sau sẽ hàng ngày đến đây đọc sách, cho đến bao giờ đọc hết những quyển sách có ở đây mới thôi!… Điền Vũ thấy sách là mê ngay, như một người đói ngồi vào bên mâm cơm, Mai Cúc trai trở thành gia đình duy nhất của cậu, ăn ở đấy, ngủ ở đấy, chân không bước ra ngoài, lòng không nghĩ việc gì khác, cậu gần như một kẻ xuất gia tu hành. Cậu không đến học trường tư ở nhà mình nữa, thày giáo mới được mời đến, phải tới Mai Cúc trai để dạy học, giảng giải và chuẩn bị bài vở, mặc dù bài vở chất thành đống cao như núi, nhưng chỉ trong chốc lát cậu đã làm xong hết một cách dễ dàng để nhảy vào cái biển sách mênh mông kia, bắt đầu bơi lội, vật lộn với sóng gió. Sự ăn uống của https://thuviensach.vn Điền Vũ bắt đầu giảm sút rõ rệt, quầng đen trên hốc mắt cậu cũng sâu thêm, người mỗi ngày một ngày xọp đi tính cách cởi mở sôi nổi cũng dần dần mất đi không còn dấu vết gì, thay vào đó là vẻ mặt tư lự ít vui, ngơ ngơ ngẩn ngẩn. Cha cậu đâm lo lắng, mẹ cậu thì sợ hãi, bà nội thì thở ngắn than dài, cụ cố thì đang trách mắng con trai mình là Điền Thư, một ông già đã bước sang tuổi sáu mươi, thế nhưng Điền Thư vẫn cứ làm như không có gì xảy ra, một mực cười trừ. Ông sớm đã tính toán đâu vào đấy, mùa xuân năm. tới thì sẽ mang theo thằng cháu yêu của mình đi khỏi nhà này. Tháng ba giữa mùa xuân, đào hồng liễu xanh, sẻ bay én liệng, trên giải đất mênh mông của nước Tề là một cảnh tràn trề sức sống, núi đang reo mừng, sông đang ca hát, từng luống đất mỡ màng mới lật lên toả mùi thơm đồng nội đến say lòng người, nông dân đang cầy cấy trên đồng, gieo hạt giống tương lại cho cả một năm. Thời tiết quả là tươi đẹp, không khí cũng vô cùng trong lành, nắng vàng rực rỡ, gió xuân ấm nồng… Cảnh trí thiên nhiên thật là như thơ, như hoạ, khiến người ta ngắm không chán mắt, đẹp chẳng gì sánh bằng, ấy thế mà con người là chúa của muôn loài giữa lúc này lại đang sầu khổ, chẳng hài hoà chút nào và cũng rất không tương xứng với sắc điệu tràn trề ý xuân kia. Giữa vụ cấy trồng mùa xuân, đồng áng không ra chiều bận rộn, đây đó một vài nhóm dăm ba người, lẻ tẻ, rời rạc đi gieo hạt, mà phần lớn là người già, trẻ con và đàn bà, hoạ hoằn lắm, giá có một chàng trai nào xuất hiện thì cũng khiến mọi người đổ dồn mắt vào mà nhìn như một vật lạ ở nơi đây. Con bò già cúp tai gằm đầu xuống nặng nề kéo cái cày phía sau, loạng choạng ì ạch bước đi trên cánh đồng trống mênh mông, cụ già cầm cày đi phía sau lòng nặng trĩu, mặt ủ mày chau loạng choạng bước theo, thỉnh thoảng lại uể oải vung roi giục bò. Tiếng giục cày của con người mang theo niềm bực bội, tiếng roi rít lên như trút nỗi phiền muộn ưu tư, tiếng con bò rống lên nghe ấm ức nghẹn ngào. Đấy là một bức tranh kỳ lạ, nhưng lại không hiếm thấy chút nào – giữa mùa xuân mà mang nét lặng lẽ của mùa thu, tẻ lạnh của mùa đông. Hai ông cháu cùng ngồi chung một cỗ xe, ngựa quen nên để lỏng dây cương, lắc la lắc lư tiến về phía trước, như người đi du xuân, vào hội đạp thanh, nhìn trời ngắm cảnh, https://thuviensach.vn rồi chỉ trỏ, rồi bình phẩm, thật là tự do thoải mái. Tuy nhiên, nhìn thấy cảnh lặng lẽ tẻ lạnh ở trước mặt, Điền Thư bất giác buông một tiếng thở dài. Điền Vũ không hiểu sao, liền hỏi: – Ông ơi! Tại sao ông lại thở dài, chẳng lẽ cảnh mùa xuân thế này mà không đẹp hay sao? – Nắng xuân rực rỡ, sắc xuân say lòng người – Điền Thư đáp – thế nhưng trong lòng người nông dân bị đè nặng tời ngàn