🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nghìn Xưa Văn Hiến - Tập 2
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
Bìa và minh họa: Vũ Xuân Đông
https://thuviensach.vn
Trình bày bìa: Phạm Quốc Cường
https://thuviensach.vn
Phần 5
Trong thành phố Rồng bay Lý Công Uẩn
https://thuviensach.vn
Lý Công Uẩn người làng Cổ Pháp, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay là
làng Đình Bảng, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh).
Tục truyền, một hôm ở cửa tam quan chùa Dận (Phù Lưu) có đứa trẻ sơ sinh ai đem vứt bỏ. Sư tu ở chùa là Lý Khánh Văn thấy tiếng trẻ thơ khóc mới động lòng thương bèn ra nhặt vào nuôi, đặt tên đứa bé là Lý Công Uẩn.
Lý Công Uẩn lớn lên trông rất rắn rỏi, mặt mũi khôi ngô, tinh anh khác người. Sư Văn rất yêu quý, hết lòng trông nom dạy dỗ. Công Uẩn tuy còn nhỏ nhưng đã sớm thông minh sáng dạ. Mới sáu tuổi, bao nhiêu kinh kệ sư Văn dạy cho, Uẩn chỉ đọc một lần là nhớ hết. Duy chỉ phải mỗi tội là hay tinh nghịch.
Một hôm, sư Văn sai Uẩn đem oản lên chùa cúng ông Hộ Pháp. Chú bé liền khoét hết ruột ăn rồi bày vỏ ngoài lên cúng. Đêm hôm ấy, Hộ Pháp hiện về phàn nàn với sư. Sáng ra, sư Văn gọi Uẩn ra hỏi chuyện và mắng cho một trận. Uẩn tức lắm, lẳng lặng lẻn lên chùa đánh ba cẳng tay vào tượng Hộ Pháp rồi viết vào sau lưng tượng bốn chữ “Đồ tam thiên lý” (đày đi xa 3.000 dặm). Đến đêm, sư Văn lại thấy Hộ Pháp hiện về. Mặt buồn rượi, Hộ Pháp nói với sư rằng:
- Chào thầy ở lại, tôi đi. Hoàng đế đày tôi xa khỏi chùa này ba ngàn dặm.
https://thuviensach.vn
Tỉnh dậy, sư Văn vội lên chùa xem, quả thấy sau tượng rành rành nét chữ Công Uẩn: “Đồ tam thiên lý”. Nhà sư sai tiểu lấy nước để rửa. Lạ thay, kì cọ thế nào chữ cũng không đi! Sư phải gọi Công Uẩn lên bắt xoá. Uẩn chỉ di di tay là hết.
Sau đó, thấy để Công Uẩn ở lại chùa Dận nữa sợ còn sinh chuyện, sư Văn mới đưa sang chùa Lào (Tiêu Sơn) gửi sư Vạn Hạnh trông nom. Sư Vạn Hạnh là anh em với sư Văn, bấy giờ đang rất có uy tín với triều đình nhà Lê (Tiền Lê). Ông là nhà sư giỏi về thơ văn và có tài xếp đặt việc quốc gia. Thấy Công Uẩn tướng mạo khác thường, ông rất quý mến, nên không tiếc sức mình ra công dạy bảo. Công Uẩn học đâu hiểu đấy, thông minh lạ kì, nhưng vẫn không bỏ được tính chơi nghịch tinh quái. Một hôm, chú bé trốn học đi chơi. Sư Vạn Hạnh giận quá, mới đem Công Uẩn trói lại cả đêm ở ngoài cửa tam quan.
Đêm muỗi đốt, Công Uẩn không sao chợp mắt, bèn tức cảnh ngâm một bài thơ, dịch ra như sau:
https://thuviensach.vn
Trời làm màn gối, đất làm chiên(1)
Nhật, nguyệt cùng ta một giấc yên
Đêm khuya chẳng dám dang chân duỗi
Chỉ sợ sơn hà xã tắc nghiêng!
Tiếng thơ Công Uẩn lanh lảnh trong đêm, đến tai sư Vạn Hạnh. Nghe hết bài thơ, sư Vạn Hạnh mừng lắm vì thấy Công Uẩn có khí phách khác thường, bèn tha không bắt lỗi thêm và cởi trói cho vào.
Từ ấy, sư Vạn Hạnh càng dốc lòng chăm sóc Công Uẩn. Lại mượn cả thầy giỏi võ nghệ, thạo binh thư để truyền dạy cho Công Uẩn. Đến khi khôn lớn, quả không phụ lòng sư Vạn Hạnh, Công Uẩn đã thành người có chí khí, văn võ song toàn. Sư Vạn Hạnh tiến cử Công Uẩn vào làm quan
trong triều. Không bao lâu Lý Công Uẩn thăng giữ chức Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ, là chức quan đại thần cai quản cả sáu quân cấm vệ.
Cuối năm 1009, vua Lê Long Đĩnh (Ngoạ triều) chết. Bấy giờ, nhân dân đã chán ghét nhà Lê. Giới quan lại, binh lính, sư tăng cũng chán ghét nhà Lê. Sư Vạn Hạnh bèn bàn với Đào Cam Mộc, người đứng đầu giới quan lại, tôn Lý Công Uẩn lên ngôi vua.
Nhà Lý bắt đầu từ đấy.
Câu chuyện dời đô
https://thuviensach.vn
Mùa xuân, tháng Hai năm Canh Tuất (1010), Lý Công Uẩn vừa
được nước từ tay nhà Lê, từ kinh đô Hoa Lư trở lại thăm quê nhà Cổ Pháp (Đình Bảng, Bắc Ninh). Buồm căng ba ngọn, ngược nước Nhị Hà, thuyền rồng nhà vua ghé dừng ở bến Đông thành cũ Đại La. Vua Lý cùng các quan lại theo hầu lên bộ, đi xem xét địa thế, ngắm cảnh phố phường, thăm hỏi dân tình... Nhà vua tỏ ý đẹp lòng. Nơi đây lại gần quê nhà. Vua cai trị muôn dân cả nước, nhưng vua cũng vẫn có một chốn quê cha đất tổ, có bà con họ mạc xóm làng, thân cận hơn, tình nghĩa hơn...
Về quê, vua thăm nhà xưa chốn cũ, thăm hỏi và biếu các bô lão lụa và tiền. Lại đến vãn cảnh chùa xưa, nơi sinh, nơi học, tiếp kiến thiền sư Vạn Hạnh, người cha nuôi, người thầy và từ nay là vị cố vấn đặc biệt của nhà vua, bấy giờ đã bảy mươi tuổi thọ...
Về thăm quê lần này, ý định dời đô của nhà vua đã quyết. Hoa Lư cảnh đẹp nhưng mà là cảnh đẹp hoa lau rừng núi. Hoa Lư thành hiểm nhưng ẩm thấp chật hẹp, xa trung tâm đồng bằng, xa quê quán, chưa xứng với cái thế đang vươn lên của quốc gia dân tộc Đại Việt.
Nhưng mà còn phải chờ mùa thu mát mẻ, nước rẫy. Và cũng chờ thăm hỏi ý kiến các quan cho trên dưới thuận lòng.
Sau khi đã nghiền ngẫm kĩ, vua tự tay viết tờ chiếu dời đô thăm hỏi ý kiến văn võ bá quan.
https://thuviensach.vn
Chiếu ban xuống, trăm quan bàn bạc, rồi tâu lên: “Bệ hạ vì thiên hạ mà lập kế dài lâu, để trên thì cơ nghiệp to lớn được thịnh vượng, dưới cho nhân dân được giàu của nhiều người, việc lợi như thế, ai dám không theo”.
Vua mừng lắm, vội sai mấy viên quan tin cẩn, có tài đi lên Đại La trước xem xét địa thế, đo đạc đất đai, đào hào đắp luỹ, sửa sang mở rộng thành cũ, trù liệu vật dụng để xây cung điện mới.
Mùa thu, tháng Bảy, đoàn thuyền ngự cùng các thuyền hộ giá từ Hoa Lư, theo dòng Hoàng Long sang sông Đáy, qua Hoàng Giang (Lý Nhân, Hà Nam), rồi ngược nước Nhị Hà. Thuyền đi mất hai ngày, hai đêm, đến sáng sớm ngày thứ ba thì tới kinh thành mới. Thuyền ngự tạm đỗ trên bến Đông, dưới chân thành Đại La. Trong sắc nước mây trời lồng lộng có ánh nắng ban mai rọi chiếu, vua chợt như thấy có rồng vàng hiện ra gần thuyền ngự rồi bay lên lẩn khuất trong mây...
Nhân điềm ấy, vua phán truyền đặt tên kinh đô mới là “Thăng Long Thành” - Thành phố Rồng Bay.
Đất vua ở là đất có rồng. Rồng ở nước là rồng còn ở ẩn, rồng hiện rồi rồng bay là lúc thời cơ đã đến, rồng mây gặp hội, anh hào ra tay... Vua đặt tên kinh đô mới như thế là có ý nghĩa lắm. Khí thế cả nước đang lên cao, nhà vua quyết cùng toàn dân xây dựng một Đại Việt cường thịnh ở chốn bao lơn này của đại lục kề biển khơi bốn mùa sóng vỗ...
Nhân mùa khô, vua sai các quan đốc sức dân phu sửa đắp đê sông Cái, sông Tô, sông Thiên Phù, sông Kim Ngưu nối liền nhau bao quanh kinh thành mới hơn 60 dặm (hơn 30 km), vừa làm đê, vừa làm thành. Và vẫn mang tên cũ Đại La Thành.
Bên trong, vua sai đắp hoàng thành, gọi là thành Long Phượng, lúc này đây vẫn tạm đắp bằng đất, sau mới xây bó gạch trong ngoài. Sông Nhị như dải đai áo đỏ ôm bao thành phố Rồng Bay. Núi Tản Viên xa xa phía tây như chiếc án thư của kinh đô mới. Còn sông Tô và các chi lưu
https://thuviensach.vn
uốn lượn quanh thành, làm hào cho hoàng thành từ phía đông sang tận phía tây; những phía khác thì đào hào nối với sông Tô Lịch.
https://thuviensach.vn
https://thuviensach.vn
Trên đôi bờ sông Nhị, lò gạch, lò ngói, lò vôi, khói tuôn nghi ngút ngày đêm. Được mẻ nào, gạch ngói lại tuôn đổ vào hoàng thành để xây dựng hoàng cung. Trước tiên chọn chỗ đẹp trông thẳng ra Cửa Nam dựng điện Càn Nguyên làm chỗ coi chầu; bên trái dựng điện Tập Hiền, nơi các quan văn bàn việc, bên phải dựng điện Giảng Võ để bàn việc quân... Ngoài ra, còn xây nhiều cung điện, lầu gác, chùa quán khác v.v...
Một ngày cuối đông năm ấy, cung Thuý Hoa ở sau điện Càn Nguyên xây xong làm nơi ở cho cung nữ, nhà vua sai làm lễ khánh thành. Nhân dịp này, vua ban lệnh tha mọi thứ thuế khoá cho toàn dân trong ba năm. Những người mồ côi, goá chồng, già yếu, thiếu thuế đã lâu, đều tha cho cả. Dân tình vui vẻ, rất ngưỡng mộ vua mới. Nhân dịp cuối năm, nhân dân nhộn nhịp sắm Tết, nhà vua ra chơi ngoài thành. Thuyền ngự theo dòng Tô Lịch, từ cửa Bắc xuôi xuống phường Thuỵ Chương (nay là Thuỵ Khuê) là phường dệt lụa rồi tiện đường, xuống đến tận bến Hồng Tân, chỗ ngã ba sông Tô và sông Thiên Phù hợp dòng (nay là vùng Bưởi). Chợ Hồng Tân những ngày giáp Tết đông vui khác thường, trên bến dưới thuyền tấp nập. Thấy bóng thuyền rồng nhà vua lướt tới, nhân dân nô nức kéo nhau ra bến lạy mừng, tung hô “vạn tuế” (muôn năm).
Nhà vua dừng thuyền lên bến, hỏi thăm dân chúng và hỏi đến công việc làm ăn.
Một cụ già chắp tay thưa:
- Muôn tâu đức vua, làng hạ dân vốn ở bên sông này đã lâu. Từ trước, dân làng đã học được nghề dệt lụa lĩnh sa the... và nghề làm giấy. Ngay từ khi mới có tin rước kinh đô ra đây, già trẻ lớn bé đều hết lòng cùng với quan quân dựng xây kinh đô mới. Lại vừa làm được giấy sắc rồng để kính dâng nhà vua ban chiếu chỉ.
Vua khen:
- Đúng là dân có nghĩa!
https://thuviensach.vn
Nhà vua bèn thưởng tiền rất hậu. Rồi nhân xóm ấy mang tên xóm Nghè, vua phán truyền cho đổi ra tên chữ là Nghĩa Đô (có nghĩa với kinh đô). Còn xóm Bãi bên bờ hồ Mù Sương, vua cho đổi tên là Bái Ân, với nghĩa ơn vua thấm khắp mọi nơi.
Các bô lão thay dân nhận thưởng và nhận tên làng mới của nhà vua ban cho. Ai nấy vẻ hân hoan lộ trên sắc mặt.
Trước khi xuống thuyền trở lại hoàng cung, nhà vua truyền bảo:
- Nay kinh đô đã về đây, cư dân sẽ ngày càng đông đúc. Các phường trại có nghề nghiệp gì thì cứ mở mang thêm ra nữa, để xứng đáng là nơi thượng đô của cả nước. Dân đây có nghề giỏi, thật đáng khen. Nhưng cần dạy cho nhiều người biết nghề và phải cố làm cho giấy má, v óc lụa của ta ngày thêm bền, thêm đẹp, không khác gì hàng Tống để dần dà triều đình không phải mua hàng của nước ngoài nữa!
Dân xóm “dạ” rầm trời xin lĩnh ý.
Thuyền ngự lại ngược dòng Tô trở về hoàng thành.
Dừng chân bên mạn thuyền, nhà vua sung sướng ngắm nhìn dòng Tô nước chảy trong ngần.
Đôi bờ, nương dâu ngăn ngắt, những vồng cải tươi xanh... Và đó đây, những cành đào đã nở hoa khoe thắm khắp vườn, nghiêng bóng xuống dòng Tô nước xanh, ửng ánh hồng rạng rỡ...
Sự tích “Thập tam trại”
https://thuviensach.vn
Thăng Long thời Lý - thành phố Rồng Bay - là một thành phố lớn có
hoàng cung cùng 61 phố phường. Phường và phố tập trung chủ yếu ở phía ngoài Cửa Đông, Cửa Nam, Cửa Bắc và bao quanh hồ Dâm Đàm.
Thế còn phía Cửa Tây?
Cửa Tây gọi là Quảng Phúc Môn (ở vào mé quảng trường Ba Đình ngày nay). Xế ngoài Cửa Tây là khu vườn Tây Cấm, năm 1049 dựng chùa Diên Hựu (tức chùa Một Cột) ở giữa vườn này. Chung quanh chùa, có ruộng Quy Điền. Đó là khu ruộng thấp, có nhiều rùa và ba ba nên gọi tên thế. Vậy phía Tây Thăng Long thời Lý là khu nông nghiệp của kinh thành. Tổng Nội của huyện Quảng Đức (Vĩnh Thuận) có chín trại là: Liễu Giai, Giảng Võ, Đại Yên, Thủ Lệ, Cống Vị, Hữu Tiệp, Vạn Bảo (Vạn Phúc), Cống Yên, Ngọc Hà. Cộng thêm Yên Biểu và Vĩnh Phúc, Ngọc Khách, Kim Mã (đều thuộc khu Ba Đình, Hà Nội), là khu “thập tam trại” (13 trại) của Thăng Long cũ. Khu này phía đông giáp hoàng thành, được bao quanh bởi đường đê La Thành.
Đình Vĩnh Phúc thượng được gọi là đình Thái Tể, cùng thờ chung một vị thần với đình Liễu Giai, đình Kim Mã... Ở đấy có một cái lăng, gọi là lăng Thái Tể. Đó là lăng ông Hoàng Lệ Mật.
