🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Ngày Sống Đời Thơ Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn Mục lục Nghĩ Về Một Người Mê Chữ 1. Đau Đáu Với Thơ 2. Bên Ngoài Nắng Đã Lên Mau 3. Âu Cũng Là Cái Duyên Đó Thôi 4. Và Lùa Theo Không Biết Mấy Là Hương 5. Thời Gian Vời Vợi Phiêu Linh 6. Người Đi Trên Đống Tro Tàn 7. Tản Mạn Cuối Tuần 8. Đợi Tết 9. Một Cánh Chim Bay Níu Lệch Trời 10. Thương Thì Đừng Sợ, Sợ Thì Đừng Thương 11. Sợi Hồng Lưu Luyến Xuân Thì Đương Xoan 12. "Phúc Cho Ai Không Thấy Mà Tin" 13. Nhân Tài Ở Đâu Mà Có? 14. Hương Bay Bốn Hướng, Khói Vương Bốn Trời 15. Cái Còn Thì Vẫn Còn Nguyên 16. Thơ Ích Gì Cho Đời Sống? 17. Ta Có Gì Hơn Bác Thợ Cày 18. Nắng Xuống, Trời Lên Sâu Chót Vót 19. Thời Tôi Sống Nhà Thơ Thì Viết Báo 20. Quê Nhà Đất Cũ Xin Thấu Tấm Lòng Cho Ai 21. Lan Man Cùng Gia Định Báo 22. Hát Mấy Câu Giải Sầu Chư Vị 23. Về Chơi Trong Cõi Thư Hương 24. “Không Thành Công Cũng Thành Nhân” 25. Lại Đây, Em Hỏi Thử Đôi Câu 26. Gặp Người Có Nghĩa, Tui Muốn Chào Làm Quen 27. Ăn Cơm Bình Dân, Rị Mọ Chữ Nghĩa 28. Làm Gì Cho Hết Buổi Chiều? 29. Thuở Mơ Làm… Thi Sĩ 29. Há Chẳng Phải Là Một Lạc Thú Ở Đời Đó Sao? 30. Thơ Về Mẹ Là Câu Thơ Im Lặng 31. Trăng Tàn Mà Lại Hơn Mười Rằm Xưa 32. Trời Say Trời Cũng Đỏ Gay Ai Cười? 33. Chân Non Dại Ngập Ngừng Từng Bước Nhẹ 34. Hôm Nay Là Một Ngày Tươi Đẹp 35. Ngẫm Duyên Kỳ Ngộ Xưa Nay 36. Đường Dài Một Bóng Ngựa Xe 37. Thư Trung Hữu Nữ Nhan Như Ngọc 38. Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư 39. Cành Mai Trắng Mộng Còn Đây 40. Giọt Loãng Nào Không Tựa Máu Hồng? 41. Chữ Tâm Kia Mới Bằng Ba Chữ Tài https://thuviensach.vn 42. Mượn Chỗ Văn Chương Ngụ Tính Tình 43. Tình Cho Đi Không Lấy Lại Bao Giờ 44. Tiếng Hát Và Tiếng Khóc 45. Trước Mặt Vợ, Đàn Ông Cơ Bản Là Hèn 46. Thế Nào? Ai Biết Phải Nên Thế Nào? 47. Nước Non Vẫn Nước Non Nhà https://thuviensach.vn NGÀY SỐNG ĐỜI THƠ Lê Minh Quốc www.dtv-ebook.com Nghĩ Về Một Người Mê Chữ TRẦN HỮU TÁ (Chủ tịch Hội Nghiên cứu và giảng dạy văn học TP.HCM) Quen biết Lê Minh Quốc đã lâu, vậy mà có điều tôi vẫn hiểu chưa kỹ về anh. Cứ tưởng Lê Minh Quốc bắt đầu làm thơ từ những năm cầm súng chiến đấu ở chiến trường Campuchia (1977-1983), và sau đó tiếp tục say mê sáng tác lúc ngồi trên giảng đường của khoa Văn Đại học Tổng hợp TP.HCM, để rồi tập thơ Trong cõi chiêm bao đầu tay của anh ra mắt bạn đọc năm 1989. Hóa ra không phải. Lê Minh Quốc mê chữ, yêu văn và bước vào cuộc đời cầm bút từ rất sớm. Mười bốn tuổi, sau nhiều “tác phẩm” gửi đi cho các báo ở Sài Gòn lúc đó, nhưng đều rơi vào im lặng, bài thơ Em tôi - tác phẩm đầu tiên của thiếu niên thi sĩ Lê Minh Quốc được in trên báo Thiếu nhi số 89 (13/5/1973). Tờ báo này do ông chủ nhà sách Khai Trí lập ra và do nhà văn Nhật Tiến làm chủ bút. Khỏi phải nói niềm vui tột độ của cây bút trẻ này khi cầm số báo có đăng thơ của mình. Anh tiếp tục xuất hiện trên các tờ tuần báo dành cho thiếu nhi lúc đó như Tuổi Hoa, Mây Hồng và một số nhật báo khác. Sau này nhà thơ có tâm sự: Dù có thơ in nhưng tôi cũng không hề được tòa soạn gửi tặng báo biếu hoặc nhuận bút gì sất! Nhà thơ tương lai ấy đã tự an ủi theo đúng phép “thắng lợi tinh thần”: Chả cần, mình phục vụ cho văn học nghệ thuật (!) thì cần quái gì ba cái chuyện lẻ tẻ ấy. Con đường thơ văn của Lê Minh Quốc nếu tính từ những ngày niên thiếu https://thuviensach.vn đó thì đến nay đã bốn mươi năm có lẻ. Nhìn lại hệ thống danh mục tác phẩm của anh, dù ai là người trong nghề cũng phải nể: Mười tập thơ, mười tập truyện, nhiều tập khảo cứu biên soạn… Ấy là chưa kể hàng nghìn bài báo được đăng trên Phụ nữ TPHCM - nơi anh công tác hơn hai mươi năm nay, và trên rất nhiều báo khác trong cả nước. Gần đây anh chuyển hướng sang thể loại mới: tạp bút. Tác phẩm Ngày sống đời thơ mà bạn đọc đang có trong tay là đứa con tinh thần mới nhất của anh. Như thế, nếu tạm sơ kết (chứ chưa thể tổng kết, vì chắc chắn tuổi nghề của Lê Minh Quốc còn rất dài), cây bút này đã đều đặn cho công bố với tốc độ tên lửa “năm một, ba năm đôi”. Sức viết ấy đâu dễ có! Nhưng trong văn chương, điều quan trọng nhất chưa phải là số lượng mà là chất lượng. Hy vọng sẽ có dịp được viết kỹ về thơ và truyện của Lê Minh Quốc - hai lĩnh vực ấy anh cũng có chỗ đứng chắc chắn. Trong bài viết ngắn này, xin được nói riêng về tập Ngày sống đời thơ. Cũng như tác phẩm Ngày trong nếp ngày, Ngày viết mỗi ngày mới trình làng hồi cuối tháng ba năm nay, tập Ngày sống đời thơ trích đăng những trang nhật ký của Lê Minh Quốc. Tập trước anh tuyển chọn trong nhật ký của năm 2013, 2014, tập mới này là những dòng tâm sự của anh trong năm 2015. Lê Minh Quốc duy trì được một thói quen rất quý: viết nhật ký đều đặn hằng ngày. Ngày bận, viết ít. Ngày rảnh rỗi và có hứng viết dài hơn. Điều này rất nên làm đối với bất cứ ai, đặc biệt là những người hoạt động trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ. Bởi vì chỉ cần sau vài ba năm đọc lại, tự bản thân đã thấy bên cạnh những trang đáng quên, thì có không ít điều bổ ích xoay quanh những gì mình đã suy tư, nếm trải, những vui buồn rất có ý nghĩa của quá khứ. Có chất liệu nào quý để hình thành nên những tác phẩm để đời của một nhà văn bằng những trang ghi chép của chính mình? Nét đặc thù cơ bản nhất của nhật ký là ở chỉ viết cho mình, mình là tác giả đồng thời cũng là độc giả đầu tiên và nhiều khi là duy nhất. Chính vì thế những trang nhật ký thường hết sức trung thực. https://thuviensach.vn Tập Ngày sống đời thơ của Lê Minh Quốc gồm 47 tiểu đoạn, mở đầu là những dòng nhật ký của ngày 3/1/2015 và kết thúc là những trang viết của anh ngày 31/12/2015. Gọi là nhật ký, nhưng chất tùy bút rất đậm. Ta đã rõ, tùy bút là một thể loại văn học lợi hại, tạo điều kiện để “cái-tôi-nhà-văn” tung hoành tùy theo hứng bút. Đọc tác phẩm của các cây tùy bút lỗi lạc như Nguyễn Tuân,... nhìn thoáng qua có thể nghĩ các đoạn, các ý sắp xếp bên nhau có phần lan man, xộc xệch, nhưng đọc kỹ thì thấy tự bản thân các trang viết đó có một cấu trúc bên trong chặt chẽ. Vì thế kinh nghiệm của những người sành thưởng thức văn chương khi đọc tùy bút là cấm kỵ việc đọc nhanh, đọc lướt mà phải đọc chậm, đọc nhâm nhi. Tôi ngờ là Lê Minh Quốc rất ái mộ nhà tùy bút Nguyễn Tuân và tiếp bước đi trên con đường của ông. Trong cả ba tập Ngày trong nếp ngày, Ngày viết mỗi ngày cũng như Ngày sống đời thơ, ngòi bút của Lê Minh Quốc hình như đã được thả sức phóng túng, tung hoành. Anh nói đến chuyện đời, chuyện nghề, chuyện tình cảm riêng tư. Những trang viết của anh có ba điểm tựa chắc chắn: thứ nhất, vốn sống dồi dào của những năm chiến đấu cũng như của những chuyến đi liên miên bất tận trong những năm làm báo; thứ hai, sức đọc rất khỏe - đọc tác phẩm của cha ông cũng như những sách mới ra lò, sách của Việt Nam cũng như sách của thế giới; thứ ba, anh là người quảng giao, quan hệ rộng và sâu sắc, chân tình với những người trong giới cũng như các đối tượng trong các lĩnh vực xã hội khác. Ba nguồn mạch đó khiến ngòi bút Lê Minh Quốc luôn dồi dào sức sống, đề tài hầu như không bao giờ vơi cạn. Tôi tin bạn đọc sẽ xúc động khi đọc những trang Lê Minh Quốc viết về gia đình - đặc biệt về mẹ của mình, về quê hương Đà Nẵng cũng như về những vùng đất mà anh đã đặt chân. Nhưng Lê Minh Quốc dành nhiều trang cho chuyện nghề văn. Anh trân trọng nhắc đến các nhà văn tiền bối như Huỳnh Thúc Kháng, Tản Đà, Nguyễn Hiến Lê, Trang Thế Hy, Sơn Nam… cũng như các nhà văn hóa nổi tiếng như Vương Hồng Sển, Trần Văn Khê, Phạm Duy… Thi hào Nguyễn Du được Lê Minh Quốc nhắc đến khá nhiều https://thuviensach.vn lần. Mặt khác anh cũng dành tình cảm ưu ái cho các bạn văn đồng trang lứa như Nguyễn Trọng Tạo, Trần Huiền Ân, Nguyễn Nhật Ánh, Đoàn Thạch Biền, Trương Nam Hương… Với bất cứ ai anh có những nhận xét trân trọng, tinh tế về văn nghiệp nói chung cũng như những cái hay, những điểm xuất thần trong các trang văn cụ thể của họ. Như trên đã nói, Lê Minh Quốc có sức đọc rất khỏe. Anh “tham lam, ham hố” không bỏ qua bất cứ những bài viết, những cuốn sách nào mà anh thấy lý thú, bổ ích. Có khi của một tác giả Hà Lan xa lạ viết về Việt Nam. Có khi là những cuốn địa chí của xã, huyện nhưng có ích cho nhận thức của người đọc. Lê Minh Quốc không ích kỷ giữ nó cho riêng mình, mà ghi lại trong những trang nhật ký để rồi có dịp đưa đến tay bạn đọc. Có khi đó là nghĩa của những địa danh như Sóc Trăng, Chắc Cà Đao… Có khi là nội dung đặc sắc của một cuốn sách - chẳng hạn quyển Một quan niệm về sống đẹp của Lâm Ngữ Đường (Trung Quốc)… Dường như khi viết, Lê Minh Quốc cố tự kiềm chế, không muốn đề cập đến những nghịch lý của cuộc sống, những mặt non yếu, tiêu cực của xã hội. Thế nhưng đôi lúc anh cũng đã “vượt rào”. Chẳng hạn anh đã đề cập đến, tuy không mới nhưng cần thiết, về sách giáo khoa cho thế hệ trẻ ở phổ thông cũng như sự xuống cấp đạo đức của một bộ phận giáo viên. Nói về lĩnh vực văn chương Lê Minh Quốc đôi lúc cũng đã tỏ bày ý kiến về tình hình xào xạc, tiêu điều trong lĩnh vực sáng tác - đặc biệt là thơ. Anh cũng luôn tự dặn mình không để ngòi bút phản lại mình, phải hết sức quan tâm đến trách nhiệm của nhà văn đối với công chúng. Những điều tự răn ấy không những có ích cho nhà văn để khỏi đi chệch hướng, đồng thời cũng là lời cảnh báo chân tình cho các cây bút khác. Đọc xong trang sách cuối cùng, tôi vừa thấy hứng thú vừa cảm thấy có điều gì “chưa đã”. Chắc chắn anh sẽ có tập tạp bút cho năm 2016 và các tập sau đó nữa. Chỉ mong rằng Lê Minh Quốc quan tâm hơn đến những vấn đề https://thuviensach.vn xã hội nóng bỏng, bức thiết. “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”, đó là một yêu cầu mang tính nguyên tắc của muôn đời. Nhà văn không thể lảng tránh. Tất nhiên đối với những vấn đề nhạy cảm, người viết phải rất thận trọng, nghiêm túc, xây dựng. Những kinh nghiệm này tôi ngờ là Lê Minh Quốc đã có thừa. Chẳng qua với tình bằng hữu văn chương, tôi xin nhắc lại với anh và cả tin anh sẽ làm rất tốt. Ngày 27/8/2016 https://thuviensach.vn NGÀY SỐNG ĐỜI THƠ Lê Minh Quốc www.dtv-ebook.com 1. Đau Đáu Với Thơ Trên đời này, dù quen biết hoặc không nhưng y vẫn quý, vẫn trọng những ai cần mẫn làm việc mỗi ngày. Kiếm sống bằng nghề nghiệp lương thiện. Vẫn biết thế, nhưng rồi lại tự trách rằng, dạo này y lười đi xa quá. Một phần do công việc bề bộn, lúc bài vở, khi họp hành ở cơ quan nên cứ nấn ná, chần chừ rồi từ chối nhiều lời mời. Hôm thứ Sáu vừa rồi, anh em có về Vĩnh Long đưa ma. Nhà văn Đoàn Thạch Biền kể, chuyến đi đó, có nghe được câu này: “Trẻ làm ma, già làm hội”. Có thể hiểu khi một người chết trẻ, gia đình, xóm giềng làm tang ma thương xót; còn một người sống đã thọ, khi được về cõi trên thì con cháu, láng giềng làm hội tiễn đưa vui vẻ. Quan niệm này hay, thiết thực quá. Có phải chỉ ở Nam bộ mới có câu này hay các vùng miền khác cũng thế? Thử lật quyển Kho tàng tục ngữ Việt Nam (NXB Văn hóa - Thông tin - 2002) tra cứu thử xem. Cả hai tập, dày 2.946 trang, tuyệt nhiên không hề ghi nhận câu: “Trẻ làm ma, già làm hội”. Lật thêm các quyển từ điển khác về thành ngữ, tục ngữ cũng không có nốt. Thế mới biết đời sống bên ngoài phong phú, đa dạng, tươi mới biết chừng nào. Trong khi đó, y chỉ là công chức “Sáng vác ô đi, tối vác về”. Nghĩ mà chán cho y. Đời sống ngoài kia mới là chất liệu sống quý báu cho trang viết, chứ nào phải tầm chương trích cú mỗi ngày. Nhớ chưa? Vâng, xin nhớ. Trong Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan ghi nhận trường hợp: “Hiện nay https://thuviensach.vn nhà văn mà được nam nữ thanh niên yêu chuộng, được họ coi là người hiểu biết tâm hồn họ hơn cả, có lẽ chỉ Khái Hưng… Khái Hưng là văn sĩ của thanh niên Việt Nam cũng như Alfred de Musset là thi sĩ của thanh niên Pháp thuở xưa”. Cha đẻ của Chí Phèo không được chọn đưa vào Nhà văn hiện đại, thế nhưng bây giờ đọc lại Nam Cao vẫn còn thấy hấp dẫn, hiện đại. Một tác phẩm văn học, có thể hôm nay nhiều người tìm đọc, qua ngày mai thiên hạ đã quên béng. Vẫn biết thế. Mà chẳng gì ngại. Cứ viết. Viết như một thú vui ở đời. Chẳng ham hố gì. Có như thế, mới có thể viết lặng lẽ mỗi ngày. Thế thì cứ viết ư? Sáng nay, trên đường đi tình cờ nghe anh Biền buột miệng nói một câu vu vơ mà lạnh cả người: “Chữ nghĩa nó phản như chơi”. Vâng, cũng có thể trong đầu nghĩ thế này, nhưng lúc đặt bút lại viết thế kia. Chính người viết chẳng rõ lúc ấy “Ma đưa lối, quỷ dẫn đường” thế nào lại nhầm. Còn nhớ tờ báo nọ đã rút tít thế này: “Hôm nay, dời chợ chó Y”. Oái oăm chưa? Khi viết, cứ viết một cách tự nhiên chứ chẳng hàm ý xỏ xiên. Lẽ ra phải là "Hôm nay, dời chợ chó đường Y”. Bản thảo qua nhiều khâu biên tập, nhưng rồi vẫn “lọt lưới” như thường. Có ai chịu khó hỏi han các nhà báo về những sai sót “chết người” ắt ghi nhận được nhiều chuyện dở khóc, dở cười. Cái trò chữ nghĩa đôi khi nó lạ lùng đến vậy. “Chữ nghĩa nó phản như chơi” cũng là một cách giải thích chăng? Mấy đêm nay, đọc lại Giai thoại hồng của Hồ Trường An in ở Mỹ năm 1989. Có những từ quen thuộc của miền Nam, nay hầu như ít ai sử dụng: kiểu tóc demi garcon, nhiễm, trổ mã, xệ (nghĩa như mắc cỡ, xấu hổ)… Chẳng hạn, bà chị cứng đầu của tôi nã cho tôi một tràng “rốc kết”; nấu rề sô đốt bằng dầu hỏa; ba tôi đến thăm bị chị quạt phải dội ngược trở ra; hách xì xằng; đi picnic; viết feuilleton cho nhựt báo; đừng có théc méc; cô ta đang chạy chọt gì đây; chẳng ra cái thá gì hết; cho de; buồn ơi bỏ qua đi Tám; v.v.. https://thuviensach.vn Quyển này viết về kỷ niệm với các nữ nhà văn, nhà thơ tên tuổi trên văn đàn miền Nam trước 1975. Tự nhiên bùi ngùi cảm thương mấy thế hệ cầm bút: Nguyễn Thị Vinh, Trần Thị Tuệ Mai, Linh Bảo, Minh Đức Hoài Trinh, Vân Trang, Minh Quân, Thanh Phương, Phương Đài, Quỳnh Hương, Tuệ Nga, Như Hiên, Hương Khuê, Hoàng Hương Trang, Lê Thị Ý, Thanh Nhung, Trùng Dương, Nhã Ca, Dung Sài Gòn, Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Đỗ Phương Khanh, Lệ Hằng, v.v… Sách của các tác giả này đến lúc nào đó có thể được tái bản lại chăng? Nếu thật lòng ''gạn đục khơi trong", không gì là không thể. Đã từ lâu rất thích ca từ của Phạm Duy: “Như con giun ngước lên trời, yêu trăng sao vời vợi. Làm sao nói được tình tôi?”