cân… – Ngàn cân đó ]à cái gì vậy ông? Điền Vũ đã cắt ngang lời ông nội mình. – Là chiến tranh, là chiến tranh tội ác – Điền Thư căm hờn phẫn uất – chiến tranh cướp đi biết bao nhiêu sinh mạng của thanh niên trai tráng, chiến tranh khiến muôn vạn dân lành cha xa con, vợ xa chồng, cửa tan nhà nát, chiến tranh khiến cho vườn ruộng hoang vu, trăm họ áo không đủ che thân, cơm không ấm bụng, chiến tranh… – Đã thế tại sao ông còn cứ mang quân đi đánh trận, thế chẳng hoá ra là đi làm điều ác nghiệt hay? – Điền Vũ mở to đôi mắt kinh ngạc và ngờ vực. Điền Thư lại thở dài một tiếng, nói: – Cháu còn nhỏ, chưa hiểu được những lý lẽ ở bên trong đó. Thí dụ như có một con sói ác đang nhe nanh múa vuốt vồ vào cháu, thì cháu làm thế nào? Liệu có phải vùng lên mà đánh chết nó đi không? – Đương nhiên là phải đánh chết nó rồi! – Điền Vũ nói thẳng không một chút hàm hồ – mình không đánh chết sói, sói sẽ ăn thịt mình ngay. Điền Thư thở ra một hơi nhẹ nhõm: – Phải rồi! Thế cho nên ông mới phải luôn luôn đem quân đi đánh giặc… Điền Vũ hỏi: – Ông tốt thật đấy! Quanh năm đi xa, chịu đựng vất vả để đánh sói… – Bỗng dưng cậu dừng lại, mặt đờ đẫn nhìn sang ông nội mình, hỏi tiếp – Ông ơi! Có phải nước Tề chúng ta cũng là một con sói dữ, đang đi khắp nơi đe doạ bắt nạt các nước nhỏ yếu khác không ạ? https://thuviensach.vn – Cái đó – Điền Thư bỗng tắc tịt. Lão tướng ở xa trường bị một thằng bé con hỏi cho tịt mít. Một hôm, hai ông cháu họ đến bên bờ Bắc Hải. Đứng trước biển rộng mênh mông không bờ bến, đón những con sóng bạc đầu gầm réo ì ầm, Điền Thư đã nói với cháu về sự bao la của biển, về sự cống hiến của biển, về công lao của biển. Thuyền trên biển như những chiếc gáo dừa, dập dờn ẩn hiện trong sóng gió, hải âu bay giỡn trên đầu sóng, chim én biển xuyên mây bay tít tận từng cao, đi đón lấy tiếng sấm ì ầm ở mãi một phương trơi xa. Tất cả những cảnh vật đó, không cái nào là không gây nên trong lòng Điền Vũ một niềm hứng thú, cậu chỉ chỗ này chỗ khác, luôn mồm hỏi gần rồi lại hỏi xa. Nhân thể đây, ông cũng đã kể cả cho cháu nghe về sự can đảm của những ngư phủ, sự kiên nghị của chim hải âu, sự gian ác của chim én biển. Từ bờ biển trở về, vượt qua bờ cát, xuyên qua rừng cây, trước mặt là đồng muối mênh mông bát ngát, trên đồng muối điểm xuyết những căn lều tranh, như bầu trời trong điểm xuyết những vì sao lấp lánh. Trên mỗi một cái lều tranh đó, đều nhô lên một chiếc ống khói cao cao, cuồn cuộn tuôn ra những làn khói trắng, xung quanh những mái lều tranh ấy thấp thoáng có bóng người ra dáng tất bật và cực nhọc lắm. Trên bãi cát, trong rừng cây hay trên cánh đồng muối mênh mông, từng toán dăm ba người, đàn ông cũng có, đàn bà cũng có đi lại như mắc cửi, da họ đen bóng, áo quần lam lũ lôi thôi, đầu đội nón mê vai gánh một đôi thùng gỗ, trong thùng sóng sánh đầy nước biển. Ông nội bảo với Điền Vũ rằng đó là những người thợ làm muối, họ đang miệt mài gánh nước biển về để lo nấu muối. Giàu về nguồn lợi muối và cá, là đặc điểm của kinh tế nước Tề, và cũng là một nguyên nhân quan trong khiến nước Tề giàu mạnh. Đi chơi trở về, trong đầu óc của Điền Vũ luôn luôn trào lên những lớp sóng, và sống động mãi hình ảnh những người dân cùng khổ miệt mài cày bừa hay cặm cụi gánh từng gánh nước biển lên để nấu muối. Cậu không chỉ một lần mơ mấy mình ngồi trên một chiếc thuyền con, cưỡi lên sóng gió lướt ra hiển lớn để tới bến bờ bên kia, hoặc