🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Tặng Phẩm Của Người Do Thái
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
https://thuviensach.vn
CÁC ĐIỂM NỐI CỦA LỊCH SỬ
Nói đến lịch sử, người ta thường nghĩ đến những tai ương nối tiếp nhau, hết cuộc chiến tranh này đến cuộc xung đột khác, hết cuộc xâm lược này đến cuộc chinh phục khác - đến mức dường như lịch sử chỉ toàn là những câu chuyện kể thành những chuỗi dài về nỗi đau của nhân loại. Thường thì sự mô tả này khá đầy đủ. Nhưng lịch sử còn có những điều cao đẹp khác, những điều khổ đau và cao đẹp đó được xem như là một quy luật bù trừ của Thượng Đế dành cho nhân loại.
Trong loạt chuyện này, Các Điểm Nối Của Lịch Sử, tôi muốn kể câu chuyện về thế giới phương Tây là những người ban tặng một món quà vĩ đại, những người đã giao phó cho chúng ta nắm giữ một trong những kho tàng đặc biệt nhất tạo thành di sản của phương Tây. Đây còn là câu chuyện về sự tiến hóa của tri giác ở phương Tây, chuyện chúng ta đã trở thành người như ngày nay thế nào và vì sao chúng ta nghĩ và cảm nhận theo cách đó. Và cuối cùng, đây còn là câu chuyện kể về những thời khắc trọng yếu khi mọi việc đang đứng bên bờ vực thẳm, khi dòng thác khổng lồ trở thành lịch sử phương Tây sau này đang trong giai đoạn cực kỳ nguy hiểm và có thể đã bị phân chia thành hàng trăm nhánh một cách vô ích, đóng băng hay cùng bốc hơi hết. Nhưng chính những người ban tặng món quà vĩ đại, đã có mặt đúng thời điểm khủng hoảng, tạo ra những chuyển tiếp, biến đổi và thậm chí biến hình, giúp chúng ta có được một thế giới, đa dạng và phức tạp hơn, đáng sợ và thú vị hơn, tốt đẹp và mạnh mẽ hơn cả cái thế giới họ đã từng thấy.
https://thuviensach.vn
Thomas Cahill
https://thuviensach.vn
LỜI GIỚI THIỆU
Người Do Thái - khởi nguồn những giá trị của cuộc sống
Người Do Thái khởi nguồn toàn bộ cuộc sống nói chung. Dùng từ “cuộc sống nói chung” ở đây ý tôi muốn nói đến tất cả những gì trong cuộc sống mà chúng ta quan tâm, những giá trị cơ bản làm cho tất cả chúng ta - những người Do Thái và những người không phải là Do Thái, kể cả những người hữu thần và những người vô thần - hành động theo cách chúng ta đã ứng xử. Nếu không có người Do Thái, chúng ta sẽ nhìn thế giới bằng đôi mắt khác và lắng nghe thế giới bằng đôi tai khác, thậm chí cảm nhận thế giới bằng những cảm giác khác. Và không chỉ bộ máy cảm giác của chúng ta - qua đó mọi người có những cảm nhận về thế giới - sẽ khác, đó là điều chúng ta sẽ suy nghĩ bằng trí óc, phân tích sự trải nghiệm, rút ra những kết luận khác nhau từ những gì xảy ra và việc thiết lập một tiến trình cho cuộc sống của chúng ta cũng sẽ khác đi.
Dùng từ “Chúng ta”, ý tôi là từ “chúng ta” thông dụng trong các tài liệu cuối thế kỷ thứ XIX: Con người trong xã hội phương Tây có trí năng đặc biệt và thiết yếu đã tác động đến mọi nền văn hóa trên trái đất, vì thế toàn bộ nhân loại giờ đây dù muốn hay không cũng bị nhiễm từ “chúng ta”. Dù tốt hay xấu, vai trò của phương Tây trong lịch sử nhân loại là rất phi thường. Chính điều này cho thấy vai trò của người Do Thái, những người sáng tạo ra nền văn hóa phương Tây, cũng rất phi thường: đơn giản là không có một ai khác biệt như họ, nhưng những gì họ có lại là một thiên hướng đặc
https://thuviensach.vn
biệt. Thực vậy, như chúng ta sẽ thấy, ngay quan điểm về thiên hướng, về số phận cá nhân cũng là quan điểm của người Do Thái.
Lịch sử của chúng ta đầy những con người đã cự tuyệt, không xem xét những gì người Do Thái thực sự đã và đang làm nên - vì sự mù quáng tinh thần, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, tính bài ngoại… - mà những người này đã không trao cho bộ lạc có số phận đơn lẻ, những người khố rách áo ôm, chủng tộc du mục là tổ tiên của thế giới phương Tây, cái mà họ có quyền được hưởng. Thực vậy, vào cuối thời kỳ đẫm máu nhất của nhiều thế kỷ này, chúng ta đều có thể dễ dàng nhìn lại những cảnh ghê rợn không thể tưởng tượng được do những kẻ đã làm bất cứ việc gì nhưng kiên quyết không bao giờ trao cho người Do Thái cái mà họ có quyền được hưởng gây ra.
Nhưng có lẽ các bạn phải loại ra khỏi đầu không chỉ những cảnh ghê rợn của lịch sử - Cận đại, Trung đại và Cổ đại - mà ngay cả những khái niệm về phạm trù lịch sử; đặc biệt là tất cả những tiền giả định mà thế giới đã dựa theo đó - Toàn bộ công trình rắc rối của những quan điểm và hành động là gia sản tinh thần và trí tuệ của chúng ta. Chúng ta phải tự liên tưởng loài người đã sông và vận động trên hành tinh này như thế nào trước khi Kinh thánh được viết, được nói hay thậm chí trước khi ý niệm được hình thành.
Thật là một hiện tượng kỳ quái, những sự đột biến của loài người đầu tiên chắc là đã xuất hiện ở trên trái đất. Cũng giống như tổ tiên xa xưa, họ có chân tay dài lều khều và cơ bắp không mấy ấn tượng, không có lông hay móng vuốt, sống phụ thuộc vào sự che chở của cây cối hay các hang động, Với miệng nhỏ và hàm răng phát triển chưa đầy đủ, đầu to không tự nhiên (giống như đầu của những đứa bé sơ sinh thời tiền sử), họ buộc phải vận dụng trí khôn của mình để đi tìm thức ăn và tự bảo vệ trước các thú dữ để sinh tồn. Thời kỳ non trẻ của họ vẫn không tự lực được trong một thời gian dài, tiến hóa từ tuổi thơ như những loài động vật có vú khác, cần đến sự bao bọc chở che của cha mẹ trong một thời gian dài. Nếu không có sự hoạch định và đắn đo suy tính trước, không có sự phát triển của những chiến lược phức tạp trong thực tế, thì những sinh vật đột biến này không thể có một chút hy vọng sống sót nào cả.
https://thuviensach.vn
Nhưng nếu chúng ta sử dụng những điều mà những lời gợi ý còn lại trong “hồ sơ” thời tiền sử (prehistory) và thời thự sử (protohistory), thì chúng ta cần phải đi đến một kết luận không mong đợi rằng những phát minh và khám phá của họ được tạo ra nhờ sự trợ giúp của sự sống sót và thịnh vượng - những dụng cụ và lửa, sau đó nông nghiệp và gia súc, rồi đến sự tưới tiêu và xe kéo - họ không cho là những sự đổi mới. Đây là những món quà từ bên ngoài thế giới, thuộc cõi vĩnh hằng ban tặng. Mọi bằng chứng hướng về đó là, theo quan điểm tôn giáo cổ đại, sự tưởng tượng về vũ trụ hoàn toàn theo chu kỳ. Những giả định mà con người cổ đại đưa ra về thế giới là, trong tất cả những điều cốt yếu của họ, hơi khác với những giả định mà những xã hội khác như Hy Lạp và Ấn Độ sau này đã đưa ra theo cách phức tạp hơn. Như Henri-Charles Puech nói về quan điểm của người Hy Lạp trong tác phẩm Con người và Thời gian. “Không có sự kiện nào là độc đáo cả, không có cái gì được thông qua ngoại trừ một khi…; mọi sự kiện đã, đang và sẽ được thông qua vĩnh viễn; những cá nhân tương tự đã, đang và sẽ xuất hiện ở mọi chu kỳ”.
Người Do Thái là những người đầu tiên phá bỏ chu kỳ này và tìm ra cách tư duy và trải nghiệm mới, cách hiểu và cách cảm nhận mới về thế giới. Chính vì vậy, có thể cho rằng những quan điểm của người Do Thái là tư tưởng hoàn toàn mới trong lịch sử nhân loại. Và thế giới quan của người Do Thái đã trở thành một bộ phận quan trọng trong thế giới quan của mỗi chúng ta, đã ngấm sâu vào máu thịt của chúng ta.
Kinh thánh là tư liệu nổi bật nhất về kinh nghiệm tôn giáo của người Do Thái, một kinh nghiệm không phai nhạt; thậm chí gây ra căm phẫn khi người đọc nhận thấy nội dung chống lại những chuyện hoang đường trong những tác phẩm văn học cổ đại khác. Thuật ngữ Kinh thánh có nguồn gốc từ dạng thức số nhiều của từ “biblia”, nghĩa là “những quyển sách”. Và mặc dù Kinh thánh được xem là một tác phẩm viết về xã hội Tây phương - nguồn tư liệu nền tảng - Kinh thánh chính xác là một bộ sưu tập những tác phẩm, một thư viện đa dạng được viết hầu như hoàn toàn bằng tiếng Hebrew (tiếng Do Thái cổ) trong suốt một quá trình hàng nghìn năm.
https://thuviensach.vn
Chúng ta có ít bằng chứng đề cập đến sự phát triển của tiếng Hebrew cổ, một trong những căn cứ về tiếng nói thuộc hệ ngôn ngữ Semitic phát triển ở Trung Đông trong suốt thời kỳ đầu vào một thời điểm nào đó trước thềm thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên - trước đó bao lâu chúng ta không rõ. Một số trong những ngôn ngữ này, như tiếng Akkadia, hình thành sự biểu đạt văn chương khá sớm, nhưng không có tư liệu tin cậy nào được viết bằng tiếng Hebrew trước thế kỷ thứ X (TCN). Đó là những người Israel vẫn sử dụng khi tái định cư ở vùng Canaan sau khi trốn chạy khỏi Ai Cập dưới sự dẫn dắt của Moses, một nhân vật vĩ đại nhất trong số những nhân vật chủ chốt của Do Thái nguyên thủy. Điều này nghĩa là những câu chuyện được gán về lịch sử của một vài tác phẩm Kinh thánh đầu tiên được lưu giữ trước tiên không thuộc dạng văn bản mà là truyền miệng. Vì thế, từ cuộc đi lang thang của Abraham ở Canaan cho đến khi thoát khỏi Ai Cập dưới sự dẫn dắt của Moses đến sự tái định cư của người Do Thái ở Canaan do Joshua cai trị, những gì chúng ta đang đọc là những chuyện kể truyền miệng, được sưu tập và hiệu đính lần đầu (không phải lần cuối) vào thế kỷ thứ X, trong suốt và sau sự cai trị của chế độ vương quyền David. Những bộ sưu tập những bản văn đầy đủ tạo nên Kinh thánh (trừ kinh Tân Ước của người Hy Lạp không được thêm vào cho đến thế kỷ I SCN) với nội dung không giống như Kinh thánh hiện nay cho đến sau Tình trạng giam cầm của người Do Thái ở Babylon - đó là, mãi cho đến một lúc nào đó sau năm 538. TCN, những tác phẩm cuối cùng được đưa vào bộ kinh Cựu Ước hầu như thuộc về thế kỷ thứ III hoặc thứ II TCN, những tác phẩm này gồm Esther và Ecclesiastes (thế kỷ thứ III) và Daniel (thế kỷ thứ II). Một số kinh ngụy tác như Judith và The Wisdom of Solomon đều ở vào cuối thế kỷ thứ nhất.
Ngày nay đối với hầu hết độc giả, Kinh thánh là một mớ hỗn độn; và những người nhận nhiệm vụ dễ nản chí khi đọc Kinh thánh từ đầu đến cuối hiếm khi duy trì sự quyết tâm của họ qua một hoặc hai tác phẩm. Mặc dù Kinh thánh có đầy đủ hai chủ đề lớn của văn chương, tình yêu và cái chết (cũng như sự biếm họa thú vị về tình dục và bạo lực), cũng đầy rẫy những sắc lệnh chán ngắt theo lễ nghi và những trận đánh liên miên vô tận. Hơn tất cả, vì Kinh thánh là sản phẩm của quá nhiều bàn tay khác nhau qua nhiều
https://thuviensach.vn
thời kỳ, nên đầy rẫy những sự hỗn độn đối với độc giả ngày nay, những người nỗ lực giải mã những gì xoay quanh Kinh thánh.
Nhưng để hiểu được chính mình - và tính đồng nhất mà chúng ta đang có thì lại quá dễ đến nỗi hầu hết “những con người hiện đại” không thể đưa ra bất kỳ một ý kiến nào đối với các nguồn gốc của những quan điểm mà chúng ta buộc phải đi đến nhận thức như đó là lẽ tự nhiên và quá hiển nhiên nữa - chúng ta phải quay trở lại tư liệu vĩ đại này, nền tảng của nền văn minh phương Tây. Mục đích của tôi là không viết lời giới thiệu về Kinh thánh, lại càng không đối với Do Thái giáo, mà để khám phá trong nền văn hóa độc đáo thể hiện trong từng từ từng chữ của Kinh thánh một số sợi dây cốt yếu thể hiện xuyên suốt trong bộ Kinh thánh, từ đó làm rõ mạch tri giác nằm dưới toàn bộ cấu trúc và xác định những nguồn vẫn đang tồn tại của di sản phương Tây dành cho những độc giả đương thời, dưới bất kỳ sắc thái tôn giáo, tín ngưỡng nào .
Để hiểu đúng giá trị của Kinh thánh, chúng ta không thể bắt đầu bằng Kinh thánh. Tất cả các định nghĩa phải giới hạn hoặc thiết lập ranh giới, phải trình bày điều gì cần phải được định nghĩa hay không. Vì thế chúng ta bắt đầu từ thời kỳ tiền Kinh thánh, tiền Do Thái, tiền Abraham - khi thực tại dường như trở thành một vòng tròn to lớn, khép kín và có thể dự báo được những chu kỳ của nó. Chúng ta quay trở lại thế giới của Vòng sinh tử.
https://thuviensach.vn
CHƯƠNG 1
NGÔI ĐỀN DƯỚI ÁNH TRĂNG Kinh nghiệm tôn giáo ban sơ
Cách đây khoảng chừng năm thiên niên kỷ, lần đầu tiên bàn tay con người đã sáng tạo ra chữ viết và lịch sử cũng được bắt đầu từ đó, những sự kiện lịch sử của nhân loại được ghi nhận lại. Điều này xảy ra ở Sumer, hầu như chắc chắn tại một kho hàng ở xứ Uruk, có lẽ đây là nơi cư trú sớm nhất của loài người và xứng đáng được mệnh danh là “đô thị” nằm tập trung dọc theo lưu vực sông Euphrates ở Mesopotamia cổ đại (ngày nay là Warka, Iraq). Chữ viết là một sáng kiến bắt nguồn từ nhu cầu của con người: liệu có cách nào khác để người Sumer (tổ tiên người Babylon, 5000 năm TCN) luôn giữ được những bản báo cáo của họ hay không? Sự tích tụ mới lạ của con người và của cải của họ vào trong một thành phố như Uruk - những đền đài, nơi ở, nhà kho và ngõ hẻm lộn xộn làm choáng ngợp đầu óc con người, sự tích tụ này sớm được mô phỏng trên khắp xã hội cổ đại - đã đến lúc cần thiết phải có một phương pháp mới trong việc đếm hàng chất lên tàu và hồi tưởng lại cách thực hiện, vì đầu óc con người không còn đủ sức quán xuyến toàn bộ sự rộng lớn như vậy được nữa. Đầu óc con người mệt mỏi trước nhiệm vụ sinh ra kháng cự và bất hợp tác - cuối cùng, có khuynh hướng sai lệch một cách đáng báo động - nhưng với tài khéo léo của con người đã gợi ra một giải pháp quả là khôn ngoan: dùng những ký hiệu chữ viết cố định để thay thế cho bộ nhớ có thể sai lầm của con người.
https://thuviensach.vn
Sáng kiến làm thay đổi vĩnh viễn chủ đề câu chuyện của loài người đã tạo nên những kỳ công vĩ đại trên thực tế về sự phục hồi và lưu trữ thông tin và toàn bộ những hình thức giao tiếp mới cả trong quan hệ cá nhân và tập thể này được nảy sinh dựa trên cơ sở những sáng kiến khác xảy ra trước nó hàng thế kỷ từ sự mò mẫm đi lên đô thị hóa của người Sumer. Sự đổi mới về nông nghiệp - một nút mở mà bạn không cần trông chờ vào sự ưu đãi của thiên nhiên mà có thể tổ chức sự ưu đãi đó nhiều hay ít có thể dự báo trước qua quá trình gieo giống từng thời vụ - đã làm giảm đáng kể sự phụ thuộc của con người vào những thành quả săn bắn và hái lượm không mấy chắc chắn và đã hình thành nên những cộng đồng cư dân ổn định đầu tiên trong phạm vi nguồn cung ứng lương thực đáng tin cậy. Sự thuần hóa gia súc, gia cầm có thể dự đoán sẽ sớm mang lại sản lượng trứng, sữa, thịt, da và lông thú (hay thậm chí có thể đã tìm thấy trước đó). Sự phát minh ra cuốc và sau đó là cày - những dụng cụ có lẽ được tìm thấy khi một số người nông dân lười biếng nhưng rất ma mãnh nào đó đã nghĩ ra cách cột cái cuốc vào sợi dây thừng được buộc vào sừng con bò mộng, như vậy tạo cho bản thân anh ta một lực cơ bắp đáng kể hơn qua sức mạnh của con bò mộng và cho phép anh ta có thể canh tác trong một khu vực xa và rộng lớn hơn - dần dần hình thành nên những cộng đồng nông dân ổn định trên khắp vùng Fertile Crescent (hiện nay gồm các nước Iraq, Syria, Lebanon và Palestine), vùng đất có hình vòng cung rộng lớn có nhiều sông hồ này bắt đầu từ đồng bằng Tigris-Euphrates trải dài về phía Bắc, ngoặt về phía Nam qua thung lũng Jordan và kết thúc ở Sinai. Ý tưởng sáng suốt của một ai đó về việc đào mương (và sau đó là kênh đào và đập nước) để cho nước sông chảy có kiểm soát từ những con đê cao hơn đến những đồng ruộng thấp hơn đã làm cho những người nông dân không còn phải chờ đợi những cơn mưa chập chờn ở vùng Trung Đông nữa, giờ đây họ có thể canh tác trên những cánh đồng mà trước kia họ chỉ bó tay đứng nhìn. Trải qua nhiều thế kỷ, kỹ thuật này được cải tiến ngày một tinh xảo hơn và cuối cùng hình thành dọc theo những thảo nguyên rộng lớn thuộc đồng bằng Tigris-Euphrates một kỳ quan nổi tiếng thế giới. Đó chính là vườn treo Babylon (người Babylon là hậu duệ trực tiếp
https://thuviensach.vn
của người Sumer). Sự mô tả rất chi tiết về kỳ quan này trở thành một mảng đề tài được ưa chuộng nhất của những du khách cổ đại.
Sau đó, đến giai đoạn trước khi con người phát minh ra chữ viết, ở Sumer bùng nổ sự sáng tạo kỹ thuật trên diện rộng nhưng không phù hợp mãi cho đến thế kỷ thứ XIX và XX, của kỷ nguyên chúng ta. Vì trong giai đoạn này, chúng ta không chỉ chứng kiến sự bùng nổ đột biến của những cộng đồng nông dân với sự phát triển mới về những cải tiến trong nông nghiệp và chăn nuôi mà sự vận chuyển bằng xe cộ, thuyền buồm, luyện kim và luyện gốm cũng lần lượt được xuất hiện đan xen. Người Sumer là những người đầu tiên tìm ra cách thức xây dựng cho phép con người vượt qua những công trình đơn giản nhằm đáp ứng chỗ ở thoải mái cho chính họ, dựng nên những công trình nguy nga hùng vĩ thậm chí vượt trội hẳn dành cho kinh doanh và hành lễ: tượng đá đồ sộ, chạm khắc, khảm, khuôn gạch, vòm cung, mái vòm và đỉnh tròn tất cả đều bắt đầu tỏa sáng dưới ánh mặt trời chói chang ở xứ Sumer. Tích lũy dần, một loạt những phát minh độc đáo này mở ra khả năng mậu dịch đầu tiên trên khắp thế giới và, từ đó, những nơi tập trung người và của cải to lớn, đặc biệt là những tiện nghi lưu trữ khổng lồ đã khuyến khích những nhà phát minh vô danh của chúng ta nghĩ đến chữ viết.
Trước khi chữ viết đầu tiên được khắc chạm trên phiến đất sét nhỏ (qua nhiều thế kỷ, những phiến đất sét nhỏ vẫn là phương tiện lưu giữ thông dụng), người Sumer đã trỗi dậy thống trị toàn bộ vùng Mesopotamia và có những mối liên kết thương mại bền vững, thậm chí nắm cả quyền bá chủ chính trị ở những khu vực cách xa lưu vực sông Nile thuộc Bắc Phi và ở thung lũng Indus thuộc miền Viễn Đông. Những người kém hiểu biết cho rằng ở Sumer xuất hiện một nhóm khoảng hai mươi lăm nhà nước thành thị rất giống nhau cả về văn hóa và tổ chức bộ máy, Nhưng những nhóm người nguyên thủy ở Amorites - những dân du cư Semitic ở các ngọn núi và sa mạc hoàn toàn nằm ngoài phạm vi của Sumer - thì lại cho rằng những thành phố chật chội và đông đúc trải dọc theo những bờ xanh của dòng Euphrates uốn khúc giống như sợi dây chuyền bằng đá khổng lồ được đánh bóng có vẻ
https://thuviensach.vn
như những vật đang chiếu sáng, mỗi thứ đều được bao phủ bởi lâu đài và tháp đền kỳ diệu để tưởng nhớ tới người bảo vệ thần thánh của thành phố, mỗi thành phố nổi tiếng vì một số nét đặc biệt - đó là tất cả những lời nhắc nhở gây ác cảm về những thứ mà những người du mục không sở hữu.
https://thuviensach.vn
https://thuviensach.vn
VÙNG ĐẤT MÀU MỠ TRONG THIÊN NIÊN KỶ THỨ BA
Nơi khởi nguồn nền văn minh cổ xưa nhất là một hình cung lớn của vùng đất phì nhiêu màu mỡ trải dài từ phía Tây Bắc vùng vịnh Ba Tư băng qua toàn bộ vùng đồng bằng Tigris-Euphrates, sau đó dọc theo lưu vực sông Levant-Jordan về hướng Tây Nam và kết thúc ở Sinai. Những Nhà nước thành thị chủ yếu ở khu vực Sumer-Akkadi được trình bày trên bản đồ (bao gồm Babylon, thuộc về giai đoạn lịch sử sau này). Nét đứt quãng xác định bờ biển của vùng Vịnh trong thiên niên kỷ thứ ba TCN.