Quyển ngọc phả đình Liễu Giai nói ông tên là Hoàng Phúc Trung. Bố họ Nguyễn, mẹ họ Hoàng (chẳng hiểu sao ông mang họ mẹ), người làng Lệ Mật, huyện Gia Lâm (Hà Nội). Nhà nghèo, ông chuyên nghề chài cá và bắt rắn(2), cho nên, ông rất thạo bơi lội trên sông. Huyền tích kể rằng: đời Lý Thái Tông (1028 - 1054) có một nàng công chúa chơi thuyền trên sông Thiên Đức (sông Đuống ngày nay). Chẳng may đắm thuyền, công chúa bị chết đuối. (Cũng có người tô vẽ là công chúa tắm sông bị thuồng luồng bắt). Quan quân đi theo hoảng sợ, chia nhau xuống nước lặn tìm khắp cả khúc sông vẫn không thấy xác. Vua rất buồn phiền đau xót, mới ra lệnh cho sứ giả đi rao phong to thưởng hậu cho ai vớt được thi hài công chúa mang lên. Ngã ba Nhị Đuống, sông hợp dòng, nước quẩn. Việc tìm xác cực kì khó khăn, nguy hiểm. Nhiều
https://thuviensach.vn
người đã lặn lội mò tìm, song đều phải ngoi lên, lắc đầu xin chịu. Vua Lý càng thương tiếc. Bấy giờ, chàng trai họ Hoàng làng Lệ Mật đến xin ra mắt vua. Chàng nói:
- Chỗ ngã ba sông Cái ấy về dịp cuối hè đầu thu này thường có xoáy nước. Bơi lặn không khéo thì khó mà lên nổi. Tôi xin vì vua thử xuống một chuyến xem sao. Nếu thấy công chúa, tôi sẽ đón về.
Vua Lý mừng lắm, sai quan quân chèo thuyền đưa chàng trai đi ngay. Ra giữa sông, đến chỗ xoáy nước. Nước xoáy tròn như phễu nước khổng lồ, to như miệng giếng làng, trông phát khiếp. Chàng trai họ Hoàng thản nhiên lao xuống rồi mất hút. Quan quân trên thuyền đều lo lắng. Lát sau, chàng trai rẽ sóng đi lên, một tay cắp nàng công chúa. Lý Thái Tông rất cảm kích. Theo đúng lời vua đã cho rao, vua định phong chàng làm thái giám nội thị tự khanh, thưởng bạc và lụa rất nhiều. Nhưng chàng trai không tham quan tước, không lấy bạc và lụa là.
Chỉ xin vua cho phép đem dân nghèo làng mình và mấy làng lân cận sang phía tây Thăng Long phát cỏ hoang cây rậm, làm trại ấp. Vua ưng thuận. Chàng trai hớn hở về làng. Rồi dân nghèo Lệ Mật theo chàng trai vượt sông Cái sang phía tây kinh thành sinh sống. Họ khai phá đất hoang cỏ rậm mà dựng lên được 13 trại. Từ đấy, miền tây Thăng Long thành một nơi dân cư đông đúc, đồng lúa nương dâu tươi tốt. Dân chăm nghề nông và tập quen nghề chăn tằm, dệt lụa, làm giấy.
Kiến trúc Thăng Long
https://thuviensach.vn
Thăng Long thời Lý, một thị trấn cổ nhưng là một kinh thành mới,
phải xây dựng rất nhiều.
Trước hết là kiến trúc cung đình. Các cung điện, lầu gác thường được xây thành từng cụm quây quần với nhau trông rất đường bệ. Những công trình kiến trúc ấy có quy mô to lớn, bề thế, không những phát triển về chiều rộng, mà ngay cả bề cao cũng được chú ý. Lầu cao gác rộng nhiều lắm: nào lầu vua ngự (bốn tầng) lầu Chuông, lầu Chính Dương, nơi xem giờ khắc, nào gác Long Đỗ làm nơi nghỉ ngơi dạo ngắm... Những cụm kiến trúc từ hoàng thành lan ra cả kinh thành, trên bờ sông Cái, quanh Hồ Tây, quanh các ao sen... hoà quyện với cần, với đình, với quán nho nhỏ nên thơ, khiến sử cũ ngợi ca: “Chạm trổ trang sức khéo léo, công trình thổ mộc đẹp đẽ xưa chưa từng có”.
Phật giáo thịnh hành ở Thăng Long - Đại Việt triều Lý. Vua xây chùa. Thái hậu xây chùa. Công hầu khanh tướng cũng hăng hái xây chùa. Chùa và tháp, tháp Báo Thiên và chuông Quy Điền là hai trong “Tứ đại khí”(3) thời Lý - Trần của Đại Việt.
THÁP BÁO THIÊN
https://thuviensach.vn
Tháp có tên là Đại Thắng Tư Thiên Bảo Tháp, chùa là chùa Sùng Khánh Báo Thiên, nên sau quen gọi là tháp Báo Thiên. Tháp xây trên một quả gò cạnh hồ Lục Thuỷ (sau gọi là Hồ Gươm) vào tháng Ba, mùa xuân năm Long Thuỵ Thái Bình thứ tư (1057) đời Lý Thánh Tông. Có sách nói tháp cao 30 tầng, sách khác ghi tháp có 12 tầng, cao vài chục trượng (60 - 80 m). Nền tháp xây đá và gạch. Gạch đều khắc chữ: “Làm năm Long Thuỵ Thái Bình thứ tư, triều vua thứ ba nhà Lý”. Nền tháp có bốn cửa. Đồ vật trong tháp đều bằng đá cả: từ những tượng người tiên, chim muông cho đến những giường ghế, chén bát. Nhiều không kể xiết.
Các tầng trên bằng đồng. Cửa tháp tầng thứ ba khắc chữ “Thiên tử vạn thọ” cầu cho vua sống lâu muôn tuổi. Đỉnh tháp có hàng chữ “Đạo ly thiên” thể hiện tư tưởng của Đấng tối cao xông lên tận trời xanh. Tháp cũng xông lên trời xanh, cao vút “Tầng tầng bảo tháp quyện mây trời!”.
Từ chùa Keo xứ Nam (nay thuộc Thái Bình), thuyền giăng ba ngọn, ngược nước Hồng Hà tới bến An Duyên (Yên Sở, Thanh Trì), thiền sư Minh Không đã nhìn thấy đỉnh tháp Báo Thiên rồi. Tính chất nổi vượt
https://thuviensach.vn
của tháp Báo Thiên đã gây xúc động lớn đối với nhà thơ lớn đời Trần - Phạm Sư Mạnh. Ông có viết bài thơ chữ Hán về tháp Báo Thiên, dịch nghĩa như sau:
Trấn áp đông tây, giữ vững kinh kỳ
Ngọn tháp sừng sững trội vượt hẳn lên
Chiếc cột chống trời đứng đó làm cho
non sông yên ổn
Như mũi dùi trên đất xưa nay chẳng hề mòn.
CHÙA MỘT CỘT - CHUÔNG QUY ĐIỀN
Lối kiến trúc một cột có từ trước đời Lý. Ở Hoa Lư, trong ngôi chùa con gái vua Đinh Tiên Hoàng (vợ Ngô Nhật Khánh) sau khi bị chồng rạch mặt đuổi về, bỏ đi tu ở đấy, có cây cột đá cao, sáu cạnh, khắc bài kinh Lăng Nghiêm, đề niên hiệu thời Lê Hoàn (981 - 1005). Phía trên cột là toà sen chạm. Năm Long Thuỵ Thái Bình thứ năm đời Lý Thánh Tông (1058) có xây điện Linh Quang ở Thăng Long, phía trước điện “dựng lầu chuông, một cột sáu cạnh hình bông sen”.
Vậy đó là một lối kiến trúc của Việt Nam vào thế kỉ 10 - 11. Sách cũ chép là vào năm 1049, đời Lý Thái Tông, xây chùa Một Cột.
Mùa Đông tháng 10, dựng chùa Diên Hựu(4). Trước đấy, vua (Lý Thái Tông) chiêm bao thấy Phật Quan Âm ngồi trên toà sen, dắt vua lên toà. Khi tỉnh dậy, vua đem việc ấy nói với bầy tôi. Có người cho là điềm không lành. Có nhà sư Thiền Tuệ khuyên vua làm chùa dựng cột đá ở giữa ao làm toà sen của Phật Quan Âm ở trên cột, giống như đã trông thấy trong mộng, cho các nhà sư lượn chung quanh(5) tụng kinh cầu cho vua sống lâu. Vì thế gọi là chùa Diên Hựu.
Lối kiến trúc một cột đâu có phải bắt nguồn từ một giấc mơ! Trước 1049, nó đã là một thực tế nghệ thuật cổ truyền, một công trình nghệ thuật.
https://thuviensach.vn
Năm 1080, mùa xuân, tháng Hai, đúc chuông Quy Điền. Chuông Quy Điền là thế nào mà được liệt vào hàng “Tứ đại khí”? Không có tài liệu nào nói đến cả.
Tuy nhiên, có thể so với chuông Báo Thiên để hình dung thử xem sao. Nhớ lại, năm 1057, xây chùa Sùng Khánh Báo Thiên, phát 12.000 cân đồng trong kho vua để đúc chuông treo ở chùa đó. Vua Lý Thánh Tông thân làm bài minh để khắc vào chuông.
Một cân ta là hơn nửa ki-lô-gam (600g). Chuông Báo Thiên nặng gần 7 tấn. Thật ư? Vậy mà chuông chưa được liệt vào hàng “Đại khí”, thế thì chuông Quy Điền còn lớn nặng biết bao nhiêu!
Người ta bảo: phải dựng một toà phương đình cao 8 trượng (20 - 25 m) xây bằng đá xanh để treo chuông. Nhưng chuông đánh không kêu nên chẳng được treo, mà để ở ngoài ruộng phía tây thành Thăng Long, gần chùa Diên Hựu. Năm 1426, giặc Minh phá tháp Báo Thiên, cũng phá mất quả chuông kì vĩ này.
Lại nói về chùa Diên Hựu: năm 1101, đời Lý Nhân Tông có “sửa chùa”, và đến năm 1105, mùa thu, tháng 9 thì xây hai tháp lợp sứ trắng ở chùa này.
Văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh (chùa Đọi, Hà Nam), năm 1121 viết:
“Do lòng sùng kính đức Phật và dốc lòng mộ đạo nhân quả (đạo Phật) nên hướng về vườn Tây Cấm nổi danh(6) mà xây ngôi chùa sáng Diên Hựu theo dấu vết chế độ cũ, cùng với ý mưu mới của nhà vua(7).
Rồi đào hồ thơm Linh Chiểu(8). Giữa hồ vọt lên một cột đá, đỉnh cột nở đoá sen nghìn cánh. Trên bông sen dựng vững toà điện màu xanh(9). Trong điện đặt pho tượng vàng tài năng nhân đức(10). Vòng quanh hồ là dãy hành lang chạm vẽ. Lại đào ao Bích Trì(11). Mỗi bên đều bắc cầu vồng (cầu uốn cong) để đi qua. Phía sân cầu đằng trước, ở hai bên phải bên trái, có xây tháp quý lưu li(12).
https://thuviensach.vn
Hằng tháng, vào sớm mồng Một (ngày sóc) và hằng năm thì vào dịp du xuân, nhà vua ngồi xe ngọc, đến chùa mở tiệc chay, làm lễ dâng hương hoa cầu cho ngôi báu dài lâu và bày chậu thau làm lễ tắm tượng Phật. Trang sức pho tượng tinh tế biểu lộ tướng mạo của năm loại chúng sinh. Hoặc xoắn tay áo tiến lui cử động được dung nhan. Hoặc họp đội của Thiên Vương bốn phương, đều giơ đồ kinh khí bồi hồi dâng điệu múa. Chăm chỉ, chẳng dám biếng lười, lúc nào cũng cung kính. Cho nên, sức huyền bí tạo hoá cảm thông mà đầy phù trợ. Như thế là nhà vua đã dựng cây phướn nhà phật mà cầu phúc thọ vậy”.
Như vậy, quy mô chùa Một Cột thời Lý to hơn ngày nay. Và cả kiểu dáng, cả những bộ phận hợp thành cũng phức tạp hơn. Thời Trần, có bài thơ Đề chùa Một Cột của sư Huyền Quang, dịch ra như sau:
Chùa khuya một tiếng chuông vang
Trăng thu tãi sóng, là bàng nhuộm son
Chùa vuông, “chim thú” ngủ ngon
Tháp cao đôi ngọn: búp tròn tay ai...
Đến đời Trần, chùa đã không phải là ngôi chùa đời Lý nữa vì sách cũ đã ghi: Năm 1249, “mùa xuân, tháng Giêng, sửa lại chùa Diên Hựu, xuống chiếu vẫn làm ở nền cũ”.
Và với thời gian, chùa ngày càng khác trước mãi đi...
Múa rối nước ngày thu
https://thuviensach.vn
Hội mùa thu ở Đại Việt thời Lý không thể thiếu được trò múa rối.
Múa rối, với cách điều khiển bằng sào, bằng que hay bằng dây, với con rối thay người thực mà biểu diễn các tích trò thì nhiều nước đều có. Nhưng múa rối nước thì, cho đến nay, chỉ thấy ở Việt Nam. Sân khấu là mặt nước ao hồ và sóng nước.
Bến Đông Bộ Đầu ở Thăng Long từ sớm đến tận chiều ngày Ba tháng Tám rộn ràng cảnh lễ đua thuyền và múa rối nước. Bài Văn bia chùa Đợi khắc năm 1121 miêu tả:
“Trên mặt sóng bập bềnh, nổi một Rùa Vàng đội ba quả núi. Trên mặt nước, rùa lừ đừ, để lộ vân trên mai và xoảy bốn cẳng chân. Đảo con ngươi, rùa nhìn vào bờ, há miệng phu dãi vào bến. Hướng về mũ miện (tượng trưng cho vua) và cúi đầu chào. Rồi rùa ra thinh không mà nghe ngóng. Trông lên bờ núi cao, thấy nhạc đánh du dương. Cửa động (trên ba quả núi) đua mở: thần tiên hiện ra (do các con rối thủ vai). Ấy là vẻ đẹp của tiên trên trời, đâu phải vẻ xinh của người trần thế? Các tiên nữ giơ bàn tay nhỏ dâng điệu múa “Hồi phong” (Gió về); nhíu lông mày biếc hát bài ca “Hưu vận” (Vận tốt). Rồi chim quý xếp thành đàn, vừa múa vừa rảo bước; hươu lành sống thành bầy nhảy nhót mà lướt diễn (y
https://thuviensach.vn
hệt cánh chim hươu thành bầy, bay nhảy vòng quanh sao Mặt trời trên trống đồng thời Vua Tổ!)
Đến khi chiều tà xế bóng, xe vua sắp về... thì Rùa Vàng bò lên giữa đường phẳng như đá mài, đứng lại đó dưới vòm trời cao rộng, hướng phía Sùng đài mà về đất liền, lưng ráng hết sức chở ba quả núi (người ta kéo hoặc điều khiển máy đưa sân khấu múa rối từ dưới nước lên bờ.
Từ đây lại tiếp tục trò múa rối trên cạn, vẫn trên sân khấu Rùa Vàng). Trước bàn vua, Rùa lúc lắc cái đầu, đứng yên, đuôi vẫy mừng. Bỗng đâu trên sân khấu tiếng chim cú vọ bay qua mây mà cất tiếng kêu, thấy hổ rời sườn non vẻ hung ác, ra oai dữ tợn mà nhai cắn thú con. Tức thì những con rối đóng vai thợ rừng, tay cầm lông chim hoặc gậy đỏ, reo hò chạy đến trước mặt ngài ngự (vua) rồi dắt nhau đi quây bầy chim thú ấy, để khoanh vùng săn bắn, giương cung bắn ra, tuốt gươm vây lại... Bấy giờ người người đều phấn khởi, kẻ sĩ đua rước mừng vua, làng xóm
https://thuviensach.vn
đưa già dắt trẻ đến kinh, trèo lên giá, men theo tường, mắt say nhìn, lòng náo nức.
Năm nào cũng mồng Ba mở hội, đưa người đời lên tiên cảnh, đặt triệu dân vào vườn vui. Đó là Rùa Vàng do nhà vua xem xét mà chế mới ra vậy”.
Vua đây là Lý Nhân Tông, một ông vua tài hoa, giỏi nhạc, giỏi múa, khéo tay và có tài phát minh sáng chế...
