🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nếp Cũ, Hội Hè Đình Đám
Ebooks
Nhóm Zalo
Thông tin ebook
Tên sách: Nếp cũ - Hội hè đình đám (quyển Thượng + Hạ) Tác giả: Toan Ánh
Nhà xuất bản Trẻ
Số hóa: Hanhdb
Ngày hoàn thành: 9/06/2014
Diễn đàn TVE-4U
Dự án ebook chuẩn cho mọi thiết bị di động
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Nhà văn, nhà nghiên cứu phong tục Toan Ánh tên thật là Nguyễn Văn Toán sinh nấm 1915 (Ất Mão) tại Thị cầu, tỉnh Bắc Ninh.
Vào làng cầm bút từ rất sớm (1934), với nhiều bút danh trên các lĩnh vực như thơ ca, văn xuôi, kịch bản và biên khảo phong tục học như: Đào Vân, Kinh Vũ, Minh Chúc, Hảo Lân, Vương Quốc Sủng, Thành Nghĩa, Hiển Vi... và nhiều nhất là Toan Ánh.
Ông mất ngày 15 tháng 5 năm 2009, tại Thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 95 tuổi.
Trong hơn 70 năm cầm bút sáng tác và hoạt động văn học nghệ thuật, ông đã cộng tác với hàng chục tờ báo khắp trong Nam ngoài Bắc, làm chủ nhà in, nhà xuất bản ở Hà Nội (trước năm 1954), thành viên Trung tâm Văn bút Quốc tế (Pen Club), giáo sư thỉnh giảng tại nhiều trường đại học và cao đẳng như Đại học Vạn Hạnh Sài Gòn, Đại học Văn khoa Huế, Đại học Văn khoa Cần Thơ, Đại học Đà Lạt, Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn... về các môn phong tục học, văn hóa xã hội Việt Nam, lịch sử nghệ thuật và nếp sống dân tộc Việt Nam.
Do đảm nhiệm nhiều công việc trên nhiều lĩnh vực khác nhau thuộc về hoạt động văn hóa, văn học nghệ thuật, lại được sự giáo dục thuở thiếu thời của gia đình và nỗ lực học tập của bản thân, sụ quảng giao với người trí thức nhiều vùng miền trong cả nước, nên hầu hết các tác phẩm thuộc thể loại khảo cứu phong tục và văn hóa dân gian của ông có giá trị thực tiễn và khoa học cao.
Gần 120 tác phẩm (không kể những bài báo, những bài giảng) đã được tác giả và gia đình tập hợp, có 70 tác phẩm đã được xuất bản trước và sau ngày 30.4.1975 bởi nhiều nhà xuất bản khác nhau (tính đến năm 2004).
Từ năm 2004, trong tinh thần tiến đến thực hiện “Toàn tập Toan Ánh ”, Nhà xuất bản Trẻ đã được tác giả và gia đình đồng ý trao quyền xuất bản từng phần các tác phẩm của ông đã và chưa công bố.
Việc tổ chức tập hợp, sắp xếp theo chủ đề, đế mỗi tác phẩm Toan Ánh mà Nhà xuất bản Trẻ xuất bản là một sản phẩm mang đầy đủ giá trị
và tinh thần Toan Ánh nhất, đồng thời đáp ứng được yêu cầu nghiên cứu, tìm hiểu của bạn đọc rộng rãi.
Trong tinh thần đó, Nhà xuất bản Trẻ xin được trân trọng giới thiệu tập sách này đến bạn đọc nhân kỷ niệm hai năm ngày nhà văn - nhà nghiên cứu Toan Ánh về với tổ tiên.
Hội hè về kỷ niệm lịch sử
Giới thiệu
Mỗi nước có một lối ghi ơn các vị anh hùng dân tộc. Việt Nam, để tỏ lòng kính mến các vị này, thường có lập đền thờ các Ngài hoặc ở ngay nơi sinh quán, hoặc ở nơi các ngài qua đời và hàng năm vào dịp Xuân, dịp Thu hoặc vào ngày ky các Ngài dân làng có cúng bái, rước xách tế lễ và tại nhiêu làng có tổ chức nhiêu trò vui gọi là mở hội.
Nhiều vị anh hùng không chỉ riêng dân xã mở hội kỷ niệm các ngài, nhân dân cũng không quên ơn các ngài, do đó tuy hội chỉ tổ chức ở một địa phương, mà dân chúng các nơi đều kéo tới lễ bái, như hội đền Kiếp Bạc, nơi thờ Hưng Đạo Vương, hoặc hội đền Hùng nơi có mộ tổ vua Hùng.
Tuy gọi là các hội hè về kỷ niệm lịch sử, nhưng các hội không giống nhau, mỗi hội có một sắc thái riêng tùy theo nhân vật được kỷ niệm và cũng tùy theo phong tục từng địa phương.
Giỗ trận Đống Đa
Trong các hội hè về kỷ niệm lịch sử, hội Chùa làng Đông Quang là một hội đặc biệt hơn cả, ngày hội được dân Việt Nam gọi là ngày Giỗ Trận Đống Đa.
Theo định nghĩa của ngày giỗ, đây là ngày kỷ niệm của một người chết qua đời, nhưng Giỗ Trận Đống Đa tuy là ngày kỷ niệm lịch sử liên quan tới vua Quang Trung, nhưng chính ra không phải là ngày nhà vua qua đời, mà là ngày kỷ niệm cái chết của gần 20 vạn quân Thanh đã bị quân của nhà vua giết chết tại gò Đống Đa thuộc địa phận làng Đông Quang vào ngày mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789).
Làng Đông Quang thuộc quận Đống Đa (Hà Nội).
Hàng năm vào ngày thắng trận của nhà vua, dân làng Đông Quang mở hội tại chùa làng, trước là để mừng Xuân, sau là để tụng kinh siêu độ cho mười mấy vạn quân Thanh đã bỏ mình vì chiến trận, và đồng thời cũng tụng kinh cầu nguyện cho các chiến sĩ Việt Nam đã bỏ mình trong trận chiến thắng của dân tộc này.
Chùa Đông Quang không xa Hà Nội, trên con đường Hà Nội đi Hà Đông, giáp ngay Hà Nội. Ai đã có dịp đi từ Thái Hà ấp tới các làng Mọc, lẽ tất nhiên phải nhận thấy những mô đất nhấp nhô ở cánh đồng: Đó là những di tích cuối cùng của quân nhà Thanh, sau khi thất trận đã được vùi nông dưới nấm cỏ khâu, không kể những quân sĩ đã bỏ mình theo dòng nước sông Hồng khi Tôn Sĩ Nghị chặt cầu qua Kinh Bắc.
Chút lịch sử thay thần tích
Hội chùa Đông Quang không phải là lễ kỷ niệm một vị thần linh, đây chỉ là lễ kỷ niệm một sự kiện lịch sử, dưới đây là sơ lược:
Sau khi tướng Tây Sơn là Vũ Văn Nhậm đánh chiếm Bắc Hà, vua Lê Chiêu Thống, bà Hoàng Thái Hậu và một số các bầy tôi tòng vong sang cầu cứu vua Càn Long nhà Thanh. Năm Mậu Thân (1788), mượn cớ cứu nhà Lê, vua Thanh Càn Long phái quân sang chiếm giữ Thăng Long, có ý muốn thôn tính rước Nam.
Quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị, Tổng Đốc Lưỡng Quảng chỉ huy, gồm quân bốn tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu và Vân Nam.
Tôn Sĩ Nghị chia quân làm ba đạo kéo sang nước Nam, một đạo do lối Tuyên Quang, một đạo do đường Cao Bằng và một đạo do ngả Lạng Sơn. Dưới trướng Tôn Sĩ Nghị có đề đốc Hứa Thế Hanh, tri phủ Điền châu Sầm Nghi Đống và một số các tướng lĩnh tài giỏi.
Đoàn quân này hùng hổ kéo sang Thăng Long như đoàn cọp dữ.
Tướng Tây Sơn là Ngô Văn Sở đóng quân ở Thăng Long, được tin quân Thanh sang, liền một mặt rút quân về đèo Tam Điệp, tức là đèo Ba Dội thuộc địa phận tỉnh Ninh Bình (Hà Nam Ninh) ngày nay, một mặt cáo cấp về Phú Xuân.
Quân Ngô Văn Sở rút đi, quân Thanh chiếm đóng Thăng Long.
Vua Quang Trung lúc đó mới là Bắc Bình Vương, được tin giặc đã chiếm Thăng Long liền hội họp các tướng sĩ để bàn việc ra quân.
Theo lời yêu cầu của chư tướng, trước khi ra quân, Vương đắp đàn ở quận Bàn Sơn và lên ngôi Hoàng đế vào ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân.
Sau đó Ngài thống lĩnh đại binh ra đánh quân Tàu. Quân ta gom tất cả mười vạn và 100 voi.