có lúc thì biến thành một con hải âu, sải cánh bay lượn trên mặt biển mênh mông và xanh như ngọc bích, https://thuviensach.vn vui sướng làm sao, tự do thoải mái làm sao, có lúc cậu cười lên thành tiếng và tỉnh giấc. Gió xuân nhè nhẹ, nắng xuân dịu đàng, dương khí bốc lên, cho nên về mùa xuân là dễ buồn ngủ nhất, chẳng thế mà có nhà thơ đã nói “giấc xuân quên thức dậy”, ấy thế mà có một đêm xuân năm 531 trước công nguyên, Điền Vũ cứ trằn trọc mãi, sung sướng đến nỗi không sao chợp mắt nổi, bởi vì ngày hôm sau, ông nội sẽ dẫn cậu đi thăm kinh thành Lâm Tri. Thôn Điền Ban cách Lâm Tri chỉ khoảng hơn bốn mươi dặm, nhà họ Điền lại mấy đời làm quan trong triều đình nước Tề, hiện nay ông và cha của Điền Vũ xem ra được vua nước Tề nể vì là nhân vật quyết định đến vận mệnh của nước Tề. Thế nhưng vì họ Điền mấy đời nay làm quan thanh liêm, gia quyến luôn luôn ở xa kinh đô. Điền Vũ đã mười mấy tuổi rồi, thế mà vẫn còn chưa đến Lâm Tri bao giờ. Mặc Dù chưa từng đến đó, nhưng cậu đã đọc qua trong sách, cha và ông cũng từng kể nhiều, khách khứa qua lại cũng luôn luôn nói đến. Thuỷ tổ của nước Tề là Khương Thượng, ở thời Ân Thương, họ Khương là một dòng họ thuộc danh môn họ tộc, tổ tiên của họ từng làm quan ở đất Lã,[5]các đời sau mới lấy tên của đất được phong này làm họ của mình, cho nên còn gọi là Lã Thượng. Khương Thượng là thủ lĩnh của tộc người Khương khoảng giữa thời thương Chu, Chu Văn Vương đi cầu hiền nên mới gặp, vô cùng sung sướng, tôn ông lên bậc thầy gọi là Thương Phụ. Bởi vì Khương Thượng đã từng là con người ông mình là Văn Vương trước đây từng đêm ngày mong ngóng, dần dần lại tôn ông lên là Thái Công Vọng, trong sử gọi là Khương Thái Công. Vũ Vương phạt Trụ, Khương Thượng làm quân sư, vất vả mà có công lớn. Họ Khương cùng với Cơ thị và gia tộc nhà Chu còn có mối nhân duyên hữu hảo, sau khi nhà Chu diệt nhà Thương, mới đem Khương Thượng phong cho Tề, xây dựng lên nước Tề. Những năm năm mươi của thế kỷ thứ chín trước CN, đời vua thứ ba của họ Khương là Tề trước hết đã sát nhập các nước nhỏ xung quanh cho nên đất nước mới dần dần mạnh mẽ lên. Năm 678 trước CN, Hoàn công xưng bá, ép nhà Chu theo lệnh chư hầu, thành địa vị đứng đầu trong ngũ bá. Năm https://thuviensach.vn 567 trước CN, sau khi Linh công diệt nước Lai, cương vực của đất nước mở rộng đến tận biển Đông, trở thành những lớn thứ nhất ở phương Đông, Lâm Tri là kinh thành phồn hoa nổi tiếng trong các nước. Phía nam hình thành núi non nhấp nhô nối liền thành từng dãy như Ngưu Sơn, Tắc. Sơn, Bác Sơn với con suối nổi tiếng là “Thiên Tề Uyên”. Phía đông và phía bắc đồng rộng bao la, đất đai màu mỡ, sản xuất nhiều ngũ cốc, cách Bột Hải chỉ chừng trên trăm dặm, có nguồn lợi dồi dào về cá và muối. Phía tây dựa vào sông Hồ Thuỷ (hay còn gọi là Nê Hà). Phía đông sát giải Tri Hà, cũng vì ở sát Tri Hà, nên. kinh thành mới có tên là Lâm Tri. Điền Vũ đã theo ông đến thăm Lâm Tri. Ôi! Thật là đẹp, thành phố lớn với thành phố nhỏ lồng vào nhau, thành phố lớn là thành quách nơi quan lại, bình dân và những người buôn bán ở, còn thành phố nhỏ là cung thành, là nơi ở và lo liệu các công việc chính trị của vua chúa. Ông nội đã nói cho Điền Vũ biết thành lớn từ nam đến bắc dài chín dặm, từ đông sang tây rộng bảy dặm; thành nhỏ từ nam sang bắc hơn bốn dặm, đông sang tây gần ba dặm, chu vi cả hai thành bơn mươi ba dặm, tổng diện tích sáu mươi dặm