Rằm tháng Giêng Đèn Quảng Chiếu
“L
ễ Phật quanh năm, không bằng ngày rằm tháng Giêng”. Đó là ngày Thượng nguyên, ngày trăng tròn đầu tiên của một năm mới. Đêm hôm đó (đêm Nguyên tiêu), triều đình nhà Trần
“dựng cây đèn trên sân rộng, gọi là đèn Quảng Chiếu, muôn ngọn sáng rực trên trời dưới đất. Các vị sư đi chung quanh đèn đọc kinh, các quan đứng vòng quanh đèn làm lễ, gọi là lễ “triều đăng”. (Hội đèn Quảng Chiếu đầu tiên là vào năm Hội Tường đại khánh nguyên niên (1110) đời Lý Nhân Tông).
https://thuviensach.vn
Đèn Quảng Chiếu là một loại đèn kéo quân. Trong đêm hội đèn còn đốt pháo bông, múa rối... Người thời Lý tả hội đèn Quảng Chiếu diên mệnh (cầu sống lâu) ở phía ngoài cửa Nam như sau:
“Dựng đài đèn Quảng Chiếu, trước sân rộng cửa Đoan Môn. Giữa trồng một cột nêu, ngoài đặt bảy tầng đài; rồng uốn mình đỡ toà sen vàng, khâu lồng bằng sa để giữ lửa hoa lau. Dấu máy cơ vi ở dưới đất,
quay như bánh xe. Đốt pháo bông ở trên trời, sáng như vầng nhật. Lại có tượng báu Nghiêm Chương, toà báu Kim Diện, do ý sáng mà trang sức nên, sắc vàng chọi nhau lóng lánh. Dáng thì tả vẻ thiêng, hình thì phô đẹp lạ. Lại có hai toà lầu hoa, treo quả chuông vàng, tạc tượng nhà sư khoác áo cà sa. Khi ngầm vặn máy khiến sư giơ vồ đánh như thực, nghe vỏ gươm kêu thì nghiêm dáng ngoảnh mặt, trông thấy bóng vua liền quay mình cúi đầu, đều do mẹo mực sáng suốt, khi cử động khi đứng yên đều mềm mại, tự nhiên. Lại có bức vách cao long lanh thất bảo, thành một hàng dài. Trong Đoan Môn có một ngọn núi vàng, đặt tượng Đa Bảo Như Lai, bày mấy tầng kiệu pháp giá (kiệu vua), mái thềm rực ánh nắng sớm, màu mái ngói phơi vẻ mây xanh. Thứ nữa, lại có hai toà bằng bạc, bên trái đặt tượng A Di Đà, bên phải đặt tượng Diệu Khắc Thân. Thế mạnh vươn cao, dáng đẹp tung bay. Lung linh ngờ tuyết chảy, xán lạn quá trăng thu. Thứ nữa, lại có hai toà điểu văn, bên trái đặt tượng Quảng Bác Thân, bên phải đặt tượng Li Bố Uý. Đã xây gác chót vót, lại dựng tầng chon von, mái lợp ngọc trắng, vách chạm hình rồng. Lại thứ nữa là hai toà bằng ngà voi, bên trái đặt tượng Cam Lộ Vương, bên phải đặt tượng Bảo Thắng Phật. Giữa mài đá trắng, chống các hiên che sương. Gỗ phỉ gỗ lăng chạm nạm ngọc; chỗ cách, chỗ trống giát sừng tê. Lại tinh chế để ghi lời đẹp, câu hay, khắc vào bên toà sen, tinh thành trong trắng soi sáng về sau. Lại vẽ chín tầng trời bằng năm sắc, khắc bốn trụ hai hàng treo. Xung quang thì thắp sáng nghìn đèn, ánh vàng lộng lẫy ngoài hai mặt. Có thể nói là một công trình xưa nay chưa từng có, đến trời kia cũng thua tài. Nhà nhà hoà mục, đêm cũng như ngày, người người vui vẻ, già hoá trẻ ra...”
https://thuviensach.vn
Hội thề tháng Tư
Mồng Bốn cá đi ăn thề
Mồng Tám cá về, cá vượt Vũ môn
Mùa xuân là mùa chuyển tiếp nên ngắn ngủi. Từ tháng Ba sang đầu tháng Tư đã bắt đầu vào tiết mưa dông báo xuân sang hè. Đầu mùa mưa, cá đi, cá vượt đẻ. Cá hoá Long, cá biến thành rồng, là chuyện tín ngưỡng xưa: người có thi, có đỗ, có trượt. Cá muốn hoá rồng cũng phải thi, có đỗ, có trượt; đỗ thì hoá rồng, trượt thì vẫn hoàn kiếp cá. Và, vì cá vượt; nên khi về, con nào cũng sầy vẩy!
Người có tục thề nên cá được nhân cách hoá cũng có tục thề. Thề vốn có từ thời nguyên thuỷ. Sử sách và truyền thuyết dân gian nói
https://thuviensach.vn
đến lời thề Trưng Trắc và lễ thề Lũng Nhai thời Lê Lợi, cùng bài văn hội thề giữa bọn bại tướng Vương Thông một bên và nghĩa quân Lam Sơn chiến thắng một bên ở Thăng Long cuối năm 1427.
Sử cũng nói đến Hội thề đền Sơn Thần Đồng Cổ thời Lý, Trần, Lê. Đời Lý, vua Lý Thái Tông phong tước vương cho thần núi Đồng Cổ, dựng miếu để hằng năm cúng tế và làm lễ thề. Nguyên trước đây, hôm trước ngày ba vương làm phản, vua chiêm bao thấy một người tự xưng là thần núi Đồng Cổ nói với vua về việc ba vương Vũ Đức, Đông Chinh, Dực Thánh làm loạn, nên bảo đem quân đánh ngay đi. Đến khi tỉnh dậy, sai phòng bị, quả nhiên thấy ứng nghiệm. Nhớ ơn, vua xuống chiếu cho dựng miếu thờ ở bên phải thành Đại La, liền sau chùa Thánh Thọ. Lại lấy ngày 25 tháng ấy (tháng Ba) mà đắp đàn, cắm cờ xí, dàn đội ngũ, treo gươm giáo, đến trước thần vị đọc lời thề rằng:
“Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, thần minh giết chết”. Các quan từ Cửa Đông đi vào, đến trước thần vị cùng uống máu ăn thề. Từ đó, hằng năm lấy làm lệ thường. Sau vì tháng Ba gặp ngày quốc kị (giỗ Lý Thái Tổ) mới hoãn đến ngày mồng Bốn tháng Tư.
Đời Trần, hội thề tháng Tư đã là một phong tục vững chắc. Đến ngày mồng Bốn tháng Tư, hoàng tử, tôn thất và các quan nội thị họp ở miếu Sơn Thần thề không được thay lòng đổi dạ. Đó không chỉ là một phong tục của vua quan, mà ngày mồng Bốn tháng Tư đã trở thành một ngày hội lớn của nhân dân Thăng Long.
https://thuviensach.vn
Hằng năm, ngày mồng Bốn tháng Tư, tể tướng và trăm quan từ hồi gà gáy đã đến chực ngoài cửa thành, mờ mờ sáng thì vào triều. Vua ngự ở hành lang bên phải cửa điện Đại Minh; trăm quan mặc nhung phục làm lễ hai lạy rồi lui ra; có đủ đội ngũ nghi trượng theo hầu, ra Cửa Tây kinh thành, đến đền thờ thần núi Đồng Cổ, họp nhau thề rồi uống máu. Quan trung thư kiểm chính đọc lời thề rằng: “Làm tôi hiếu trung, làm quan trong sạch, ai trái thề này, thần minh giết chết”.
Đọc xong, quan tể tướng sai đóng cửa lại để điểm danh, người nào vắng mặt thì phạt năm quan tiền. Ngày hôm ấy, con trai con gái bốn phương đứng ở cạnh đường để xem chật ních như một ngày hội lớn.
Ỷ Lan phu nhân
B
ấy giờ, Lý Thánh Tông đã 40 tuổi mà chưa có con trai nói dõi. Nhà vua và triều đình rất buồn phiền, thường đi cầu tự ở các đền chùa trong nước.
Một hôm, trăm quan rước xe vua Lý Thánh Tông đi cầu tự ở chùa Dâu (Thuận Thành, Bắc Ninh). Nhân dân các làng ven đường, gái trai già trẻ đều đổ ra xem. Riêng cô gái nghèo làng Sủi thì lại khác thường. Lòng cô dửng dưng trước đám rước vua. Xa xa, nghe tiếng chiêng trống khua vang, tiếng quân lính hô hét, tiếng nhân dân hò reo, cô vẫn không ngừng tay hái lá, vẫn miệt mài trong chốn nương dâu. Tới khi xe vua đến gần, chị em bạn bỏ chạy ra đường xem đám rước, cô mới tạm ngừng tay trong giây lát. Nhưng cô cũng không rời nương dâu, chỉ đứng tựa gốc cây, mắt lơ đãng nhìn xa...
https://thuviensach.vn
Thấy bóng cô thôn nữ một mình thấp thoáng trong ngàn dâu xanh ngắt. Lý Thánh Tông lấy làm lạ, sai quân lính đòi cô đến trước xe hỏi chuyện. Thôn nữ bước tới xe vua, quỳ tâu:
- Thiếp là con nhà nghèo hèn, phải làm việc đầu tắt mặt tối, phụng dưỡng mẹ cha, không dám mong đi xem rước và nhìn mặt rồng.
Thấy cô gái xinh đẹp, ăn nói dịu dàng, ông vua hiếm con liền truyền đưa cô về kinh (Thăng Long).
Vua sai xây một cung riêng cho cô ở (tương truyền sau này là chùa Kim Cổ, nay là số nhà 73 phố Đường Thành, Hà Nội), đặt là cung Ỷ Lan và gọi cô là Ỷ Lan Cung phi. Cái tên Ỷ Lan (dựa gốc lan) đặt ra để ghi lại sự tích nhà vua gặp người đẹp đứng tựa gốc cây ngày nào bên quê Bắc.
Ít lâu sau, Ỷ Lan sinh con trai (sau là Lý Nhân Tông). Lý Thánh Tông càng yêu quý nàng gấp bội. Nàng được tôn làm Ỷ Lan Nguyên phi (đứng đầu các phi, sau hoàng hậu), con trai nàng được phong thái tử.
Năm 1069, Lý Thánh Tông cùng Lý Thường Kiệt cất quân đi đánh giặc ở phương xa. Ỷ Lan được thay vua cầm quyền trị nước. Sử cũ chép rằng: Bà Nguyên phi Ỷ Lan trị nước rất giỏi, khiến dân tâm hoà hiệp, cõi nước thanh bình. Dân gian sùng đạo Phật, tôn bà là “Quân Âm nữ” (Con gái đức Bồ Tát Quan Âm).
Lý Thánh Tông đánh giặc lâu ngày không thắng, quay trở về. Đến châu Cư Liên (Tiên Lữ, Hưng Yên), vua hỏi thăm nhân dân, thấy nhân dân hết lời ca ngợi tài trị nước của Ỷ Lan. Vua thở than: “Kẻ kia là đàn bà, còn giỏi như vậy. Ta là đàn ông, lại tầm thường thế hay sao?” Lại quay đi đánh giặc, và lần này thắng to.
Hai lần chống xâm lược Tống (1075 - 1077), vua Lý Nhân Tông còn bé (lên 10 tuổi). Lý Thường Kiệt điều binh khiển tướng ngoài chiến trường. Bà Ỷ Lan cùng Thái phó Lý Đạo Thành dốc sức lo việc triều đình, việc hậu phương.
https://thuviensach.vn
Ỷ Lan rất hiểu những nỗi đau khổ của nông dân. Khi Lý Thánh Tông mất, con bà lên ngôi, bà đã làm được một số việc có ích cho dân. Ở nông thôn bấy giờ có nhiều phụ nữ vì nghèo mà phải bán mình (hoặc bị mẹ cha buộc lòng phải đem bán), đem thân thế nợ, không thể lấy chồng được. Bà Ỷ Lan đã lấy tiền bạc trong kho Nhà nước chuộc những người ấy và đứng ra dựng vợ gả chồng cho họ.
Ỷ Lan rất hiểu rằng đối với người dân cày “con trâu là đầu cơ nghiệp”. Cho nên bà đã nhiều lần nhắc nhở vua phạt tội nặng những kẻ ăn trộm trâu và giết trâu. Tháng Hai năm Đinh Dậu (1117), năm tháng trước, khi bà mất, bà còn nhắc nhở vua một lần nữa: “Gần đây, người kinh thành và làng ấp có kẻ trốn đi chuyên nghề trộm trâu. Nông dân cùng quẫn. Mấy nhà phải cày chung một trâu. Trước đây, ta đã từng mách việc ấy và Nhà nước đã ra lệnh cấm. Nhưng nay việc giết trâu lại có nhiều hơn trước”. Lời khuyên vua trên đây chứng tỏ tuy Ỷ Lan sống trong cung điện triều Lý, bà vẫn quan tâm theo dõi và lo lắng đến đời sống nông dân. Vâng lời mẹ, Lý Nhân Tông hạ lệnh lùng bắt và trừng trị bọn chuyên nghề ăn trộm trâu. Không những thế, việc giết trâu ăn thịt những ngày giỗ đám... cũng bị hạn chế. Chính quyền Lý quy định ở Thăng Long cũng như tại các địa phương trong cả nước cứ ba nhà lập một “bảo”, kiểm soát lẫn nhau và cùng liên đới chịu trách nhiệm về tội lạm giết trâu bò.
Giỏi giang chính trị, chăm sóc kinh tế và đời sống nhân dân. Ỷ Lan còn học hỏi rộng, hiểu biết nhiều. Năm 1096, bà bày cỗ chay ở chùa Khai Quốc (tức sau này là chùa Trấn Quốc ở Thăng Long), thết các sư. Tiệc xong, bà ngồi kê cứu đạo Phật với các vị sư già học rộng. Bà hỏi về nguồn gốc đạo Phật trên thế giới và ở nước ta. Bà có óc phán đoán, đòi hỏi các sư “nói có sách, mách có chứng”. Chính nhờ câu chuyện giữa bà và các vị sư thời Lý mà đến nay ta còn biết gốc tích sự truyền bá đạo Phật vào nước ta.
https://thuviensach.vn
Nhiều ngôi chùa tháp có quy mô to lớn bề thế với những dáng hình cấu trúc phong phú, bền vững, có bố cục đăng đối, có trang trí đẹp mắt... đã được xây dựng lên trong “thời đại Ỷ Lan” này: chùa Giạm (Quế Võ, Bắc Ninh) 1086, chùa một mái ở động Hoàng Xá (Quốc Oai, Hà Tây, nay thuộc Hà Nội) 1099, chùa Phật Tích (Tiên Sơn, Bắc Ninh) 1100, chùa Báo Ân (Đông Sơn, Thanh Hoá) 1100, tháp Chương Sơn (Ý Yên, Nam Định) 1108, chùa Bà Tấm hay còn gọi là Linh Nhân Từ Phúc, tức tên hiệu của Ỷ Lan (Gia Lâm, Hà Nội) 1115... vẫn hay đó căn bản là do công sức và tài khéo của nhân dân, song không khỏi có sự cổ vũ và việc giúp công giúp của của Ỷ Lan, của con bà là Lý Nhân Tông, của Lý Thường Kiệt. Sử chép rằng riêng Hoàng thái hậu Ỷ Lan đã xây dựng trước sau hơn 100 ngôi chùa mà chỉ có một số ít ỏi di tích như vừa kể trên là ngày nay vẫn thấy.
Mùa thu, tháng Bảy, năm Đinh Dậu (8-1117), Ỷ Lan qua đời. Thi hài của bà được hoả táng theo tục lệ nhà Phật. Cho đến nay, dân gian xứ Bắc còn truyền tụng nhiều câu chuyện về Ỷ Lan mà người ta thường gọi là Bà Tấm của xứ Bắc...
https://thuviensach.vn
Lê Phụng Hiểu và thác đao điền
L
ê Phụng Hiểu người ở Băng Sơn, tục gọi là thôn Bưng (Hoằng Hoá, Thanh Hoá). Sử chép ông người cao lớn, tướng đẹp râu tốt, có sức khoẻ lạ thường. Quê ông thời ấy là lò võ nổi tiếng nhất tỉnh
Thanh. Cho nên, ngày từ khi còn để chỏm ông đã say mê đánh vật, đấu quyền, quăng đao, múa kiếm. Lớn lên, ông sớm nổi tiếng một vùng về tài côn quyền...
Bấy giờ, vua Lý Thái Tổ tuyển những người có sức khoẻ, am hiểu nghề võ sung vào quân Thượng đô túc vệ trấn giữ kinh thành. Ông lên kinh dự thi và được tuyển dụng. Tài thao lược và võ nghệ cao cường cùng với đức tính siêng năng, chăm việc luyện võ rèn quân của ông, khiến vị
vua vốn xuất thân là quan võ rất đẹp lòng, quý mến(13). Chỉ ít lâu sau, Lý Thái Tổ đã thăng cho ông lên chức Vũ Vệ tướng quân. Ơn vua, ông càng hết lòng phò giúp vương triều Lý.
Năm 1028, Lý Thái Tổ mất, Thái tử Phật Mã lên nối ngôi, tức Lý Thái Tông. Ba hoàng tử là Đông Chinh Vương, Dực Thánh Vương và Vũ Đức Vương nghe tin, đem quân riêng về bao vây kinh thành để cướp ngôi (sử cũ gọi là “loạn tam vương”). Tướng quân Lê Phụng Hiểu đã chỉ huy quân cấm vệ đánh tan được bọn vương tử làm loạn. Lý Thái Tông vừa
https://thuviensach.vn
cảm kích vì lòng trung nghĩa, vừa quý trọng tài quân sự của ông, nên đã phong ông làm Đô thống, một chức quan cao nhất trong quân đội thời ấy.
