🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Ngựa Chứng Trong Sân Trường
Ebooks
Nhóm Zalo
Ngựa Chứng Trong Sân Trường
Tác giả: Duyên Anh
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Doom 007
Bìa: Doom 007
Created by: http://isach.info
Date: 08-September-2016
Kho ebook online http://isach.info
CHƯƠNG 1
N
GƯỜI TÙY PHÁI GIÀ HỎI TÔi - Thầy bị đổi xuống đây à?
Tôi lắc đầu:
- Không, tôi chọn trường này...
Người tùy phái tỏ vẻ ái ngại. Ông ta nhìn tôi,
muốn nói chuyện gì đó nhưng lại ngập ngừng. Cuối cùng, ông ta rót nước mời tôi uống và để tôi ngồi một mình chờ ông hiệu trưởng. Qua khung cửa văn phòng, tôi có thể ngó ra sân trường. Vài cậu học trò, miệng ngậm thuốc lá, lững thững bước dưới nắng lửa. Cỏ sân khô cháy.
Tóc họ chắc cũng bị khô cháy. Và tôi biết đây là những cậu học trò bỏ ngang giờ học. Tôi mới dời trường cao đẳng sư phạm, tuổi nghề vừa ăn thôi nôi. Năm ngoái, tôi dạy ở một tỉnh miền Đông, dân chúng sống bằng nghề chài lưới. Học trò của tôi, phần đông, con nhà nghèo nên rất chăm chỉ. Khi người ta mơ ước thoát khỏi cuộc đời cùng cực người ta thường gắng sức phấn đấu. Và cuộc phấn đấu làm người ta say mê. Những cậu học trò của tôi không chịu chấp nhận số phận hẩm hiu của phụ huynh họ. Qua vài lần tâm sự, tôi hiểu họ muốn bãi bể của họ sẽ có nhiều tầu đánh cá thay cho những chiếc ghe chài nhỏ bé dễ bị sóng gió vùi dập ngoài khơi. Và chính họ sẽ lái những chiếc tàu đánh cá tối tân, sẽ biến tỉnh lỵ buồn hiu hắt của họ thành nơi trù phú. Như thế, chỉ còn cách duy nhất là đầu tư tuổi trẻ của mình vào sự học.
Tôi yêu những người học trò ấy. Để khích lệ họ, tôi thích kể về tôi, một kẻ thân lập thân. Tôi đã phải bán báo suốt bảy năm trung học. Những người lơ bến xe đò Lục Tỉnh đều quen mặt tôi. Năm giờ sáng, tôi đạp xe chở chồng
báo đến bến xe. Sáu giờ, tôi tới bãi tập võ. Hồi đó sinh hoạt dễ dàng. Mỗi ngày bán báo một giờ là dư tiền trả cơm trọ, sắm sửa quần áo sách vở. Tôi dành dụm tiền mua được cây vĩ cầm. Tôi nhớ đã ôm cây vĩ cầm về nhà trọ hôm tôi đọc thấy tên mình trúng tuyển vào Đại Học Sư phạm ban Hán Việt. Lên đại học, có học bổng, tôi chấm dứt nghề bán báo. Chỉ cần kiếm một chỗ kèm trẻ lấy tiền tiêu vặt. Tôi ghi tên học thêm ở Đại Học Văn Khoa.
Ngày sung sướng nhất đời tôi, ngày mà tôi cho rằng đã thực hiện được lời hứa với cha tôi, là ngày đâu lên ngồi trong giảng đường đại học. Thuở sinh tiền, đã một lần, lần ấy tôi còn bé lằm, cha tôi dẫn tôi qua khu đại học Hà Nội, ông chỉ tay vô đất thiêng đối với thằng nhóc con, giọng ông run run: "Bố ước ao lớn lên, con sẽ học ở trường này". Bấy giờ, tôi không hiểu tại sao cha tôi xúc động. Mải bây giờ, tôi mới hiểu vì nhà tôi nghèo, cha tôi đã rướn với trái hạnh phúc quá cao tầm tay của ông. Trái hạnh phúc đã nằm gọn giữa bàn tay tôi. Nếu cha tôi chưa mất tôi sẽ bắt ông dẫn tôi đến trường Văn Khoa Sài gòn, nắm chạt tay cha tôi để ông bớt xúc động và thưa với ông: "Con đã học ở trưởng này". Tôi muốn sống lại đoạn đầu đời. Mà không được. Ngồi trong giảng đường đại hoc, lẩm nhầm bài Tôi đi học của Thanh Tịnh, tôi đã khóc. Dưới đất lạnh, cha tôi không thể ngờ một đứa trẻ nhà nghèo đã leo lên nổi cái bậc thang mơ ước của cha nó.
Kết luận những mẩu chuyện về tôi, luôn luôn, là có nhiều Châu Trí trên cuộc đời. Học trò của tôi thương tôi hơn và tin tưởng, một mai, họ sẽ lái những chiếc tầu đánh cá gắn ra đa. Tôi cũng tưởng sẽ dạy ở đây mãi mãi, dù được thuyên chuyển về Sàigòn, tôi vẫn tình nguyện gắn bó đời mình với đời những người học trò miền bể nghèo nàn này. Vì tôi thích, vài chục năm sau, một trong những người
học trò của tôi sẽ tạo nên sự nghiệp vẻ vang, về thăm trường cũ, anh ta sẽ bắt chước ông Carnot: "Thưa thầy, con là X. đây, thầy còn nhớ con không?" Nhưng tôi phải dời tỉnh lỵ miền Đông vì một tai nạn nghề nghiệp! Đầu niên học năm nay tôi được Bộ Giáo Dục chỉ định làm chánh chủ khảo kỳ thi vào đệ thất, lấy lý do tôi vừa tốt nghiệp cao đẳng sư phạm vừa có cử nhân văn chương giáo khoa. Tôi chưa nhiều tuổi nghề so với ông hiệu trưởng và các đồng nghiệp khác, song tôi nhiều bằng cấp hơn họ. Bằng cấp nhiều không có nghĩa là kiến thức uyên bác. Nghề sư phạm đòi hỏi kinh nghiệm. Ở Việt Nam, mọi lãnh vực, người ta vẫn đánh giá trị tài năng qua bằng cấp. Do đó, xẩy ra nạn kiêu khoa bảng. Và người ta cứ lầm tưởng khoa bảng là trí thức. Cho nên, muốn được xưng tụng là trí thức, cần học hành nhất loài vẹt đã đỗ đạt nhiều bằng cấp. Bằng cấp cao đứng trên, bằng cấp thấp đứng dưới, bất chấp tuổi tác, kinh nghiệm nghề nghiệp và cuộc đời.
Trước ngày thi một tuần, ông hiệu trưởng mời tôm ăn cơm. Ông trao cho tôi danh sách ba chục thí sinh, yêu cầu làm ngơ để họ trúng tuyển. Tôi bảo ông chờ tôi suy nghĩ. Ông quả quyết ba chục thí sinh này toàn nhà nghèo đáng nâng đỡ. Tôi về, hỏi thăm vài phụ huynh học sinh tin cậy, họ nói khác ông hiệu trưởng. Nghĩa là, ba chục thí sinh ông hiệu trưởng muốn ban ân huệ, đều là con các thương gia giầu có trong thi xã Tôi nghĩ ngay đến tôi, đứa trẻ con nhà nghèo, ngày xưa, đã học mòn người suốt ba tháng hè, đã vất vả quật ngã mấy chục đối thủ mới được vào đệ thất trường công học miễn phí bẩy năm. Nếu bị quật ngã, tôi không thể có ngày nay. Tôi phải cẩn trọng cái chức vụ của mình. Tôi đã làm việc trong phòng chánh chủ khảo mấy ngày đêm, nhờ tùy phái mua cơm ăn tại chỗ, coi lại mấy trăm bài thi. Ba chục thí sinh của ông hiệu trưởng gửi gấm bị loại bỏ vì bài thi của họ không xứng đáng, dù
những bài thi này được cho điểm thật cao. Tôi phàn nàn các giáo sư chấm thi. Ông hiệu trưởng bảo tôi nên biết điều. Ông ta dọa tôi rằng sau kỳ thi vào đệ thất, tôi chỉ là giáo sư dưới quyền ông ta. Ngày tuyên bố kết quả, ông hiệu trưởng giận dữ. Ông đã xổng một áp phe bạc triệu. Ông để tâm thù tôi. Ông ta đã vận động với Bộ đổi tôi đi nơi khác. Tôi thừa biết ông đã báo cáo về tôi nhơ nhuốc lắm. Bộ gọi tôi về. Tôi trình bầy sự thật. Rất tiếc sự thật không mang lợi lộc cho cấp trên. Mặc dầu, Hội Phụ Huynh Học Sinh can thiệp giữ tôi, Bộ vẫn muốn tôi dời tỉnh lỵ miền Đông. Bộ còn ưu đãi tôi bằng cách thay vì tống tôi lên Cao nguyên, lại để tôi chọn ba trường ở miền Tây. Và tôi đã chọn tỉnh miền Tây xa nhất.
Tách nước trên bàn ông hiệu trưởng đã nguội ngắt. Người tuy phái già bước vào:
- Thầy dùng nước đi.
Tôi cám ơn ông ta và hỏi:
- Thường thường, buổi chiều ông hiệu trưởng có đến văn phòng không?
- Ổng làm việc đúng giờ giấc.
- Tại sao chiều nay?
- Chắc ông bận họp bên Ty Tiểu Học. Thầy xuống được mấy bữa rồi?
- Một.
- Vậy gấp chi. Nghỉ cho khỏe đã.
- Tôi muốn dậy ngay.
- Thầy sẽ mệt à...
Tôi không hiểu ý nghĩa tiếng "mệt" của ông tùy phái già, bởi, nói xong câu "thầy sẽ mệt à", ông lại nhìn tôi tỏ vẻ ái ngại:
- Thầy biểu thầy chọn trường này à?
- Phải.
- Không hề bị đổi chứ?
- Không.
Ông tùy phái già hơi tò mò. Dường như, ông có cảm tình với tôi.
- Nói thiệt, tôi mà là thầy, tôi không thèm chọn trường này. Tôi mần ở đây lâu rồi. Chưa hề thấy học trò hư đốn như bây giờ. Bọn nó là giặc. Mấy ông thầy trước bị bọn nó phá quá, dạy hết nổi, cậy cục xin đổi hết trơn.
Ông ta rụt rẻ:
- Nè thầy...
Tôi mỉm cười:
- Ông muốn dạy tôi vài kinh nghiệm chăng? Ông tùy phái lễ độ:
- Đâu dám. Có điều thầy chớ nặng lời với bọn nó. Bọn đệ nhị B2 nhiều thằng dao búa...
Ông ta bỏ ngang chuyện bọn đệ nhị B2, hỏi tôi: - Thầy trọ ở đâu?
Tôi đáp:
- Hiện tôi thuê phòng khách sạn. Tôi sẽ kiếm một căn gác nhỏ gần trường.
Vừa lúc đó, có tiếng bánh xe hơi lăn trên lớp đá sỏi trước cửa văn phòng. Ông tùy phái vui mừng báo tin:
- Ổng tới đó...
Và ông kiếm thêm cái tách, châm nước. Rồi bỏ ra ngoài. Ông hiệu trưởng bước vào. Tôi đứng dậy chào ông. Ông
bắt tay tôi và mời tôi ngồi.
- Hy vọng đây không phải là giáo sư mới.
Ông mỉm cười sau câu nói mở đầu nên tôi biết ông thích khôi hài.
- Ông hiệu trưởng thất vọng rồi.
Ông nhún vai:
- Giáo sư mới à? Người ta cứ gửi cho tôi những ông thầy trẻ măng, rồi những ông thầy trẻ măng cứ bắt tội tôi ký đơn chấp thuận để các ông ấy bỏ rơi tôi. Ký và phê thật xấu đặng Bộ có lý do bê các ông ấy đi.
Tôi nói:
- Chắc tôi không van nài ông hiệu trưởng báo cáo xấu để bỏ rơi ông đâu.
Ông hiệu trưởng trạc ngoài bốn mươi. Nhờ mái tóc ông ngả mầu muối tiêu, thành thử, trông phớt gương mặt ông, lần đầu, có thể nghĩ ông đã trên năm mươi. Ông còn trẻ vì ông vui tính. Ông chìa tay bắt tay tôi:
- Hứa nhé!
- Dạ.
Tôi trình sự vụ lệnh. Đọc tên tôi, ông đứng dậy, chìa tay lần nữa, nắm chặt tay tôi lắc lia lịa:
- Toa hả, Định? Trần Mình Định. Moa phục toa lắm. Giới trẻ cần nhiều thằng quân tử Tầu như toa. Vụ của toa Bộ bàn cãi kịch liệt. Họ đau xót hạ toa bởi sợ xích mích giữa hai thế hệ giáo già, giáo trẻo. Moa về phe toa. Giáo dục không thể là chỗ ăn bẩn.
Tôi ngạc nhiên. Một chút kiêu hãnh nhẹ. Tôi không ngờ vụ chống đối ông hiệu trưởng miền Đông lại gây sôi nổi thế. Sôi nổi âm thầm. Miễn có người hiểu tôi làm phản.
Chỉ cần vậy. Là đủ để tôi tin tưởng và kiêu hãnh nghề dạy học của tôi.
- Ông làm tôi đỏ mặt.
- Moa ca ngợi toa. Mai này, toa sẽ ngồi chỗ của Tổng trưởng Giáo dục.
Ông hiệu trưởng đã buông tay tôi ra. Ông cầm gói thuốc mời tôi. Tôi từ chối.
- Không đúng "gu" của toa, hả?
- Thưa ông, tôi không biết hút thuốc.
- Rượu?
- Không.
- Xì phé, chắn cạ?
- Cũng không.
- Toa làm moa sững sờ đấy.
Ông hiệu trưởng coi tôi như một người bạn quen biết đã lâu. Như vậy tôi tin rằng, ít nhất, tôi cũng dạy ở đây đúng hai năm. Rồi đi đâu sẽ tính sau.
- Toa muốn nghỉ dưỡng sức ít ngày không?
- Không.
- Vậy sáng mai bắt đầu. Thứ ba đó.
- Vâng, sáng mai.
- Moa đích thân giới thiệu toa với học trò.
- Cám ơn ông hiệu trưởng.
- Tối nay, moa mời toa dùng cơm. Kêu moa bằng anh đi. Cho nó thân mật.
- Cám ơn anh.
Bỗng ông hiệu trưởng nhìn tôi không nói. Ánh mắt đăm chiêu lạ lùng. Tôi ném viên đá nhỏ xuống cái giếng đăm chiêu của ông:
- Lớp đệ nhị B2 có nhiều cậu dao búa. Ngày mai tôi muốn dạy lớp đó trước.
Ông hiệu trưởng cắn mối. Giây lát, ông bật que diêm, mồi điếu thuốc đã rút sẳn.
- Toa còn trẻ quá, moa sợ...
- Anh sợ gì?
- Sợ toa lại bắt moa không chấp nhận toa dạy ở đây.
- Tôi không muốn học đòi những ông khí phách xằng, hễ ai chê mình trẻ là đọc vanh vách một đoạn Le Cid. Tôi không thể hạ gục nổi ai nhưng tôi đủ kiên nhẫn chịu đựng bất cứ nghịch cảnh nào. Anh đã biết, tôi làm thầy giáo và tôi chọn nghề dạy học vì yêu mến nghề dạy học.
Ông hiệu trưởng xua tay:
- Toa đừng hiểu lầm moa.
Tôi nói:
- Người trị được ngựa chứng là người bị ngựa chứng quật ngã nhiều lần. Mới bị quật ngã một lần đã tởn, không đời nào làm nghề trị ngựa chứng được.
Ông hiệu trưởng đưa tay xoa cằm râu tua tủa: - Toa bi ngựa chứng đá lần nào chưa?
Tôi đáp:
- Chưa. Chưa cưỡi.
- Vậy sửa soạn nhẩy lên lưng ngựa. Chúc toa may mắn. Trước khi cưỡi ngựa nhớ tối nay dùng cơm với vợ chồng moa. Toa ở đâu?
- Khách sạn Thanh Bình.
- Moa đến đón toa. Nhớ nhé, Định!
Tôi dời văn phòng ông hiệu trưởng sau khi đã thanh toán xong một thủ tục hành chánh. Tôi không ngờ thủ tục được thanh toán nhanh chóng và nồng nhiệt thế. Vừa ra khỏi cổng trường thì kẻng ra chơi đổ. Tôi ngoái lại nhìn. Cảnh tượng y hệt cảnh tượng ngôi trường ở miền Đông. Tôi bắt đầu nghĩ về "những thằng dao búa" lớp đệ nhị B2, nghĩ về những con ngựa chứng trong sân trường. Yên chí, ngày mai chúng mình sẽ gặp nhau.
***
TÔI VÀO LỚP MỘT MÌNH, TỪ CHỐI sự dẫn dắt của ông hiệu trưởng. Tôi muốn chứng tỏ mình đã lớn, đã là một ông thầy dạy học trò thi tú tài, dù tôi chỉ mới hai mươi bốn tuổi. Học trò lớp đệ nhị B2 chào đón tôi bằng tiếng hô "nghiêm" dõng dạc. Tôi không giật mình. Thằng hô "nghiêm" đeo kính đen, ngồi đầu ghế bàn cuối lớp. Nó ngồi hút điếu thuốc lá đang cháy, kẹp giữa hai ngón tay nó. Tất cả đều đứng lên.
Tôi bình tĩnh nhìn khắp lớp. Bắt gặp vài khuôn mặt kính cẩn giả tạo, khuôn mặt của những anh hề hạng bét trình diễn tài nghệ trước đám khán giả khó tính. Tôi thong thả bước xuống chỗ thằng đeo kính đen. Nó đã ngậm điếu thuốc và đang nhả khói. Vỗ khẽ vai nó, tôi nói:
- Cám ơn anh.
Nó hất đầu, ngạo mạn:
- Cám ơn gì?
Tôi cười làm quen:
- Cám ơn đã hô "nghiêm". Tôi rấ ghét nghi thức. Nghi thức thường vụ hình thức. Mà hình thức thường giả tạo. Ở
lớp học chỉ cần thành thật. Hãy ném sự giả tạo ra cuộc đời. Anh đã hô "nghiêm" làm ơn hô "nghỉ" giùm tôi.