Những gì mà người du mục không sở hữu được mô tả tỉ mỉ qua tác phẩm của người Sumer về một Amorite tiêu biểu:
Một người sống trong lều bị vùi dập bởi gió và mưa, hắn thực sự không biết lễ cầu kinh,
Bằng một thứ vũ khí hắn biến ngọn núi thành nơi sinh sống,
Tranh giành quá mức, hắn chống lại địa phương mà không biết chùn gối
Ăn thịt sống,
Cả cuộc đời hắn không nhà không cửa,
Khi hắn chết không được chôn cất.
Đoạn văn này giống như miêu tả một loài động vật: không có cách cư xử hay sự nhã nhặn - ngay cả về cái chết - không có tôn giáo hay thậm chí không có lửa để nấu ăn, những người du mục luôn tự dấn thân vào những sự tranh giành đẫm máu với những chủ đất “văn minh” hơn. Đằng sau sự miêu tả này, chúng ta có thể nhận thấy thành kiến của những tên đế quốc đối với lịch sử, những người vô tình thừa nhận tính ưu việt của họ cả về đạo đức lẫn kỹ thuật, vượt quá những người mà họ cho là thứ yếu và chính vì thế quyền năng thần thánh của họ đối với bất cứ điều gì đều có giá trị, đặc biệt là đối với đất.
Nhờ vào kết quả của những nhà khảo cổ tiên phong, những người đã khai quật nhiều thành phố cổ của người Sumer trong suốt thế kỷ này và giải
https://thuviensach.vn
thích tường tận những kho báu đất sét phong phú của nó, chúng ta biết rõ hơn về người Sumer, nền văn minh đầu tiên của thế giới. Kỹ thuật nông nghiệp và quản lý của người Sumer bị xuyên tạc một cách lạ thường (Người Sumer có hai trăm từ chỉ dùng để diễn tả những chủng loại cừu); toán học của họ cho phép họ lấy căn bậc hai, bậc ba và tính chính xác diện tích của một thửa ruộng hay một tòa nhà và cho phép họ đào hay mở rộng kênh đào. Y khoa thì rất thiết thực chứ không phải là ma thuật và dược điển của họ kê cách chữa trị cho mọi thương tích và bệnh tật, từ vết thương chiến trận đến bệnh hoa liễu.
Chúng ta còn biết nhiều về trí tưởng tượng của người Sumer. Sách hướng dẫn thường được viết nhân danh Thiên Chúa: cẩm nang trồng trọt (luôn là cuốn sách bán chạy nhất, vì cuốn sách này có mặt khắp mọi nơi trong những tàn tích của người Sumer) được xác nhận là do thần Ninurta - một vị thần vĩ đại trong số các vị thần của người Sumer - viết. Ninurta được mệnh danh là “người nông dân đáng tin cậy của Enlil”. Người nông dân được khuyên nên theo dõi vụ mùa cẩn thận và phòng ngừa chặt chẽ, kể cả con người và siêu nhiên: “Sau khi chồi trồi lên khỏi mặt đất”, người nông dân phải đuổi những con chim đang bay lượn, đồng thời phải cầu nguyện thần Ninkilim, nữ thần chuột đồng, để bà đuổi những loài gặm nhấm không cho chúng phá các hạt đang nảy mầm. Ngay cả quá trình ủ bia (người Sumer là những bợm bia) cũng có thần hỗ trợ, thần Ninkasi, nữ thần có được cuộc sống nhờ “nước sạch sủi bọt”, tên của nữ thần có nghĩa là “người đàn bà làm thỏa mồm”. Người Sumer quan niệm rằng Ninkasi là người ủ bia cho các vị thần, bà “nung bằng cái xẻng cao ngất lúa mạch nẩy mầm”, “trộn lúa mạch bappir có hương vị ngọt ngào”, “rót bia thơm ngát vào bình lahtan giống như hai dòng sông Tigris và Euphrates được hợp nhất lại’”.
Người Sumer thực dụng, những thương gia giáng thế chỉ quan tâm đến việc tính toán trong phạm vi của các thửa ruộng và sức chứa của các nhà kho hơn là thực hiện các công việc khác. Nhưng điều này không có nghĩa là họ không có thể giới quan, ngoài lòng ham muốn kiếm được tài sản đều đặn.
https://thuviensach.vn
Thế giới quan của một dân tộc, mặc dầu thường được ngầm hiểu trong việc mua bán và đếm tiền hàng ngày, nhưng cùng được tìm thấy trong những câu chuyện, những thần thoại và lễ nghi của một nền văn hóa. Những câu chuyện về Sumer được phục hồi từ những phiến đất sét đơn sơ chứa đựng một sự huy hoàng chói lọi không chỉ tác động đến những độc giả đương thời mà còn cho chúng ta cái nhìn phổ quát về trí tưởng tượng ấu trĩ của nhân loại. Hầu như các bản khắc đều bị hư hỏng, nên đã để lại những thiếu sót trong tất cả các chuyện kể. Nhưng có nhiều câu chuyện tồn tại trong nhiều phiên bản khác nhau (do đó những khiếm khuyết trong một phiên bản cụ thể này đôi khi có thể được lấp đầy bằng những đoạn trong các phiên bản khác) và thậm chí được viết bằng những thứ tiếng khác nhau, nên chí ít cũng cho phép chúng ta tái tạo lại một phần nào tiến trình phát triển năng động diễn ra trong nhiều thế kỷ. Với tiến trình thuật chuyện của người Sumer, chúng ta có phần hàm ơn những bộ lạc du mục Semit, những người mù chữ nhưng trong đầu họ chứa đựng một kho tàng chuyện kể vô tận về những dân tộc mù chữ và đôi khi họ kiếm ăn bằng cách kể cho những người định cư nghe những câu chuyện đó. Những câu chuyện này có thể là của các nhà thơ du mục hay những câu chuyện truyền miệng của chính những người sống ở thành thị rốt cuộc cũng được những người Sumer biết chữ ghi lại. Những người này đã có nỗ lực lớn trong việc phân loại mớ tài liệu lộn xộn thành những bố cục gọn ghẽ, vì thế tạo thành “những tác phẩm” - trong thực tế, những tác phẩm đó là một bộ sách giống nhau - về tính liên tục của những hình thức kể chuyện, của những tình tiết và đôi khi là giữa các thế hệ.
Đôi lúc việc sắp xếp quá ngăn nắp đã làm cho nhóm các chuyện kể về quốc vương của người Sumer - còn gọi là Danh sách vua (King List) “ hoàn toàn vô dụng đối với những nhà sử học hiện đại. Những bản phác thảo ngắn về từng triều đại này được sắp xếp theo nguyên tắc đối xứng và số học cốt chỉ để xem cho vui mắt và nghe cho êm tai chứ không hề chú ý đến những gì thực sự đã xảy ra trong lịch sử của Sumer. Người ta nói rằng có một số vị vua trị vì hàng ngàn năm, những vị khác chỉ hàng thế kỷ; nhưng trong những nghiên cứu gần đây, các nhà sử học đã tiến hành so sánh bản Danh sách vua này với những tư liệu cổ đã lưu lại và đi đến kết luận rằng các vị vua có triều
https://thuviensach.vn
đại được liệt kê thường xuyên quả thực là những người cùng thời hay những người cận thời, trị vì các quốc gia thành thị lân cận ở Sumer. Những nhà nước thành thị do thần thánh thiết lập tự ngàn xưa; và cũng chính các vị thần đó đã trao cho người Sumer “dân tộc đầu đen” (như họ tự gọi) - tất cả những công cụ, vũ khí và những phát minh kỳ diệu mà chúng ta biết đó chính là những sản phẩm do chính tài năng khéo léo của người Sumer tạo ra. “Sự phát triển” và “sự tiến hóa” - hai thuật ngữ có ý nghĩa quan trọng như thế đối với chúng ta - có thể không có ý nghĩa gì trong nền văn hóa vô tận của Sumer, chính ở đó, người Sumer đã tạo ra mọi thứ, nổi bật là thành phố, ruộng đồng, gia súc, công cụ sản xuất nông nghiệp. Ngay cả những câu chuyện của họ cũng không mang ý nghĩa của sự phát triển: họ bắt đầu ở giữa rồi kết thúc cũng ở giữa. Họ thường thiếu mất điều cần thiết nào đó khi kể chuyện, để có thể cụ thể cho phần khởi đầu, đoạn giữa và đoạn kết. Tất cả những chuyện kể của người Sumer là những câu chuyện lê thê, cố kéo dài ra cho buồn cười, đôi lúc nghe giống như là tiếng bi bô của trẻ nhỏ bắt chước những chuyện đùa mà chúng nghe được từ những đứa trẻ lớn hơn nhưng không nhận ra điểm gút mắc trong cốt chuyện. Họ quên rằng độc giả thời nay khi nghiên cứu văn chương của người Sumer đang chờ đợi điểm gút mắc của câu chuyện. Tuy nhiên, những truyện ngắn của người Sumer rất thú vị bởi tính kỳ lạ cổ xưa cũng như những khoảnh khắc phản chiếu trong từng thời kỳ mà ở đó, chúng ta bị giật mình mỗi khi nhìn thấy bên trong câu chuyện có một cái gì đó của chính mình: một hình ảnh hay xúc cảm mà chúng ta và dân tộc có quá khứ u ám này đều có.
Một tác phẩm của người Sumer để lại dấu ấn lớn nhất về hình ảnh đương thời chính là Sử thi Gilgamesh. Tác phẩm này nói về người anh hùng huyền thoại lên ngôi hoàng đế xứ Uruk vào khoảng giữa thiên niên kỷ thứ III, TCN. (có lẽ xứ Uruk là nơi chữ viết được phát minh ra). Gilgamesh có nhiều khả năng thuộc dòng dõi Semitic hơn là thuộc dòng dõi Sumer, vì theo một bản dịch Danh sách vua không xác thực vì Lugalbanda, cha của Gilgamesh và là vị hoàng đế tiền nhiệm “là một người du mục”. Nếu đúng như vậy thì có thể những nhà thơ du mục đã có nhiều lý do để tán dương
https://thuviensach.vn
những thành tích chói lọi của Gilgamesh; và vương quyền của Gilgamesh sẽ đại diện cho sự thâu tóm quyền lực của những bộ lạc Semitic du mục, những người mà trước thời điểm kết thúc của thiên niên kỷ đã xuyên tạc quyền lực trên khắp vùng Sumer và thiết lập nên những ngôn ngữ của họ đã phải trả giá bằng sinh mệnh của người Sumer. Tiếng Sumer, loại ngôn ngữ mà người ta không tìm thấy có những ngôn ngữ cùng gốc, được thay thế sớm trong thiên niên kỷ thứ hai bởi tiếng Akkad (hay tiếng Babylon cổ đại) với tư cách là ngôn ngữ chung của Mesopotamia, sau đó tiếng Sumer dựa vào tiếng Akkad chỉ như là một thứ ngôn ngữ văn chương được dùng để viết những tài liệu đặc biệt. Nhưng những người Semitic giữ địa vị thống trị mới không chỉ áp dụng chữ viết hình nêm (chữ Ba Tư cổ) mà còn áp dụng cả thần thoại và đức tin từ những bậc tiền bối Sumer trong tính liên tục không đứt đoạn, điều này chính là lý do tại sao chúng ta đã tìm thấy những câu chuyện về Gilgamesh không chỉ được viết bằng tiếng Sumer mà còn được viết bằng tiếng Akkad và bằng những ngôn ngữ cổ đại khác.
Bộ Sử thi này miêu tả xứ Uruk cổ đại hấp dẫn, mà nhà thơ đóng vai trò như một người hướng dẫn viên du lịch hướng dẫn một du khách mới đến tham quan lần đầu tiên:
Thành quách ở Uruk trông giống như một giải mạ đồng, Quan sát tường có lỗ châu mai không ai có thể sánh được,
Vượt qua ngưỡng cửa có từ thời thượng cổ,
Đến gần Eanna, chỗ ở của Ishtar,
Không có vị vua tương lai nào hay bất cứ ai có thể sánh được! Leo lên trên bức tường của Uruk và đi dạo vòng quanh!
Kiểm tra nền móng và nhìn kỹ công trình xây bằng gạch!
Chứng thực gạch đã được nung,
Chắc hẳn bảy vị cố vấn đã đặt nền tảng cho xứ Uruk!
Một dặm vuông là thành phố, một dặm vuông là vườn lan, một dặm vuông là hầm lấy đất sét, cũng như khu đất rộng có lăng của Ishtar.
https://thuviensach.vn
Ba dặm vuông và một khu đất rộng bao gồm Uruk.
Niềm tự hào của nhà thơ về vẻ nguy nga và quy mô của thành phố là một điều hiển nhiên. Uruk là “từ thời cổ xưa”, những nền tảng của nó do Bảy vị cố vấn tạo nên, những vị thần mang đến cho những cái đầu đen tất cả những kỹ năng và những nghề thủ công đặc biệt làm cho họ trở nên vĩ đại. Sự vĩ đại độc nhất thuộc về “thời xa xưa” này và “không có vị hoàng đế tương lai hay bất kỳ người nào có thể sánh kịp” những thành tựu ban sơ như Eanna, đền thờ dành cho Ishtar (nữ thần tình yêu và chiến tranh) ở Uruk. Sau đó, nhà thơ đã cho chúng ta cái nhìn gần hơn về một trong những kỳ quan, trong đó chứa đựng một tài liệu mật được bảo tồn trên một thanh nguyên liệu quý giá nhất ở Sumer:
Tìm kiếm, một tráp thỏi bằng đồng,
Mở khóa đồng thiếc của nó,
Mở toang cánh cửa để khám phá điều bí mật ở bên trong nó, Nhấc bản đá lapis lazuli lên và hãy đọc nó,
Câu chuyện về Gilgamesh, một con người đã chịu đựng mọi nỗi đau. Ông ta giỏi hơn các vị vua khác nhiều, một chúa tể chiến binh có tầm vóc vĩ đại,
Một anh hùng được sinh ra từ. Uruk, một con bò mộng hoang dã hung hăng hiếu chiến.
Ông tiến về phía trước như một thủ lĩnh,
Ông kiểm tra lại, sự ủng hộ của các anh,
Một cái bẫy kiên cố, sự bảo vệ của những thuộc hạ của ông, Ngọn sóng lũ dữ dội có thể phá hủy cả một bức tường đá.
Gilgamesh, con trai của Lugalbanda, có sức khỏe tráng kiện, Con trai của con bò mộng cao quý, con bò mộng hoang dã Ninsun. Ông là Gilgamesh, có những chiến công chói lọi,
Người có thể hóa giải những hoàn cảnh cam go ở những ngọn núi,
https://thuviensach.vn
Người có thể đào hầm ngay sườn núi,
Người đã băng ngang qua đại dương, mặt biển rộng bao la, xa tận chân trời.
Gilgamesh, một vị bán thần (bởi vì mẹ ông là nữ thần bò hoang, Ninsun), không chỉ có tất cả những đặc tính của một hình tượng huyền thoại đích thực - dữ như con bò mộng, mạnh như ngọn sóng - mà ông ta còn được các nhà kinh doanh thực dụng người Sumer đánh giá là người có những kỹ năng thực tế: ông vừa là một nhà hàng hải vô song đồng thời là một kỹ sư tuyệt vời. Và sự kết hợp những phẩm chất thành công mang lại cho chúng ta đôi chút manh mối về câu chuyện của Gilgamesh là kết quả của một quá trình phát triển và trưởng thành lâu dài. Nó có thể đã nổi lên trong một giai đoạn quá khứ xa xôi - rất lâu trước khi có chữ viết, thậm chí rất lâu trước khi có nông nghiệp - điều đó không một nhà khảo cổ nào có thể tái hiện, lại được. Nhưng nó được xoay và xoay như đồ gốm và được trang trí công phu bởi những đôi tay liên tục thay phiên nhau, từ thời tiền sử đầu tiên đến người Sumer rồi sau đó đến người Semitic.
Những dòng tôi trích là từ một phần nguyên vẹn của Bức phù điêu I (Tablet I). Nhưng bây giờ tôi phải trích dẫn từ một phần của bức phù điêu, việc này sẽ đem lại một ý tưởng tốt hơn về những khó khăn mà dịch giả gặp phải - những dòng này cũng gợi ra rằng ngay cả ở Uruk Gilgamesh rất cao thượng:
Ở Uruk hắn sẽ dạo chơi quanh chuồng cừu,
Tự tỏ ra mình là bề trên, đầu ngẩng cao như chú bò mộng hoang dã. Tại pukku hắn không có đối thủ nào cả,
Vũ khí của hắn tăng lên, những chiến hữu của hắn phải nổi dậy. Những thanh niên xứ Uruk trở nên chán nản về đời tư của mình.
Gilgamesh sẽ không để cho bất cứ cậu con trai nào cô độc vì cha của chúng.
Ngày đêm [thái độ] của hắn đang nén xuống…
https://thuviensach.vn
Hắn là người chăn cừu xứ Uruk, ‘‘chuồng cừu”,
Hắn là người chăn cừu của họ, ấy vậy mà, [] Quyền lực, oai hùng, thông thạo, [và lão luyện],
Gilgamesh sẽ không để cho những cô con gái trẻ [đơn độc], Con gái của những chiến binh, cô dâu của những chàng trai trẻ.
“Pukku” có thể có nghĩa là “tỉnh táo” hay “đứng thẳng” hoặc có thể đề cập đến một loại trò chơi côn cầu liên kết với sự trù phú và được chơi tại đám cưới. Dấu đóng khung của dịch giả đặt ở những chỗ bị đứt quãng hay không rõ ràng trên bức phù điêu. Người trẻ tuổi có lẽ đã trở nên chán nản trong đời tư hay trong ý nghĩ riêng tư của mình - điều này chúng tôi cũng không chắc lắm. Mặc dù có những chỗ khuyết và những từ không dịch được, nhưng chúng tôi dám chắc rằng Gilgamesh đang tự làm phiền chính mình, bắt nạt con trai và con gái. Và dường như những người Sumer đã nhận ra điều này như một ung nhọt tất yếu của sự cao thượng. Xã hội Sumer, mà chúng tôi biết được qua những bức phù điêu khác, là một xã hội tranh đua gay gắt, và người Sumer là những người hay huênh hoang khoác lác thuộc loại người tồi tệ nhất. Những vị vua luôn luôn tỏ ra tự cao tự đại, không hề có một chút khiêm nhường nào cả. Toàn thể công dân thường dùng đến tòa án luật pháp có “những lời tuyên án” chứa đầy trong nhiều bộ sưu tập phù điêu giống như một trong những hình thức văn chương nổi tiếng nhất. Một hình thức văn chương lan tỏa khác mà người Sumer cảm thấy rất thú vị là “cuộc tranh luận”; một lối tranh luận mang tính đại chúng và kỳ lạ giữa hai đối thủ, ví dụ, sự tranh luận giữa hai nam sinh xem ai là người học giỏi hơn (một cuộc tranh luận đầy rẫy những danh hiệu như “người ngu đần”, “người ngốc nghếch”, “dốt đặc” và “kẻ ba hoa”); hoặc sự tranh luận giữa hai người cầu hôn về bàn tay của nữ thần; hay thậm chí là sự tranh luận giữa đồng và bạc, giữa mùa hè và mùa đông. Đây là một xã hội đầy rẫy sự tranh cãi và gây hấn, trong đó người “tốt” - người lý tưởng - được cho là người có nhiều tham vọng và được cổ vũ bởi uy tín, chiến thắng, thành công trên thế gian, mà hầu như chẳng có liên quan gì đến những điều mà chúng ta cho là thuộc về phạm trù đạo đức cả. Đây cũng là xã hội coi khinh sự nghèo hèn.
https://thuviensach.vn
Bằng bất cứ giá nào, dân chúng xứ Uruk, vì tất cả niềm kiêu hãnh của họ về Gilgamesh, cần một vài sự cứu tế, cho nên họ than phiền một cách thắm thiết đến các vị thần, đặc biệt là thần “Aruru vĩ đại”, một Đấng toàn năng của vũ trụ:
“Có phải thần [Aruru (?)] đã tạo ra một con bò mộng hoang dã và hung hãn như thế chăng”?
Không có đối thủ sao?
Thần Aruru, chính Người đã tạo ra [loài người(?)]!
Giờ đây Người hãy tạo ra một ai đó cho hắn, để đối chọi (?) sự hăng hái trong (?) sinh lực của hắn!
Hãy để cho họ là những đối thủ thường xuyên, và hãy để cho Uruk được bình yên!”
Vì thế, thần Aruru tạo ra “bên trong Người lời của thần Anu”, thần cha. Rồi Người rửa tay, sau đó vấu “lấy một miếng đất sét ném vào vùng trống (open country)”, ở đó miếng đất sét trở thành “Enkidu, người chiến binh, kết quả của tính trầm lặng và tiếng sấm trên bầu trời của Ninurta”:
Trên khắp thân thể lông lá bờm xờm, hắn được trang bị những bím tóc giống như một người phụ nữ,
Những mớ lông của hắn mọc tua tủa như thóc lúa.
Hắn không biết dân tộc cũng không biết quê hương, hắn được ăn mặc như gia súc.
Với những con linh dương gazen hắn ăn rau cỏ,
Với gia súc hắn uống cho đã khát tại nơi có nước.
Với thú vật hoang dã hắn cần thỏa mãn những cơn khát nước.
Enkidu, “Người thiên nhiên” cuối cùng, hòa hợp với thú vật hơn là với con người, ngăn chặn những chiến lược của những người thợ săn địa phương, nên một trong những người thợ săn này mang những lời phàn nàn của những người thợ săn đến Gilgamesh:
“Tôi quá khiếp sợ nên không dám đến gần hắn.
https://thuviensach.vn
Hắn luôn lấp đầy những cái hang tôi đào [ ] , Hắn luôn kéo những cái bẫy ra khỏi nơi tôi đặt.