Ngày 20 tháng Chạp, đại quân kéo tới đèo Tam Điệp. Ngô Văn Sở và Ngô Thời Nhiệm trình bày cùng nhà Vua thế mạnh của quân Thanh. Ngài cười nói rằng:
Chúng nó sang phen này là mua lấy cái chết! Ta ra chuyến này, thân coi việc quân, đóng, giữ, đã định mẹo rồi, đuổi quân thù chẳng qua mười ngày là xong việc, nhưng chỉ nghĩ chúng là nước lớn gấp bội mười lần nước ta, sau khi chúng thua một trận, tất chúng lấy làm xấu hổ, lại mưu báo thù, như thế thì đánh mãi không thôi, dân ta hại nhiều, ta sao nỡ thế. Vậy đánh xong trận này, ta phải nhờ Thời Nhiệm dùng lời nói khéo để đình chỉ việc chiến tranh. Đợi 10 năm nữa, nước ta nuôi được sức phú cường, ta không cần sợ chúng nữa.
Vua Quang Trung truyền cho chiến sĩ ăn Tết Nguyên Đán trước ngày để đến hôm trừ tịch thì cất quân đi, đánh ngày mồng 7 tháng Giêng sẽ vào Thăng Long mở tiệc ăn mừng.
Nhà Vua chia binh làm 5 đạo tiến ra Bắc:
Ngô Văn Sở đem quân làm tiền phong có Hô Hổ Hầu đốc chiến.
Đại Đô Đốc Lộc đem thủy quân vượt biển qua sông Lục Đầu, kéo về vùng Lạng Giang, Phượng Nhỡn, Yên Thế để chặn đường quân Tàu.
Đô đốc Tuyết cũng đem thủy quân vượt bể, kinh lược mặt Hải Dương, tiếp ứng xuống mé sông.
Đô đốc Mưu đem quân đi xuyên qua huyện Chương Đức, nay là huyện Chương Mỹ, kéo thẳng tới làng Nhân Mục huyện Thanh Trì, đánh quân Sầm Nghi Đống.
Đại Đô Đốc Bảo thống xuất quân tượng mã, kéo ra làng Đại Áng, huyện Thanh Trì tiếp ứng cho mặt tả.
Quân của vua Quang Trung cứ theo kế hoạch đúng đêm hôm trừ tịch kéo quân ra Bắc như vũ như bão, đánh tan quân Lê ở bến đò Giản Thủy, Ninh Bình, bắt sống hết toán quân Tàu đóng ở Phú Xuyên, tỉnh Hà Nam Ninh ngày nay. Ngày 5 tháng Giêng, vây đồn Hạ Hồi, kéo thẳng tới Thăng Long, giết quân giặc chết như rạ ở Gò Đống Đa. Các tướng lĩnh nhà Thanh là đề đốc Hứa Thế Hanh, tiên phong Trương Sĩ Long, tả dực Thương Duy Thăng đều tử trận. Tri phủ Điền Châu là Sầm Nghi Đống đóng quân ở Đống Đa bị bao vây phải thắt cổ tự tử.
Tôn Sĩ Nghị nửa đêm được tin báo hoảng hốt, không kịp thắng yên ngựa và mặc áo giáp, đem mấy tên lĩnh kỵ chạy qua sông sang Bắc. Quân Tàu hay vậy cũng xô nhau chạy trốn sang cầu, cầu bị Tôn Sĩ Nghị sai chém đứt và sông Hồng Hà đã là mồ chôn mấy vạn quân Thanh.
Quân Thanh tan, từ đó về sau tại chùa Đông Quang hàng năm có mở hội gọi là ngày Giỗ trận Đống Đa. Có lẽ dân làng cũng muốn kỷ niệm chiến công oanh liệt của nước nhà, nhưng qua một hình thức của ngày hội và đây là ngày làm lễ cầu siêu cho tướng sĩ quân nhà Thanh đã từng bỏ mình tại nơi đây trong trận mùa Xuân năm Kỷ Dậu.
Những cuộc lễ bái, những trò vui xuân
Hội mở ra để dân làng nhân dịp Xuân mua vui, nhưng điều chính yếu của ngày hội là tụng kinh cầu nguyện cho những vong hồn chết trận. Ngày xưa nhà chùa có lập đàn chay tụng niệm, và dân làng cùng nhau tới lễ đàn, giúp tiền giúp gạo để nhà chùa lo việc bố thí chúng sinh.
Trong ngày hội, dân chúng Hà Nội trước đây tới dự đông lắm, tới đây để nhớ lại một giai đoạn hùng hào của lịch sử, nhưng cũng tới đây để tham dự những cuộc lễ bái cầu cúng cho đám cô hồn tướng sĩ nhà Thanh và đồng thời cả một số Việt quân đã bỏ mình trong trận này. Gò Đống Đa có mộ Sầm Nghi Đống, ngày hội người Trung Hoa kéo nhau lũ lượt tới viếng chùa và viếng mộ.
Các bà già, dân làng Đông Quang và cả khách trẩy hội, mang vàng hương tới đặt trước những ngôi mộ vô thừa nhận của quân Tàu.
Riêng về Sầm Nghi Đống, người Trung Hoa có lập đền thờ tại Hà Nội ở ngõ Sầm Công.
Đọc tới đây có lẽ một vài bạn đọc phải ngạc nhiên, tại sao dân ta đối với quân thù lại có thái độ bao dung lạ lùng như vậy.
Thấm nhuần nền đạo đức Đông phương, dân ta lấy chữ nhân làm trọng. Quân Tàu, khi sống chúng xâm lăng đất nước chúng ta, nhưng một khi đã chết, ta không kể đây là những kẻ thù nữa, họ không còn làm hại được ta, chúng ta nhìn họ bằng một con mắt khác. Họ là những chiến sĩ đã chiến đấu theo mệnh lệnh của triều đình, chết đi họ là những chiến sĩ trận vong. Chúng ta phải kính trọng họ, họ là những người đã chết vì quốc gia, chúng ta phải thương hại họ, họ đã chết ở đất lạ quê người, họ là những vong hồn không ai cúng vái phải chịu đói khát. Các người già cả, nhân ngày hội Đống Đa đốt vàng hương cho họ, và trong chùa tụng kinh cầu nguyện cho họ, chính là mong cho họ không chịu cảnh khổ sở của những ma đói ma khát, cầu cho họ được siêu sinh tịnh độ. Ở đây vừa là lòng nhân từ, vừa là cử chỉ rộng rãi với kẻ thù, lại vừa thể hiện được sự tôn kính đối với chiến sĩ trận vong.
Song song với những cuộc lễ bái, cầu nguyện và đốt vàng hương cúng cho các vong hồn, tại hội chùa Đông Quang còn có những trò vui khác cho khách đi xem Hội thưởng Xuân: Cờ bỏi, múa hát và đánh vật.
Các thanh niên nam nữ Hà Nội, cũng nhân ngày hội hẹn hò đi lễ để gặp gỡ nhau.
Đền Sầm Nghi Đống. Như đã trình bày, riêng về Sầm Nghi Đống, người Trung Hoa có lập đền thờ ở ngõ Sầm Công, sau phố Hàng Buồm Hà Nội. Tục truyền rằng ngôi đền này linh thiêng lắm và vong hồn Sầm Nghi Đống thường tác yêu tác quái với dân chúng Hà thành, mãi cho tới khi nữ sĩ Hồ Xuân Hương qua đó, vì ghét mặt một tên tướng tử trận còn làm oai làm phách, có đề bài thơ sau:
Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo,
Kìa đền Thái thú đứng cheo leo.
Ví đây đổi phận làm trai được,
Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu!
Theo lời truyền lại, sau bài thơ trên của nữ sĩ họ Hồ đền họ Sầm hết linh thiêng! Có lẽ vong hồn quan tri phủ đã biết thẹn!
Về võ công oanh liệt của vua Quang Trung, nhiều thi sĩ có để lại nhiều thơ văn ngâm vịnh, ngay trong Việt Nam Quốc sử diễn ca, soạn dưới triều Nguyễn, xưa nay vẫn cho Tây Sơn là Ngụy triều cũng phải ghi chép võ công đó một cách đầy thán phục.
Quân Thanh đã được Thong Long,
Một hai rằng thế là xong việc mình.
Dùng dằng chẳng chịu tiến binh,
Nhác đường phòng thủ, mống tình đãi hoang.
Ngụy Tây nghe biết sơ phòng,
Giả điều tạ tội, quyết đường cất quân.
Dặm tràng nào có ai ngăn,
Thừa hư tiến bước tới gần Thăng Long.
Trực khu đế lũy Nam Đồng,
Quân Thanh dẫu mấy anh hùng mà đang.
Vua Lê khi ấy vội vàng,
Cùng Tôn Sĩ Nghị sang đàng Bắc Kinh.
Qua sông lại sợ truy binh,
Phù Kiều chém đứt, quân mình thác oan!
Nhân dịp Xuân về, để tưởng niệm và tỏ lòng kính mến biết ơn vị đại anh hùng dân tộc chúng tôi cũng mạo muội có mấy vần thơ:
Xuân tới mừng Xuân nhớ Đống Đa,
Chiến công oanh liệt rạng sơn hà.
Quang Trung đại đế ra oai tướng,
Sĩ Nghị nguyên nhung cụp vía gà.
Phấp phới cờ bay, màu chiến thắng,
Vang lừng súng nổ, khúc hoan ca.
Thanh triều tôi chúa kinh hồn khiếp,
Trời Việt tưng bừng, vạn sắc hoa.