. Những kẻ thất tình, đớn đau gan ruột, khi nghe ai đó cất lên tiếng hát ắt ôm mặt khóc hu hu suốt đêm dài cho đến rạng sáng. Ca từ thống thiết quá. Tình cờ đọc quyển Những sự gặp gỡ của Đông phương & Tây phương trong ngôn ngữ & văn chương của Vũ Bội Liêu (1912-1947). Trong đó, ông Liêu có viết câu này: “Kẻ si tình của Victor Hugo tự ví mình như một con giun khốn nạn dám mê một vì sao: “Misérable ver de terre amoureux d'une étoile”. Giật mình. Rõ ràng, Phạm Duy viết ca từ trên do ảnh hưởng từ văn hóa Pháp. Ngay cả câu thơ nổi tiếng của Xuân Diệu: “Yêu là chết ở trong lòng một ít” cũng lấy ý từ câu thơ Pháp. Thơ của Edmond Haraucourt (1856-1941), tác giả bài Rondel de l’adieu. Câu thơ “Partir, c’est mourir un peu” (Đi, là chết trong lòng một tí). Xuân Diệu chỉ thay đổi một chữ và cũng lặp đi lặp lại đúng ba lần như nguyên bản. Đọc nhiều, đôi khi nhập vào trí nhớ, cứ ngỡ là của mình vậy. Mấy hôm nay, trên Facebook có sự tranh luận về một bài thơ đã phổ nhạc. Tìm đọc lại tập thơ Sầu ở lại của Tạ Ký, bản in năm 1970 do cơ sở ấn loát Quế Sơn - Võ Tánh, trang 11-12 có bài thơ Buồn như (tặng Tôn Thất Trung Nghĩa). Nguyên văn như sau: Buồn như ly rượu cạn https://thuviensach.vn Không còn rượu cho say Buồn như ly rượu đầy Không còn một người bạn Buồn như đêm khuya vắng Qua cửa sổ trông trăng Buồn như em nói rằng: Nhớ anh từng đêm trắng Buồn như yêu không được Dù người yêu có thừa Buồn như mối tình xưa Chỉ còn dòng lưu bút Buồn như buồn như thế, Buồn như một kiếp người Đây cõi lòng quạnh quẽ Buồn như đóa hoa rơi! Đọc xong, lại thấy quen quá chừng. Một người bạn thơ nữ cũng viết na ná. Lạ nhỉ? Trong tập thơ này còn có bài lấy tựa Tôn Thất Trung Nghĩa. Đọc thấy ngồ ngộ, hay hay: Từng đêm chợ Đũi đẫm sầu https://thuviensach.vn Ly la-ve đổ gội đầu tóc xanh Người sơn dã lạc kinh thành Ngả nghiêng đáy cốc độc hành đêm khuya. Chợ Đũi ở đâu? Theo anh bạn nhà báo Trần Nhật Vy, khi viết tập sách Từ Bến Nghé đến Sài Gòn, anh khảo sát bản đồ Sài Gòn năm 1896 và ghi nhận: “Chợ Đũi nằm ở góc đường Chasseloup Laubat - Thuận Kiều (Nguyễn Thị Minh Khai - Cách mạng Tháng Tám)”, cụ thể: “Sài Gòn xưa có một vùng đất mang tên là Chợ Đũi kéo dài từ Phạm Ngũ Lão cho đến giáp đường Nguyễn Thị Minh Khai và có lẽ chiều ngang từ Cách mạng Tháng Tám đến giáp nhà bảo sanh Từ Dũ trên đường Cống Quỳnh”. Bài thơ lục bát của Tạ Ký, chữ nghĩa đậm đặc âm hưởng từ thời Trần Huyền Trân, Thâm Tâm, Nguyễn Bính nhưng xếp cạnh bia la-ve khiến bài thơ tếu táo hẳn lên. Nhộn ở chỗ lấy bia gội đầu! Chỉ say mới thế. Hóa ra trên đời này, muốn đạt đến sự chuyên nghiệp thì việc gì, dẫu chỉ ăn nhậu nhưng bao giờ cũng khó. Thời buổi này, mạng xã hội đã là nguồn thông tin cần thiết cho nhiều người. Bất kỳ ai cũng có thể chia sẻ, đón nhận cùng cộng đồng. Phải nói thật, thỉnh thoảng y cũng lướt qua nhiều trang Facebook. Chỉ lướt qua với tâm thế của một người sau giờ làm việc, vươn vai bước ra trước nhà xem xe cộ ngược xuôi cho vui con mắt, tán gẫu với bà hàng xóm vài câu vu vơ đỡ nhạt miệng. Chẳng bận tâm gì. Thế nhưng hôm nay, cả ngày nhoay nhoáy gõ phím, sáng nay tình cờ lạc vào trang cá nhân của người bạn thơ. Anh bình tập thơ lục bát Thức cùng bóng tối (NXB Hội Nhà văn) của cây bút khiếm thị Nguyễn Việt Anh ở Hà Nội. Nhà thơ chuyên nghiệp bình thơ, rõ ràng đáng tin cậy. Tuy nhiên, y lại ngờ ngợ không rõ anh bạn có “bốc đồng” hay không? Chừng mươi năm https://thuviensach.vn trước, anh đến tòa soạn báo Phụ nữ, cơ quan ngôn luận của Hội Liên hiệp phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh, hào hứng thông báo vừa ra phát hiện nhân tài thơ mới toanh, ấn luôn cả tập thơ vào tay: “Q. đã biết tác giả thơ này chưa? Chưa à? Thiếu sót trầm trọng đấy nhé. Cô ta ở Bình Dương, còn trẻ, làm cơ quan Nhà nước, thơ cực hay, hay cực kỳ. Nói thật, tớ phải ngả mũ chào”. Đại khái thế, anh khen bốc lên tận mây xanh, ca ngợi trên vài tờ báo và hiện nay, tác giả thơ đó chìm nghỉm vô âm tín. Hãy đọc những câu lục bát của một người khiếm thị: …Giọt mưa làm ướt nỗi buồn Hay buồn làm ướt tâm hồn giọt mưa? … Nâng ly bóng chạm với hình Tưởng ta cay đắng một mình mà đôi …Trong ta ngọn lửa chập chờn Muốn hôn lại sợ nụ hôn cháy bùng …Nhặt những hòn sỏi ven bờ Ném vào vô định mặt hồ du dương Thú vui tưởng rất bình thường Ai ngờ chú cá bị thương một ngày …Em tin trong cõi vô hình Có bàn tay đỡ tay mình không em? …Gồng mình lên để nói không https://thuviensach.vn Chi bằng nói có cho lòng nhẹ vơi... Đọc những câu thơ hay, lòng nhẹ nhàng. Tự dưng thấy rằng, biết rằng đâu đó trong dòng đời chảy xiết vẫn còn những tâm hồn đau đáu với thơ. (3.1.2015) https://thuviensach.vn NGÀY SỐNG ĐỜI THƠ Lê Minh Quốc www.dtv-ebook.com 2. Bên Ngoài Nắng Đã Lên Mau Suốt ngày “đánh vật” với các trang viết, mệt nhoài cả người. Chẳng khác gì leo núi mỗi ngày. Đụng đến chữ nghĩa là mệt. Phải cẩn trọng. Làm nghề gì cũng có thể qua loa, đại khái, chẳng hạn làm thợ điện miễn sao người sử dụng đừng bị giật điện là xong nhưng nghề viết thì không thể. Sắp Tết rồi, ai cũng nôn nóng. Y cũng thế thôi. Rồi bài vở phải viết mỗi ngày nữa. Rồi họp hành tổng kết cuối năm. Vì lẽ đó, trốn tránh hết các lời mời mọc lai rai. Ấy thế, vẫn làm một chuyến đi Đà Lạt. Ngày 8.4.1988. Lần đầu tiên lên đây. Không nhớ rõ do nguyên cớ gì, ngày đó, học được chữ “nắng mơn trớn” từ miệng người thợ làm vườn thốt ra.“Khi tôi đến cũng là lúc em đi/ Trái tim tôi ướt đẫm sương khuya/ Xuôi ngược con đường lênh đênh dốc/ Tình yêu tôi vấp té đợi em về/ Tình yêu tôi cảm cúm gió và mưa/ Gió rất lạnh và mưa cũng lạnh/ Đêm nay em đã về chưa?/ Một chút tình muôn đời ám ảnh”. Muôn đời ư? Ngày đó nghĩ thế, nay đã thấy nhẹ tênh như bóng mây bay ngoài trời phiêu lãng. Có như thế, biết quên đi, con người ta mới có thể đến với cuộc tình mới. Làm sao có thể sống với một dĩ vãng đã bùi ngùi tro bụi? Lần này lên lại, mới sực nhớ, vẫn ở Ana Mandara Villas Đà Lạt. Khu biệt thự này xây dựng từ thời Pháp, khoảng thập niên 1930, gần Biệt điện Trần Lệ Xuân, nay là Trung tâm lưu trữ Quốc gia IV - nơi lưu trữ mộc bản triều Nguyễn nhiều nhất Việt Nam. Trong khu biệt thự có nhiều căn hộ riêng biệt. Đã ngủ lại gần hết. Ngày còn trẻ, cái thú du lịch là gì? Có thể vì ba nhu cầu: chiêm ngưỡng danh lam thắng cảnh; thưởng thức món ngon, đặc sản địa https://thuviensach.vn phương; và yêu một người nơi ấy. Khi đã ngoài “ngũ thập”, thú vui lại khác. Khác chỗ nào? Khi đến nơi, con người ta không thèm bước chân ra khỏi phòng mà vẫn tận hưởng được cảm giác mới mẻ của thiên nhiên nơi ấy. Tận hưởng cụ thể qua một nhan sắc cụ thể. Hiện tại của nơi ấy từ thiên nhiên đến thời tiết, khí hậu hấp dẫn qua xương thịt một con người. Chứ không do cảnh sắc từ bên ngoài. Vì lẽ đó, cũng vùng đất đó nhưng mỗi thời điểm đặt chân đến, người ta lại sống trong niềm thích thú khác nhau. Nếu một gã cô độc đến vùng đất lạ, rồi lần sau cũng lẻ loi đến lại lần nữa ắt sẽ không còn tìm thấy niềm vui thú gì. Còn lúc khám phá vùng đất lạ qua một con người cụ thể, thì vùng đất lạ ấy luôn có sự thay đổi mới lạ. Đó là ý nghĩa cuối cùng của du lịch chăng? Một ngày nọ đang viết ngon trớn, vậy mà: “Đà Lạt đi anh. Em thèm cảm giác lạnh của Đà Lạt “Để nghe tơ liễu run trong gió””. Nàng bảo thế. À, thơ Hàn Mặc Tử. Câu kế tiếp thế nào? “Và để nghe trời giảng nghĩa yêu”. Trong tình huống này, phải làm gì? Chẳng lẽ, vẫn tiếp tục cắm cúi với bàn phím, mặc kệ những lời nỉ non, réo rắt, thầm thĩ? Có mà ngốc. Một chuyến bay. Một vòm trời mới. Ở đó, lờ mờ sương khuya và lạnh. Hoa mimosa vàng rực sườn đồi và gió. Ana Mandara Villas Đà Lạt và nắng bạc phếch riu riu vàng vọt sóng soài chân thềm. Mưa xanh như ngọc và lãng đãng mây mù. Những ngày cuối tuần của nghỉ ngơi. Của riêng tư. Vì thế không nên nghe bất kỳ một cuộc điện thoại nào, trả lời một tin nhắn nào. Tắt điện thoại, vẫn tốt nhất. Ở đó, cùng một người sống với thiên nhiên. Qua một người, mở ra một thiên nhiên khác. Chỉ tận hưởng trong muôn trùng cảm giác. Đừng ảo tưởng có thể khám phá đến tận cùng mưa nguồn của vực sâu đang lênh đênh trên https://thuviensach.vn núi. Đừng ảo tưởng có thể chạm bàn chân đến cõi địa đàng. Biết thế ư? Thì hãy cứ tận hưởng trong từng giây phút. Không phân vân. Toàn tâm toàn ý. Mùa vàng rực rỡ. Đang ngon. Lúc ấy, ban trưa có tiếng gà gáy ngân vang từ tháp chuông nhà thờ lặng lẽ trên những triền đồi xa xăm vọng lại. Lúc ấy, những ngọn nến đã thắp. Những giọt men nồng nàn như lửa chảy dài trên chăn gối một nỗi niềm hân hoan. Mệt mỏi. Rã rời. Ngày vẫn dài. Gió vẫn thổi buốt từng ngón tay. Vẫn còn thèm. Đêm. Ngồi ngoài sân, gió buốt. Từ phòng ăn, vọng ra tiếng hát. Tiếng nói cười loãng và trôi theo từng dòng âm thanh. Đêm cũng trôi dần. Tuấn Ngọc hát. Hát mười lăm ca khúc cho vài người nghe. Chỉ là những ca khúc vàng son của một thời đã qua. Nghe nhạc? Khi ấy, con người ta sống lại cùng hoài niệm. “Ôm rách nát không tâm linh/ Ôm tiếng hát không hơi rung nghèo nàn/ Còn yêu chi hoa ngày xanh/ héo hon vì mong manh/ bỏ quên lại người sau ngỡ ngàng”. Ca khúc nào cho Đà Lạt? Nghĩ rằng, chỉ có thể Lê Uyên Phương. Từng giai điệu, ca từ đã tạo nên một không gian riêng biệt của Đà Lạt. Không gian của hẹn hò. Không gian của cuộc tình đôi lứa. Dù êm đềm, dù biệt ly, dù nồng nàn, dù ghẻ lạnh, dù đớn đau, dù muộn phiền, dù hân hoan tình ngon môi ấm thì cuộc tình đó chỉ đẹp khi người ta mới ngoài ba mươi. Thời còn trẻ, nghe Lê Uyên Phương cảm thấy rã rời. Lúc già quá, nghe Lê Uyên Phương cảm thấy lạnh buốt mắt môi mà mười ngón tay không thể che khuất hết. Gió vẫn thổi. Tuấn Ngọc vẫn hát. Trước anh, một nữ ca sĩ vô danh hát lót, chỉ rặt ca khúc về Hà Nội. Lại nghĩ, văn nghệ sĩ Hà Nội luôn có ý thức làm sống lại hình ảnh của một Hà Nội “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài”. Mọi lúc, mọi nơi. Rất tự ý thức. Ý thức một cách cố ý. Hát và viết nhiều về Hà Nội trong mọi tình huống, nếu có thể. Trong khi đó, như một mạch nước ngầm, như đốm lửa nhỏ, các ca khúc Sài Gòn một thời vàng vọt ánh điện câu, đường về đêm nay vắng tanh, dạt https://thuviensach.vn dào hạt mưa rớt nhanh, lạnh lùng mưa xuyên áo tơi, trăng gầy nghiêng bóng cài song thưa, trăng tàn trên hè phố, phố đêm đèn mờ giăng giăng… vẫn thao thức trong lòng người. Day dứt. Bùi ngùi nhưng không ủy mị. Như một hoài niệm. Như câu văn của Thạch Lam vọng đến đánh thức một niềm đau hân hoan, tiếc nhớ: “Mỗi mùa, nàng lại cài một đóa hoàng lan trên mái tóc để tưởng nhớ mùi hương”. Chỉ vậy thôi. Mùi hương ấy nhẹ nhàng, đã mất, đã xa khuất, mà, lạ chưa, vẫn hiện hữu trong từng sợi máu chảy ngầm qua mạch sống hiện tại. Chiều. Lang thang xuống phố, đi dọc bờ hồ. Quán Thanh Thủy. “Theo em xuống phố trưa mai/ đang còn nhức mỏi đôi vai/ Theo em bước xuống cơn đau/ bên ngoài nắng đã lên mau”. Dừng chân, mua một lon lạc luộc, củ khoai nướng chỉ mười lăm ngàn đồng. Bà cụ vuốt từng tờ giấy bạc cho phẳng phiu. Cẩn thận cất trong túi áo. Và mỉm cười sung sướng. Thấy thương quá. Ông trời hay thật. Bất kỳ ai dù giàu, dù nghèo cũng có niềm vui, nỗi khổ như nhau. Đời sống nhẹ nhàng. Ai cũng có được niềm vui trong cõi sống. (16.1.2015) https://thuviensach.vn NGÀY SỐNG ĐỜI THƠ Lê Minh Quốc www.dtv-ebook.com 3. Âu Cũng Là Cái Duyên Đó Thôi Đã sắp Tết. Đã phát hành lai rai báo Xuân. Đã dự nhiều cuộc liên hoan, tổng kết cuối năm. Đã ngày tháng vẫn còn đủ sức đánh đu cùng bài vở chuẩn bị cho các số mới. Mỗi một ngày vẫn thế. Đọc báo Xuân loáng thoáng. Chưa có thời gian đọc kỹ. Dừng lại với tờ An Ninh Thế Giới Xuân 2015, chú ý bài viết về nhà sưu tập người Mỹ Howard A. Daniel. Đọc xong, nghĩ rằng, những hiện vật trong trời đất, nếu có duyên thì gặp, bằng không chỉ là không. Những gì của mình ắt của mình, cho dù có chìm nổi ở tận chân trời góc biển nào. Ông Howard A. Daniel đã sở hữu một hiện vật liên quan đến cuộc đời của một Con Người “lấy sóng gió làm gối, lấy sương tuyết làm cơm”: Chí sĩ Phan Bội Châu. Bài báo này cho biết, vào năm 1970 tại hội chợ đấu giá tiền tổ chức ở Hồng Kông, Howard A. Daniel nhìn thấy hiện vật độc nhất vô nhị nằm trong phần tiền Trung Quốc. Linh tính mách bảo không phải tiền Trung Quốc mà của Việt Nam. Quả nhiên, nhờ có chữ “An Nam” in trên tờ giấy đó. Là dân sưu tầm chuyên nghiệp, lõi đời, Howard A. Daniel thừa biết đây là báu vật mà ông và các đồng nghiệp chưa hề nhìn thấy bao giờ. Giá bán khởi điểm 65 USD, ông muốn mua ngay với số tiền gấp mười lần. Tuy nhiên một người bạn đứng gần khẽ bảo không nên vội vàng, vì như thế, thiên hạ sẽ chăm chú, tìm hiểu giá trị của tờ giấy này. Và sẽ đẩy giá lên rất cao. Chi bằng cứ tỉnh bơ xem sao. Cuối cùng, ông đã sở hữu với giá chỉ 85 USD. Về sau, có nhà sưu tầm người Việt ở hải ngoại sẵn sàng mua lại với giá 10 ngàn USD nhưng ông từ chối. https://thuviensach.vn Đó là tờ Quân dụng phiếu do tổ chức Việt Nam Quang phục Hội của cụ Phan Bội Châu in năm 1912, in tại Trung Quốc. Trong lịch sử nước nhà, Hồ Quý Ly là người đầu tiên có sáng kiến in tiền giấy. Và trong lịch sử cận đại, người tiên phong in tiền giấy lần thứ hai chính là cụ Phan Bội Châu. Do đó, hiện vật này có một vị trí đặc biệt quan trọng là vậy. Theo bài báo: “Mặt trước của tờ Quân dụng phiếu, phía trên có in quân kỳ Việt Nam Quang phục Hội, chính giữa in hình chiếc xe lửa và dòng chữ in bằng hai thứ tiếng Hoa - Pháp”. Kiểm tra lại hình ảnh in trên báo, thấy miêu tả đúng. Tuy nhiên ngờ ngợ với một thông tin này: “Mặt sau ghi bằng tiếng Hoa, nội dung: “Loại giấy bạc này được Cục Kho bạc phát hành để đáp ứng nhu cầu chi trả các chi phí quân sự của quân đội và lưu hành tương đương với đồng bạc đô la mà không có sự chênh lệch về tỷ giá. Loại tiền này có các mệnh giá 1, 5, 10 và có thể quy đổi tại ngân hàng và các công ty được chỉ định bởi Cục Kho bạc. Chúng được sử dụng như một loại tiền tệ chính thức ở những nơi mà quân đội đóng và cũng có thể dùng để đóng thuế. Bất kỳ người nào giả mạo, sử dụng gian lận hoặc từ chối chấp nhận loại tiền này sẽ bị phạt theo mức tối đa của pháp luật quy định. Sắc lệnh lưu hành loại tiền này được ban hành bởi Tư lệnh Lực lượng Hải quân và Cục trưởng Cục Kho bạc”. Ơ hay, hải quân hải quyết gì ở đây? Thông tin này, có thật vậy không? Tiếc bài báo không in mặt kia của tờ Quân dụng phiếu nên không thể kiểm tra. Vậy phải làm cách nào? Sáng nay, lục tung lại sách vở, tìm đọc Phan Bội Châu niên biểu xem sao. Sự kiện này, cụ Phan cho biết: “Quân dụng phiếu chia ra bốn loại, mặt trước hàng trên viết chữ “Việt Nam Quang phục quân dụng phiếu”, hàng giữa viết số tiền bằng chữ lớn “Ngũ nguyên, thập nguyên, nhị thập nguyên, bách nguyên”, bốn góc cũng viết chữ số như thế, mặt sau viết hai thứ chữ Hán và Quốc ngữ: “Phiếu này do lâm thời quân chính phủ của Việt Nam Quang phục quân phát hành, đổi lấy thực ngân, đợi sau này https://thuviensach.vn chính phủ dân quốc chính thức thành lập, sẽ đem thực ngân đổi lại và trả lại gấp đôi, cấm