quy vuông. Trong thành nhỏ cung điện nguy nga, nối nhau như bát úp, thành hàng thành lối, màu sắc huy hoàng; thành lớn thì đường ngang phố dọc như bàn cờ, ngang bằng sổ thẳng, rộng rãi sạch sẽ, hai bên đường hàng quán san sát, trong cửa hàng, cửa hiệu hàng hoá muôn sắc muôn màu. Trên những phố dài; ngựa xe như mắc cửi, người đi kẻ lại, thích cánh chen vai nhau. Đi đọc phố, đâu đâu cũng thấy tiếng đàn tiếng hát, người nào cũng hể hả… cảnh sắc ấy, sau này từng đã có người tả rằng: “Bảy vạn hộ dân trong thành Lâm Tri, nhà nào cũng giàu và đầy của cải, dân trong thành không ai là không biết thổi tiêu, gõ trống, đánh đàn, chọi gà, đua chó, đánh vật, đá cầu… Đường phố Lâm Tri, xe sát trục nhau, người kề vào vai nhau, tà áo liền nhau không hở chỗ nào, giá có vẫy tay lên thì mồ hôi rơi xuống cũng thành mưa, nhà nào cúng khá giá, người nào chí khí cũng cao cả hiên ngang”. Điều thu hút Điền Vũ nhất khiến cậu lưu luyến không muốn rời chân là những phường thủ công nghiệp, đó!à những công xưởng lớn nhỏ khác nhau, nào là xưởng đúc gang, nào là xưởng dệt vải, nào là xưởng https://thuviensach.vn luyện đồng và cả xưởng chế tạo đồ xương. Xưởng luyện đúc gang có quy mô lớn nhất là ở phía nam thành phố, diện tích chiếm đất phải tới một triệu hai mươi vạn thước vuông, trên mảnh đất rộng đó mọc lên la liệt nào là lò cao, nào là lán thợ, chỗ thì bằng lều bạt, chỗ thì lợp tranh, quặng sắt, đá vôi, than củi nối nhau theo từ Nam Sơn chở đến, kẻ gánh người khiêng, xe chở ngựa thồ, ùn ùn như nước chảy. Những người thợ đã lần lượt nạp những thứ nguyên liệu và chất đốt ấy vào những chiếc lò cao nhỏ, nhóm lửa lên rồi ra công dùng bễ mà thổi gió vào. Bễ là một cái dụng cụ thổi gió vào lò, trên dưới là hai tấm gỗ, ở giữa nối bằng một tấm da tạo thành một cái túi có thể dãn nở được, phía sau của tấm gỗ, trên gắn liền với một cái chuôi dài để đạp chân lên đó, cái túi ấy lên xuống phập phồng mà sinh ra gió. Gọi là bễ liền tức là nối những cái bễ riêng lẻ ấy lại với nhau rồi nhiều người cùng đạp chân vào để cho được nhiều gió, ngọn lửa sẽ lớn, nhiệt độ sẽ cao. Người đạp bễ, người nạp liệu, người coi lò, người ra gang… ai cũng đều bị khói hun lửa táp, người nào người ấy đen như quỷ sứ, chỉ còn có đôi mắt họ là luôn luôn ngời sáng và nhờ đó nói với mọi người rằng: Họ là người chứ không phải là ma quỉ. Cảnh tượng lúc ra gang mới hùng tráng làm sao! Hai người thợ, một người nắm cái choòng thép thật dài, một người lăm làm cái búa trong tay, họ đục choang choang vào cái lỗ ra gang trên thản lò, đợi đến lúc đục tới một múc độ nhất định, hai người lần lượt bước xa ra, một người thứ ba mang một cái choòng dài gấp mấy lần chiều cao của mình, nhằm thẳng vào cái lỗ ra gang mới đục ra chỉ còn lại lại một lớp mỏng rồi xọc mạnh một nhát. Thế là một con mãng xà màu đỏ từ trong hang của nó là bụng lò, bò ngoằn ngoèo ra những cái máng mà người ta đã chuẩn bị sẵn từ trước, trườn từ từ đi, phun lửa ra, loé sáng lên, tỏ rũ sự hung hãn khiến mọi người phải né xe, để khỏi bị bỏng. Một ngày đầu mùa hạ, nhận lời mời của huyện lệnh Lục An, Điền Thư đã tới dự tiệc. Điền Vũ cũng được ông nội cho đi theo. Huyện Lạc An là nơi cách thôn Điền Ban về phía tây bắc hơn ba mươi dặm, mặt trời lên chừng ba tầm gậy, một cỗ tứ mã trang hoàng cổ kính và đơn giản lăn bánh trên đường cái quan thông đến huyện ly, trong xe đó, có hai người là ông https://thuviensach.vn