Bấy giờ ở phương Nam, Chiêm Thành thấy nội bộ triều Lý lục đục thì ra mặt đối địch. Và, đến mùa hè năm 1043 cho quân cướp phá vùng ven biển Đại Việt. Tình hình đó buộc nhà Lý phải đem quân giao chiến. Đô thống Lê Phụng Hiểu hộ giá Lý Thái Tông đánh tan được quân Chiêm Thành. Ấy là vào năm Giáp Thân (1044). Chiến thắng trở về, Lý Thái Tông ngự ở điện Thiên An xét công ban thưởng cho quân tướng. Vua truyền gọi Lê Phụng Hiểu đến bên ngai bảo:
- Công lao của khanh phủ giúp vương triều thật lớn. Trẫm muốn lấy quan tước thật hậu để phong thưởng. Ý khanh thế nào?
Lê Phụng Hiểu tâu:
- Quan tước thần xin miễn nhận. Chỉ xin bệ hạ cho về quê nhà, đứng trên núi Băng Sơn ném con dao lớn ra xa. Dao rơi xuống nơi nào thì xin ban cho vùng ấy để dựng nghiệp.
Vua ưng thuận. Tương truyền, Lê Phụng Hiểu về Hoằng Hoá (Thanh Hoá) lên núi Băng Sơn vung tay ném dao xuống núi. Dao bay vút ra xa, tít tắp. Lát sau mới rơi xuống cách chỗ Lê Phụng Hiểu có đến trên mười dặm! Dao rơi xuống hương Đa Mi. Tính ra hơn nghìn mẫu ruộng. Vua xuống chiếu lấy ruộng đất đó ban cho ông làm trang trại riêng.
https://thuviensach.vn
Người sau nhân đó phàm ruộng đất vua phong thưởng cho người có công đều gọi là thác đao điền (ruộng ném dao). Tài ném dao xuất chúng đó của ông hàng trăm năm sau còn được dân gian lưu truyền trong câu hát:
Quăng dao, múa kiếm lừng danh
Sáu trăm năm lẻ sử xanh còn truyền.
Cũng theo truyền thuyết dân gian thì Lê Phụng Hiểu là một người kì lạ. Ông có mẹ nhưng không có cha. Nhà nghèo, ông phải vào rừng kiếm củi bán lấy tiền nuôi mẹ. Ông có sức khoẻ không ai bì kịp, lại có tài đi
https://thuviensach.vn
nhanh như gió thổi. Ngoài việc đi kiếm củi ông chỉ mê vật. Vật suốt ngày không mệt, không chán.
Bấy giờ ở làng Vồm (Thiệu Hoá, Thanh Hoá) có ông Vồm là tay đô vật nổi tiếng. Nghe tin Lê Phụng Hiểu thích đánh vật, đô Vồm cưỡi ngựa tìm đến thôn Bưng để thử tài. Tới nơi Lê Phụng Hiểu lại đi rừng kiếm củi. Nhân dò hỏi người làng, biết rõ tài vật, tài chạy và sức khoẻ kinh người của ông thì đô Vồm rụng rời chân tay vội ra roi, rạp mình trên lưng ngựa chuồn về. Lát sau, Lê Phụng Hiểu vác bó củi to tướng về nhà. Thấy kể lại có người đến khiêu khích, ông đùng đùng nổi giận, vứt phăng bó củi đánh “rầm” rồi quay ra đuổi theo. Loáng một cái, ông đã bắt kịp đô Vồm. Vồm chưa kịp đối phó thì Lê Phụng Hiểu đã nhanh như chớp xô vào túm cổ. Đang nóng giận, ông chẳng nói chẳng rằng vung Vồm lên quật mạnh vào vách đá. Vách đá bị lõm xuống nên mới gọi là núi Vồm.
Ít lâu sau, ở vùng núi Hoa Lâm (tức Bình Lâm, Hà Trung) có một đàn cọp dữ kéo về tàn phá: cõng thú, bắt người, gây nhiều thiệt hại. Dân ven núi Hoa Lâm sợ hãi, không ai dám ở. Lê Phụng Hiểu nghe tin, tức lắm xin phép mẹ già lên rừng bắt cọp, trừ hoạ cho dân. Ông xồng xộc vào hang hùm. Cả một đàn hổ đói hung dữ như thế mà vừa trông thấy ông đều chết khiếp, cong đuôi chạy trốn. Nhưng bốn chân cọp phóng như bay cũng không lại được đôi chân chạy như gió của Lê Phụng Hiểu. Chúng lần lượt bị tóm cổ. Con thì bị đấm, bị đá vỡ đầu văng xác ra xa, con thì bị ông cầm cẳng quật vào cây chết không kịp ngáp. Từ ấy, dân núi Hoa Lâm lại yên ổn làm ăn.
Ca ngợi tài đức ông, dân gian có câu hát:
Đức đại vương tài khí anh hào
Khi giơ gươm, khi nhảy ngựa,
khi chia đất, lúc quăng dao...
Trong muôn đội kẻ giáp bào còn tưởng tượng.
https://thuviensach.vn
Ông mất năm 77 tuổi, được thờ làm Phúc Thần, tục gọi là Thánh Bưng. Ngày trước, hàng năm cứ đến mồng Tám tháng Hai Âm lịch, dân làng Bưng lại làm lễ mừng Thánh. Hội chật ních người, kéo dài tới cuối tháng. Hội có nhiều trò vui và thi đấu các môn thể thao dân tộc: chèo chải (hát núa, bơi thuyền tượng trưng), đánh đu, đánh vật...
Hạng thuyền mấy mái chèo chầu
Trước đem nghênh thánh mà sau vui người...
Nàng Hoa
T
hời Lý, có một người tên gọi Trần Huấn, quán xã Phúc Lâm (huyện Yên Định, Thanh Hoá ngày nay). Ông ra Thăng Long dạy học, lấy vợ ở Đại Bi, tức Đại Yên - thuộc kinh thành. Bà vợ bán tôm
buôn cá, thường qua lại chợ An Bản (Đại Yên). Có lần, bà bắt được tấm lụa của một người đi chợ bỏ quên. Không tham của người, bà Huấn gọi trả lại người đã mất.
Đêm đó, bà mộng thấy một cụ già hiện lên trao cho bà hòn ngọc quý. Tỉnh dậy, trong mình bà thấy khác. Từ đó bà có mang, sau sinh hạ một
https://thuviensach.vn
con gái, đặt tên là Ngọc Hoa.
Bấy giờ có giặc Ma-na sang xâm lấn nước ta. Vua truyền hịch xuất chinh. Nàng Hoa khi ấy mới lên chín tuổi nhưng thân hình lớn cao, có dáng người thiếu nữ xinh tươi. Nàng Hoa vào dự kì tuyển binh và đã được cùng cha đi dẹp giặc.
Tới miền đất địch, quân ta hạ trại. Ta địch giao tranh đôi ba trận. Thế địch ta vẫn không phân thắng bại.
Nàng Hoa lập kế, vờ làm cô gái bán trầu cau, thuốc lào, đem hàng vào đất địch. Quân giặc nghiện trầu, nghiện thuốc, thấy nàng Hoa vui tươi duyên dáng bán hàng thì thích lắm. Chúng xúm quanh gánh trầu thuốc đông như kiến, chả phòng bị gì hết... Nàng Hoa lựa thời cơ đến, làm ám hiệu cho quân ta xông vào diệt địch. Giặc thua to phải rút quân về...
https://thuviensach.vn
Tới thăm đình Đại Yên (nay thuộc khu phố Ba Đình, Hà Nội), nơi dân làng ngày sau thờ phụng nàng Hoa, ngoài bản thần tích, như vừa kể, còn nhiều đôi câu đối ca ngợi công nghiệp nàng Hoa (dịch nghĩa):
- Một trận thắng hồi quân, khiến đất Yên tưng bừng vũ trụ Chín tuổi thơ dẹp giặc, phò nhà Lý bền vững non sông. - Nữ giới nảy anh hùng, Trưng Triệu tiếp gót
Triều đình ban sắc chỉ, sống chết khác thường.
https://thuviensach.vn
Đúng là huyền thoại!
Nhưng là huyền thoại đầy hương sắc yêu nước thương nòi của Việt Nam!
https://thuviensach.vn
Phần 6
Chống Tống giữ nước
Phò mã áo chàm
https://thuviensach.vn
Trong các châu ở biên giới Lý - Tống, Lạng Châu là quan trọng
hơn cả. Đây là một vùng quan yếu. Nó chặn con đường từ Ung Châu qua trại Vĩnh Bình sang Đại Việt. Vĩnh Bình tiếp giáp với huyện Quang Lang của ta (nay là huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn). Muốn vào huyện ấy, Tống phải qua cửa ải rất hiểm trở: ải Quyết Lý tức Chi Lăng. Phía nam ải Chi Lăng có một động to lắm, gọi là động Giáp (Giáp Khẩu). Ở đấy có một tộc người miền núi rất lớn (có sách bảo là thuộc tộc Dao), đều họ Giáp. Chúa động là Giáp Thừa Quý. Biết Quý có thế lực mạnh, lại đang cần người thân tín trấn giữ cửa ngõ biên thuỳ hiểm yếu phía bắc, Lý Thái Tổ mới gả con gái cho Giáp Thừa Quý và đổi sang họ Thân. Năm 1029, một năm sau khi lên ngôi, Lý Thái Tông cũng kén con trai Thân Thừa Quý là Thân Thiệu Thái làm rể và cho nối cha làm châu mục Lạng Châu. Đến đời Lý Thánh Tông, con trai của Thiệu Thái lại được nhà vua cho lấy công chúa Thiên Thành. Chàng phò mã áo chàm đó là Thân Cảnh Phúc (hay còn gọi là Thân Cảnh Nguyên...).
Bấy giờ, Tống Thân Tông là vua trẻ lên ngôi (1068), có Vương An Thạch làm tể tướng, muốn hưng khởi triều Tống. Nhân vua Lý
https://thuviensach.vn
Nhân Tông còn bé, theo kế của tể tướng họ Vương, vua Tống thuận cắt đất cho Liêu(1) để tạm yên mạn bắc, dồn binh tướng đánh Đại Việt, hòng lấy thắng lợi đó dọa Liêu. Tình hình ấy buộc Lý Thường Kiệt năm 1075 phải chủ động tấn công trước, để phá kế hoạch xâm
lược của Tống. Trong cánh quân bộ vượt biên sang hợp vây Ung Châu, Thân Cảnh Phúc giữ một mũi quan trọng. Từ Lạng Châu, quân động Giáp của phò mã nhà Lý trang bị giáo dài, cung và tên tẩm thuốc độc bất ngờ tấn công dữ dội vào trại Vĩnh Bình. Viên quan giữ trại là Tô Tá chống cự quyết liệt. Nhưng cuối cùng 600 quân triều đình Tống và hàng trăm dân binh trong vùng đã bị đánh tan. Tô Tá chết trận. Sợ uy, người các động bỏ Tống theo ta rất nhiều. Để triệt phá các căn cứ xâm lược của địch, Thân Cảnh Phúc cho quân đốt phá sạch doanh trại, kho tàng, tịch thu hết lừa ngựa, vũ khí, lương thực.
Hai năm sau (1077), Tống cho 10 vạn binh, 1 vạn ngựa với 20 vạn phu do Quách Quỳ, Triệu Tiết và nhiều tướng giỏi cầm đầu, chia hai đường thuỷ bộ sang xâm lược. Đại binh đi đường bộ, Lý Thường Kiệt dàn quân chống cự địch. Cánh phải chặn đường thuỷ do tướng Lý Kế Nguyên đốc chiến. Cánh trái do tướng Lưu Kỷ chỉ huy 5.000 quân trấn giữ ở Quảng Nguyên. Còn cánh trung quân tiên phong giao cho phò mã Thân Cảnh Phúc, bản doanh đóng tại động
https://thuviensach.vn
Giáp để khống chế hai ải hiểm yếu: Quyết Lý và Giáp Khẩu. Yểm trợ cho Thân Cảnh Phúc, bên trái có các thủ lĩnh miền núi Sầm Khánh Tân, Nùng Thuận Linh và Hoàng Kim Mãn chặn đường qua Bình Gia xuống phòng tuyến Sông Cầu hiện do đại quân ta án ngữ; bên phải có Vi Thủ An giữ miền đông bắc.
Cuối năm 1076, quân Tống ồ ạt kéo xuống biên giới. Thấy thế trận ta vững chắc, Quách Quỳ không dám hấp tấp đánh ngay, dù rất nhớ lời vua Tống dặn: “Tuy ở biên thuỳ phía bắc(2) ngươi đã phân phát kế hoạch đề phòng cho các tướng ở lại đó, nhưng người bắc thuỳ thấy triều đình bận việc nam chinh, chắc muốn quấy. Vậy phải lo việc An Nam cho chóng xong!” Quỳ đã đóng quân tại Bằng Tường đến 70 ngày để nghe ngóng. Sau, Quỳ cho người đem bằng sắc của vua Tống phong chức to và đem cả tiền gạo đến chiêu hàng các thủ lĩnh miền núi. Sầm Khánh Tân, Nùng Thuận Linh, Hoàng Kim Mãn, Vi Thủ An nghe theo. Quỳ mừng lắm, Triệu Tiết bàn với Quỳ:
- Lưu Kỷ ở Quảng Nguyên, Thân Cảnh Phúc ở động Giáp đều có binh lực mạnh. Ta có viên giám áp trại Hoành Sơn là Thành Trạc vốn quen thân với Cảnh Phúc. Tôi muốn sai Trạc mang bằng sắc vào chiêu hàng Cảnh Phúc.
Nhưng người của Tống đã không dụ hàng được Lưu Kỷ và Thân Cảnh Phúc. Cuối cùng, Quỳ sai phó đô tổng quản Yên Đạt đem quân đánh Lưu Kỷ. Đạt thua to, 3.000 quân bị cầm tù. Tống dùng quỷ kế phao tin Kỷ đã xin hàng. Một số thủ lĩnh miền khác tưởng thật đều theo Tống. Lưu Kỷ đành ra quy phục. Còn lại một mình phò mã nhà Lý đương đầu với đại quân Tống. Bấy giờ, Quỳ mới vững bụng, dốc toàn lực vượt biên đánh Thân Cảnh Phúc.
Tháng 1 năm 1077, quân Tống chia ba mũi tiến vào ải Quyết Lý. Đường đến Quyết Lý rất hiểm trở. Đèo Kháo Mẹ, Kháo Con lại
https://thuviensach.vn
hiểm nhất trên đường này. Đèo cao, lối hẹp, vách núi cheo leo. Thân Cảnh Phúc đem voi bịt đường. Quỳ sai các tướng đã dạn dày chiến trận như Yên Đạt, Trương Thế Cự, Tu Kỷ đi tiên phong. Quân Tống có sức đánh vẫn không sao tiến được. Sau Quỳ phải dùng quân cảm tử liều chết lăn xả vào voi, dùng tên nỏ bắn đúng chỗ hiểm. Lại lấy mã tấu chém vào vòi voi. Voi sợ quay đầu chạy. Hàng vạn quân Tống hò reo đuổi theo. Quân Thân Cảnh Phúc tan vỡ, Ải Quyết Lý đành mất.
Thế giặc quá mạnh. Thân Cảnh Phúc rút quân vào rừng, không thấy tăm hơi. Nhưng đêm đêm, những bóng áo chàm lại bất ngờ xuất hiện, xông vào những trạm quân Tống rải rác trong vùng Lạng Châu. Rồi tên bắn như mưa, những tên tẩm thuốc độc chết người. Và lửa cháy rực hồng, đốt dần những trạm gác. Sáng ra, quân Tống đi sục sạo khắp vùng chẳng bắt được một ai. Nhưng những toán lẻ đi tuần lại bỗng nhiên mất hút. Tìm ra, thì đã thấy chết hết. Quân Tống sợ lắm, gọi Phúc là Thiên thần động Giáp.
Hoàng tử Hoằng Chân và Linh Lang
https://thuviensach.vn
au trận thất bại ở bến đò Như Nguyệt, Quách Quỳ hết mong chọc thủng phòng tuyến của ta một cách bất ngờ, đành chịu đóng
S
quân đợi thuỷ binh đến đón qua sông. Chờ mãi sốt ruột, đã không có lương để đóng binh lâu, lại nhớ đến lời căn dặn của vua Tống “... khi thâm nhập vào cõi chúng(3), ta phải đánh cho
chóng được”. Quách Quỳ liều đóng bè lớn đổ quân sang bờ nam chuyến nữa. Nhưng đạo quân qua sông phần bị quân ta tiêu diệt, phần đầu hàng, hoàn toàn tan vỡ. Quách Quỳ chán nản, đành chôn chân ở bờ bắc, đợi thuyền. Giữa lúc ấy, thám tử báo về:
- Có đoàn thuyền từ phía đông tiến lại!