không ai được làm giả, người nào trái lệnh sẽ bị trừng phạt”, dưới ký tên Phan Sào Nam, người kiểm phát là Hoàng Trọng Mậu. Phiếu in bằng điện rất tinh xảo, không khác gì giấy bạc Trung Hoa”. Ta hiểu "in điện" là in bằng máy móc chứ không phải thủ công, in tay. Thông tin của cụ Phan đáng tin cậy hơn. Cụ viết Phan Bội Châu niên biểu vào năm 1929, tức chưa xa sự kiện trên nên không thể bảo cụ nhớ sai, hơn nữa, cụ còn là người trong cuộc. Nhân đây nói luôn, người hiến kế cho cụ Phan là ông Tô Thiếu Châu, đảng viên Cách mạng Trung Quốc. Quân dụng phiếu đã phát hành tại hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây (Trung Quốc) và cả trong nước. Ngoài ra, Việt Nam Quang phục Hội còn “chế ra quốc kỳ Việt Nam lần đầu tiên” (chữ dùng của cụ Phan). Quốc kỳ như thế nào? Cụ Phan cho biết: “Nước ta trước kia chỉ có cờ Hoàng đế mà không có quốc kỳ cũng là một sự lạ; lúc ấy mới định dạng quốc kỳ dùng kiểu ngũ tinh liên châu (một chuỗi năm ngôi sao), vì nước ta có năm bộ phận lớn, dùng kiểu này để tỏ ý năm bộ phận lớn liên lạc thống nhất, sắc cờ dùng nền vàng sao đỏ làm quốc kỳ, nền đỏ sao trắng làm quân kỳ: vàng là để biểu hiện giống người nước ta, đỏ để biểu hiện nước ta ở phương Nam thuộc về hỏa, hỏa là sắc đỏ; sắc trắng thuộc về kim, chủ của việc sát phạt nên dùng làm sao của quân kỳ” (xem Văn học Việt Nam thế kỷ XX - NXB Văn học - 2001). Thử hỏi, khi cụ Phan viết, "nước ta có năm bộ phận lớn", có thể hiểu lúc đó Liên bang Đông Dương thuộc Pháp ngoài Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ còn có cả Cambodia và Lào. Tư liệu này có gì quan trọng? Đọc lại các tập như 100 năm tiền giấy Việt Nam (NXB Trẻ, Hội Tem TP.HCM - 1994), Lịch sử tiền tệ Việt Nam (NXB Văn hóa Sài Gòn - 2010) của Nguyễn Anh Huy… cũng không trưng ra được hiện vật này. Và chắc chắn Bảo tàng Lịch sử Việt Nam cũng không lưu giữ https://thuviensach.vn được. Nếu hiện vật Quân dụng phiếu của cụ Phan Bội Châu do Howard A. Daniel sở hữu được các nhà nghiên cứu sử tiếp cận, có lẽ sẽ giúp ích nhiều hơn nữa cho bạn đọc. Âu cũng là cái duyên đó thôi. Đọc hồi ký của nhà sưu tập Vương Hồng Sển nhớ mãi chi tiết này, đại khái, khoảng thập niên 1960, cụ được mời dạy học ở ngoài Huế. Nhân đó, những ngày ở Huế, cụ biết có người muốn bán một món đồ cổ (nếu nhớ không lầm người bán có tên ngộ nghĩnh là Khóa Ổi). Nhìn hiện vật, cụ thích lắm nhưng ngặt nỗi chủ nhân hô giá quá cao. Cụ muốn mua, phải mua cho bằng được, nhưng vẫn làm “cứng” cò kè bớt một thêm hai. Chủ cũng không phải tay vừa. Vì thế, cứ chần chừ mãi. Sau khi về Sài Gòn, cụ lại nhờ người thỉnh thoảng đến thăm dò món ấy đã bán chưa? Chưa à? Thế là cụ yên tâm. Rồi vài lần sau ra Huế, cụ lại tìm đến, lại trả giá, lại mân mê, sờ soạng, ve vuốt cho thỏa lòng nhưng cũng chẳng đi tới đâu. Rồi quay về Sài Gòn là nhớ, là ước ao phải mua cho bằng được. Chỉ có mua được món ấy thì ngủ mới yên giấc, bằng không cứ trằn trọc mãi, chỉ sợ lọt vào tay người khác thì tiếc hùi hụi. Cuối cùng, cụ quyết định mua. Khi ra Huế, đến nhà Khóa Ổi, cụ tưởng như đất lún dưới chân, như sét đánh ngang tai: món đồ cổ ấy đã bán rồi! Cụ giậm chân kêu trời, tưởng chừng có thể chết đi được. Vậy phải làm sao đây hở trời? Suốt mấy ngày liền cụ thẫn thờ, tiếc đứt ruột. Về lại Sài Gòn, cụ dò hỏi mọi cách, phải tìm cho ra chủ nhân đã mua món đồ cổ ấy. Rồi cụ cũng tìm ra và mua lại được. Tất nhiên, mua với giá cao hơn của Khóa Ổi đưa ra. Dù vậy, cụ cũng hài lòng vì cuối cùng, vật quý cũng về tay mình. Âu cũng là cái duyên đó thôi. Hiểu thế để hài lòng với những gì đang có. Nếu không, đôi lúc đi trên https://thuviensach.vn đường tình cờ thấy cô nàng con nhà giàu, học giỏi, mắt bồ câu, mũi dọc dừa, sắc nước nghiêng thành nhưng lại cặp kè với thằng cha cực kỳ “cùi bắp”. Và ngược lại. Nhìn cảnh ấy chõi mắt quá! Tiếc quá đi mất! Tự dưng lại thấy tiếc! Buồn cười chưa? Vô duyên chưa? Chữ “duyên” này khác với: “Còn duyên kẻ đón người đưa/ Hết duyên đi sớm về trưa một mình”. Thôi thì kể ra chuyện này cho nó nhẹ lòng. Chuyện rằng, mấy hôm nay hễ đi ngang qua con đường đó, nhớ lại chuyện đó là cứ tức anh ách. Chuyện gì vậy? Chuyện rằng, hôm đó tình cờ đi ngang qua đó thấy mấy bà bán ve chai đang túm năm tụm ba. Như thói quen, y dừng xe, sà đến xem có bán sách báo cũ gì hay không. Trời ơi, ngày hôm đó, lúc đó, không thể tin trước mắt y là những bộ Bách khoa đóng bìa cứng nằm ngổn ngang. Y mừng rú như bắt được vàng. Sờ tay vào túi quần, có tiền. Vậy yên tâm. Mừng ơi là mừng. Nếu đổi cái mừng này để lấy trúng số độc đắc y cũng quyết không là không. Chả dại. Nhưng than ôi. Ôi, than ôi. Lúc y hỏi mua, bà bán ve chai cho biết trước đó một phút đã bán cho người khác rồi. Y choáng váng. Tiếc quá đi mất. Trước y chỉ một phút, đã có người hỏi mua, nhưng do không đủ tiền, nhờ giữ lại, sẽ quay lại lấy sau. Vậy biết làm thế nào? Chẳng lẽ trả tiền cao hơn để mua luôn như gợi ý của bà bán ve chai? Giá bán rẻ như bèo, mà dù có phải mua với giá cao gấp nhiều lần, y vẫn đủ sức. Vậy có nên không? Không. Ai lại làm thế. Người này vui ắt có người kia buồn. Do mình không có duyên nên không thể sở hữu. Cứ tin cái gì của mình, tự nó sẽ tìm đến, bằng không cũng là không. Tự an ủi nhưng đến nay vẫn ấm ức mãi. Thì ra, con người ta nhỏ nhen, ham hố, tham lam là thế. Y đang nói về y đấy ư? Vâng ạ. https://thuviensach.vn (26.1.2015) https://thuviensach.vn NGÀY SỐNG ĐỜI THƠ Lê Minh Quốc www.dtv-ebook.com 4. Và Lùa Theo Không Biết Mấy Là Hương Những ngày này, mỗi sáng thức dậy cảm thấy trời lành lạnh. Rất Tết. Thèm một chút nghỉ ngơi. Nhưng rồi cũng khó. Đã phải chuẩn bị bài vở cho số Tân niên. Bận rộn. Chiều qua, đã lên phim trường VTV9 cùng nghệ sĩ Quế Trân, Quyền Linh trao đổi về vấn đề liên quan đến phụ nữ. Chương trình sẽ phát sóng vào… ngày 8.3 năm tới! Ấy là “lương khô”, “bài nằm” - tức những tiết mục, bài viết đã chuẩn bị chu đáo, chỉ chờ tới dịp là phát sóng, in báo. Vị chủ báo viết “bài nằm” nhiều nhất có lẽ là cụ Huỳnh Thúc Kháng thời làm báo Tiếng Dân. Do thói quen ngày nào cũng viết và nhất là sợ thiếu bài, nên cụ viết liên tục, hết bài này đến bài khác để dành sử dụng dần. Cụ đã viết hàng ngàn bài báo trên Tiếng Dân, ký nhiều bút hiệu như Sử Bình Tử, Mính Viên, Tha Sơn Thạch, Khỉ Ưu Sinh, Xà Túc Tử, Ưu Thời Khách, Ngu Sơn, Hải Âu, Điền Dân, Thức Tự Dân, Tiếng Dân… Gần Tết là khoảng thời gian chạy ngược gió. Chạy hết tốc lực. Hào hứng say mê. Rồi chắc chắn chỉ khoảng thời gian ngắn nữa là chạm đến Giao thừa. Cuộc nghỉ ngơi dài ngày. Với y, lại quay về Đà Nẵng. Lại bãi bờ. Lại những tiếng sóng ầm vang chiều xuân. Lại đón nhận thêm tuổi mới. Một tuổi của quê nhà. Sực nghĩ, những người sống xa quê, dịp này, tâm trạng như thế nào? Tình cờ hôm nọ, lang thang hiệu sách cũ mua được tập bản thảo song ngữ, chừng một trăm trang, in vi tính. Tựa tiếng Hà Lan West En Oost Ontmoeten Elkaar (Việt Âu Á gặp nhau) của Trương Thị Diệu Đế. Cái tên nghe là lạ. https://thuviensach.vn Ngộ nghĩnh. Những gì đã viết, phổ biến dưới hình thức nào cũng không quan trọng, nếu có “duyên” ắt có người tìm đọc. Bằng không, chỉ là nước chảy hoa trôi. Lỡ làng duyên phận. Đọc và biết tác giả sinh tại Đà Lạt, đậu Tú tài vào tháng 5.1972, sang Hà Lan năm 1980. Cô viết lại những cảm nhận vào thời gian mới đến xứ người. Đọc và thích câu chuyện này: Ngày nọ vì trễ chuyến xe lửa đi Leerdam, nên cô thả bộ từ nhà ga Dordrecht đến chiếc cầu gần đó, như một cách giết thời gian, đợi chuyến sau. Ở đó, cô thấy một con mèo bị thương nằm trong bụi cây. Bỗng nhiên có xe cứu thương cho súc vật chạy đến và đem con mèo đi. Chứng kiến cảnh kỳ lạ ấy, cô thầm nhớ về quê nhà. Nghĩ đến cảnh ngộ đồng bào mình nghèo khó, tàn tật, ăn xin lê lết ngoài phố nhưng nào có ai thèm đoái hoài đến. Trong khi đó, ở xứ này một con mèo bị thương lại được chăm sóc rất đỗi tận tình, chu đáo, vì thế: “Nước mắt tôi trào ra và tôi không nín khóc được. Bỗng nhiên tôi cảm thấy một bàn tay đặt lên vai mình. Có một bà cụ đang cố gắng an ủi tôi”. Xin dừng một chút để nói rằng, một truyện ngắn hay là có thể phút cuối có một vài chi tiết tạo ra sự bất ngờ cho bạn đọc. Chuyện con mèo bị thương không là truyện ngắn. Ấy thế, lời an ủi của bà cụ cũng bất ngờ không kém. Bà cụ đã nói gì? Có lúc nghĩ rằng, có phải người Việt đều hiểu tiếng Việt? Không ai dám ưỡn ngực gật đầu cả. Nếu ai đó bảo giải thích tường tận những địa thế đất đai, sông rạch đại loại như bàu, trảng, giồng, vàm, gò, rú, xẻo, gành, phá, truông, trủng, trủn, rộc, rạch, vũng, hóc, đụn… thì y xin chào thua. Chẳng hạn, ở Nha Trang, có địa danh Chụt! Nghe lạ tai quá. Ắt nhiều người cũng lần đầu tiên biết chăng? Theo Đại Nam Quốc Âm Tự Vị (1895) của Huỳnh Tịnh Paulus Của, Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, Tự Điển Việt Nam của Lê Ngọc Trụ và Lê Văn Đức, Việt Ngữ Chính Tả Tự Vị đều giải thích: Chụt là vũng https://thuviensach.vn nước nhỏ ở dựa ghềnh biển có thể cho ghe thuyền núp gió. Vè thủy trình từ Huế vô Sài Gòn có đoạn: “Nha Trang xuống Chụt bao xa/ Kẻ vô mua đệm, người ra mua chằng/ Anh em mừng rỡ lăng xăng/ Người hỏi thăm vào, kẻ hỏi thăm ra/ Anh em chè rượu hỉ ha,.... Nói tắt một lời: “Chụt là vũng nước nhỏ ở dựa ghềnh biển có thể cho ghe thuyền núp gió”. Từ cũ, ít sử dụng phổ biến ít người biết đã đành. Mà nhiều lúc nghe quen, nghe mãi nhưng bảo giải thích cũng khó. Thử hỏi “dỡ mắm” nghĩa là gì? Đọc di cảo Dỡ mắm của cụ Vương Hồng Sển. Tóm tắt vài ý của cụ Sển, đại khái mắm gài từ mấy năm trước, nay lấy ra ăn gọi là “dỡ mắm”. Trước đó, “mót vài ba con cá hôi trong ao bùn, thêm muối và gài vào lu hũ, chờ qua năm sau, cá muối thành mắm, dù lua hột cơm cho qua bữa”. Nếu chỉ có thế, chẳng gì đáng bận tâm, oái oăm chính là ở chỗ khi dỡ nắp mái ra chỉ thấy những dòi! Ngồi buồn dỡ mắm nhau ra Mắm ông thì thúi, mắm bà không thơm Lần đầu tiên đọc được câu này. Ngày còn nhỏ, ở ngoài Trung, mẹ y cũng thường xuyên làm mắm cá cơm. Những lúc có dòi, mẹ thường đùa mà rằng: “Dòi mẹ thì ngon, dòi con thì béo”. Nói thế thôi, chỉ cần vớt dòi bỏ ra ngoài chén mắm là xong. Lại nghe câu tục ngữ: “Ăn mắm mút dòi”. Mút sạch chất mắm trên con dòi rồi mới bỏ đi. Sự hà tiện, tằn tiện ấy đố ai có cách nói hay hơn? Có phải người Việt học ở người Chiêm Thành về cách làm mắm? Bằng chứng, phía ngoài Bắc chỉ rành về tương. “Dưa La, cà Láng, nem Báng, tương Bần, nước mắm Vạn Vân, cá rô Đầm Sét”. Suy nghĩ này có đúng không? Sự cách biệt văn hóa thể hiện rất rõ nét trong nghệ thuật ẩm thực. Không rõ ông Tây bà đầm nếu chứng kiến cái cảnh người dân quê y “ăn mắm mút dòi”, họ sẽ có ấn tượng gì? Nhân đây ghi lại cho nhớ vài câu tục ngữ có liên qua đến mắm: Lỉnh khỉnh như chĩnh mắm thối, Ăn mắm thì ngắm về sau, https://thuviensach.vn Liệu cơm gắp mắm, liệu con gả chồng… Không ngoa một chút nào, khi nói rằng “mắm” cũng thuộc hạng “quốc hồn quốc túy” của người Việt. Thế đấy, lời ăn tiếng nói rõ ràng, còn khó giải thích, chứ huống gì thơ. Chiều hôm kia tham dự chương trình bình thơ Tết cho HTV9. Có mấy ý kiến cần ghi lại. Về bài thơ Gái xuân của Nguyễn Bính, tựa bài thơ đã là một sự táo bạo, cách tân cách đây hơn năm mươi năm. Thời Lê Thánh Tôn mới dừng lại ở Đề miếu bà Trương, thời Hồ Xuân Hương cũng chỉ Thiếu nữ ngủ ngày. Chẳng ai nói sỗ sàng là "gái". Đến thời Thơ mới, đã thấy đàng hoàng xuất hiện, cụ thể Gái xuân. Bẵng đi thời gian dài, gần đây mới thấy Miền gái đẹp (Hoàng Phủ Ngọc Tường), Gái đẹp trong tôi (Lê Minh Quốc)… “Gái xuân giũ lụa trên sông Vân”. Sông Vân ở đâu? Tra tự điển biết rằng con sông này ở Ninh Bình; nhiều tư liệu khác cho rằng sông Vân ở làng quê Nguyễn Bính tại Nam Định. Điều này không quan trọng. Có thể, Vân là tên của một người đẹp thì sao? Ai dám bảo nhà thơ không gài “mật mã” ngay chính trong câu thơ của mình? Nhớ khi xưa ta là chim Phượng Hoàng Vỗ cánh bay chín tầng trời cao ngất Bay từ Đao Lỵ đến trời Đâu Suất Và lùa theo không biết mấy là hương (Hàn Mặc Tử) Địa danh Đao Lỵ, Đâu Suất ở đâu? Nào ai biết nếu không am tường thuyết nhà Phật. “Tố của Hoàng ơi Tố của Hoàng”, câu thơ của Vũ Hoàng Chương đó. Ai là Hoàng? Ai là Tố? Nếu ngày xưa, các cô gái có mái tóc demi garcon, hoặc xanh đỏ tím vàng như diễn viên Hàn Quốc, đố Nguyễn Bính có thể viết được câu “Đôi tám xuân đi trên mái tóc”. Câu thơ ấy, có thể https://thuviensach.vn liên tưởng đến mái tóc mượt, dài, thậm chí dài chấm gót, có được không? Tại sao không? Hình ảnh người mẹ, người chị ngồi bên giếng nước gội tóc bằng bồ kết, hoa bưởi, hoa chanh thời buổi này chắc không còn nữa. Có lẽ nhiều người vẫn còn xao xuyến khi đọc lại câu thơ này của Nguyễn Bao: Tháng giêng được ngày nắng mới Tóc em dài dịu mát màu xanh Anh đưa qua rào một nắm lá chanh Em gội tóc thơm bên hè hong nắng Tình cảm ấy chân thật, hiền lành, quê kiểng quá đi mất. Bài thơ Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp cũng có nhiều điều để bàn. Chẳng hạn, thơ phải Mộng, Hư ảo nhưng ở đây lại Thật, Cụ thể đến từng chi tiết: Khăn nhỏ, đuôi gà cao, Em đeo dải yếm đào; Quần lĩnh, áo the mới, Tay cầm nón quai thao. Có thể nói, các câu thơ ngũ ngôn, cụ thể 136 câu trong Chùa Hương sẽ nhẹ tênh, không đủ sức trụ lại với thời gian, nếu không có câu này. Câu gì? Câu: “Nam mô A Di Đà”. Câu thơ đó cho thấy sức sống một chiều dài văn hóa truyền thống ngàn đời của người Việt. Nhờ câu đó, bài thơ còn sống thọ qua nhiều năm tháng nữa. Nó đã vượt lên chuyện tình đôi lứa mà chạm đến một điều khác, thiêng liêng hơn trong tâm linh của một dân tộc. Câu thơ ấy ngẫu nhiên hay cố ý? Nào ai biết. Bí mật của thơ đôi khi nằm ngoài trí tưởng tượng, kiểm soát của người viết ra nó. https://thuviensach.vn Rồi, lại hỏi người con gái cụ thể trong bài thơ Chùa Hương là ai? Bèn cười mà rằng, đừng quan trọng chuyện đó. Hãy cứ để cô gái mười lăm ấy mãi mãi sắp trăng rằm trong tưởng tượng mỗi người. Ngày kia, ông Thế Nhật đi tìm cụ thể T.T.Kh là ai? Đã chứng minh, đã tìm ra con người cụ thể. Đúng sai thế nào chưa rõ nhưng oái oăm, chính con người cụ thể ấy, từ Pháp, đã phản ứng dữ dội. Những hình bóng tình nhân, nhan sắc trong thi ca, nhạc, họa cứ nên để công chúng nghĩ theo trí tưởng tượng của họ. Cần gì phải biết đến người thật. Biết, lắm khi vỡ mộng. Ngày qua Mỹ, gặp anh bạn nhà báo Việt kiều. Anh quả quyết câu thơ này, Quang Dũng viết tặng mẹ anh và lấy làm sung sướng, hãnh diện: Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Anh cho biết, mẹ anh nay đã ngoài tám mươi, thời trẻ cũng quen biết nhiều nhà thơ và có làm thơ, ký bút danh Giáng Kiều. Anh tự hào vì, ít ra mẹ mình là phụ nữ đẹp, thời trẻ nhan sắc của bà cũng là nguồn cảm hứng cho nhà thơ nổi tiếng, chứ nào phải tầm thường. Nào ai biết cụ thể ra sao? Thôi thì, đến với câu thơ, tự người đọc mường tượng ra nhan sắc ấy theo trí tưởng tượng vậy. Trở lại với chuyện con mèo bị thương ở Hà Lan mà cô Trương Thị Diệu Đế đã chứng kiến. Lúc cô ôm mặt nức nở vì nhớ đến thân phận nguời nghèo ở quê nhà thập niên 1980, có bà cụ người Hà Lan đến gần đặt tay trên vai an ủi. Bà cụ nói gì? Bà cụ nói rằng: “Maak je maar geen zorgen over de poes, hij wordt goed verzorgd en wordt vast wel weer beter" (Thôi con đừng lo lắng cho con mèo nữa, nó đã được săn sóc chu đáo và chắc chắn là nó sẽ khỏe ra). Thế đấy! Ôi đời! Những ngày này, mỗi sáng thức dậy cảm thấy trời lành lạnh. Rất Tết. https://thuviensach.vn Thèm một chút nghỉ ngơi. “Và lùa theo không biết mấy là hương”. (29.1.2015) https://thuviensach.vn NGÀY SỐNG ĐỜI THƠ Lê Minh Quốc www.dtv-ebook.com 5. Thời Gian Vời Vợi Phiêu Linh Mỗi một ngày đi đứng trên mây Bụi bặm không lem dưới gót giày Tiếng hót viễn mơ du dương quá Vẽ nhọ tân trang cái mặt mày Thời gian lao nhanh như vó ngựa. Lao qua năm tháng. Rất vội. Chứ không đủng đỉnh như một kẻ nhàn tản ngày ngày thong thả, ngắm nhìn, đu đưa với cảm hứng trời xanh mây trắng. Đã có không khí Tết. Tết đang đến từng ngày trong sự tất bật, bận rộn của từng người. Từng người cứ như đang phải chạy thật nhanh với biết bao công việc phải lo toan, phải gấp rút thực hiện cho xong. Sáng dậy sớm, tự dặn lòng phải mua ngay hai chậu hoa vạn thọ, màu vàng nghệ chưng trước nhà để mẹ nhìn vui mắt, thầm nhớ đến quê nhà xa lắc. Tết rồi. Hoa vạn thọ quê mùa ấy, chẳng hiểu sao luôn gợi trong tâm trí y hình ảnh rất Quảng Nam. Lúc nhìn hoa, y có thể mường tượng nhớ về, nhớ lại những tháng ngày đã chìm sâu trong ký ức. Lạ chưa? Thời buổi này, những giá trị nhân văn đang mất dần đi. Thế giới trong trẻo, hồn nhiên của ngày thơ đã cảm nhận, đã nhìn thấy vẫn là nơi mà con người ta muốn tìm về. Để làm gì? Thanh lọc lại tâm hồn. Nếu không có tâm hồn trẻ thơ, làm sao thi sĩ Bàng Bá Lân (1912-1988) có thể viết được dăm ba câu thơ mộc mạc lại diệu vợi thế này: Những bàn tay già gầy guộc https://thuviensach.vn Còn lay ống thẻ đầu năm? Và ở miền quê yêu dấu Đình chùa miếu mạo ra sao? Hội hè nô nức xôn xao Cây đu còn dải yếm đào đùa bay? Những chiếc khăn vuông mỏ quạ Còn ôm ấp má hây hây Những cặp môi hồng tươi nở Còn thơm, còn thắm trầu cay? Có thể hiểu "lay ống thẻ" là xin xăm, bói xem một quẻ tốt xấu thế nào; "yếm": đồ mặc nhằm che ngực của phụ nữ; "khăn vuông mỏ quạ": khăn của đàn bà chít như hình mỏ con quạ... Những người sống xa xứ, nếu đã từng cảm nhận những hình ảnhtrên, khi đọc ắt ứa nước mắt. Bùi ngùi. Cảm động. Với thế hệ của y, tất nhiên không thể nhìn thấy “cây đu, dải yếm đào, chiếc khăn vuông mỏ quạ” của Tết xứ Bắc nhưng làm sao không nhớ đến “trầu cay”? Ngày xưa, mẹ y và các dì có ăn trầu. Đêm qua, đọc lại một đoạn văn ngắn, tự dưng nhớ thương da diết ngày tháng xa xưa ấy, ngày mẹ còn khỏe mạnh, còn ăn trầu “cặp môi hồng tươi nở”. Văn chương đôi lúc cũng chẳng phải gánh vác cho lắm sứ mệnh to tát gì, chỉ cần qua đó, người đọc nhớ về một kỷ niệm êm đềm đã xa xăm. Vậy là đủ. Đêm qua, nằm đọc quyển Giảng văn lớp 7 in tại miền Nam năm 1972. Dừng lại với đoạn văn này của nhà văn Tô Nguyệt Đình (1920-1988): “Bà phán mới ngồi xề lại chiếc ghế ngựa, mở ô lấy một lá trầu vàng, bệt https://thuviensach.vn vôi bỏ vào miệng nhai nhóc nhách. Bà lại lấy miếng cau tươi mà chị ở bổ sẵn, một cọng vỏ giấy rồi bỏ vào miệng nhai luôn. Nước bã trầu đỏ ối chảy ra hai bên mép, bà phán cầm ống nhổ bằng đồng bóng lộn nhổ vào một bã trầu, đoạn cầm lấy khăn trên vai xuống chùi miệng. Bà vớ lấy một cục thuốc bằng ngón tay cái để lên môi xỉa qua xỉa lại, mấy ngón tay cái của bà vảnh ra để lộ mấy chiếc cà rá nhận hột xoàn chiếu sáng ngời trên các ngón giữa, áp út và út”. Ông nhà văn tả khéo quá. Nếu không, làm sao y có thể nhớ về ngày hoa niên đã nhìn thấy mẹ ăn trầu? Giải thích luôn vào từ, chẳng hạn, "ghế ngựa": dùng hai tấm gỗ dày ghép lại, kê lên cái giá để ngồi hoặc nằm;"mở ô": mở cái hộp đựng trầu; "chị ở": người giúp việc, Osin;bổ đôi: chẻ, cắt ra làm hai; "vỏ giấy": vỏ trầu đã thái, đập dẹp phơi khô; "cà rá": chiếc nhẫn đeo tay; "nhận": khảm sâu vào chỗ thủng... Rồi lại nhớ câu thơ đã viết từ thời trai trẻ trên chiến trường K. Tự dưng buồn buồn. tưởng tượng một ngày kia trăng treo trên vòm trời Đà Nẵng rất khuya mẹ khỏe mạnh giã gạo hương cau thơm rụng đầy sân nhà ông ngoại thuở ấy mẹ mới về với cha mới nghĩ vậy thôi con sung sướng khóc òa một niềm vui vĩnh cửu... Khi đã không còn nét cũ, khi đã xa rời ký ức thì bao giờ cũng đọng lại tâm tưởng những buồn vui không rõ nét. Nhớ và quên. Rồi cứ thế, đời sống lại lao đi. Hiện tại của hôm qua đã trở thành dĩ vãng của tương lai. Không gì có thể https://thuviensach.vn níu kéo mãi hình ảnh cũ đang từng ngày mất dần. Ngay cả chính thân phận trần tục và tầm thường của mỗi người cũng thế. Thay đổi dần theo năm tháng. Rồi đến lúc ngoảnh lại, ơ hay, gương mặt của mình hiển hiện trên gương soi đấy ư? Sáng thức dậy sớm, nhìn lên trời, ngó xuống đất và chẳng biết để làm gì. Đôi khi lòng rỗng rễnh như cái rương cũ kỹ không còn có gì ở đó nữa. Đôi khi cũng cần sắp xếp lại; hoặc xé bỏ, đốt hết những trang thư cũ, những hình ảnh cũ ngay chính trong tâm hồn mình. Để làm gì? Chẳng làm gì cả. Một sự níu kéo giữa hiện tại và quá khứ chỉ còn là làn khói mỏng, nhẹ tênh lễnh, tan loãng từ bàn tay thả vào không gian xa tít. Y nhìn vào y. Nhìn và soi rọi lại một kiếp người đã ngoài ngũ thập. Đã thấy gì? Tự dưng từ đâu đó, từ trong tiền kiếp ảo ảnh xa xăm nghe réo rắt, nghe thì thầm, nghe nức nở, nghe vỗ về những bước đi nhịp nhàng Sáu Tám: Ta còn để lại gì không? Kìa non đã lở, này sông cát bồi Lang thang từ độ luân hồi U minh nẻo trước xa xôi dặm về Trông ra bến Hoặc, bờ Mê Nghìn thu nửa chớp, bốn bề một phương Ta van cát bụi bên đường Dù nhơ, dù sạch đừng vương gót này Ðể ta tròn một kiếp say Cao xanh liều một cánh tay níu trời https://thuviensach.vn Nói chi thua được với đời Quản chi những tiếng ma cười đêm sâu Tâm hương đốt nén linh sầu Nhớ quê dằng dặc ta cầu đó thôi Ðêm nào ta trở về ngôi Hồn thơ sẽ hết luân hồi thế gian Một phen đã nín cung đàn Nghĩ chi còn mất, hơi tàn thanh âm Thơ Vũ Hoàng Chương. Những câu thơ viết như chơi, như phóng bút lên nền mây trắng. Viết như một tiếng thở dài. Như nửa khuya tỉnh giấc nghe buồn vu vơ, buồn não ruột bởi tiếng mèo ăn đêm đi ngang qua mái nhà. Những câu thơ đã viết. Rồi quên. Quên béng đi. Chẳng hề nhớ. Ấy thế, có người lại nhớ nếu tìm ở những câu thơ ấy một sự đồng cảm. Một cảm thông. Một an ủi. Dẫu trong lâu dài, trong chốc lát cũng đã là đủ rồi. Đừng tơ tưởng thêm gì khác. Đôi khi thích đọc thơ là vậy. Có những câu thiêng liêng. Có những câu tầm thường. Có thể câu thơ như viên đạn đồng K.54 xuyên qua óc. Mà có thể cũng như vệt gió non trợt ngoài trí nhớ, không hề hằn lại một dấu vết nào của sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng. Những lúc ấy, khép lại cánh cửa mở ra phía cuộc đời, con người ta quay về nhìn lại chính mình. Soi rọi vào trong bản ngã để rồi tự hỏi rằng, ngày tháng đã giẫm hai chân trên trái đất này, đã sống thế nào, đã yêu thế nào và đã giữ được những gì trong tay. À, giữ được gì? https://thuviensach.vn Chỉ thấy trong lòng bàn tay là những rãnh sâu ngang dọc số mệnh vô hình tướng. Vui là thế. Chán là thế. Chẳng mấy chốc “Tâm hương đốt nén linh sầu” chỉ nhợt nhạt, tan biến như vệt khói ven sông lúc chiều dần khuất nẻo. Một ngày của y thế nào? Điều đó không quan trọng. Một đời của y thế nào? Điều đó không quan trọng. Nghĩ cho cùng, trong cái cõi nhân sinh dằng dặc phận kiếp mỗi người, điều đáng kể nhất chỉ gói gọn trong một giây. Vâng, chỉ một giây. Phút tột cùng dâng hiến của cảm giác va chạm rờn rợn giữa Nước và Lửa, giữa Địa ngục và Thiên đàng chỉ tích tắc trong mỗi một giây. Từ ngút ngàn, hăm hở của Sự Sống bước sang Cái Chết cũng dài thăm thẳm trong một giây. Thế thì, một giây dài kinh khiếp. Dài đến độ chẳng ai có thể cảm nhận được hết. Một buổi sáng đi qua. Rồi một đời cũng biến mất. Ta còn để lại gì không? Kìa non đã lở, này sông cát bồi Chẳng có gì tồn tại vĩnh viễn dưới gầm trời này. Tất cả, tất cả vòng quay của vũ trụ cũng chỉ trọn vẹn trong một giây bất biến. Và y đã nghĩ gì? Nghĩ gì cũng chẳng là gì quan trọng, chỉ biết rằng có một điều vừa đến trong tâm thức của y. Những con chữ quẫy đạp, đòi tuôn ra, đòi phải được xuất hiện từ bàn tay gõ phím: Tưởng rằng giọt máu tím bầm Trên tay giữ được là cầm đấy sao? Xòe ra thoáng chốc hư hao Nhòe nhoẹt ngọn gió tiêu dao bẽ bàng Ngày vừa sang, xuân mới sang https://thuviensach.vn Ai chia sẻ tiếng kêu vang rã rời? Đi trên trái đất cõi người Dấu chân còn lại phía ngoài hư không? Dạ rằng, không cũng là không Có tôi lặn giữa bụi hồng nhỏ nhoi Tưởng còn một vệt trăng soi Không là không mắt và môi hữu hình Thời gian vời vợi phiêu linh Thiên thần hỗn độn yêu tinh gần kề Đi qua bến Giác bờ Mê Đi là Đi đến cõi Về lại Đi Nói gì đi! Nói gì đi! Dạ thưa, tôi biết nói gì nữa đâu? Lắng nghe một tiếng kinh cầu Phương Đông trầm mặc chân cầu nước trôi. Đôi lúc cảm thấy, nghề cầm bút nhọc nhằn quá. Kiếm sống bằng nghề viết không dễ dàng, không thể làm giàu, chắc chắn vậy, nhưng rồi chính mình phải chịu trách nhiệm với những gì đã viết, đã công bố. Trách nhiệm đó còn đeo đuổi dẫu sau này đã về nơi chín suối. Làm cái tủ, cái bàn, cái ghế… bán cho khách hàng là xong trách nhiệm. Một quyển sách đã in, đã đến tay bạn https://thuviensach.vn đọc không đơn giản như thế. Có thể nói rằng, truyện ngắn Bút máu của nhà văn Vũ Hạnh vẫn là tuyên ngôn sắc bén, phù hợp với mọi thời về trách nhiệm của người cầm bút. “Văn chương thiên cổ sự/ Đắc thất thốn tâm tri” - câu thơ của thi hào Đỗ Phủ khái quát tâm thế người cầm bút từ thiên thu đến vạn kiếp đã trở nên lỗi thời rồi chăng? (3.2.2015) https://thuviensach.vn NGÀY SỐNG ĐỜI THƠ Lê Minh Quốc www.dtv-ebook.com 6. Người Đi Trên Đống Tro Tàn Người đi trên đống tro tàn Thương cha nhớ mẹ hương vàng về đâu? Có những buổi chiều, đi ngoài phố, thoáng thấy khói vàng mã nhẹ nhàng lan tỏa trong nền không gian đô thị Sài Gòn, tự dưng lại nhớ. Nhớ ca từ của Phạm Duy. Hát thầm một mình. Vừa đủ nghe. Và tự dưng rưng rưng nước mắt. Câu chữ ấy, giai điệu ấy ma mị, huyền hoặc thế nào mà mỗi chữ nhịp nhàng khi ngân vang trong lòng lại hóa thành từng giọt lệ? Sáng nay, rủ bạn thơ Trương Nam Hương đi cắt tóc. Anh cho biết cuối năm là dịp lên chùa cầu siêu cho mẹ. Hương có bài tứ tuyệt viết ngày mẹ mất. Đọc lên và nhói đau. Đọc thật chậm và lắng nghe tự lòng mình: Đưa mẹ vào Tháp cốt Quay về, con bần thần Quên hóa vàng đôi guốc Lên đó người lạnh chân Tê buốt tâm hồn, từng chữ. Lạnh buốt mắt môi, từng câu. Bạn bè chơi với nhau chừng đã ba mươi năm, càng quý bạn qua những câu thơ bạn đã viết. Thơ về mẹ. Trong đời ai cũng viết. Lâu quá không gặp Đỗ Trung Quân, những ngày này lại nhớ câu chữ đằm thắm một nỗi niềm man mác lúc anh rải một ít hài cốt của mẹ xuống sông Sài Gòn: https://thuviensach.vn Mẹ ta tro bụi trên sông Xuôi bèo hoa nẻo hư không mẹ về Nhiều hoa trắng rợn bốn bề Trần gian thêm một kẻ về mồ côi Từ đây chỗ mẹ ta ngồi Mây như tóc trắng Rối bời Mây qua Sau này, năm 1994, lần đầu tiên ra Hà Nội, anh lại rải một ít, tượng trưng xuống Hồ Gươm và nhủ thầm: “Mẹ ơi, con đưa mẹ về quê”. Trong đời, ai cũng từng gọi mẹ nhưng tiếng gọi lúc ấy đậm đặc tiếng lòng bơ vơ của sự lẻ loi, đơn độc nhất. May quá, y vẫn còn có mẹ. Niềm sung sướng nhất đời người, khi đến một độ tuổi nào đó càng thấm thía, nâng niu, quý trọng, gìn giữ chắt chiu trong lòng cụm từ “vẫn còn có mẹ”. Những ngày cuối năm, ngày rất ngắn. Những ngày ấy, ai ai cũng nghĩ về gia đình. Có lẽ ở ngoài quê, những ngày này, anh em y đã lên rẫy cỏ trên mộ của ba. Rồi sáng mồng Một, anh em tề tựu nhang khói. Cuộc gặp gỡ của Âm và Dương, ngay tại mộ. Mà cũng có thể trước đó, "Những người muôn năm cũ" đã về hội ngộ trong lễ cúng rước ông bà về sum vầy cùng con cháu. Nhang khói, nghĩ cho cùng, đó là sự kết nối giữa Hiện tại và Quá khứ. Và tiếng kinh cầu cũng nằm trong ý nghĩa thiêng liêng đó. Sống trong đời, đôi khi niềm vui đến thật tình cờ, không hò hẹn trước. Thời gian là cái gì? Khủng khiếp. Đã nhìn thấy dấu vết trên thể xác những https://thuviensach.vn bạn bè cũ. Lâu lắm mới gặp nhiều người bạn nhưng không chào hỏi, chỉ quan sát. Ngày trước, anh bạn nhà thơ Bùi Đức Long khỏe khoắn, cười nói rổn rảng mà nay đã đi đứng lụm khụm lắm rồi. Trước mỗi lần gặp, anh hay bảo: “Q. à, cậu viết câu thơ này, tớ thích quá. Đúng là xuất sắc”. Nghe thấy vui vui, bèn hỏi: “Câu gì anh?”. Anh đọc luôn: Chợ Cồn tô cháo trắng Ngon như là quê hương Trích từ bài thơ Quê hương, y viết đã từ lâu lắm. Rồi anh kể những ngày đã sống, đã đến Đà Nẵng. Ít ai biết, sau năm 1975, anh có bài thơ Đến Củ Chi, gặp ao đăng Đứng Dậy (tức tạp chí Đối Diện) thì phải. Đại khái, sau chiến tranh ở sau nhà vẫn còn hố bom nhưng bà con không lấp, dành để lấy nước tưới cây. Anh viết được là lúc đi thực tế ở vùng kinh tế mới. Kiểm tra trên mạng không thấy hai câu thơ này của anh. Rồi những người bạn khác cũng thế. Đã già. Ái ngại cho tuổi già. May sao, anh Nguyễn Nhật Ánh còn nhớ rành rọt: Giữa đồng còn một hố bom Hỏi ra mới biết bà con để dành Chỉ vỏn vẹn hai câu. Bài thơ này, còn in trong tập Nhìn nhau và nói khoảng năm 1976, Võ Ngọc An chủ biên, Bùi Chí Vinh tuyển chọn. Sống trong đời, đôi khi niềm vui đến thật tình cờ, không hò hẹn trước. Mới đây, anh Sáu Du, - một nhà báo đã về hưu, tìm đến cơ quan y tán gẫu. Không nhớ đã gặp anh lúc nào, chơi với nhau tự thuở nào nhưng rồi hễ cuối năm, anh lại đến thăm. Hỏi han đôi câu. Chỉ chừng dăm ba phút mà cảm động biết bao. Dạo này anh bị điếc, đôi lúc phải “bút đàm”. Anh bảo: “Thăm Q. một chút, anh vào bệnh viện đây”. Hỏi kỹ mới biết, mấy tháng nay vợ anh https://thuviensach.vn bị tai biến phải nằm một chỗ, ngày ngày anh chăm sóc, túc trực cơm nước. Thoáng nghĩ đã thấy nhọc nhằn. Vậy mà, anh tâm tình nhẹ nhàng như không, như thể đã tình chồng nghĩa vợ thì phải thế, chấp nhận hạnh phúc đã và đang có. Chẳng rõ, vì lý do gì quà tặng của anh Sáu Du còn có cả quyển Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật. Dạo này, anh dành nhiều thời gian nghiên cứu về Phật học. Có như thế, anh mới nhìn cuộc đời độ lượng và thong dong chăng? Bây giờ, nhiều bạn bè văn nghệ của y, khi có tuổi hầu như nhiều người quay về với Tôn giáo. Bạn thơ Trần Ngọc Tuấn ở Đồng Nai cũng là một trường hợp. Nhờ thế, anh có được bài tứ tuyệt Không đề, đọc một lần bâng khuâng mãi: Bạn mới tìm chưa thấy Bạn cũ ngày thưa dần May còn đôi cánh bướm Cứ rập rờn trước sân Quà tặng của bè bạn thì nhiều, nhưng cần ghi lại trường hợp này. Hôm nọ, nhà văn Bích Ngân tặng cho một ít sách và vài ký khô cá sặc. Cảm động ở chỗ, chị còn điện thoại dặn dò thân tình: “Q. nhớ cho vào ngăn mát tủ lạnh. Khi ăn có thể chiên hoặc nướng, chỉ vừa chín tới là ngon”. Ngon còn ở cái tình nữa. Ngon ở lời dặn dò của bạn. Cầm lấy con cá sặc, ngoài đường phố tấp nập ngựa xe nghe tiếng được tiếng mất mà lạ thay, trưa nắng gắt, ầm ầm âm thanh mà cứ ngỡ như đang ở miệt vườn An Giang, Cà Mau giữa mênh mông sóng nước, nghe vọng lên trong trẻo câu hò: Chèo vô núi Sập Lựa con khô cá sặc, cho thiệt ngon https://thuviensach.vn Lựa trái xoài cho thiệt giòn Đem ra Long Xuyên lựa gạo cho thiệt trắng, thiệt thơm… Em về dọn một bữa cơm Để người quân tử Hò ơ… Để người quân tử ăn còn nhớ quê… Vâng, quà cho nhau là tặng cái tình. Hôm trước, mới đây thôi, trên đường đi làm về, tạt vào sạp bán sách báo. Chủ nhân là cô giáo, biết vì lâu nay hay ghé mua báo và hỏi han dăm câu xã giao nhưng chẳng rõ cô dạy trường nào. Ngay lúc ấy, có cặp vợ chồng trẻ đến tặng quà, cô giáo nhất định không nhận: “Em mang về đi. Mấy hôm nay lu bu, bận rộn quá, trong nhà chưa mua sắm gì. Chẳng lẽ cô nhận quà của em mà không tặng lại gì?”