Hắn luôn giúp đỡ súc vật, thú hoang ở vùng trống thoát khỏi sự săn bắt của tôi”.
Giải pháp của Gilgamesh là rất đáng chú ý:
“Đi nào, thợ săn, hãy dẫn đường tới trước con điếm Shamhat, Và khi hắn đến gần con ngựa tại nơi có nước,
Cô ấy cởi bộ quần áo để lộ ra những đường nét hấp dẫn.
Hắn chiêm ngưỡng rồi tiến lại gần cô ấy.
Nhưng con ngựa đã lớn lên cùng với hắn ở vùng trống lại trở nên xa lạ với hắn”
Người thợ săn hành động theo những lời mời của Gilgamesh, mang Shamhat đến nơi có nước; và khi Enkidu, “một sát thủ trẻ từ chốn tận cùng của vùng trống” đến uống nước với thú hoang:
Shamhat nới lỏng đồ lót, để lộ đôi chân trần và hắn đắm vào sự quyến rũ của cô.
Cô đã không cự tuyệt mà ngả lòng theo hắn,
Trải rộng quần áo rồi hắn leo lên mình cô.
Cô phục vụ hắn, người đàn ông nguyên thủy, như phụ nữ thường làm. Hắn tha hồ thỏa thích.
Trong sáu ngày bảy đêm Enkidu bị đánh thức và tự tuôn trào tình cảm vào Shamhat.
Khi sức quyến rũ của cô làm cho hắn thỏa mãn, Hắn hưởng mắt nhìn về vùng trống, nơi có con ngựa của hắn.
Những con linh dương nhìn thấy Enkidu liền bỏ chạy tán loạn, Con ngựa ở vùng trống bắt ở xa rời ra thân thể hắn.
Vì Enkidu trở nên mượt mà; cơ thể hắn thì quá sạch sẽ.
https://thuviensach.vn
Đôi chân của hắn vẫn dùng để theo kịp con ngựa giờ đứng yên bất động.
Enkidu đã yếu đi nhiều, không thể chạy nhanh như trước.
Nhưng hắn đã giành được sự phán quyết(?) và trở nên khôn ngoan hơn.
Quá ngạc nhiên trước sự biến đổi này, Enkidu trở về với cô gái điếm để tìm hiểu thực chất việc này nói lên điều gì. Cô ấy nói rằng hắn đã “trở thành một vị thần” và giờ đây nơi thích hợp của hắn là ở Uruk,
“Ở đó Gilgamesh sung mãn sinh lực,
Và giống như con bò mộng hoang dã, mạnh mẽ hơn bất kỳ ai”. Cô nói với hắn và lời cô nói đã được chấp nhận.
Hiểu được trí tuệ của chính mình (bây giờ)1 hắn sẽ tìm kiếm một người bạn.
Dĩ nhiên, cách Enkidu “tìm kiếm một người bạn” là không bình thường:
‘Hãy để Ta thử thách hắn, và []
(Bằng cách nói rằng:) ‘Ở Uruk ta sẽ là người mạnh nhất? Ta sẽ đi vào để thay đổi vận mệnh: Một người được sinh ra ở vùng trống có sức mạnh [cao hơn (?)]!”.
1. Thêm vào những dấu ngoặc đơn, ý dịch giả muốn dùng những từ trong dấu ngoặc để xác định nơi mà cô ấy đang ngụ ý hay nói thẳng hoặc đang tiến hành sự kiến thiết lại lý thuyết.
https://thuviensach.vn
Nhưng qua những giấc mơ tượng trưng, Gilgamesh đã được báo trước về sự xuất hiện của Enkidu. Những giấc mơ này đã được Ninsun, mẹ của hắn, giải thích rõ rằng:
“… Một cộng sự mạnh mẽ sẽ đến với con, chính người đó có thể cứu lấy cuộc đời của một người bạn,
Hắn sẽ là người có đôi tay lực lưỡng mạnh mẽ nhất vùng này.
Sức mạnh của hắn sẽ lớn bằng sức mạnh của tiếng sấm trên bầu trời của thần Anu.
Con sẽ yêu thương nó như một người vợ, con sẽ mê nó như điếu đổ. [Và nó sẽ luôn luôn] bảo vệ con (?)”.
Shamhat biết về những giấc mơ của Gilgamesh cũng như phân tích về những giấc mơ đó và những giấc mơ này có quan hệ với Enkidu: “Những giấc mơ này cho biết các con sẽ yêu thương nhau”.
Bức phù điêu thứ II tiếp tục câu chuyện, tuy ở trên đó cũng có nhiều khoảng trống nhưng đã cho thấy rõ là Enkidu trên đường đến Uruk đúng là thách thức Gilgamesh và “họ túm lấy nhau”,
Vật lộn trên đường ở quảng trường công chúng.
Những khung cửa lung lay, những bức tường rung rinh.
Sau đó dựa vào trạng thái hiện tại của nguyên bản, với sự can dự của Ninsun, Gilgamesh vừa khóc lóc vừa nói nên hầu như không thể hiểu anh ta nói gì. Nhưng
Enkidu đứng nghe hắn nói,
Cân nhắc, rồi ngồi xuống và bắt đầu khóc. Mắt hắn nhòa đi với những giọt nước mắt. Đôi tay thả lỏng, sức mạnh của hắn [( )]
(Rồi) họ túm lấy nhau,
Ôm và nắm giữ (?) tay.
Điều huyền bí về dân tộc đã qua từ lâu này càng trở nên huyền bí hơn bởi những chỗ khuyết của nguyên bản này. Nhưng có một đôi điều thì rõ
https://thuviensach.vn
ràng: như trong những xã hội chiến binh của thời kỳ đồ sắt và đồ đồng, mối quan hệ quý giá nhất của con người là quan hệ nam giới (và, dù có hay không những mối quan hệ giới tính tích cực như thế, thì chắc chắn rằng những mối quan hệ đó được coi là quan hệ đồng tính luyến ái - vì cùng giới tính); tất cả điều này, vì lý do nào đó cho rằng sự quan hệ giữa người đàn ông với một người đàn bà làm cho họ trở nên văn minh - nghĩa là sự phản thú vật hóa, trả lại một con người về cuộc sống thành thị - chính do sự gặp gỡ giữa Shamhat và Enkidu đã làm cho Enkidu xa lánh với thiên nhiên và sẵn sàng đi vào xứ Uruk2. Vì với nghề điếm của mình, rõ ràng Shamhat không phải là một cô gái điếm bình thường: cô được trao quá nhiều uy thế, biết được những ước mơ của nhà vua và những cuộc nói chuyện thầm kín nhất của nhà vua với thái hậu. Rất có thể cô là một trong những bè bạn của bọn gái điếm mộ đạo, được phong thánh để thờ một trong những vị thần và bị một thầy tế cưỡng hiếp theo nghi thức (và một cách thường xuyên) bên trong phạm vi thánh thất. Tương tự, hình như những tên gọi có ý nghĩa lặp đi lặp lại được dùng để miêu tả Enkidu - như “lời phán truyền của thần Anu”, “tiếng sấm trên bầu trời của Ninurta”, “cái rìu” - được dịch giả Stephanie Dailey sắp đặt một cách tinh tế, là “những lối chơi chữ về những thuật ngữ dùng để diễn tả toàn thể những người sùng bái ham muốn tình dục không đáng tin cậy được tìm thấy một cách chi tiết ở xứ Uruk, kết hợp với sự sùng bái của Ishtar” - nói cách khác là, đĩ đực thần thánh.
2. Sự văn minh hóa này, cho là chỉ cần tiếp xúc với một người phụ nữ là có thể hoàn thành, có nhiều điểm chung với sự văn minh hóa được khắc họa một cách tài tình bởi Leslie Friedler trong tác phẩm Tình yêu và tang thương trong Tiểu thuyết Mỹ, trong đó ông thấy rõ những khía cạnh thần thoại của những nhân vật như Aunt Sally trong tác phẩm Hukleberry Finn, một trong nhiều phụ nữ “văn minh hóa” trong văn chương Mỹ, người mà tất cả đàn ông con trai cường tráng đều phải trốn chạy khi họ kể cho nhau nghe về sự giam cầm của đàn ông ở nơi hoang dã.
https://thuviensach.vn
Gilgamesh và Enkidu, giờ đây kết thành đôi bạn thân, gần gũi hơn cả vợ chồng, thề sống chết có nhau, lên đường đến rừng bách giết quái vật Humbaba, một sinh vật không ai có thể tưởng tượng được nó khủng khiếp như thế nào, khuôn mặt của nó trông giống như đùm ruột bị xoắn lại và:
… Tiếng thét của nó là thứ vũ khí lợi hại, lời nói của nó là Lửa, hơi thở của nó là sự chết chóc,
Có thể nghe được trong khoảng cách sáu mươi dặm xuyên qua (?) … cánh rừng, vì thế ai mà có thể thâm nhập được vào rừng của nó cơ chứ?
Nhưng, kìa, Gilgamesh người chiến binh hùng mạnh,
“Nào anh bạn, hãy nắm lấy tay tôi, chúng ta khởi hành thôi!
Tim bạn sẽ bốc cháy (?) vì đấu tranh; quên đi cái chết và [chỉ nghĩ về] sự sống (?).
Đàn ông là mạnh mẽ, có tinh thần sẵn sàng chiến đấu và có trách nhiệm.
Hắn là người đi tiên phong (và) bảo toàn sinh mệnh cho (bạn) của nó, sẽ bảo vệ an toàn cho đồng đội.
Chắc là họ đã tạo dựng nên danh tiếng cho [tương lai (?)J của họ”
Với sự giúp đỡ của Enkidu, Gilgamesh đã diệt trừ được con quái vật - một công việc rất dơ bẩn - sau đó quốc vương rửa mình và điểm trang bằng áo choàng, “thắt lưng nam” và vương miện. Sau khi y phục chỉnh tề, Gilgamesh trông thật bảnh trai nên đã thu hút sự chú ý của Ishtar, nữ thần tình yêu và chiến tranh:
“Gilgamesh, hãy đến với em và là người tình của em anh nhé! Ban cho em thành quả của anh!
Anh sẽ là chồng em và em sẽ mãi là vợ của anh”.
Nhưng Gilgamesh biết rằng nữ thần có rất nhiều bạn đời, tất cả họ cuối cùng rồi cũng bị nàng loại bỏ. “Ai là người tình vĩnh cửu của em nào?”, Gilgamesh hỏi.
https://thuviensach.vn
“Người tình oai vệ nào của em đã lên thiên đàng?
Hãy đến đây, để tôi [mô tả (?)J những người tình của em cho em nghe nào!”
Rồi Gilgamesh liệt kê ra nhiều bầu bạn của Ishtar và số phận buồn bã của họ trong bàn tay của cô (cuối cùng, cô là nữ thần tình yêu và chiến tranh), bắt đầu bằng Dumuzi, chủ đàn cừu Dumuzi, người mà Gilgamesh cảm thấy thật gần gũi:
“Với Dumuzi người tình thời trẻ của em
Em bắt hắn phải khóc hết năm này qua năm khác”.
Dumuzi, vị thần vĩ đại đang giãy chết trong thần thoại Sumer - giống như Osiris ở Ai Cập, Adonis ở Hy Lạp và nhiều vị thần khác - được những thường dân yêu mến, những người giải thích chu kỳ kịch tính của các mùa như cái chết thường niên của thần Dumuzi (Dumuzi, “khóc suốt năm này qua năm khác”) và tái sinh. Vì thế, thương cho số phận của Dumuzi, họ đã ngồi than khóc trong suốt những cơn mưa mùa đông. Âu cũng có thể là câu chuyện của Dumuzi về ký ức mờ nhạt của một thời mà những quốc vương của xứ Sumer được coi là những người chồng của nữ thần, theo chu kỳ bị giết chết để bảo đảm cho sự trù phú, giống như những vị vua trong các xã hội cổ đại khác.
Gilgamesh kết thúc sự liệt kê về người tình của Ishtar bằng một câu chuyện tương tự với câu chuyện về Dumuzi, đó là câu chuyện nói về thần vườn Ishullanu - biểu tượng của sự trù phú - với những phát minh có ý nghĩa quan trọng trong việc góp phần tạo nên vẻ đẹp của những thành phố thuộc xứ sở Sumer:
“Em yêu Ishullanu, người làm vườn của cha em,
Người đó lúc nào cũng mang đến cho em những giỏ chà là. Làm tươi sáng bàn ăn mỗi ngày;
Em mở mắt và đi theo hắn.
Ishullanu của riêng em, để chúng em tận hưởng sức mạnh của anh,
https://thuviensach.vn
Và hãy đưa tay sờ vào âm hộ của em!’
Nhưng Ishullanu nói với em rằng, ‘Tôi? Em muốn gì ở tôi? Có phải mẹ tôi không nấu cho tôi ăn, và tôi đã không ăn?
Cái tôi ăn (với em.) là những ổ bánh nhục nhã và bị khinh rẻ, Những cây bấc là vật duy nhất tôi phủ để chống rét.’
Em nghe hắn nói như thế này,
Em đánh hắn, biến hắn thành con ếch (?),
Để hắn ở lại giữa những thành quả lao động của hắn.
Nhưng cái cọc không còn đi lên nữa(?), [Thùng của hắn] cũng không còn đi xuống nữa.
Và với tôi thì sao? Em sẽ yêu tôi và [đối xử với tôi] cũng giống như với những người tình kia của em mà thôi!”
Giận dữ Gilgamesh vì “đã giải thích rõ ràng cho tôi hiểu sự ô danh và hổ thẹn của tôi” nên Ishtar đã lên trời thuyết phục cha mình là thần Anu gởi xuống một con bò thần để tiêu diệt Gilgamesh. Nhưng Gilgamesh cùng với Enkidu đã chiến thắng con bò thần hung dữ tưởng chừng như không thể thắng nổi ấy và đã ăn thịt nó. Vì sự nghịch đạo này, một trong hai người phải chết và các thần quyết định Enkidu phải chết. Tại sao phải là Enkidu? Trong nguyên bản của các bức phù điêu có thể có một gợi ý rằng Gilgamesh làm sai ý định thâm hiểm của các thần bởi vì ông luôn có vị thần bảo trợ cho riêng mình - người cha quá cố Lugalbanda có hình nộm di động mà Gilgamesh xức dầu thánh trong khi hiến dâng cho ông chiến lợi phẩm là cặp sừng khổng lồ của con bò thần, giờ đây được trang trí lộng lẫy với “ba mươi con yểng bằng đá da trời” và bao bọc với “hai con yểng bằng vàng”. Sự tôn kính này đối với tổ tiên hay gia thần khác có bộ dạng được định vị trong một hình ảnh nhỏ là nghi lễ của nhiều xã hội cổ đại.
Trước cái chết của Enkidu, Gilgamesh viết một bài thánh ca khóc than trong đám tang rất cảm động khiến tất cả những người tạo nên đô thị Uruk, thú vật hoang dã và đến cả cây cối phải rơi lệ, vì thế đã đưa Enkidu lên địa
https://thuviensach.vn
vị của một Dumuzi được yêu mến và cảm động. Gilgamesh kết thúc bằng một cử chỉ giống như Achilles đã làm nhiều thế kỷ sau đó trong thiên hùng ca Iliad về cái chết của người bạn chiến đấu Patroclus:
“Quay qua tôi, anh! Anh không lắng nghe tôi!
Nhưng anh ta không thể ngóc đầu lên.
Tôi sờ vào tim anh, nhưng nó không còn đập nữa”.
Gilgamesh khóc quằn quại trên thi thể của Enkidu trong sáu ngày bảy đêm, cho đến khi “mũi anh ta không còn hơi ấm” mới đưa Enkidu về nơi an nghỉ cuối cùng.
Enkidu, cũng giống như mọi người chết, đã đi xuống Kur, một nơi tối tăm, khô cằn, không niềm vui nằm ở phía xa một con sông nơi người lái đò - như Charon trong thần thoại Hades của Hy Lạp sau đó - chuyên chở những linh hồn mòn mỏi và trần trụi về nơi an nghỉ cuối cùng, ở đó “sâu bọ ăn [họ] như cái mền cũ”, ở đó một người “ngồi trong khe núi đầy bụi”. (Hình ảnh này không phải không giống hình ảnh của những họa sĩ thời Trung cổ vẽ cảnh địa ngục.) Gilgamesh kiên quyết né tránh số phận chung của con người bằng cách cố tìm cho được bí quyết trường sinh bất tử. Nhưng chỉ có duy nhất một người chết đã được ban cho sự trường sinh bất tử: Thần Bất diệt (Ut-napishtim). Nhân vật quan trọng này trong thần thoại Sumer, hình mẫu cho Noah trong chuyện kể của Kinh thánh sau đó, được nhận thấy là có đủ đạo đức để nhận được sự chỉ dẫn thần thánh về việc cứu lấy gia đình và dòng giống của tất cả những vật đang sống bằng cách đóng một chiếc thuyền lớn trong thời kỳ ban sơ của nạn Đại hồng thủy, khi Thượng đế muốn tiêu diệt loài người.
Sau khi làm khiếp sợ những sự phiêu lưu trong “đám người bò cạp có tinh hoa phát tiết ra ghê sợ và cái liếc mắt gây chết người”, Gilgamesh vĩ đại đã thành công khi gặp một bà chủ quán bia, người có thể hướng dẫn Gilgamesh đến thiên đường Dilmun, ở đó, “Thần bất diệt và giới đàn bà của người như các vị thần”, trường sinh bất tử. Nhưng duy nhất trong một phiên
https://thuviensach.vn
bản được bảo quản đặc biệt cẩn trọng đã cho thấy chính bà chủ quán bia đã đưa ra một lời khuyến rất khôn ngoan:
“Gilgamesh, anh lang thang về đâu?
Anh sẽ không tìm thấy cuộc sống bất diệt mà anh tìm kiếm. Khi các thần tạo ra loài người
Các thần chỉ định cái chết cho loài người,
Còn cuộc sống bất diệt thì các thần vẫn giữ lấy .
Vì thế, Gilgamesh này, hãy để cho cái bụng của anh no căng, Ngày và đêm hãy tự tận hưởng dưới mọi hình thức,
Mỗi ngày hãy sắp xếp cho những niềm vui thích.
Ngày và đêm, khiêu vũ và vui chơi,
Mặc trang phục tươi mát .
Luôn gội đầu sạch và tắm trong nước,
Cảm kích những đứa trẻ nắm lấy tay anh,
Để vợ anh tự tận hưởng trong lòng anh”.
Sau khi vật lộn với “những thứ của đá”, cuối cùng Gilgamesh cũng đến được với Thần bất diệt “một khoảng cách xa”; và Noah người Sumer này có ngay lời khuyên thắng thừng hơn:
‘[Tại sao (?)] anh tự ép mình? anh đã đạt được những gì nào(?)? Anh tự làm mình mệt mỏi vì thiếu ngủ,
Anh chỉ chất đầy da thịt anh sự buồn khổ,
Anh chỉ mang những ngày xa xôi (của sự toan tính) đến gần hơn. Danh tiếng loài người bị cắt giảm, như cây sậy trong đám sậy. Một thanh niên đẹp, một cô gái đẹp,
[ ] của tử thần.
Không ai thấy tử thần,
https://thuviensach.vn
Không ai thấy mặt của tử thần,
Không ai nghe giọng nói của tử thần.
Tử thần độc ác chỉ cắt giảm loài người.
Đôi khi ta xây một ngôi nhà, đôi khi ta xây một tổ ấm,
Nhưng rồi anh em phân chia gia tài thừa kế.
Đôi khi có sự thù địch [trên mảnh đất],
Nhưng rồi nước sông dâng lên gây ra lũ lớn,
Chuồn chuồn trôi trên sông,
Mắt ngước nhìn lên khuôn mặt của mặt trời,
(Nhưng rồi) đột nhiên không có gì cả.
Giấc ngủ (?) và cái chết gần như là một,
Hình ảnh cái chết không thể vẽ được…
Hằng năm, những vị thần vĩ đại tụ họp lại;…
Các thần định ra cái chết và sự sống.
Nhưng các thần không chỉ rõ thời gian cụ thể của cái chết, mà lại làm điều đó với sự sống”.
Dựa vào những lời điềm tĩnh có vẻ như tạo thành bài học chính của thiên sử thi này, chúng ta cáo từ Gilgames nhưng không thể không rút ra một số kết luận từ những gì đã đọc. Dù cho những độc giả bình thường cũng có thể dễ dàng nhận biết những phẩm chất nào đó của người Sumer - như yêu mến tài phát minh và khâm phục những ai đua tranh mà không hề nao núng - đây là những phẩm chất có giá trị trong xã hội chúng ta, nên ta sẽ bỏ lỡ nhiều nếu không chú ý đến việc những phẩm chất đó giữ vai trò khác nhau như thế nào trong bối cảnh cổ đại. Phát minh là tài sản của các thần-vì con người được tạo ra để làm tôi tớ cho các thần và hiến tế những lễ vật. Sự xâm lược của các chúa tể chiến binh, như Gilgamesh và những mối ràng buộc chặt chẽ của sự đoàn kết giữa các chiến binh là tối cần thiết cho các nhà nước thành thị ở Sumer; điều này dù thuộc về một nền văn hóa thống nhất
https://thuviensach.vn
và độc nhất nhưng vẫn có sự xung đột lẫn nhau một cách liên tục, như những nhà nước thành thị sau đó của Hy Lạp luôn tranh giành lẫn nhau một số thế lợi. Nhưng không thể có chiến thắng vĩnh viễn hoặc cho thành thị hoặc cho chiến binh. Ngay cả các thần cũng có sự xung đột lẫn nhau; và Gilgamesh tồn tại, dù những ước muốn của Ishtar bị lăng nhục có lẽ vì ông có được sự bao bọc của hai vị thần, con bò cái khôn ngoan là mẹ ông và Lugalbanda - lúc này được phong thần - là cha ông. Nhưng ai có thể nói khi con người xúc phạm những vị thần sẽ bị diệt vong? Và dù có thoát khỏi số phận này, đến lúc nào đó, chúng ta cũng không thể tránh được việc gặp mặt tử thần.