Con ngựa chứng - tạm gọi thế - phá ra cười. Nó ngó đám bạn mà tôi đoán thuộc băng của nó, gỡ kính, đặt trên một bàn:
- Ông nói, tụi mày hiểu gì không?
Nó dụi điếu thuốc, đứng dậy, khoanh tay:
- Thầy mới chịu chơi số dách. Ông khoái "nghỉ", không khoái "nghiêm". Vậy tụi mày "nghỉ".
Tôi vẫy tay:
- Có nghĩa là các anh ngồi xuống.
Cả lớp ngồi xuống. Riêng con ngựa chứng. Nó vẫn đứng. Một chân ghếch lên ghế. Nó búng ngón tay tách một cái. Ba thằng cùng bàn nó đặt hết chân trên bàn y hệt những người khán giả thiếu tự trọng trong rạp chiếu bóng, thích gác chân lên thành ghế của hàng ghế trước mình. Tôi chưa biết phản ứng ra sao. Những lớp học ở mạn Đông của tôi không có ngựa chứng. Tôi xoay lưng, thong thả bước lên bục và ngồi xuống ghế của tôi. Tôi nhìn những cậu học trò gần tôi nhất, đọc được từ ánh mắt họ nỗi xót thương.
- Chúng ta có thể bắt đầu.
Con ngựa chứng đầu đàn nhún vai:
- Đi đâu vội thế, giáo sư? Phải giới thiệu cuộc đời ái tình và sự nghiệp của giáo sư chứ?
Tôi cười:
- Em pha trò duyên dáng đấy.
Tôi bỗng chợt thấy mình giống Audie Murphy trong một phim cao bồi, nhan đề Le nettoyeur. Thị trấn đầy du
đãng, lưu manh, sức mạnh là khẩu súng và trái đấm. Người shérif già bất lực, đành vùi đầu ở một góc văn phòng, tối ngày say sưa. Để khỏi phải rút súng, cầm chắc cái chết. Thị trấn cần một shérif tài ba để dọn dẹp rác rưới, tạo lại an ninh, trật tự. Anh chàng Audie Murphy đã tới bằng chuyến xe đầy hành khách. Bọn cao bồi hay tin, đón chờ anh. Bước xuống xe sau cùng, Audie Murphy nhỏ thó, ăn diện như công tư bột, tay xách chiếc lồng chim. Shérif mới đã làm bọn cao bồi ôm bụng cười nghiêng ngửa. Tôi đang ngồi ở bàn của mình, bên phải là bảng đen, trước mắt tôi là những cậu học trò chỉ kém tôi vài tuổi, nhiều cậu to con hơn tôi. Tôi tự nhủ sẽ chịu đựng những gì sắp xẩy ra. Và, như thế, cần bình tĩnh. Chống tay lên cằm, tôi hỏi con ngựa chứng đầu đàn:
- Anh có hay xem chiếu bóng không?
- Lu bù.
- Coi phim Le nettoyeur chưa?
- Ai đóng vai chính?
- Audie Murphy.
- Chưa.
- Coi phim Blackboard jungle chưa?
- Phim Tạc giăng à?
- Không, phim học đường. Người ta dịch là Bầy thú trước bảng đen, Glenn Ford đóng vai thầy giáo.
- Kể sơ phim Le nettoyeur đi!
- Sẽ có dịp.
- Tôi sợ ông không còn dịp.
- Thế hả! Chúng ta cứ chờ đợi. Bây giờ, tôi đề nghị anh ngồi xuống, ngồi ngay ngắn, tôi sẽ giới thiệu "cuộc đời ái
tình và sự nghiệp" của tôi.
Con ngựa chứng nhún vai:
- Ông này ngon đa! Tụi mày ngồi đàng hoàng.
Nó ngồi xuống ghế trước tiên. Ba thằng trong băng của nó cũng rút chân khỏi mặt bàn. Con ngựa chứng giơ tay:
- Giáo sư!
- Chi đó?
- Tôi hít thuốc được chứ? Giáo sư chịu chơi là giáo sư để học sinh hít thuốc "líp" trong lớp. Hít thuốc không vụ hình thức. Ô kê?
Nó không đợi tôi trả lời, rút thuốc, mồi lửa. Ba thằng cùng bàn nó bắt chước nó. Chúng gân cổ rít thật nhanh, phà khói thật nhiều. Tôi im lặng. Con ngựa chứng đứng dậy:
- Mời giáo sư một điếu!
Nó vất gói thuốc và hộp diêm lên bàn tôi. Cử chỉ của nó khiêu khích ra mặt. Tôi chưa biết tên nó. Nhưng tôi sẽ biết. Ở trường sư phạm, người ta không dạy tôi cách đối phó với những đứa học trò ngang tàng. Người ta chỉ truyền cho tôi những kinh nghiệm sư phạm và khả năng chuyên môn. Tôi đã thực tập tại nhiều trường. Những lớp tôi tới thực tập toàn là lớp kiểu mẫu. Tôi cũng đã đọc thêm nhiều sách viết về tâm lý giáo dục. Tuyệt nhiên, tôi chưa được học, được đọc cách giáo huấn phủ đầu những học trò như những thằng đang khiêu khích tôi. Tôi hơi bối rối. Chiều hôm qua, tôi đã nói mạnh với ông hiệu trưởng. Vì tôi không thể tưởng tượng Bầy thú trước bảng đen lại có thật trước bảng đen trong lớp học của tôi. Tôi là đứa trẻ nghèo khổ đã chinh phục mọi nỗi gian nan để vươn lên. Tôi kiêu hãnh điều đó. Tôi đã chiến thắng cuộc đời thì không thể thua một vài con ngựa chứng.
Tôi thản nhiên rút một điếu thuốc lá, quẹt diêm mồi thuốc. Tôi hít một hơi đẫy, hơi trề hàm dưới, kéo hết khói vào đằng mũi rồi nhả vòng khói tròn lớn, sau đó, thổi thêm một vòng khói nhỏ chạy qua vòng khói lớn. Học trò ngơ ngẩn nhìn. Tôi đã thôi miên họ bằng một chút tài còm. Con ngựa chứng gật gù:
- Tuyệt.
Tôi liệng điếu thuốc ra ngoài hành lang. Con ngựa chứng hỏi:
- Giáo sư biết nhảy đầm không? - Biết.
- Cờ bịch?
- Biết.
- Thích không?
- Thích. Khi tôi dội trường sư phạm, những sở thích ấy đã bị chôn vùi. Giáo sư hút thuốc lá trong lớp sẽ không cấm được học sinh hút thuốc lá trong lớp. Anh hiểu ý tôi chứ?
Con ngựa chứng cười lớn:
- Ông chửi xéo tụi mình đó.
Tôi nói:
- Chúng ta nên tìm hiểu nhau. Trước khi làm nghề dạy học, tôi đã làm học trò. Tuổi trẻ có nhiều lầm lẫn đáng yêu nhưng cần đề phòng một lầm lẫn khiến mình phải ân hận suốt đời.
Con ngựa chứng đưa hai tay bưng mặt:
- Ông đi một đường luân lý giáo khoa thư.
Lớp học không cười ồ nữa. Nhiều khuôn mặt nhăn nhó. Nhiều ánh mắt phẫn nộ. Một vài cái đầu đã quay xuống nhìn con ngựa chứng. Chỉ còn tiếng cười khô khan, trơ trẽn của ba thằng thuộc băng ngựa chứng. Tự nhiên, tôi
phấn khởi. Người ta dễ nghiêng cảm tình về những kẻ yếu đuối, những kẻ tưởng chừng đang bi số đông bắt nạt. Tôi muốn kéo dài không khí ngộp thở này. Tôi thèm nghe những lời chọc gan của con ngựa chứng. Tôi chờ nó nói một câu thật mất dạy để đón nhận một phản ứng của những người học trò thầm lặng. Tôi đã nghiến răng chịu nhục với cuộc đời. Tôi sẽ nghiến răng nhẫn nhục chịu đựng những con ngựa chứng. Để chiến thắng. Bởi vì, ngựa chứng trong sân trường vẫn chỉ là học trò. Nhiệm vụ của một ông thầy khác hẳn nhiệm vụ của một ông giám thị trại giáo hóa. Người ta dạy chim sáo chim yểng nói được những câu chào hỏi lễ phép; người ta dạy con khỉ, con vượn làm được trò vui; người ta dạy con hổ, con sư tử làm được theo ý muốn của người ta. Thì tại sao một ông thầy không dạy được những học trò ngang ngược?
- Anh chê luân lý giáo khoa thư?
Con ngựa chứng liếm mép:
- Hình như giáo sư chỉ đến lớp dạy Việt văn? Đã lâu rồi, tôi không được học luân lý. Và cũng chẳng anh nào khoái dạy luân lý. Giáo sư biết tại sao chưa?
- Tại sao?
- Tại vì tụi thầy nhóc con vô luân!
Tôi mỉm cười:
- Câu trả lời thấm thía lắm. Người ta bảo tuổi trẻ hôm nay không thích suy nghĩ và tàn nhẫn. Nhưng mà thành thật.
Tôi cố gắng thân thiện với con ngựa chứng:
- Anh!
Nó vênh váo:
- Tôi?
- Phải.
- Gì?
- Tên anh?
- Mai mốt giáo sư sẽ đến nhà tôi chơi phé. Có thể, tôi sẽ cùng chơi nếu thiếu người. Chúng ta sẽ tháu cáy và sẽ chửi nhau nếu có thằng chơi bịp.
Tôi thấy đau nhói tận tim. Nghẹn ngào. Chợt nhớ câu kết tội của người tùy phái già: <[>Chưa hề thấy học trò hư đốn như bây giờ. Tôi chớp mắt, nhiều đôi mắt đối diện tôi cũng chớp mau. Có đôi mắt ứa hai giọt lệ và đọng ở đuôi con mắt. Một người học trò đứng dậy:
- Thưa thầy, xin thầy giảng bài.
Con ngựa chứng đấm nắm tay xuống bàn:
- Lát nữa tao dạy mày! Để nghe giáo sư kể cuộc đời ái tình và sự nghiệp cái đã. Tiên học tán quét, hậu học Việt văn.
Người học trò yêu cầu tôi giảng bài vẫn đứng thẳng. Chiếc áo sơ mi trắng nó mặc đã ngả mầu cháo lòng và nhăn nheo. Nó bắt tôi nghĩ tới những người học trò miền Đông cửa tôi. Đôi mắt nó mở rộng, không chớp như thể nó muốn tôi hiểu rằng nó tội nghiệp giùm tôi. Tôi niềm nở hỏi nó:
- Anh tên gì?
- Thưa thầy Nguyễn văn Lành.
- Cám ơn anh Lành, anh ngồi xuống. Tôi sẽ không dạy thiếu chương trình.
Lành ngồi xuống. Tôi nói:
- Đáng lẽ ông hiệu trưởng sẽ giới thiệu "cuộc đời ái tình và sự nghiệp" của tôi. Các anh đã nghe tôi tâm sự: tôi rất ghét hình thức. Phải giới thiệu mình là một điều khó
khăn. Vì dễ gây ngộ nhận. Tôi xin vắn tắt: Tên tôi, Trần Minh Định, tốt nghiệp đại học sư phạm ban Hán Việt, có bằng cử nhân văn chương giáo khoa, bằng ngôn ngữ học Michigan. Chẳng đáng quan tâm những mảnh bằng đó. Điều tôi muốn các anh phải biết là tôi là đứa trẻ con nhà nghèo, bán báo từ năm học đệ thất lấy tiền ăn học. Tôi yêu nghề dạy học nên thi vào sư phạm. Chưa có vợ. Chưa có cả người tình. Năm ngoái tôi dạy ở một tỉnh miền Đông. Chống gian lận thi cử bị trả về Bộ. Tôi chọn trường này.
Tôi nhìn thẳng vào mặt con ngựa chứng:
- Và tôi sẽ dạy ở đây, ít nhất là hết niên học. Con ngựa chứng cười nửa miệng:
- Không bị đi lính à?
Tôi lắc đầu:
- Tôi đã được huấn luyện quân sự chín tuần. Vì nhu cầu giáo dục, người ta cho tôi vô dạy học.
Con ngựa chứng rít qua kẽ răng:
- Đó là điều tôi không ưa mấy anh giáo sư nhóc. Tại sao bạn bè tôi, và rồi tôi nữa, đi lính là đi luôn?
Tôi nhún vai:
- Tại vì anh chỉ lo bất mãn, phản kháng, phẫn nộ vô duyên cớ.
Nó cầm cái kính, liệng mạnh vào tường:
- Vô duyên cớ? Ông mới về đây biết con mẹ gì. Lớp này trước hơn sáu chục mạng. Mỗi ngày một vơi đi, giờ chỉ còn ba chục. Bạn bè tôi lần lượt đi lính. Nhiều đứa đã chết. Tôi cóc muốn học. Tôi khoái nổi loạn, chờ ngày đăng lính. Ông cứ việc đuổi tôi. Tôi tởm những thằng giáo sư
trẻ. Chúng nó vô tư cách. Tôi muốn ông cuốn gói càng sớm càng tốt.
Con ngựa chứng chộp cuốn vở gấp đôi, nhét vào túi. Nó bỏ lớp ra ngoài. Ba thằng bạn nó đi theo nó. Tôi đưa hai tay bưng mặt. Cơn xúc động kéo dài.
- Thưa thầy...
Nguyễn văn Lành đã đứng dậy. Tôi buông đôi tay rơi bịch trên bàn.
- Thưa thầy...
Tôi vẫy nhẹ, bàn tay còn run run:
- Cám ơn anh, anh ngồi xuống. Tôi sẽ dạy hết niên học, dù chỉ còn một mình anh, Lành ạ!
Nhiều tiếng nói nhao nhao:
- Chúng em học thầy.
Nguyên văn Lành chưa chịu ngồi. Nó ngần ngại muốn nói với tôi.
- Anh có thể nói.
- Thưa thầy thầy phải đề phòng bọn thằng Phong. Tụi nó giao du với những tên du đãng.
- Cám ơn anh. Tôi không bao giờ nghĩ phải đề phòng học trò cửa tôi. Các anh nhắn giùm Phong và bạn nó hãy đi học. Thầy giáo không thể thù học trò. Chúng ta bắt đầu làm việc. Tôi muốn giảng về Cao Bá Quát, kẻ sĩ nổi loạn trong một xã hội mục nát.
Những cuốn tập mở rào rào. Lớp học im lặng. Tôi say sưa giảng giải thơ văn Cao Bá Quát và nói vài quan niệm riêng của tôi đối với tư tưởng Cao Bá Quát. Tôi không bắt học trò ghi chép quan niệm riêng của tôi. Họ muốn đỗ, họ chỉ được nhai lại những "giáo điều" trong những cuốn
sách đã được Bộ Giáo Dục công nhận. Tôi rất lạc quan. Chỉ có bốn con ngựa chứng. Việc gì phải ồn ào, la hoảng?
CHƯƠNG 2
B
UỔI TỐI TỈNH LỴ BUỒN TẺ. Nhưng tôi yêu sự buồn tẻ của tỉnh lỵ. Đời sống ở đây ít bon chen và an phận. Có lẽ, tại tôi sinh trưởng tại tỉnh lỵ. Bố tôi hồi còn sống đã mong muốn nếu tôi được học trong khu Đại học nghiêm trang, tĩnh mịch, rộng lớn của thủ
đô Hà Nội, tôi sẽ học thuốc để trở thành Bác sĩ. Tôi không muốn giấu diếm ai những điều hèn mọn của gia đình mình. Ông Nội tôi chết năm tôi 7 tuổi. Tôi chỉ biết về Ông Nội tôi qua những câu chuyện mà Bố tôi kể cho nghe với nhiều chớp mắt. Đôi khi, hai giọt lệ ứa ra, không chịu chảy xuống má. Ông Nội tôi là một nhà nho ít may mắn, kể cả cái may mắn lều chõng đi thi. Thay vì nghe lời Ông Trần Tế Xương quẳng bút lông đi, viết bút chì, Ông Nội tôi đã miệt mài với bút lông, cốt thu nhặt ít chữ nghĩa của Thầy Khổng, Thầy Mạnh của thời mạt nho, của giai cấp thông ngôn đã nắm quyền cai trị. Ông tôi học xong thì làm Thầy Đồ nho. Tôi cố hình dung Ông Nội tôi qua mấy câu phú của Trần Tế Xương: Thầy đồ thầy đạc, dạy học dạy hành. Vài quyển sách nát. Ba thằng trẻ ranh. Và câu đối của Cao Bá Quát: Nhà trống ba gian, một thầy, một cô, một chó cái; Học trò dăm đứa, nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi.
Bố tôi kể rằng Ông tôi đã sống hết đời với nỗi nghèo khổ. Thấy khóa tương tư lương ăn cơm nhà người ta dạy con cái người ta học thêm chữ nho. Cái tráp của Ông tôi luôn luôn đựng trứng gà luộc. Mỗi bữa cơm, Ông tôi đều nhớ mở nắp tráp, lấy quả trứng bày lên chiếc đĩa trong mâm cơm thường là rau muống, rau khoai hay cà, dưa chấm nước mắm cáy chấm tương. Để hễ khách tới bất chợt,
khách biết thầy đồ được ăn cơm sang trọng. Có trứng luộc. Áo rách giữ lề đó. Chả khi nào Ông tôi dám ăn trái trứng. Tội nghiệp Ông tôi.
Một hôm, nhà học trò có giỗ, Ông tôi về đưa Bố tôi tới vì thương con, vì muốn con ăn được vài miếng thịt. Làng mạc miền Bắc không xa nhau mấy. Ông tôi về buổi sáng dẫn Bố tôi đến nhà Ông tôi “ngồi dạy”. Buổi trưa, đúng lúc cỗ bàn đã bày sẵn. Chủ nhà Ông tôi “ngồi dạy” nói một câu tàn nhẫn: “Thầy ăn chưa đủ sao còn đem cả con Thầy sang ăn nữa”! Dù năm ấy mới 10 tuổi, Bố tôi đã biết tủi thân và bỏ về. Câu chuyện tới đây, Bố tôi thở dài: ‘Con thấy chưa, đời Ông Nội con đấy.”! Ông tôi dạy học khắp các huyện trong tỉnh. Khi Ông tôi chết, học trò lo chôn cất và dựng một ngôi nhà cột gỗ bằng lim, tường xây bằng gạch làm nơi thờ phụng. Giỗ Tết, học trò về đông đủ bái Thầy. Tôi không quên ngôi nhà ấy, không quên những người học trò của thời đại Tây học đã tận diệt Nho học.