Kể từ khi vua Gia Long lên ngôi, mặc dầu nhà Tây Sơn bị gọi là ngụy triều, mồ mả nhà Tây Sơn bị khai quật và ai nhắc nhở tới nhà Tây Sơn đều bị tội nặng, nhưng nhân dân quận Bình Khê, tỉnh Bình Định, vẫn cất một ngôi đền tại nơi nhà cũ của Ba Vua để thờ phụng, để che mắt vua quan nhà Nguyễn, người ta phải nói dối là đền thờ thần. Mỗi năm, Xuân Thu nhị kỳ, dân làng có tế lễ rất long trọng, điều đặc biệt, có tế lễ nhưng không có văn tế, dân làng chỉ khấn vái thầm.
Rất tiếc đền thờ này, lập tại thôn Kiên Mỹ, xã Bình Khê, năm 1947 đã bị phá hủy, cho tới năm 1955, nhân dân Bình Khê mới lại cùng nhau gom góp xây một ngôi đền tráng lệ hơn xưa, và hàng năm nhân ngày giỗ trận Đống Đa tại đây cũng có cử hành lễ kỷ niệm chiến công oanh liệt năm Kỷ Dậu.
Hội đền vua An Dương Vương
Đền thờ An Dương Vương ở làng Cổ Loa, huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên, cách Hà Nội 17 cây số trên Quốc lộ Hà Nội đi Phúc Yên (Vĩnh Phú), trong khung thành Cổ Loa hồi xưa.
Du khách có thể tới đền theo đường bộ nói trên, khi tới cây số 17, rẽ vào con đường đất bên tay phải đi chừng năm trăm thước, hoặc do đường xe hỏa, tới ga Xuân Kiều, rồi từ ga Xuân Kiều theo đường ruộng đi về mé tay trái một quãng. Hội đền Cổ Loa cử hành hàng năm vào ngày mồng 6 tháng Giêng và kéo dài trong khoảng 10 ngày.
Sơ lược lịch sử và thần tích
Vua An Dương Vương tên là Thục Phán, vốn quê ở Ba Thục. Nhà vua oán vua Hùng Vương thứ XVIII đã từ chối không gả con gái là Mỵ Nương cho một vị tiên đế của Ngài, nên đem quân đánh chiếm nước Văn Lang, và khi chiếm xong, nước Văn Lang được đổi tên là Âu Lạc.
Vua An Dương Vương đóng đô ở Việt Thường và xây đắp Loa Thành, nhưng thành hồ xây lên lại bị đổ.
Nhà vua lập đàn cầu khẩn thần minh.
Ngày mồng 7 tháng 3 năm Bính Ngọ (255 trước Tây lịch) ngài thấy một cụ già từ phương Đông đi lại ngừng ở trước cửa thành.
Nhà vua nghênh tiếp cụ già vào cung rồi trình bày sự khó khăn nhà vua vấp phải trong việc đắp Loa Thành. Cụ già cho nhà vua biết, ngày hôm sau sẽ có sứ giả của vua Thủy tới chỉ bảo cho nhà vua cách xây thành. Nói xong cụ biến mất.
Ngày hôm sau, khi nhà vua đang ở phía Đông môn Ngài thấy từ phương Đông đi lại một con rùa vàng, đứng hai chân trên mặt đất. Đấy là thần Kim Quy sứ giả của vua Thủy Tề. Nhà vua rước thần Kim Quy lên xe đi về cung điện.
Khi nhà vua hỏi Thần về việc đắp thành, Thần bảo rằng: ''Sở dĩ thành đắp lên lại đổ do sự quấy phá của âm hồn một vị Hoàng tử dựa vào thế lực của chư thần sông núi để trả thù việc nhà vua xâm chiếm nước Văn Lang. Ngoài ra còn có một con bạch hùng kê tu luyện nghìn năm, thành tinh trú ẩn trên Thất Diệu sơn cùng với âm hồn của một người thợ kèn, hài cốt mai táng ở núi này biến hình phá phách.
Gần Thất Diệu sơn có một hàng quán rất đông khách trọ. Chủ quán là Ngộ Không, có một người con gái, gả cho con gà sống trắng thành tinh.
Con kê tinh này cùng với hồn ma người thợ kèn, thay đổi hình dạng, đã giết hại rất nhiều khách trọ.
Nhà vua muốn đắp được Loa Thành, cần phải diệt trừ con bạch hùng kê. Nó thường hóa thành một con cú, mỏ cắp một đạo bùa, bay đậu trên cây đàn hương, chính nó đã kêu xin với Thượng đế làm đổ Loa thành để phục hồi quyền phép của như thần sơn xuyên. Tôi sẽ cắn chân con cú đó bị đau nó sẽ nhả đạo bùa ra, nhà vua nhặt lấy, nhà vua sẽ xây được thành.''
Thần Kim Quy lại khuyên nhà vua cải trang làm một người khách tới trọ tại hàng quán của Ngộ Không. Nhà vua tới đó với thần Kim Quy. Nhà vua đặt thần lên trên xà cửa. Thấy Nhà vua, Ngộ Không nói: ''Quán này có ma quỷ hay hại người, nay còn sớm, quý khách nên tìm trọ nơi khác.''
Nhà vua đáp: ''Sống chết có số, sợ gì ma quỷ.''
Đêm đó nhà vua nghe tiếng ma quỷ gọi cửa, nhưng Thần Kim Quy không cho mở. Lũ quỷ với yêu phép cũng không sao vào được trong quán, và chúng phải rút lui khi gà gáy.
Thần Kim Quy bảo nhà vua đuổi theo chúng tới Thất Diệu sơn, nơi trú ẩn của lũ yêu quái.
Sau đó nhà vua lại trở lại quán hàng của Ngộ Không.
Sáng ngày ra, Ngộ Không gọi người nhà để chôn xác nhà vua như những người khách trọ các đêm trước. Thấy nhà vua còn sống hắn kính cẩn chào và nói:
''Ngài hẳn là một vị Thánh. Xin Ngài truyền cho tôi phép màu trừ yêu quái để cứu các khách trọ.''
Nhà vua nói:
''Hãy giết con gà sống trắng làm đồ lễ cúng thần, yêu quái sẽ hết.'' Ngộ Không làm thịt con gà sống trắng, con gái hắn cũng chết liền.
Nhà Vua lại ra lệnh đào núi Thất Diệu thì tìm thấy đồ lễ và hài cốt của người thợ kèn. Nhà vua truyền đem đốt thành tro vứt trôi sông.
Hoàng hôn hôm đó, nhà vua cùng Thần Kim Quy lên núi Việt Thường để tìm bắt con yêu hóa thành con cú. Con cú đậu trên cây đàn hương, ngậm trong mỏ đạo bùa.
Thần Kim Quy biến thành con chuột leo lên cắn chân cơn cú. Cú bị đau nhả đạo bùa rơi xuống. Nhà vua vội vàng nhặt lấy.
Yêu quái đã trừ xong, nhà vua xây được Loa Thành. Thành xoáy hình trôn ốc, dài trên mười trượng, rất vững chãi đã chống giữ được với quân Tàu của Triệu Đà sau này.
Thần Kim Quy lưu lại với nhà vua ba năm mới từ biệt.
Nhà Vua tạ ơn Thần và hỏi:
''Thành này nhờ Thần mà đắp lên, nếu có quân giặc tấn công, tôi phải giữ thành ra sao?''
Thần Kim Quy đáp:
''Nước Âu Lạc thịnh, suy và an, nguy là do mệnh Trời. Nếu người ta biết tự sửa để trở nên đại đức, sẽ mãi mãi hưởng lộc Trời. Nhà Vua muốn, tôi xin giúp nhà Vua.''
Thần bẻ một móng chân, đưa cho nhà Vua và bảo rằng:
''Nhà vua hãy dùng móng này làm lẫy nỏ, giặc tới, mang nỏ ra bắn, sẽ không sợ gì cả.''
Nói rồi, Thần đi ra Đông Hải. Vua An Dương Vương đứng nhìn theo cho tới khi khuất.
Sau đó, nhà vua sai bầy tôi là Cao Lỗ làm một cây nỏ, dùng chiếc móng của thần Kim Quy làm lẫy nỏ, và nỏ này được gọi là Nỏ Thần.
Ít lâu sau, Triệu Đà từ phương Bắc kéo quân sang muốn chiếm nước Âu Lạc. Nhờ có nỏ thần, nhà vua đã thắng quân Tàu. Chúng phải rút lui về núi Trúc Sơn, đắp thành để ngăn quân nhà vua.
Không thắng nổi vua An Dương Vương, Triệu Đà tìm cách giả kết thân, dùng kế cho con là Trọng Thủy sang lấy Mỵ Châu là con gái nhà vua, để
do thám tình hình.
Lấy được Mỵ Châu, rồi Trọng Thủy hỏi dò:
''Bên Âu Lạc có tài gì mà không ai đánh nổi?''
Mỵ Châu nói chuyện chiếc nỏ thần rồi lấy cho chồng xem. Trọng Thuỷ liền đánh tráo cái móng của Thần Kim Quy rồi định về báo tin cho Triệu Đà biết.