. Cô nhất quyết không nhận, đôi vợ chồng năn nỉ nhưng cô vẫn không xiêu lòng. Rồi nghe loáng thoáng, rõ ràng từng chữ: “Cô đừng ngại. Có dịp cô tặng điểm cho cháu cũng được”. Thử hỏi, cuối cùng cô giáo có nhận quà hay không? Nhận hay không nhận, điều gì cũng có thể xảy ra, nhưng quan trọng nhất là một trong hai tình huống đó, cô giáo đã trả lời thế nào? Có thể, đây cái tứ cho một truyện ngắn hay. Truyện ngắn hay là hay ở cái kết thúc bất ngờ cuối cùng chăng? Nghĩ thoáng qua, truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp hay ở đối thoại sắc, bén đến lạnh người; ở Nguyễn Nhật Ánh hay ở tình tiết dí dỏm, thông minh khiến người đọc thỉnh thoảng tủm tỉm cười một mình, cái cười ấy khó có thể kể lại nhưng biết rằng nó đậm đà, khó quên; ở Đoàn Thạch Biền hay ở chỗ tính cách nhân vật lãng đãng thật thật mơ mơ, như thật như đùa, như “ông” và “em” tréo ngoe một cách dễ chịu nhưng không kém phần tinh nghịch, láu cá... Nghĩ gì nữa? Mà thôi. Đi ngoài phố. Đi chậm thôi. Có đi chậm, mới có https://thuviensach.vn thể nghĩ ngợi linh tinh lang tang đôi điều. Lại nghĩ rằng “Gừng càng già càng cay”, đó là trường hợp cụ Vương Hồng Sển. Chẳng rõ, có ai còn nhớ câu rao này ở Sài Gòn của khoảng thập niên 1930 không? Câu như sau: “Đầu đội kẹo, miệng rao chơn chạy, kêu bớ bộ hành, ai mua kẹo tôi bán cho”. Câu này rao như thế nào? Trong di cảo Dỡ mắm, cụ Sển viết: “Câu này của Năm Sa Đéc đố tôi, viết cuốn 50 năm mê hát, mà hát được câu này chăng, giao “đầu đội kẹo”, phải hát giọng hát khách, “miệng rao chơn chạy” phải bắt giọng bắt qua tẩu mã, “kêu bớ bộ hành”, phải hát giọng Tiên Bửu đưa đò, “ai mua kẹo, tôi bán cho” phải hát giọng Nam ai cho mùi mẫn, cất lên mấy chữ chót giọng Nam xuân và hát dựng, cho hiểu ngầm tương lai mạng vận còn hy vọng cất đầu lên chớ không khổ vầy hoài”. Thú vị chưa? Học một đời cũng không hết chữ. Không còn trẻ, không còn cảm hứng hăm hở như thuở mới vào nghề. Mỗi ngày, có thể cần cù nhặt nhạnh từng thông tin đáng nhớ, tương tự Chuyện từng ngày của ông Đoàn Thêm. Loại sách hữu ích này, cần thiết cho đời sau nhưng mấy ai kiên tâm đeo đuổi? Đã không thể ghi chép đầy đủ, bình luận theo suy nghĩ riêng tư mà phải uốn éo, giả vờ nói vuốt đuôi, né tránh nhiều sự việc đã nghe, đã thấy, đã biết, đã nhận thức thì cách tốt nhất là gì? Là không nghe, không thấy, không biết. Vì thế, chỉ có thể ghi chép những gì mà mình thích, đang lưu tâm. Thích gì? Thích mày mò, tìm hiểu ngữ nghĩa tiếng Việt. Nếu trẻ, còn trẻ, sẽ học hỏi, nghiên cứu sâu hơn, nay không còn thời gian. Chẳng mấy chốc sẽ quay về nơi hư không thăm thẳm. Làm gì có kiếp sau mà mơ với mộng. Ham hố làm gì nữa? Thôi thì, chuyện chữ nghĩa “gặp đâu xâu đó”, nói đùa tếu táo “không nở bề ngang cũng nở nang bề dọc”. Chiều nay, ngồi với Cao Xuân Sơn một chút. Sẽ hỏi thăm sức khỏe của bà cụ thế nào rồi. Vào khoảng thời gian giáng sinh năm rồi, mẹ của Sơn bị té, gẫy xương, phải nằm một chỗ. Ở tuổi ngoài tám mươi xuân, làm sao có thể https://thuviensach.vn mổ sắp xếp lại xương cho thẳng thớm, ngay hàng thẳng lối? Mà bạn mình ơi, “vẫn còn có mẹ” để được chăm sóc mỗi ngày đã là hạnh phúc, niềm vui sướng nào sánh bằng? Ngoài trời đã chiều, một màu nắng chiều khô ráo phía trước sân vòm cau đang xanh mướt lá. Đang nghĩ gì trong lòng hả Q? Chẳng nghĩ gì nữa bởi đang nghe, đang lắng nghe một tiếng nấc tự trong nhịp đập khắc khoải của bóng chiều lãng đãng những sợi khói vàng mã nhẹ tênh đang chậm rãi tỏa dần vào hư không: Người đi trên đống tro tàn Thương cha nhớ mẹ hương vàng về đâu? https://thuviensach.vn NGÀY SỐNG ĐỜI THƠ Lê Minh Quốc www.dtv-ebook.com 7. Tản Mạn Cuối Tuần Hầu như ngày nào cũng có những réo rắt điện thoại, những tấp nập tin nhắn về một địa chỉ, một nơi chốn để ngồi cùng nhau trong một chiều sắp tắt từng phút, một năm sắp cạn từng ngày, để bù khú bia bọt lai rai. Cũng đủ lãng quên đời trong chốc lát. Nhưng rồi cũng không thể. Tự nhiên, lại thấy bận rộn quá. Đôi khi cái sự bận rộn ấy chẳng rõ từ nguồn cơn nào, chỉ biết thời gian trôi qua nhanh hơn mọi ngày. Sáng hôm qua, người bạn cũ Nguyễn Đăng Lâm của thời đôi mươi cùng sống trên chiến trường K gọi điện thoại nhắc về cuộc gặp mặt ở quê nhà. Vì bạn tên Lâm nên lúc đi trên đường, ngang qua chùa Vĩnh Nghiêm, nghe chuông vọng lên tự dưng lại nhớ câu thơ của Tản Đà cũng có nhắc đến chữ Lâm: “Nực cười cho bác Mai Lâm/ Thương nhau chi sớm mà lầm khóc nhau”. Bài thơ này có cả một giai thoại văn học, không nhắc lại vì nhiều người đã biết. Ơ hay, cái đầu óc con người ta cũng lạ, đang nhớ đến Lâm này bỗng dưng lại có một Lâm khác chen vào. Ấy là nhà báo Kỳ Lâm. Một cây bút viết tạp bút, phiếm đàm cho chuyên mục Tản mạn cuối tuần của báo Lao Động. Rất có cá tính. Nhớ ngày mới vào nghề, thỉnh thoảng trưa trưa cùng ông lai rai, rồi lúc xế bóng quay về nhà ông nằm ngủ vật vờ. Còn nhớ, ông sở hữu khá nhiều tranh của danh họa Bùi Xuân Phái. Vẽ trên những mảnh giấy cỡ hộp diêm, bao thuốc lá. Nay trôi dạt về đâu? Ông mất khoảng năm 1993 thì phải. Lúc ấy, các đồng nghiệp có in tập sách Chóe - Kỳ Lâm lai rai vẽ… viết. Vừa đi đường, vừa lẩm nhẩm mấy câu thơ vụt đến trong đầu: https://thuviensach.vn Bỗng dưng nhớ bác Kỳ Lâm Cầm li từ độ giẫm chân vào nghề Một già, một trẻ rủ rê Rượu suông nắng gắt, tỉ tê mưa dầm Nói cười tếu táo Kỳ Lâm Cầm ly, cầm bút như cầm giọt say Kỳ Lâm xòe những ngón tay Từng con chữ béo, ốm, gầy cầm li Trong đời sống, có những người đi qua kỷ niệm, đi qua ngày tháng chỉ trong khoảnh khắc ngắn rồi quên béng, quên hẳn, vậy mà có lúc lại nhớ như nhớ đến một ảo ảnh, một hình ảnh đậm nhạt xa tít chẳng còn rõ nét trong trí nhớ. Sáng nay, đi ăn phở với nàng. Bên góc đường Nguyễn Du, gần Bưu điện. Trước đây, đọc báo đã nghe nói đến các cụm từ chõi tai “phở quát”, “miến chửi”. Những tưởng chỉ có tận đẩu tận đâu, xa tít tắp chứ tại Sài Gòn thì không thể. Ấy thế, đã có. Sáng nay, khi cần thêm ít hành, y gọi, lập tức một gã trơ mắt: “Không có”. Giọng nói vùng nào sao mà đanh đá, cộc cằn quá. Tưởng không nghe rõ, nhắc lại, vẫn câu trả lời dửng dưng lạ lùng ấy. Nhìn vào phía trong thấy ê hề những thứ mà y cần. Điều này có thể hiểu, tô phở giá tiền X thì chỉ có thế, không thêm bất kỳ thứ gì khác. Thích thì ăn, không thích thì "Lượn cho nước nó trong". Lạnh lùng, rạch ròi, sòng phẳng. Mà đã xong đâu, lúc ấy, có ba nam thanh nữ tú bước vào, ngồi xuống ghế, gọi: “Cho ba tô phở, một tô có hành, hai tô không hành”. Lập tức người bán https://thuviensach.vn quát lên như mắng vào mặt: “Ba tô vừa có hành vừa không có hành. Ai biết mà bán? Có hành thì có hành hết, không hành thì không hành hết”. Đã thấy khách đứng dậy, lặng lẽ bước ra khỏi quán. Hóa ra, sự giao tiếp ngày càng “chợ búa” đến thế sao? Xưa nay quán xá tại Sài Gòn, khi ngồi ăn, nếu cần thêm một ít hành ngò, ớt, tiêu, chanh…, người phục vụ luôn lễ phép: “Dạ, có ngay”. Không hề câng câng cái mặt. Vì thế, sáng nay lấy làm lạ quá. Phép ứng xử đàng hoàng hay thô lỗ từng vùng miền có thể nhìn thấy rõ nét khi bước vào quán ăn. Cái thói bán như làm ơn, như ban phát vẫn chưa tẩy xóa khỏi cái óc cạn hẹp của thời bao cấp. Thế thì, sự rạch ròi về cái lợi đã giết chết sự thân thiện cần thiết giữa người mua và kẻ bán. Chẳng lẽ chỉ là sự "Tiền trao cháo múc”? Đã nghĩ đến những “mạch nước ngầm” ngày càng ăn sâu, len lỏi trong quan hệ giữa người và người, nó sẽ khoét rỗng ngay từ bên trong nhận thức, tính cách của mỗi người. Đó mới là điều đáng sợ. Nói thật, càng đi xa càng thấy sợ sự “gài bẫy” có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Ngày nọ, y cùng bạn bè lên chơi vùng cao nọ, vốn nơi “chôn nhau cắt rốn” của người bạn trong nhóm. Đêm ấy, cả bọn kéo nhau vào một quán ăn sang trọng. Quán vắng. Chỉ có nhóm bạn của y. Lúc tính tiền, trả tiền sòng phẳng chuẩn bị ra về, chủ quán la toáng lên mất cái điện thoại. Nào có ai thấy cái điện thoại ấy tròn, méo thế nào. Chủ quán sai người đóng rịt cổng. Nội bất xuất, ngoại bất nhập. Buộc phải trả lại cái điện thoại. Phải đền tiền. Nếu không sẽ đập phá xe hơi. Đừng hòng có cửa quay về. Vô lý quá sức tưởng tượng. Tranh cãi mãi không xong. Giằng co mãi cũng không xong, anh tài xế vốn là người địa phương bèn gọi điện thoại cầu cứu. Chỉ dăm phút sau, một lũ đầu trâu mặt ngựa lù lù xuất hiện. Nhờ thế, khách mới có thể ung dung ra về, không phải trả thêm đồng nào. Bù lại, phải móc tiền “cảm tạ ân nhân” vừa kéo đến! Lâu nay, anh bạn của y đã từng khoe, từng ca ngợi tính tốt, hiếu khách, chân tình của người dân quê mình. Đó mới là cái đau khó phai. https://thuviensach.vn Mà không nên quơ đũa cả nắm, ở đâu cũng có người tốt kẻ xấu. Cách đây vài năm, dọc tuyến đường Quốc lộ 1 nhan nhản các quán "cơm tù" cũng là một kiểu lưu manh trấn lột. Có nhiều câu chuyện chẳng ra làm sao. Nếu không trải qua, chẳng bao giờ y nghĩ đến tình huống đó. Mà thôi, những tình huống tương tự còn nhiều lắm. Qua sách vở, qua ca dao cổ tích, truyện cổ, mình từng yêu dấu vùng đất này, cảm tình vùng đất kia nhưng rồi khi đến nơi mới biết không phải. Tác động nào đã làm sự tha hóa tính cách con người ngày một xấu đi? Trước kia, những gì đã viết, đã suy nghĩ riêng tư có thể chỉ mỗi mình biết. Nhưng với các thao tác công nghệ hiện đại, từ email, trang web cá nhân đến Facebook… và tham gia một loạt trang mạng xã hội khác, con người cá nhân có thể bộc lộ hết những gì đã diễn ra 24 giờ trong một ngày. Ăn gì? Ngủ với ai? Suy nghĩ gì? Đang làm gì? v.v… Chỉ trong một tích tắc cả thế giới đều biết đến. Một cú nhấp chuột tựa gãi ngứa là xong. Có thông tin, do tự ý thức nên chỉ phổ biến trong phạm vi hẹp nhưng thật ra cả thiên hạ đều có thể ghé mắt đến. Nếu muốn. Nghe nói, trước kia khi tiến hành vụ án Năm Cam, toàn bộ công văn, thư từ đều sử dụng hình thức đánh máy chữ, viết tay, truyền miệng và khi tác nghiệp, người tham gia không được sử dụng điện thoại di động. Nói các khác để bảo mật thông tin, người ta không sử dụng internet trình bày văn bản, chuyển tải thông tin… Chiều qua, lướt Facebook có thấy bức tranh biếm vẽ người phụ nữ nằm bệnh, đang cấp cứu, đứng bên cạnh là các bác sĩ và chồng. Ông chồng hỏi: “Lúc này em đang nghĩ đến gì?". Người vợ đáp ngay: “Anh xem bức ảnh em nhập viện vừa post lên Facebook đã có bao nhiêu người like rồi?”. Tự nhiên giật mình! Tại sao như thế? Dường như y cũng đang có tâm trạng ngớ ngẩn như người phụ nữ đó chăng? Ngày xưa, định hướng dư luận qua ca dao, hò vè, thơ rơi… và nhất là vè, https://thuviensach.vn ngày nay đã khác. Chính các trang mạng xã hội góp phần tích cực trong việc định hướng đó. Đủ các loại thông tin của mọi đối tượng. Bày tỏ chính kiến là quyền tự do và dân chủ của mỗi người, nhưng trước hết phải biết, phải ý thức thông tin đang tiếp nhận có đáng tin cậy hay đã bị bóp méo chủ quan? Sống trong đời không dễ. Nào ai có thể biết “Tai bay vạ gió” từ đâu đến? Lúc nào sẽ đến? Tự nhiên một ngày mở mắt dậy, bỗng thấy nháo nhào một lũ đứng ngay trước ngõ mắng xa xả vào mặt. Điên tiết quá. Dò hỏi dần, mới biết có ai đó vu khống, bịa ra hoặc xuyên tạc những gì người ta đã nói rồi lái qua một nghĩa khác. Thiên hạ chẳng biết ất giáp kỷ canh tân nhâm quý quái quỷ gì, cứ thế hùa vào “đánh hôi”. Tra lại Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Paulus Của, bản in 1895, không có từ “đánh hôi”, chỉ có “đánh hơi: theo hơi, nghe hơi cho biết ở đâu”; tra thêm Việt Nam tự điển của Hội Khai Trí Tiến Đức khởi thảo, bản in 1931, không có “đánh hôi” lẫn “đánh hơi”. Rõ ràng “đánh hôi” chỉ mới xuất hiện sau này, bằng chứng Từ điển Tiếng Việt của Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, bản in 1988 có giải thích: “đánh hôi: lợi dụng đánh người vốn mình không ưa nhân lúc có vụ đánh nhau”; “đánh hơi”, giải thích như Đại Nam quốc âm tự vị, nhưng lại thòng thêm nghĩa “Nhận thức một số dấu hiệu mà đoán ra đại khái đang có dấu hiệu gì hoặc việc gì (thường hàm ý khinh)”. Đã bàn thì phải bàn cho ra nhẽ. Hôm trước, ông Nguyễn Long Trảo - rể của cụ Ca Văn Thỉnh (1902- 1987) có tặng quyển hồi ký. Thú thật, chỉ thích những chi tiết thời thơ ấu mà ông Trảo đã trải qua. Nó gắn với sinh hoạt của miền Nam thời trước. Trong lúc tát đìa: “Có quy ước rất hay là mỗi con cá khi vọt ra phía sau là đã thuộc về quyền sở hữu của những “con hôi” lúc nhúc bám theo sau, chủ nhà không được tiếc của mà quay lại bắt. Vì toàn là sình lầy nên cá thoát ra phía sau là chuyện bình thường, nên chủ nhà bắt được mười thì “con hôi” cũng được hai ba, có thể mang về làm mắm chứ không bao giờ hết”. Đọc xong, vỗ đùi cái https://thuviensach.vn đét rồi suy luận, “con hôi” trong ngữ cảnh trên là từ “hôi” mà có. “Hôi” có nghĩa mót, nhặt những thứ còn sót lại; dần dần “hôi” mang nghĩa xấu như hôi của, hôi cá, đánh hôi… Thế thì, đã rõ nghĩa “đánh hôi” rồi chứ? Bao nhiêu kẻ ùa vào “đánh hôi”, rồi cuối cùng họ tẽn tò nhận ra là do nghe thông tin bịa đặt từ một phía. Cái trò lưu manh này, thời nào cũng có. Trước 1975, có cụm từ dù chỉ hành động khác nhưng ý nghĩa vẫn na ná "đánh hôi" là “bề hội đồng” - nhiều người cùng hùa vào "làm thịt" một