Bố tôi được Ông tôi kềm cặp, sau này, làm Ông Lang. Và tôi hiểu được nỗi ước mơ của Bố tôi. Nhưng Bố tôi chết trước khi tôi lên trung học đệ nhất cấp. Tôi bơ vơ làm lấy đời tôi. Tôi chọn nghề dạy học vì thương Ông tôi. Tôi hứa, bao giờ cưới vợ, có con, tôi sẽ bắt con tôi học thuốc để làm vừa lòng Bố tôi dưới lòng đất lạnh.
Tỉnh lỵ buồn tẻ đâu bằng sự buồn tẻ, quạnh hiu của một ngôi làng nào đó, nơi Ông đã đi hết đời mình. Ông tôi phải thương học trò lắm nên học trò mới nhớ ơn dạy dỗ của Ông tôi. Tôi thích tỉnh lỵ miền Đông/ NHững mái nhà ngói xanh rêu dù nắng rực rỡ sau những trận mưa xối nước khiến tôi tưởng tới những nhà lợp rạ khói bốc lên quyện lấy sương chiều và học trò của tôi hiền lành, ngoan ngoãn. Tỉnh lỵ miền Tây, nơi tôi đang gặp những ưu phiền, giàu sang gấp bội tỉnh lỵ miền Đông. Nhà hai ba tầng. Mái ngói đỏ tươi. Kiến trúc mới mẻ. Máy móc ồn ào.
Trên mỗi nóc nhà là một cây ăng-ten. Ở đây, tôi không được nghe biển động. Tôi đã trải qua một ngày căng thẳng. Những con ngựa chứng lớp Đệ Nhị A2, vừa lồng lộn. Nhiều đồng nghiệp trẻ tuổi của tôi đã bỏ cuộc rodéo giáo dục. Nhưng tôi có Nguyễn văn Lành và trò Lành-cái tên thật dễ thương- khuyên tôi: “Thầy phải đề phòng bọn thằng Phong. Tụi nó giao du với những tên du đãng.”
Du đãng đã đáp xe đò xuống lục tỉnh. Bằng cách nào? Phải chăng bằng những phim chém giết, đấm đá Django? Phải chăng bằng những phim chưởng Trung Hoa mà ân oán giải quyết bởi kiếm chặt đứt đầu, bởi đao chém ngang thây? Phải chăng bằng những điều mà người ta gọi là tuổi trẻ phản kháng, tuổi trẻ mệt mỏi trong văn chương thời thượng nhập cảng do những cây bút vô trách nhiệm? Tôi không tin như thế. Vì, 4 lớp Đệ Nhị của tôi, ngoài đám ngựa chứng Đệ Nhị A2, học trò các lớp khác chỉ có vẻ không phục tôi, không kính trọng tôi, có vẻ dửng dưng với người dạy dỗ họ. Tôi ngạc nhiên khi trống trường điểm hết giờ, tôi yêu cầu lớp Đệ Nhị B1 ở lại nghe tôi nói chuyện mươi, mười lăm phút, họ đứng dậy, thu xếp sách vở vài nói:
- Thưa Thầy, bài giảng Thầy đã hết, các Thầy khác cho nghỉ sớm hơn…..
Tôi hỏi:
- Nghỉ sớm hơn làm gì?
Một cậu học trò đáp:
- Để nghe các Thầy nói chuyện ăn chơi ở Sài Gòn. Tôi thành khẩn:
- Tôi không nói chuyện ăn chơi.
Cậu học trò nhún vai:
- Vậy chán chết. Thầy có báo Playboy không? Coi hình đã lắm. Các Thầy trẻ như Thầy đều cho coi.
Thằng Phong (mai tôi dở sổ coi họ và tiếng lót của nó và sẽ xem hồ sơ của nó) đã mỉa mai tôi rằng sẽ biết tên nó khi đến nhà đánh phé. Những Ông giáo sư trẻ đến tỉnh lỵ này đã làm học trò mất niềm tin. Tôi cũng ngạc nhiên nhận thấy một số học trò gọi giáo sư một cách hờ hững và xưng tên tôi một cách thản nhiên. Khác hẳn với miền Đông. Miền Tây văn minh hơn miền Đông. Văn minh đến, đạo đức suy đồi. Tôi muốn nói tới những nền văn minh không được đãi lọc tinh hoa. Tỉnh lỵ miền Tây, nơi tôi vừa đến, sẽ mang một nỗi buồn tẻ tự trái tim của nó. Tôi đứng trên hành lang khách sạn nhìn xuống. Con đường thật sạch, chỉ có vài cọng rác. Tôi muốn làm người phu quét đường tỉnh lỵ. Phải giữ gìn tỉnh lỵ của chúng ta. Phải giữ gìn tuổi trẻ của tỉnh lỵ.
Hôm sau, tôi gặp lại học trò Nhị A2 trước. Cả lớp đứng dậy chào tôi. Tôi vẫy tay nói cám ơn họ. Thiếu 4 con ngựa chứng. Nguyễn văn Lành dán băng keo ở trán và một bên mắt nó tím bầm. Tôi dở sổ gọi tên.
- Nguyễn văn Phong!
- …..
- Lê quang Luyện!
- ……
- Trần chí Thiện!
- …….
- Tôn thất Du!
- …….
Đó là tên 4 con ngựa chứng. Chúng nó vắng mặt. Không ai dám hô “Vắng mặt” dùm chúng nó. Gấp sổ gọi tên lại,
tôi bước khỏi bục. xuống bàn Nguyễn văn Lành. - Anh Lành.
Nguyễn văn Lành đứng dậy, lễ phép:
- Thưa Thầy…..
Nó chớp mắt nhìn tôi ái ngại:
- Thưa Giáo sư, thưa…..
Và nó khóc oà. Lành ngồi đầu bàn. Tôi rút khăn đưa cho nó thấm nước mắt.
- Anh ngồi xuống. Học trò sắp trở thành cậu tú đơn, khóc lóc kỳ quá. Ngày xưa, bằng tuổi anh, mỗi ngày đi học tôi đều bị một trận đòn bắt nạt. Tôi không khóc, tôi nghiến răng chịu đựng. Sau đó, tôi nên người. Muốn làm một người có tâm hồn, ta phải trả giá thật đắt. Anh là một học trò có tâm hồn cao thượng.
Nguyễn văn Lành trả lại tôi chiếc khăn đẫm nước mắt của nó. Và nó ngồi xuống. gục mặt trên bàn. Tôi biết nó đã bị bọn thằng Phong cảnh cáo về tội phá đám chúng nó trong giờ học đầu, chúng nó muốn đánh phủ đầu tôi. Chắc thằng Phong đã rạch lưỡi dao cạo lên trán Lành và đấm Lành sưng vù mặt.
- Thưa….
Tôi quay nhìn cậu học trò vừa lên tiếng:
- Anh muốn tôi giảng bài?
Cậu học trò lắc đầu:
- ‘Tôi, giáo sư, Thầy, em…..tôi….phải xoay bảng. Tôi hỏi:
- Anh được lệnh?
Cậu học trò ấp úng:
- Dạ, không…, tôi…em muốn xoay bảng giúp Giáo sư.
Nó dời chỗ, lên xoay bảng. Dòng chữ viết: “thằng giáo sư Định cút khỏi đây gấp. Lệnh của chúa đảng Sọ Người.” Cậu học trò xanh mặt ngó tôi. Tôi dịu dàng bảo nó:
- Cám ơn anh đã xoay bảng giúp.
Tôi tới bảng tìm giẻ lau không có. Ngựa chứng đã liệng nơi nào. Tôi lấy khăn mà Lành vừa thấm nứơc mắt, xóa đi rồi dùng phấn viết dòng chữ: Tôi nhất định ở đây dạy hết niên học. Lệnh của lương tâm và lòng tự ái của tôi. Tôi xoay bảng và lên bục Thầy giáo hành nghề. Nửa tiếng sau, bọn thằng Phong đến. Chúng vào lớp như rạp chiếu bóng. Ngựa chứng đầu đàn nhe răng cười, hất đầu trêu tôi:
- Đêm qua có rút không?
Nó giả đò:
- Chút quên, đểm qua giáo sư ở phòng ngủ. Mê ly hả? Tôi nói:
- Anh nên vào chỗ nếu anh muốn học. Con đường anh hy vọng đi tới còn xa lắm. Thế nào chúng ta cũng co lần gặp nhau và giúp đỡ lẫn nhau.
Nó vất mẩu thuốc lá, dùng đế giầy dẫm nát:
- Tôi sẽ nhập ngũ, ra trận. Ông đựơc biệt phái làm Thầy thiên hạ, gặp nhau thế quái nào nhỉ?
Tôi nói:
- Tôi không trốn lính. Tôi không hèn nhát. Anh Phong, Nguyễn văn Phong, anh nhớ gìum tôi điều đó. Tôi chưa bao giờ can đảm nhưng sẽ không thể hèn nhát.
Nó bĩu môi:
- Ngon dữ!
Tôi nói:
- Tôi chỉ có một mình, không vợ con để phải có trách nhiệm, không Bố Mẹ để phải phụng dưỡng. Tôi cần gì chạy chọt, xin xỏ trốn lính. Tôi đã là lính. anh Phong không biết chuyện một giáo sư tình nguyện không về phép suốt chín tuần thụ huấn quân sự à?
Ngựa chứng đầu đàn móc túi rút điếu thuốc đầu lọc. Nó cắn chặt cái đầu lọc và cười khẩy:
- Cuối cùng, các anh vẫn được biệt phái làm thầy. Các anh trình diễn khéo lắm. Thôi, giảng bài đi cha nội! À khoan đã...
Nó bước nhanh lên bảng, xoay mạnh. Phong nhích lại. Nó ngó tôi:
- Thằng Lành hôm qua bị té xe.
Rồi về chỗ. Khi tôi giảng bài, ngựa chứng ngồi hút thuốc. Hút thuốc chán, nó lôi cái máy thu thanh bỏ túi đặt trên mặt bàn, mở nhạc. Tôi kiên nhẫn chịu đựng. Gần hế t giờ, ngựa chứng bỏ ra ngoài. Chúng nó ra như chúng nó vào. Tôi hỏi học trò:
- Các anh có hiểu những lời tôi giảng không? Im lặng....Tôi nói:
- Đừng sợ bị phá. Mỗi chúa nhật, tôi sẽ dạy các anh để các anh khỏi bị trượt oan uổng. Vài hôm nữa, tôi xin một căn phòng ở trường. Tôi sẽ ăn ở luôn trong trường.
Anh nào kém bất cứ một môn gì, tới tôi, tôi kèm giúp. Nguyễn văn Lành đứng lên:
- Thưa Thầy, Thầy không dạy ở trường tư sao? Tôi đáp:
- Không.
Nó nói tiếp:
- Chúa nhật, Thầy cần nghỉ ngơi, giải trí chứ? Tôi nói:
Tôi giải trí với các anh. Các anh sẽ đậu hết, sẽ được hõan dịch theo đuổi sự học tới bậc Đại học. Mà Lành....
- Dạ.
- Coi chứng kẻo bị té xe.
- Em không sợ té xe, thưa Thầy.
- Một người không muốn giống những người khác, chắc chắn, người ấy chỉ gặp những hoàn oan và thù hận.
Tôi vẫy tay:
- Lành ngồi xuống.
Đôi mắt trò Lành ngầu đỏ. Nó nhìn tôi không chớp. Và, bất thần, nó đưa tay lên trán lột miếng băng keo. Vết thương còn non, ứa máu ra, Lành nói:
- Thưa Thầy, em biết chuyện Ông Carnot.
Bây giờ, nó mới chịu ngồi xuống, dùng ống tay áo sơ mi trắng thấm máu đỏ đang bắt dòng từ từ chảy trên má nó. Tôi muốn khóc, quả thật, tôi muốn khóc. Con đường tỉnh lỵ miền Tây chỉ có vài cọng rác. Và tàu ngựa của chúng ta chỉ có vài con ngựa chứng. Tôi nói thật nhỏ nhưng cả lớp đều nghe rõ:
- Các anh cho tôi một vinh dự quá lớn. Chằng biết tôi có bảo vệ nổi cái vinh dự đó.
Một cậu học trò đứng dậy:
- Thầy không giống các gíao sư trẻ dạy trường này. Tôi nói:
- Các anh chưa thức khuya làm sao biết đêm dài. Cậu học trò khoanh tay:
- Em sẽ thức khuya với Thầy.
Giờ dạy của tôi chấm dứt. Tôi không muốn dời khỏi lớp. Tôi muốn ở lại đây, gặp hoài học trò của tôi, nói với họ những gì tôi biết, tôi nghĩ về cuộc đời. Tôi muốn họ là học trò lớp 3. Và tôi là ông Thầy tiểu học. Tôi muốn có ngọn roi máng trên từơng. Tôi muốn có câu "Tiên học lễ, hậu học văn" treo cạnh ngọn roi mây. Tôi muốn được đập thước kẻ kêu giòn đầy quyền uy xuống mặt bàn Thầy giáo. Không có những thứ đó ở các lớp trung học. Nhất là các lớp trung học Đệ Nhị cấp. Ông thầy khi đã được gọi la giáo sư để phân biệt với giáo viên và học trò thích nhận mình là học sinh để chứng tỏ mình đã hết thời tiểu học thì cả Thầy lẫn trò đều xa nhau. Họ nghĩ rằng, qua cửa ải tú tài, học vài năm đại học là bằng Thầy. Vậy có gì để nói với nhau hơn là bài giảng đã ghi sẵn trong chương trình của Bộ Giáo Dục. Ông Thầy quên mất rằng học trò của mình đang là tuổi trẻ, và học trò quên mất rằng Ông Thầy còn là người hướng đạo cho họ, một mai, họ bước xuống cuộc đời. Những con ngựa chứng sẽ dẫn dắt bầy ngựa ngoan dời bỏ tầu ngựa nếu người chủ tầu ngựa buông xuôi trách nhiệm. Tôi hiểu chỉ có tâm hồn một Ông Thầy tiểu học già mới cảm hóa nổi những con ngựa chứng trong sân trường. Bằng kiên nhẫn. Bằng độ lượng. Bằng đức độ và cuộc sống đạm bạc. Tôi nhớ Ông Nội tôi, Ông Đồ nghèo khổ hành nghề giữa một hoàng hôn Nho học, giữa thời buổi mười người đi học, chín người thôi. Thế mà Ông tôi đã can đảm đi hết cuộc đời một Thầy Đồ. Tại sao tôi lại hèn nhát? Không, nhất định tôi dạy hết niên học ở đây.
Vì trò Nguyễn văn Lành đã thương tôi đến nỗi phải đổ máu và nước mắt. Nó biết chuyện Ông Carnot. Tôi cũng biết chuyện Thầy Hoàng Cơ Nghị.
***
- ANH THU XẾP CHO TÔI MỘT căn phòng nhỏ trong trường, cạnh nhà ông tùy phái. Tôi muốn ăn ngủ trong trường cho tiện.
- Đến nhà moi đi. Còn một căn phòng trên gác. lý tưởng lắm.
- Tôi muốn ở trong trường.
- Vấn đề an ninh à?
- Không.
Tôi trả lời ông hiệu trưởng và bày tỏ luôn sự khó chịu của tôi:
- Tại sao ông lại coi học trò bất bình thường như kẻ thù cần đề phòng?
Ông hiệu trưởng cười xòa:
- Toa bướng lắm Định. Moa biết bọn thằng Phong đã hăm dọa toa.
- Tôi thách thức chúng thì đúng hơn.
Ông hiệu trưởng nhún vai:
- Phải áp dụng câu tránh voi chằng hổ mặt nào, Định! toa đừng tự ái vặt. Bọn thằng Phong đã đón đánh mấy ông giáo sư trẻ vì dám thách thức chúng.
Tôi không dằn được sự tức giận:
- Họ đáng bị khinh bỉ bởi họ không phải là thầy giáo dù họ đã tốt nghiệp ở trường dạy làm thầy gíao. Thằng Phong miệt thị tôi bằng cách đem mấy ông giáo sư trẻ đã
đến nhà nó đánh phé với nó ra khoe khoang. Ở lớp khác, học trò đòi tôi kể chuyện ăn chơi ở Sài Gòn và cho họ xem báo Playboy vì các thầy trẻ đã làm như thế trước khi tôi tới. Anh không biết những chuyện đó, chuyện đê tiện của thầy mà chỉ biết sợ hãi, đề phòng những đứa học trò mất nết. Thầy đàng điếm, trò du đãng, có chi lạ. Anh muốn đuổi tôi đi khỏi đây cứ việc đuổi, nếu tôi đã nhục mạ anh.
Ông hiệu trưởng lắc đầu:
- Định, toa đừng nghĩ thế. Moa quý toa. toa làm moa suy nghĩ.
Tôi hỏi:
- Anh suy nghĩ gì?
Ông hiệu trưởng trầm ngâm giây lát, rồi đáp:
- Toa đã khích lệ moi. Đến một tuổi nào đó, con người đâm ra ù lỳ, an phận và hèn nhát chỉ vì sợ xê dịch. Moa ở đây khá lâu, muốn yên thân. Moa không khốn nạn như thằng hiệu trưởng đã đánh toa văng đi nhưng không dám can đảm như toa. Toa còn trẻ.
- Tôi sẽ già giống anh.
- Không, toa sẽ không giống moa. toa làm rạng rỡ cho nhà giáo mới.
- anh lầm, tôi chỉ muốn làm trọn bổn phận một thầy giáo. Anh có học cuốn Luân lý giáo khoa thư của Trần trọng Kim không nhỉ?
- chắc moa quên.
- Trong cuốn đó, có bài Lương Tâm chức nghiệp, kể chuyện một người thợ sửa cầu. Sửa xong thì hết giờ. anh thợ gói đồ nghề sửa sọan ra về, chợt anh nhìn thấy một con ốc còn lỏng. anh nghĩ chuyến xe lửa sắp chạy qua
cầu có thể lật đổ, chết hết hành khách vì con ốc này. Không ai bắt anh làm quá giờ của anh ngòai lương tâm anh. Và anh thợ hèn mọn đã dở đồ nghề, siết chặt con ốc. Anh chằng cần ai nhớ ơn anh và cũng chẳng cần ai biết anh. Nhưng lương tâm anh yên ổn. Tôi muốn bắt chước anh thợ hèn mọn này. Tôi sẽ đưa bọn thằng Phong trở về bàn học của chúng nó hoặc tôi sẽ đổi nghề. anh nên giúp đỡ tôi, tôi không cô đơn. Cả lớp Nhị A2 thương tôi trừ bọn thằng Phong. chúng nó sẽ cô đơn. Không ai dám đổ máu vì chúng nó song đã có cậu Nguyễn văn Lành dám đổ máu vì tôi. anh biết chưa?
Ông hiệu trưởng sứng sốt:
- to chuyện thế rồi cơ à?
Tôi mỉm cười:
- Mới khởi sự, đôi khi, vì cần siết chặt con ốc, người thợ có lương tâm phải sứt da, chảy máu.
Ông hiệu trưởng rút điếu thuốc mới, quẹt diêm, mồi thuốc. Cử chỉ của ông chậm rãi, bình tĩnh, nhưng, thật ra, ông đang bối rối. Ông nhìn khói thuốc:
- Toa đã ném tảng đá xuống hồ, Mặt hồ của moa gợn sóng và sắp nổi sóng.
Tôi nói:
- Ông có đủ lý do để thuyên chuyển tôi.
Ông hiệu trưởng dập vội điếu thuốc:
- Toa đừng dồn moi vào chân tường.
- Tôi không bắt anh về cùng phe tôi. Anh cứ thụ động, thụ động cho tới khi thằng Phong rạch lưỡi dao cạo vào trán anh hoặc anh làm hiệu trưởng suốt đời ở đây. Tôi chỉ muốn anh nhìn bọn thằng Phong bằng con đôi mắt xót thương. Anh phải cứu rỗi nó.
- Cứu rỗi?
- Vâng, chúng ta đang giữ nhiệm vụ lãnh đạo tinh thần chúng nó.
- Moi cho toi biết, thằng Phong là con trai cầu tự của ông phó Tỉnh Trưởng nội an.
Tôi đập nắm tay xuống bàn ông hiệu trưởng:
- Nó là con ai mặc xác nó. Với tôi, nó chỉ là thằng học trò ngỗ nghịch. Và tôi, Tôi sẽ làm cho nó hết ngỗ nghịch.
Ông hiệu trưởng bóp trán thở dài:
- Toa bướng quá. Moa có cảm tưởng là toa gàn. Một con chim én không làm nổi mùa Xuân.
Tôi lắc đầu:
- Anh sẽ thấy con chim cô độc vẫn làm nổi mùa Xuân. Tôi không gàn. Những người đã chết cho một lý tưởng đẹp thì không gàn.
Ông hiệu trưởng chớp mắt:
- Quả thật, toi xứng đáng làm Tổng Trưởng Giáo Dục. Ông đứng dậy, chìa tay:
- Moi sẽ giúp toi.
Tôi bắt chặt bàn tay một đàn anh:
- Chỉ cần một căn phòng trong trường là đủ và tôi muốn anh đứng ngoài cuộc rodéo.
Tôi cười:
- Anh làm trọng tài.
Vài hôm sau, tôi dời khách sạn Thanh Bình, vào sống ở trong trường như một người tuổi trẻ dời cám dỗ bên ngoài để vào nhà tu. Thầy giáo cũng chỉ là một nhà tu. Hơn một
nhà tu vì không được khoác áo nhà tu. Căn phòng ông hiệu trưởng lo liệu giùm tôi nằm ngay cạnh căn phòng ông tùy phái già. Trước đây, căn phòng dùng làm nơi chứa những bài thi lục cá nguyệt và thi vào đệ thất. Ông tùy phái già phải tìm chỗ khác để dọn cái đống này đi, hoặc chờ đem đốt hoặc bán cho người ta gói hàng. Ông tùy phái già rất thương tôi. Ông không nói, nhưng tôi hiểu. Ông quét dọn, rửa nền nhà và bảo tôi mua sơn về để ông quét tường. Tôi bảo không cần. Ông tùy phái xịt thuốc muỗi đến cay cả mắt. Ông kiếm cho tôi cái tủ nhỏ đựng quần áo, cái bàn viết và chiếc divan. Đại khái, căn phòng của tôi là căn phòng suốt quãng đời đi học tôi mơ ước. Bây giờ mới có. Tôi ngỏ ý nhờ ông tùy phái già nấu cơm tháng. Ông nói sợ cơm gia đình không xứng đáng cho một giáo sư. Tôi phải trình bày những ngày cơm dĩa ở vỉa hè Sài Gòn, ông mới chịu nhận lời. Ông mời tôi qua nhà ông, giới thiệu vợ con ông với tôi. Cô con gái út ông là học trò lớp Nhị B1.Cô bưng nước trà nóng mời tôi uống.
Ba cô giục:
- Con chào Thày đi con.
Cô học trò lễ phép:
- Thưa Thầy….
Tôi hỏi:
- Phải Nguyễn thị Lan không?
Cô học trò vân vê mép bà ba trắng:
- Dạ, Thầy nhớ tên em mau quá.
Ông tùy phái mắng con:
- Đứng trước Thầy phải khoanh tay, lễ phép. Ba cấm con xưng em với Thầy. thầy cũng như Cha Mẹ. Con phải xưng con với Thầy.
Cô học trò Nguyễn thị Lan vội vàng khoanh tay, cô cúi gầm mặt. Có lẽ cô xấu hổ. Tôi nói:
- Học trò bây giờ xưng hô với các giáo sư trẻ như thế cả, bác ạ!
Ông tùy phái nói:
- Tên tôi là Năm.
Ông tiếp:
- Trẻ già cũng vậy, đã dạy mình, tức là Cha Mẹ mình. Không Thầy đố mày làm nên.
Ông già Năm - tôi không muốn gọi ông là tùy phái - phân trần:
- Học trò bây giờ hư hỏng, chúng nó không kính trọng Thầy.
Ông chép miệng:
- Đọc nhựt trình, tôi thấy học trò ở Sài Gòn bỏ bê học hành, chạy rông ngoài phố phá phách còn cài láo “ Bé không học, lớn làm cảnh sát dã chiến”. Tưởng làm thứ gì chớ làm cảnh sát dã chiến đâu có khó.
Ông bảo con gái:
- Vô trong nhà để Thầy và Ba nói chuyện.
Cô học trò cúi đầu chào tôi, ông già Năm thở dài:
- Chuyện thằng Phong làm Thầy buồn hả? Tôi vái trởi nó sớm đi lính.
Ông đẩy tách nước về phía tôi:
- Mời Thầy dùng nước đi, kẻo nguội,
Tôi cám ơn ông già Năm và uống cạn tách nước. Hương trà thơm. Thơm như tình người tùy phái tỉnh lỵ. Ông già Năm cũng tưởng tôi xin vào trường, ăn ngủ trong này để
đề phòng bọn thằng Phong. Thú thật, tôi không sợ thằng Phong. Nếu tôi không dạy học, không dạy nó học, nếu tôi làm nghể khác mà bị bọn thằng Phong gây sự, dọa nạt, tôi sẽ cho nó và bạn bè nó một bài học đích đáng bằng võ lực. Hồi còn bán báo ở bến xe lục tỉnh, tôi đã đánh gục hai thằng lơ xe đò toan bắt nạt tôi khi can thiệp vào vụ chúng nó đánh một đồng nghiệp báo bé nhỏ của tôi và vất báo thằng bé tung tóe. Tôi học võ, võ nghệ của tôi chưa cao cường, song thừa khả năng quật ngã bọn thằng Phong. Nhưng giáo dục là chinh phục tâm hồn chứ không phải phô trương vũ lực. Một đồng nghiệp của tôi bị một thí sinh giết chết chỉ vì ông đã xử dụng võ nghệ đánh đấm bọn thí sinh mất dạy. Tôi có vẻ lạc hậu, tầm hồn nặng chất quốc văn giáo khoa thư. Bài học của Thường Tung dạy Lão Tử, tôi ghi nhớ nằm lòng. Thường Tung sắp chết, Lão Tử đến thăm. Thường Tung há miệng ra hỏi: "Răng ta còn không?", Lão Tử đáp: "Hết". Thường Tung le lưỡi hỏi: "Lưởi ta còn không?", Lão tử đáp: "Còn". Thường Tung căn dặn: "Ngươi phải nhớ kỹ, lưỡi mềm thì còn, răng cứng thì gãy". Dạy đệ tử bài học cuối cùng, Thường Tung nhằm mắt. Tôi nhớ bài này và luôn luôn nhẫn nhục, mềm mỏng, khi bước xuống cuộc đời.
Không thể cứng rắn với đám ngựa. Cứng rắn là đổ vỡ. Tôi ít tự phụ nhưng nhiều tự ái.Đã vượt qua bao nhiêu chướng ngại vật cuộc đời, đã chiến thắng nhiều hoàn cảnh, đã vươn lên từ một thằng bé mồi côi, vất vưởng, tôi không thể thua bọn thằng Phong. Tôi sẽ bắt nó khuất phục tôi, chỉ cần nó trở về, ngồi ngoan trên ghế nhà trường như những Nguyễn văn Lành. Chỉ cần có thế.
- Bác Năm.
- Dạ.
- Bác biết gì về những thầy trẻ ở đây?
- Họ khác Thầy.
- Làm sao Bác Năm biết khác tôi?
- Biết chứ.
Ông già Năm có vẻ kiêu hãnh về nhận xét của ông. Ông chăm thêm nước cho tôi và nói tiếp:
- Tôi làm tùy phái từ ngày trường mới cât.Tôi già bằng cái trường này rồi.Già tuổi nghề đó Thầy.Rất nhiều thầy, trò đã bỏ trường ra đi, tôi vẫn ở lại, Người già biết nhiều chuyện, biết so sánh.
Tôi nói:
- Tôi vừa chân ướt chân ráo về đây, bác Năm đâu đã hiểu tôi.
Ông già Năm mỉm cười. Nụ cười thật đôn hậu. Ông nói:
- Nói hay cho Thầy, Thầy chắc không thích, Nhưng Thầy có tướng ông Thầy. Nhìn qua là nhận ra liền.
- Cám ơn Bác Năm.
- Thầy xin vô trường là phải. Rồi bọn thằng Phong sẽ bỏ học. bọn nó học hành gì.Học ăn cướp. Ông già nó chẳng ra hồn người. Rõ thiệt cha nào, con nấy.
Quả nhiên ông già Năm đã tưởng tôi đề phòng bọn thằng Phong đón đường hành hung. Tôi không muốn giải thích.
- Thầy Định.
- Dạ.
- Các Thầy bây giờ sao trẻ thế? Thầy trẻ khó dạy trò.
Tôi chẳng hiểu phải trả lời ông già Năm ra sao, Khó trả lời. Khó trả lời quá. Tôi lảng chuyện:
- Bác Năm.
- Dạ.
- tôi muốn qua đây dùng bữa cho đỡ phiền hai Bác. Ông già Năm xua tay:
- Không được, con Lan sẽ lo cơm nước cho Thầy. Nó có bổn phận ấy. thú thiệt, tôi rất vinh dự được nấu cơm giúp Thấy. Thày không thích ở khách sạn, ăn cơm tiệm sang trọng, vậy là Thầy đã khác mấy ông thầy trẻ.
Tôi nói:
- Tối nay, mời Bác qua bên tôi, tôi muốn hiểu tất cả những gì bác nhận xét về các ông thầy trẻ đã bị bọn thằng Phong hành hung.
Ông già Năm vui vẻ:
- Được, thầy Định.
CHƯƠNG 3
Đ
ỜI SỐNG Ở TỈNH LỴ ÊM Ả NHƯ nước hồ thu. Nếu một viên sỏi ném xuống đủ làm mặt hồ gợn sóng thì một viên khác, thường, dù rất nhỏ mọn, cũng đủ làm xôn xao tỉnh lỵ. Những đồng nghiệp của tôi đã không hiểu thế. Họ mang theo đời sống Sài Gòn về tỉnh
lỵ. Ở Sài Gòn, Thầy giáo tự do sống, tự do nghỉ, tự do chơi khi bước ra khỏi cổng trường. Chằng ai cần chú ý. Chắng ai thèm chú ý. Trò gặp Thầy còn ngoảnh mặt làm ngơ nữa là.Hoặc thầy vội vã chạy trường, không muốn nhìn trò cúi đầu chào mình. Thầy tha hồ bài bạc, đĩ điếm. Dẫu gặp trò nơi bài bạc, đĩ điễm cả thầy lẫn trò đều phớt tỉnh, coi nhau như người xa lạ.
Cái xã hội xô bồ Sài Gòn chấp nhận vậy. Tôi không bảo các ông thầy lo thụ hưởng và học trò đều hư đốn. Chỉ một số nhỏ. Ở lãnh vực nào cũng có một số nhỏ tồi tệ. Và nên bỏ qua.Riêng lãnh vực giáo dục, tôi nghĩ, không thể tha thứ cho một ông thầy vô trách nhiệm. Người chăn chiên ghẻ lở, cả bầy chiên sẽ ghẻ lở. tôi rất đau lòng thấy báo chí mô tả những cơ sở giáo dục như những cơ sở bán chữ nghĩa. Tình nghĩa thấy trò đã phôi pha, nhất là tình nghĩa thầy trò tư thục. Người ta trút hết tội lỗi cho chiến tranh. Tự nhiên, chiến tranh trở thành cái thùng rác chứa đầy cặn bã xã hội. Người ta phán xét thầy, trò một cách não lòng. Trò thì không nhìn thấy tương lai nên chán chường hiện tại, cái hiện tại tối mò, ánh sáng đủ chiếu trên con đường một chiều dẫn vào quântrường. Đó chính là cái cơ sở để nổi loạn.Thầy thì đời sống vật chất bấp bênh, nặng gánh gia đình, đàng nhốt lương tâm thật kỹ, chạy trường nháo nhác kiếm tiền, Những ông thầy nổi tiếng hái ra
bạc, mở lớp riêng, thu nhận học trò như rạp chiếu bóng thu nhận khán giả. Và, những ông thầy đó, tối tối xoa mạc chược ăn thua trăm ngàn. Chưa đủ, có ông còn tằng tịu với ca sĩ phòng trà, tung tiền bạc kiếm được từ những học trò hiếu học, ham bằng dâng hiến tình nhân. Không nuối tiếc. Nhưng nếu một học trò chậm đóng học phí, thư ký vô tận lớp đọc thông báo mời ngay.Có lẽ, mỗi hoàn cảnh xã hội tâm hồn con người mỗi khác. Tôi vẫn mơ ước nhà giáo hôm nay bằng lòng cuộc sống của các thầy đồ ngày xưa. Giáo viên tiểu học sống âm thầm, đạm bạc, thiệt thòi từ vật chất đến tinh thần, nào đã lên tiếng phàn nàn, chống đối, đòi hỏi?
Trong đời tôi, có hai mẩu chuyện làm tôi xúc động và đọc lại bất cứ lúc nào cũng làm tôi rơm rớm nước mắt. Đó là mẩu chuyện ông huyện Đức nhờ thầy nuôi ăn học thành tài trở về thăm trường cũ trong Tấm Lòng Vàng của Nguyễn công Hoan và mẩu chuyện ông Carnot làm quan to nước Pháp nhân dịp rảnh rỗi ghé thăm thầy xưa tóc đã bạc phơ, má đã lõm, mắt đã mờ. Đến nỗi, trò Carnot phải khoanh tay, cúi đầu: Con là Carnot đây, thầy còn nhớ con không? Tôi đã hình dung ra vĩ nhân Carnot qua bức tranh mộc mạc ở cuốn Quốc Văn Giáo Khoa Thư lớp dự bị và tôi tưởng chừng như còn nghe rõ tiếng nói thiết tha của ông Carnot. Bây giờ, ở nước tôi, một vị thủ tướng về thăm trường cũ chỉ kể chuyện chọc phá các vị giám thị với các học trò! Carnot tâm sự: “Ta bình sinh nhờ ơn Cha Mẹ rồi tới Thầy ta đã dạy dỗ nên người”. Các vị thủ tướng của nước tôi thật là khác vĩ nhân Carnot. Ở nước Pháp, giáo viên tiểu học được xếp nên nấc thang giá trị cao nhất, được kính trọng nhất. Tổng thống, thủ tướng đứng hàng thứ 5. Ở nước tôi, một ông quận trưởng cũng thừa quyền xông vào lớp học, hành hung và nhục mà thầy giáo. Và ở Sài gòn, thầy giáo đành tự nhận mình chỉ là kẻ bán chữ nghĩa. Bởi vậy, tôi xin đi dạy ở tỉnh lỵ dù tôi đậu ra trường
cao và được ưu tiên ở Sài Gòn. Tôi nhớ mang máng một câu đề cao thiên chức nhà giáo của Tagore: Nhà giáo là một ngọn đuốc, Nếu ngọn đuốc không cháy sáng thì làm sao gom những ngọn đuốc khác-theo chủ nghĩa Tagore-ở Sài gòn chẳng những đã không thắp sáng mà còn bị đốt cháy rụi. Tôi sợ bị đốt cháy rụi. Nói thật lòng mình, tôi hãnh diện vì ông Nội tôi, hãnh diện vì sự bần cùng của ông đồ trong buổi chiều tàn của Nho học, hãnh diện vì ngôi nhà các môn đệ của ông tôi xây cất thờ phụng Thầy dạy học của mình, hãnh diện vì câu chuyện ông tôi cõng Bố tôi đi ăn cỗ bị hắt hủi, hãnh diện vì ông tôi không đổi bút lông thành bút chì mà tôi sẽ thắp sáng bằng ngọn đuốc nhà giáo.