Khi vợ chồng từ biệt, Trọng Thủy bảo vợ:
''Tôi ra về, ngộ nhỡ hai nước có sự giao binh, tôi biết đâu tìm nàng.'' Mỵ Châu nói:
''Thiếp có áo lông ngỗng, hễ khi thiếp chạy về đâu thiếp sẽ lấy lông ngỗng ra rắc ở dọc đường:''
Trọng Thủy về nước, Triệu Đà được biết rõ mọi sự tình bên Âu Lạc, bèn khởi binh sang đánh. Vua An Dương Vương tin ở nỏ thần không phòng bị gì, chờ đến khi quân giặc kéo tới gần chân thành mới đem nỏ thần ra bắn. Nỏ hết hiệu nghiệm.
Nhà vua bèn đem Mỵ Châu lên ngựa chạy về phía Nam, chạy đến núi Mộ Dạ nay thuộc huyện Đông Thành tỉnh Nghệ An, gần bờ biển, nhà vua thấy giặc đuổi kíp quá mới khấn thần Kim Quy lên giúp. Thần hiện lên bảo rằng:
''Giặc ngồi sau lưng nhà vua đó.''
An Dương Vương giận quá, rút gương chém Mỵ Châu rồi nhảy xuống bể tự tận.
Trọng Thủy theo dấu lông ngỗng đuổi theo, đến núi Mộ Dạ thấy thây vợ nằm chết, thương xót vô cùng, đem về an táng xong, nhảy xuống giếng ở
trong Loa Thành mà chết. Giếng này nay vẫn còn, ở ngay trước đền thờ vua An Dương Vương và được dân chúng gọi là Giếng Trọng Thủy.
Tục truyền rằng Mỵ Châu bị giết rồi, vì nỗi tình thực phải thác oan, máu nàng chảy xuống bể, những con trai ăn phải hóa ra có ngọc. Ai có ngọc trai, lấy nước giếng Trọng Thủy rửa, ngọc sẽ trong và đẹp vô cùng.
Vua An Dương Vương chết đi, sau khi Triệu Đà rút về đóng đô ở Phiên Ngung dân chúng nhớ ơn nhà vua lập đền thờ ở ngay xã Cổ Loa và hàng năm dân làng có mở hội từ mồng 6 tháng Giêng.
Những cuộc lễ bái và tục lệ trong ngày hội
Trước hết xin nói qua về làng Cổ Loa. Đây là một làng lớn nằm trong thành Cổ Loa. Cùng ở trong thành còn có làng Thu Cửu, và một phần đất của các làng Lưỡng Quản, Gia Lộc và Dục Tú, làng Dục Tú nay thuộc tỉnh Bắc Ninh (Hà Bắc).
Làng Cổ Loa gồm mười hai xóm tính từ Bắc xuống Nam: Xóm Ngõ Bãi, xóm Thượng, xóm Giềng, xóm Tiên, xóm Hương Nhai, xóm Gia, xóm Viên Lợi, xóm Lan Tri, xóm Chợ, xóm Chùa, xóm Trại, và xóm Mít. Trong làng có tất cả vào khoảng 4.000 người, cả nam phụ lão ấu.
Trong ngày hội, tất cả mười xóm đều cùng tham dự, và cùng sửa soạn những cuộc lễ bái rước xách.
Đám rước Kỳ mục
Sáng ngày mồng 6 tháng Giêng 12 vị Kỳ mục trưởng xóm đến hội họp tại nhà ông Tiên chỉ, hoặc Chánh hội để sửa soạn đám rước. Tại đây các vị Kỳ mục ăn mặc quần áo tế, tới trước giá văn tế đã được để sẵn lễ mỗi
người năm lễ. Giá văn tế đã có dán bài văn tế do một tay văn tự trong làng soạn thảo.
Sau đó đám rước khởi hành để đi tới đền, nơi đây các Kỳ mục sẽ tế lễ tại sân đền.
Đi sau đám rước là phường bát âm, rồi đến các vị Kỳ mục. Sau các vị Kỳ mục là dân đinh mang lọng, rước giá văn tế và kiệu long đình.
Sân đền lúc đó đã được trần thiết sẵn sàng cho cuộc tế.
Tế thần
Sân đền là nơi sẽ cử hành cuộc tế có cắm cờ và bày các tự khí sau:
- Từ ngoài cửa đền, hai bên là ngựa hồng, ngựa bạch, yên cương thêu thùa sặc sỡ.
- Hai bên tả hữu đường đi vào đền là cờ quạt và các đồ lộ bộ, bát bửu. - Ngoài hàng cờ quạt, đồ lộ bộ và bát bửu là kiệu của 12 xóm.
Trước đền là một hương án có bày đồ lễ, những hộp kính đựng hia vàng và các đồ ngũ sự.
- Trước hương án này là một hương án nhỏ hơn trên bày những khí giới của nhà vua: cung, kiếm, tên.
- Trước hương án nhỏ là một hàng chiếu cạp điều để Hội đồng Kỳ mục và dân làng làm lễ.
Thường tất cả các tự khí trong đền đều được đem bày trong dịp Tế, ngoại trừ tượng nhà vua và chiếc mũ bình thiên.
Khi đám rước Kỳ mục tới đền, giá văn tế được đặt lên long đình, và long đình được kính cẩn khiêng tới kê trước hương án đồ thờ.
Lúc này phường bát âm nổi nhạc, và giữa tiếng đàn nhạc, thỉnh thoảng lại một hồi tù và rúc inh tai.
Ông Tiên chỉ hoặc Chánh hội đứng tế. Tế theo nghi thức cổ truyền như trong mọi đám tế thần khác.
Khi cuộc tế chấm dứt, ông Tiên chỉ cùng các quan viên Kỳ mục đều làm lễ trước bàn thờ. Rồi đến lượt dân làng vào lễ. Trong lúc mọi người lễ, ở bên trong đền có một số các quan viên cầu nguyện để Nhà vua phù hộ cho toàn xã thịnh vượng bình yên.
Cũng như bất cứ tại làng nào, buổi tế thần rất long trọng, và tất cả dân làng đều đứng quanh để dự tế.
Buổi tế kéo dài đến quá Ngọ sang Mùi mới xong.
Đám rước thần của 12 xóm
Sau buổi tế, dân làng tổ chức đám rước thần có đủ mười hai xóm tham dự cùng với một số đông dân làng, một số dân đinh hóa trang ăn mặc trắng đỏ, đeo chùm râu giả đi theo. Đoàn người kéo dài trên nửa cây số.
Đi đầu hết là cờ quạt, rồi đến long đình cùng các tự khí, lộ bộ, bát bửu. Sau là phường bát âm. Tiếp phường bát âm là các quan viên ăn vận quần áo tế với hia mũ, bưng theo những khí giới của nhà vua: cung, kiếm, tên, nỏ.
Sau các quan viên là các Kỳ mục xóm Chùa, khiêng long đình trên có bài vị nhà vua, rồi tới các Kỳ mục các thôn khác, thôn nào khiêng kiệu của thôn đó, kiệu nhỏ hơn long đình và mỗi xóm có phường bát âm, có cờ quạt, có các quan viên mang các tự khí và có dân xóm hoá trang riêng.
Đám nước đi rất chậm thường luôn luôn ngừng lại, đi vòng quanh giếng Trọng Thủy và từ bờ giếng này đi cho tới cổng làng. Đám rước diễn hành ít nhất trên hai tiếng đồng hồ. Dân làng hoặc đi theo, hoặc đứng trên các bờ ruộng xem rước.
Đám nước tới cổng làng thì giải tán. Kỳ mục xóm nào khiêng kiệu của xóm mình về nơi đó, nhưng trước khi giải tán, mỗi kiệu đều được thắp thêm ba nén hương, ba nén hương này đủ cháy trong lúc đi đường về cho tới đình hàng xóm.
Riêng các kỳ mục xóm Chùa, nơi có đền thờ nhà Vua, lại khiêng long đình có bài vị về đền.
Đám rước xong, nhưng Hội chưa hết, hội còn kéo dài luôn trong 10 ngày cho tới rằm tháng Giêng với những trò vui cổ truyền.
Những trò vui cổ truyền
Cũng như ở bất cứ hội xuân nào, hội đền vua An Dương Vương, ngoài những cuộc rước xách tế lễ còn có nhiều thú vui theo tục lệ để dân chúng giải trí nhất là có những cuộc đỏ đen công cộng như xóc đĩa[1], xúc xắc, thò lò, bài lá v.v...
Các trai gái thanh niên rủ nhau đánh đu, bao giờ ban kỳ mục cũng nhớ trồng cây đu trong ngày hội cho con trẻ mua vui. Các cụ thì chơi tổ tôm diêm, đánh cờ bỏi, các cụ bà vào lễ đền hoặc lễ chùa. Lại có cả những bàn đáo đĩa một lối đánh đáo đặc biệt, có một người làm cái. Người này đặt một chiếc mẹt, trong chiếc mẹt có một chiếc đĩa nhỏ. Những người chơi đáo đứng cách xa chiếc mẹt khoảng hai thước, rồi cầm tiền, những đồng trinh hoặc những đồng xu đi vào chiếc đĩa. Đồng tiền nào đi đúng vào chiếc đĩa, một đồng được nhà cái giam cho thành năm, còn những đồng nào bắn ra mẹt về phần nhà cái. Đồng tiền nào không vào đĩa cũng không vào mẹt người chơi được đi lại.
Tới tối tại đình làng có hát chèo để thờ thần và để dân làng mua vui.