Có những sự bắt chước mờ nhạt trong sử thi Gilgamesh về những lời chú giải nghe có vẻ đầy sức thuyết phục và chặt chẽ hơn trong sử thi Do Thái, những cuốn Kinh Cựu ước đầu tiên. Điều này mặc dù được viết trong thời gian sau đó và ở một nơi hơi khác nhưng phát sinh ra từ thời gian và địa điểm này. Điều chắc chắn nhất của những tác phẩm này là chủ đề về trận lụt đầu tiên và chiếc thuyền lớn cứu vớt giống của các loài động vật khỏi bị hủy diệt3. Thần bất diệt và vợ ông ta trở thành “các thần” trong vườn địa đàng của Dilmun cũng có lẽ làm cho chúng ta nhớ về Adam và Eve có ước muốn trở thành “các thần” thúc giục họ thoát khỏi sự lưu đày ở vườn “Eden” - cái tên mà tự nó có thể là một sự vay mượn từ người Sumer,
3. Sự khám phá về nạn “Đại hồng thủy” của người Sumer trước đây bằng những nỗ lực đầu tiên để dịch những tấm phù điêu có chữ tượng hình nêm vào khoảng cuối thế kỷ thứ XIX, làm gia tăng nhiều mối lo âu giống như Darwin đã làm trong số những chiến thắng huy hoàng, ông đã thừa nhận mọi điều trong Kinh thánh là không có tiên đề vì đó là những “Lời của Chúa”.
https://thuviensach.vn
Trong số những sự bắt chước mù quáng mờ nhạt hơn của Kinh Thánh mà chúng ta có thể nhận ra trong những ghi chép cổ xưa nhất là ngôn ngữ tình yêu mà Ishtar dùng, không phải không giống ngôn ngữ trong làn điệu của những bài ca. “Hội đồng nhà trời” nhắc nhở chúng ta về nhiều cụm từ trong Kinh thánh trong đó dường như Chúa hội ý với thần thánh khác hay với những thiên thần và trong đó thiên đường được hình dung như một cung điện hoàng gia. Những sự mô tả về vương quốc của tử thần gợi nhớ lại không chỉ Hades của Hy Lạp mà còn Sheol của Do Thái. Những dòng nước lũ được mô tả như sự nổi lên từ thời hỗn nguyên bao bọc Đất “Trời, vũ trụ do các thần sắp đặt, theo cách rất giống sự hỗn loạn bao quanh sự sáng tạo nổi bật của Chúa vào thời điểm bắt đầu của “Chúa sáng tạo ra thế giới”. Và những lời khuyên bảo khôn ngoan từng trải của Thần bất diệt và bà chủ quán bia chắc chắn thúc đẩy chúng ta nghĩ về những tác phẩm thông thái của Kinh thánh, đặc biệt là những tác giả cuốn “Sách Thánh” có giọng điệu chán đời và hoài nghi.
Một chủ đề thuộc về Gilgamesh nhưng không thấy phản ánh trong những tác phẩm Kinh Thánh chính là sự sinh sản - hay nói đúng hơn là do âm sắc quá khác biệt làm cho nó không thể nhận ra được. Đền thờ Ishtar, át hẳn chiều cao của Uruk một cách đáng sợ, cảnh nghi lễ tình dục thần thánh liên quan đến những loại mại dâm cả nam lẫn nữ, cho phép chúng ta lần tìm dấu vết về một xã hội thậm chí cổ hơn Uruk, một xã hội mà sự giao hợp của con người được xem như là một sự diễn tả khu biệt về thiên đường và trần thế bao la, một cỗ máy sinh sản vĩ đại do các thần tạo ra, chính bản thân các thần là những người sinh ra nguyên hình - và có khả năng tình dục cao.
Chúng ta đã nhìn vào Uruk, đô thị bằng gạch nung này mọc lên trên bờ sông Euphrates hứng chịu cái nắng gay gắt của mặt trời xứ Mesopotamia, chúng ta đã hình dung về xã hội Uruk và lắng nghe những câu chuyện được kể nhiều lần. Những câu chuyện này là yếu tố của sự tiêu khiển ở Uruk. Bây giờ, hãy nghiên cứu kỹ về mức độ sâu sắc nhất của tinh thần người Sumer - những niềm tin tột cùng gắn kết xã hội này với nhau, ma trận tinh thần tạo ra thế giới quan của người Sumer. Nhưng nghịch lý thay, để nghiên cứu sâu
https://thuviensach.vn
hơn, thì phải leo lên cao hơn, vì chúng ta phải leo lên cầu thang cao ngất và bước vào đền thờ lớn nhìn kỹ độ cao của một đô thị khác của người Sumer - đền thờ mặt trăng, vệ thành của thành phố Ur, thủ phủ đế quốc cổ của Sumer. Khi tìm cách đi vào trung tâm thần bí, chúng ta cần hỏi một vài câu hỏi cơ bản về nơi này.
Tại sao các đền thờ đầu tiên được xây dựng tại những nơi cao nhất? Bởi vì đây là nơi gần bầu trời nhất. Và tại sao không gian linh thiêng nhất lại gần bầu trời nhất? Bởi vì bầu trời là thần thánh đối lập với cuộc sống trên trần gian, chính là sự vĩnh hằng trái ngược với cuộc sống tạm bợ ở trên trần gian. Lúc một người nguyên thủy nhìn lên bầu trời, họ đã thấy cuộc diễu hành rộng lớn của những nhân vật thần thánh liên tục lướt qua trước mắt - một vở kịch vũ trụ, rất hấp dẫn trong thứ tự vĩnh hằng và có thể dự đoán được. Đây là những vật đầu tiên và những mô hình vĩnh cửu cho cuộc sống tạm bợ; nhưng một vực sâu khủng khiếp hở ra giữa hai cuộc sống: trên thiên đàng, cuộc sống của các thần là vĩnh cửu và bất diệt, trong khi trên trái đất, cuộc sống là tạm bợ và kết thúc bằng cái chết. Sự suy ngẫm về những cuộc sống là kinh nghiệm tôn giáo ban sơ. Theo Mircea Eliade, một học giả tôn giáo ưu việt: “Cụm từ ‘suy ngẫm vòm trời” thật sự có vài ý nghĩa khi được áp dụng cho người nguyên thủy, để cảm nhận về những phép mầu mỗi ngày ở một mức độ khó tưởng tượng được. Sự thưởng ngoạn như thế giống như sự khám phá. Bầu trời tự nó thể hiện: vô tận và siêu việt. Vòm trời là, hơn các thứ khác, “một cái gì đó hơi tách rời” với điều nhỏ bé, mà điều nhỏ bé đó chính là con người và quãng đời của họ. Biểu tượng của sự siêu việt được rút ra từ nhận thức đơn giản về chiều cao vô tận của nó. “Cao nhất” tự nhiên trở thành đặc tính thần thánh. Những vùng nằm trên tầm với của con người được dành cho vẻ uy nghi thần thánh của tính siêu việt, của thực tại tuyệt đối, của tính vĩnh viễn. Đó là nơi ngụ cư của các thần; những người có đặc quyền [như Lugalbanda] đến đó như là kết quả của những nghi lễ mà sự bay lên của nó tác động đến thiên đường…. “Cao” là một cái gì đó mà con người không với tới được; nó thuộc về sức mạnh và lực lượng siêu nhiên; khi một người nghiêm trang bước lên những bậc thang của chốn tôn nghiêm, hay bậc thang tôn giáo dẫn lên trời cao, anh ta không còn là một con người”.
https://thuviensach.vn
Khi chúng ta tiếp tục trèo lên chốn tôn nghiêm, thế giới quan ban sơ của dân tộc đã xây dựng những bậc thang cho chúng ta đặt chân lên trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết. Vũ trụ quan của người Sumer dựa trên nhận thức của các xã hội trước đó, giờ đây quá cổ xưa không thể phục hồi được; và, với một vài sự điều chỉnh, nó được hầu hết các xã hội tiếp nối người Sumer công nhận như là chân lý cho đến ngay trước ngưỡng cửa của thời đại ngày nay. Trái đất là hình tròn phẳng gắn liền với vòm trời tại vòng ngoài của nó. Giữa đất và trời có yếu tố không khí, trong đó, ở trên cao lơ lửng những thiên thể đi ngang qua trước đôi mắt của những người ở trên trái đất, hiện ra hình ảnh của vở kịch thiên đường, cái mà dĩ nhiên cũng tiên đoán được cuộc sống ở trên trái đất, tự nó là một loại mô phỏng yếu ớt của vở kịch thiên đường. Sâu dưới mặt đất là vương quốc của tử thần - Hades, Sheo, địa ngục tăm tối là nơi mà người chết được đưa xuống. Mỗi một yếu tố quan trọng này là một thần: Trời là cha; Đất là mẹ; Không khí, chứa đựng sự vĩnh cữu nhưng là những hình ảnh xoay vần mãi mãi của vở kịch vũ trụ và những manh mối (đối với người phân tích sâu sắc) về cuộc sống của chúng ta ở trên trần gian, là trung gian giữa Trời và Đất và do đó là vị thần quan trọng nhất trong các vị thần của người Sumer; và Biển tất yếu là đồng minh rắc rối và khó lường, phải được đối xử thận trọng.
Nhưng chúng ta hãy tiến đến gần phạm vi linh thiêng của Mặt trăng. Sự xuất hiện của mặt trăng trong bầu trời đêm, hơn bất kỳ những thứ khác, đã làm mê hoặc những dân tộc cổ đại. Ngay cả ngày nay, cảnh sát ở tại bất kỳ thành phố nào trên trái đất cũng sẽ kể với bạn rằng tội phạm gia tăng vào thời điểm trăng tròn, và những người “điên rồ” đó - những người bị ánh trăng rằm làm cho điên cuồng (luna trong tiếng Latin) - sau đó trở nên hiếu động và khó chịu hơn nhiều. Những bà mụ và thầy thuốc thú y thì tin chắc rằng trăng tròn kích thích việc sinh đẻ. Cũng không ai phủ nhận sức lôi cuốn mãnh liệt mà ánh trăng dát lên những ngọn thủy triều của biển cả và đại dương bao la, như một vật thể vĩ đại trong bầu trời đêm chiếu rọi ánh sáng thanh tao lên những con sóng đang cuộn trào.
https://thuviensach.vn
Chúng tôi trèo lên những bậc thang cuối cùng đến lối vào, ngang qua những con rắn được khắc chạm có đôi mắt bằng đá xanh rực sáng. Chúng tôi đi ngang qua mặt trước cột trụ của tiền sảnh rồi đi vào sân nhỏ bên trong, từ nơi đó có thể thấy lờ mờ, qua một dãy cổng tò vò, hình ảnh xa xăm của thần mặt trăng lung linh trước ánh sáng của hàng trăm ngọn lửa dâng cúng tạ ơn. Những bức tường của sân nhỏ bên trong được trang trí bằng những hình nón màu đỏ , đen và nâu, tạo nên những mẫu kỷ hà chính xác - như những hình tam giác, hình thoi, hình chữ chi và hình xoắn ốc. Cuối cùng, chúng tôi bước vào đền Nanna - Sin, Thần mặt trăng của người Sumer, có bức tượng điềm tĩnh với đôi mắt to khổng lồ, con ngươi có nhiều sắc đang rực cháy một cách vô nghĩa. Phía sau bức tượng là mặt trăng vĩ đại được vẽ trên một bức tường, bao quanh mặt trăng là hình một con rắn đang trườn. Bên trong quỹ đạo mặt trăng là một con nhện đen khổng lồ với những ngón chân thon thả duỗi dài. Khi mũi chúng tôi ngập trong những làn khói nhang nồng nặc, tai của chúng tôi nhận ra một âm thanh đang rít lên: quanh đôi chân của Ninna Sin là những con mãng xà được làm nổi bật lên bằng các mẫu hình thoi màu đen và cam, cuộn tròn rồi duỗi thẳng cơ thể có vảy của chúng bằng động tác chậm chạp. Bị những tiếng ồn ào của sự chuyển động ngay trước mặt làm phân tâm nên chúng tôi không còn chú ý đến khuôn mặt nghiêm nghị của Sin, ở đó trên bàn thờ giản dị làm bằng gạch nung cao ngang thắt lưng, được bao bọc bởi đàn ruồi, có một con mãng xà lớn nhất đang ngấu nghiến bào thai của con lừa, máu của nó chảy thành dòng như những dòng suối nhỏ dọc theo những máng nước gọn gàng đổ vào những bát đặt tại chân bàn thờ. Vô tình, chúng tôi lùi lại khi mùi của máu nóng và ruột hòa lẫn với mùi nhang gây ngộp thở. Hớp một hơi không khí sau đó chúng tôi lùi lại vào sân trong.
Nhưng tối nay là đêm trăng tròn; khi màn đêm vội vàng buông xuống, mặt trăng trên bầu trời chiếu sáng vằng vặc, chúng tôi nghe những âm thanh của hàng trăm nữ tu đang cầu kinh vang lên buồn bã, đang thổi sáo và đánh trống cổ. Sau khi khoác vào những bộ lễ phục, họ nghiêm trang tụ hợp quanh sân hiên đền thờ, ngước nhìn lên kim tự tháp có bậc nằm bên ngoài đền thờ, gần như bất chấp quy luật về hình học, có vẻ vươn lên tận trời cao. Tại bệ cao nhất của đền tháp này (gọi là kim tự tháp có bậc là vì thế) là một
https://thuviensach.vn
đền thờ đá xanh nhỏ nhưng chói sáng, được chạm khắc hình thù những con rắn và những con nhện khổng lồ hết sức tinh xảo, ở đó, có một thanh niên mới lớn lưng bị trói vào đền thờ. Anh ta trần trụi, nhưng da thịt được trang trí bằng những mẫu hình thoi và hình chữ chi cho giống với con rắn hổ mang. Những nữ tu ở địa vị cao nhất cũng trần trụi ngoại trừ những chiếc vòng đeo tay có hình xoắn ốc và những chiếc nhẫn to lớn, họ đang xoa bóp chàng trai theo cách thức trước khi giao phối một cách nhẹ nhàng mơn trớn. Khi ánh trăng rọi vào dương vật đang cương cứng của anh ta, thì bỗng nhiên có một nữ tu kiêu kỳ nhất trong bộ trang phục bằng bạc xuất hiện. Giờ đây thân hình cô hoàn toàn trần truồng, ngoại trừ vô số hạt ngọc trai trang hoàng trên cơ thể và những đường xoắn ốc được sơn tô điểm cho đôi vú, cô leo lên chàng trai với sự hỗ trợ của các nữ tu. Các nữ tu đã gào thét cổ vũ với cường độ càng lúc càng tăng cho đến khi cô cưỡi lên mình chàng trai, lúc đầu với thái độ đường hoàng nhịp nhàng, rồi sự rung động tăng dần cho đến khi những hạt ngọc trai rung trong ánh trăng giống như những hành tinh nhỏ xíu, những hình thoi và hình xoắn ốc chiếu sáng, và cả hai thân thể ôm nhau quằn quại, mồ hôi nhễ nhại, hiện ra không phải là quá nhiều thân xác trần tục như những sức mạnh siêu nhiên của vũ trụ. Những nữ tu cấp bậc thấp nhất vẫn còn ở bên ngoài sân hiên của chân đền tháp, cấp bậc cao hơn được sắp xếp theo tầm quan trọng tăng dần trên những bậc cao của chính ngôi đền, tất cả họ đang dần trở nên hoang dại và ngây ngất. Xé toạc áo choàng và tự mần mò, họ hướng lên sự việc trên tầm cao của tháp đền và lên chính mặt trăng mà gào thét điên cuồng.
Trong một khoảnh khắc như thế, các du khách dần dần trở nên bị mê sảng rồi ngất đi. Có thể đưa ra giả thiết là vào lúc tỉnh lại, chúng ta đơn độc trên hành lang được soi rọi bởi ánh trăng tròn ma quỷ. Chúng ta ngước nhìn lên đền tháp bị bao phủ bởi một án thờ trống không có màu xanh dương sống động và tự hỏi rằng phải chăng những cảnh tượng vừa rồi là một giấc mơ?
Những gì tôi vừa thử chính là một sự tái tạo mà bất kỳ học giả nào cũng có thể chê trách ở chi tiết này hay chi tiết khác. Những đền thờ và tháp thờ
https://thuviensach.vn
của người Sumer phơi bày sự hao mòn qua nhiều thiên niên kỷ, khó tu sửa hơn rất nhiều so với những bức phù điêu; nhưng lấy một mẫu hiện còn của một khu vực thần thánh này kết hợp với một mẫu hiện còn của khu vực thần thánh khác, tôi đã miêu tả khá chính xác về một Đền thờ mặt trăng có thể có và đền tháp đi cùng với nó. Đối với nghi lễ trăng tròn, dù thật sự không biết nhiều về những chi tiết của nó, nhưng chúng ta biết rõ nghi lễ này được tổ chức một cách nghiêm trang trên khắp Sumer để kỷ niệm những tuần trăng. Chúng ta biết rằng sự sùng bái mặt trăng được coi là vấn đề trung tâm ở thành phố Ur, thủ đô của Sumer (mặc dù thủ đô di chuyển khắp nơi tùy thuộc vào thành phố nào giữ vai trò thống trị tại một thời điểm cụ thể) và hành động giao hợp thần thánh (hay “hôn nhân”) là yếu tố chủ yếu trong trình tự hành lễ của người Sumer; có những con điếm tu sĩ thần thánh cả nam lẫn nữ; người bề trên (hay tu sĩ bề trên) của đền thờ và đoàn tùy tùng của họ luôn có giới tính ngược với giới tính của thần được thờ phụng ở đó. Nanna-Sin, vị thần mặt trăng của người Sumer, là nam giới, vì thế đền thờ thần được bố trí toàn là nữ tu. Tại Uruk, ở đó Ishtar, nữ thần tình yêu không kiên định, được thờ cúng đặc biệt, đền thờ thần được bố trí toàn là tu sĩ nam và hàng năm cứ mỗi độ xuân về thì đích thân nhà vua (đại diện thay thế cho Dumuzi) có sự hội họp với một cô gái điếm nữ thần thánh hay nữ tu (đại diện thay thế cho Ishtar) để bảo đảm cho sự trù phú của vương quốc trong suốt những vụ mùa gieo hạt, chăm bón và thu hoạch. Trong nghỉ lễ này, tất cả các quan chức của thành phố phải đứng thành hàng sát nhau để chứng kiến. Liệu những điều huyền bí của mặt trăng là công khai (rõ ràng cho tất cả dân chúng ở nhà nước - thành thị này) hay là nửa riêng tư (như tôi mô tả) hay diễn ra rất riêng tư mà chúng ta không thể nói được. Nhưng không có lý do gì để nghĩ rằng người Sumer thích hình dung về Enki, vị thần nước hung hãn, ủng hộ sự cương cứng khổng lồ trong lúc xuất tinh, còn người Tigris thì lại mắc cỡ về chuyện tình dục; và chắc có thể là một tập tục mà tôi mô tả là quá trác táng và có liên quan đến những sự giao hợp phức tạp và là nét lớn của cả hai giới. Những gì tôi thực sự muốn biết nhiều hơn chính là cô gái điếm bị hãm hiếp: có phải anh ta/cô ta đổ cho số phận hay bị giữ làm con tin của trận đánh? Sau sự việc anh ta/cô ta bị biến thành một phần vĩnh cửu của
https://thuviensach.vn
chức thầy tế của đền thờ hay bị cúng tế như một con thú - như chính vua Uruk, chí ít trong thời kỳ cổ xưa nhất, có lẽ đã bắt chước nghi thức tế lễ của vị thần vườn Dumuzi chăng? Điều này cũng không thế biết, nhưng chúng ta biết rõ sự hy sinh của con người không vượt xa hơn người Sumer, vì các nhà khảo cổ học đã khai quật những phòng ngủ bị chôn vùi của các vị vua đã chết được chôn cất cùng toàn bộ gia đình, tùy tùng và nô bộc của họ.
Nếu có thể quay trở về đúng thời kỳ Sumer cổ đại, giống như những nhân vật trong một bộ phim của Steven Spielberg, chúng ta sẽ nhận thấy nền văn hóa này thật hấp dẫn và thậm chí là khiêu dâm, nhưng rồi xa lánh và thậm chí cảm thấy ghê tởm, đáng sợ và nguy hiểm. Cuộc sống con người được xem như là một sự tái hiện yếu ớt về cuộc sống trên thiên đường vĩnh cửu, bị chi phối bởi định mệnh vượt ra ngoài phạm vi quyền lực bị giới hạn một cách đáng thương của loài người. Các thần đã quyết định số phận của một người được viết trên các vì sao và không thể nào bị thay đổi.
Và không có một nhân vật nào trên thiên đường quan trọng hơn mặt trăng, hình ảnh thiên đường về cuộc sống trần tục đó được sinh ra, tròn dần lên rồi khuyết đi và biến mất giống như vòng đời của một con người, rồi quay trở lại cuộc sống mới, chính xác xảy ra trong phạm vi trần tục.
Rất lâu trước khi những đô thị của Sumer mọc lên bên bờ sông Tigris và Euphrates, và rất lâu trước khi con người nghĩ đến việc làm nông và chăn nuôi, những sinh vật đầu tiên trên trần gian ngước nhìn lên bầu trời với sự tập trung chú ý và trí thông minh đã có những ý nghĩ này. Sự nhận thức về cuộc sống ngẫu nhiên trên trần gian giống như sự phản ánh thoáng qua của cuộc sống vĩnh hằng trên thiên đường, thực chất là ánh phản chiếu đặc biệt của mặt trăng lên điều kiện sinh sản, giao cấu và cái chết cá nhân thuộc về trần thế của chúng ta - và rồi sự tái sinh của các loài - những tư tưởng như thế diễn tả kinh nghiệm tôn giáo nguyên thủy của loài người và thiết lập nền móng cho tất cả các tôn giáo cổ xưa nhất ở trên thế giới.