Quách Quỳ mừng lắm, tưởng cánh thuỷ quân của Hoà Mân và Dương Tùng Tiên đã vào hợp tiến, vội lên xem. Đúng là thuyền thật. Quân đông hàng vạn. Nhưng là quân của Đại Việt do hoàng tử Hoằng Chân chỉ huy đang reo hò thách đánh! Quách Quỳ thất vọng, lui về bản doanh. Lại sợ mắc mưu của ta, càng không dám nghĩ đến chuyện tấn công nữa, y ra lệnh: “Ai bàn đánh sẽ bị chém!”.
Nắm được tình hình địch đã nao núng, ta quyết định phản công. Theo kế hoạch của Lý Thường Kiệt, thuỷ quân của Hoằng Chân sẽ từ Vạn Xuân ngược sông Cầu đổ bộ lên bờ bắc, đánh vào trận tuyến phía đông của địch, nhằm hút đại quân chúng về phía ấy, để quân ta vượt sông tấn công vào doanh trại chính.
Một đêm tháng Giêng năm Đinh Tỵ (1077), doanh trại Tống ở bờ bắc sông Kháo Túc (quãng sông Cầu gần núi Nham Biền), chìm trong bóng đêm nặng nề. Bỗng có tiếng hò reo như sấm dậy, tiếng nước réo như lũ dâng. Quân canh hốt hoảng nhìn ra. Lờ mờ trên nền sáng mặt sông, hàng trăm chiến thuyền cỡ lớn đã cập bờ, kín đặc cả một quãng. Hàng ngàn quân Đại Việt có tượng binh dẫn đầu đang rẽ nước ùa lên. Giặc không kịp trở tay. Doanh trại bị đốt.
https://thuviensach.vn
Ánh lửa soi rõ trận địa: chỗ nào cũng thấy quân Đại Việt! Giặc nao núng: phần bị chết, phần bị bắt, tan vỡ dần. Đám tàn quân phải mở một đường máu, quay đầu tháo chạy. Quân ta hò nhau đuổi theo. Trời sáng dần. Ánh sáng ban mai soi rõ bóng Hoằng Chân, theo sau có hoàng tử Chiêu Văn, đang trên mình voi phất cờ hô quân tiến tới.
Tin trận tuyến phía Đông bị phá vỡ làm Quách Quỳ hốt hoảng. Y vội cùng viên phó đô tổng quân Yên Đạt dốc một nửa lực lượng tinh nhuệ nhất là kị binh đi đối phó. Lời dặn các tướng Trương Thế Cự và Vương Mẫn giữ 5.000 quân kị còn lại:
- Hễ thấy ta bất lợi, phải kíp đem số tinh binh kia ứng cứu!
Bấy giờ, quân Hoằng Chân, Chiêu Văn đã vượt khỏi núi Nham Biền đang tiến về vùng đất bằng phía tây, nơi đóng đại doanh quân Tống. Quách Quỳ, Yên Đạt dẫn kị binh tới, liều chết xông vào cản phá. Trận đánh xảy ra dữ dội. Quân hai hoàng tử tuy đông, dũng khí có thừa, nhưng lại quân thuỷ, nên không giỏi đánh bộ. Quân ta lại vừa trải qua một trận chiến đấu suốt đêm và phải tiếp tục đuổi đánh liền mấy chục dặm dài không nghỉ, nên có phần mỏi mệt. Còn quân kị của Tống thì toàn là thổ dân các thảo nguyên phương Bắc giỏi nghề đánh ngựa, lại thạo đánh ở chỗ bằng. Quách Quỳ và Yên Đạt là những tướng dạn dày ở chiến trường Liêu Hạ nên rất sở trường về lối đánh ấy. Thế trận bất lợi cho ta. Nhưng Hoằng Chân và các tướng vẫn xông xáo cầm quân chống cự quyết liệt. Trận đánh giằng co. Tổn thất hai bên mỗi lúc một nặng. Quách Quỳ, Yên Đạt đã có phần nao núng. Giữa lúc ấy, bọn Trương Thế Cự và Vương Mẫn kịp dốc kị binh đến tiếp chiến. Thế là tinh binh giặc đã bị hút cả về hướng này. Nhiệm vụ mũi tiến của Hoằng Chân đã hoàn thành. Hoàng tử ra lệnh rút lui. Hoằng Chân, Chiêu Văn đi đoạn hậu chặn bước tiến của kị binh giặc, để quân ta rút dần xuống thuyền qua sông. Những chiếc thuyền chiến
https://thuviensach.vn
đồ sộ chở đến trăm người từ từ rời bến trở về bờ nam an toàn. Nhìn cảnh ấy, Quách Quỳ tức điên người. Một mặt, y sai các tướng Giới Định, Đặng Trung điều ngay máy bắn đá đến bờ sông để bắn đắm thuyền chẹn lối về của quân ta. Mặt khác, y cùng bọn Yên Đạt, Trương Thế Cự, Vương Mẫn... hô quân thúc ngựa xông vào giáp chiến quyết bức hàng Hoằng Chân. Tình thế thật hiểm nghèo. Nhưng, Hoằng Chân nhất định chống giặc đến cùng. Trên mình voi, tiếng hoàng tử sang sảng:
- Hỡi quân cảm tử, hãy kết chặt đội ngũ cản giặc!
Theo lệnh chủ tướng, năm trăm quân của Hoằng Chân thoắt một cái đã dàn hàng ngang thành một bức thành sống vững chắc. Từ khối người có tổ chức quy củ ấy, từng đợt mưa tên thuốc độc lao về phía trước. Khối người cứ vừa bắn vừa nhịp nhàng lùi về phía sông. Quách Quỳ càng căm tức lồng lộn. Vừa lúc ấy, có thám tử của y rạp mình trên lưng ngựa xộc từ phía sau lại. Tên này mặt mũi còn đầy vẻ kinh hoàng, nói không ra hơi:
- Thưa... Lý... cướp... trại...!
Quách Quỳ chợt vỡ lẽ, biết bị trúng kế, chỉ kịp kêu “Thôi chết!”, rồi hô bọn Yên Đạt dẫn quân kị lập tức quay về bản doanh.
https://thuviensach.vn
Chỉ để bọn Giới Định, Đặng Trung ở lại. Nhân khi giặc bối rối, quân Hoằng Chân rút gọn xuống các chiến thuyền và rời bến. Không ngờ, lúc ấy, bọn Giới Định, Đặng Trung tới kịp. Đội quân bắn đá của chúng cấp tốc dàn suốt dọc bờ cao của quãng sông Khao Túc không rộng lắm. Những tảng đá nặng được những cần tre bật mạnh, gieo xuống đoàn thuyền của Hoằng Chân như mưa rào. Thuyền ta không phòng bị kịp, tan vỡ nhiều. Soái thuyền của Hoằng Chân cũng bị trúng nhiều tảng đá lớn. Nước ùa vào khoang. Thuyền chao đảo dữ dội. Nhưng những bóng thuỷ quân cận vệ riêng của Hoằng Chân vẫn sừng sững trên mặt thuyền. Không một ai bỏ thuyền nhảy xuống sông trốn chạy. Cũng không một người nào bối rối kinh hoàng. Tất cả vẫn sừng sững như những pho tượng đồng. Tay cầm vững kim bài, tay vũ khí, họ đứng đó. Chủ tướng Hoằng Chân cũng đứng đó, bình thản nhìn dòng sông Khao Túc. Soái thuyền chìm dần. Nước ngập chân họ, lên cổ, lên đầu. Họ vẫn đứng đó với chiến thuyền.
Nhìn cảnh tượng ấy, lại nhớ đến nỗi lo ngại của vua Tống: “Người Giao giỏi thuỷ chiến, có gan, liều chết”, lũ Giới Định, Đặng Trung thốt giật mình kinh sợ bảo nhau:
- Thật không thể khinh nhờn!
Cảnh tượng Hoằng Chân oanh liệt hi sinh đã trào lên trong lòng người dân vùng Thủ Lệ, Bồng Lai (Từ Liêm, Hà Nội) một niềm tự hào sôi nổi. Trong trí tưởng tượng mang màu sắc huyền thoại của người dân vùng đó - tương truyền là quê ngoại của Hoằng Chân - thì Hoằng Chân chính là Linh Lang, con vị thuỷ thần ở hồ Dâm Đàm. Biết nước nhà sắp có tai biến. Linh Lang giáng sinh làm con vua Lý Thái Tông để giúp nhà vua cứu nước. Giặc đến xâm lăng, Linh Lang nói với nhà vua:
https://thuviensach.vn
- Xin vua cha cho một lá cờ đỏ cán dài và một con voi. Con sẽ dẹp yên giặc.
Khi cờ, voi đưa đến làng Thủ Lệ, Bồng Lai, nơi ông hoàng ở, Linh Lang cầm cờ đỏ chỉ voi, voi liền phục xuống. Linh Lang cưỡi lên mình voi, cầm cờ ra trận. Voi chạy như bay. Tay ông hoàng vung
cờ phất tới, chỉ giặc giặc tan. Xong nạn nước, voi lại đưa ông hoàng về chốn cũ. Linh Lang hoá thành giao long xuống nước biến mất. Để tưởng nhớ người có công cứu nước, vua sai lập đền thờ nơi Linh Lang trèo lên mình voi ra trận.
Gọi đền Voi Phục là vì thế.
Lý Thường Kiệt
V
ào buổi đầu thời đại độc lập với ba vua triều Lý, có một vị anh hùng dân tộc, đã dày công bảo vệ và vun đắp nước ta suốt gần cả thế kỉ 11, làm vẻ vang cho nước Đại Việt. Người đó là Lý Thường Kiệt.
https://thuviensach.vn
RÈN LUYỆN TÀI NĂNG, LÀM VỆC NƯỚC
Bấy giờ là vào năm thứ chín ngày thành lập kinh thành Thăng Long. Năm ấy (1019), trong căn nhà của một quan võ nhỏ ở phường Thái Hoà (phía núi Cung mé trên vườn Bách Thảo, Hà Nội hiện nay), có tiếng trẻ sơ sinh chào đời. Tin lan nhanh khắp phường:
- Bà họ Hàn sinh trai đầu lòng!
- Thằng bé con ông An Ngữ nom đến khôi ngô!...
Hai ông bà mừng lắm, đặt tên là Ngô Tuấn. Tuấn lớn nhanh lại có sức khoẻ hơn người. Năm lên bảy tuổi, hai ông bà đưa Tuấn đến một vị tôn thất nhà Lý là Lý Công Ẩn đang mở trường dạy học ở làng Bái Ân xin làm môn đệ. Ngày, đến trường học chữ, tối về, cha lại hết lòng dạy bảo võ nghệ, hướng dẫn đọc sách binh thư, Tuấn rất sáng dạ, học đâu nhớ đấy. Nhưng xem ra, chú bé có ý say mê nghề võ hơn.
Khoảng niên hiệu Thiên Thành đời Lý Thái Tông, ông An Ngữ tạm biệt vợ con đi tuần vùng biên giới phía nam, thuộc Thanh Hoá. Ngô Tuấn vâng lời cha dặn, ngày đêm một mình ôn văn luyện võ. Chẳng ngờ ít lâu sau, một hôm tin sét đánh đưa về: ông An Ngữ lâm bệnh đã qua đời. Năm ấy, Ngô Tuấn mười ba tuổi. Nhớ cha, Tuấn thương khóc ngày đêm không dứt. Người chồng của cô là Tạ Đức thấy thế mủi lòng. Lại sẵn bụng mến cháu, ông mới đến dỗ dành an ủi và đem về nuôi cho ăn học. Ông Tạ Đức cũng là người giỏi nghề binh nên tiếp tục thay An Ngữ truyền nghề cho cháu. Ngày ngày, sau hai buổi học chữ ở Bái Ân về, ông dạy Tuấn bắn cung, cưỡi ngựa, lập doanh, bày trận. Đêm đêm, ông giảng giải cho Tuấn các sách binh thư Tôn, Ngô. Tuấn học rất nhanh, thông minh lạ thường, ông Tạ Đức càng sinh lòng yêu quý. Một hôm, ông hỏi Ngô Tuấn:
https://thuviensach.vn
- Thầy Ẩn thường khen cháu sáng dạ hơn người. Nhưng xem ra, dường như cháu không ham nghề văn học lắm, mà chỉ chuộng vũ nghệ. Thế mai kia cháu định làm gì?
Tuấn rắn rỏi thưa:
- Về văn học, biết chữ để kí tên là đủ. Về vũ học, cháu muốn theo Vệ Thanh, Hoắc Khứ(4) lo đi xa vạn dặm lập công, lấy được ấn phong hầu để làm vẻ vang cho cha mẹ. Đó là sở nguyện.
Tạ Đức biết là cháu quá say mê nghề võ mà nói vậy, chứ thật ra, Ngô Tuấn rất thông hiểu văn chương, nho học. Cho nên, ông không giận, vẫn khen Tuấn là người có chí khí.
Năm mười tám tuổi, mẹ mất (1036). Ngô Tuấn cùng em lo đủ các lễ mai táng. Trong tang lễ, Tuấn tự tay mình làm lấy mọi việc, rất chu đáo. Người đời đều khen Tuấn là con chí hiếu. Lúc hết tang, Ngô Tuấn được bổ chức kị mã hiệu uý là một chức võ quan nhỏ trong đội quân cưỡi ngựa. Được trao công việc, Ngô Tuấn ra sức tập rèn. Tiếng tăm chàng kị mã hiệu uý trẻ tuổi, khôi ngô lọt đến tai vua. Lý Thái Tông cho vời Ngô Tuấn vào cung ban thưởng và bổ vào ngạch thị vệ, được ở bên vua để hầu hạ. Năm ấy, Ngô Tuấn 23 tuổi. Vốn tính siêng năng, cần mẫn lại hết lòng trung thành. Ngô
https://thuviensach.vn
Tuấn càng được vua tin yêu, thăng thưởng nhiều lần lên đến chức Đô tri coi tất cả mọi việc trong cung. Vua lại cho đổi sang họ vua. Từ ấy, Ngô Tuấn mang tên Lý Thường Kiệt. Chưa đầy 12 năm sau ngày vào cung, tiếng tăm Lý Thường Kiệt nổi tiếng nội đình. Đến năm 36 tuổi, Lý Thường Kiệt lại được thăng chức Hiệu uý, một chức võ quan cao cấp. Ít lâu sau, thăng chức Thái bảo đứng hàng thứ tư trong triều. Xung quanh có người hỏi ông vì sao ông mau được cất nhắc. Ông nói:
- Ngày ngày hầu cận bên vua, hiến việc tốt, can việc xấu, giúp vua hết mọi cách, tất sẽ được nhà vua soi xét.
Năm 1061, miền Thanh Nghệ không yên. Vua Lý Thánh Tông (lên ngôi năm 1054) vời ông đến ướm hỏi:
- Nay cõi tây nam, giặc vào quấy rối. Kẻ cầm đầu thổ dân nhẹ dạ nghe theo nên cố ý chống lại triều đình. Khanh là người siêng năng, cẩn thận, lại có lòng khoan dung rộng lượng. Trẫm muốn khanh vào đó, tuỳ nghi mà hành sự sao cho miền biên viễn sớm được yên dân. Ý khanh thế nào?
Lý Thường Kiệt xin vâng lệnh và lập tức lên đường đi thanh tra. Đường lên vùng núi Thanh Nghệ đã hiểm trở, thủ lĩnh các dân tộc ở đấy lại đang nổi loạn. Dấn thân vào chốn đó, nếu thiếu khôn ngoan thật khó có ngày về. Những người đi theo Lý Thường Kiệt đều có ý lo sợ. Riêng ông, ông vẫn ung dung, bình thản đi đến khắp các mường động, gặp các thủ lĩnh và cư dân của họ. Khôn khéo, khoan dung, ông lựa lời phủ dụ. Họ nghe theo. Rối loạn êm dần. Cho nên, chỉ một thời gian sau, nhà vua rất đẹp lòng khi nhận được tin:
- Tất cả năm châu, sáu huyện, ba nguồn, hai mươi bốn động đều quy phục và đã yên ổn.
https://thuviensach.vn
Khi ấy, Lý Thường Kiệt 43 tuổi.