Tỉnh lỵ, tôi đã nói, một việc nhỏ mọn đủ làm tất cả xôn xao. Tôi buồn vô cùng khi nghe xong một giờ thuyết trình của ông già Năm về các bạn đồng nghiệp trẻ của tôi, họ xứng đang bị thằng Phong miệt thị. Theo tôi, một thầy giáo từ Sài Gòn về tỉnh lỵ phải coi như từ cuộc đời vô nhà tu. Chúng ta đều là người, Khổng Tử, Mạnh Tử là người. Người Khổng tử trở thành thánh nhân chỉ vì dám nhắm mắt trước mọi quyến rũ vật chất. Khổng tử cũng thèm ăn trái cấm mô phạm như bất cứ một bậc thầy nào. Ngài đã nín cơn thèm. Và ngài là Khổng tử, là vạn biểu thế sư. Tôi muốn bênh vực cái tuổi trẻ của một số đồng nghiệp của tôi. Họ quan niệm rằng ròng rã 16 năm học tập khổ cực, đợi mãi mới kiếm được ngày kiếm tiền, thì phải thụ hưởng. thụ hưởng vội vàng. Thụ hưởng thật nhiều để trả thù những ngày bạch diện thư sinh, bánh mì và xôi là bạn thân thiết của những buổi sáng học trò. Muốn thụ hưởng thỏa đáng, cần phải kiếm tiền. tôi không có ý nghĩ coi thường các trường tư, nhưng các trường tư ở tỉnh lỵ vốn mang nặng mặc cảm về giáo sư của họ. Họ thấy giáo sư của họ thiếu bằng cấp cao, thiếu chất đại học sư phạm. Họ vồn vã mời các giáo sư trường công. Các đồng nghiệp
của tôi đã lao vào lửa.Họ được ưu đãi, nịnh bợ ở trường tư. Họ được trường tư đem bằng này, cấp kia của họ quảng cáo đầu trường, xó chợ cùng các tên tuổi của họ. Họ thỏa mãn tự ái tuổi trẻ của họ. Họ đến với những người đãi ngộ họ. Và họ quên bổn phận của họ đối với học trò. Tỉnh lỵ buồn tẻ. Họ ham vui chơi, Họ tổ chức bài bạc sát phạt với nhau. Giao du rộng hơn, họ chơi bài với các ông bà lớn trong tỉnh. Hãy mường tượng một ông thầy thức trắng dêm Chúa Nhật đánh bạc, sáng thứ hai vào lớp!
Hãy tưởng tượng khuôn mặt bơ phờ, hốc hác, ngáp vặt suốt giờ dạy! KHông còn gì bệ rạc hơn. Cả tỉnh lỵ biêt những thầy ham bài bạc. Cả tỉnh lỵ đồn đãi những ông thầy gian díu với nữ sinh. Chưa hết, những ông thầy trẻ thường la cà ở các quán cà phê, quán rượu, tư cách vất đi hết. Các ông thầy trẻ tiếp nữ sinh trong phòng riêng của mình và cửa khép kín.
ở trong lớp, ông thầy trẻ đứng trên bục gỗ nhìn học trò suýt soát tuổi mình đâm ra tự ti mặc cảm. Ông thầy tự tôn mặc cảm thì dằn mặt, hạch hỏi, truy học trò gắt gao để lấy oai. Để làm cái thế thượng phong. Ông mày tao với học trò một cách phách lối, sai hẳn với những bài học sư phạm của ông. Học trò ngầm chống đối, những cậu quá khích nuôi hận thù và đợi dịp tỏ thái độ.
Thái độ như thái độ của bọn thằng Phong. Nhiều ông thầy trẻ hung huênh hoang, phô trương tài học, kiến thức và cách ăn diện đúng mốt. Ông thầy tự ti mặc cảm thì nhút nhát, hiền tới thái độ hè, không làm chủ nổi lớp học, không chinh phục được học trò. Lớp học ồn ào, đầy tiếng cười ngạo mạn. Ông thầy lặng thinh chấp nhận một đời công chức bình thường. Ngọn đuốc thầy giáo không thắp sáng nổi. Để học trò chống đối hay coi thường, ông thầy đã bất lực trong vai trò giáo huấn. Những ông thầy đánh
bạc, tán nứ sinh, la cà ở các quán cà phê bị khớp miệng, chỉ giảng bài như cái máy và không dám nói về đức dục. tôi cho rằng sự sa đọa của giáo dục hôm nay là tại quan niệm sai lầm của Bộ Giáo Dục. Người ta giới hạn tuổi tác khi tuyển sinh viên vào các trường sư phạm. Các ông thầy trẻ tuổi trời và tuổi đời chưa bao nả nên chưa đủ kiên nhẫn và kinh duyệt. Các ông quá gần gũi học trò nên dễ bị đồng hóa với học trò.
Ngày xưa, những ông thầy thường bằng tuổi hay lớn hơn Cha Mẹ của học trò. Nhìn ông thầy, chửa hiểu tài ba của thầy ra sao, học trò đã kính trọng thầy của mình rồi. Học trò xưng con với thầy trìu mến như xưng cn với Cha Mẹ. Thầy giáo đầy quyền uy, Một tiếng thước kẻ đập mạnh xuống mặt bàn, cả lớp im phăng phẵ, sợ hãi. Lời Thầy rót vào tai, thấm vào hồn. thầy mắng, cúi mặt xấu hổ, biết ơn thầy dạy dỗ. Gặp thầy ngoài đường, cách xa hàng chục thước, đã dừng lại, đứng nép bên đường, mũ trên đầu bỏ ra, câm trên tay khoanh trước ngực chờ thầy tới gần để lễ phép chào Thầy. Đấy là những anh học trò ăn mặc sạch sẽ, đâu tóc chải chuốt, chứ những anh đầu bù tóc rối, mặt mũ nhem nhuốc, thấy bóng dáng thầy từ xa, đã tìm cách trốn tránh. Một chiếc khuy áo đứt, sợ thầy khiển trách, cũng còn chẳng dám chào thầy ngoài phố. Thầy đáng kính nể hơn Cha Mẹ. Được Thầy đến nhà chơi là một vinh hạnh. Đứng như cây gỗ, không dám nhúc nhích, thầy hỏi câu nào mới dám trả lời câu đó. Hình ảnh của những thày giáo của thế hệ tôi đã chìm khuất vào dĩ vãng. Người ta làm cách mạng, làm đảo lộn tất cả, Tôi chấp nhận, Nhưng làm cách mạng giáo chức, làm trẻ trung hàng ngũ giáo chức, sự trẻ trung chỉ vụ hình thức và chỉ tạo ra một lớp thầy giáo trẻ không được học trò kính nể thì tôi không chấp nhận.
Chưa kể những ông thầy bê bối, vô giáo dục trong sứ mạng giáo dục, hãy nói về những ông thầy trung học để nhị cấp như tôi, với số tuổi sấp sỉ học trò (học trò ở tỉnh học muộn, đa số khai rút tuổi đi) làm sao tôi dám xưng thầy và gọi học trò là con, mặc dù nền văn hiến của nước tôi cho phép tôi xưng hô như thế. Tôi sẽ bị chống đối ngay. Cách mạng đã hơn ba lần dấy động. Dấu chân Không Mạnh đã bị xóa mờ. Và chỉ thấy rõ rệt những bước chân cùi Tây phương in dấu trên đường giáo dục. Những bước chân cùi được mời vào xứ xở của những thằng mù. Và những thằng mù thay phiên nhau phá hoại nền văn minh dân tộc.
Người ta đã gạt những nhà mô phạm chân chính khỏi nền giáo dục bằng cách giới hạn tuổi tác khi tuyển sinh viên đại học sư phạm. Ba mươi tuổi là quá già. Mà ông thầy đệ nhị cấp cần trên dưới 40 tuổi mới đủ lấy cái uy của một ông thầy để học trò phải kính trọng. “ Tiển học lễ, hậu học văn”. Tôi nghĩ, quan niệm giáo dục cũ cần được bảo vệ đến nơi đến chốn. Ông thầy là sư phụ, là maitre. Ông thầy không thể là cán bộ giáo dục. Ông thầy là nhà tu hành, khổ hạnh hơn nhà tu hành vì không khoác được áo tu hành.
Những ngọn đuốc, theo ý Tagore chẳng bao giờ cháy sáng. Bởi vì, những nhà giáo già chân chính bị bạc đãi cả vật chất lẫn tinh thần; những nhà giáo trẻ coi chuyện dạy học như một đợi thời cơ, như một định mệnh an bài, như một thiếu suy nghĩ, như một lối kiếm sống hay, xót xa hơn, như một cách kiếm thêm tiền. Những người đã tốt nghiệp đại học sư phạm, đa số, muốn đời sống vững chắc bằng khoảng lương cố định, về già có hưu trí. Tôi đã rơi vào ý nghĩ miệt thị giáo sư trẻ tuổi của học trò. Tôi không trách họ. Điều đáng trách là cái chính sách giáo dục vô chính sách hôm nay. Phần nào đó, đáng trách, còn là
chiến tranh. Chiến tranh đã du nhập vào đất nước này nhiều tệ trạng. Và tệ trạng đáng kết án đã làm người tuổi trẻ chán nản hiện tai, nghi ngờ tương lai. Thầy và trò đều trẻ tuổi. Từ đó, tư tưởng sống vội, hưởng nhanh đâm chồi, nẩy mộng. Để buông xuôi trách nhiệm. Sĩ khí không rụt rè gà phải cáo mà bệ rạc, tang thương.
Riêng tôi, tôi đã chọn nghề dạy học, đã thừa hưởng tinh thần chịu đựng của ông Nội tôi, Không có hoàng hôn của giáo dục bây giờ. Mà chỉ ngộ nhận mà mặc cảm và bỏ cuộc. Tagore nói: “ Tôi ngủ và tôi đã mơ rằng cuộc sống chỉ là vui thú, tôi thức dậy và nhận thấy rằng cuộc sống chỉ là phục vụ. Và tôi cảm thấy rằng phục vụ là vui thú.” Mọi vui thú đều có giá của nó. Tôi đã chọn nghề dạy học làm nỗi vui thú. Tôi phải trả cái giá cho nỗi vui thú của tôi.
Không hiểu sao, tôi rất tự tin. Rằng, ngọn đuốc tôi sẽ cháy sáng để mồi lửa cho những ngọn đuốc của thằng Phong.
***
LỚP HỌC RIÊNG CỦA TÔI KHAI giảng vào buổi sáng Chúa Nhật. Học trò đến thật đông khiến tôi cảm động và phấn khởi. Không có bọn thằng Phong và những cậu học trò yêu cầu tôi kể chuyện ăn chơi ở Sài Gòn, đòi cho coi báo Playboy. Họ ngoan ngoãn, lễ phép. Tôi bắt đầu làm việc với họ bằng lời nói chân thành:
- Tôi tốt nghiệp đại học ban Hán Việt, nhưng tôi hy vọng đủ khả năng dạy thêm các em những môn cần thiết như sinh ngữ, toán. Ta học cùng với nhau. Nếu bài nào tôi quên hay không hiểu rõ, các em cho phép tôi tra cứu lại và chúng ta sẽ làm sáng tỏ sau.
Một cậu học trò giơ tay, đứng dậy:
- Thưa thầy, thầy đừng khiêm tốn với chúng em. Tôi nói:
- Tôi khiêm tốn với mọi người. Khiêm tốn là tự trọng. Sự học vốn được coi như cái bể. Học hỏi mà. Học đến chết vẫn chưa biết hết điều mình muốn học. Học để thi đậu thì dễ. Học để hiểu biết đến nơi đến chốn mới khó. Các em cần dành thì giờ đọc sách báo khoa học, chính trị, nghệ thuật thì mới có kiến thức phổ thông. Thuộc vài bài thơ của Nguyễn công Trứ, Cao bá Quát hay chứng minh nhanh như máy những bài toán hình học khó, không phải là vốn liếng bước xuống cuộc đời. Thứ dùng để đánh bóng giá trị một con người không bao giờ là bằng cấp. Đó là sự hiểu biết sâu rộng, cao xa và cách xử thế. Học làm người mới khó, các em đồng ý chứ?
Đám học trò im lặng, ngơ ngác. Tôi có cảm tưởng họ đang là những cánh chim nhỏ bé và nghĩ tôi là ngọn cây cao. Tôi phá tan sự im lặng của họ:
- Tôi cũng đang học làm người.
Cậu học trò khác đứng dậy, khoanh tay:
- Thưa thầy, chưa một thầy trẻ nào nói những lời của của thầy cho con nghe.
Tiếng "con" ngọt lịm. Tôi xấu hổ quá. Nhưng chợt nhớ câu mắng con gái của ông già Năm, tôi không yêu cầu đứa học trò xưng "em" với tôi.
- Các thầy nói gì?
- Thầy toán đe dọa hỏng bài toán là trượt lên đại học... Quân Trường, tu nghiệp tại Đồng Đế.
Cả lớp phì cười. Cậu học trò vẫn nghiêm trang:
- Thầy lý, bảo ban A, ban B hệ số cao. Sinh ngữ chỉ sai một câu chả sao, chứ lý, hóa sai câu đầu là hỏng hết, là
trượt, là đi lính.
Tôi hỏi:
- Em sợ đi lính à?
Cậu học trò không đáp. Tôi vẫy tay cho cậu ngồi xuống. Tôi muốn nói với đám học trò của tôi đừng sợ đi lính. Nếu họ muốn làm người thì quân trường là trường học dạy làm người hay nhất.
Học trò đệ nhị, hầu như, sợ làm lính. Họ thích làm sĩ quan, nếu phải đi lính. Do đó, mảnh tú tài là một vấn đề sinh tử của họ. Và vấn đề sinh tử ấy đã làm đổ máu, đã gây ẩu đả ở các trường thi. Giám khảo dễ dãi, mảnh bằng vô giá trị. Giám khảo khó khăn thì bị ăn đòn, ăn dao. Nếu chế độ quân dịch được đối xử bình đẳng, nghĩa là, bất kể tiến sĩ, kỹ sư, cử nhân, bác sĩ, tú hay không mảnh bằng nào, đến tuổi nhập ngũ phải đi hết, không được hoãn hay miễn dịch vì lý do tối cần thiết, lý do học vấn… và đều là lính binh nhì sau thời gian thụ huấn quân sự thì chằng còn ai sợ đi lính. Rồi thời gian làm bổn phận công dân được ấn định rõ rệt, hai hay bốn năm và thực thi nghiêm chỉnh, người tuổi trẻ biết chắc ngày về để làm tương lai của mình, họ sẽ hăng hái nhập ngũ. Ai thích làm sĩ quan phải chọn lính làm cái nghề và phải thi vào trường Võ Bị Quốc Gia. Tương lai quân đội Việt Nam sẽ không còn sĩ quan tốt nghiệp trường Bộ Binh Thủ Đức nữa. Và chế độ quân dịch sẽ bình đẳng. Hiện tại, vì nhu cầu sĩ quan cần thiết, trường Võ Bị Quốc Gia đào tạo sĩ quan hiện dịch rất công phu, chưa đủ cung cấp cho chiến trường những sĩ quan cấp úy vừa giỏi cả văn lẫn võ nên cái ranh giới đệ nhị và tú tài là một vấn đề sinh tử của học trò. Vấn đề đó làm đảo lộn giáo dục, nghiêng ngả học đường, phôi pha tình nghĩa tình thầy trò. Và ông thầy trẻ dùng quân dịch để áp đảo học trò. Và các tư thục dùng đòn quân dịch dể
dọa nạt học trò chầm trễ lệ phi. Chiến tranh chỉ đang trách phần nhỏ. Những kẻ lợi dụng chiến tranh buôn bán chữ nghĩa mới đáng trách nhiều. Họ còn tệ mạt hơn kẻ làm giàu trong chiến tranh.
Tôi hỏi cả lớp:
- Đã em nào xem xem phim L’enfer des hommes chưa? Đám học trò tỉnh lỵ của tôi nhao nhao:
- Thưa thầy, chưa ạ. Phim hay không thầy?
Tôi đáp:
- Hay ở chỗ vai chính đóng lại đời lính quân dịch của mình.
Tôi tóm tắt cuộc đời anh binh nhì Audie Murphy trong đệ nhị thế chiến. Anh ta không hề học ở West Point. Nhờ chiến đấu anh dũng và thay thế cấp chỉ huy khi cấp chỉ huy gục ngã, anh được thăng trung úy, được rất nhiều huy chương. Có một huy chương chính do tướng De Lattre de Tassigny gắn lên ngực anh. Thế chiến chấm dứt, Audie Murphy dời Âu Châu về Mỹ làm tài tử xinê, đóng phim cao bồi. Một trong những cao bồi tôi thích nhất là Le nettoyeur mà tôi hứa sẽ có dịp kể cho bọn thằng Phong nghe.
Tôi kết luận:
- Giá trị của người lính là ở sự chiến đấu anh dũng, không bao giờ là cái lon đeo trên cổ áo.
Mỗi Chúa Nhật, ngoài giờ dạy thêm học trò sinh ngữ, việt văn, toán, tôi thường nói với họ về những mẩu chuyện mà "các thầy trẻ khác không nói". Học trò các trường tư, bạn bè của họ, tới xin học tôi, tôi nhận dạy. Và tôi phải mất thêm buổi chiều. Như thế, tôi không có Chúa Nhật. Nhưng tôi bằng lòng phục vụ họ, phục vụ là vui thú.
Tagore đã nói đúng. Mỗi buổi sáng Chúa Nhật, sau một tháng phục vụ những người học trò hiếu học, bọn thằng Phong xuất hiện. Nó vào lớp khi tôi đang giảng một đoạn văn của Dickens. Vẫn tác phong quen thuộc, thiếu chỗ ngồi, bọn chúng ngồi lên bàn đầu của các cô học trò. Thằng Phong rút thuốc lá ngậm miệng rồi quẹt một que diêm Mỹ vào đế giày, mồi thuốc. Nó cười, hai hàm răng nghiến chặt cái đầu lọc:
- Phiền bạn không, bạn Định?
Tôi nói:
- Không phiền cho tôi, nhưng phiền cho các cô ngồi sau lưng các anh.
Thằng Luyện quay lại đàng sau, nham nhở:
- Các em phiền các anh? Tụi này chịu chơi mà…
Mấy cô học trò không đỏ mặt xấu hổ, nhưng đã xanh mặt tức giận, Thằng Thiện giả đò vươn vai, ngáp dài:
- Chúa nhật mà dạy với học thì sức đâu lên nước Thiên Đàng! Về nước địa ngục hết trọi.
Không ai cười câu nói khôi hài vô ý thức của con ngựa chứng trừ cái băng bốn thằng của nó. Đám học trò đổi thái độ, nhất là Nguyễn văn Lành. Tôi nhìn những tia mắt anh lửa giận dữ của họ và nói một câu bâng quơ "Mọi chuyện sẽ ổn thỏa", nhằm bảo với họ rằng, hãy bình tĩnh, kẻo đổ vỡ tất cả. Tôi vẫy tay:
- Buổi chiều, chúng ta sẽ tiếp tục. Sáng nay, học thế là đủ, ít ra, đủ chứng minh phẩm cách của người học trò. Các em có thể về.
Ngựa chứng đầu đàn cười ngạo mạn. Nó đấm nắm tay xuống mặt bàn:
- Buổi chiều, liệu tiếp tục nổi không?
Tôi dục học trò:
- Các em về đi!