Một số nền văn hóa tiền sử coi mặt trăng là đàn bà, một số khác thì lại coi mặt trăng là đàn ông, nhưng luôn luôn được gắn kết chặt chẽ với cơ thể của người phụ nữ giống như mặt trăng phát triển theo chu kỳ hàng tháng; và
https://thuviensach.vn
đây là những chu kỳ kinh nguyệt của người phụ nữ ở trên trái đất mà nhiều nền văn hóa tin rằng nó được làm bằng một thứ chất liệu giống như mặt trăng, thậm chí là đứa con của mặt trăng.4
4. Học thuyết do Marlja Gimbutas và những nhà khảo cổ theo thuyết nam nữ bình quyền khác đưa ra rằng Đấng Toàn năng (Great Mother) là một vị thần đầu tiên của loài người hầu như là sai hoàn toàn. Thiên đường và những cảnh tượng của nó là những vật thể đầu tiên của lòng mộ đạo và sự sùng bái. Nữ thần trái đất, mặc dù thuộc về quyền thế cực kỳ to lớn và luôn luôn là phần bổ sung của Thiên đường, chắc chắn trở thành nét nổi bật đặc biệt với sự phát minh về nông nghiệp.
https://thuviensach.vn
Những gì mà tư duy của họ nhận thấy là quá hiển nhiên chính là những sự tương thích: đàn bà giống như mặt trăng và cả hai giống như trái đất; nhưng đàn bà thì được sinh ra và chết đi, trong khi đó thì mặt trăng tồn tại mãi mãi. Chính vì vậy, mặt trăng là hình tượng bất diệt của tính biến đổi. Tương tự, từng thiên thể khác - như mặt trời, những chòm sao và những hành tinh bất biến - cung cấp cho chúng ta vài hình mẫu vĩnh hằng về cuộc sống trần gian trụy lạc, có những mùa với những cái chết có thể dự đoán trước được và sự tái sinh. Trời cao là vương quốc của thần cha, mà cơn mưa của nó làm thụ thai giống như tinh dịch. Nhưng trong khi trời là vương quốc của sự vĩnh hằng thì trần gian là vương quốc của tử thần, một địa hạt không phải của những khuôn mẫu mà chính là của những trường hợp chết chóc. Hạt giống sẽ chết nếu lúa mì trưởng thành, giống như tất cả các vật đang sống trưởng thành thoát khỏi sự mục nát, giống như tất cả cuộc sống tương lai phải bắt đầu bằng sự hy sinh của cuộc sống hiện tại và tất cả cuộc sống trên trần gian đều phải kết thúc bằng cái chết.
Có lẽ đối với hầu hết tất cả chúng ta, dường như bầu trời không còn là hình ảnh xoay vần của các thần; ngoại trừ những người đoán số tử vi, có lẽ bầu trời không phải là khuôn mẫu hay định trước cuộc sống trên trần gian. Nhưng bầu trời vẫn còn là phép ẩn dụ chủ yếu của chúng ta về sự vô hạn và tính siêu việt. Theo cách căn bản và không triệt để, chúng ta vẫn nhìn thấy bằng đôi mắt của những tố tiên cổ xưa nhất của mình và những con tim của chúng ta vẫn cùng chung một nhịp đập con tim với tổ tiên cổ xưa nhất của mình.
https://thuviensach.vn
CHƯƠNG 2
CUỘC HÀNH TRÌNH TRONG BÓNG ĐÊM
Sự cách tân không thể giải thích được
Trong biến cố của bầu trời quay vòng, những dân tộc nguyên thủy nhìn thấy mô hình bất tử giống bánh xe tiên đoán về cuộc sống tạm bợ ở trên trần gian, ở trung tâm của vòng sinh tử này, họ tìm thấy ‘Căn nguyên của sự chết’. Những sự tương thích mà người nguyên thủy phân biệt giữa thực tại trần tục và thiên đường được phản ánh trong nền nghệ thuật cổ xưa nhất của họ - những hình xoắn ốc, hình zigzag và hình thoi có thể được tìm thấy ở hầu khắp mọi nơi trong những di tích cổ xưa nhất còn để lại cho chúng ta. Hình xoắn ốc, luôn luôn xoay tròn, tượng trưng cho bản chất tuần hoàn của thực tại - của các tuần trăng, sự thay đổi giữa các mùa, chu kỳ thân thể của một người phụ nữ, vòng tuần hoàn sinh sản, giao hợp và chết. Hình zigzag, đôi lúc tượng trưng cho sấm chớp, thường được kết hợp với mặt trăng vì người ta cho rằng mặt trăng kiểm soát tất cả các nguồn nước và sự sinh sản - và sấm chớp thường xuất hiện trước một cơn bão. Nhưng từ thời xa xưa nhất, hình zigzag chính là biểu tượng của dòng nước đang chảy, được tìm thấy trên những đồ gốm vào cuối thời kỳ đồ đá và trong số những chữ tượng hình cổ nhất của người Ai Cập. Hình thoi hoặc hình kim cương là biểu tượng cổ của âm hộ, sau đó được biến đổi thành hình tam giác có đường kẻ và trở thành chữ tượng hình ban sơ của người Sumer dùng để chỉ “phụ nữ”.
https://thuviensach.vn
Gần đây ở Australia, người ta phát hiện ra những thứ rất có thể là những tác phẩm nghệ thuật đầu tiên của con người: đó là một chuỗi những hình tròn được khắc trên một khảm đá sa thạch dài 130 bộ, phát hiện này đưa chúng ta quay lại thời kỳ cách đây 75.000 năm - thời điểm mà người cổ đại lần đầu tiên ghi nhận sự xuất hiện và tồn tại của ‘Mô hình vĩ đại’, được tìm thấy ở khắp mọi nơi: ‘Vòng sinh tử’.
Tôn giáo là một hiện tượng phức tạp và những sự tương thích nhanh chóng trở nên phức tạp hơn, đòi hỏi phải phân tích đúng đắn và sử dụng có hiệu quả. Con rắn hình dương vật thay da và biến mất vào một khoảng thời gian của mỗi năm và người ta nghĩ là nó đã chết đi rồi sau đó sống lại. Trong nhiều nền văn hóa khác nhau, con rắn hình dương vật đã trở thành biểu tượng trần tục của mặt trăng. Các tượng thần được tìm thấy ở những vùng xa xôi như nền văn hóa Ngan-Yang và Panchan của Trung Quốc cuối thời kỳ đồ đá và nền văn minh của cư dân bản xứ châu Mỹ ở vùng Calchaqui đều có hình một con rắn được uốn theo hình thoi, biểu thị sự kết hợp giữa đực và cái, biểu tượng của chủ nghĩa lưỡng thể hòa hợp và là vật tiên đoán chắc chắn về sự sinh sản. Một sinh vật mặt trăng khác là nhện. Mạng nhện tuần hoàn óng ánh như bạc dùng để bẫy mồi trong hình ảnh về số phận con người mà người ta nghĩ là do mặt trăng - thứ có tác động lên mọi sinh vật đang sống - điều khiển. Con bò mộng có sừng chính là hình ảnh trăng lưỡi liềm, được ví như thần Nanna-Sin - Người chính là ‘con bê lực lưỡng có cặp sừng khỏe khoắn’ hay ‘con bò tơ của bầu trời’. Ngọc trai là tấm bùa của thần mặt trăng, đó là một mặt trăng nhỏ bé đang chiếu sáng chứa đựng bên trong âm hộ của con ngọc trai, ở Mexico thuộc thời kỳ văn hóa của cư dân bản địa, ốc sên, với những chiếc râu lúc thò ra lúc thụt vào giống như mặt trăng lúc ẩn lúc hiện, được ví như mặt trăng thiêng liêng; loài gấu ở châu Âu kỷ băng hà cũng được xem như vậy, nó xuất hiện rồi biến mất theo mùa và là tổ tiên của loài người. Trong số những dân tộc được phân tán rộng khắp như những thổ dân châu Phi, người Samoyed và người Trung Quốc, toàn bộ những tượng thần mặt trăng đều bị khuyết một tay hoặc một chân (giống như vầng trăng khuyết). Đặc điểm này được quy định bởi sức mạnh làm cho mưa xuống và ban cho con người sự duy trì giống nòi của họ.
https://thuviensach.vn
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CHỮ VIẾT
(1) Những chữ tượng hình ở dòng trên cùng ban đầu tượng trưng cho ‘ngôi sao’ nhưng về sau được dùng để chỉ ‘Thượng Đế? (2) Hình tam giác có đường kẻ (có biểu tượng cổ hơn, hình thoi hoặc hình kim cương) tượng trưng cho cơ quan sinh dục nữ nhưng về sau được dùng để chỉ ‘phụ nữ.’ (3) ‘Những ngọn núi.’ (4) ‘phụ nữ núi’ nghĩa là một nữ nô lệ người Semite.
https://thuviensach.vn
Bảng trên (từ trái sang phải) mô tả quá trình phát triển của mỗi ký hiệu từ một chữ tượng hình nguyên bản đến một biểu tượng được khắc chạm dễ dàng hơn, được hình thành bởi những đường nét của một dụng cụ nhỏ hình cái nêm - như vậy tạo thành hệ thống chữ viết cổ có hình cái nêm.
Khi xem xét những nét tương thích mà người nguyên thủy nhận thấy rất rõ ràng, chúng ta, những người thuộc thế hệ hậu Aristote, dường như bị cuốn hút bởi sự bất hợp lý của họ hơn là sự chính xác, Nếu đứng ở góc độ xã hội nguyên thủy để xem xét, chúng ta phải gạt bỏ đi tư duy hợp lý và trí thức khoa học. Eliade viết: “Điểm mấu chốt của tất cả những sự giống nhau này, trước hết là để liên kết con người với nhịp điệu và năng lượng của vũ trụ và sau đó hòa quyện những nhịp điệu đó” - giống như trong nghi thức giao hợp thiêng liêng - “hợp nhất các trung tâm và cuối cùng là hòa nhập vào cái siêu nghiệm, Eliade gọi quá trình trên là “sự hợp nhất căn bản”. Mục đích cơ bản của thần học thời nguyên thủy hoàn toàn không khác gì so với mục đích của bất cứ ai trong nỗ lực đạt tới chân lý: những người này, tổ tiên xa xưa của chúng ta, tiến hành tìm kiếm tri thức đắc dụng, giúp họ đạt được sự thịnh vượng, con cháu đông đúc và sự bất tử duy nhất mà con người có được - bảo đảm con cháu của họ không chết cùng với họ. Và những người có đời sống tâm linh huyền bí hơn thì tin rằng tri thức có thể cho phép họ tiếp xúc với một điều gì đó bên ngoài bản thân họ. Tất cả các lễ nghi đều có hạt nhân phi lý và thần bí của nó, có đỉnh cao của sự thánh hóa, có những giây phút xuất thần; và dù đó là nghi thức thánh hóa bánh và rượu trong Thiên Chúa Giáo, vũ điệu của những người Hồi giáo, hay khoái cảm của người Sumer thì mục đích của nó là hướng đến một sự hợp nhất tuy ngắn ngủi nhưng tuyệt diệu với thực tại siêu nghiệm. Đối với những người cổ đại, những thực tại như vậy nằm ngoài trái đất, thậm chí nằm ngoài mặt trăng. Cicero đã viết: “Supra lunam sunt aeterna omnia”, nhắc lại một tín ngưỡng cổ xưa nhất ở vùng Địa Trung Hải về những khái niệm tuyệt đối, nó có nghĩa là: “Bên kia mặt trăng là tất cả những gì vĩnh cữu”.
Khoảng một hoặc hai thế kỷ đầu thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên, một gia đình ở thành phố Ur nhận thấy không có thể giới quan tĩnh
https://thuviensach.vn
tại về những khái niệm tuyệt đối thiêng liêng và sự tha hóa trần tục này. Theo sách Sáng thế, quyển sách đầu tiên của Kinh thánh, họ chính là gia đình của Terah:
Sau đây là dòng dõi của Terah:
Terah sinh Avram5 , Nahor và Haran;
còn Haran sinh Lot.
Haran qua đời khi cha ông còn sống ở Ur thuộc miền Chaldean sinh quán của ông.
Avram và Nahor đều cưới vợ; vợ Avram tên Sarai còn vợ của Nahor tên Milcah con gái của Haran, Haran là cha của Milcah và Yisca. Sarai hiếm muộn không có con.
Terah dẫn theo Avram con trai mình, Lot con trai của Haran, cháu mình và con dâu Sarai vợ của Avram, họ cùng nhau rời khỏi Ur thuộc Chaldean mà đi tới vùng đất Canaan. Nhưng khi họ đi tới Harran thì liền định cư ở đó.
Terah lúc sinh thời thọ 250 tuổi và sau đó qua đời tại Harran. 5. “Avram” là Abram trong hầu hết các bản dịch tiếng Anh, là người rốt cuộc cũng sẽ trở thành “Avraham” - Abraham trong hầu hết các bản dịch. Tôi đang sử dụng bản dịch mới và lỗi lạc về Sách Sáng thế do Everett Fox tiến hành, bản dịch này sát với bản gốc bằng tiếng Hebrew rất nhiều so với tất cả các bản dịch khác, bao gồm cả vần điệu của nó. Tôi thường sử dụng vẫn điệu của một dịch giả mà tôi đang trích dẫn, mặc dù đôi khi tôi trở lại vần điệu truyền thống của Vua James trong những phần tóm lược. Cụm từ “về Chaldeans” trong đoạn này là một sự sai năm tháng, được cung cấp bởi một vị tư tế (thuộc Do Thái cổ) để đặt vào hoàn cảnh Ur dành cho độc giả thuộc về thời kỳ sau đó khi thung lũng Euphrates đã bắt đầu bị thống trị bởi Chaldean Semites (người mà rất lâu sau đó đã trao cái tên của họ cho một dân tộc thiểu số theo đạo Cơ đốc hệ phái Chaldean ở Iraq). Nhiều sự sai năm tháng như thế có thể được tìm thấy trong sách Sáng Thế.
https://thuviensach.vn
Thoạt nhìn, độc giả có thể cho đây là một câu chuyện không mấy ấn tượng, trong cái vẻ giản dị lẫn khác thường của nó (Terah, bất kể ông là ai, không thể nào sống hơn hai thế kỷ), câu chuyện này có những nét tương đồng cụ thể với những câu chuyện kể của Sumer nếu không có một chút yếu tố thần thoại trong đó. Nhưng chúng vẫn có những chỗ không giống nhau đáng kinh ngạc: đó là sự bảo tồn danh tính và dòng dõi của những nhân vật cổ đại - thậm chí của cả phụ nữ, những người không phải là vua cũng chẳng phải là thần thánh; và tầm quan trọng được đặt lên những gì ít nhất được coi là những ghi chép phả hệ chính xác.
Gia đình của Terah là một gia đình thuộc cộng đồng người Semite đã định cư lâu đời ở Ur bấy giờ là sinh quán của ông. Hàng trăm năm trước, tổ tiên của ông đã từng tham gia cuộc cách mạng của những bộ lạc du mục người Semite nhằm lật đổ quyền lực của người Sumer nhưng sau đó lại bị đồng hóa bởi chính nền văn hóa đô thị tiên tiến ở vùng này. Được dịch từ ngôn ngữ miền Semite gọi là Hebrew, những dòng trích trên được tìm thấy trong sách Sáng thế chỉ sau những câu chuyện về việc con người được dựng nên, từ ‘Công cuộc sáng tạo’ cho đến cơn ‘Đại hồng thủy’. Nhưng không giống những câu chuyện trước đó, biên niên sử của gia đình Terah không giống một câu chuyện thần thoại mà giống một nỗ lực thuật lại lịch sử có thực; mặc dù dưới dạng văn viết và có lẽ câu chuyện này đã được kể cách đây 3000 năm, nhưng đó là sản phẩm của truyền thuyết truyền miệng đưa chúng ta trở về với thời kỳ cách đây gần 4000 năm - gần với thời điểm bắt đầu của thiên niên kỷ thứ 2 trước Công nguyên và cũng gần với giai đoạn của thời kỳ hoàng kim của người Babylon ở Sumer dưới sự bảo hộ của vua Hammurabi, vị hoàng đế đầu tiên trên thế giới.
Chúng ta không thể biết chắc chắn những công dân thành Ur nghĩ gì khi họ rời đi. Chắc cũng không nhiều lắm. Họ đi từ Ur theo hướng Tây Bắc dọc theo sông Euphrates tiến về Harran, một thành phố cũng được hiến dâng cho mặt trăng, một thành phố chị em của Ur và rất giống Ur về lối sống. Vì thế, nỗ lực đầu tiên tại khu vực tái định cư ở Harran có lẽ chỉ nhằm cải thiện đời sống trước mắt của họ và có một vài lý do để tin rằng họ chắc chắn sẽ
https://thuviensach.vn
không định cư vĩnh viễn ở Harran. Tuy nhiên, đối với Avram, Harran chỉ là một nơi nghỉ chân. Điều kỳ lạ trong chuyến hành trình này chính là việc dự đoán đích đến cuối cùng của họ lẽ ra phải là Canaan, một vùng hẻo lánh của những bộ lạc người Semite, những người (ít nhất là theo tranh biếm họa của người Sumer) ăn thịt sống và thậm chí không biết cách chôn người chết. Không ai có gia đình sống ở Ur mà lại nghĩ tới việc rời bỏ nó trừ khi để đi tới một nơi giống như nó. Vậy những gì ta đang chứng kiến ở đây là một sự di cư sai phương hướng, một sự thoái lui trở về những nguồn gốc cơ bản hơn mà những cư dân Semite thành thị trước đây định cư ở Sumer đã chối bỏ trong nhiều thế kỷ. Những cuộc di cư đặc biệt này lại làm thay đổi bộ mặt trái đất bằng cách thay đổi vĩnh viễn suy nghĩ và cảm xúc của con người.
Ở Harran, Terah và gia đình ông trở nên giàu có và chính là nơi mà Thiên Chúa đã cất tiếng gọi Avram:
Hãy ra khỏi quê hương,
rời bỏ họ hàng và gia đình thân phụ ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi.
Ta sẽ làm cho ngươi trở nên một dân tộc phi thường và sẽ chúc phúc cho ngươi để danh ngươi sẽ nên vĩ đại.
Ngươi sẽ trở thành một vị thánh
Ta sẽ ban phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi
Và ta sẽ ghét bỏ những kẻ nguyền rủa ngươi.
Toàn dân trong thiên hạ sẽ nhờ ngươi mà được chúc phúc.
Vậy là ‘Avram ra đi’ cùng với Lot và Sarai như lời tác giả vô danh viết. Họ đã mang theo tất cả tài sản hiện có cùng với tất cả các đầy tớ của mình ở Harran, nghĩa là cả hai đại gia đình lại cùng lên đường. Nhưng ngoài những thành viên trong gia đình và tài sản, họ còn mang theo cả lối sống vùng Sumer. Dù cho chuyến đi này có mang ý nghĩa tượng trưng cho sự cắt đứt với quá khứ thi Avram, Sarai, Lot, gia đình và cả những nô lệ của họ cũng là dân của xứ Sumer nên họ không thể thoát khỏi nếp nghĩ về nền văn hóa của chính mình. Một điều mới mẻ đang xảy ra ở đây, nhưng nó đang xảy ra
https://thuviensach.vn
giống như tất cả những gì mới tất yếu phải xảy ra - ở giữa thực tại bình thường của cuộc sống hàng ngày. Một câu nghịch biện Latin ngày xưa đã nói “Nova ex veteris”, nghĩa là ‘Cái mới phải được sinh ra từ cái cũ.’
Vì một lẽ, gia đình này rõ ràng đã gắn bó chặt chẽ với những quan niệm của người Sumer về tầm quan trọng của việc kinh doanh; nếu không, tác giả sẽ khó có thể nghĩ và viết ra một cách ngắn gọn ‘tất cả tài sản hiện có họ đã mang theo’ - đó là tất cả những của cải mà họ đã gầy dựng được trong suốt thời gian ở Harran. Chúng ta có thể biết một số quan niệm mà họ mang theo - hành trang tinh thần của họ là gì hầu như đã quá rõ, vì chúng ta có thể chỉ ra được những quan niệm tôn giáo của người Sumer trong những bản viết cổ nhất của hậu duệ Avram. Có người nói Avram chính là Thiên Chúa cứu độ; và trước hết là, trong tâm trí của Avram, vị Thiên Chúa này có thể cũng không khác gì nhiều so với Lugalbanda, vị thần hộ mệnh của anh hùng Gilgamesh - bức tượng của thần Lugalbanda đã được Gilgamesh xức dầu để cầu sự may mắn. Có nhiều thần, nhưng mỗi người đều có một vị thần bảo hộ riêng của mình - một bậc tiền bối hay thiên thần “ có nhiệm vụ chăm sóc đặc biệt cho họ. Những vị thần nhỏ bé này, được tượng trưng bởi những tấm bùa hay các bức tượng, giống như tất cả các thần, thực chất đều là người trong gia đình - đó là các thần của một người, một gia đình, một thành phố, một bộ lạc - đều ganh tị và hay cãi nhau giống như tất cả các thành viên trong một gia đình. Ngay trong một trường hợp cụ thể các vị thần này không chịu trách nhiệm cho tội lỗi (dù đôi lúc họ phải chịu trách nhiệm cho những tội lỗi đó), thì trong nhiều trường hợp họ lại hoàn toàn không có khả năng chống lại tội lỗi - và, trong bất kỳ trường hợp nào, con người cũng đầy rẫy tội lỗi. Ut napishtim đã phát biểu một cách khôn ngoan rằng “Con người cư xử một cách tồi tệ”. Một câu ngạn ngữ được người Sumer ưa thích nhất đã cảnh báo: “ Sẽ không bao giờ có một đứa trẻ vô tội được sinh ra”. Vậy cách tốt nhất để tránh những điều trên là thực thi đầy đủ những bổn phận tôn giáo của mình bất kể là ai, điều này lý giải tại sao những đền thờ ở Sumer lại được miêu tả bằng một sự chính xác cao và những nghi thức tế lễ (bao gồm phần yến tiệc và những nghi thức giao hợp thiêng liêng) lại được cử hành với sự quan tâm đặc biệt. Chính việc coi trọng những nghi thức thờ phụng
https://thuviensach.vn
như vậy mà lời của Ut-napishtim được cho là chính đáng và những hành động tôn kính như vậy mới chính là sự đảm bảo duy nhất của người Sumer chống lại những ý thích bệnh hoạn của các thần.
Chúng ta nhận thấy trong sử thi Gilgamesh có một số yếu tố thần thoại mà trong Kinh Thánh đã bắt chước một cách mù quáng (câu chuyện về Gilgamesh có sức tác động lớn đến nỗi nó cũng còn ảnh hưởng đến những câu chuyện của người Hy Lạp mà Homer đã tập hợp lại trong tác phẩm Odyssey cũng như tác phẩm ‘Đêm Ả Rập’ của Hồi giáo trung cổ. Khoảng cuối thế kỷ thứ VI trước Công nguyên, ngay thánh địa Jerusalem, những người phụ nữ Do Thái đã ngồi than khóc vì thần Dumuzi - thần Tammuz trong Kinh Thánh) mà nhà tiên tri Ezekiel nhắc tới bằng một sự khinh ghét. (Truyền thuyết về vị thần đang hấp hối này đã để lại một ảnh hưởng quá lâu đến nỗi hiện nay Tammuz cũng chính là tên của một tháng trong năm theo hệ thống lịch của người Do Thái). Rất có thể trong chuyến hành trình của mình, gia đình Terah đã mang theo những câu chuyện của Sumer về những bậc tổ tiên đã sống rất lâu và cả những vị thần xấu tính - chẳng hạn như câu chuyện về nữ thần Ishtar đố kỵ có một “cây cuộc sống” thiêng liêng được một con mãng xà bảo vệ; hay câu chuyện về một đấng tổ tiên có lòng mộ đạo vô song cho phép vị này cứu được phần còn lại của sự sống trong cơn Đại hồng thủy. Và khi gia đình Terah ngoảnh đầu nhìn về phía chân trời đằng đông, thì thứ cuối cùng của Sumer mà họ nhìn thấy là cái tháp của Harran do người Sumer nỗ lực dũng cảm trèo lên trời, một ngày nào đó sẽ trở thành ngọn tháp Babel ngớ ngẩn và hoang đường trong sách Sáng Thế.