Dân làng thích thú với ngày hội, và dân các xã lân cận cũng rủ nhau tới dự các trò vui, xem rước xách tế lễ và cũng thử thời vận với những cuộc đỏ đen.
Ngày giỗ Mỵ Châu
Những cái chết của vua An Dương Vương, Trọng Thủy và Mỵ Châu, có thể gọi hết thảy là chết oan, dân chúng rất thương xót và có lập đền thờ ở nhiều nơi, ngoài xã Cổ Loa, thờ vua An Dương Vương để ghi công nhà
Vua đã lập ra nước Âu Lạc, thờ Trọng Thủy và Mỵ Châu vì người ta trọng sự chung thủy, tiết nghĩa của đôi người.
Cho đến trước ngày tiền thế chiến, ở núi Mộ Dạ, gần nơi nhà Vua tự vận, thuộc xã Cao Ái, huyện Đông Thành, Nghệ An, vẫn có đền thờ vua An Dương Vương, tục gọi là Đền Công, vì nơi đây rậm rạp, loài công đến ở rất nhiều.
Và ở xã Đông Cao, phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định cũng có Đền thờ Mỵ Châu, và hằng năm vào ngày 18 tháng 8 âm lịch, dân làng có mở hội gọi là NGÀY GIỖ MỴ CHÂU.
Hội bắt đầu từ hôm rằm, nhằm ngày Trung Thu, nhưng vui nhất vào hôm 18, tức là hôm có đám rước kiệu Mỵ Châu từ xã Đông Cao cho đến đình làng Đông Bộ ở bên sông Hồng Hà.
Theo dân xã Đông Cao, đám rước này chính là đám rước để Mỵ Châu tới yết kiến vua cha có đền thờ tại xã Đông Bộ. Chính hôm 18 tháng 8, tại xã Đông Bộ cũng mở hội kỷ niệm vua An Dương Vương. Làng này năm nào cũng chờ xã Đông Cao rước kiệu tới.
Dân địa phương gọi hai đền thờ ở làng Đông Bộ và làng Đông Cao là Đền Cha và Đền Con.
Hàng năm Con phải tới yết kiến Cha để vấn an cũng như để tạ lỗi xưa đã vì mối tình của mình nước mất nhà tan và nhà vua phải thác.
Trong buổi rước kiệu từ xã Đông Cao đến đền thờ xã Đông Bộ, bao nhiêu chức sắc xã Đông Cao đều đi hết và vị bô lão niên trưởng trong làng bưng bình hương đi trước.
Tới xã Đông Bộ các vị chức sắc làng Đông Cao rước Kiệu vào đình tế lễ một tuần, như có ý để Mỵ Châu tạ tội cùng vua Cha.
Sau buổi tế lễ, các quan viên chức sắc xã Đông Cao được các quan viên chức sắc xã Đông Bộ tiếp đãi rất lịch sự.
Buổi chiều kiệu của Mỵ Châu lại được rước về xã Đông Cao.
Đền thờ của Mỵ Châu ở làng Đông Cao rất nguy nga tráng lệ. Trước cửa đền, hai bên có voi đá lại có rùa đá mang bia.
Người ta nói rằng tại sông Hồng Hà, ngay chỗ đền thờ vua An Dương Vương ở làng Đông Bộ, ở dưới lòng sông có một cung điện nguy nga, cung điện của vua An Dương Vương. Cung điện này nhiều người thuyền chài đã được trông thấy, nhưng không ai dám nói rõ, vì họ tin rằng kẻ nào mang mồm tiết lộ sẽ bị chết tươi ngay...
Chuyện thuật lại rằng, trước đây có một người đắm thuyền lặn xuống mò thuyền đã được tận mắt trông thấy cung điện của nhà vua. Khi lên bờ, người này có kể lại cho dân làng Đông Bộ nghe, nhưng vừa dứt câu chuyện, người này liền ngã lăn ra chết!
Từ đó tại khúc sông này, cũng đã có nhiều người lặn xuống lòng sông, nhưng có ai hỏi tới cung điện của vua An Dương Vương, không ai dám nói gì! Có lẽ họ không thấy có cung điện! Hay họ sợ bị chết tươi nên tuy có trông thấy cung điện họ cũng không dám nói lại!
Kể từ đời vua An Dương Vương tới nay, hai mươi ba thế kỷ đã qua, thế mà câu chuyện Trọng Thủy, Mỵ Châu mỗi khi thuật lại người ta vẫn không khỏi mủi lòng thương cho mối duyên oan trái của đôi người.
Thi sĩ Tản Đà đã có bài thơ
Một đôi kẻ Việt người Tần,
Nửa phần ân ái, nửa phần oán thương!
Vuốt rùa chàng đổi máy?[2]
Lông ngỗng thiếp đưa đường.
Thề nguyền phu phụ,
Lòng nhi nữ
Việc quân vương,
Duyên nọ tình kia dở dở dang.
Trăm năm giọt lệ
Ngọc trai nước giếng,
Nghìn thu khói nhang.
[1] Về lối đỏ đen này xin xem trong Phong tục Việt Nam, Từ bản thân tới gia đình của soạn giả, do Khai Trí xuất bản.
[2] Nỏ thần
Hội đền thờ ông Lê Phụng Hiểu
Làng Từ Trọng phủ Hoằng Hóa tỉnh Thanh Hóa có đền thờ ông Lê Phụng Hiểu, một danh tướng đời nhà Lý, thờ hai đời vua Lý Thái Tổ và Lý Thái Tôn. Đền xây ở rừng Mã Cương, một khu rừng của làng, giáp với thôn Hạc Đình.
Làng Từ Trọng có nhiều thôn, thôn Hạc Đình là một Thôn Hạc Đình nằm dài theo dọc sông Tào, một dòng sông nhỏ chảy vào sông Ngã. Từ thôn Hạc Đình nhìn ra, xa xa là cầu Hàm Rồng, chiếc cầu bắc từ núi Long qua núi Hổ như muốn lấy nhân công tô điểm cho cảnh thiên nhiên thêm cẩm tú.
Đầu thôn Hạc Đình là bãi Giang Đình, một bãi đất rộng rãi mát mẻ để hàng xã tổ chức hàng năm những cuộc vui đình đám ở nơi đây.
Theo lời các cụ truyền lại, bãi này là mình một con Hạc với cái cổ dài vươn lên thành con đường nhỏ chạy vào rừng Mã Cương. Con Hạc này đứng một cẳng tạo thành con đường chạy thẳng tắp từ bãi Giang Đình lên đê sông Tào. Cẳng thứ hai của con Hạc ghếch thành khúc đường mòn
chạy từ bãi Giang Đình qua ngả cây Đề, một cây Đề cổ thụ mọc ở trước thôn Hạc Đình, quanh vào trong thôn. Các cụ bảo cây Đề là cái cựa của bàn chân con Hạc.
Đền ông Lê Phụng Hiểu ở rừng Mã Cương, hàng năm dân làng mở hội từ ba mươi Tết năm trước đến hết ngày mồng bảy tháng Giêng năm sau.
Thần tích
Ông Lê Phụng Hiểu, người làng Băng Sơn, phủ Thanh Hóa, sau là xã Dương Sơn, phủ Hoằng Hóa. Ông người to lớn râu ria xồm xoàm sức vóc khỏe mạnh. Thuở nhỏ nhà nghèo, ông phải làm nghề tiều phu kiếm ăn. Nói về sức mạnh, ông có một thần lực, và về sức ăn khoẻ cũng ít ai sánh kịp. Mỗi bữa ông ăn hết một nồi mười cơm (nói mười là chiếc nồi thổi cơm đủ cho mười người khỏe mạnh ăn.)
Khi đi đốn củi, ông không cần búa rìu gì cả, chỉ dùng tay hoặc nhổ hoặc bẻ, tùy theo cây to hoặc cây nhỏ. Ông lại chạy nhanh bước dài, nhờ ở sức vóc to lớn. Một hôm, Lê Phụng Hiểu đi kiếm củi trở về, vai gánh một đầu là một bó củi, còn đầu kia là một bó tre nguyên bụi còn nguyên cả gốc rễ do ông nhổ lên. Trên bụi tre có một con cò trắng ông đã bắt được ở bên bờ sông Mã.
Ông về đến nửa đường, được tin nhà vua đang kén người có sức khỏe để sung vào quân túc vệ, ông liền đặt gánh củi xuống rồi hai tay ôm hai bó củi ông quăng vèo đi hai nơi. Ông quyết bỏ nghề tiều phu để sung vào đoàn quân túc vệ của nhà vua.
Bó củi bị ông quăng tới tận làng Buông còn bụi tre rơi đến thôn Hạc Đình, hai nơi cách xa nhau hàng nửa ngày đường.
Sung vào quân túc vệ, ông lập được nhiều công trạng với nhà Lý, được phong làm Đô Thống Thượng Tướng Quân. Năm 1044, khi vua Thái Tôn đem quân đi đánh Chiêm Thành, ông được cử làm tiên phong phá tan được giặc. Ông chết năm 77 tuổi. Ông được phong làm Phúc Thần và được tất cả các thôn xã từ Hạc Đình tới kẻ Buông thờ phụng.
Trên là thuật theo thần tích xã Từ Trọng.