Nguyễn văn Lành và người bạn trường tư của nó đứng dậy. Và Lành hỏi:
- Thầy cũng về chứ, thưa thầy?
Tôi đáp:
- Tôi ở lại. Tôi không có nhà. Nhà tôi là nhà trường.
Bốn con ngựa chứng nhất loạt nhảy xuống khỏi bàn học. Chúng quay lưng vể phía bảng đen, đối diện bọn Nguyễn văn Lành như bốn tên cao bồi sửa soạn rút súng. Thằng Phong nghiến răng:
- Mày ngon hén, Lành?
Cô nữ sinh ngồi cạnh con gái ông già Năm lên tiếng:
- Ảnh không mất dạy như anh. Chiều nay, thầy sẽ dạy và tôi sẽ đến học.
Thằng Phong nhún vai:
- Sai ông già đem lính kiểng tới bảo vệ hả? Tụi này có biệt kích, ông tỉnh trưởng dám đàn áp học sinh không?
Tôi biết cô học trò Nhị BI hiền lành, duyên dáng, tên Phạm kim Liên là ái nữ ông tỉnh trưởng. Nàng như mọi cô gái khác. Giản dị, hòa hợp với bạn bè. Nàng đã tỏ thái độ với con trai ông phó nội an. Nàng nói:
- Anh thách thức ba tôi đấy nhé.!
Tôi đứng trên bục gỗ ngó một vết rách trên manh áo học đường. Và tôi bảo:
- Các em về hết đi, nếu các em thương tôi.
Đám học trò lục đục dời khỏi lớp. Họ không chịu về mà đứng ở sân trường chờ đợi, Tôi hiểu họ chờ đợi để can
thiệp đúng lúc, nếu bọn thằng Phong gây sự hành hung tôi. Tôi không cần họ can thiệp. Tôi đủ sức đối phó với đám ngựa chứng. Tôi phải chinh phục bọn thằng Phong. Và tôi muốn chúng hiểu tôi đã khắc ghi lời vàng ngọc của Lyon Phelps vào tim phổi. Dạy học không bao giờ là một nghề nghiệp tầm thường hoặc một kế sinh nhai. Mà là một thiên chức và một đam mê. Tôi thích dạy học. Nếu bọn thằng Phong hiểu tôi, chúng sẽ hết đồng hóa tôi với một số đồng nghiệp trẻ tuổi thiếu đam mê, quên thiên chức của mình và chúng không miệt thị, không khiêu khích tôi nữa. Chúng sẽ ngồi ngoan dưới ghế học trò, kính yêu thầy trên bục gỗ. Nhớ lại những ngày tôi còn ở trường sư phạm, vị thầy khả kính của tôi, Sư huynh Mai Tâm, đã dạy tôi Nghệ thuật dạy học. Tâm lý giáo dục, tâm lý thanh thiếu niên do ngài soạn thảo, tôi đều dùng làm sách gối đầu giường. Tôi cũng đọc Tác phong nhà giáo của Simon và tự kiểm điểm tác phong của mình. Tôi thấy không có gì để bọn thằng Phong nghi ngờ tư cách và kiến thức của tôi. Về nghệ thuật dạy học, Sư Huynh Mai Tâm dạy rằng: Thầy giáo phải ưa chuộng các môn mình dạy, thầy giáo phải yêu mến các môn sinh của mình, thầy giáo phải hiểu biết các môn sinh của mình, thầy giáo phải siêng năng học hỏi và tu dưỡng trí thức, thầy giáo có tính vui vẻ, khôi hài… Những cái "phải" trong trong nghệ thuật dạy học, có thể, tôi chưa vững vì tuổi nghề chưa bao nả. Nhưng nhất định không thiếu sót. Tôi tự hỏi tại sao Sư huynh Mai Tâm, vị thầy kính yêu của tôi, chinh phục được tất cả các môn đệ của ngài. Mà môn đệ của ngài lại thúc thủ trước đám ngựa chứng. Tôi thật sự chưa hiểu bọn thằng Phong chăng? Chiến tranh đã làm một số tuổi trẻ thành phố trở nên cô đơn, lạc lõng và khó hiểu chăng? Tôi không tin tình người Việt Nam dễ phôi phai đến thế. Tôi muốn tìm hiểu rõ ngọn nghành u ẩn của bọn thằng Phong. U ẩn của tuổi trẻ là một căn bệnh. Căn bệnh sinh
nhiều biến chứng, biến chứng trong lớp học, biến chứng ngoài cuộc đời.
- Nè ông giáo sư, tụi này cóc ngán thằng nào ráo trọi.
Thằng Luyện nói, Nó bóc thanh kẹo cao su, bỏ vô miệng nhai và nó thổi bong bóng. Rồi đưa hai bàn tay đập vỡ cái bong bóng. Một tiếng nổ nhẹ, nó hỏi tôi:
- Nghề không?
Tôi đáp:
- Em có tài vặt, người nào nhiều tài vặt, ra đời đỡ khổ. Nó cười:
- Dạy học được chứ?
Tôi chưa kịp trả lời thằng Luyện thì thằng Phong đã hất hàm:
- Con Liên là gì của giáo sư?
Tôi cắn chặt môi để kìm cơn xúc động. Ngựa chứng đầu đàn liếm mép:
- Tôi ngờ quá.
Không ai đau khổ và nhẫn nhục hơn tôi lúc này. Tôi có thể tát mạnh vào mặt thằng Phong, đạp nó ngã chúi và cho mỗi con ngựa chứng một bài học bằng bạo lực nếu tôi không coi chuyện dạy học là một thiên chức và một đam mê.
- Anh Phong.
- Gì?
- Tôi là thầy giáo.
- À, thiếu gì thầy giáo cua học trò. Khối thằng học trò mất đào vì đào của chúng nó ham làm vợ thầy giáo. Tôi đã
mất một con đào. Tình địch của tôi là thằng thầy trẻ như ông ấy.
- Tôi muốn anh bình tĩnh.
- Tôi không muốn bình tĩnh.
- Anh phán xét tôi sai cả. Anh ngộ nhận. Tôi muốn hiểu các anh và các anh hiểu tôi. Nếu các anh không thích học, các anh để các bạn anh học.
- Hiểu thì ăn cái giải gì?
- Không ăn cái giải gì hết, nhưng sẽ không làm anh ân hận một mai.
- Chúng tôi thề cóc có ân hận. Đời còn chó gì đáng để mình ân hận. Ông ham dạy, bọn nó ham học khiến tụi này mắc cở nên không khoái ông giở trò. Dạy ít thôi, Dạy cả Chúa Nhật. Chúa sẽ phạt ông!
- Tôi giúp đỡ họ.
- Miễn phí à? Tốt, tốt, tháng đầu trổ tài nghệ quyến rũ học sinh. Tháng sau sẽ thu tiền rồi tiền in bài. Tháng kế tiếp là học phí tượng trưng. Thủ đoạn "cua pạc" miễn phí, tụi này quen quá.
- Anh lại ngộ nhận.
- Sức mấy, tôi thừa kinh nghiệm.
- Anh chưa có "kinh nghiệm", chưa có một tí "kinh nghiệm" nào về tôi. Trong tâm hồn anh chứa đầy thành kiến. Anh sẵn chiếc mũ hôi hàm để chụp lên đầu bất cứ một ông thấy giáo nào của anh, miễn là họ trẻ, họ chỉ hơn các anh vài tuổi.
Ngựa chứng đầu đàn nhả khói thuốc, suy nghĩ. Những đứa khác nín lặng chờ đợi phản ứng của xếp chúng. Tôi khai thác triệt để lời dạy về nghệ thuật tuyên truyền của Lénine: Muốn lời nói của mình đi vào tâm hồn của người
nghe thì phải làm sao cho lời ấy đi qua lỗ tai của người nghe đã.” Tôi luôn luôn nghĩ rằng những thanh niên ngang tàng nhất, bướng bỉnh nhất là những thanh niên giàu tình cảm nhất. tình cảm ấy bị chôn lấp. Nếu ta khai quật lên được, tình cảm sẽ làm mềm những trái tim ngỡ rằng chai lì, sắt đá. Đó cũng là nghệ thuật trong nghệ thuật dạy học.
- Anh Phong, Nguyễn quý Phong, Trần chí Thiện, Lê quang Luyện, Tôn Thất Du.
Thằng Thiện gật gù:
- Thuộc tên dữ đa?
Tôi nói:
- Các anh hãy dẹp bỏ tự ái đi, nếu không, bước xuống cuộc đời, các anh sẽ khổ sở vì tự ái.
Tôi giơ tay:
- Các anh đừng cắt ngang, đừng vội bỉ thử. Ta hãy coi chỗ ta đang đứng không phải là lớp học và tôi chưa từng dạy học. Tạm coi chúng ta là bạn. Tôi là người bạn tình cờ của các anh, tôi muốn kể cho các anh nghe về cuộc đời tôi. Tôi không còn trẻ như các anh ngó qua bề ngoài đâu. Tôi có một thời thơ ấu tối tăm, chật vật, một nghề dạy học xây bằng đau khổ, nghèo hèn, buồn tủi và ước mơ. Không bao giờ tôi đồng hóa các anh với bọn du đãng ngoài học đường, tại sao các anh đồng hóa tôi với người khác? Tại sao, tại sao?
Ngựa chứng đầu đàn trả lời:
- Tại vì…
Nó đang tìm một câu nói thật tàn nhẫn, độc địa, tôi không để nó nói. Khoanh tay trước ngực, tôi nhìn con ngựa chứng đầu đàn:
- Thành thật một chút, anh Phong. Có phải anh tự cảm thấy nhỏ bé trước tôi không?
Ngựa chứng đầu đàn nghiền nát cái đầu lọc của điếu thuốc. Nó phì điều thuốc khỏi môi:
- Anh là cái thớ mẹ gì?
Và nó ngoắt tay. Cả bọn bước ra ngoài. Gian lớp trống vắng. tôi vừa hé mở cánh cửa tâm sự của con ngựa chứng, của những con ngựa chứng trong sân trường. Một tia sáng chiếu vào tâm sự ấy. Tâm sự của những kẻ tự ti mặc cảm. Tội nghiệp, chúng nó hẳn cô đơn và đáng thương xót. Tôi cũng dời lớp học, liền đó. Ở sân trường, đám học trò đứng yên lặng ngó tôi. Mỉm cười rất thoải mái, tôi nói lớn:
- Chiều nay chúng ta vẫn làm việc.
***
NGỰA CHỨNG KHÔNG BÉN MẢNG tới sân trường đã hơn tuần lễ. Chằng ai theo dõi chúng nó cả. Ông hiệu trưởng cầu an, ngoảnh mặt làm ngơ. Ông tổng giám thị cũng vậy. Ở tỉnh lỵ, ông phó tỉnh trưởng nội an nhiều quyền lắm, kể cả quyển chụp mũ phản động lên đầu bất cứ ai ông muốn. tôi hiểu thế. Nhưng tôi cứ hành động theo lương tâm một nhà giáo. Ông thầy được giao nhiệm vụ giáo huấn thì phải làm công việc giáo huấn, giáo huấn không xong chỉ còn cách giải nghệ. Tôi tự thấy tôi có bổn phận đối với bọn thằng Phong. Chúng nó hư hỏng là lỗi tại gia đình, học đường và xã hội. Để chúng nó bỏ bê sách vở, phá phách lớp học, khinh mạn thầy giáo. Tôi nghĩ rằng nhiệm vụ của tôi là tạo cho chúng nó niềm tin mà chúng tưởng đã bị tước đoạt. Không có gì tai hại cho tuổi trẻ bằng sự lừa gạt họ. Căn bệnh tưởng bị lừa gạt,
tưởng bị tước đoạt niềm tin đang gây nhiều biến chứng trầm trọng.
Chung quy vẫn là lỗi của những người chịu trách nhiệm với tuổi trẻ. Dường như, ở thời đại hôm nay, người già thiếu độ lượng, khoan dung ban cho người trẻ. Người già cầu an, bỏ bê người trẻ. Rồi chờ người trẻ phạm tội để kết án. Ông hiệu trưởng của tôi, chẳng hạn.
Tôi chợt nhớ một phim cao bồi xem cách đây mười năm. Tôi quên tên phim, chỉ nhớ tên tài tử Jeff Chandler, John Saxon. Bọn du đãng có bốn đứa. Cầm đầu là John Saxon lai Mễ tây cơ. Ba đứa kia còn non choẹt. a dua theo John Saxon, khi chúng phóng ngựa tới một quận lỵ, sherif quận này đã bị giết chết. Thoạt đầu, chúng ăn uống, cười nói nham nhở. Thấy quận lỵ không có sheriff, chúng không muốn đi nữa. Công lý nằm trong tay kẻ có súng. Chúng có súng. Chúng bắt đầu phá phách. Jeff Chandler là một đại úy hồi hưu. Ông đã đứng tuổi và cụt tay trái. Biết ông là thiện xạ, một số người trong quận đến yêu cầu ông đuổi bọn du đãng ra khỏi quận. Ông từ chối. Bọn du đãng bắn súng bừa bãi, gieo khủng bố. Không ai dám chống, chúng tưởng dân ở đây sợ chúng nên ngang ngược hơn. Chúng cướp tiền và hãm hiếp con gái. Đến lượt người yêu của Jeff Chandler xuýt bị hãm hiếp, ông đại úy lầm lì này mới ra tay. Kết quả: tội ác đã xảy ra và ba tên du đãng phơi xác. Tên cuối cùng non choẹt, vất súng, khóc lóc xin tha chết và hứa về nhà học hành chăm chỉ.
Cuốn phim không giải thích, Nếu ta muốn suy nghĩ. Cuốn phim chỉ là cuốn phim cao bổi bình thường. Có lẽ, đạo diễn muốn ta suy nghĩ rằng tội ác có thể ngăn chặn từ đầu nếu Jeff Chandler không cầu an, ích kỷ. Ông đại úy già trổ nghề bắn ngay thì bọn du đãng đã biến mất. Phải đợi người yêu của ông đụng chạm, tức là quyền lợi riêng của ông bị đe dọa, ông ta mới chịu đương đầu. Thì người
chết và tội ác có dấu vết. Bọn thằng Phong giống bọn du đãng tôi vừa kể. Ông hiệu trưởng đang sắm vai của Jeff Chandler. Ông ta chưa bị chúng nó bỉ thử nên vẫn khoanh tay ngồi yên, và chúng tưởng ông khiếp nhược. Tôi không khiếp nhược. Tôi không muốn hành động như Jeff Chandler. Tôi chỉ muốn bọn thằng Phong ngoan ngoãn ngồi trên ghế học trò. Hay, ít ra, tôi muốn chúng nó hiểu chúng nó đã đứng bên bờ vực thẳm.
Một buổi tối, sau bữa cơm, con gái ông tùy phái già dẫn Kim Liên sang phòng tôi, Tôi bối rối một thoáng rồi tỏ vẻ không bằng lòng. Tôi bảo Lan gọi Ba nàng qua. Và tôi phân trần:
- Bác Năm, tôi đang tìm cách chinh phục bọn thằng Phong.
Ông Năm hiểu ý tôi, ông nói:
- Quên bọn mất dạy đó đi, thầy.
Tôi vò đầu:
- Sáng Chúa Nhật trước, chị Liên (tôi cố ý dùng tiếng chị để Liên khỏi xưng em) bênh vực tôi trong lớp. Bọn thằng Phong ngờ tôi có tình ý gì với chị ấy. Tôi xuýt điên lên. Tôi không muốn bất cứ một nữ sinh nào tới thăm tôi cả.
Ông già Năm tròn xoe mắt:
- Bọn hỗn láo đó dám nghi ngờ tầm bậy.
Ông Năm đâu hiểu thằng Phong còn dùng lời nói tàn nhẫn phũ phàng kết tội tôi.
Tôi thở dài:
- Tôi muốn chúng nó hết dám nghi ngờ tầm bậy. Tôi muốn làm khác, sống khác với những người chúng nó khinh bỉ.
Kim Liên nhỏ nhẹ:
- Em xin lỗi thầy.
Tôi chợt ân hận:
- Chị không có lỗi gì cả. Tôi mong chị hiểu tôi. Kim Liên khoanh tay:
- Em tới đưa thư của ba em cho thầy.
Tôi nói:
- Bận sau, chị nên gởi ở văn phòng, họ sẽ chuyển cho tôi. Kim Liên chớp mắt:
- Em sẽ nhớ.
Nước mắt nàng ứa ra. Tôi bắt tội nghiệp. Chỉ cần bảo về là Kim Liên về ngay. Nhưng tôi không nỡ. Tôi gượng cười:
- Phòng của tôi thiếu ghế tiếp khách. Chúng ta chịu khó sang bên bác Năm.
Kim Liên trao bức thư rồi rút chiếc khăn từ trong cái bóp nhỏ, thấm nước mắt. Ông già Năm vỗ vai con gái:
- Con đưa cô Liên về dinh đi.
Tôi không giữ nàng lại. Kim Liên theo con gái ông tùy phái dời phòng tôi, Nàng quên chào tôi. Ông già Năm vẫn đứng bất động. Ông nói:
- Thầy không giống những ông thầy trẻ đã dạy ở trưởng này.
Ông tiếp:
- Thật bất hạnh cho bọn thằng Phong.
Ông hỏi:
- Ông tỉnh biết chuyện rồi à?
Tôi bóc phong thư ra coi. Và nói:
- Ông ấy mời tôi ăn cơm chiểu mai. Tôi sẽ phiền bác Năm chuyển dùm bức thư cáo lỗi.
Ông già Năm ngạc nhiên:
- Thầy từ chối à?
- Ăn tối với ông tỉnh xong, tôi sẽ phải ăn cơm với nhiều phụ huynh khác, nếu họ mời tôi. Nhưng nếu họ không mời, tôi sẽ bị đàm tiếu, người thầy phải biết cử xử cho hợp tình. Hơn nữa ông tỉnh trưởng có quyền thế, dù ông rất tốt, mà tôi, tôi muốn học trò của tôi đứng thẳng trước quyền thế. Chỉ cần làm việc lương thiện, mọi người đều có quyền đứng thẳng và kẻ quyền thế sẽ đến với ta thay vì ta tìm họ.
Ông già Năm ngồi trên mép chiếc ghế bố nhà binh của tôi. Ông vấn thuốc rê, châm lửa hút. Im lặng lúc lâu giữa hai chúng tôi. Rồi ông già Năm liệng điếu thuốc vừa vấn công phu và mới hút được vài hơi. Ông nói:
- Thầy giữ gìn quá đấy.