Nhưng cũng đúng rằng, dù ‘thuộc về Sumer’ như thế nào đi nữa thì cuộc hành trình vào hoang mạc có thể đã trông cậy vào một người quan sát ngẫu nhiên, người lãnh đạo cũng mang theo một quan niệm hoàn toàn mới mẻ. Ta biết rằng Avram đang tiến về Canaan, nhưng có đúng vậy không? Chắc chắn việc đề cập tới Canaan trong phần mô tả tóm tắt về dòng dõi và những cuộc hành trình của Terah và gia đình chính là bằng cách nhìn tổng quát và không cần thiết phải cho biết Avram thực sự đã biết đích đến này khi ông khởi hành hay không. Không có lý do gì để nghĩ rằng Avram đã biết
https://thuviensach.vn
mình đang đi đâu hoặc bất cứ điều gì hơn cả những gì Thiên Chúa đã nói với ông - rằng ông phải “tiến về phía trước” (“lekhlekha” một mệnh lệnh bằng tiếng Hebrew mang tính nhấn mạnh trực tiếp mà tiếng Anh không thể bắt chước được) trong một chuyến hành trình không ngày trở lại tới vùng đất mà Thiên Chúa sẽ chỉ cho ông, vùng đất mà Ngài bằng cách nào đó, sẽ làm cho người đàn ông trưởng thành này trở thành một dân tộc vĩ đại và tất cả nhân loại sẽ nhờ ông mà được chúc phúc.
Như vậy “wayyelekh Avram” (Avram rời đĩ) chính là hai trong số những từ quả cảm nhất trong tất cả các nền văn chương. Chúng báo hiệu một sự chệch hướng hoàn toàn khỏi tất cả mọi thứ đã chấm dứt trước đây trong quá trình phát triển lâu dài của văn hóa và nhận thức. Không phải ở Sumer, nguồn văn minh chứa những điều tiên đoán, xuất hiện một người đàn ông không biết nơi mình đang đến mà chỉ biết tiến về phía trước tới một vùng sa mạc vô danh dưới sự dẫn dắt của Thiên Chúa. Không phải ở Mesopotamia, xứ sở của những thương gia tư lợi và khôn ngoan sử dụng các thần linh để bảo đảm sự thịnh vượng và đặc ân, xuất hiện một đoàn người hành hương giàu có nhưng không vì một chút mục đích vật chất nào cả. Không phải trong loài người cổ đại, từ những sự khởi đầu mờ nhạt về ý thức của nó đã đoán được những chân lý vĩnh cửu trên những vì sao tinh tú, xuất hiện một đoàn người lữ hành đang di chuyển theo một loại la bàn không ai biết tới. Không phải từ trong loài người, những người từ tận trong xương tủy của mình biết tất cả mọi sự nỗ lực cố gắng rồi cũng sẽ phải kết thúc bằng cái chết, xuất hiện một tộc trưởng nhận được một lời hứa bất khả thi. Không phải trong sự tưởng tượng về cái chết xuất hiện một giấc mơ về một điều mới mẻ, một điều tốt đẹp hơn trong tương lai.
Nếu ta sống trong thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên - thiên niên kỷ của Avram và hỏi ý kiến của tất cả các dân tộc trên thế giới thì họ sẽ nói gì về chuyến hành trình của Avram? Ở hầu khắp châu Âu và châu Phi với thuyết duy linh thời tiền sử là quy tắc chuẩn mực và các họa sĩ vẫn còn khắc họa trên đá những biểu tượng thiêng liêng của Vòng Sinh Tử, chắc họ đã cười nhạo về sự điên rồ của Avram và hướng lên trời cao, ở đó sự sống trên
https://thuviensach.vn
trái đất đã được khắc họa lên từ tất cả tính bất diệt. Họ sẽ nói rằng vợ của Avram hiếm muộn như mùa đông; và con người không thể thoát khỏi số phận của mình. Còn những người Ai Cập chắc là đã lắc đầu không tin. Họ nhắc lại lời khuyên của những người khôn ngoan mà họ yêu mến nhất: “Không ai mới sinh ra mà đã khôn ngoan”. Họ sẽ bắt chước các bậc cha ông để dạy cho Avram những gì đã được nói trong quá khứ để ông trở thành một tấm gương sáng. Những người Hy Lạp cổ đại có lẽ đã kể cho Avram nghe câu chuyện về thần Prometheus, vị thần lấy lửa của các vị thần linh cho con người để rồi lại chuốc lấy tai họa về mình. Họ khuyên Avram đừng quá tham vọng mà hãy nên từ bỏ nó nếu không sẽ chuốc lấy sự thất bại. Ở Ấn Độ, có lẽ người ta đã nói với ông rằng thời gian là đen tối, phi lý và tàn nhẫn vì thế đừng nên đặt cho mình nhiệm vụ phải hoàn thành một việc gì đó đúng lúc, điều đó chỉ chuốc lấy sự đau khổ. Ở Trung Quốc, những nhà hiền triết đến bây giờ vẫn là vô danh có những tư tưởng cuối cùng cũng ảnh hưởng đến Kinh Dịch sẽ báo trước rằng chẳng có mục đích gì cả trong những chuyến hành trình hay trong bất kỳ một loại đấu tranh trần tục nào; điều tốt nhất là gạt bỏ thời gian bằng cách thoát khỏi những quy luật của sự thay đổi. Tổ tiên của người Maya ở châu Mỹ sẽ hướng về lịch tuần hoàn của họ - giống như lịch của người Trung Quốc lặp lại mô hình hàng năm theo sự kế tiếp không biến đổi - và sẽ giải thích rằng tất cả những gì đã có sẽ đến một lần nữa và số phận của mỗi người đã được an bài. Trên khắp mọi châu lục, trong mọi xã hội, chắc Avram cũng đã nhận được những lời khuyên giống nhau rằng những người khôn ngoan gồm nhiều loại khác nhau như Hecralitus, Lão Tử và Tất Đạt Đa một ngày nào đó sẽ khuyên những đồ đệ của họ: ‘Đừng đi lang thang mà hãy ngồi yên một chỗ; kiềm chế bản thân bằng dòng sông cuộc đời, chiêm nghiệm về dòng chảy vô vị và bất tận của nó, trên tất cả những điều đó là quá khứ, hiện tại và tương lai cho tới khi ta thấm nhuần được khuôn mẫu và trở nên đồng thuận với “Bánh xe vĩ đại”, với cái chết của chính mình và sự diệt vong của tất cả những thứ trong môi trường dễ trụy lạc.
Trên đường đi đến Canaan, Avram “đã đi qua vùng Shekhem (Place of Shekhem) - sau này trở thành một không gian linh thiêng dành cho con cháu
https://thuviensach.vn
của Avram; đồng thời, dành cho Avram “xây dựng một nơi tàn sát”, một án thờ nhỏ cạnh cây sồi, ở đó ông có thể hiến tế súc vật cho Thiên Chúa. Và chính nơi đây, lần đầu tiên Thiên Chúa cho Avram biết đây là vùng đất hứa: “Ta ban đất này cho dòng dõi ngươi”, “mảnh đất này” - sự nhận diện nó rất mờ nhạt; và cho tới lúc này cũng chưa có bất cứ sự phân chia ranh giới nào. Nhưng từ giờ trở đi, mỗi lần Thiên Chúa khẳng định với Avram qua chủ đề nhiều năm thì lời hứa ban đầu sẽ càng được khẳng định chắc chắn. Tương tự, trong suốt những năm tháng đó, Avram và dân tộc của ông, những cư dân thành thị uyên thâm này, đều sẽ tiếp tục sống mà không có một chỗ ở cố định hay quyền sở hữu đối với bất kỳ mảnh đất nào và họ vẫn sẽ là “những người tạm cư’- đây là cách họ sẽ tự mô tả về chính mình. Chúng ta bắt đầu hoài nghi đoàn người lang thang ít học này đã bị cám dỗ bởi sức mạnh trong nhân cách của Avram và Avram đã bị biến thành một kẻ ngốc khi nghe theo sự xúi giục trong tâm trí hỗn độn của mình.
Như vậy, Avram biểu lộ tài xoay xở kín đáo của mình khi nạn đói ập đến Canaan, Avram hướng về phía Ai Cập - “để tạm cư ở đó”. Nhưng ngay vùng đất thuộc chủng tộc khá khác biệt này, Avram không chỉ phải đối mặt với những với những bộ lạc nguyên thủy mà còn phải đối mặt với một vị vua thần thánh. Avram ngầm vạch ra một kế hoạch, rồi nói với vợ mình:
‘Anh biết em là một phụ nữ xinh đẹp [có thể tưởng tượng là Sarai thích lời khen này đến thế nào rồi sau đó lại thất vọng khi nghe]
Nên khi người Ai Cập nhìn thấy em họ sẽ nói: “Vợ hắn ta đó”. Rồi họ sẽ giết anh nhưng sẽ để cho em được sống.
Vậy anh xin em hãy nói em là em gái của anh
Vì thế anh sẽ được tiếp đãi tử tế, lúc đó anh sẽ rất cảm ơn em”. Và đúng như vậy, vua Ai Cập đã lấy Sarai làm vợ, còn “anh trai ba”, Avram thì nhận được rất nhiều cừu, bò, lừa, nam nữ đầy tớ và lạc đà”6. Chúng ta không bao giờ biết liệu vị vua Ai Cập này (Pharaoh) có tìm cách làm hại Sarai hay không và cũng không rõ cảm nghĩ của bà trong chuyện này như thế nào. Nhưng chắc chắn Thiên Chúa của Avram đã hành hạ
https://thuviensach.vn
Pharaoh rất nhiều và bằng cách nào đó, vị vua này đã biết được nguyên nhân. Avram được dẫn tới trước mặt vua Ai Cập người đã thốt ra một câu đáng nhớ “Ma-zot?’ (tất cả điều này nghĩa là sao?), một câu cảm thán gần như khôi hài thường được nghe ở Israel thời nay. Sau đó bằng một kiểu cách không khác gì trong những tiết mục tạp kỹ thời xưa, Pharaoh lắp bắp nói:
Sao ngươi không nói đó là vợ ngươi?
Tại sao lại nói là em gái ngươi để khiến Ta phải lấy nàng làm vợ? Vậy bây giờ vợ ngươi đó, hãy đón lấy nàng mà đi đi!
Avram ra đi và nhanh chóng được dẫn tới biên giới Ai Cập bởi quân lính của Pharaoh, “những người tháp tùng vợ chồng Avram cùng tất cả tài sản của họ”. Đây là những câu cuối trong chương này và tác giả, người đang tìm cảm hứng từ việc kể lại một câu chuyện nghe có vẻ hài hước này, muốn chúng ta biết rằng Avram không những bảo toàn được mạng sống của mình mà còn kiếm được rất nhiều của cải. Và đề phòng khi chúng ta không thấy được điều đó thì ở đầu chương kế tiếp, tác giả viết: “Avram rời khỏi Ai Cập mang theo rất nhiều gia súc và vàng bạc”. Trong giai thoại của người Ai Cập, Sarai chỉ được xem là một đầy tớ và cảm nghĩ của bà thì chẳng ai đếm xỉa tới: vấn đề là ở chỗ sự thông minh của các tổ tiên du mục đã làm tổn hại tới cái vỏ bọc lớn của người Ai Cập.
6. Hầu hết các học giả tìm thấy những tài liệu tham khảo của kinh Thánh về những con lạc đà được thuần hóa trong thời kỳ Avram là sai niên đại, bởi vì không có một bằng chứng nào ngoài kinh Thánh chứng minh rằng những con lạc đà thường xuyên được sử dụng như những súc vật thồ mãi cho đến khoảng năm 1000 trước Công nguyên; còn một số học giả khác thì cho rằng sự thiếu bằng chứng ngoài kinh Thánh là không thể kết luận được.
https://thuviensach.vn
Làm sao mà một Avram bình thường, một người tạm cư du mục trong vùng hoang mạc của Canaan, lại có thể đối mặt với một Pharaoh hùng mạnh, một vị vua thánh của người Ai Cập? Theo giai thoại về người Ai Cập có một câu chuyện được thuật lại một cách kỳ lạ cho chúng ta câu trả lời. Nạn đói đã qua, Lot, cháu trai của Avram lúc này định cư ở Sodom, một trong những đô thị ở vùng đồng bằng có thể là ở vị trí mà hiện nay là vùng châu thổ phía Nam của vùng Biển Chết. Còn Avram đã từ chối cuộc sống thành thị về dựng lều ở vùng bờ Tây sông Jordan cạnh thung lũng Mamre. Avram hay tin Lot đã bị bắt trong một cuộc chiến giữa hai liên minh của các vị vua, một bên là của Canaan, một bên của Sumer:
Có một người thoát thân được chạy về báo cho Avram người Hebrew biết,
Ông đang sống ở thung lũng Mamre của người Amorite, là anh của Eshcol và Aner,
Những người này đều là đồng minh của Avram.
Khi Avram nghe tin em mình [đúng hơn là cháu trai] bị bắt liền triệu tập 318 gia đình tinh nhuệ đánh xuống vùng Dan.
Chuyện gì đây? Avram có tới 318 nô lệ, đó là chưa kể đến những thành viên trong gia đình và những gia đình khác? Giống như các tộc trưởng vĩ đại khác, Avram cũng có đồng minh của mình chăng? Avram, một anh hùng hào hiệp kiểu Don Quixote, một kẻ nhút nhát, mà lại có thể triệu tập cả một đội quân đi suốt chặng đường từ Mamre (ngày nay là Hebron) miền Nam Canaan tới Dan ở vùng cực Bắc dài cả hàng trăm dặm như vậy chăng? Gợi ý về sự phân tích chính xác nguyên bản này nằm trong sự mô tả của nó về Avram là một người Hebrew, một sự mô tả không tìm thấy ở những nơi khác. Câu chuyện này, mặc dù đã được kết lại thành cấu trúc của sách Sáng Thế, nhưng không phải bắt nguồn từ những di sản truyền thống của con cháu tổ phụ Abraham, những người không bao giờ tự coi mình là người Hebrew, mà bắt nguồn từ kho tàng kiến thức truyền miệng của những người láng giềng. Ở đây chúng ta biết tới Avram không phải qua sự lý tưởng hóa
https://thuviensach.vn
bình dị của hậu duệ kế tục của Avram mà là từ cái nhìn của những người cùng thời về Avram. Theo những gì trong chương nói tới người Ai Cập vừa nhắc đến thì Avram không còn là một đứa trẻ quê mùa, bồng bột, tìm kiếm niềm vui trong sa mạc. Ông là một người biết đắn đo suy nghĩ trong thị tộc, vì những lý do riêng đã quyết định rời bỏ những thành phố tuyệt vời của vùng Sumer đế tới Canaan nơi mà cuộc sống chưa biết sẽ ra sao, nhưng ông không còn sự lựa chọn nào khác: ông là một tộc trưởng quyền uy, có nhiều của cải và đầy tớ,
Avram đã giải thoát thành công cho em mình sau đó trở về miền Nam, quan hệ ngày càng gắn bó với những vị lãnh chúa trong vùng bằng cách từ chối nhận những phần chiến lợi phẩm khi họ thắng trận:
Tôi sẽ không lấy gì để người không nói rằng: chính Ta đã làm cho Avram trở nên giàu có.
Trừ những gì mà các thanh niên đã ăn
Và phần của những người cùng đi với tôi như Eshcol, Aner và Mamre, Hãy để họ mang phần của họ đi.
Avram không phải là một nhà lý tưởng duy ngã, nửa mê nửa tỉnh mà chỉ là một người đàn ông bình thường như bao người đàn ông khác. Ngay cả trong mối quan hệ với Thiên Chúa có sự lưu ý về một thủ lĩnh trầm tĩnh và tự tin, một người luôn biết cách đối diện với Thiên Chúa. Khi nghe tiếng Chúa phán: “Đừng sợ”, Avram than phiền: “Ngài sẽ ban cho tôi gì đây vì tôi sắp lìa đời”, rồi tiếp tục nói rằng ông đã quyết định để lại gia sản của mình cho người quản gia vì “Người chưa ban cho tôi có được một người nối dõi”. Khi nghe thấy lời buộc tội gián tiếp này, Thiên Chúa đáp lại:
“Đó không phải là người thừa kế của ngươi đâu mà chính đứa trẻ do ngươi sinh ra mới là người thừa kế của ngươi…”
Thiên Chúa đưa ông ra ngoài và nói:
“Hãy nhìn lên bầu trời và những vì tinh tú
ngươi có thể đếm được chúng không’?”
https://thuviensach.vn
Rồi Người lại bảo:
“Dòng dõi của ngươi cũng sẽ như vậy”.
Tuy bầu trời vẫn tiếp tục được sử dụng như một hình ảnh ẩn dụ nhưng không còn là dấu hiệu báo trước về bất kỳ điều gì. Chỉ có Thiên Chúa mới có khả năng tiên đoán và lúc này bầu trời được sử dụng như một hình ảnh minh họa cho Thiên Chúa. Điều này chỉ tốt đối với Avram; người thuật chuyện làm cho tinh tiết đi vào ngõ cụt bằng cách nhận xét rằng Avram - vị tộc trưởng từng trải và thận trọng - luôn tin tưởng vào Chúa và vì thế Thiên Chúa xem ông là một người công chính. Đối với sự tin tưởng này không có lý do nào khác ngoài sự hiểu biết sâu sắc của Avram dựa vào sự xét đoán của chính
mình để giải thích những gì đang diễn ra. Ngoài kỷ nguyên của những câu chuyện phóng đại về các vị vua và hiệp sĩ, tất cả những câu chuyện rất giống nhau đến nỗi khó phân biệt được, xuất hiện một câu chuyện về lòng tin của một tộc trưởng trần thế đa nghi vào một giọng nói bí ẩn. Dù khó tin nhưng nó đang dần trở thành câu chuyện về mối quan hệ cá nhân.
Tuy nhiên, Sarai người nữ tì lại chẳng liên quan gì đến bất kỳ một chi tiết nào của câu chuyện này và bà thầm trách một vị thần “đã ngăn không cho bà có thai”, thậm chí sau 10 năm ở Canaan. Vì trung thành với những tập tục thời bấy giờ, Sarai giới thiệu Avram cho người đầy tớ gái Ai Cập để cô sinh con giùm bà, vì thế “may ra nhờ cô ấy mà tôi có thể có được một đứa con”. Nhưng ngay khi Hagar, người đầy tớ gái có thai, cô lại bắt đầu coi thường bà chủ và điều này làm cho Sarai tội nghiệp cảm thấy khó chịu. Khi Avram để cho Sarai tùy ý xử trí Hagar thì những lời la mắng của Sarai đã khiến cho Hagar phải trốn khỏi khu trại đi vào vùng hoang mạc, ở đó có một thiên thần bảo cô nên quay trở về với Sarai dù cho cô có phải chịu bất kỳ lời sỉ nhục nào vì dòng giống của Hagar cũng sẽ trở nên đông đúc. Yishmael, con trai của Hagar (hay Ishmael), sẽ trở thành một Enkidu thứ hai, “một người hung bạo, hắn sẽ phản nghịch đồng bào, mọi người cũng sẽ phản lại hắn”, là tổ phụ của người A Rập. Hagar lúc này đang rối trí nên đã làm theo những gì cô được bảo nhưng không phải trước khi đặt một cái tên mới cho
https://thuviensach.vn
Thiên Chúa - thiên sứ truyền tin chính là dấu hiệu cho sự hiện diện của Người. Hagar gọi Thiên Chúa là: “Đấng đoái xem” và “Đấng hằng sông đoái xem tôi”, chính “sự đoái xem” này sẽ bao trùm phần còn lại của câu chuyện.
Theo những ghi chép trong sách thì lúc bấy giờ Avram đã là một người rất già, 99 tuổi. Mặc dầu ta có thể xem con số này mang một nét gì đó trong lối nói phóng đại ở Sumer nhưng không có lý do gì để nghi ngờ Avram và Sarai đã qua cái tuổi để có con. Nhưng Thiên Chúa giờ đây không còn chỉ là một giọng nói nữa: Avram đã “nhìn” thấy Thiên Chúa, Người bảo ông: “Ta là Thiên Chúa toàn năng” - cái tên có lẽ chúng ta đã mất đi âm điệu ngôn ngữ mặc dù nhiều người nghĩ nó có nghĩa là “Đấng ngự trên núi” hoặc “Đấng ở nơi tối cao”. Thiên Chúa mời gọi Avram “Hãy bước đi trong sự hiện diện của Ta” và “hãy toàn tâm toàn ý”. Nhìn thấy Thiên Chúa trong ánh hào quang rực rỡ của Người và được Người mời gọi bằng một sự thân mật như vậy đã khiến cho Avram phải “sấp mình xuống”. Mối quan hệ đang ngày càng trở nên mãnh liệt. Khi theo dõi sự tiến triển của nó, chúng ta phải thừa nhận có một điều gì đó ẩn chứa bên trong tất cả những sự kiện: nếu Avram không có một sự hiểu biết sâu sắc về chính con người mình - về tính cách riêng của mình - thì ông khó có thể có được một mối quan hệ nào; tuy nhiên, mối quan hệ giữa ông và Thiên Chúa cũng có thể được thiết lập bởi một sức mạnh độc nhất mà nhất thần giáo ở thời kỳ phôi thai này đòi hỏi, sự quyết liệt đó nhiều tới nỗi có thể cho rằng tính cách riêng của mỗi cá nhân (với những hệ quả có thể của nó trong mối quan hệ cá nhân) chính là mặt trái của thuyết nhất thần.