Theo ông Phan Kế Bính trong Nam Hải dị nhân, khi vua Lý Thái Tôn đi đánh Chiêm Thành trở về, định phong thưởng cho ông, nhưng ông từ chối, không nhận tước thưởng, xin đứng ở trên núi Băng Sơn, ném một thanh đao ra ngoài hễ rơi xuống chỗ nào, thì xin đất đến đấy để lập nghiệp.
''Vua ưng cho như thế. Phụng Hiểu đứng ở trên núi, ném một thanh đao ra ngoài mười dặm, sa xuống cắm vào làng Đa Mỹ. Vua mới ban ruộng thưởng cho đến chỗ cắm đao tính ra được hơn nghìn mẫu.
Từ đấy ruộng thưởng cho công thần gọi là ruộng thác đao (nghĩa là cắm đao) là do sự tích ấy. Phụng Hiểu hết lòng thờ vua, biết điều gì nói điều ấy, mà động đi đánh trận nào cũng được. Đến năm 77 tuổi mới mất. Dân làng lập miếu thờ làm Phúc Thần, lịch triều có phong tặng cả.''
Qua thần tích và sự tích kể trên, tuy có điều hơi dị biệt, nhưng tựu trung ông Lê Phụng Hiểu vẫn đã là một bực trung thần phò vua giúp nước nên được dân chúng đời đời hương khói phụng thờ.
Trở lại thần tích, theo các cụ kể lại thì bó củi ông Lê Phụng Hiểu ném vào kẻ Buông dần dần mọc thành một rừng cây nay gọi là rừng Buông. Còn bó tre có con cò trắng ném vào thôn Hạc Đình nay mọc thành một
rừng tre được đặt tên là rừng Trúc Cương, nhưng dân làng Từ Trọng quen tục gọi là rừng Mã Cương.
Rừng Mã Cương có rất nhiêu cò vạc, chúng oang oác kêu suốt đêm ngày như muốn nhắc lại công trạng hiển hách của Đô Thống Thượng Tướng Quân Lê Phụng Hiểu, mà đền thờ ở ngay ven rừng tục gọi là đền Mã Cương. Các cụ bảo đấy là cháu chắt con cò đã đậu trên bụi tre thuở trước.
Tục lệ ngày hội
Cũng như bất cứ hội nào, hội đen Mã Cương lấy sự cúng tế Đô Thống Thượng Tướng Quân là việc chính, nhưng bên sự tế lễ, hội đền Mã Cương còn có nhiều những tục lạ, những tục này đã phản ảnh phần nào dân tình trong vùng và lòng kính trọng của người dân đối với vị Thành hoàng võ tướng đời nhà Lý này.
Tảo mộ cuối năm
Cùng với những cuộc tế lễ tại đền Mã Cương, hội nơi đây bắt đầu bằng cuộc tảo mộ tập thể của dân làng, nhất là của dân thôn Hạc Đình.
Mỗi gia tộc gồm nhiều gia đình kéo nhau tới bãi tha ma cuối thôn để thăm viếng mồ mả gia tiên, đắp lại nấm, cuốc đi những cỏ dại, nhổ đi những cây hoang, và cắm hương mời các cụ về hưởng Tết Nguyên Đán cùng con cháu. Những người đi làm ăn nơi xa xôi, một năm một lần, họ đều nhân dịp nghỉ tết về làng dự cuộc tảo mộ tập thể này. Rất vui và rất nhộn nhịp. Ông già bà cả, người lớn trẻ em, thanh niên nam nữ đều có mặt tại bãi tha ma, người ăn mặc nâu sồng theo lối quê mùa, kẻ áo quần loè loẹt theo lối thị thành.
Trời cuối năm rét căm căm, người người đều có áo bông áo dạ, nhưng trước cảnh tấp nập của dân làng, cái rét như có phần dịu đi. Thỉnh thoảng có một vài tràng pháo nổ, xác pháo hồng bay như muốn đánh tan cơn lạnh, và đem sự ấm cúng lại cho bãi tha ma.
Cả thôn Hạc Đình đều có mặt tại bãi tha ma. Mùi hương thơm bay ngào ngạt từ những ngôi mộ hòa lẫn cùng mùi thuốc pháo.
Tế Tiên Thường
Cuộc tảo mộ kéo dài cho tới gần trưa, mọi người mới kéo nhau về đình Mã Cương xem tế tiên thường, cuộc tế để chuẩn bị đón rước ngài Thành hoàng về vui xuân hưởng Tết với dân làng.
Hội tấp nập rộn rã từ lúc tinh sương ngày ba mươi Tết cho đến lúc giao thừa.
Nghi thức tế tiên thường giống như những cuộc tế lễ tại bất cứ nơi nào. Tế tiên thường vào giờ Hợi cuối năm trước, trước giờ Tý đầu năm sau.
Đúng giờ giao thừa, dân làng làm lễ giao thừa rồi ai về nhà nấy. Hội hè tạm ngừng trong ba ngày Tết rồi lại mở tiếp từ ngày mồng bốn cho đến hết ngày mồng bảy tháng Giêng.
Thi tuyển nữ quan
Đây là một tục đặc biệt của thôn Hạc Đình, tuyển lựa những trinh nữ để tham dự những buổi hát lễ mừng đức Thành hoàng và lo việc cỗ bàn dâng cúng Ngài.
Tuy đền Mã Cương thuộc về địa phận thôn Hạc Đình xã Từ Trọng, nhưng cuộc tuyển lựa trinh nữ này mở rộng cho tất cả các thanh nữ thuộc các thôn xã thờ Đô Thống Thượng Tướng Quân. Muốn dự cuộc tuyển lựa này, các thanh nữ không những phải còn là con gái mà phải là những cô chưa hề bị mang tai tiếng về nết na của mình nhất là đức hạnh về phương diện trinh thục. Những kẻ lẳng lơ không dám tham dự. Các cụ thuật lại rằng trước kia, làng đã kén chọn một cô chưa chồng nhưng không còn nguyên là con gái, cô đã ăn vụng thầm lén dân làng trong đường hoa nguyệt, khi cô vào dự lễ ca hát, cô vừa bước chân vào nhà bái đình là cô ngã xỉu chết ngất. Người nhà khiêng cô về, tới nhà cô tỉnh lại. Cô không dám tham dự các buổi hát lễ cũng như sửa soạn lễ vật. Dân làng phải kén một cô khác thay thế. Cô kia thuật lại: cô vừa bước chân vào nhà bái đình, cô thấy một vị quan hầu cầm vồ đập vào đầu cô và bảo:
Thân mày đã ô uế, ai cho mày vào đây!
Đối với dân chúng vùng này được kén vào hàng trinh nữ hầu Ngài là một điều vinh dự, bởi vậy số thiếu nữ tham dự cuộc thi tuyển đông lắm. Chính bố mẹ các cô cũng muốn các cô được tuyển chọn và nhiều bà mẹ đã dạy bảo các cô những điều cần thiết để các cô có thể thắng được cuộc thi, nhất là những điều về nữ công bếp nước.
Cuộc thi tuyển nữ quan được tổ chức ở bãi Giang Đình. Trước bãi, một con đường thẳng tắp chạy tới đền Mã Cương. Sau bãi là một đầm nước không sâu lắm, nước thường chỉ đến bụng, dân chúng quen gọi là đầm Giang Đình. Chính đầm Giang Đình này là trung tâm cuộc thi.
ĐỒ XÔI VÀ THỔI CƠM. Một trong các môn thi chính để tuyển nữ quan là đồ xôi và thổi cơm. Thực ra hai công việc này, đã gọi là phụ nữ Việt Nam, trừ những bọn vô dụng, mấy ai là không biết, nhưng thổi cơm và đồ xôi lại là những công việc rất khó khăn vì không phải các nữ thí sinh được thực hiện công việc này ở ngay trong bếp mà ở trên thuyền bơi trên mặt đầm Giang Đình, ngay ngoài trời, có khi gặp buổi mưa phùn hoặc gặp gió đầm thổi lùa tứ phía. Hơn nữa, dùng để nấu cơm, đồ xôi, không ai được dùng than củi của riêng mình, mồi nấu do ban Giám khảo phân phát và gồm toàn bã mía còn tươi khó bén lửa và rất dễ tắt nếu thí sinh hơi vụng về trong việc gây bếp và nhóm lửa.
Cuộc thi bắt đầu từ sáng tinh sương ngày giáp Tết.
Sáng hôm đó, dọc theo bờ đầm Giang Đình, dân làng đã cho neo sẵn hàng trăm chiếc thuyền thúng, một loại thuyền nan tròn như cái thúng, nhưng có cặp thêm ở hai đầu hai vành bơi chèo, tạo cho chiếc thuyền thúng thành một hình thoi nhọn hai đầu. Hàng năm dân làng phải tuyển cho ngày hội 48 trinh nữ, nhưng số nữ thí sinh tham dự thường trên hàng trăm, có khi đến hai trăm.