NGỒI YÊN ĐỢI GIẶC KHÔNG BẰNG ĐEM QUÂN RA TRƯỚC
Từ lâu, nhà Tống vẫn có ý thôn tính nước ta. Đến năm Nhâm Tý (1072), thấy Lý Thánh Tông mới mất, vua Nhân Tông Càn Đức lên ngôi mới bảy tuổi, tể tướng nhà Tống mừng lắm, quả quyết: “Muốn đánh Giao Chỉ thì chỉ cần một hai vạn tinh binh, năm sáu tướng vừa vừa là có thể làm xong chuyện!”. Và, vua tôi nhà Tống ráo riết sửa soạn việc động binh.
Cho đến cuối năm Ất Mão (1075), ý đồ xâm lược đã lộ ra rõ ràng. Viên quan coi Quế Châu kiêm kinh lược sứ Quảng Tây là Lưu Di đã tăng cường xong binh lực, tích trữ lương thảo, đóng chiến hạm, tịch thu thuyền để tập thuỷ binh. Thành Ung Châu đã được xây đắp thêm rất kiên cố, do viên danh tướng Tô Giám trấn giữ. Và Khâm Châu, Liêm Châu đã đều biến thành những quân cảng trọng yếu, đồn trại san sát. Nhà Tống còn đem tiền bạc, chức tước mua chuộc dụ dỗ được một số tù trưởng ở biên giới phía bắc, sẵn sàng mở cửa cho Tống vào nước ta. Ở phía nam, Tống phái sứ giả xuống dụ Chăm Pa để hẹn cùng hợp binh tiến đánh... Tình hình thật nghiêm trọng. Nhưng nguy cơ khẩn cấp ấy vẫn không làm vị phụ quốc Thái Uý Lý Thường Kiệt bối rối, tuy ông mới lên nắm mọi quyền binh trong triều được vài ba năm. Năm ấy, ông vẫn tâu vua xin mở khoa thi Nho học đầu tiên ở nước ta, để khuyến khích và tuyển dụng nhân tài. Ông xin vua hạ chiếu vời Lý Đạo Thành về làm Thái phó để cùng chung gánh việc nước; lại xin cho phép những công thần 80 tuổi mỗi khi vào chầu được chống gậy và ngồi ghế, chứ không phải quỳ lạy. Còn các tù trưởng ở bắc thuỳ, ông lấy nghĩa tình mà chiêu dụ, khiến họ sớm trở thành những phên giậu vững chắc ở chốn biên cương. Ung dung tin tưởng, ông quyết định:
https://thuviensach.vn
- Ngồi yên đợi giặc, không bằng đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của giặc.
∗ ∗ ∗
Cuối tháng Một Ất Mão (12-1075). Cửa biển Vĩnh An (Móng Cái, Quảng Ninh). Đêm xuống đã lâu mà soái hạm thuỷ quân Đại Việt còn sáng ánh đèn. Qua cửa sổ có chấn song buông rèm hoa, bộ tư lệnh đang họp bàn. Tiếng Hoàng tử Hoằng Chân thưa trình nghe rành rọt:
- Đội tượng binh và kị binh ta theo đường bộ chiều nay đã đến, hiện đang hạ trại ở mé núi phía tây châu Vĩnh An. Hai quân đều sung sức, sẵn sàng đợi lệnh tướng quân.
Hoàng tử Chiêu Văn tiếp:
- Thám tử vừa cho biết: đến giờ, quân Tống ở các trại Như Hồng, Như Tích, Đề Trạo và các cảng Khâm, Liêm vẫn không hay biết gì về đại quân ta đã đến đây. Chắc chắn giặc vẫn chú tâm đến cánh sơn binh của Lưu Kỷ, Tông Đản, Hoàng Kim Mãn, Vi Thủ An và phò mã Thân Cảnh Phúc đang chia thành nhiều mũi từ phía tây hợp tiến đến Ung Châu. Thời cơ đã đến, xin tướng quân cho lệnh phát binh.
Lý Thường Kiệt gật đầu:
- Sớm mai, ta sẽ xuất quân!
Canh năm, trời đang còn tối. Những chiến thuyền Đại Việt lù lù như dãy núi nhỏ bỗng chuyển động quay mũi rẽ sóng ra khơi. Chiếc to chứa đến hai, ba trăm quân. Chiếc nhỏ cũng phải một trăm. Có những chiếc chở cả thớt voi, chở từng đội quân kị. Tất cả lặng lẽ họp thành đội ngũ. Những cánh buồm giương lên. Những
https://thuviensach.vn
mái chèo nhịp nhàng khua nước, nhắm hướng bắc lao đi. Thoáng một lát, cả đoàn hạm thuyền khổng lồ chở đến năm, sáu vạn quân đã khuất dạng trên biển cả.
Một ngày trôi qua. Đêm xuống. Rồi mờ sáng hôm sau. Tin quân bộ Đại Việt từ châu Vĩnh An vượt biên sang đánh tan các trại Như Hồng, Như Tích, Đề Trạo và đang tiến sâu lên nữa làm quân Tống ở Khâm Châu xôn xao. Nhưng tướng Trần Vĩnh Thái vẫn chưa tin, cứ tiếp tục rượu chè thâu đêm. Bỗng một tiếng pháo lệnh nổ vang trời làm y giật mình đánh rơi chén rượu trên tay. Y chếnh choáng leo lên vọng lâu, trông ra cảng. Chao ôi, những chiến thuyền khổng lồ kia ở đâu đến đang dàn kín đặc cả cửa biển? Định thần nhìn kĩ, thì ra là quân Đại Việt! Cờ đề chữ “Đại Việt” rành rành kia thôi. Lại cả cờ hiệu lồ lộ chữ “Lý”. Chắc là soái hạm của Lý Thường Kiệt! Y bủn nhủn cả chân tay, vội tụt xuống, hò quân chống giữ. Nhưng muộn rồi! Bên ngoài, tiếng reo của quân Việt vang lên như sấm. Từ các chiến thuyền, những chiếc ván cầu vươn dài mở đường cho quân ta đổ bộ. Tượng binh, kị binh, bộ binh rầm rập đạp nước xông lên. Quân tướng giặc khiếp sợ, không còn hồn vía nào chống cự, tan tác hết. Đến trưa, Châu Khâm hoàn toàn thất thủ. Quân ta yết bảng an dân và tiếp tục triệt phá sạch các căn cứ quân sự của địch.
Trong khi đó, một cánh quân khác, do Lý Kế Nguyên cầm đầu cũng nhằm hướng Châu Liêm tiến phát. Tướng chỉ huy ở quân cảng này là Lỗ Khánh Tôn sớm nhận được tin sét đánh về việc Châu Khâm nên cũng kịp phòng bị ít nhiều. Biết quân ta mạnh, không dám ứng chiến, y lui vào thành cố thủ để chờ viện binh. Quân Lý Kế Nguyên tấn công quyết liệt. Cuối cùng, ba ngày sau trận Khâm Châu, đến lượt Liêm Châu cũng thất thủ. Thừa thắng và cũng để chặn đường quân Tống từ phía đông tiến sang cứu Ung Châu, đồng thời bảo vệ hai đầu cầu Khâm, Liêm để hạm thuyền
https://thuviensach.vn
ta sau này còn đưa quân rút về, Lý Thường Kiệt lệnh cho Lý Kế Nguyên tiến lên đông bắc, chiếm Châu Bạch, Châu Dung.
Thế là chỉ khoảng hai tháng trời, cả một vành đai san sát đồn trại mà giặc tốn công chuẩn bị để xâm lược nước ta, kéo dài đến hai trăm dặm, suốt từ trại Hoàng Sơn phía tây đến Châu Dung phía đông... lần lượt bị quân ta triệt phá. Từ vành đai ấy, quân ta đang khép chặt Ung Châu.
∗ ∗ ∗
Mùa xuân năm Bính Thìn (1076). Mồng Bốn Tết. Tin chiến thắng trận Côn Lôn Quan làm quân ta nức lòng. Số là, nghe tin Ung Châu bị vây khốn, lại nhận được thư cầu viện của Tô Giám, quan coi Quế Châu là Lưu Di vội sai viên đô giám Trương Thủ Tiết đem quân đi cứu. Tiết sợ thanh thế quân ta, cứ dùng dằng, quân đi quanh quẩn mua đường. Sau, cực chẳng đã, y đành chốt quân ở ải Côn Lôn cách thành Ung chừng tám mươi dặm để nghe ngóng. Lập tức, Lý Thường Kiệt phái một đạo binh đi ngay trong ngày mồng Hai Tết. Quân ta bất ngờ xuất hiện giữa ngày xuân làm giặc khiếp đảm, xô đẩy nhau mà chạy. Trương Thủ Tiết và các tuỳ tướng của y không chống đỡ nổi, đều tử trận... Thế nhưng, thành Ung kia - mục tiêu chính của cuộc tiến quân tự vệ này - vẫn lù lù trước mắt quân ta như thách thức.
Sau thất bại ở Côn Lôn Quan, tuy hết hi vọng ở cứu binh, Tô Giám vẫn liều chết cố thủ. Lý Thường Kiệt đã đem máy bắn đá để áp chế giặc, cho quân ta dùng chiến thuật vận thế công thành. Những tảng đá to nặng như cái cối vun vút lao xuống như mưa. Đá rơi phải cây: cây gãy; rơi trúng nhà: nhà đổ. Tưởng vậy thì chẳng giặc nào dám thò đầu lên mặt thành. Chẳng ngờ, khi ông cho tù binh bắc thang dài leo lên mở đường, Tô Giám đã thúc quân che mộc, dùng hoả tiễn(5) đốt sạch thang, gây thiệt hại lớn cho người và voi ta.
https://thuviensach.vn
Tên độc ta mang theo, ông đã cho bắc giàn cao rồi bất ngờ từ bốn phía bắn vào. Người ngựa giặc chết đã lắm. Ấy thế mà, khi phát hiện nhân lúc bắn tên, những toán quân ta bí mật đào đường hầm có lót da cho kín nước để độn thổ vào thành, Tô Giám vẫn ép quân xông ra phóng hoả chặn lại. Ông cũng đã dùng cả phép hoả công. Những tên có buộc mồi cháy, những máy bắn những bọc nhựa thông đã châm lửa... liên tiếp như sao sa đổ vào thành. Doanh trại giặc bén lửa cháy nghi ngút. Trong thành lại khan không đủ nước để cứu chữa nên lửa cứ dai dẳng ngày đêm cháy mãi, thiêu mất nhiều kho lương thảo. Vậy mà Tô Giám vẫn ra sức chống đỡ. Trước sau đã hơn một tháng rồi, vẫn không phân thắng bại...
Bấy giờ là vào cuối tháng Giêng năm Bính Thìn. Trời đã xế chiều. Rời vọng lâu quan sát Ung thành, Lý Thường Kiệt quay về trướng hổ, nét mặt đăm chiêu. Sáng nay, thám tử ta vừa cho biết: Tể tướng Vương An Thạch định nhân lúc quân ta chưa hạ được Ung thành, trong nước bỏ trống, sẽ hành động nhanh chóng đánh úp hậu phương ta. Như thế, y không cần đánh quân ta đang hành quân trên đất Tống mà quân ta cũng bị tan. Ý đồ này đã được Tống Thần Tông ưng thuận. Vua Tống đã chọn Triệu Tiết làm chủ tướng và đã ra tờ Thảo Giao Chỉ chiếu(6), chỉ còn chờ đủ quân là sẽ phát binh. Rõ ràng tình thế nhùng nhằng này ở Ung Châu mà kéo dài nữa, e bất lợi cho ta. Lý Thường Kiệt vừa đi vừa trầm ngâm suy tính. Bất giác, ông gật gù như vừa tìm ra điều gì đắc ý. Phải rồi: Ung mạnh vì thành Ung cao; Giám cự được vì Giám dựa vào phép hoả. Lửa đốt được thang tre, da thú. Nhưng hoả không chế được thổ: bắc thang đất mà vào thì lửa đốt làm sao! Thành cao, ta đắp đất cho cao bằng thành. Bốn mặt nhất loạt cùng vào, Giám dù có ba đầu sáu tay cũng không sao cự được! Nét mặt rạng rỡ, ông bước vào trướng hổ. Các tướng lĩnh đã tề tựu đông đủ, chờ ông. Ông nói cho mọi người biết ý của mình, rồi ông gọi từng người đến trao nhiệm vụ. Tướng lĩnh hớn hở đi ngay.
https://thuviensach.vn
∗ ∗ ∗
Đêm 22 tháng Giêng, đêm hạ tuần lại đầy mây mùa nên tối sẩm. Xung quanh thành Ung lố nhố những bóng người dày đặc. Họ truyền cho nhau những bao bì đầy đất, nhẹ nhàng xếp áp chân thành. Hàng vạn bao đất lặng lẽ như mối xông, ùn đất lên mỗi lúc một cao. Tan canh ba, vành đất ấy, chân đánh bậc thoai thoải đã cao đến vài trượng, mấp mé mặt thành. Bấy giờ quân Tống mới giật mình vỡ chuyện, Tô Giám vừa giận vừa sợ, vội thét quân lên hết mặt thành. Hoả tiễn của Giám vạch những luống đỏ rực cuống quýt lao xuống. Rồi những chùm tên từ cung thần tý(7) bắn ra loạn xạ, những tảng đá hộc thẳng cánh giáng xuống điên cuồng. Nhưng đã muộn! Những quả cầu thông bật sáng, những tên có mồi cháy nối đuôi nhau từ bốn phía bên ngoài bắn cầu vồng đổ lửa vào thành. Chỗ này cháy. Chỗ kia cháy. Cả thành Ung như một hòn đảo lửa rung chuyển trong biển người vây quanh đang dâng lên dữ dội. Đi đầu là những tấm mộc to bằng hai ba cánh phản, làm bình phong cản phá hết đá tên lao xuống, mở đường cho những toán cảm tử Đại Việt xông lên mặt thành giáp chiến. Rồi kị binh, tượng binh tầng tầng lớp lớp ào tới, kết thành một cái thòng lọng khổng lồ thít chặt lấy thành Ung. Giặc cố sức chống đỡ, nhưng không lại, tan tác dần. Tô Giám biết thua, đã nhảy vào lửa tự vẫn. Và, Ung Châu thất thủ sau 42 ngày đêm bị công phá ác liệt. Ngay ngày hôm đó, ngày 23 tháng Giêng (1-3-1076), Lý Thường Kiệt ra lệnh phá trụi, san phẳng thành Ung. Ông lại sai quân thu nhặt đá, đánh rọ đem lấp sông Hữu Giang, ngăn quân Tống đổ xuống cứu viện.
Tin mất Ung Châu, tin quân Đại Việt tiến đánh Tân Châu và viên tướng trấn giữ là Cổ Cắng Lặc sợ quá bỏ thành chạy trốn... như sét đánh dồn dập xuống đầu vua tôi nhà Tống. Vua Tống hốt hoảng điều quân đi chống cự. Thế là, cái mộng đánh úp hậu
https://thuviensach.vn
phương ta đã sụp đổ tan tành. Tể tướng họ Vương ngửa mặt than rằng:
- Mất Ung Châu còn bàn gì chuyện ấy nữa!
Vài tháng sau, y phải ngậm ngùi xin thôi chức.
Mục tiêu triệt phá tận gốc lò lửa chiến tranh xâm lược đã hoàn thành. Tháng Ba năm ấy, Lý Thường Kiệt ra lệnh rút quân về nước.
Một sáng cuối xuân. Nắng ấm. Cả Thăng Long đổ ra bến Đông Bộ Đầu đón quân ta chiến thắng trở về. Cả nước Đại Việt vừa ca khúc khải hoàn, vừa bắt tay ngay vào việc chuẩn bị chống giặc.
THƠ ĐUỔI GIẶC
Cuối năm Ất Mão (1076), 10 vạn bộ binh, 1 vạn ngựa, 20 vạn phu của phong kiến Tống do những viên tướng lừng danh binh Liêu như Quách Quỳ, Triệu Tiết chỉ huy, ào ạt kéo vào xâm lược nước ta để phục thù. Lực lượng biên phòng ta chặn đánh quyết liệt nhưng không cản nổi. Ải Quyết Lý mất. Quách Quỳ từ Quyết Lý, vòng về phía tây, đi tắt qua núi Đâu Đỉnh (Bắc Sơn) xuống sông Cầu bỏ không qua ải Giáp Khẩu. Quân ta ở Giáp Khẩu bị bọc lưng, đành phải tìm đường rút về hợp với đại quân ở phía sau. Thế là hai phòng tuyến Quyết Lý, Giáp Khẩu đã vỡ. Phòng tuyến sông Cầu sẽ là trận địa sống còn của quân dân Đại Việt chuyến này.
https://thuviensach.vn
Bấy giờ là cuối tháng Chạp năm Bính Thìn (1077). Cả chục vạn quân kị, bộ Tống dàn suốt ngót trăm dặm trên bờ bắc sông Cầu, từ bến đò Như Nguyệt (bến đò Ngọt) đến chân núi Nham Biền. Qua con sông không rộng lắm. Quách Quỳ và các tướng nhìn rõ phòng tuyến Lý Thường Kiệt. Đê được tôn cao như bức thành. Từ mép nước lên mặt đê, mấy tầng cọc tre nhọn hoắt, tua tủa như lông nhím chĩa xuống mặt sông, dài đến vài trăm dặm, từ chân núi Tam Đảo tới Nham Biền. Thuyền Lý đóng dọc bờ nam và tập trung ở Vạn Xuân (Phả Lại) sẵn sàng thuỷ chiến, không cho Tống qua sông, đổ bộ lên thành.