Một lần nữa, Thiên Chúa nhắc lại lời hứa của Người với Avram về đất Canaan và dòng dõi đông đúc nằm ngoài tất cả những câu chuyên, thậm chí cả dòng dõi hoàng gia (“Đúng vậy, sẽ có nhiều vị vua từ dòng dõi ngươi mà ra”). Lúc này Thiên Chúa muốn lập một giao ước với Avram, đúng như giữa các tộc trưởng với nhau. Trong giao ước này, Avram sẽ mang một cái tên mới, Avraham (hay Tổ phụ của nhiều dân tộc) và Sarai cũng vậy, từ đây bà sẽ được gọi là Sara (bà hoàng). Avram và Thiên Chúa sẽ thiết lập một giao
https://thuviensach.vn
ước vĩnh cửu mà trong thời kỳ này, một giao ước như vậy luôn được ký kết bằng máu, thường là máu của súc vật hiến tế. Nhưng máu trong giao ước này phải là máu của chính Avram và “tất cả những người nam trong nhà của ngươi”:
“Trong toàn bộ dòng dõi của ngươi,
tất cả các trẻ nam khi sinh được tám ngày đều phải chịu cắt bì,
bất kể đó là trẻ được sinh ra tại nhà hoặc mua được từ người ngoài, những người không phải là con cháu ngươi.
Đúng vậy, tất cả chúng phải chịu cắt bì để giao ước của Ta sẽ là giao ước muôn đời trong xác thịt các ngươi”.
Không người đàn ông nào lại có thể quên đi dương vật của mình vì đó là nguồn sinh lực sống của họ. Với giao ước này, con cháu của Avram hầu như sẽ không thể quên được Thiên Chúa và Thiên Chúa không bao giờ quên họ. Với sự huy hoàng và vị trí độc tôn đang dần có được, Thiên Chúa không còn được coi là một loại bùa chú để cầu may mắn. Người đang mất đi chức năng là một thiên thần bảo hộ của những thần thánh bảo hộ người Sumer và dần trở thành “Thiên Chúa”. Đối với chúng ta, giao ước này có vẻ tàn nhẫn nhưng bên trong những quy tắc đơn giản và cứng nhắc của vùng Canaan và Mesopotamia thì bản giao ước khắc trong máu thịt này - một lời nhắc nhở muôn đời - lại mang một ý nghĩa hoàn hảo.
Người đàn ông bây giờ là Avraham, với nụ cười lộ rõ trên khuôn mặt đã nghĩ rằng: “Làm sao một người cả trăm tuổi lại còn có khả năng sinh con được? Còn Sara đã 90 tuổi mà có thể sinh con được hay sao?”. Rồi Ngài cất cao giọng: “Nếu Yishmael vẫn còn sống trước mặt Người”, hay nói cách khác hãy để lời hứa này cho Yishmael, người luôn có một đời sống đức hạnh tuyệt vời nhất ở trên thế gian này. Avraham chỉ đang cố làm cho Thiên Chúa trở nên thực tế hơn. Nhưng mặc dù Thiên Chúa sẽ làm cho Yishmael có con cháu đầy đàn thì Người vẫn sẽ lập giao ước với đứa trẻ “người mà Sara sẽ sinh cho ngươi vào thời điểm này sang năm”. Vậy Sara - người nữ tì - chưa
https://thuviensach.vn
bao giờ nhận được bất cứ thứ gì mình muốn ngoại trừ cuộc sống, sẽ mang thai trong ba tháng nữa. Rốt cuộc cũng là một điều mắt thấy tai nghe.
“Khi đã phán bảo xong, Thiên Chúa chào từ biệt Avraham”. Cuộc đối thoại kết thúc và việc cắt bì được tiến hành. Hầu như tất cả mọi người nam gồm Avraham, các thành viên nam trong gia tộc cùng với những người mới đến cư ngụ đều chịu cắt bì. Chắc chắn Avraham cũng cảm thấy hơi khó thở với những công việc hàng ngày, ông ‘đang ngồi ở cửa lều vào một ngày nóng nực’ - cũng giống như hình ảnh những người tộc trưởng Bedouin trong cái nắng khắc nghiệt của vùng Trung Đông ngày nay, họ đang ngồi ở cửa lều của mình, mong chờ được một cơn gió nhẹ thổi qua.
Ông ngước mắt lên và nhìn thấy:
ở đằng xa có ba người đàn ông.
Vừa thấy họ ông liền chạy từ cửa lều ra đón tiếp, ông cúi chào họ rồi nói:
“Lạy Chúa, nếu tôi đẹp lòng các ngài
thì xin đừng phớt lờ kẻ tôi tớ này.
Vậy tôi xin mang một ít nước để các ngài rửa chân
và xin hãy nằm nghỉ dưới bóng cây này.
Tôi sẽ mang một tí bánh đề các ngài ăn lót dạ
rồi sau đó hãy lên đường
vì các ngài đã chiếu cố đến kẻ tôi tớ này”.
Dù Avraham có nhiều tôi tớ và hầu cận thì ông cũng cảm thấy mình thấp hèn hơn những vị khách cao quý này rất nhiều, bất kể họ là ai và ông cố gắng bày tỏ cho họ thấy lòng hiếu khách hơn người của ông. Những gì Avraham suy nghĩ trong đầu không chỉ đơn thuần là “một tí bánh”. Ông vội vàng chạy vào bảo Sara “mau lên”, hãy lấy loại bột tốt nhất để làm ba cái bánh. Rồi ông ra chuồng gia súc chọn một con bê “non và hảo hạng” giao cho đầy tớ làm thịt. Khi thức ăn đã chuẩn bị xong, đích thân Avraham ân cần
https://thuviensach.vn
phục vụ bữa ăn. Trong khi các vị khách đang ăn, họ hỏi thăm vợ Avraham, người mà bằng cách nào đó họ đã biết tên từ trước :
“Sara vợ ngươi đâu?”.
Avraham thưa: “Dạ, ở trong lều”, trong lòng dâng lên một mối nghi ngờ.
Vị khách ngồi giữa ba người nói:
“Ta sẽ trở lại đây cũng vào thời gian này sang năm và lúc đó Sara vợ ngươi sẽ có một người con trai”.
Bây giờ, Avraham đã biết mình đang đón tiếp Thiên Chúa và hai thiên thần7 nhưng Sara không biết gì về những lời hứa trước đó (làm sao một người đàn ông lại đi kể những việc đó cho vợ mình nghe?) đã nghe lỏm được câu chuyện. Có lẽ bà đang bận bịu với việc làm bánh của mình nhưng vẫn nhận thấy câu chuyện này thật buồn cười và nghĩ thầm “Mình đã già thế này, hơn nữa ông nhà mình cũng chẳng còn trai trẻ gì nữa, thì làm sao có chuyện đó được?”.
Vị khách ngồi giữa hỏi: “Tại sao bà lại cười?”. Lúc này vị khách ấy đã tiết lộ mình là Thiên Chúa, mà với Người thì không có chuyện gì là không thể làm được và Người lặp lại lời hứa. Sara tội nghiệp lòng đầy sợ hãi và bối rối khăng khăng phủ nhận là mình đã không cười nhưng Thiên Chúa nói: “Không à, đúng là ngươi đã cười mà”. Sara, người đứng ngoài cuộc trong mối quan hệ vĩ đại giữa chồng bà và Thiên Chúa, đã cười bằng tiếng cười của cả thế giới cổ đại, tiếng cười của vùng Sumer, Ai Cập, Canaan, của cả châu Âu, châu Á, châu Úc và châu Mỹ, là tiếng cười hợp lý của tất cả những ai biết rằng một phụ nữ khi đã qua thời kỳ mãn kinh thì không thể có con và một người đàn ông đã xế bóng thì cũng không thể làm được chuyện ấy. Trong tất cả những câu chuyện khó tin về các vị các vị anh hùng và vua chúa thì kho tàng kinh nghiệm của con người đều có thể đoán trước được cũng giống như các cung Hoàng Đạo tuần hoàn trên bầu trời. Chính tất cả chúng ta đều biết về một kết cục không thể tránh khỏi và mọi thứ rồi cũng sẽ phải kết thúc.
https://thuviensach.vn
7. Vào thời kỳ đầu này, những thiên thần, thêm một sự vay mượn khác từ những người Sumer, được xem như những sự biểu lộ của Thiên Chúa, thường khó phân biệt với người. Khung cảnh ba vị khách thần thánh này xuất hiện trước túp lều của Avraham là chủ đề bức tranh của Andrei Rublev, một tuyệt tác về nền hội họa Nga.
https://thuviensach.vn
Chương này hòa lẫn vào chương kế tiếp. Thiên Chúa tự hỏi liệu có nên nói cho Avraham biết “những gì Ta sắp làm hay không?” và Người quyết định sẽ nói riêng với Avraham vì người đã biết rõ ông, trong khi hai thiên thần đi tới thành Sodom nơi Lot đang sống. Khi Thiên Chúa tiết lộ kế hoạch của Người về việc hủy diệt thành Sodom và Gomorah, Avraham cố gắng thuyết phục Thiên Chúa: “Người sẽ tiêu diệt cả những người vô tội lẫn người tội lỗi hay sao?”. Lúc đặt câu hỏi này với Thiên Chúa, đấng đang dần dần tỏ bày cho Avraham thấy vinh quang rực rỡ của mình, người tộc trưởng đã chứng tỏ một sự dũng cảm khác thường, sự dũng cảm này cũng sẽ được thấy nơi hậu duệ của Avraham trong suốt những thời đại sắp tới. Theo sau là một cuộc đấu khẩu căng thẳng để rồi kết cục Thiên Chúa hứa sẽ dừng tay lại nếu tìm được ít nhất là 10 người vô tội trong hai thành phố.
Tiếp theo là cảnh quảng trường chính ở Sodom, nơi Lot bắt gặp hai thiên thần và ông mời họ tới nhà ông (mặc dù không hào hiệp bằng Avraham nhưng Lot chắc chắn là một người tốt). Tuy nhiên, những người đàn ông trong thành đã bao vây căn nhà của Lot giống như những hồn ma trong chuyện “Đêm của những linh hồn”, họ đòi Lot đưa hai người thanh niên đẹp trai ra để họ đùa chơi. Và rõ ràng đây không phải là 10 người vô tội chỉ trừ Lot, người đang cố kéo dài thời gian bằng một cuộc thương lượng mà có lẽ tất cả chúng ta khi ở trong hoàn cảnh của ông sẽ không hành động như vậy:
“Đây tôi có hai người em gái chưa chồng,
hãy để tôi mang chúng ra cho các người làm gì tùy thích, chỉ xin đừng làm hại những người này vì chúng đã đến trú ngụ trong nhà tôi”. Dĩ nhiên, những người dân thành Sodom không thích như vậy và dọa rằng họ cũng sẽ ngược đãi Lot khi họ đã phá được cửa vào. Nhưng không ai bị hại cả, chỉ có những người dân thành Sodom nhận lấy số phận của họ, đó là lửa và diêm sinh từ trời xuống; trong khi Lot và gia đình ông đã đi xa và được an toàn. Và thật không may cho vợ của Lot, bà đã ngoái nhìn lại đằng sau và bị biến thành tượng muối.
https://thuviensach.vn
Tội của thành Sodom không phải là đồng tính mà là không hiếu khách. Từ chương này không thể suy luận là Thiên Chúa đồng tình hay phản đối chuyện quan hệ hay không nhưng có thể chắc chắn rằng Thiên Chúa có một quan điểm mơ hồ về việc hãm hiếp những vị khách lạ tới nhà. Ngoài ra, chúng ta còn tìm thấy ở khắp vùng Mesopotamia những bằng chứng cho thấy người Sumer hay bất cứ một dân tộc cổ đại nào khác ở Trung Đông đều thích quan hệ từ phía sau, kể cả qua đường âm hộ lẫn hậu môn khi quan hệ tình dục. Đối với các thế hệ sau của Avraham, những người coi những việc như thế là thấp hèn (giống như một con chó) thì toàn bộ năng lực tình dục của những người hàng xóm láng giềng có lẽ đã trở nên một mối hoài nghi - dâm đãng và giả tạo.
Gác lại chuyện hủy diệt hai thành, chúng ta đến với một điều kỳ diệu thực sự:
Sara mang thai và sinh một người con trai cho Avraham trong cảnh già nua,
vào đúng thời gian mà Thiên Chúa truyền dạy người.
Avraham đặt tên cho con trai do Sara sinh ra là Yitzhak (nó cười) [Isaac trong cách dịch tiếng Anh truyền Thống.] Khi được tám ngày tuổi, Avraham làm lễ cắt bì cho Yitzhak theo như lời Thiên Chúa truyền dạy… Lúc này Sara nói:
“Thiên Chúa đã làm cho tôi vui mừng”.
Thiên Chúa đã khiến cho bà bật cười trước đó - bằng cách đề nghị một chuyện không thể. Còn bây giờ thì Sarai, người nữ tì đã nhận được điều duy nhất mà bà hằng ao ước, chính là điều mà bà biết bản thân mình không thể có được. Dù mong muốn có một đứa con của Avraham lớn bao nhiêu cũng không thể bằng mong muốn của Sarai vì Avraham cũng có thể có con với những người phụ nữ khác. Một trong những đặc trưng trong các công trình của Thiên Chúa chính là ở mục đích của Người: một người phải vì lợi ích của những người khác; tạo nên niềm hạnh phúc ngay cả cho những người không quan trọng trong câu chuyện. Cuộc nói chuyện giữa hai vợ chồng
https://thuviensach.vn
(trước đây rất ít nói chuyện; ít nhất là trong những lúc có mặt người khác) thật cảm động, những gì mà một người rất ít nói như Sara đã tạo nên một niềm xúc cảm mà chúng ta chỉ có thể nghĩ là do một nhà văn vĩ đại thốt nên:
“Thiên Chúa đã khiến tôi vui mừng,
Ai biết được chuyện này cũng đều vui mừng cho tôi…
Ai đã nói với Avraham rằng:
“Sara sẽ sinh con trai?”
Và thật vậy, tôi đã sinh cho ông ấy một người con trai trong cảnh già nua của ông chăng!
Thiên Chúa đã làm cho Avraham vui mừng, cả Sara và Yitzhak cũng vậy. “Đứa trẻ lớn lên và thôi bú, Avraham đã thiết đãi một bữa tiệc long trọng vào ngày Yitzhak thôi bú”. Chính lúc này, mùa đông đã tan biến và những cơn ác mộng đã qua đi.
Nhưng không hẳn như vậy vì Sara đã quyết định nữ tỳ người Ai Cập không được chung phần trong chuyện vui này nên đã khiến cô và đứa con trai phải trốn đi mãi mãi (mặc dù họ vẫn được Thiên Chúa bảo vệ.) Tiếp theo, bằng những cụm từ vội vàng nhưng sâu sắc, tác giả bắt đầu câu chuyện đáng thương và đáng sợ nhất trong kinh Cựu ước:
Giờ thì sau khi mọi việc đã xong xuôi Thiên Chúa thử lòng Avraham Chúa nói với ông “Avraham!”
Ông đáp:
“Dạ, tôi đây”.
Thiên Chúa nói tiếp:
“Hãy đưa Yitzhak,
đứa con duy nhất của ngươi,
người mà ngươi yêu dấu,
đi tới Moriyya (đất mộng),
Ở đó ngươi hãy hiến tế nó làm của lễ
https://thuviensach.vn
trên một ngọn núi
mà Ta sẽ chỉ cho ngươi”.
Vào sáng sớm Avraham thắng lừa để khởi hành,
mang theo hai đầy tớ và Yitzhak con trai mình cùng đi.
Ông cũng mang theo củi cho buổi hiến tế và đi tới nơi Thiên Chúa đã truyền dạy.
Sau ba ngày, Avraham ngước mắt lên và nhìn thấy nơi đó ở đằng xa. Avraham nói với các đẫy tớ: “Các ngươi hãy ở lại đây coi lừa, Ta và con trai sẽ đến đằng kia,
để cúng bái rồi sau đó quay trở lại đây với các ngươi”.
Avraham lấy củi dùng cho hiến tế
đặt lên vai con trai mình,
còn ông thì mang lửa và gươm.
Cả hai cha con cùng đi.
Yitzhak hỏi cha:
“Cha ơi!”
Ông đáp:
“Con trai, cha đây”.
Yitzhak nói tiếp:
“Củi và lửa đã có sẵn đây vậy còn cừu để hiến tế ở đâu cha!” Avraham trả lời:
“Con trai, chính Thiên Chúa sẽ lo chuyện ấy”.
Vậy là hai cha con lại tiếp tục lên đường.
Họ đi đến nơi mà Thiên Chúa đã phán;
Avraham dựng bàn thờ và đặt củi lên đó, Sau đó trói Yitzhak lại và đặt lên trên củi.
https://thuviensach.vn
Avraham giơ tay lên toan tuốt gươm để hiến tế con mình.
Bỗng có tiếng thiên thần Chúa vọng từ trời xuống và nói: “Avraham! Avraham!”
Ông đáp:
“Dạ, tôi đây”.
Thiên thần nói tiếp:
“Đừng giơ tay trên con trẻ,
đừng làm hại nó!
Vì bây giờ Ta đã biết là ngươi kính sợ Thiên Chúa -
ngươi đã không tiếc hiến dâng đứa con duy nhất của mình”.
Avraham ngước mắt lên và nhìn thấy một con dê đực nhỏ mắc sừng trong bụi gai.
Ông liền bắt lấy nó
và hiến tế thay cho con mình.
Avraham đặt tên nơi đó là: Chúa thấy.
Mãi cho đến nay người ta vẫn gọi là : núi Chúa thấy.
Lúc này Thiên Chúa, gọi Avraham lần thứ hai:
“Bởi vì ngươi đã dám làm điều này, ngươi đã không tiếc hiến dâng con một của mình
nên Ta thề sẽ chúc phúc cho ngươi,
Ta sẽ làm cho con cháu ngươi, nhiều như sao trên trời và như cát trên bãi biển.
Dòng dõi của các ngươi sẽ chiếm được nhiều thành của quân địch. Vì ngươi đã tuân giữ lời Ta nên các dân tộc trên trái đất sẽ nhờ ngươi mà được chúc phúc”.
Tôi chắc rằng bất cứ ai đã từng đọc câu chuyện này, kể cả bản gốc hay bất kỳ bản dịch nào, cũng đều không khỏi sững sờ. Nhiều người đã nghe câu
https://thuviensach.vn
chuyện này từ nhỏ và biết rõ nó sẽ kết thúc như thế nào (bi kịch sẽ được ngăn chặn vào phút chót), nhưng họ không dám đọc lại hay xem xét một cách nghiêm túc “vị quái thần của Cựu ước” như một phụ nữ đã rùng mình khi gọi Thiên Chúa như vậy. Bản dịch rõ ràng của Fox, rất gần với những nhịp điệu rành mạch của bản gốc bằng tiếng Hebrew, đang gây choáng váng trong tác động chồng chất của nó, giống như những vết thương cũ tái phát.
Có phải là Thiên Chúa hay không? Chúng ta phải hiểu biết gì về một Thiên Chúa như vậy? Có phải chính thời kỳ nguyên thủy mà câu chuyện đã xảy ra bằng cách nào đó đã giải thích hay bào chữa cho sự dày vò mà Thiên Chúa đã giáng lên người đàn ông và con trai ông ta. Phải chăng chính cậu bé, giống như Sara trong chương nói về người Ai Cập hay vợ của Lot trong sự sụp đổ của thành Sodom, lại là một quân cờ khác trong trò chơi của Thiên Chúa?
Yitzhak chỉ là một quân cờ, chắc chắn là vậy, mặc dù với những nét bút thoăn thoắt, tác giả đã phác họa lên hình ảnh một cậu bé đặt một câu hỏi thực sự. Như E. A Spieser nhận xét: “Câu trả lời của người cha tuy trìu mến nhưng lại mang ý lảng tránh điều gì đó và chắc chắn lúc này cậu bé cũng đã cảm nhận được sự thật. “Và cả hai cha con cùng lên đường” [“Thế là cả hai cha con cùng lên đường” trong bản dịch của Fox], một câu ngắn gọn và đơn giản nhưng lại hàm chứa những gì có lẽ là một sự im lặng đau xót và gây cảm xúc nhất trong văn chương”. Đúng vậy, ngòi bút của tác giả thật tuyệt vời, làm cho người đọc không thốt nên lời khi sắp chứng kiến một cảnh hãi hùng.
Những nhà phân tích về một xu hướng trong nhằn học có khuynh hướng xem câu chuyện này như là một sự từ bỏ biểu tượng, kịch nghệ hóa những khoảnh khắc không bao giờ tìm lại được trong thời tiền sử khi những người Do Thái nguyên thủy đã từ bỏ tập tục hiến tế người, trong khi những người khác xung quanh họ vẫn duy trì nó. Bởi vậy, câu chuyện này đã được lưu truyền trong truyền thống của người Do Thái như một lời nhắc nhở về những gì họ không được làm. Những tín đồ Thiên Chúa giáo nhìn thấy trong Avraham một hình ảnh Thiên Chúa sẵn sàng cho đi đứa con duy nhất của
https://thuviensach.vn
mình để cứu chuộc tội lỗi của chúng ta. Không có ý ám chỉ những sự phân tích như thế không có cơ sở, ở đây tôi muốn chỉ ra rằng chúng là những khuôn mẫu cung cấp cho chúng ta những phạm trù để xác định xem chương này thuộc loại nào: những cách phân tích trên là những lý do để chúng ta tránh xa sự độc ác để rồi cuối cùng có thể từ bỏ chúng hoàn toàn. Nhưng có một điều chúng ta phải ghi nhớ: đó là khúc cao trào trong câu chuyện của Avraham - Sự trải nghiệm trên Núi.
Nó xúi giục chúng ta căm ghét Avraham về những gì ông đã làm ở đó. Chúng ta đã coi ông như một người nhắm mắt làm ngơ xảo trá, sẵn lòng hy sinh vợ mình để mưu lợi cho bản thân. Và mặc dù có thể nói rằng những chuẩn mực đạo lý thời đó khác với chúng ta bây giờ thì cũng khó mà tha thứ được. Tuy nhiên, không phải so sánh Avraham với chúng ta mà là với Gilgamesh và Hammurabi. Làm như vậy, Avraham bắt đầu nổi bật lên từ thời của ông. Dù chúng ta có thể ghê tởm thái độ của Avraham đối với Sara nhưng không thể nghi ngờ tình yêu của ông dành cho Yitzhak. Thật vậy, ngay trong chương này, lần đầu tiên Kinh Thánh nhắc đến từ “yêu”:
Hãy đưa con của ngươi,
Đứa con duy nhất của ngươi, người mà ngươi yêu dấu, Yitzhak…
Chính xác là do tình yêu của Avraham đã làm cho chương này vượt quá sức chịu đựng.