Sau tiếng trống lệnh đầu tiên của ban tổ chức, các nữ thí sinh, mỗi cô xuống một thuyền, mang theo đồ rau hoặc kiềng ba chân để làm bếp cùng với mọi vật liệu cần thiết: rơm ướt làm đóm, bã mía tươi làm mồi nấu, nồi, chõ, gạo nếp, gạo tẻ…
Các cô chèo thuyền ra giữa đầm, chuẩn bị bắt bếp, đặt nồi vo gạo cho sẵn sàng rồi chờ hồi trống thứ hai của ban giám khảo trên bãi Giang Đình ra lệnh bắt đầu cuộc thi. Một hồi trống dài điểm thêm ba tiếng sau cùng! Tiếng trống dứt, cuộc thi mới bắt đầu, lúc đó các nữ thí sinh mới được nhóm lửa, nhóm cả bếp đồ xôi lẫn thổi cơm. Mỗi cô được phép
mang xuống thuyền hai cỗ bếp, hoặc đồ rau, hoặc kiềng. Trong cuộc thi các cô được tự do muốn làm sao thì làm, thổi cơm trước hay đồ xôi trước tùy ý, miễn cho nhanh chóng, xong sớm để chèo thuyền vào bờ nộp cơm và xôi lên Ban Giám khảo. Các cô xong trước được thêm điểm nhanh chóng, nhưng phải ngon, xôi phải dẻo. Nếu nồi cơm trên sống dưới khê, tứ bề nát bét và chõ xôi rắn nát thì dù các cô có xong sớm cũng đừng hy vọng gì đến sự trúng tuyển.
Thực ra, tài thổi cơm, đồ xôi của các cô cũng không hơn kém nhau mấy, vì cô nào cũng đã luyện tập tinh xảo. Khó khăn đối với các cô là ở chỗ nhóm bếp thổi lửa, và phải giữ sao cho thuyền khỏi tròng trành, thuyền thúng lại là loại thuyền rất nhẹ dễ tròng trành và thuyền đã tròng trành, bếp lửa hướng ra phía gió, dễ tắt.
Ngày hội lại gặp bữa mưa phùn gió bấc, các cô sẽ trải qua một cuộc thi vất vả. Nếu mưa phùn lại biến thành mưa nặng hạt, lại là một điều may cho các cô, các cô sẽ được lên bãi Giang Đình, trổ tài bếp nước dưới những mái tranh.
Thực ra, để sửa soạn dự cuộc thi tuyển này, các cô đã luyện tập ít nhất cũng từ tháng một để trau dồi nghệ thuật thổi cơm, nấu xôi ngoài mưa phùn. Các bà mẹ đã dạy các cô cách thức nhóm lửa bằng mồi ướt, cách thức thổi lửa mỗi khi bếp tắt, nhất là cách chọn hướng kê bếp theo chiều gió giúp đỡ cho việc nhóm bếp cũng như cách che bếp làm sao cho lửa cháy dưới nồi được điều hòa, không bị gió tạt đưa ra ngoài bếp. Lửa có giữ đều, gạo trong nồi mới sôi đều, gạo trong nồi mới nở đều, cơm mới ngon, xôi mới dẻo được. Các cô cũng lại am tường cách ước lượng thời gian từ lúc nước sôi đổ gạo vào nồi, chét nồi đáy chõ xôi cho đến khi chín dẻo đúng mức; các cô dùng những nén hương đốt cháy và trông theo những đoạn hương cháy để biết nồi cơm, chõ xôi đã vừa chín chưa.
Cuộc thi đồ xôi, thổi cơm mất buổi sáng.
Trong khi các nữ thí sinh làm bài thi ở dưới đầm, ở trên bãi Giang Đình, dân làng đông đúc đứng xem, trong số đó, có rất nhiều bà mẹ đã từng
huấn luyện cho con gái, sốt ruột chờ đợi kết quả chõ xôi nồi cơm của con.
LÀM BÁNH. Món thi thứ hai trong việc tuyển nữ quan là làm bánh. Mỗi thí sinh phải làm một hoặc hai thứ bánh theo sáng kiến của mình, bánh có thề làm bằng bột gạo thường hoặc bột lọc và chế hoá tùy theo ý muốn và tài năng của các cô.
Các cô lại phải đặt tên cho thứ bánh của mình làm.
Thường công việc đặt tên này do các ông hoặc cha đã tìm chữ đặt trước cho các con.
Thí dụ bánh: Song phượng tề phi hai con phượng cùng bay. Chiếc bánh có thể to bằng cái mâm, bột lọc trong suốt, duy có hai con phượng hình đang bay có nhân đậu xanh làm nổi mình phượng nằm trên mâm bánh.
Một thí dụ khác: Lý ngư vượt vũ môn, cá chép vượt vũ môn. Đây là nhắc lại tích cá thi để hóa rồng. Một dòng thác chảy mạnh bằng bột lọc, mé dưới có dăm ba con cá chép bằng bột trắng mang cá hồng hồng như muốn vượt ngọn thác.
Thêm một thí dụ thứ ba: Mẫu đơn phú quý. Hoa mẫu đơn là hoa phú quý. Chiếc bánh là một bông bạch mẫu đơn lớn, có hai chiếc lá xanh, bột trắng nhuộm xanh, một chiếc mang chữ Phú và một chiếc mang chữ Quý, hai chữ màu vàng hoặc đỏ.
Đại để các kiểu bánh đều mang những tên cầu kỳ, dùng các thứ hoa, các loài chim, tứ linh, long ly, quy phượng hoặc các điển tích đề cho tên thật đẹp. Tên đẹp mà bánh lại phải ngon mới được làng lựa chọn.
Cô nào qua được cả hai môn thi trên được lựa làm nữ quan để dự những cuộc ca hát thờ thần, và các cô cũng là những người có trọng trách sửa soạn cỗ bàn dể dâng Ngài.
CA HÁT THỜ THẦN
Trong những buổi lễ thờ thần, các trinh nữ đã được tuyển lựa được tham dự Hát Trải đề mừng Ngài. Hát Trải nghĩa là vừa bơi trải vừa ca hát. Trải là một loại thuyền dài, khi bơi ở trên sông cần phải có nhiều người bơi hoặc ngồi ở giữa thành một hàng hai tay hai bơi chèo hai bên, hoặc ngồi thành hai hàng ở hai bên cùng bơi theo nhịp người cầm lái. Thường trong trường hợp hai hàng tay chèo, người ta dùng bơi chèo ngắn, trái lại chỉ có một hàng tay chèo ở giữa, người ta dùng bơi chèo dài.
Trải ở đây chỉ là hai thuyền rồng, hàng ngày để thờ trong đền, ngày hội mang ra đặt song song trước sân đình, chầu vào bàn thờ Đô Thống Thượng Tướng Quân. Mỗi thuyền rồng có mười hai cặp bơi chèo sơn son cho hai mươi bốn nữ thủy thủ, chính là các cô trinh nữ đã được dân làng kén chọn qua cuộc thi ngày giáp Tết.
Trong khi tế lễ, các cô ngồi vào thuyền rồng, mỗi chiếc thuyền hai mươi bốn cô, các cô vừa chèo thuyền cạn vừa ca hát để chầu thần. Lẽ tất nhiên việc chèo thuyền cũng như việc ca hát các cô phải tập trước, tập từ trong năm, từ trước khi dự cuộc thi tuyển nữ quan của làng. Việc luyện tập này
rất khó khăn, có luyện tập mới dai sức để có thể bơi trải trong suốt buổi tế kéo dài hàng giờ.
Có cô lại phải tập múa và tập hát ở nhà một người Quản giáp. Muốn hát được các cô phải học thuộc lòng những bài hát thờ có sẵn, thường dùng tại các nơi đền điện mà dưới đây là mấy bài tiêu biểu.
BÀI DÂNG NHANG
Một nén hương thơm thấu chín tầng,
Kính trời, kính đất, kính linh thân.
Chữ rằng nhất niệm thông tam giới,
Mừng vua muôn tuổi trị muôn dân.
Một nén hương thơm thấu cửa thiên,
Mây lồng năm thức nguyệt lồng in.
Kính thành những bén duyên hương lửa,
Rờ rỡ vinh hoa ức vạn niên.
BÀI NHẠC HƯƠNG
Thông minh chính trực vị chi thần,
Biến hóa vô cùng đức đại tân.
Mừng vua có sắc phong choi chói,
Đệ nhất vua, đây Thượng đẳng Thần.
MÚA BÀI BÔNG. Trong các lối ca hát ở Hạc Đình lối ca múa bài bông bắt đầu cho các buổi tế lễ. Ca và vũ hòa điệu với nhau theo nhịp trống nhịp đàn. Lối ca vũ này thường thấy tại các đền điện khi hội hè có múa hát, nhất là khi có các nữ quan, nghĩa là khi có các trinh nữ trong làng được tuyển để tham dự. Cũng có nơi không phải là các thanh nữ ca múa mà do đàn ông trong làng, những người đã được kén chọn và chỉ định trước.
Múa bài bông cần đông người. Ở Hạc Đình số này gồm tất cả các cô đã được tuyển lựa ngày giáp Tết. Lúc múa mỗi cô cầm một chiếc quạt nhỏ. Thoạt mới vào, các cô chia làm hai hàng quỳ ở trước hương án, hai tay
nâng chiếc quạt lên khỏi đầu. Một cô đứng đầu đóng vai Tiên Đồng đứng lên khai mạc cuộc múa bằng một bài hát:
Tiêu dao lồng lộng Thiên Đình
Tật tốc giáng dương trần bộ bộ
Khâm thừa Phật tổ,
Giáng hạ trần.