Quách Quỳ không có thuyền. Thuỷ quân của Hoà Mân và Dương Tùng Tiên không thấy vào hợp tiến. Quỳ đành đóng quân nằm đợi. Sốt ruột, hắn mới bảo tướng sĩ:
- Đại quân ta vượt vạn dặm. Giờ đã đến sông Phú Lương (sông Cầu). Giao Châu(8) còn cách 30 dặm(9). Chỉ vì vướng con sông mà không tiến được!
Tướng chỉ huy cánh phải là Miêu Lý hiến kế:
https://thuviensach.vn
- Viên châu mục Hoàng Kim Mãn mách rằng: Đường qua bến Như Nguyệt đến Giao Châu rất gần. Giặc ở Giáp Khẩu đã trốn đi rồi. Không lo bị đánh sau lưng. Xin nhân cơ hội, cho quân qua sông gấp.
Quách Quỳ miễn cưỡng bằng lòng.
Miêu Lý sai bắc cầu phao, hẹn với bọn Vương Tiến, Bình Viễn, Lưu Mân rằng:
- Ta dẫn quân kị tiên phong sang trước, hễ lên được bờ nam, các tướng phải kịp đốc xuất hậu quân theo ngay.
Lợi dụng đêm tối, Miêu Lý có hàng tướng Hoàng Kim Mãn dẫn đường đem mấy trăm quân kị vượt sông. Người ngậm tăm, ngựa tháo nhạc, Miêu Lý cho thám tử đi trước lén nhổ rào. Rào quang một quãng. Quân kị của Miêu Lý chồm lên. Một cuộc ác chiến diễn ra dữ dội. Gươm giáo vung mạnh. Tên bắn. Lao phóng. Tiếng hò reo. Tiếng kêu thét ầm ầm như chợ vỡ. Quân ta bị đánh bất ngờ. Phải lui dần. Cuối cùng quân Miêu Lý chọc thủng hẳn một lối, nhằm thẳng hướng Thăng Long lao đi, kị binh là quân tinh nhuệ của Tống, vốn rất quen chiến trường Liêu Hạ nhiều cao nguyên, đồng cỏ, giờ gặp đồng bằng nên tung hoành dữ lắm. Những toán đi đầu đã tiến vào vùng Kinh Bắc của ta. Chỉ còn ít dặm đường nữa, ngựa Tống sẽ uống đục dòng Nhị Thuỷ. Tình hình khẩn cấp.
Vừa hay, một phát pháo lệnh nổ vang. Miêu Lý ghìm cương, hô quân dừng lại nghe ngóng. Đằng trước, một đám bụi mù trời. Rồi một đoàn quân hiện ra. Phất phới đi đầu là lá cờ soái đề chữ “Lý” trên mình voi của Lý Thường Kiệt. Đại quân ta từ Thiên Đức có tượng binh, kị binh đi tiên phong rầm rộ tiến tới. Miêu Lý ngoái đầu nhìn lại. Thấy hậu quân chưa theo kịp, biết không địch nổi, đành
https://thuviensach.vn
quay ngựa về Như Nguyệt. Đến nơi thấy câu phao bị cắt thì vừa giận, vừa sợ, bèn trụ lại, liều chết cố thủ.
Số là, khi Miêu Lý qua sông, chiếm được bờ nam rồi lao về Thăng Long, biết thế nguy, thuỷ quân ta đã cảm tử xông lên đánh cầu, cố chặn đường quân Tống. Các tướng Vương Tiến, Bình Viễn, Lưu Mân hốt hoảng, sợ quân ta dùng cầu phao đổ bộ sang bờ bắc, vội cắt luôn.
Lại nói về Lý Thường Kiệt. Quân Miêu Lý, tuy đã bị cản lại, nhưng vẫn cố thủ ở Như Nguyệt. Từ bờ bắc, những bè lớn chở hàng trăm quân Tống đang tìm mọi cách liều chết vượt sông sang tiếp ứng. Quân ta đã giao chiến kịch liệt. Song, mặt trận Như Nguyệt vẫn nguy ngập. Thăng Long vẫn bị uy hiếp nặng nề. Tình hình u ám đó khiến quân ta có người đã sinh ý nản lòng.
Tại soái phủ quân Việt, Lý Thường Kiệt họp các tướng lĩnh bàn kế lui giặc. Sau đó, Lý Thường Kiệt rút ra một tờ giấy hồng điều, trao cho các tướng. Họ đón lấy, truyền tay đọc: té ra một bài thơ tứ tuyệt in rõ nét chữ bay lượn mà sắc mạnh của chủ tướng. Tướng lĩnh đang phân vân, chưa rõ kế gì. Lý Thường Kiệt mới gọi mọi người lại gần, nói cho nghe.
Trời đêm, không trăng sao. Cả vùng Như Nguyệt im lìm trong bóng tối. Thình lình, trong thinh không khoảng đền thờ Trương Hát giội xuống những âm thanh nghe huyền bí lạ lùng. Tuy vậy, vẫn rõ lời, rành rọt:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
https://thuviensach.vn
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!
Nghĩa là:
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời.
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời!
Quân Tống phần lớn là dân binh từng khốn khổ vì tân pháp của Vương An Thạch. Số còn lại thì liền năm chinh chiến ở chiến trường Liêu Hạ. Nay Tết đến nơi mà còn bị đẩy vào nơi xa xôi, lam trướng nghìn trùng. Cảnh bệnh tật ốm đau, cảnh đầu rơi máu chảy
luôn bày trước mắt. Tiếng thơ kì lạ kia chợt dấy lên trong lòng quân giặc mối băn khoăn nghi hoặc về cái “sứ mệnh” của chúng ở đất Giao Chỉ này. Những âm thanh huyền bí đó của người Giao Chỉ, hay thiên thần hiện về báo trước tai hoạ sắp giáng xuống đầu chúng? Quân giặc bỗng giật mình kinh hoảng, bủn nhủn chân tay.
Giữa lúc đó, tiếng loa, tiếng trống của quân Đại Việt bất ngờ dậy lên ầm ầm như sấm động. Rồi những tiếng hò reo, tiếng thét giận dữ, những bước chân rầm rập rung trời chuyển đất như có thiên binh vạn mã đổ xuống. Hàng ngàn bó đuốc vụt bật hồng, sáng rực. Tiếng Lý Thường Kiệt sang sảng ra lệnh:
- Hỡi ba quân, kíp tiến mau! Quyết không đội trời chung với quân giặc.
Từ bốn phía, những thớt voi, những đoàn quân kị, những toán quân bộ Đại Việt rùng rùng xông tới. Tiếng thơ thần bí làm quân ta phấn khởi. Chủ tướng lại thân ra trận. Quân ta càng hăng, thanh
https://thuviensach.vn
thế càng lớn. Giặc bị bài thơ thần kia làm khiếp đảm lại vấp phải cuộc phản công bất ngờ, dữ dội, thì không còn hồn vía nào chống cự, vội vứt giáo, tìm đường tháo chạy. May lúc ấy, Quách Quỳ thấy thế nguy sai quân liều chết bắc cầu phao, gọi về. Miêu Lý chạy
thoát sang bờ bắc, nhưng quân lính chết chém, chết chìm nhiều vô kể. Một số bị bắt làm tù binh.
Trận ấy, quân ta đại thắng.
Voi Giao Chỉ, Vàng Quảng Nguyên H
ơn một tháng trời, quân Tống bị kìm chân trước phòng tuyến sông Cầu. Quách Quỳ thấy tiến lui đều khó. Lính mệt, tướng hoang mang. Nắm chắc thời cơ đó, Lý Thường
Kiệt cho sứ sang sông điều đình, mở lối thoát cho giặc rút lui. Như người sắp chết đuối vớ được cọc, Quách Quỳ vội vàng nhận lời giảng hoà, rút quân về nước.
https://thuviensach.vn
Một đêm đầu tháng 3 năm 1077, Quách Quỳ đột ngột hạ lệnh lui binh. Quân Tống hốt hoảng chen lấn nhau mà đi. Thế là cái mộng nhà vua Tống tha thiết trông ở Quỳ: “Sau khi bình định xong Giao Chỉ, hãy đặt thành quận huyện mà cai trị” đã tan thành mây khói. Vàng tốn 5.190.000 lạng. Quân đi 10 vạn, về chỉ còn 23.400. Một vạn ngựa lên đường, chỉ còn 3.174 con trở lại. 20 vạn phu, đã chết mất quá nửa; non nửa còn, đều ốm. Kiểm lại chỉ thấy cướp được vỏn vẹn có châu Quảng Nguyên, Tư Lang. Trong đó, Quảng Nguyên được vua Tống mê nhất. Châu này có núi Ngân Sơn (nghĩa là Núi Bạc) có mỏ đồng Tụ Long. Vàng, bạc, đồng, chì, thiếc... đều phong phú. Chả thế mà vua Tống cứ dặn đi dặn lại Quỳ “hãy sung công của cải”, vì “nghe nói vùng khê động có nhiều của quý”. Cho nên, khi hai bên vừa ngưng chiến, vua Tống vội đổi Quảng Nguyên thành châu huyện Tống, gọi là Thuận Châu, xem ngang hàng với Ung Châu. Tống cử viên võ quan có nhiều công trạng ở vùng này là Đào Bật sang làm tri châu. Lại sai 17 tướng chỉ huy ở các xứ Hồng Châu đến tăng cường phòng thủ. Lại xuống chiếu cho viên quan cao cấp là Viên - ngoại - lang Tất Trọng Hùng đến coi việc đặt lò luyện vàng bạc. Chúng nhất định giữ bằng được, không chịu nhả Quảng Nguyên.
Nhưng Lý Thường Kiệt cũng không chịu mất Quảng Nguyên, nhất định đòi bằng được. Ông chuyển quân vào Quang Lang, phao tin sẽ dùng vũ lực đánh Quảng Nguyên. Đào Bật kiên gan, cố thủ, bảo quân tướng chớ khiêu khích, sợ Lý Thường Kiệt vin cớ tấn công. Lý Thường Kiệt một mặt dùng binh uy hiếp, mặt khác xoay sang dùng lối ngoại giao để đòi lại.
Đầu năm 1078, Đào Tông Nguyên được lệnh đi sứ Tống, mang theo năm voi lớn để làm quà giành đất. Việc Lý Thường Kiệt bất ngờ đốt phá Ung Châu mấy năm trước vẫn còn làm vua tôi nhà
https://thuviensach.vn
Tống giật mình, kinh sợ. Lần này đón sứ bộ ta dẫn voi tới kinh sư, vua Tống cũng không khỏi e ngại, mới ngầm căn dặn bề tôi:
- Sứ Giao tiến tới kinh. Vì chúng mới cướp ta, nên phải lo đề phòng. Khi còn ở dọc đường cũng như khi tới kinh, hễ chúng ra vào phải cắt người giám sát. Vậy phải viết thư cho ti kinh lược Quảng Tây và cho các viên hộ tống hãy mau mau trình báo.
Sứ ta tới Biện Kinh, đưa voi biếu, xin đòi lại Quảng Nguyên và Tư Lang. Vua Tống hỏi ý kiến Triệu Tiết. Tiết xui vua không trả. Vua Tống cũng muốn thế. Tham của muốn giữ. Thật ra vua tôi Tống trong bụng vẫn kinh Lý Thường Kiệt. Cho nên, đối với sứ bộ Đào
Tông Nguyên. Tống tiếp đãi tử tế, sợ ta phật ý, sinh sự. Vua Tống đã gọi các viên quan đón tiếp đến bảo rằng:
- Nhà ở, nơi ăn yến của phái bộ Giao Chỉ phải có nơi chốn riêng biệt. Gặp ngày sóc vào triều, phải để phái bộ Giao Chỉ đứng ở phía đông. Gặp ngày vọng thì đón vào điện Thuỳ Củng. Ngủ và đãi yến thì sứ Giao ở điện Đông Đoá.
Ý vua tôi Tống muốn dây dưa không trả. Nhưng tình hình biên thuỳ Lý - Tống bấy giờ đang có nhiều khó khăn, bối rối. Một mặt, Lý Thường Kiệt xui dân địa phương nổi lên khởi nghĩa ở Quảng Nguyên. Các doanh đồn, kho, trại Tống ở Ung Châu, Liêm Châu và ở các trại Vĩnh Bình, Thái Bình cứ đua nhau mà cháy. Rất nhiều lương thực, khí giới bị thiêu huỷ. Hoả tai, bệnh dịch luôn luôn. Quân lính náo động, dân gian lo sợ. Mặt khác, ngoài tình hình đêm ngày căng thẳng thì khí hậu dữ độc, không hợp với người phương bắc làm quan quân Tống ở Quảng Nguyên ốm đau nhiều. Các quan lớn nhỏ như Đào Bật, Vương Cảnh Nhân, Trương Cát, Dương Nguyên Khanh, Lưu Tử Dân... đều lần lượt chết hết. Quân đồn trú mỗi năm phái đến 3.000, mà mười phần chết đến năm, sáu. Quân Tống đào ngũ hàng đoàn. Có lúc, cả hai quân bỏ doanh trại trốn
https://thuviensach.vn
về quê nhà. Quan quân hễ ai được phái đến Quảng Nguyên đều kinh hãi, khi từ biệt ra đi như sắp chết. Cả nhà khóc lóc ầm ĩ.
Cuối cùng, thấy Quảng Nguyên khó nuốt quá, vua Tống đành phải trả. Để gỡ thể diện, vua Tống bảo sứ ta về tâu với Lý Nhân Tông:
- Trẫm vỗ về vạn quốc, không kể xa gần. Nhưng Khanh phải trả các dân Ung, Khâm, Liêm mà Khanh đã bắt. Đợi khi nào Khanh đưa chúng về hết, trẫm sẽ lập tức lấy châu Quảng Nguyên ban cho Khanh.
Đào Tông Nguyên chuyển lời vua ta hẹn trả một nghìn quân sĩ bị cầm tù. Tống vội bằng lòng.
Chờ mãi chẳng thấy tin tức. Tình cảnh quan quân Tống ở Quảng Nguyên thì ngày một khốn quẫn, lụn bại. Vua Tống càng nhất định trả đất cho mau. Nhưng chẳng lẽ lại trả không, đành bấm bụng chờ cơ hội. Biết vậy Lý Thường Kiệt bèn nhân nhượng trả lại tù nhân.
Chúng được đưa từ Nghệ An về bằng đường thuỷ. Cửa thuyền đều bị trát bùn kín. Trong thuyền, đèn đuốc thắp suốt. Tù nhân không còn biết đi ngày hay đêm, đường sá thế nào. Mỗi ngày, Lý Thường Kiệt chỉ cho thuyền đi hai mươi dặm rồi bắt đậu lại. Quân
https://thuviensach.vn
lính áp tù giả đánh trống cầm canh. Ngồi trong thuyền, nghe canh, tưởng đi trong vài tháng mới đến nơi.
Quân Tống ra nhận. Đếm đi đếm lại chỉ thấy có 221 người, không như đã hẹn trả 1.000 người. Việc ấy tâu lên vua Tống. Tống Thần Tông lờ đi, bảo bề tôi:
- Hãy nhận tù nhân, bỏ Thuận Châu. Lấy ban cho Giao Chỉ. Thế là các châu: Quảng Nguyên, Tư Lang... lại trở về nước ta.
Chuyện vua Tống “nuốt không xong, tha làm phúc” làm nhiều người tức cười. Có viên quan Tống không hiểu rõ gan ruột vua mình, viết câu thơ châm biếm:
Nhân tham Giao Chỉ tượng
Khước thất Quảng Nguyên kim!