người. Từ này, hầu như nay đã biến mất chăng? Đọc Tiếng lóng Việt Nam (NXB Khoa học xã hội - 2001) của Nguyễn Văn Khang không thấy ghi nhận. Những trò ễnh ương đó, chẳng ngại gì, chỉ khiến bực bội. Sống trên đời né tránh đi những chuyện có thể gây ra bực bội vẫn là lựa chọn của nhiều người. Còn nhớ, đã đọc đâu đó từ thời trung học, đọc lâu quá rồi không nhớ cụ thể, chỉ nhớ nhà văn nọ có viết truyện ngắn về bọn “chim mồi”. Đây là từ “tiếng lóng” nhằm chỉ một bọn bản chất A đóng vai trò B để dụ khị, lôi kéo loại người B tưởng thật mà sập bẫy. Ngày trước, những người đi săn chim láu cá cho con “chim mồi” đứng sẵn trong bẫy. Con "chim mồi" hót véo von, những con chim khác nghe khoái quá bay vào, hùa vào theo, cùng đồng ca hợp xướng. Nào ngờ, lúc ấy, người bẫy chim chỉ việc giật, lưới đổ xuống, tóm cả bầy. Chết oan mạng. Thời buổi này, đọc ý kiến, notes trên các mạng xã hội chẳng biết đâu “chim mồi”; đọc các comment chẳng biết đâu “đánh hôi”. Đâu chỉ có thế. Khi đi ngoài phố, bất kỳ trong các cuộc va chạm nào, giữa lúc đôi bên đang thương lượng, tranh cãi, giằng co thì lập tức có một lũ khác ùa đến “Dây máu ăn phần”. Hoặc ngang nhiên đứng về phía này, bênh vực phía này đặng mắng té tát, ra uy với phía kia, rồi moi tiền phía kia cho bằng được dù chúng chẳng dính dáng gì; hoặc làm như cao đạo, khách quan đứng ra can thiệp đôi bên, tuôn ra lời hay lẽ phải nhưng lợi dụng sơ hở của đôi bên để móc túi, cướp https://thuviensach.vn giật, thủ lợi gì đó rồi biến! Loại này, gọi là gì? Đi ra đường, khi gặp sự cố đó, nhiều chàng Lục Vân Tiên muốn tỏ thái độ, hành động nghĩa hiệp “Giữa đàng thấy chuyện bất bình chẳng tha” cũng thấy khó quá bởi chúng tung hỏa mù đến rối bòng bong! Sáng nay lên tòa soạn. Có người gửi tặng thư pháp viết giấy dó, dán trên nền lụa, đóng khung nền nã, gương sáng loáng, cực đẹp. Thế nhưng, nhìn chữ viết, đọc nội dung của nó, hết muốn treo trong nhà. Đơn giản chỉ vì người viết chẳng có tên tuổi gì. Lại nữa câu chữ tầm thường quá, sáo rỗng với từ ngữ rổn rảng nào là lộc, tài, thọ, giàu sang, phú quý, văn minh, hiện đại hóa, v.v... và v.v… Thử hỏi, nếu không tận tâm, tận lực, không đổ mồ hôi, không sôi nước mắt, không thức khuya dậy sớm, không “Văn ôn võ luyện” mỗi ngày, làm gì có tài, lộc? Treo trong nhà bức thư pháp hô hào quá hớp, linh tinh ấy để làm gì? Trước kia, bạn văn Trần Nhã Thụy có viết tạp bút, đại khái anh cho biết thích treo các bức tranh do con mình vẽ, dù xấu, chưa đẹp. Bởi ngoài cái tình, nó còn là tranh thật. Treo tranh thật dù xấu vẫn còn hơn treo tranh chép, dẫu tranh của các danh họa. Vâng, y cực ghét tranh chép. Lại ghét luôn những cái gọi là thư pháp của những người chẳng ai biết đến tuổi tên với mớ chữ nghĩa vô hồn, nội dung sáo rỗng. Chữ nghĩa ấy cũng là một cách tung hỏa mù rối bòng bong. (12.2.2015) https://thuviensach.vn NGÀY SỐNG ĐỜI THƠ Lê Minh Quốc www.dtv-ebook.com 8. Đợi Tết Chẳng ai tài thánh gì, nhất là những người cầm bút. Vừa rồi ra Hà Nội đã nhận được vô số thơ của bạn bè, trong đó có 100 nhà thơ Đường (NXB Hội Nhà văn), dày 830 trang in. Tập sách này do anh bạn thơ Đỗ Trung Lai soạn, dịch lại thơ, dù anh không hề biết… chữ Hán. Anh tham khảo bản dịch nghĩa, rồi dịch lại một lần nữa, dù trước đó các ông Tản Đà, Bùi Khánh Đản, Trần Trọng San, Khương Hữu Dụng… đã dịch. Sở dĩ thế, vì anh quá mê thơ Đường. Đọc tập sách này, thật ngạc nhiên khi nhận ra nhân vật Lương Sinh trong truyện ngắn Bút máu của nhà văn Vũ Hạnh có phần na ná nhà thơ Đỗ Tuân Hạc đời Đường. Xin tóm tắt, Đỗ Tuân Hạc (846-904) đậu Tiến sĩ đời vua Chiêu Tông, giỏi về thơ và từ. Sau hai năm làm quan, thấy triều đình điên đảo bèn treo ấn từ quan về ở ẩn. “Một hôm thư nhàn, Đỗ đến thăm người bà con ở Hồ Thành, thấy ở đấy trăm họ đều than oán, quan huyện họ Giang tham lam tàn ác vơ vét của dân không từ một vật gì. Đỗ đưa ý dân đến nói cho quan Thứ sử biết, nhưng họ Giang đủ thế lực nên quan Thứ sử cũng che lấp đi. Năm sau, Đỗ lại đến Hồ Thành, thấy trong huyện thành tấp nập hương án đón chiếu chỉ. Hỏi ra mới biết là quan Thứ sử đã tâu lên, quan huyện họ Giang rất thanh liêm, hết lòng thương dân nên triều đình xuống chiếu thăng chức và ban khen cho họ Giang, Đỗ phẫn uất đề ngay bài thơ vào cổng huyện: Huyện này năm ngoái mới qua chơi Dân huyện kêu oan tiếng dậy trời https://thuviensach.vn Đỏ huyện năm nay quan được thưởng Máu dân đã nhuộm khắp thành rồi. (SĐD, tr.697) Với nhà văn, để kiếm sống, có lúc họ ký bút danh khác, viết những thể loại khác không thuộc sở trường. Chê trách làm gì, đấy cũng là một cách kiếm sống lương thiện. Đêm qua đọc Lược sử văn nghệ Việt Nam (Vàng Son xuất bản tại miền Nam năm 1974), ông nhà phê bình kia "châm chích" nhà văn nọ: “Những sách dưới biệt hiệu khác, là những mánh khóe kiếm cơm tầm thường, chép dịch tài liệu ngoại quốc (Trẻ, đẹp sống lâu, Vệ sinh lớp ba), một lối kiếm cơm hạ đẳng của nhà văn trốn tránh nhiệm vụ, và không có tinh thần bao biện một tác phẩm. Mặc dầu nhà văn có thể có nhiều biệt hiệu, nhưng tinh thần sáng tác phải coi như là một” (tr.311). Chà, nghe ra “lớn lối” quá. Thử hỏi, nhà phê bình lấy cái quyền gì để viết câu mạt sát đến thế? Một nhà văn nhận tiền mật vụ và một nhà văn viết thể loại khác kiếm sống, ai có tư cách, đạo đức hơn? Xin bật mí, nhà văn bị phê bình ấy, hiện nay sách văn học của ông đã được tái bản, được trích đoạn đưa vào sách giáo khoa. Ai muốn tìm hiểu thêm, xin “bật mí” khi viết các sách về làm đẹp, vệ sinh thường thức… ông ký bút danh Hoàng Thị Trâm. Đây là nhà văn y kính trọng và lưu giữ lại những gì ông đã viết. Ngay sau ngày Thống nhất đất nước, năm 1976, lần đầu tiên về quê nội, được ông chú dẫn lên chơi Hà Nội một ngày. Với thói quen đã định hình ngay từ lúc học đệ ngũ, đệ tứ thường la cà mỗi ngày tại các nhà sách, thì lúc ra Hà Nội cũng thế. Y đã mua khá nhiều sách. Thời đó, sách in tại miền Bắc đã là một sự hấp dẫn ghê gớm, lần đầu thấy tận mắt nên có bao nhiêu tiền đều dành mua sách. Còn nhớ, thời ấy đã đọc bài thơ Sáng mồng một Tết. Nay, https://thuviensach.vn còn nhớ loáng thoáng. Đọc và ngạc nhiên quá. Về Nam, đọc lại cho bạn bè nghe, chẳng ai tin. Bởi lâu nay, thời ấy, lũ nhóc thế hệ y đã tin “Mồng một Tết cha, mồng hai Tết mẹ, mồng ba Tết thầy”. Mà thơ này lại nói khác đi. Khác như thế nào? Mấy hôm nay đã có thể thong thả, không bận tâm gì công việc mỗi ngày, do đó, sắp xếp lại tủ sách cho ngăn nắp, gọn gàng. Mà có toàn tâm toàn ý được đâu. Vớ tay lấy cuốn sách này, lật vài trang, thấy hay hay liền đọc luôn, thay vì phải đặt thứ tự theo phân loại. Đang đọc, lại cao hứng vớ lấy tập sách kia. Lại qua lật lại để cảm nhận mùi sách cũ xao xuyến đến nao lòng. Tình cờ, rất tình cờ được đọc lại bài thơ Sáng mồng một Tết trong bộn bề sách, báo cũ. Thì ra, tác giả bài thơ là ông bạn già đáng kính của y, đã về chín suối. Ông đã mất nên không thể hỏi vì sao, ông lại viết bài thơ này? Nguyên cớ ra làm sao? Mà dù có ra làm sao, y vẫn tin là ông viết thật lòng mình, trong thời điểm đó. Dù có “lên gân” nhưng với tính cách của ông mà y đã biết, dám quả quyết ông “nghĩ sao viết vậy”, chứ không hề nghĩ một đàng viết một nẻo. Tư cách hơn nhiều người trong giới cầm bút, nghĩ A, nói A nhưng khi viết sặc mùi B. Mấy năm trước đây, từ Hà Nội, anh em bán sách cũ đã bán cho y nhiều số báo Văn Nghệ đã đóng thành 15 tập, xếp lên kệ sách dài mấy gang tay, còn đóng dấu mộc Thư viện Trường Đại học Sư phạm, xuất bản tại miền Bắc từ thập niên 1960; vài chục số tạp chí Nghiên cứu Lịch sử cũng in năm tháng đó… Thú thật, đọc lại, khó có thể ngờ vì sao lúc đó, nhà văn này, nhà thơ kia, nhà nghiên cứu nọ kia lại có thể viết như thế? Nếu ác tâm trích dẫn lại, bình phẩm thì chắc chắn công chúng hôm nay sẽ có cái nhìn khác về họ. Hỡi ôi, làm như thế để được cái gì? Chẳng được gì cả. https://thuviensach.vn Đánh giá sự nghiệp một người cầm bút, hãy tìm lấy những đóng góp đích thực của họ. Đừng lấy những cái họ đã chối bỏ, đã viết vì sự o ép nào đó để bây giờ chế giễu. Đọc một tác phẩm hãy nghĩ đến thời đại họ đang sống, có thế mới nhận ra được sự đóng góp; hoặc hạn chế mà có cái nhìn khách quan hơn, công tâm hơn. Đấy mới là tinh thần “gạn đục khơi trong”. Tinh thần đó cũng rất cần đối với văn học miền Nam; “vùng trắng” của văn học, báo chí miền Bắc nhất là giai đoạn 1954-1975. Nhìn nhận và xử lý vấn đề đó thế nào? “Để lâu phân trâu hóa bùn” là làm nghèo đi di sản văn học đã có. Bây giờ chối bỏ, thế hệ sau sẽ tìm kiếm. Chắc chắn thế. Thế giới internet đã mở ra, con người ta đã có thể tiếp cận thông tin từ nhiều chiều hướng. Nghĩ thế, mới thấy tội nghiệp và đáng thương hại cho nhà nghiên cứu nọ, là tác giả của bộ sách xóa sạch văn học của “một thời”. Hỡi ôi, đến nay không ít các tác giả bị phê phán đã có sách tái bản, đã được ghi nhận trong Từ điển văn học (bộ mới). Nói như thế, để thấy rằng nhận thức của mỗi người trong mỗi thời mỗi khác. Mỗi nhà văn, đọc lại những gì họ đã viết, có thể với quan điểm, góc nhìn hôm nay, ta không bằng lòng, thậm chí chê trách nhưng phải thấu hiểu, phải chia sẻ với hoàn cảnh một thời họ đã sống. Cần có cái nhìn khoan dung hơn thì mới thỏa đáng và có tâm, có tầm. Mấy ngày cuối năm cơm nước, ngủ nghỉ thất thường. Lúc lên máy bay, y đọc nhảy cóc. Đọc qua loa. Đọc ngủ gà ngủ gật với tờ Heritage số tháng 1.2015. Đây là tờ báo chỉ phát hành trên máy bay, chứ không bày bán ngoài sạp. Số báo này, có mấy thông tin thú vị. Chỉ ghi lại đôi dòng này. Ghi để nhớ mà cũng là để học: “Bàn thờ Tết: Tết Nguyên đán vốn được coi là thời khắc các thế hệ cháu con và tổ tiên được tụ họp. Nhà nhà dâng mâm cúng giúp thế giới người trần được giao tiếp với thế giới âm ty hữu hình. Bên cạnh các đồ cúng, mỗi bàn thờ của người Việt phải có hai đèn dầu hoặc hai ngọn nến tượng trưng cho mặt trời và mặt trăng. Chúng soi tỏ đường đi cho người https://thuviensach.vn đã khuất quay về dương gian và phù hộ cho người sống được khỏe mạnh, thành đạt. Ba nén hương là tượng trưng cho “Thiên, Địa, Nhân” giao hòa tuyệt đối. Lá trầu, cau và một bát nước xếp theo lối “đông bình, tây quả”: bát nước bên tay phải, trầu cau bên tay trái. Nước là ngọn nguồn của sự sống và trầu cau là quả của nghiệp sinh sôi mà thành. Ở giữa bàn thờ là mâm ngũ quả”. Sực nghĩ, văn hóa Việt linh động, thay đổi, biến hóa khôn cùng. Tùy mỗi vùng miền mà mâm ngũ quả có biến đổi khác nhau. Tựu trung, vẫn nhằm thể hiện khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn, vạn sự hanh thông, năm sau phát đạt, mua may bán đắt hơn năm trước. Bước xuống sân bay lúc 15g. Trời lạnh 26 độ. Chừng mươi năm trước, có lần bước xuống sân bay, xộc vào mũi là một mùi biển mặn. Biển của Mỹ Khê. Biển của Thanh Bình. Biển của Tiên Sa, Non Nước. Biển của ngày tuổi nhỏ. Vì như thế, ngay lập tức có cảm giác trở thành một con cá đang bơi. Bơi dưới vòm trời Đà Nẵng. Chiều 30 Tết này, quái quỷ thật bởi thời tiết se lạnh, nền trời u ám, nắng nhạt và tự dưng cảm thấy tê tái một nỗi lòng hoài cổ của người đi xa được về quê ăn Tết. À, thì ra, cái bầu trời xám nắng kia, cơn gió hiu hiu lành lạnh nọ mới là nỗi ám ảnh không dứt từ lúc mới oe oe cho đến ngày đã ngoài “ngũ thập”. Đà Nẵng đó. Đà Nẵng của tuổi thơ. Tẹo, em trai út đón tại sân bay và chở một vòng qua chợ hoa ngày Tết. Hoa nhiều. Hoa vàng cả con phố. Hoa thắm những cung đường. Hoa trong lòng của mỗi người, tưng bừng đua sắc. Những tưởng sẽ đón giao thừa như mọi năm, lúc 24 giờ, nhưng rồi cũng không thể. Xác thân của 365 ngày cũ đã đi hết từng giọt mệt mỏi, đi qua từng mạch máu, đi đến tận cùng và cảm thấy muốn rũ xuống như một tàu lá chuối. Mệt đến rã rời. Cảm tưởng thân xác đã bã, đã nhàu nhĩ đến mức như cây đã héo, đã không còn một chút sinh lực nào. Do đó, phải ngủ. Dù gắng gượng thêm một phút một giây cũng không thể cưỡng nổi cơn bão, cơn gió lốc của https://thuviensach.vn cái sự buồn ngủ đã ập xuống hai con mắt. Một giấc ngủ thật ngon lành. Ngủ để chờ. Và đợi Tết. (20.2.2015) https://thuviensach.vn NGÀY SỐNG ĐỜI THƠ Lê Minh Quốc www.dtv-ebook.com 9. Một Cánh Chim Bay Níu Lệch Trời Về Hội An, đã viết nhiều thơ trong sổ tay. Chiều nay, câu thơ chợt đến như sóng vỗ. Như thoáng mây bay qua. Như bước chân lang thang không định hướng. Hội An vẫn thế. Người vẫn đông. Vẫn trò chơi ngày Tết. Vẫn những món ăn quen thuộc. Vẫn không gì khác. Vẫn là sự nghỉ ngơi. Thư giãn. Mặc kệ thời gian. Qua nhanh hay chậm. Chẳng thèm quan tâm. Ra Cửa Đại, nghe sóng vỗ. Trước kia, từ bàn ăn phóng một tầm mắt mới thấy sóng, nay sóng vỗ dưới chân ngồi. Hỏi ra mới biết, sóng đã lấn vào bờ, đã cuốn trôi bãi bờ và đi sâu vào đất liền hơn một trăm mét. Hội An đang có chính sách, kế hoạch kè lại bờ, nếu không cảnh quan dọc biển sẽ thay đổi khốc liệt. Lâu nay, nói đến Hội An người ta nhắc đến nhiều món ăn ngon. Ngon đến độ anh chồng trong ca dao phải thốt lên não nùng như lúc xuống xề câu vọng lại sắp hụt hơi: Hội An trăm thứ đều ngon Vừa vừa cái miệng kẻo chồng con hết nhờ Nhưng thử đặt câu hỏi, món ăn nào mà khi chế biến lại tiêu biểu nhất cho tính cách con người Hội An? Chọn lấy cao lầu, cơm gà, bánh tráng đập giập, chè mè đen, chè bắp hay gì khác? Câu hỏi khó quá phải không? Sau một hồi suy nghĩ, anh Nguyễn Sự - Bí thư Hội An, quả quyết phải chọn lấy món chè đậu ván! Đọc đúng theo âm Quảng Nam, phải là chè đậu doáng. Anh lý giải: “Ở Hội An, chè đậu ván pha đường phèn, một loại cao cấp nhất của đường; bên cạnh đó còn có thêm vị ngọt của đường bát đen, một loại https://thuviensach.vn đường quê mùa, rẻ tiền. Sự kết hợp này đã chế biến chè đậu ván có một vị ngọt độc đáo. Hơn nữa, khi nấu thì đậu vẫn còn nguyên hạt, không nát. Vậy đó, tính cách người Hội An cũng thế. Họ không phân biệt người sang kẻ hèn; thấy lạ, không kinh ngạc; thấy quen, không vồ vập, xem như tự nhiên, bình thường. Họ có thể giao tiếp với các chủng tộc khác khi đến Hội An, nhưng vẫn không đánh mất bản sắc của mình”. Có phải vì quá yêu vùng đất mình sinh ra và lớn lên, gắn bó cả cuộc đời nên anh Sự đã nghĩ thế? Điều này không cần tranh luận. Mà tranh luận làm gì trong ngày xuân đang phơi phới gió lên và có thoang thoảng nhang trầm cổ kính rất Hội An? Thật ra, bất kỳ vùng miền nào cũng có những món ăn ngon, với họ vẫn ngon nhất, không nơi nào có thể sánh kịp. Tình yêu quê hương cũng từ đó mà trở thành vết xước luôn khắc khoải trong tâm trí của mọi người. Vết xước ấy không bao giờ lành sẹo. Càng lớn tuổi, càng đi xa lại càng nhớ. Nhớ món ăn mà ngày xưa mẹ đã nấu. Tình cảm chân thật ấy, sống muôn đời vạn kiếp trong nỗi lòng mỗi một người. Chiều