Tôi cười:
- Bác cũng nên hiểu rằng ông tỉnh trưởng có cô con gái là học trò của tôi.
Ông già Năm thích chí đọc nhanh 2 câu thơ cổ: Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách
Sắc bất ba đào dị nịch nhân.
Ông gật gù:
- Thầy nghĩ đúng. Sắc đẹp nó thường làm hỏng sự nghiệp của mình.
Tôi đùa với ông già Năm:
- Sắc đẹp của vợ tôi thì sao?
Ông già Năm liếm mép:
- Cũng hỏng luôn.
Hai chúng tôi cười dòn dã. Lần đầu tiên, kể từ ngày tôi dạy ở đây, tôi mới được cười thoải mái. Ông già Năm là "đồng chí" của tôi. Ông đã âm thầm khích lệ tôi. Tôi biết tôi có thể dìu bọn thằng Phong về bàn học nhờ những Nguyễn Văn Lành và ông già Năm. Người ta cứ hay ồn ào một chuyện nhỏ mọn. Con chuột đẻ ra trái núi. Nhưng người ta lại ngại ngần ngăn chặn tội lỗi từ một chuyện nhỏ mọn. Ông già Năm và tôi nói chuyện khá lâu. Đêm hôm ấy, tôi ngủ thật ngon. Sáng dậy, tôi tin tưởng ở tôi, ở đạo đức của một ông thầy. Đạo đức chưa phải là đồ bỏ. Đạo đức vẫn còn đầy uy quyền nhiệm mầu cải tạo xã hội và con người.
Những lớp học có giờ của tôi đã dần mất hết sự đùa bỡn quá đà của học trò. Họ bằng lòng rồi thích thú nán lại trong lúc ra chơi hay tan trường để nghe tôi nói về những kinh nghiệm của tuổi trẻ bước xuống cuộc đời. Không còn cậu học trò nào đòi tôi kể chuyện ăn chơi ở Sài gòn hay đòi xem báo Playboy. Tôi thường khuyên họ trau giồi sinh ngữ để có vốn đọc sách báo khoa học nước người. Tôi cũng khuyên họ tìm hiểu sử, địa thế giới và trao đổi với họ quan niệm thưởng ngoạn văn chương, âm nhạc, hội họa… Tôi nghĩ, nếu họ biết thưởng thức đúng đắn, văn học nghệ thuật nước nhà sẽ nâng cao giá trị. Và những hình thức nghệ thuật rẻ tiền sẽ bị đào thải hay chỉ còn sống thoi thóp. Nếu tôi không đủ đạo đức và tài năng dìu bọn thằng Phong về bàn học, tôi cũng được thỏa mãn tự ái nghề nghiệp. Vì, ngựa chứng trong trường không thêm con số. Vẫn bốn con, cô đơn lạc lõng. Ông hiệu trưởng khen tôi yêu nghề. Chuyện đó tầm thường quá. Nhà giáo dạy học phải yêu nghề khi chọn nghề ra đời mà chính
mình không yêu nghề thì quả là lố bịch, giả dối. Thỉnh thoảng, có dịp xuống phố, gặp học trò, tôi hãnh diện được họ lễ phép chào, Tình thầy trò không thể phôi pha, không một hoàn cảnh nào làm nó phôi pha nếu ông thầy thực sự là một ông thầy.
Bỗng nhiên, tôi trở thành "nhân vật" của của học trò trung học tỉnh lỵ. Học trò trường tư cũng biết tôi và tỏ vẻ quý mến tôi khi gặp họ ngoài phố, thường là những trường hợp hạn hữu. Tôi sống âm thầm trong trường, làm bất cứ điều gì có thể giúp ích cho học trò của tôi. Ông già Năm hoan hỉ báo tin tôi rằng các em học đệ tứ mong chóng lên lớp để được học với tôi. Thú thật, tôi rất sung sướng. Đó là phần thưởng mà cuộc đời tặng tôi sau lần bắt tôi hưởng những bỉ thử, ngộ nhận của bọn thằng Phong. Tôi có vẻ lý tưởng? Tôi không phủ nhận điều đó. Khi người ta còn lý tưởng và, nhất là, còn hoàn cảnh để bảo vệ lý tưởng của người ta thì phải bảo vệ đến nơi, đến chốn. Những đồng nghiệp của tôi, trước ngày dời trường sư phạm, đều ăm ắp lý tưởng. Tôi nghĩ, trừ một số thầy giáo coi nghề dạy như một an bài của định mệnh, còn thì đều coi nghề dạy là một thiên chức, một đam mê. Nhưng thiên chức và đam mê dần dần bị cái cảnh thê tróc tử phọc nó ám ảnh. Cái màn khói u ám đã làm ngọc quý bớt sáng rồi không sáng. Rồi hoàn cảnh xã hội, rồi vật giá leo thang, đồng tiền mất giá toa rập với nhau bóp méo lý tưởng của người thầy giáo. Câu có thực mới vực được đạo ở đâu và bao giờ cũng đúng. Tôi không trách những ông thầy tư thục chạy trường như vũ nữ chạy bàn, như ca sĩ chạy phòng trà. Họ cần sống, gia đình họ đòi họ phải làm việc hết sức của họ. Bởi vì chưa có một viện dưỡng lão cho thầy giáo trường tư, chưa có làng tư thục, chưa có quỹ tương trợ cho thầy giáo. Bởi vì nhà nước và cả phụ huynh học sinh không khi nào hiểu thấu nỗi túng quẫn vật chất của những ông thầy con cháu đầy đàn. Bởi vì xã
hội Việt Nam đã bạc bẽo với thầy giáo, đã không ưu tiên số một, đãi ngộ tối đa thầy giáo, những người đào tạo thế hệ lãnh đạo tương lai, đào tạo công dân lương thiện. Nếu tôi trách móc chỉ là trách móc những ông thầy trẻ chưa lâm vào tình trạng thê tróc tử phọc đã quên cái thiên chức của mình. Họ ham mê bài bạc, rượu chè, trai gái. Đánh bạc thua, tất phải xoay xở. Họ bỏ bê trường lớp, làm cả những công việc mà nhà giáo không thể chấp nhận. Vì mất thì giờ chạy tiền gỡ gạc, họ bỏ bê học trò. Làm sao học trò có thể kính trọng những ông thầy giáo mà họ biết rõ thầy của họ bài bạc bê bối? tôi rất buồn câu "Làm những gì tôi nói và đừng làm những gì tôi làm" mà các ông thầy thường át giọng bình phẩm của học trò. Cái xã hội phân hóa, tan nát giá trị hiện tại, tôi nghĩ, muốn cứu vãn, hàn gắn, những ông thầy cần phải hy sinh. Phải tự khép kín mình cơ hồ như một thầy tu. Hãy thử nhìn vào các trường do các Sư Huynh Dòng Lasan đảm trách thì rõ. Tấm áo không làm nên thầy tu, nhưng tấm áo thầy tu của các Sư Huynh Dòng Lasan đã làm nên những ông thầy giáo đáng kính trọng. Đến một ngày nào đó, không những các thầy giáo mà còn là các nhà lãnh đạo dân tộc, phải khép kín mình vào đời sống tu hành chân chính thì cái bức dư đồ rách mới mong bồi vá được.
Tôi không sợ hãi bốn con ngựa chứng trong sân trường dẫm nát thiện chí của tôi nữa. Chúng nó đang cô đơn, lạc lõng. Chúng nó sẽ cô đơn, lạc lõng hơn. Hoặc chúng phải về tàu ngựa cũ, ngoan hiền dưới bàn học, hoặc chúng sẽ rơi xuống vực thẳm, sẽ hối hận trọn đời chúng, mà tôi, tôi chỉ muốn dìu chúng về bàn học.
***
ÔNG TỈNH TRƯỞNG TỚI TRƯỜNG thăm tôi trong giờ dạy. Ông không đòi vào lớp mà chịu khó đợi tôi ở văn phòng. Tôi bắt đầu kính trọng lối xử thế của ông vì ông biết kính
trọng nghề nghiệp của tôi. Ông già Năm hớt hả báo tin. Tôi nhờ ông xin lỗi ông tỉnh trưởng hết giờ dạy sẽ lên. Ông già Năm ngạc nhiên. Học trò của tôi cũng ngạc nhiên. Tôi nói:
- Việc học của các em là quý. Tôi không thể ăn cắp giờ của các em. Mười phút của tôi bằng nhiều giờ của mấy chục em.
Tôi trách khéo Kim Liên:
- Cái hiện tại mà tôi có là do tôi làm ra. Tôi hy vọng trong tương lai sẽ có, cũng do tôi làm ra. Tôi không thích ỷ lại, nhờ vả.
Hết giờ học, tôi lên ngay văn phòng, Ông tỉnh trường đang nói chuyện với ông hiệu trưởng. thấy tôi, ông đứng dậy, niềm nở bắt tay tôi:
- Giáo sư Định?
Ông hiệu trưởng trả lời:
- Vâng.
Tôi nói:
- Xin lỗi đại tá đã mất công chờ đợi.
Ông tỉnh trưởng vui vẻ:
- Giáo sư mắc dạy con tôi mà…
Ông hiệu trưởng không cần giới thiệu. Khi ông già Năm mang nước mời khách quý thì ông hiệu trưởng cáo lỗi ra ngoài. Ông bảo đến giờ họp ở Ty Tiểu học. Tôi hiểu ông tỉnh trưởng muốn nói chuyện riêng với tôi.
- Giáo sư chê cơm của gia đình tôi hai lần đấy nghe, giáo sư. Nhưng tôi không dám làm phiền giáo sư đâu. Tôi biết giáo sư không muốn ra ngoài.
Tôi chưa kịp giải thích, Ông tỉnh trưởng đã nói:
- Tôi đã gọi ông phó nội an của tôi, bắt ông ta phải dạy thằng con cầu tự của ông ta. Cái thằng mất dạy Phong, tôi đã cảnh cáo ba nó, bất cứ đứa nào đụng tới giáo sư là tôi bắt nhốt nó. Phụ huynh ở đây khen giáo sư đứng đắn và thương yêu học trò.
Tôi nói:
- Cám ơn đại tá, đại tá quá lo cho tôi, thực ra trò Phong chưa hề hỗn láo với tôi, có lẽ tại trò Phong học mất căn bản nên chán nản học hành.
- Giáo sư độ lượng đấy. Con gái tôi mới cho hay chính thằng Phong đã hành hung mấy thầy trẻ trước. Tôi có trách ông hiệu trưởng không báo cho tôi biết.
- Các cô nữ sinh hiền lành nên ưa quan trọng hóa vấn đề.
Ông tỉnh trưởng bỗng bỏ rơi thằng Phong và nhìn tôi bằng đôi mắt ăm ắp tình cảm:
- Giáo sư thấy Kim Liên thế nào?
Tôi đáp:
- Chị Liên học khá, Sinh ngữ hơi kém, cần học thêm ở nhà.
Ông tỉnh trưởng nói:
- Tôi biết giáo sư khó khăn, chẳng dám nhờ vả. Tôi hỏi:
- Đại tá muốn tôi giúp gì đây?
Ông tỉnh trưởng nhún vai:
- Tôi chắc là giáo sư từ chối. Tôi muốn giáo sư kèm thêm sinh ngữ cho Kim Liên.
Tôi nói:
- Mỗi Chúa Nhật tôi đều kèm thêm sinh ngữ cho những cô, cậu học trò kém sinh ngữ, nếu chị Liên biết cách học, chỉ cần học thêm ở nhà.
- Con bé không biết cách học. Nó mến giáo sư vô cùng. Nếu được giáo sư kềm cặp, nó sẽ giỏi.
- Khổ nỗi, tôi…
Tôi ngừng lại, không muốn cho ông tỉnh trưởng biết sự thật về bọn thằng Phong. Tôi hứa hẹn bâng quơ:
- Vâng, thưa đại tá, để tôi lo liệu thì giờ rồi tôi sẽ trả lời sau.
Vừa lúc trống trường vào học, ông tỉnh trưởng hỏi: - Giáo sư còn giờ dạy không?
Tôi đáp:
- Còn.
Ông tỉnh trưởng bắt tay tôi cám ơn, và ông ra về. Tôi gặp thêm một sự bối rối và sự bối rối có vẻ bi đát hơn ngựa chứng. Suốt hôm đó, tôi suy nghĩ. Cô học trò Kim Liên đã xía vào việc của tôi. Cô ấy thương tôi, đồng ý, nhưng quả thật nếu ông tỉnh trưởng bênh tôi vì con gái ông ta thương tôi, ông cảnh cáo ông phó nội an và ông phó nội an bênh con ông ta thì tôi không những bị thằng Phong ghét mà còn bị nó thù hận. Khi đã thù hận, vấn đề khó giải quyết. Tôi hết hy vọng dìu đám ngựa chứng trong sân trường trở về bàn học. Tôi giận Kim Liên. Tôi phải cần gặp ông phó nội an. Sáng hôm sau, nhằm buổi sáng không có giờ dạy, tôi đến tòa Hành Chánh xin yết kiến ông phó nội an. Ông ta tiếp tôi rất lạnh nhạt. Không một ly nước. Không mời hút thuốc dù ông ta hút và dù tôi sẵn sàng từ chối hút thuốc. Ông ta hỏi thăm tôi hay chơi xì phé ở đâu mà chẳng chịu tới nhà ông chơi. Ông ta ngộ nhận tôi như
thằng Phong vậy, chờ ông ta nói bóng gió chán chê, tôi mới đề cập đến chuyện thằng Phong:
- Thưa ông phó, trò Phong có thể trở thành một học trò giỏi giang.
Ông phó gật gù:
- Tôi biết, ông đại tá của tôi đã giáo dục tôi cách dạy con. Con hư tại bố mẹ. Trò hư tại thầy. Mong giáo sư dạy nó nên người.
Tôi nói:
- Tôi sẽ dạy trò Phong nên người. Tôi đến đây vì nó, vì tương lai của nó và cũng vì ông tỉnh trưởng can thiệp vào chuyện riêng của thầy trò tôi. Ông phó nên hiểu tôi là người kêu ngạo, không sợ ai ngoài lẽ phải, không cầu cạnh, nhờ vả ai cả. Tôi làm thầy giáo và tôi biêt cách giáo huấn học trò, khỏi cần ai dọa học trò của tôi, tôi chấp nhận mọi hậu quả.
Ông phó nín thinh. Đôi mắt ông ngầu đỏ, bời tức giận. Tôi cáo lỗi ông, ra về. Đích thân ông mở cửa văn phòng và đóng cửa cái rầm. Đúng là tác phong võ biền. Tôi biết ông chưa học câu: "Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ thì yêu quý thầy". Thời tao loạn thường có những ông quan vô học. Ta nên thương xót và tha thứ. Tôi phỏng chừng ngày mai sẽ gặp ngựa chứng. Và đúng, ngựa chứng đã vào lớp sau ngót hai tuần lễ đi hoang. Vẫn tác phong cũ. Tóc tai bù xù hơn. Khuôn mặt hốc hác hơn. Nếu chúng ta đã đọc và hiểu câu nói của người xưa: "Kẻ sĩ một ngày không đọc sách, soi gương mình thấy đê tiện, đáng ghét", chúng sẽ xấu hổ lắm.
Tôi quan sát lớp học, thiếu Nguyễn văn Lành. Hơi xúc động, ngựa chứng đầu đàn bi bô:
- Bẩm thầy, thằng Lành và tụi bạn trường tư của nó bị té xe, vết thương rất nặng.
Đám ngựa chứng cười hoan hỉ, thằng Phong nói: - Tôi sợ thằng Lành hết đi học nổi.
Nó mím môi, hất đầu:
- Hôm lâu rồi, giáo sư hứa kể chuyện phim Le nettoyeur, hôm nay kể cho đỡ buồn.
Tôi mỉm cười:
- Anh Phong, anh Luyện, anh Thiện, anh Du nên lắng nghe và nhớ câu chuyện. Như thế này: Thị trấn có bốn du đãng mất dạy, người sherif già bất lực, dân chúng yêu cầu gởi người sherif trẻ, và sherif trẻ tới bằng chuyến xe. Anh ta non choẹt, ăn mặc như công tử bột, tay xách cái lồng chim, bọ du đãng đón anh ta rồi cười ngạo mạn, khinh bỉ.
Tôi cố tình im lặng một lát. Thằng Phong sốt ruột: - Cuối cùng ra sao?
Tôi khẽ nhún vai:
- Cuối cùng, nghĩa là khi vào việc, anh sherif nhỏ thó đã hạ hết bọn du đãng, rửa sạch dấu dơ bẩn cho thị trấn.
Ngựa chứng đầu đàn nhún vai:
- Thế hả?
Và khiêu khích tôi:
- Rồi đi đến đâu?
Tôi thản nhiên:
- Rồi đi đến sự tốt đẹp. Công dân thị trấn ấy không còn kẻ nào bất lương, xã hội trật tự, và người sherif lên ngựa ra đi.
- Đi đâu?
- Đến một thị trấn hỗn loạn khác.
- Rồi hắn làm gì?
- Quét dọn.
Ngựa chứng đầu đàn nhấm nhẳn hỏi tôi, Nó cố tình chọc cho tôi tức giận, Nó đã lầm, với nó, tôi đủ kiên nhẫn, thừa giờ chịu đựng. Bởi tôi tự hào tôi là thầy giáo của nó, Trong khi thằng Phong dồn tôi vào chân tường thì đàn em nó hút thuốc, phà khói, nhai kẹo cao su nhóp nhép. Thực tâm, tôi muốn nó "biểu diển" hết sự hỗn xược của nó và "biểu dương" hết uy quyền của nó. Tôi muốn đóng một vai lép vế trên cái sân khấu nhỏ bé ở bục gỗ này.
Tâm lý của đám đông thường là dồn tình cảm cho kẻ bị áp bức. Hẳn nhiên, học trò của tôi đang đinh ninh tôi bị bọn thằng Phong áp bức. Tôi muốn họ thương tôi, hiểu tôi để không giống bọn thằng Phong, chứ chẳng muốn họ bênh tôi.
- Quét dọn gì?
Thằng Phong hỏi xách mé, Học trò của tôi nghiến răng, tức giận, tôi nói:
- Các em hãy bình tĩnh nghe nốt câu chuyện người sherif nhỏ thó.
Ngựa chứng đầu đàn liếm mép:
- Nên lắm. Vậy hắn quét dọn gì?