(Vì tham Voi Giao Chỉ
Nên mất vàng Quảng Nguyên)
Tô Hiến Thành
https://thuviensach.vn
Tô Hiến Thành người đất Ô Diên (nay là xã Ha Mỗ, huyện Đan
Phượng, Hà Nội) sống khoảng từ nửa sau thế kỉ 12 đến đầu thế kỉ 13. Từ nhỏ, Tô Hiến Thành đã có tiếng là người thông minh cương trực, văn võ đều hay. Tương truyền, khi mới ra làm quan, ông thường lui về thăm viếng quê nhà. Vùng Ô Diên quê ông có một miếu thờ. Mọi người đều tôn sùng là rất thiêng. Thấy lạ, ông để tâm xem xét. Một hôm, bất ngờ ông bắt gặp một người lấy cắp cái áo của một nhà trong làng. Chủ nhà này vốn rất mê tín uy linh vị thần miếu nọ, tất sẽ đến kêu cầu; biết vậy, ông lặng thinh theo dõi. Quả nhiên, người mất của đem xin thần miếu tìm giúp kẻ gian để đòi lại của. Nhưng mất tiền mua đồ lễ mà áo vẫn chẳng về, người dân kia đâm bực mình, đem chuyện ấy ta thán với bà con trong làng. Bấy giờ, ông mới kể rõ sự tình cho mọi người biết và bảo:
- Thần miếu vô tích sự thì đập bỏ lư hương, đóng cửa lại. Thờ cúng làm gì nữa!
Mọi người nghe theo.
Khi làm quan trong triều, tài văn võ kiêm toàn(10) và đức tính cương trực, vị nghĩa của ông khiến các bạn đồng liêu(11) kiêng nể và vua Lý tin dùng. Dưới triều Lý Anh Tông, ông được phong đến chức Thái phó và Thái uý(12). Khi sắp mất, Anh Tông đã gọi riêng ông đến bên long sàng(13) di huấn cho ông làm Thái sư phụ chinh, căn dặn ông phải hết lòng phò tá Thái tử Cáp ở ngôi vua. Anh Tông mất. Ông làm đúng di huấn của Anh Tông, dốc sức giúp rập vua mới còn nhỏ tuổi. Vợ vua Anh Tông là Hoàng thái hậu muốn bỏ Thái tử Cáp mà lập Thái tử Long Xưởng là người vì hư đốn, đã bị truất quyền nối ngôi. Ông cương quyết không nghe. Hoàng thái hậu mới cho người mang lễ vật vàng bạc rất hậu đến biếu bà họ Lã, vợ Tô Hiến Thành, ý đồ mượn tay vợ để thuyết phục ông. Ham
https://thuviensach.vn
của, vợ ông nhận lời. Ngày đêm, bà ráo riết tìm mọi dịp ỏn thót, lôi kéo ông. Ông vẫn nhất định không nghe. Sau thấy vợ nói mãi, ông mới bực mình nói thẳng:
- Kẻ làm quan phải vâng mệnh vua. Tiên đế(14) đã có di huấn cho ta, lẽ nào ta lại vì hám lợi mà trái lệnh vua. Nếu ta làm điều bất trung bất nghĩa ấy, sau này ta còn mặt mũi nào nhìn tiên đế dưới suối vàng nữa!
Suốt thời kì làm quan trong triều, ông luôn giữ tính cương trực trọng nghĩa, khinh tài, một lòng trung thành vì dân, vì nước. Trước những xáo động dữ dội do bọn quý tộc phong kiến thối nát gây nên, ông vẫn vững như cột đá giữa dòng, mưu trí chống đỡ, giữ cho việc nước việc dân khỏi bị bọn gian thần lũng đoạn. Khi Tô Hiến Thành bệnh nặng, có viên Tham tri chính sự trong triều là Võ Tán Đường luôn lui tới chăm sóc ngày đêm hầu hạ thuốc men. Nhiều
https://thuviensach.vn
người khác cũng hay đến thăm ông. Duy có quan Gián nghị đại phu là Trần Trung Tá vì công việc triều đình bề bộn nên ít đến.
Bệnh nặng, ông sắp mất, Hoàng thái hậu mới hỏi ông: - Một mai, tướng công qua đời, lấy ai nối nghiệp?
Không đắn đo, ông trả lời luôn:
- Gián nghị đại phu Trần Trung Tá.
Thái hậu rất ngạc nhiên mà rằng:
- Võ Tán Đường hết lòng phục dịch tướng công, sao tướng công không tiến cử. Lại đi tiến cử Trần Trung Tá là người ít ra vào thăm viếng tướng công?
Ông đáp:
- Xem trong triều, chỉ có Trần Trung Tá là người làm được việc lớn nên tôi tiến cử. Nếu Thái hậu hỏi người giỏi việc hầu hạ, tôi tiến cử Võ Tán Đường.
Thái hậu chịu ông là phải.
https://thuviensach.vn
Phần 7
Chống quân Mông Thát Thái sư họ Trần
https://thuviensach.vn
Về cuối đời nhà Lý, mọi quyền hành đã nằm trong tay anh em
họ Trần, nhất là Trần Thủ Độ. Một hôm, Trần Thủ Độ sai bày hội lớn ở điện Thiên An với trăm quan vào triều rồi thác chiếu(1) của Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh. Hôm đó là ngày 11 tháng Chạp năm Ất Dậu (1226). Trần Cảnh lên ngôi, tức Trần Thái Tông, lập ra triều Trần. Trần Thủ Độ được phong là Quốc thượng phụ(2).
https://thuviensach.vn
Trần Thủ Độ là người ít được học hành nhưng có tài thao lược hơn người. Bao phen, ông đã cùng với Trần Tự Khánh, Trần Thừa (cha của Trần Cảnh) ra sinh vào tử, để dọn đường cho họ nhà mình lên ngôi. Nay sự nghiệp ấy đã thành. Tháo vát, mưu trí, ông tiếp tục dốc hết tài năng, ra sức xây dựng và củng cố triều Trần vững mạnh. Bấy giờ, vua Trần Thái Tông còn nhỏ (mới tám tuổi); quý tộc nhà Lý còn nuối tiếc ngai vàng đã mục nát của dòng họ, muốn tìm cách khôi phục; nước nhà lại vừa trải qua mười mấy năm rối loạn do các thế lực phong kiến đánh nhau tranh quyền... Cho nên, Trần Thủ Độ phải tự quyết đoán mọi việc. Thấy Quốc phụ thâu tóm hết quyền hành, có người nghi ngờ về tấm lòng trung trinh của ông, mới lẻn vào ra mắt vua khóc mà nói:
- Bệ hạ trẻ tuổi mà Thủ Độ quyền hơn cả vua. Rồi đây xã tắc sẽ ra sao?
https://thuviensach.vn
Vua đi xe đến dinh Quốc phụ, mang cả người ấy đi theo. Trần Thủ Độ rước vua vào. Vua chỉ người ấy và kể lại chuyện cho Quốc phụ nghe. Vỡ nhẽ, ông không những không tỏ ý giận dữ, mà khoan thai tâu trình:
- Người ấy nói đúng. Có điều là chưa hiểu hết lòng này đấy thôi. Rồi lấy tiền, lụa thưởng cho người ấy mà rằng:
- Ta khen cho ông biết lo đến phúc trạch muôn đời của tông xã.
Từ ấy, ông chú ý giữ gìn ý tứ, cho đúng đạo vua tôi để trên dưới yên lòng.
Vợ ông một hôm ngồi kiệu vào hoàng cung. Kiệu đi qua chỗ thềm cấm. Quân canh gác không biết mặt bà chạy ra ngăn giữ, nhất định không để cho đi. Bà giận lắm quay kiệu về dinh, khóc lóc với chồng:
- Mụ này làm vợ ông mà bọn quân hiệu kia không nể mặt, lại dám khinh nhờn đến thế!
Không biết rõ sự thể thế nào, ông sai bắt quân canh đến hỏi. Bấy giờ, quân canh mới vỡ chuyện thì sợ lắm, tưởng chuyến này chắc chết. Nghe quân canh trình báo lại sự tình, ông vui vẻ gật đầu khen ngợi:
- Ngươi ở chức phận thấp mà biết giữ phép nước như thế là rất tốt.
Rồi ông lấy vàng lụa thưởng, rồi cho về.
Vào triều làm Thái sư, lên Lạng Sơn trấn thủ miền biên giới hay khi đi kinh lí khắp nơi đến tận miền Thanh Nghệ, phía nam... Trần Thủ Độ đều ngày đêm chăm lo công việc, rất mẫn cán siêng năng. Ông lại thường đi sâu xuống tận xã thôn xem xét dân tình, duyệt định sổ hộ khẩu. Có lần, vợ ông xin riêng cho một người được
https://thuviensach.vn
làm chức “câu đương”(3). Ông giả tảng gật đầu, lấy giấy biên họ tên người ấy. Khi xét duyệt đến xã mà vợ ông đã gửi gắm trước, ông cho gọi người ấy đến gặp. Người ấy mừng lắm, vội chạy đến vái lạy ra mắt, Trần Thủ Độ nói:
- Ngươi lo lót với phu nhân ta để xin làm câu đương. Ta cũng cho. Nhưng ngươi không thể ví với những câu đương khác được. Phải chặt một ngón chân để phân biệt với người khác.
Người ấy sợ quá kêu van mãi, xin thôi. Hồi lâu, ông mới thương tình tha cho. Từ đó, không một ai dám đến dinh Thái sư thăm riêng để lo lót công việc nữa.
Câu chuyện chia muỗm
V
en Hồ Tây (Hà Nội) có quán Chân Vũ, thường quen gọi là đền Quan Thánh. Quán có hai hàng muỗm cổ. Có hai cây ở mé phải lối vào, tục truyền được trồng từ đầu nhà Trần.
Sử sách chép vào tháng Năm năm 1255 trồng 500 trượng toàn cây muỗm suốt từ bến Hồng Tân (chợ Bưởi) đến đê quai vạc Tuẫn Thần, nghĩa là dọc bờ đê sông Cái. Thăng Long buổi cuối thu năm
https://thuviensach.vn
1257, vua Trấn Thái Tông ngự trên điện Thiên An. Chín gian điện vàng son và dưới sân Long Trì đông đủ quan tướng vào chầu.
Thăng Long năm ấy được mùa muỗm. Nhân Nội quan vâng lệnh chia muỗm. Không biết vì sao lại để sót mất một người. Người đó là quan tiểu hiệu Hoàng Cự Đà! Muỗm ngoài chợ Đông, chợ Tây chả thiếu gì. Nhưng đây là “lộc vua ban”, “miếng giữa làng hơn sàng xó bếp”. Hoàng Cự Đà cay cú nhưng không nói năng gì, ôm hận ra về...
Tháng Chạp năm đó, quân Mông Cổ sang xâm lược nước ta lần thứ nhất. Vua ra trận. Linh Từ quốc mẫu (vợ thái sư Trần Thủ Độ) đưa Hoàng Thái tử Hoảng và cung phi, công chúa cùng vợ con các tướng lánh xuống mạn Hoàng Giang (Lý Nhân, Hà Nam).
Ngày 13 tháng Chạp, quân Mông Cổ đến Đông Bộ Đầu (bến sông Hồng, mé trên cầu Long Biên, Hà Nội). Trước thế giặc mạnh, triều đình tạm rút khỏi Thăng Long.
Hoàng Cự Đà ngồi trên một lá thuyền nhẹ rút xuống phía Nam. Đến Hoàng Giang, gặp Hoàng Thái tử đi thuyền ngược lên, Cự Đà tránh sang bờ sông bên trái, cho thuyền xuôi gấp. Hoàng Thái tử truyền cho quân gọi to hỏi:
- Giặc Thát Đát ở đâu?
https://thuviensach.vn
Cự Đà bắc loa miệng trả lời:
- Không biết. Đi mà hỏi bọn ăn muỗm ấy!
Nói đoạn bỏ đi. Sau buổi ông táo lên chầu trời một ngày (24 tháng Chạp ta). Thái Tông cùng Thái tử Hoảng chỉ huy đoàn thuyền ngược dòng sông Cái, phá tan giặc ở Đông Bộ Đầu giải phóng Thăng Long.
Chiến thắng trở về, mồng Một Tết Mậu Ngọ (1258), vua ngự chính điện, trăm quan vào chầu, định công, luận tội. Hoàng Thái tử xin khép Cự Đà vào cực hình để răn những kẻ làm tôi bất trung. Trăm quan xanh mắt, không thấy ai nói gì. Vua Trần, tuổi vừa bốn mươi và sử sách khen là người “khoan nhân đại độ, có lượng đế vương”, thủng thẳng dẫn một câu chuyện xưa:
Đời Xuân Thu ở Trung Quốc, nước Trịnh đánh nước Tống. Khi sắp đánh nhau, Hoa Nguyên nước Tống làm thịt dê cho binh sĩ ăn. Người đánh xe là Dương Châm không được ăn. Đến khi đánh nhau, Dương Châm nói: “Con dê hôm trước là quyền ở ông. Việc đánh nhau hôm nay là quyền ở tôi”. Nói rồi, đánh xe chạy vào hàng quân Trịnh. Cho nên, nước Tống bị thua.
Dẫn chuyện xưa xong, vua nói:
https://thuviensach.vn
- Cự Đà tội đáng giết cả họ. Nhưng việc Cự Đà là lỗi của ta.
Vua tự nhận lỗi chia lộc nước chưa công minh để Cự Đà sinh lòng bất trung, mới tha tội chết cho Hoàng Cự Đà và cho sung quân đi đánh giặc, lấy công chuộc tội.
Khi đầu tôi chưa rơi...
G
iữa tháng Chạp năm Đinh Tỵ (tháng 1 năm 1258). Những chuyện chẳng lành cứ dồn dập xảy ra. Ngày 12, vỡ mặt trận Bình Lệ Nguyên. Ngày 13, phòng tuyến Phù Lỗ(4) cũng mất.
Tôn thất nhà Trần là Phú Lương hầu tử trận. Rồi giặc tràn vào Thăng Long tàn phá. Lửa cháy ngút trời, sáng rực một vùng trong đêm. Vua tôi, quân tướng ta phải lui dần, lui nữa về sông Thiên Mạc(5).
Đêm khuya. Chiếc thuyền ngự của vua Trần Thái Tông vẫn rực sáng ánh ngọn bạch lạp(6). Bỗng bức rèm gấm thêu rồng vàng lay động. Nhà vua vén rèm bước ra ngoài mui. Viên tướng chỉ huy đô
https://thuviensach.vn
Thánh Dực cắp gươm định bước theo hộ giá thì Thái Tông đã vội xua tay truyền miễn. Đoạn, nhà vua bước qua ván cầu có tay vịn, sang phủ thuyền của Khâm Thiên Vương Trần Nhật Hiệu. Trong thuyền, Trần Nhật Hiệu vẫn thức, đang ngồi bên án nhìn qua song cửa sổ ra ngoài, đăm chiêu, suy nghĩ. Thấy Quan gia(7) bất thần xuất hiện, Nhật Hiệu giật mình vội quỳ lạy. Thái Tông đỡ dậy, truyền cho ngồi:
- Khuya rồi, Thái uý chưa nghỉ, chắc có điều gì suy nghĩ? - Tâu Quan gia, quả là thần đang suy xét việc quân.
Nhà vua hỏi:
- Có phải Thái uý đang nghĩ đến lộ quân Tinh Cương của Thái uý?
Nhật Hiệu ngượng ngùng lúng túng chưa biết tâu trình thế nào. Quân Tinh Cương là lộ quân riêng của Tướng quốc Thái uý Trần Nhật Hiệu. Vừa qua, trong khi lui binh, vội vàng hốt hoảng thế nào mà tướng rút một đằng, quân đi một nẻo. Và bây giờ, Nhật Hiệu không còn biết lộ quân mình mất hay còn và nếu còn thì đóng ở đâu... Trần Thái Tông biết ý, nói lảng sang việc khác:
- Việc nước đang buổi khó khăn, xem ra có chiều nguy kịch. Giặc đã mạnh lại hung bạo. Trẫm thương trăm họ phải chịu cảnh binh đao khốn khổ, mà rồi xã tắc tông miếu ta lỡ ra vẫn không vẹn toàn thì thật là mắc tội với muôn dân. Nay trẫm hỏi thật: ý Thái uý thế nào?
https://thuviensach.vn
Trần Nhật Hiệu không nói, lẳng lặng lấy tay chấm vào nước rồi viết lên mạn thuyền hai chữ “nhập Tống”(8). Qua song cửa sổ, xa xa về phía Thăng Long khói lửa, một góc trời đang ửng đỏ.
Hôm sau, Trần Thái Tông cho vời các vương hầu quan tướng đến thuyền rồng. Nhà vua đem chuyện tối hôm qua kể lại để dò ý mọi người. Nghe xong, đại thần, tôn thất, tướng tá đều bất bình về thái độ yếu đuối của Trần Nhật Hiệu, nhao nhao đòi đánh. Nhà vua cả mừng. Trong kí ức Quan gia còn hiện lên những hình ảnh nghĩa liệt của các trung thần: Phạm Cự Chích, Phú Lương Hầu, trại chủ Quy Hoà Hà Khuất, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Tướng quân Lê Phu Trần, Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư... Hình ảnh đảm đang đáng kính của Linh Từ Quốc Mẫu Trần Thị Dung một
https://thuviensach.vn