qua, ở Huế. Mùi Tết đã phai nhạt dần. Gió đã thổi những hoài niệm của khoảnh khắc giao thừa và ngày đầu năm xa dần. Vệt khói thơm của nhang trầm đã bay lên vòm trời tháng Giêng. Tan loãng. Hầu như không còn dấu vết nào. Nắng đã thôi xanh. Gió thôi mượt. Lòng người đã thôi rạo rực. Hoa cúc đã bung xòe từng cánh. Rủ từng cánh. Đã hết Tết. Vẫn biết thế. Tự ý thức như thế. Nhưng rồi, những ngày này, y vẫn còn thả hồn theo nhịp sóng vỗ ngoài xa tít Thuận An. Vang vọng tiếng tụng kinh lẫn trong nhịp sóng. Nhìn thấy một đoàn nhà sư, chừng hai mươi người đi vòng quanh một ngôi mộ gió đắp trên bãi biển. Và nhịp nhàng cất lên những câu kinh cầu siêu. Không rõ, có phải đây là phong tục của ngư dân vùng biển cầu nguyện cho những linh hồn: “… vào sông ra bể/ Cánh buồm mây chạy xế gió đông/ Gặp cơn dông tố giữa dòng/ Đem thân vùi rấp vào lòng kình nghê”? Vội vào nội https://thuviensach.vn thành Huế nên không kịp hỏi. Đến Huế, thích nhất vẫn là những món ăn của vùng đất một thời đã là Kinh đô nước Việt. Lúc vừa ăn bún thịt nướng, vừa nhẩm trong đầu những câu thơ vừa đến. Những câu thơ nối theo, đứt đoạn và hoàn thành sứ mệnh ghi lại một cảm xúc chân tình của lần đến Huế. Đời sống cứ thế nhẹ nhàng trôi. Trôi nhẹ nhàng cũng một phần là do con người ta tách ra ngoài, đứng bên ngoài các sự kiện thời sự khốc liệt đang diễn ra mỗi ngày. Món ăn Huế hấp dẫn, ma mị, quyến rũ nghĩ cho cùng vẫn là ở nước chấm. Nói rộng ra, bí quyết ngon, thể hiện cái ngon bất tận của món ăn Việt cũng nằm gọn gàng, gọn ghẽ trong hai từ “nước chấm”. Cũng món ăn đó, cũng cách chế biến đó, nếu thay đổi “nước chấm” thì chẳng còn gì để nói nữa. Tựa như một người đẹp chỉ còn lại cái thân xác tầm thường, chứ sự tinh tế, tế nhị của linh hồn đã mất. Món ăn Huế ngon là ở đó. Ngon ở nước chấm. Ăn một lần sẽ nhớ như nhớ đến một mùi vị của da thịt nõn nà, phơi phới dâng hiến trong chiều xuân gió lành lạnh, men nồng nàn và gợi mở sự háo hức khám phá cho dù đã tận hưởng nhiều lần. Rất nhiều lần. Mà vẫn không ớn. Vẫn không bưa. Vẫn thèm thuồng đến tê cay đầu lưỡi mỗi lần nhớ lại. đáng yêu là anh anh thanh lịch, đẹp trai lại lịch lãm đàng hoàng ngày đầu xuân đi chợ đi chợ ừ đi chợ nàng dặn gì thì nhất quyết phải mua này lụa là đà điệu se sua kìa mặn mòi những lời ăn tiếng nói https://thuviensach.vn nọ mây trắng trời xanh cùng nắng mới anh vốc đầy tay hào hứng chất chật nhà vườn địa đàng ríu rít oanh ca anh bếp núc cũng là anh nấu nướng anh gieo vần chữ nghĩa du dương câu thơ cười đùa ngọn lửa cháy bập bùng tươi sáng quá món ăn ngon diệu kỳ như phép lạ vừa mới vươn vai da thịt đã rần rần cảm hứng từ đầu lao vút xuống tận chân anh hào hứng nhịp nhàng theo trang viết dòng đầu tiên vuốt ve mắt biếc nàng má hồng, môi đỏ một màu son bươm bướm quay về khiêu vũ cánh hoa thơm anh mơn trớn nâng niu từ A, B, C đến tận cùng Y, Z… từng dòng chữ không hề chấm hết không chấm câu cứ hối hả thong dong https://thuviensach.vn cỏ xanh mây trắng bến vắng dòng sông thảo nguyên mênh mông tình non phơi phới dòng chữ trắng trở mình trang giấy mới ngày nồng nàn bếp lửa vẫn reo vang… Có thể đặt tựa bài thơ giản dị: “Món ăn ngon”. Lại lên Kim Long ăn bún thịt nướng. “Kim Long có gái mỹ miều/ Trẫm thương, trẫm nhớ, trẫm liều trẫm đi”. Nhà vua đi vì “tuyệt mỹ giai nhân”, còn y chỉ vì món ăn. Ngon ơi là ngon. Ngon ở nước chấm, rau xanh, ớt xanh và thoang thoảng trong gió vẫn còn một chút nhang khói thanh diệu của ngày Tết còn sót lại trên vòm cau xanh mướt. Ông Vũ Bằng đã viết Món ngon Hà Nội, Món lạ miền Nam, ước gì có ai đó sành ăn, biết ăn, viết quyển sách lan man, đẩy đưa, ngẫu hứng khi thưởng thức món ăn Huế. Nghe nói rằng, chỉ riêng các hạt muối bình thường kia, dân dã kia người Huế thừa khả năng, thừa sức chế biến thành hàng chục món muối khác nhau. Mỗi món là một vị mặn. Có mặn của sóng biển. Có mặn của gừng cay muối https://thuviensach.vn mặn. Có mặn của mặn mà thanh sắc nặng trĩu âm trắc của người Huế... Thôi thì hãy nghe chính người Huế giải thích nhá, người đó là Bùi Minh Đức. Ông giải thích về các loại muối Huế: “Muối sống (ăn với rau tờn chẳng hạn), muối trắng ăn với khế chua; muối rang, muối hầm, muối tiêu, muối tiêu chanh, muối ớt, muối sả, muối ruốc muối thịt, muối riềng, muối khuyết, muối đậu phụng, muối mè, muối dầu lai, muối gừng, muối mè… (Từ điển tiếng Huế - tr.605). Ghê gớm chưa? Lại nghe nói, chính ở Huế là nơi đầu tiên xuất hiện món mắm tôm chua. Tại sao? Dòng ngoại của vua Tự Đức gốc Gò Công, bà Từ Dũ sai người ở quê làm món ăn này cho đỡ nhớ nhà. Từ miền Nam xa lắc xa lơ đó, phải đi dài ngày, khi ra đến kinh đô, mắm đã lên men chua. Và mắm tôm đó, dậy một mùi vị đặc trưng, cực kỳ độc đáo còn truyền đến ngày nay. Sực nhớ câu văn của Nguyễn Tuân: “Hội An có từ bao giờ và tên cũ của nó là gì? Là Hải Phố, là Phải Phố?... Hay là Hoài Phố? Tôi không phải là người tra khảo cố sự, nên tôi vẫn cho Hoài Phố là phải hơn. Một cái phố nằm bên sông Hoài... Chao ôi một thị xã Nhớ dựng lên sát một hải cảng Đợi (Cửa Đại), sao mà đất nước mình có những địa danh từ gợi cảm khá nhiều như vậy!”. Nhà văn lý giải về địa danh bao giờ cũng nặng tính chủ quan. Ấy vậy, lại thấy hợp lý hơn cả những công trình nghiên cứu khảo sát dày cả hàng ngàn trang. Nghĩ cho cùng, sẽ chẳng bao giờ có thể truy nguyên gốc, tìm hiểu chính xác vì sao có tên gọi ấy. Cứ cảm nhận theo suy nghĩ của riêng mình, cũng chẳng ai bắt bẻ gì. Tại sao gọi chợ Cồn, gọi quán chợ Đo Đo? Chợ khác gì quán chợ? Tại sao trên đường từ Đà Nẵng ra Huế, đi ngang qua Phú Bài, lại thấy có tấm bảng ghi rõ ràng “làng Phù Bài”. Sao lại “Phú”, sao lại “Phù"? Lại thấy địa danh Hói Mít. Hỏi ra, mới biết, “hói” cũng tựa như khe, lạch nước… Từ điển của Huỳnh Tịnh Paulus Của giải thích: “Hói: Rạch xẻo, cái xép”; trong khi đó Việt Nam từ điển do người Bắc thực hiện, cụ thể là Hội https://thuviensach.vn Khai Trí Tiến Đức chỉ ghi nhận: “Hói: Nói sọ rụng hết tóc: hói đầu, hói trán”. Suy luận ra, “hói” là từ của miền Trung, miền Nam. Thêm một bằng chứng nữa, Từ điển tiếng Nghệ của các ông Trần Hữu Thung, Thái Kim Đỉnh cũng ghi nhận: “Hói: Vùng đất xa làng, sâu, cỏ lác ngập nước, thường ven sông”. Đã từng nghĩ rằng, có ai đó, đi từ Nam chí Bắc, đi dọc Quốc lộ 1 và ghi lại hết các địa danh đã có, chắc chắn sẽ phát hiện ra nhiều điều lý thú mà các nhà nghiên cứu suốt đời cắm cúi với trang giấy cũng không thể có. Hầu như ai cũng thừa nhận rằng, ông nhà văn Vang bóng một thời có tài chạm trổ chữ. Tỉa tót từng chữ. Làm mới câu văn, làm mới tiếng Việt bằng cách đặt các từ cạnh nhau vừa tài hoa, vừa kỳ thú, vừa cầu kỳ, vừa oái oăm đến độ có thể tạo ra sự bất ngờ trong nhiều cách liên tưởng khác nhau. Có thể nói, Mai Thảo cũng là một trường hợp không khác Nguyễn Tuân. Cũng ý thức làm mới lại các từ đã cũ nhằm diễn tả một câu văn mới hơn, lung linh hơn mà thú thật, đôi lúc đọc, đuổi bắt suy nghĩ của tác giả cũng mệt. Đọc tùy bút Võ Phiến dễ chịu hơn. Câu chữ giản dị mà chứa đựng nhiều thông tin, nhiều nhận xét tinh tế. Ngồi ở Cửa Đại một trưa của ngày Tết, của năm mới và ngắm nhìn từng bọt sóng xanh qua li pha lê trắng toát đã đỏ rượu vang màu mận chín. Gió lên. Gió đã lên. Một chút ngất ngây của men đã tràn qua lưỡi. Qua môi. Chợt nghĩ về phận người khi nghe tiếng sóng vỗ mãi. Vỗ mãi, bên tai. Từng đợt sóng nhẫn nại, quyết liệt với mỗi một khoảnh khắc, từng phút giây không mệt mỏi, không ngơi nghỉ, cứ liên tục, cứ dội vào bãi bờ âm vang một nỗi niềm mà liệu có ai thấu hiểu? Sóng lấp thời gian - vùi dưới sóng Ráo riết từng giây đến vạn đời Ai hay khoảnh khắc trong vô tận https://thuviensach.vn Một cánh chim bay níu lệch trời? Mỗi thân phận, mỗi phận kiếp trên hành trình đi về cõi Chết, đôi lúc, lại nghĩ đến. Và cứ thế, không cần có câu trả lời, cả thảy chúng sinh đều đi, đi như những vạt mây trắng đang dần dần chìm khuất bể dâu không còn dấu vết. Thế nhưng lại có những cánh chim vụt bay qua trần gian, chỉ một lần, nhưng ngàn năm sau dấu vết vẫn còn in bóng trên nền trời thăm thẳm... Thế đấy. Sóng biển, từ ngày này qua tháng nọ có đủ quyền lực xóa sạch mọi triều đại, mọi di tích, mọi kiến trúc, mọi dấu vết trên trái đất này. Nhưng hỡi ôi, một cánh chim bay trên nền trời kia mong manh là thế, yếu ớt là thế nhưng vẫn có thể níu lệch cả bầu trời. Thì ra, sự hiện hữu của một khoảnh khắc cũng không khác gì vô tận. Có nhà văn nào đó đã viết đại ý, nhớ đại khái rằng, một cánh bướm vỗ cánh ở nơi này có thể làm dậy sóng trùng dương nơi kia. Ngồi ở biển, viết được bài Tứ tuyệt trên, tự dưng y “tự sướng” bởi đã tìm ra một cách diễn đạt về lẽ vô thường. Sực nhớ, Hội An, nơi này, đã có nhiều kỷ niệm của ngày tháng tâm hồn còn trong veo như giọt nước mưa. Rồi tất cả đã xa. Chỉ còn lại một hoài niệm nhẹ nhàng và có lẽ chẳng bao giờ mất đi. Có những câu thơ như “trời cho”. Viết dễ dàng như giỡn chơi mà sẽ chẳng bao giờ có thể viết lại được lần thứ hai: Giọt sương treo mái hiên đình Nửa đêm thức giấc hỏi mình tan chưa? Một câu thơ Thiền. Được viết bởi một người điên. Phạm Phú Hải (1950- 2009). Đã chết. Đã có câu trả lời. (27.2.2015) https://thuviensach.vn NGÀY SỐNG ĐỜI THƠ Lê Minh Quốc www.dtv-ebook.com 10. Thương Thì Đừng Sợ, Sợ Thì Đừng Thương Sáng hôm kia. Thứ Bảy. Đã lâu lắm rồi mới có dịp đi chơi xa. Đã từng có nhiều lời mời, rủ rê nhưng lần nào cũng từ chối. Bởi ngại xáo trộn công việc đã thành nếp của mỗi ngày. Lần này thì không. Đi cùng anh em HTV về Trảng Bàng - Tây Ninh làm bộ phim tài liệu về quyển sách Trảng Bàng phương chí của anh bạn Vương Công Đức. Đã thân tình với Đức mà người viết kịch bản lại nhà văn Nguyễn Trọng Tín, vì thế, phải đi. Sáng sớm ra đường thấy nhẹ nhàng, thơ thới. Đường phố vắng. Xe chạy thong thả. Tranh thủ đọc vài tờ báo mới. Điếng hồn với thông tin về phi vụ lần lượt “giết” 6.700 cây cổ thụ tạo nên hồn vía, vẻ đẹp Hà Nội. Kế hoạch này là gì? Là sự khủng bố, bức tử không gian sống của người Thủ đô. Kế hoạch đang tiến hành nhưng do phản ứng của dư luận nên đang tạm dừng lại. Sực nhớ trước kia người ta cũng chặt đốn hàng loạt cây thông ở Đà Lạt, lúc ấy trên tạp chí Langbian số 1 (1988) của Hội Văn học nghệ thuật Lâm Đồng thì phải, nhà thơ Thanh Thảo có viết: “Những cây thông ùa vào Tỉnh ủy/ Xin đừng đốn chúng tôi…”. Nhà thơ? Tiếng nói của họ dù mỏng manh, dù yếu ớt và dù không có vành đai bảo vệ nhưng đủ sức lay động, thức tỉnh đám đông. Những ngày qua nào riêng gì các nhà thơ, hầu như ai ai cũng đều bàng hoàng, đau đớn trước hàng loạt cây xanh ngã gục tức tưởi. Gấp lại tờ báo, quay sang con trai nhà thơ Văn Lê, hỏi thăm dạo này ông bạn già sức khỏe thế nào? Nào ngờ, anh vừa nhập viện vào ngày thứ Sáu vì bệnh tim. Chữ nghĩa nằm sẵn đâu đó trong trí nhớ, chợt vọng đến câu thơ https://thuviensach.vn cũng có chữ “tim” liên quan đến bệnh tim của Văn Lê. Rằng, tập san Áo Trắng số vừa phát hành, nhà văn Đoàn Thạch Biền có viết hai câu thơ ấn tượng: Con banh lông đang mộng mơ Cá lao vụt phóng bất ngờ nhói tim Con“banh lông” còn gọi là sâm dừa, địa biển; “cá lao”, do tên gọi của nó nên mới có câu nối theo “vụt phóng bất ngờ”. Lao không phóng thì để làm gì? Cũng là một cách chơi chữ. Trên đường đi, đón nhà văn Nguyễn Trọng Tín. Điều bất ngờ, trong khu đô thị mới, trước khoảng sân nhà anh có trồng rất nhiều cây, kể cả rau xanh. Một khoảng thiên nhiên rợp mát khiến dễ có cảm tình với gia chủ. Phía trước nhà có cây chuông vàng. Hoa vàng đẹp một cách trang nhã. Trồng dưới đất à? Không, trồng trong chậu nhỏ, ít đất nhưng nó vẫn có sức sống mạnh mẽ. Vợ anh “bật mí”, chăm sóc loại cây này, thỉnh thoảng phải tưới bằng nước cá. Nghĩa là nấu đầu cá, xương cá, vớt mỡ bỏ đi, để nguội rồi tưới vào gốc cây. Những kinh nghiệm nho nhỏ ấy, chẳng phải ai cũng biết. Cũng như lúc về Tây Ninh, đi đến tận nơi xuất phát địa danh Trảng Bàng, tình cờ thấy cây bình bát. Người thân của Vương Công Đức bảo rằng, trái bình bát còn có công dụng, đại khái, ngày xưa, người ta tán nhuyễn trái này, pha với nước để làm thuốc trừ sâu cho lúa. Nghe cũng thấy lạ. Ngày thứ Bảy. Đến Tây Ninh, sực nghĩ rằng, nơi này không có biển nhưng tại sao lại có thể sáng chế ra loại “muối tôm” ngon độc đáo đã trở thành thương hiệu? Đã nói đến cái bánh tráng, lập tức phải thừa nhận là đặc sản “độc quyền” của vùng Nam, Ngãi, Bình, Phú. Nhưng tại sao nơi này có thể cải tiến thành “bánh tráng phơi sương” không “đụng hàng”? Rồi nữa, ở Việt Nam có hai tôn giáo ra đời từ tâm linh, nhận thức của người Việt, đó là đạo Hòa Hảo ở An Giang và đạo Cao Đài ở Tây Ninh. Tại sao hai vùng đất https://thuviensach.vn này có sứ mạng đó? Nói cách khác đâu là yếu tố tâm linh của con người vùng đất đó, đâu là yếu tố địa lý, v.v… Khi trao đổi, nhà văn Nguyễn Trọng Tín cho rằng, ở Việt Nam ban đầu sự ra đời của một tôn giáo đã mang yếu tố chính trị, chẳng hạn, tập hợp quần chúng đánh đuổi ngoại xâm, cứu nước... Để tồn tại, họ khôn ngoan ẩn giấu lý tưởng chính nghĩa đó bằng màu sắc tôn giáo. Mà hoạt động chính trị, phải tập hợp quần chúng, có lực lượng vũ trang. Ở An Giang có Thất Sơn huyền bí, ở Tây Ninh có núi Bà Đen linh thiêng, hai nơi ấy có thể làm nơi ẩn náu của nghĩa quân rèn gươm, chứa lương thực, xây dựng đội ngũ… Cách lý giải này đáng suy ngẫm thêm. Ngày thứ Bảy. Đã đến mộ của những vị tiền hiền có công khai hoang vùng đất Tây Ninh. Đoàn làm phim đã thực hiện những cảnh quay tại mộ ông cụ Đặng Văn Trước (có tài liệu cho rằng Đặng Thế Trước) tại khu vực Bùng Binh, xã Hưng Thuận (Trảng Bàng), không rõ năm sinh của Ông, chỉ biết mất năm 1826. Bà con nơi này tôn kính gọi “Ông thần”, đọc "Trước" chệch thành “Trác” vì kỵ húy. Giỗ Ông vào ngày 11 rạng 12.10 âm lịch hằng năm. Ngôi mộ này đã được tỉnh Tây Ninh công nhận Di tích lịch sử văn hóa. Khi đến nơi, bỗng gặp hai người phụ nữ, phía sau có hai đứa nhỏ lon ton chạy theo. Họ tỏ ý không đồng ý cho quay phim, nếu không biết rõ mục đích. Hỏi han một lúc mới biết, nơi này thời chiến tranh là vùng oanh tạc tự do. Vì miếng cơm manh áo, họ đã quyết sống, bám trụ trồng trọt cho đến nay. Từ đời cha đến đời con, khi trồng cao su, lúc trồng bạch đàn, v.v… họ đã gắn bó mật thiết với vùng đất này. Dù không hề có sổ đỏ, sổ đen chứng nhận đất thuộc sở hữu để “lận lưng” nhưng rõ ràng máu, mồ hôi của họ đã cải tạo đất là điều có thật. Chị vừa khóc vừa kể: “Lần nọ, tôi cuốc đất nhưng không biết lưỡi cuốc chim đụng vào quả M79. Ngay lúc đó tự nhiên ở đâu có con ong to tổ chảng bay đến cắn vào mặt, tôi hoảng hồn chạy thục mạng, vừa cách mấy chục bước chân thì nghe tiếng long trời lở đất. Trời đất