Tôi trả lời:
- Quét rác. Và anh đừng vội khinh thường những người mà gặp lần đầu tiên anh tưởng họ khiếp nhược.
- Ông dọa tôi?
- Không, không bao giờ tôi dọa anh.
- Ông đã nhờ đại tá tỉnh trưởng can thiệp.
- Anh lầm.
- Ba tôi nói mà!
- Tôi đã gặp ba anh.
- Mách à?
- KHông phải đâu, tôi khen anh sẽ nên người nếu anh chịu khó học hành.
- Đừng đạo đức giả?
Nó đang ngồi, vụt đứng dậy, móc từ túi quần jean ra một con dao. Nó bấm dao cái tách. Lưỡi dao bật ra. Nó cắm phập dao xuống mặt bàn:
- Giết người thì cũng đến đi tù là cùng. Đi tù thì khỏi đi lính.
Tôi cười:
- Anh Phong, anh không thể giết ai được cả. Tôi sợ chính anh sẽ giết anh.
Nó đưa hai ngón tay quệt ngang đôi môi ướt của nó: - Để xem.
Và nó búng ngón tay tanh tách. Đàn em nó theo nó dời khỏi lớp. Con dao vẫn cắm trên bàn. Đến cửa lớp, nó ngoái lại:
- Tao cấm thằng nào rút lưỡi dao lên.
Đợi nó khuất dạng, xoa tay, tôi hỏi học trò tôi: - Các em thấy bọn thằng Phong ra sao?
Một trò giơ tay, đứng dậy:
- Thưa thầy, chúng nó là bọn khốn nạn.
Trò khác:
- Thưa thầy, chúng nó là bọn phản phúc, vô giáo dục. Trò thứ ba quyết liệt:
- Thưa thầy, thầy độ lượng quá nên bọn nó tưởng thầy sợ hãi. Mai mốt anh em vể phép. Em sẽ nhờ anh em trửng trị bọn nó. Anh em là biệt kích dù, có súng.
Trò thứ tư:
- Thầy cho phép chúng em hành tội chúng nó. Không lẽ ba nó dám bỏ tù hay thủ tiêu cả lớp chúng em. Còn ông tỉnh nữa chứ. Chúng em đoàn kết, chúng em nhận hết tội, không làm thầy bị liên lụy.
Tôi chớp mắt. Tôi không thích khóc. Và lâu rồi, từ ngày tôi lủi thủi bước xuống cuộc đời, tôi chẳng còn lấy một giọt nước mắt để khóc chuyện đời. Thế mà hôm nay, dù cố nén xúc động, dù tưởng mình chỉ còn vài giọt nước mắt dành dụm cho tình thương vợ, thương con mai này, tôi đã ứa nước mắt, ứa thật nhiều trước đám học trò của tôi. Cơn xúc động kéo dài khiến tôi quên cả cách xưng hô khách sáo. Tôi run run nói:
- Thầy cám ơn các anh.
Một trò khoanh tay đứng lên:
- Thưa thầy, đó là bổn phận của chúng con.
Tôi khẽ lắc đầu:
- Đừng xưng con với tôi.
Cậu học trò đứng thẳng:
- Thưa thầy, thầy xứng đáng là thầy của chúng con, xin thầy hiểu lòng chúng con.
Tôi vẫy tay:
- Anh ngồi xuống, anh Thành. Thầy sẽ nhớ các anh trọn đời. Các anh thương thầy, thầy rất cám ơn. Nhưng nếu
thực sự thương thầy, các anh hãy để cho thầy khuyên nhủ bọn thằng Phong, đừng hành hung chúng nó, một mai, trong các anh, sẽ có người chọn nghề dạy học. Lúc đó, các anh sẽ hiểu giáo dục gắn liền với kiên nhẫn, chịu đựng. Người ta có thể dạy con cọp làm xiếc, tại sao người ta không dạy được học trò hư hỏng nên người hữu ích, lương thiện, ngoan lành? Thầy sẽ thất bại trong bổn phận dìu bọn thằng Phong về bàn học nếu các anh can thiệp. Đã một người làm hỏng rồi. Đó là ông tỉnh trưởng. Các anh phải nghe lời thầy.
Lớp học im phăng phắc. Tôi hỏi:
- Ai muốn đến thăm anh Lành?
Cả lớp nhất loạt giơ tay. Tôi rút khăn thấm nước mắt:
- Chiều nay, chúng ta đi thăm anh ấy. Và, bây giờ, chúng ta có thể làm việc.
Tiếng những trang sách vở mở ra nghe quyến rũ lạ lùng. ***
TÔI VẤT TỜ BÁO XUỐNG ĐẤT:
- Lành!
Đang làm bài, Lành buông bút:
- Thưa thầy, thầy sai con làm việc gì ạ?
Tôi lắc đầu:
- Không phải chỉ riêng trường mình có ngựa chứng. Lành ngạc nhiên:
- Thầy nói sao?
Tôi thở dài:
- Báo đăng tin ở tỉnh X. học trò vào tận lớp đánh giáo sư khiến giáo sư hoảng sợ trốn về Sài Gòn.
Nguyễn văn Lành tròn xoe đôi mắt:
- Đến nỗi ấy ư?
Tôi nói:
- Thôi làm bài đi. Ta sẽ theo dõi vụ này.
Nguyễn văn Lành tiếp tục làm bai vở của nó. Nó đã sống cạnh tôi được hai tuần. Lành ở một quận heo hút, ra tỉnh lỵ trọ học. Vì bênh vực tôi, Lành bị bọn thằng Phong hành hung hai lần và cấm chỉ Lành đi học. Bọn thằng Phong dẫn lính tới nhà trọ của Lành ra lệnh: Nếu Lành còn bén mảng tới trường, chúng sẽ bắn Lành bể sọ. Khi tôi và bạn bè của Lành đến thăm nó, nó khóc lóc tội nghiệp. Nó rất thèm học nhưng đã khiếp sợ bọn thằng Phong rồi. Nó bảo nó phải về quê, chờ ngày đăng lính. Tôi thấy có trách nhiệm với Lành. Tôi an ủi, trấn tĩnh nó. Cuối cùng, tôi dẫn Lành vào trường sống chung với tôi. Như thế, Lành không sợ bọn thằng Phong đón đường hành hạ. Lành sống với tôi, bọn thằng Phong càng ghét tôi. Chúng nó tưởng tôi thách thức chúng nó. Không một ông thầy nào thèm thách thức với học trò của mình cả. Nguyễn văn Lành xứng đáng được nâng đỡ và khích lệ trước đường học vấn. Nó thường kể chuyện quê nhà nó, miền quê hương nghèo nàn, u tối, chưa tửng có ai đậu nổi bằng tú tài từ xưa tới giờ. Nó cần bằng tú tài, thèm có bằng tú tài và nếu còn học được, nó sẽ xoay sở lên Sài gòn học để về thắp sáng quê hương yêu dấu của nó bằng sự hiểu biết của nó. Lành là hình ảnh những học trò miền Đông của tôi, là hình ảnh tôi những năm tháng cũ. Tôi cố gắng giúp đỡ nó, Lành sung sướng lắm. Nó đòi theo tôi cho tới ngày ước nguyện của nó thành tựu.
- Thưa thầy…
- Gì?
- Người ta có bắt thằng học trò ác ôn ầy không? - Chưa rõ, báo ngày mai sẽ đầy đủ tin tức hơn. - Chắc ông giáo sư trẻ?
- Hả?
- Chắc ông giáo sư trẻ bị thằng học trò mất dạy hành hung, phải không thầy?
- Ừ.
Tôi nóng lòng đọc báo mới. Ở tỉnh lỵ không có cái thú chiều nay đọc báo ngày mai như ở Sài Gòn. Báo để hôm nào, đọc buổi trưa hôm đó. Buổi trưa chưa đến, buổi sáng ngựa chứng đã vào lớp. Ngựa chứng chỉ xuất hiện vào những hôm tôi bối rối. Thằng Phong mang tờ nhật báo. Nó vô lớp sớm nhất, dùng kim gút đóng đóng tờ báo lên bảng đen và lấy bút chì đỏ đóng khung cái tin ba cột Giáo dục thời loạn, trò xin thầy tí huyết. Khi tôi vào lớp, vừa ngồi xuống ghế, thằng Phong đã bi bô:
- Giáo sư tuổi trẻ tài cao, giáo sư đọc nhật báo Vương Đạo chưa?
Tôi đã thấy tờ báo ghim trên bảng, gật đầu: - Rồi.
- Vui không?
- Sao anh lại hỏi tôi kỳ cục thế? Học trò hành hung thầy có chi là vui. Nhưng nếu bảo là vui thì tôi rất vui là anh chưa hành hung tôi.
Ngựa chứng đầu đàn tái xanh mặt:
- Giáo sư kê tủ đứng vào họng tôi đấy hả?
Tôi nói:
- Anh đừng hiểu lầm. Tôi đã có lần bảo ba anh là anh không đến nỗi tệ, anh sẽ trở thành người khá giỏi.
- Tôi cóc cần giỏi.
- Đáng tiếc cho anh.
- Không ai tiếc cho tôi. Tôi muốn hỏi giáo sư rằng tại sao ông giáo sư trẻ ở tỉnh X. bị học trò xin tí huyết? Có phải ông ta chơi bạc bịp hay cua đào của học trò không?
Anh chịu khó theo dõi báo Vương Đạo.
- Đồng ý là tôi sẽ theo dõi, tôi phải theo dõi. Nhưng tụi tui thích biết ý kiến riêng của giáo sư về vụ Giáo dục thời loạn, học trò xin thầy tí huyết.
- Theo tôi, đó là cách đặt cái "tít" vô ý thức của một tờ báo vô ý thức.
Ngựa chưng đầu đàn cười khẩy:
- Giáo sư chịu chơi đấy. Ông dám chống nhà báo. Ông không sợ nhà báo hỏi thăm sức khỏe ông à?
- Tôi không sợ những kẻ vô ý thức trách nhiệm. Tôi chỉ sợ lẽ phải. Nhà giáo thì sợ nhất là thiếu bổn phận. Anh đừng để tôi thiếu bổn phận vơi bạn cùng lớp của anh.
Ngựa chứng đầu đàn phá ra cười. Tiếng cười của nó thật gượng gạo, đáng thương xót. Thằng Phong hiểu nó không đủ khả năng bắt tôi giận dữ, dù nó đã dồn tôi tới chân tường. Chỉ cần tôi bộc lộ sự thù ghét, khinh bỉ. Nó muốn thế. Là nó có lý do của nó để loại bỏ tôi khỏi ngôi trường này. Tôi không thể dời ngôi trường này được. Bây giờ, những hạt giống thương yêu của học trò tỉnh lỵ miền Tây đã gieo xuống thửa ruộng tâm hồn tôi. Tôi yêu họ như yêu học trò tỉnh lỵ miền Đông. Bọn thằng Phong không phải là tất cả học trò. Nhà giáo Doãn quốc Sỹ nói đúng Đừng bao giờ nhìn một cây rồi bị nhuyễn hoặc quên rừng.
Một người đi trên đường phục vụ đã nhìn rõ đốm lửa nhận đường của mình thì khó mà quên hoặc bị huyễn hoặc. Tự đáy lòng tôi, tôi thương bọn thằng Phong ghê gớm. Tôi biết một mai nếu tôi thành công trong sứ mạng dìu ngựa chứng trở về bàn học ngoan ngoãn, ngựa chứng sẽ cho tôi một tình thương yêu tha thiết hơn bất cứ ai cho tôi. Nỗ lực rồi cậy trông, tôi đang nỗ lực để cậy trông tình yêu thương của ngựa chứng.
- Giáo sư Định!
- Tôi vẫn nghe anh đây.
- Hôm nọ thằng nào nhổ con dao kỷ niệm của tôi? Một cậu học trò dứng dậy:
- Tao nhổ đấy.
Ngựa chứng đầu đàn đấm tay xuống mặt bàn: - Đưa trả gấp.
Cậu học trò tên Thành, Trần văn Thành nhìn tôi:
- Thưa thầy, con biết con có lỗi. Xin thầy cho phép con nói một câu với nó thôi.
Và cậu nói, giọng cương quyết.
- Anh tao giữ, mày quen anh tao mà, thử ghé nhà đòi xem sao. Anh tao mới về phép.
Tôi xua tay:
- Các anh nên đợi giờ ra chơi hãy nói chuyện đó.
Thành ngoan ngoãn ngồi xuống. Ngựa chứng đầu đàn tái mặt. Nó nghiến răng ken két:
- Giáo sư mướn cả biệt kich dù?
Rồi nó khôi hài:
- Bọn mình nguy đến… tính mạng rồi, Dọt lẹ!
Bốn con ngựa chứng xô bàn ghế bỏ ra khỏi lớp. Trần thanh Tâm đứng dậy. Khuôn mặt nó buồn rầu như thể nó sám hối tội lỗi.
- Thưa thầy, con đã làm thầy mang tiếng.
Tôi an ủi Thành:
- Anh có bổn phận của anh. Thầy không trách anh gì cả. Thành ấp úng một câu hôm nào:
- Thưa thầy, thầy độ… lượng… quá.
Tôi nói:
- Các anh cũng nên độ lượng. Một xã hội không hận thù là một xã hội gồm toàn những người độ lượng. Xã hội ấy đang được xây dựng ở những lớp học như lớp học này.
Lớp học yên lặng. Tôi nghe rõ từng tiếng chớp mắt. Và tôi mỉm cười:
- Chúng ta làm việc.
Giờ học luôn hào hứng và có ý nghĩa khi ngựa chứng xuất hiện, phá đám rồi bỏ đi. Buổi trưa hôm đó, tôi và Lành bàn luận bài báo Giáo dục thời loạn, trò xin thầy tí huyết đăng tiếp trên tờ Vương Đạo.
- Bắt được thằng học trò du đãng chưa, thưa thầy? - Người ta đang truy nã nó.
- Vậy thì nó khó thoát.
- Có lẽ.
Tôi liệng tờ báo cho Thành:
- Em đọc đi.
Lành theo dõi bài báo xong, khuôn mặt nó hí hửng. Tôi hỏi:
- Em bằng lòng cách đối xử đó hả?
Lành đáp:
- Thưa thầy, phải đối xử thế. Con thấy không thể tha thứ những học trò phản thầy nếu con có quyền hành. Học trò hành hung thầy thì nên bỏ tù nó.
- Em tìn rằng bỏ tù học tro hư đốn là học đường nghiêm chỉnh chứ?
- Dạ.
- Rất tiếc, giáo dục không đồng nghĩa với truy tố. - Thưa thầy.
- Em muốn hỏi chi?
- Giả dụ thầy bị thằng học trò ác ôn hành hung, thầy sẽ làm gì?
- Thầy sẽ xét lại thầy.
- Thầy không buộc tội nó?
- Không.
- Tại sao, thưa thầy?
- Giản dị lắm, bởi vì thầy giáo không phải là ông biện lý. Người ta đã quên vẽ cái còng làm biểu hiệu cho giáo dục.
- Vậy thằng học trò phản phúc đó vô tội?
- Nó vô tội.
- Thưa thầy, ai có tội.
- Tất cả phải chịu trách nhiệm. Chiến tranh, xã hội phân hóa, kinh tế suy sụp, tình trạng bất ổn hiện tại, sinh hoạt khó khăn, sự lôi cuốn của chính trị, sự bỏ bê tuổi trẻ, sự trống vắng đành anh tha thiết, nỗi tuơng tư thần tượng của tuổi trẻ và nỗi buồn thần tượng sụp đổ. Vân
vân….Nhưng kẻ chịu trách nhiệm trước nhất vẫn là bài báo với những hàng "tít" vô ý thức thổi phồng một sự bé nhỏ cần quên đi. Một thằng học trò hành hung thầy không có nghĩa là toàn thể học trò hành hung thầy, cái "tít" Giáo dục thời loạn, trò xin thầy tí huyết đọc lên nghe như nền giáo dục đã băng hoại. Đó không phải là sự báo động mà là sự tiếp tay phá hoại giáo dục. Em nên quên chuyện này đi. Và tôi, tôi cũng muốn quên. Ngày mai bảo họ đổi tờ báo khác, tôi cũng không đọc báo Vương Đạo nữa. Vương Đạo chỉ chuyên làm "xì căng đan" giáo dục.
Tôi nói một mạch. Để trấn an tôi thì đúng hơn là để trấn an Lành. Tôi hoang mang vô cùng. Nền giáo dục xuống dốc như những bài báo tường thuật, bình luận ư? Rồi người thầy giáo còn đủ uy tín đứng trên bục gỗ? Thật khó kết tội những người học trò ngang ngược. Chiến tranh không vào lớp học nhưng dao búa đã vào. Dao búa đã vào lớp học của những ông thầy tương lai. Một khi sinh viên đại học sư phạm vác dao búa vào lớp diễu oai, dọa đập "đồng chí" để tranh chấp vị này nọ ở những cuộc bầu bán, nguyền rủa nhau bằng những ngôn ngữ không thể chấp nhận được tại trường sư phạm thì họ nghĩ gì, làm gì khi học trò hành hung họ? Tôi bảo Nguyễn văn Lành rằng tôi sẽ xét lại tôi nếu tôi bị hành hung là thế.
Và cũng bởi lẽ, ở trường sư phạm, không vị thầy nào giảng dạy bài học thầy kết tội trò. Cả lý thuyết lẫn thực hành. Thời đại nào cũng có một số học trò nhỏ phản phúc, đâu phải riêng chỉ thời đại này, điều khiến tôi ngạc nhiên và băn khoăn là, ở thời đại này. Điều khiến tôi ngạc nhiên và băn khoăn ở thời đại này là người ta đã phóng đại những mụn ghẻ lở để la hoảng đó là ung thư! Còn những hình ảnh đẹp thì thu nhỏ lại, thật nhỏ và làm cho lu mờ, đen tối. Những Carnot Việt Nam không bao giờ là đề tài hấp dẫn, ăn khách bằng những tên học trò đánh
thầy, đối với báo chí. Những Hoàng cơ Nghị ít khi được báo chí thắp sáng nhưng báo chí sẵn sàng đốt cháy giáo giới bằng một thầy giáo hoang đàng.
Bỗng nhiên, tôi thương xót cái thiên chức, cái đam mê của thầy giáo, tôi hy vọng cơn gió độc ở tỉnh X. sẽ tan biến và nó đừng biến thành bệnh truyền nhiễm.