Mấu chốt để giải quyết vấn đề khó xử này không nằm ở mối quan hệ giữa Avraham và Yitzhak, mà là ở mối quan hệ của ông với Thiên Chúa. Avraham là một người dân ở xứ Sumer. Ban đầu, sự bảo hộ của Thiên Chúa dành cho Avraham có phần nhiều hơn so với thần Lugalbanda dành cho Gilgamesh, Thiên Chúa gần như là một thứ bùa chú mang lại may mắn dù ngay từ đầu chẳng có hình tượng hay bất cứ dấu hiệu có thể nhìn thấy được. Thậm chí ngay từ khi mới hình thành, mối quan hệ này cũng khác biệt so với những mối quan hệ giữa những người Sumer khác với các thần bảo hộ của họ. Nhưng để duy trì mối quan hệ này thì cần phải có kiến thức và ông đã có được điều đó qua một loạt những dấu hiệu, trong đó Thiên Chúa dần dần tỏ bày cho ông thấy mình là Thiên Chúa, không phải chỉ là một vị thần
https://thuviensach.vn
mà là một ‘Thiên Chúa duy nhất’. Có thể chắc chắn rằng ngay từ đầu, giống như tất cả những người Sumer khác hay tất cả những người có trước ông (và hầu như tất cả những người sau ông), Avraham là một người theo chủ nghĩa đa thần, một người tin vào nhiều vị thần khác nhau (thậm chí mâu thuẫn nhau) - đó là những thế lực hắc ám trong thiên nhiên và vũ trụ, những thế lực mà chỉ có thể tạm thời được xoa dịu bằng những nghi thức tế lễ dông dài và phù hợp. Trong suốt quãng đời của mình, dường như Avraham sẽ không trở thành một người theo chủ nghĩa độc thần nghiêm khắc nhưng những gì chúng ta có thể nói là mối quan hệ giữa ông và Thiên Chúa đã trở thành một ma trận của cuộc đời ông, một sự trải nghiệm có tác động ghê gớm. Từ tai nghe đến mắt thấy rồi đến hình ảnh một đấng oai nghiêm, sự am hiểu về Thiên Chúa của Avraham đã trở nên nhiều hơn bao giờ hết; thế nhưng trong hoàn cảnh xã hội ông đang sống thì sự am hiểu này vẫn được coi là mang nặng tính trần tục theo những chuẩn mực của chúng ta. Sau tất cả những năm tháng chuẩn bị phải có một điều gì đó đánh động Avraham nhận ra người đang nói chuyện với ông là ai. Về phần Thiên Chúa, đấng đã gọi Avraham lên Núi Trải Nghiệm sẽ không còn được coi đơn thuần là “Chúa ngự trên núi”. Thiên Chúa là sự đối nghịch của những thần thánh vùng Sumer, những vị thần có những động cơ thuộc về con người quá rõ ràng của họ. Thiên Chúa là đấng vượt xa những ngọn núi, vượt xa cả bầu trời, là một Thiên Chúa không thể nhận biết, mục đích của Người được che khuất khỏi trí thông minh của con người, Người là đấng không thể kiểm soát.
Vậy chúng ta là ai? Chúng ta chỉ là những con người ngẫu nhiên hoàn toàn phụ thuộc vào Thiên Chúa. Còn Avraham là ai? Ông cũng là một con người ngẫu nhiên phải hiểu rằng mình hoàn toàn bị phụ thuộc, phải có ý thức trung thành với Thiên Chúa của ông, được cho và nhận những thứ vượt xa mọi sự hiểu biết. Sau này thánh Job viết: Thiên Chúa cho đi và Người lấy lại: trong danh Chúa, con người được chúc lành.
Lúc bắt đầu câu chuyện thương tâm này, tác giả biết rằng những độc giả sẽ không bao giờ chịu đựng được sự hồi hộp nên ông đã nói cho chúng ta biết đây chỉ là Thiên Chúa thử lòng Avraham, vì vậy chúng ta biết rằng
https://thuviensach.vn
Yitzhak sẽ không thật sự bị hiến tế dù cho việc ghi nhớ điều đó trong suốt những diễn biến của câu chuyện có khó đến đâu. Đây cũng là một sự thử lòng đối với chúng ta. Liệu chúng ta có thể mở lòng mình ra với Thiên Chúa, đấng không thể thấu hiểu, vượt xa tất cả bùa chú và toan tính, là người đã cho mưa xuống trong những buổi dã ngoại, đấng có thể làm cho con người trở nên vô nhân đạo và là người đã sắp sẵn định mệnh là cái chết cho tất cả chúng ta được không? Tất cả những thần thánh khác chỉ là sự tưởng tượng, là sự hình tượng hóa cho những ước muốn của con người, bởi ngoài Người ra không còn ai khác. Avraham phải tin vào một Thiên Chúa đầy quyền uy, sau này William Blake, một trong những hậu duệ của Avraham đã cố gắng miêu tả điều đó:
Mãnh hổ, mãnh hổ, rực lửa hồng
Nơi rừng sâu trong đêm mênh mông,
Có ánh mắt hay bàn tay sống
Đã nặn thành những nét hùm thiêng?
Avraham đã vượt qua đợt thử nghiệm của Thiên Chúa. Lòng trung thành của ông - niềm tin vào Thiên Chúa - đã mạnh hơn nỗi sợ hãi trong ông. Nhưng bây giờ, ông đã biết mình đang đối mặt với một thứ không thể tưởng tượng được, vượt xa mọi dự tính. Thiên Chúa đã gọi ông vào sa mạc, đưa ra những lời hứa viển vông và bắt đầu làm cho những lời hứa ấy trở thành hiện thực.
Thiên Chúa trấn tĩnh Avraham “đừng sợ”. Đừng sợ hãi khi có Người hiện diện trong cuộc sống của chúng ta nhưng nghịch lý thay, hãy sợ quyền uy vô hạn không thể giải thích được của Thiên Chúa. Lòng kính sợ Thiên Chúa, “là khởi đầu của sự khôn ngoan”, như một người viết Thánh ca sau này đã nói. Và như vậy, ngọn núi vô danh trong vùng đất “Chúa thấy” chính là bắt đầu cho nỗi sợ hãi của Avraham.
Với cách sắp đặt này, câu chuyện về Avraham nhanh chóng đi đến hồi kết. Sara qua đời ở vùng Hebron và Avraham đến “để chịu tang và than khóc”. Để chôn cất Sara bằng tất cả sự kính trọng mà ông dành cho bà,
https://thuviensach.vn
Avraham đã mua tài sản đầu tiên của mình tại Canaan nhưng chỉ sau một cuộc thương lượng đầy căng thẳng. Avraham đã quyết định chọn “hang đá Makhpela” làm nơi chôn cất Sara. Mặc dù ông là một tộc trưởng người du mục nhưng với tư cách là một người tạm cư, Avraham cũng khó mua được một mảnh đất ở Canaan cổ đại. Tuy Avraham cố thuyết phục một số nông dân khó tính bán một phần đất của họ cho ông nhưng việc mua bán này cũng vẫn là bất hợp pháp nếu không có sự chứng kiến của một hội đồng trong địa phương - trong trường hợp này là “con cháu nhà Het”. Với một sự rộng lượng giả tạo, chủ của cái hang nói rằng vì Avraham rất được tôn trọng - một người được Thiên Chúa đề cao, nên ông không dám lấy tiền của Avraham và Avraham có thể có được mảnh đất mình ưng ý nhất mà không phải trả bất cứ khoản nào, ngay cả hang Makhpela cũng vậy, mặc dù nó đáng giá 400 đồng shekel. Khi Avraham nghe được điều này thì ông đã hiểu thực chất của lời đề nghị của họ là gì: hoặc không trả tiền để được một nơi chôn cất tạm thời, hoặc phải trả một số tiền vô lý để sở hữu vĩnh viễn mảnh đất đó. Trong suốt quá trình mặc cả, Avraham nằng nặc đòi trả 400 đồng shekel cho tới khi tất cả mọi người đều đồng ý. Số tiền đó, có lẽ gấp mười lần giá trị thực của cái hang, nhưng đối với Avraham là thỏa đáng vì ông sẽ có quyền sở hữu và không thể hủy bỏ đối với nơi an nghỉ của vợ ông. Có người còn cảm thấy rằng Avraham sẽ trả bất cứ thứ gì để có được sự bình yên này và để ông bày tỏ lòng tôn kính của mình đối với vợ ông, dù có muộn màng nhưng cảm động.
Không lâu trước khi Avraham chôn cất vợ mình ở Hebron, mặc dù vẫn còn bất đồng và đôi lúc bi thương, nơi đây vẫn là nơi thiêng liêng đối với người A Rập và người Do Thái, đây là nơi an nghỉ của tổ tiên của cả Yishmael, Yitzhak và tất cả con cháu của họ. Avraham vẫn chưa qua đời trước khi sắp xếp hôn sự cho Yitzhak, một người không nổi bật và chúng ta chưa được nghe nói tới nhiều, ngoại trừ chuyện buồn thời thơ ấu của người đàn ông tội nghiệp này. Những câu chuyện sau đây đưa chúng ta qua thời kỳ của những vị tộc trưởng - kể cả nữ tộc trưởng sau này; nổi bật nhất trong những câu chuyện này là thời của Rivka (hoặc Rebecca), người vợ cố chấp và sắc sảo của Yitzhak (đồng thời cũng là một người nội trợ giỏi và cũng
https://thuviensach.vn
thuộc loại người nhắm mắt làm ngơ như cha chồng). Rivka mang song thai, sinh cho Yitzhak - người “yêu” bà và là người mà bà an ủi sau mẹ ông - hai người con là Esav và Yaakov (Esau và Jacob theo truyền thống). Khi các con đã lớn, bà thông đồng với Yaakow tinh ranh, người con thứ mà bà yêu thương để cướp quyền con trưởng của Esav trung thành, bằng cách giả trang Yaakov có da nhẵn nhụi thành Esav lông lá rồi dâng cho Yitzhak món ăn mà ông ưa thích (chính Rivka đã chuẩn bị). Yitzhak đã già và không còn minh mẫn đã ban lời chúc lành cho con trưởng Yaakov để Yaakov tiếp tục dòng dõi của Avraham và những lời hứa Thiên Chúa đã hứa với ông. Bất chấp nỗi đau đớn do sự đảo lộn này gây ra cho Yitzhak thì kế hoạch của Rivka hóa ra lại là của Thiên Chúa. Trong suốt cuộc đời của Yaakov, Thiên Chúa đã nhiều lần đối thoại với ông vào những thời khắc quan trọng, đặc biệt là về một sự việc làm cho Yitzhak lo lắng, trong đó một người lạ mặt đến trại của ông và vật lộn với ông suốt đêm, chỉ đến buổi sáng mới tiết lộ mình là Thiên Chúa rồi đặt cho Yitzhak một cái tên mới Yisrael (hay Israel), con cháu của ông sẽ tiếp tục thực hiện Bản Giao Ước. Chính Yaakov cũng gọi Thiên Chúa bằng một cái tên mới, với một ý đồ tốt, ông gọi Người là: nỗi sợ của Yitzhak.
Yaakov/Israel không phải là vị tộc trưởng cuối cùng nhưng ông là người cuối cùng mà Thiên Chúa đối thoại và thực sự ông đã vật lộn với Chúa một cách thân mật như vậy. Israel kêu lên: “Tôi đã nhìn thấy Thiên Chúa, mặt đối mặt, vậy mà mạng sống tôi vẫn được bảo toàn”. Được nhìn thấy mặt Thiên Chúa mà được sống: đối với con cháu của Israel qua tất cả các thế hệ sau này, đây sẽ là đỉnh cao của sự thiêng liêng mà họ không thể nào với tới được. Phần đầu của lời giao ước đã được thực hiện, cả Avraham và Israel đã cùng bước đi với Thiên Chúa. Đối với người Sumer và tất cả những nền văn hóa cổ đại khác thì trung tâm của tôn giáo không còn là những gì đã từng tồn tại - một sự lôi kéo thiếu thân thiện bằng những lễ nghi - nhưng bây giờ là một tình bằng hữu thân mật với Thiên Chúa. Một tôn giáo mới đã được hình thành qua ba thế hệ của những người du mục, những người đã không còn cúi đầu trước các ngẫu tượng, vua chúa hay bất cứ một hình tượng trần tục nào. Qua những sóng gió của cuộc đời, họ đã học được
https://thuviensach.vn
cách sống dựa vào Thiên Chúa, vị Thiên Chúa oai nghiêm đáng sợ của vùng sa mạc.
Tuy nhiên, không ai có thể duy trì một mức độ cảm giác như vậy mãi được, Bởi vì nhận thức của họ đã bị biến đổi, họ phải quay trở lại với những công việc của cuộc sống hàng ngày. Sẽ không còn ai cùng đi với Chúa nữa. Cũng sẽ không còn ai nhìn thấy mặt Chúa hay thậm chí nghe giọng nói của Chúa trong vòng hàng trăm năm nữa.
https://thuviensach.vn
CHƯƠNG 3
AI CẬP
Thoát khỏi cảnh nô lệ
Mặc dù có sự gián đoạn căn bản nhưng cũng có nhiều điểm liên tục giữa thế giới xưa của vòng sinh tử và thế giới mới của cuộc hành trình của Avraham. Avraham không phải ngay một đêm trở thành người mặc khải trong hoang địa với hai mắt mở to ngạc nhiên, kiếm tìm mỗi Thiên Chúa. Avraham đi tìm những điều mà tất cả những người tỉnh táo muốn tìm - đó chính là niềm vui thích và sự an toàn - mặc dù Avraham hy vọng về một điều gì đó hơn thế nữa, một điều gì đó hoàn toàn mới mẻ. Và chỉ duy nhất một điều bất biến mà Avraham hy vọng chính là những người thừa hưởng cơ thể ông. Nhưng niềm hy vọng của ông lớn hơn nhiều so với sự màu mỡ phổ biến của Sumer, ở đó các con điếm được hiến tế (cả nam lẫn nữ) hay lui tới các khu đền và các xác chết trôi lềnh bềnh dọc theo sông Euphrates. Từ giờ trở đi, các người thừa hưởng của Avraham sẽ không chỉ trông cậy vào những nghi thức giao hợp thần thánh mà còn trông cậy vào Thiên Chúa để đảm bảo cho dòng dõi và xứ sở của họ.
Chúa là Đấng Tạo Hóa: Người thử thách họ chứ họ không thử thách Người. Người khởi đầu một cuộc đối thoại và quan sát toàn bộ diễn biến cuộc đối thoại đó. Chúa khác họ hoàn toàn, không phải là hiện thân hay người yêu quý của họ, cũng không phải là một nhân vật thần thoại thông thường với những ý định có thể đoán được bằng linh cảm hay là người có thể bị các nghi lễ của con người chi phối. Chúa cho và nhận vượt quá lý lẽ
https://thuviensach.vn
và sự biện minh của con người. Bởi vì những động cơ của Người không thể giải thích được và mọi ý nghĩ cũng như hành động của Người không thể đoán trước được, bất cứ cái gì - và mọi thứ - đều có thể xảy ra. Nhiều cái mới được sinh ra là kết quả của mối quan hệ này, nhưng đức tin là trên hết, đức tin có trước Avraham không nằm trong tình cảm và trí tưởng tượng về tôn giáo. Bởi vì mọi thứ đều có thể xảy ra, đức tin cũng có thể có thậm chí là rất cần thiết.
Mặc dù việc Avraham, trên đường đi đến Canaan, đã lập nên một bàn thờ tại Shekhem, nhưng cũng đúng khi nói rằng ở một mức độ sâu sắc hơn tất cả các nơi thần thánh trên thế giới và tất cả các biểu tượng thần thánh đều đã bị vứt bỏ đi. Giờ đây mọi thứ đều thiêng liêng, mọi thứ đều trần tục. Tổ phụ Avraham và con cháu của ông không xức dầu thánh cho những bức tượng đặc biệt; cũng không theo các vì sao từ các thần điện sáng lấp lánh mà chỉ tin vào lời Thiên Chúa và cuộc hành trình đang diễn ra. Đức tin thay thế khả năng tiên đoán chung chung của thế giới xưa bằng khả năng thành công lẫn thất bại, hạnh phúc lẫn bi kịch trong hiện thực - đó chính là một cuộc hành trình có thực mà kết quả vẫn chưa có. Câu chuyện của Avraham là câu chuyện có thật trong lịch sử và không thể thay đổi được, nó không phải là một màn kịch trần gian về một kiểu mẫu trên thiên đàng. “Avraham đã ra đi” - thật sự đã ra đi. Tôn giáo theo chu kỳ không xuất phát từ nơi nào hết vì, bên trong sự nhận thức, không có tương lai khi chúng ta bắt đầu hiểu được tôn giáo, mà chỉ là một chu kỳ tiếp theo của Vòng sinh tử.
Vì thời gian không còn theo chu kỳ nữa mà chỉ đi theo một chiều không bao giờ trở lại, lịch sử cá nhân giờ đây có thể trở thành hiện thực và cuộc sống cá nhân có thể có giá trị. Giá trị mới lúc đầu rất khó hiểu, nhưng trong những mô tả cổ xưa nhất về Avraham và gia đình của ông, chúng ta bắt gặp những bảng phả hệ được soạn thảo kỹ lưỡng về những con người bình thường, một điều gì đó mà chắc là người Sumer không bao giờ nghĩ là sẽ ghi nhận lại, vì họ cho rằng điều đó chẳng có ý nghĩa gì đối với trí nhớ cá nhân. Đối với họ, chỉ có sự tồn tại khách quan như vương quyền, mùa vụ mới là quan trọng; còn những gì thuộc về cá nhân, khác thường, phi thường,
https://thuviensach.vn
kỳ quái - những con người hay sự kiện không phù hợp với nguyên mẫu - thì chẳng có ý nghĩa gì cả. Và nếu không có cá nhân thì thời gian và lịch sử cũng sẽ không bao giờ xảy ra. Nhưng Thiên Chúa của Avraham, Thiên Chúa của Yitzhak và Thiên Chúa của Yaakov - không còn là thần thánh cổ đại tiêu biểu nữa, cũng không còn là người có cử chỉ nguyên mẫu nữa - mà là một người có nhân cách thật sự, đã can thiệp vào lịch sử hiện thực, làm thay đổi tiến trình lịch sử và cướp đi tính dự đoán trước của lịch sử.
Người sẽ còn tiếp tục can thiệp. Và những sự can thiệp này dần dần mang lại cho các hậu duệ của Avraham những sự đổi thay lớn lao trong trí óc và con tim, một trong số những sự can thiệp của Chúa chỉ được gợi ý trong các truyện kể của các tổ phụ. Chỉ lấy một ví dụ duy nhất: Yaakov, người có tội lỗi khắc khoải đối với anh trai của mình tên là Esav đã thôi thúc ông nghĩ là mình sẽ bị giết chết dưới bàn tay của anh trai mình một khi họ gặp lại nhau, nhưng cuối cùng đã hòa giải với anh trai mình; và trong khoảnh khắc giải quyết vấn đề một cách tốt đẹp này, Yaakov, người đã nhìn thấy khuôn mặt của Chúa, thốt lên những lời kỳ lạ: “Chỉ nhìn thấy khuôn mặt của anh là giống như nhìn thấy được khuôn mặt của Chúa, giờ đây anh đã rất tốt bụng khi thừa nhận em”. Người thuật chuyện cũng như phong tục của anh ta không giúp ích gì cho chúng ta trong việc phân tích câu nói có tính châm ngôn này. Nhưng chúng ta biết rằng trong thế giới cổ đại “để nhìn thấy khuôn mặt của một ai đó” là phải biết về người đó, phải hiểu được tính cách và nắm được lai lịch của người đó. Vì Yaakov đã nhìn thấy khuôn mặt của Chúa nên ông cũng có thể nhìn thấy từng cá nhân con người để biết người đó là ai; và vì lý do nào đó kinh nghiệm này cũng giống như kinh nghiệm của Chúa. Điều này sẽ có ý nghĩa gì đối với tương lai thì vẫn chưa thể giải thích tường tận được, nhưng con người giống như một quân cờ (Sara, các con gái của Lot, vợ của Lot, Yitzhak) thì lại lặng lẽ và huyền bí để đưa ra tầm nhìn cao hơn về con người là cái gì. Tại điểm này trong câu chuyện, chúng ta chỉ có được gợi ý mờ nhạt về một sự phát triển như thế. Nhưng khi dõi theo những cuộc du cư của con cháu Avraham qua nhiều thế kỷ, chúng ta sẽ chứng kiến nhiều sự phát triển như thế. Quả thực, chúng ta
https://thuviensach.vn
sẽ là những bằng chứng cho sự tiến triển chậm chạp của toàn bộ hệ thống các giá trị cua mình.
Những câu chuyện về các ông tổ không sát với câu chuyện về Yaakov/Israel. Israel cùng với hai bà vợ và hai cô hầu gái có tất cả mười hai người con trai sau này trở thành mười hai chi tộc Israel8. Rachel, người vợ ông yêu thích nhất, đã sinh cho ông người con trai ông yêu quý nhất tên là Joseph. Joseph là người cuối cùng trong số mười hai ông tổ của mười hai chi tộc Israel và là người đã thiết lập những sự kiện trong sự vận động không chỉ làm cho người dân Do Thái định cư lâu dài trên miền đất Hứa, có lẽ như người ta đã mong đợi, mà còn làm cho người dân Do Thái rơi vào cảnh nô lệ tưởng chừng như vĩnh viễn ở Ai Cập.
8. Tên tuổi những ông tổ của mươi hai chi tộc Israel (và, sau đó, chính là tên tuổi của các chi tộc) được ghi lại trong sách Sáng Thế là Reuben, Simeon, Levi, Judah, Issachar và Zebulun do Leah, vợ của Israel sinh ra. Bilhah, người hầu gái, sinh ra Gat và Asher. Rachel, người hầu gái, sinh ra Dan và Naphtali. Sau cùng, bà Rachel sinh ra Joseph và Benjamin. Trong các danh sách sau này, chi tộc của Simeon có khuynh hướng biến mất trong vùng đất do Judah kiểm soát; chi tộc thầy tu Levs không có đất nên đã bỏ di; và Joseph được chia thành những chi tộc của hai người con trai là Ephraim và Manasseh.
https://thuviensach.vn