quỷ thần ơi! Không https://thuviensach.vn có con ong đó báo trước, chắc tôi đã banh xác từ khuya rồi”. Nghe có lý, có thể hiểu nôm na loại đạn này khi thoát khỏi nòng, phải qua mấy vòng tua, vòng xoay gì đó, nó mới phát nổ. Qua đó, họ thêm tin được “Ông thần” phù hộ và càng vun vén, nhang khói, giữ gìn mộ của Ông qua gần nửa thế kỷ. Đã đến ngôi đình làng cổ ở Trảng Bàng, ghi nhận chi tiết này: Phía trước gian thờ tự, có đặt những cái bàn cao chừng 1,5 mét, mặt bàn vuông vức. Vương Công Đức giải thích, ngày cúng đình làng, bà con thuộc tôn giáo (như đạo Phật, Cao Đài…) đặt mâm cúng lên đó; còn có một bàn riêng của tộc lớn là tộc Dương - một trong những tộc người Việt đầu tiên đến khai hoang lập ấp. Còn nhớ, lúc vào nhà thờ tộc Dương, thấy có ghi câu đối phía tay trái: “Thể phách tồn thiên địa/ Tinh thần tại tử tôn”. Đã đến viếng ngôi mộ cổ của một vài vị “Tiền hiền khai khẩn, Hậu hiền khai canh”, như mộ cụ Dương Tấn Phong, Dương Tấn Quá - những con người đã sống cách đây vài trăm năm trước, thuộc lớp “sinh vi tướng, tử vi thần”. Nhận xét chung: Phía trước và phía sau mộ đều có bia che chắn. Ngay sau bia phía trước, cách chừng một mét còn có vòm cửa, cao chừng tám tấc rồi mới đến vị trí ngôi mộ. Muốn vào đến mộ, phải khom người, cúi mặt sát đất mới có thể bước vào. Rõ ràng, một dụng ý nhắc nhở con cháu phải có thái độ thành kính khi nhang khói cho tổ tiên, ông bà, các bậc tiền hiền… Khi phát biểu với Đài HTV, y tâm đắc với cái ý, cần phải nghiên cứu thêm nhiều sử liệu về làng, xã nơi mình đã chôn nhau cắt rốn. Ai cũng có thể làm được, miễn là họ có cái tâm, có ý thức gìn giữ, tìm hiểu di sản của cha ông. Mà những tài liệu ấy cực kỳ cần thiết bởi chính sử không tài thánh gì có thể ghi chép, phản ánh lại đầy đủ. Chẳng hạn, đọc chính sử, ta biết về vụ Lê Văn Khôi - con nuôi Lê Văn Duyệt nổi loạn đánh chiếm thành Gia Định. Sau khi bị quân triều đình bao vây, đánh tan nên Khôi phải kéo quân về Quang Hóa (Tây Ninh). Biết chỉ đến thế. Nhưng khi điền dã, viết sử về địa phương của mình, Vương Công Đức đã phát hiện thêm: “Chạy về Quang Hóa, tàn https://thuviensach.vn binh của Lê Văn Khôi nổi giận đốt Miễu Ông Cả Đặng Thế Trước, nhưng đốt mãi không cháy, bèn đem voi đến húc cho sập nhưng không được vì voi sợ hãi phải thụt lùi (?)”. Chi tiết này cho biết thêm về nghi lễ ra trận của cha ông ta thời trước, Đức giải thích đúng: “Chúng tôi cho rằng trước khi dấy loạn, những nghĩa binh đã đến Miếu Ông Cả để làm lễ ăn thề và cầu xin phù hộ để mưu việc lớn, vì khi đó Lê Văn Khôi có căn cứ Quang Hóa, nay việc không thành nên tàn quân Lê Văn Khôi quay lại miếu mà trả thù cho hả cơn giận”. Đọc sử địa phương bao giờ cũng lý thú với các chi tiết đắt giá như thế. Mà địa phương nào, nơi nào lại không có những câu chuyện lưu truyền từ đời này qua đời nọ? Vấn đề đặt ra, ngày nay có còn ai quan tâm tìm tòi, ghi chép lại ký ức của nơi mình sinh ra? Hiếm hoi lắm. Đời sống ngày một thay đổi. Vật đổi sao dời là cái lẽ tất nhiên. Thế rồi, những di sản tinh thần, giá trị vật chất cụ thể của từng vùng miền có ai ghi chép lại cho đời sau? Đây cũng là một trong những lý do mà nhà văn Nguyễn Trọng Tín, đạo diễn Khắc Tuấn quyết định đề xuất làm bộ phim tài liệu về công việc thực hiện quyển Trảng Bàng phương chí của Vương Công Đức. Y đi theo, thật ra không phải do có phát biểu đôi câu mà chính là muốn tỏ thái độ ủng hộ việc làm của anh em bầu bạn. Trong đời sống, đôi khi chỉ cần có tiếng nói ủng hộ một việc làm tốt, là đủ. Đôi khi, im lặng không nói gì, không bày tỏ thái độ gì, cũng là đủ. Chuyến đi ngày thứ Bảy còn có nhiều chuyện lý thú về phương ngữ Nam bộ. Chẳng hạn, lâu nay từng nghe: “Đường vô xứ Huế quanh quanh/ Non xanh nước biếc như tranh họa đồ/ Thương em anh cũng muốn vô/ Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang/ Phá Tam Giang ngày rày đã cạn/ Truông nhà Hồ, Nội Tán cấm nghiêm”. Không ngờ, ở Nam bộ lại có một dị bản cực hay, theo anh Nguyễn Trọng Tín: “Phá Tam Giang ngày rày đã cạn/ Truông nhà Hồ, ai dạn thì đi/ Nghiêng tai nói nhỏ với dì/ Đã thương đừng sợ, sợ thì đừng thương”. https://thuviensach.vn Hay và hài hước ở chỗ, chàng anh rể “nghiêng tai” nói với cô em vợ, chứ không phải với mèo mỡ nào cả. Đạo lý người Việt dễ dãi chấp nhận “mía ngon đánh cả cụm”, không cười cợt gì. Vì thế, cái sự lèng èng "bắt cá hai tay" đó cũng có thể châm chước - nhất là nếu “dì nó” còn mơn mởn đào tơ; hoặc chồng đã vân du tiên cảnh… Chưa gì mà đã ham hố bắt cá hai tay, ca dao Phú Yên có câu: “Gió đưa bụi chuối sau hè/ Lăm le con chị ai dè con em”, không khéo bị mắng đấy: “Anh về rọc lá gói nem/ Con chị chưa chắc con em chắc gì”. Còn hành động “nghiêng tai nói nhỏ với dì” nghe ra như đùa như thật. Được thì được, không thì thôi nhưng cũng cho thấy một tính cách rõ ràng, không ỡm ờ, nước đôi của người Nam bộ. Rồi những câu chuyện về thơ, về thế sự, về bạn bè văn nghệ cùng nhà văn Nguyễn Trọng Tín có nhiều thông tin hay. Sẽ ghi lại sau. Chắc chắn rằng, từ trong sâu thẳm tình cảm, tự dưng ta lại có cảm tình sâu sắc hơn nữa với những vùng đất xa lạ dù chưa đến hoặc chỉ mới đến đôi lần. Tình cảm ấy có được là do tính cách, hình ảnh cụ thể của những con người vùng đất đó mà ta đã gặp, đã trò chuyện, đã chia sẻ những suy tư chân thật không giấu giếm nhau và nhất là không đổi lưỡi trong một ngữ cảnh khác. Hôm qua, Chủ nhật. Ăn trưa ở nhà hàng bên sông Sài Gòn. Và rượu đỏ. (23.3.2015) https://thuviensach.vn NGÀY SỐNG ĐỜI THƠ Lê Minh Quốc www.dtv-ebook.com 11. Sợi Hồng Lưu Luyến Xuân Thì Đương Xoan “Đang làm gì Q. ơi”. Tin nhắn này, thỉnh thoảng lại nhận, của Đoàn Tuấn. Đôi lúc nhớ nhau, chỉ một tin nhắn vu vơ và cũng chẳng cần phải chờ nhận lại câu trả lời. Bạn thừa biết y, ngày nào lại chẳng thế. Ngày nào chẳng viết. Ngày nào chẳng tình ái vu vơ. Ngày như mọi ngày. Nhưng những ngày này đã khác rồi T. ạ. Khác vì y còn kiêm thêm nghề chích thuốc nữa. Chuyện là, trong vòng mười ngày trở lại đây, mẹ của y bị tiểu đường, bác sĩ bảo, uống thuốc không còn tác dụng nữa. Phải chích. Ngày hai lần. Sáng và chiều, trước lúc ăn chừng mười phút. Thế là y trở thành y tá bất đắc dĩ. Cây kim chích thuốc bằng nhựa, dài chừng một gang tay, đậm màu xanh nước biển, trong đó có chứa sẵn thuốc. Dung lượng thuốc mỗi lần chích bao nhiêu? Có ghi từng nấc từng 1 đến 10 phía cuối cây kim. Tự điều chỉnh. Và chích. Xong thay kim. Dễ dàng lắm. Ngày xưa, mỗi lần mẹ sai bảo cái gì, dứt khoát phải vòi vĩnh, mè nheo: “Con làm xong, mẹ cho con” cái này cái kia, nếu không thì vùng vằng, giận dỗi. Bây giờ, nếu được thế, hạnh phúc biết bao nhiêu, phải không? Nhưng rồi ước mơ ấy xa vời vợi và đã trở thành cổ tích. Mỗi một ngày còn được chích thuốc cho mẹ đã là niềm hy vọng thầm kín và thiêng liêng. Chỉ sợ đến một lúc sẽ không còn diễm phúc đó nữa. “Mẹ già như chuối chín cây”. Câu ca dao vụt ngang qua trí nhớ. Rưng rưng. Cảm động. Những ngày này, mỗi đêm vẫn giữ thói quen đọc cái gì đó. Đã đọc tạp chí Thơ số mới nhất. Trong đó, vẫn còn duy trì chuyên mục Thi thoại tản mạn của Hồng Diệu. Có nhiều chuyện cần trao đổi thêm. Có nhiều chuyện lý thú. Chẳng hạn về câu thơ “Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách” - Phan Huy https://thuviensach.vn Vịnh dịch “Tầm dương giang đầu dạ tống khách”, câu đầu bài Tì bà hành của Bạch Cư Dị. Lâu nay đã đọc nhưng chưa thấy ai phân tích thế này, đại khái, chữ thứ nhất “bến” và chữ cuối “khách” đều vần trắc, các chữ còn lại đều thanh bằng. “Người ta sẽ hình dung: Hai thanh trắc như độ cao của hai mũi thuyền, năm thanh bằng là phần còn lại (thấp hơn) của chiếc thuyền. Thật kỳ thú”. Vâng, rất kỳ thú. Ai là người trước nhất phát hiện, Hồng Diệu cho biết đã từng nghe Xuân Diệu và Chế Lan Viên nói thế. Trong cuộc sống, đôi khi có những cuộc trò chuyện, nếu biết lắng nghe, ghi chép lại hữu ích biết bao nhiêu. Lần nọ, năm 2007, khi trò chuyện với các em học sinh lớp 10 trường Song ngữ Quốc tế Horizon - Q.2, y nhấn mạnh đến câu thơ của Quang Dũng: Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Nếu vẽ theo hình đồ thị, câu trên sẽ cho thấy một hình tam giác cao chót vót (thể hiện qua "ngàn thước lên cao” và “xuống”). Câu kế tiếp toàn âm bằng đã mở ra một không gian mênh mông. “Thi trung hữu họa” đấy chứ? Đọc hai câu thơ này đã có thể hình dung ra một không gian sông nước hữu tình ngay trước mắt. Há chẳng phải là điều kỳ thú của thơ đó sao? Trong tập sách Kỷ niệm văn thi sĩ hiện đại (Xây Dựng xuất bản năm 1962), nhà thơ Bàng Bá Lân có kể câu chuyện, năm 1952 khi dạy học ở Hà Nội, có cậu học trò lớp đệ Tứ cho biết rất thích câu thơ “Êm đềm sóng lụa trôi trên lúa”. Là tác giả nên ông hỏi thêm, vì sao thích? Cậu học trò cho biết vì câu thơ đó, “tả gió mà không nói tới gió”. Ông không tin cậu học này có được nhận xét tinh tế và đúng đến thế. Cuối cùng, cậu thành thật cho biết đó là nhận xét của nhà văn Nguyễn Hiến Lê đã in trong tập Luyện văn. Vừa rồi, kiểm tra lại thấy đúng. Ông Lê có nhận xét ấy. Mấy ai có thể là https://thuviensach.vn tri âm tri kỷ của nhà thơ, kể cả các nhà phê bình chuyên nghiệp? Nếu không có sự tinh tế, “mắt xanh” của Hoài Thanh, chưa chắc người đương thời thừa nhận sức sống oanh liệt, vẻ đẹp ngôn từ đã làm nên “Một thời đại trong thi ca” Việt Nam. Một chữ trong thơ cũng kỳ thú lạ lùng. Về câu thơ “Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách”, khi phân tích cái hay của nó, ông Nguyễn Hiến Lê bâng khuâng tự hỏi: “Tại sao vậy nhỉ? Phải chăng âm dương có một ma lực lạ lùng?”. Nói như thế bởi, ông cho rằng nếu thử đổi thành Bến Vàm Nao, hoặc Bến Ngã Năm, Bến Hà Nam, Bến Việt Trì thì "giá trị câu thơ mười phần đã mất tới sáu, bảy”. Từ suy nghĩ này, ông đi xa hơn một chút nữa: “Và biết đâu, một phần nhạc của đoạn “Cùng ngóng nhau” trong Chinh phụ ngâm chẳng do âm ương của hai tên Hàm Dương, Tiêu Tương láy đi láy lại: Chốn Hàm Dương chàng còn ngảnh lại Ngác Tiêu Tương thiếp hãy trông sang Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng Lập luận của ông Lê không phải không có lý, ai tranh cãi thì mặc, nhưng rõ ràng, ông có khả năng thẩm thơ và hơn cả điều đó, là tấm lòng yêu thơ. Nhân đây nói luôn, câu Ngác Tiêu Tương thiếp hãy trông sang, có nhiều bản in hoặc trên mạng đều ghi “Bến (hoặc miền) Tiêu Tương thiếp hãy trông sang" là không đúng từ cổ tiếng Việt. Duy bản của Hoàng Xuân Hãn ghi “ngác” và giải thích: “một nhánh sông”. Tiến sĩ Nguyễn Bá Lân, cùng thời với tác giả Chinh Phụ ngâm có bài phú nổi tiếng Ngã ba Hạc, mở đầu: Vui thay Ngã ba Hạc! Lạ thay Ngã ba Hạc! Dưới hợp một dòng, trên chia ba ngác Ngóc ngách khôn đo rộng hẹp, dòng biếc lẫn dòng đào; lênh lang dễ biết https://thuviensach.vn sâu nông, nước đen pha nước bạc. Bây giờ, có còn ai đọc thơ chậm rãi và suy nghĩ thấu đáo những điều tác giả đã viết? Chắc là không. Chẳng ai có thời gian. Thời gian vùn vụt trôi nhanh. Đọc thơ liệu có ích gì? Tự dưng liên tưởng rằng, muốn cảm hết cái hay của thơ, trước hết tâm hồn ấy phải tinh tế và sống chậm. Đúng không? Thơ Haiku, nghệ thuật bonsai của Nhật là một phong cách sống chậm đó chăng? Thử đọc bài thơ này của nữ sĩ Sugita Hisajo (1890-1946) viết năm 1928: Từng mảnh xiêm y Rời thân thể ngọc Sợi hồng lưu luyến Nguyên tác: Hanagoromo Nuguya matsuwaru Himoiroiro Y thử dịch sang tiếng lục bát xem sao: Nhẹ nhàng trút bỏ xiêm y Sợi hồng lưu luyến xuân thì đương xoan Phụ nữ Nhật mặc kimono gọi là Hanagoromo. Người Nhật gọi từng từ trong một bài thơ Haiku là kigo (quý ngữ); hoặc kidai (quý đề), có thể hiểu đã là sự chắt lọc đến mức cao nhất của từ. Đọc bài thơ này, có thể thấy được hình ảnh, sau khi ngắm hoa về, cô gái đang cởi bộ kimono. Bộ kimono nhiều https://thuviensach.vn lớp và nhiều dây buộc màu sắc khác nhau như vẫn còn luyến lưu tấm thân ngà ngọc của nàng. Bài thơ mở ra một cảm hứng mới cho sự tưởng tượng của mỗi người khi tiếp nhận. Tác giả chia sẻ: "Khi cởi từng lớp áo, người con gái hơi bực mình vì sợi dây cứ vướng vào áo cô và cô đang mệt nhưng thú vị sau buổi ngắm hoa. Bài thơ của tôi để lộ một thoáng riêng tư qua hai khía cạnh của các sợi dây - cái đẹp của màu sắc và cái vướng mắc trong động tác” (Tạp chí Nopponia, bản tiếng Việt, số 8, 15.4.1999). Để làm sống lại kimono trong nhịp sống hiện đại, người Nhật có tạp chí Kimono Hime, từ năm 2002. Để làm sống lại áo dài Việt Nam, tiến đến Ngày áo dài, chúng ta chưa có một tạp chí riêng biệt nào. Người Nhật thích chơi bonsai, người Việt cũng thích chơi cây. Ngẫm lại cái thích ấy của người Việt xưa nay đã nhuốm màu phàm phu tục tử. Không tin à? Bây giờ đi dọc Quốc lộ 1 vẫn còn thấy bày bán nhiều cây to đùng, có lẽ họ bứng từ non cao rừng thẳm đem về, bán giá tiền triệu. Chơi thế phỏng ích gì? Hay chỉ là sự khoe mẽ nhà cao cửa rộng? Đọc Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, lại thấy cái thú của người chơi cây cảnh thuở ấy như nhiều kẻ có quyền thế cưỡng đoạt cây của người ta. Cây to quá thì đập luôn tường nhà, miễn sao đem về trồng tại tư gia mình là được. Cây càng to, càng cổ thụ mới là “đẳng cấp”. Ngược lại, người Nhật lại muốn thâu tóm cả ngàn năm thiên nhiên chỉ vỏn vẹn, gọn lỏn trong một cái chậu! Qua một bức tranh cổ còn sót lại, người Nhật phỏng đoán rằng thú chơi này đã có ở Nhật từ thế kỷ XIV. Ban đầu là thú tiêu khiển của những nhà quý tộc, nhà sư, các võ sĩ samurai cao cấp rồi mới lan dần đến dân chúng. Nếu xét tâm tính một dân tộc qua thể thơ tiêu biểu nhất của dân tộc đó, y nhận xét rằng, với thể thơ Haiku, người Nhật cẩn trọng, chỉn chu, chuẩn mực đến từng chi tiết. Người Trung Hoa thì sao? Họ có thể dàn trải mọi hỉ nộ ái ố trầm luân của một và nhiều số phận con người trong trường thiên tiểu thuyết dài dằng dặc như chính đất nước dài rộng mênh mông của họ; nhưng nếu cần, họ chỉ thâu gọn trong một bài tứ tuyệt ngắn củn có thể lọt thỏm giữa lòng bàn https://thuviensach.vn tay. Điều này cho thấy khó thể thấu hiểu tâm tính người Trung Hoa, nó biến hóa khôn lường, tùy trường hợp, miễn là “được việc” cho họ. Còn người Việt? Chúng ta có lục bát. Đó là sáng chế của người Việt, dù sau này đã có những tranh luận cho rằng của người Chăm. Đúng sai thế nào chưa bàn đến. Điệu thể sáu, tám dễ gợi lên sự du dương tình cảm. Người Việt nặng về tình. “Một bó lý không bằng một chút tình”. Mà cái tình thể hiện vừa vừa phải phải thì được, đáng quý nhưng nếu thái quá lại hóa ra lẩm cẩm, ngớ ngẩn. Thì cứ xem lục bát thì rõ, ngắn gọn thì hay nhưng kéo dài ra lại không khéo hóa thành… vè. Chiều rồi, đã đến lúc chích thuốc cho mẹ. (25.3.2015) https://thuviensach.vn