Hát xong mấy câu trên, Tiên đồng hát tiếp mấy câu nói lối: Như tôi nay tiên ông trao chức
Ngô biểu tự Tiên đồng
Truyền ca nhi Nam, Bắc, Tây, Đông
Đều múa hát dâng hương Thượng Đế.
Hết câu hát, tất cả các cô khác đều đứng lên vừa múa vừa hát, các cô vừa múa vừa lượn trước bàn thờ, theo một hàng lối đã tập trước trông rất nhẹ nhàng.
Sau múa bài bông là bơi trải chèo thuyền rồng.
Trong các buổi tế lễ cũng còn những điệu múa khác như múa tứ linh, múa đèn v.v... mỗi điệu múa lại có bài ca riêng, nhưng rất tiếc lâu ngày chúng tôi không còn nhớ và vì cách trở muốn tìm kiếm tài liệu cũng không ra.
Hội đền Mã Cương vui, dân chúng nô nức tới lễ bái và vui xuân, nhưng có lẽ từ ngày Cách mạng tháng 8 tới nay nghĩa là từ gần ba chục năm nay, hội đâu còn nữa, hội có còn chăng chỉ ở trong trí nhớ những người hoài cổ, và chắc rằng đền Đô Thống Thượng Tướng Quân Lê Phụng Hiểu cũng chẳng còn ai hương khói!
Hội đền Hai Bà Trưng
Làng Đồng Nhân là nơi có đền thờ Hai Bà Trưng Trắc và Trưng Nhị, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, về phía Nam thành phố. Đền thờ Hai Bà ở ngay trước cửa nhà máy rượu, cách con đường Yersin Hà Nội (Nguyễn Công Trứ) chừng 500 thước.
Kiến trúc theo lối xưa, đền có một vẻ linh tú nghiêm trang, dưới bóng mát cây đa lớn mọc ngay trước cửa đền.
Hàng năm làng Đồng Nhân mở hội từ ngày mồng ba cho đến hết ngày mồng 6 tháng 2 âm lịch, tuy chánh hội là ngày mồng 5 tháng 2.
Dân chúng Hà Nội và các vùng lân cận kéo nhau tới lễ bái và xem hội rất đông.
Khách trẩy hội tới trước nhà máy rượu đã trông thấy cây đa cổ thụ với những bóng cờ đuôi nheo ngũ sắc bay phấp phới cắm trước cửa đền và ở hai bên lối vào trong đền. Ở cây đa còn có treo lủng lẳng những đôi hài giấy và những bó vàng hương. Những người đi lễ nói đó là vàng và hài để cúng những người hầu cận hai Bà.
Sơ lược lịch sử và thần tích
Sự nghiệp Hai Bà Trưng chống quân Hán, đã là người Việt Nam, hỏi mấy ai là không biết. Hồi đó nước ta đang nội thuộc nước Tàu dưới đời vua Quang Vũ nhà Đông Hán.
Thái thú quận Giao Chỉ là Tô Định vốn người bạo ngược, chính sách lại tàn ác, lòng dân đều oán giận. Năm Canh Tý, Tô Định giết chết ông Thi Sách, người huyện Châu Diên, nay thuộc phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên (Vĩnh Phú).
Bà Trưng Trắc vợ ông Thi Sách, con gái quan Lạc Tướng huyện Mê Linh, nay là làng Hạ Lôi, tỉnh Phúc Yên (Vĩnh Phú), liền cùng với em là Trưng Nhị, nổi lên đem quân về đánh Tô Định. Tô Định thua chạy bỏ trốn về quận Nam Hải.
Lúc bấy giờ các quận Cửu Chân, Nhật Nam, và Hợp Phố cũng nổi lên theo về với Hai Bà. Chẳng bao lâu Hai Bà thu lại được 65 thành trì. Hai bà tự xưng làm vua đóng đô ở Mê Linh.
Năm sau, năm Tân Sửu (41) vua Quang Vũ nhà Hán, sai Phục Ba Tướng Quân là Mã Viện cùng các Phó tướng là Lưu Long và Đoàn Chỉ đem quân sang đánh Trưng Vương.
Hai Bà chống cự nhưng thế yếu phải lui quân về đóng ở Cấm Khê. Quân Mã Viện đánh đuổi theo. Quân Hai Bà tan vỡ. Hai Bà chạy tới xã Hát Môn, nay thuộc huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây (Hà Tây) gieo mình xuống dòng sông Hát tự tử. Bấy giờ vào ngày mồng 6 tháng 2 năm Quý Mão (43).
Theo thần tích làng Đồng Nhân, khi Hai Bà nhảy xuống sông Hát đề trẫm mình liền hóa thành đá trôi về địa phận bãi Đồng Nhân. Dân chúng liền lập đền thờ ở xứ Vườn Tịch ngay trên bãi sông. Về sau nước to, đê vỡ, đền đổ nát phải di vào trong đê, ở thôn Hướng Viên, xã Đồng Nhân tức là đền thờ ngày nay.
Tục lệ trong những ngày hội
Hàng năm làng Đồng Nhân mở hội để kỷ niệm Hai Bà từ mồng 3 với lễ mở cửa đền cho đến hết ngày mồng 6 mới rã đám.
Trong những ngày hội có tế lễ, rước xách, múa đèn theo nhịp trống của con đĩ đánh bồng, và dân làng cũng có mở cuộc đánh cờ bỏi, và buổi tối xưa kia có hát chèo để đồng dân mua vui.
Ngoài ra, trong suốt thời gian có hội, các con hương đệ tử tới lễ bái hầu bóng, xin thẻ vân... vân... cũng như ở hầu hết các đền miếu khác.
Rước
Đám rước ở hội đền Hai Bà được cử hành rất long trọng vào ngày mồng 5 tháng hai âm lịch từ đền ra sông Hồng Hà để thánh giá làm lễ mộc dục tức là lễ tắm mình.
Đám rước có cờ quạt phường bát âm đi trước rồi đến kiệu Hai Bà. Theo sau kiệu là bô lão cùng các quan viên chức sắc mặc áo thụng xanh đội mũ tế. Dân làng theo sau cùng và bao giờ cũng đông.
Đám rước ra tới bờ sông thì Thánh Giá được khiêng xuống một chiếc thuyền. Thuyền này bơi ra giữa sông, lấy nước giữa dòng làm lễ mộc
dục.
Lễ mộc dục xong, dân làng lại rước Thánh Giá về đền và sau đó là những cuộc tế lễ hàng năm theo nghi thức cổ truyền.
Trong khi đám rước cử hành từ đền ra sông và từ sông về, các thôn trong xã đều lập hương án ở bên đường để bái vọng.
Tế lễ
Tế lễ tại đền Hai Bà hàng năm được cử hành ngay sau buổi rước theo nghi lễ cổ truyền với văn tế do ban tư văn trong làng cùng soạn.
Thỉnh thoảng có năm dân làng tổ chức tế nữ quan, việc tế do phụ nữ hoàn toàn đảm trách, từ chủ tế, bồi tế cho đến các chấp sự viên. Nghi thức lễ cũng giống như khi do các quan viên trong làng cử hành.
MÚA ĐÈN VÀ CON ĐĨ ĐÁNH BỒNG
Đặc biệt trong buổi hành lễ, sau đám tế, tại đền có đoàn vũ công múa đèn theo nhịp trống của con đĩ đánh bồng.
Đoàn vũ công gồm trên dưới mười người, mặc áo dài đen thắt lưng đỏ ra ngoài áo, buộc múi chéo sang bên cạnh sườn, sau nghi thức đám tế, cùng nhau vào múa đèn. Đây là những dân làng đã được chọn trước và đã có tập dượt, thường những người được cử vào công việc này năm trước, năm sau lại được lựa chọn để tránh sự mất công luyện tập. Đèn là những chiếc đài hoặc chiếc đĩa chung quanh có cắt giấy hình cánh hoa dán vào, và ở giữa đài là một ngọn nến đang cháy. Mỗi vũ công cầm hai cây đèn ở hai tay, đi thành hàng, lượn qua lượn lại trước bàn thờ với những điệu múa nhịp nhàng. Hàng vũ công có khi đi nối đuôi nhau, có khi đi theo những hàng lối khác khi chéo khi thẳng, khi vòng tròn, khi kẻ trước gặp người sau, khi là một hàng, khi tách thành hai hàng đối diện nhau trước bàn thờ, gặp nhau trong điệu múa. Điệu múa rất nhịp nhàng, tay lên tay xuống, những ngọn nến chập chờn, lúc tỏ lúc mờ, không bao giờ tắt và ngọn lửa cũng không bao giờ bắt ra những cánh hoa giấy ở chung quanh.
Dẫn đầu đoàn này là một con đĩ đánh bồng. Đây không phải là một người đàn bà, chính là một vũ công, áo the quần trắng khăn lượt, đeo ngang mình, quàng qua vai bằng những dây vải ngũ sắc một chiếc trống cơm. Sau lưng có cắm chéo lên hai vai, hai hoặc bốn lá cờ đuôi nheo nhỏ. Dáng điệu người này thật là ẻo lả mềm mại.
Dẫn đầu đoàn vũ công múa đèn, con đĩ đánh bồng vừa đi vừa đánh chiếc trống cơm bằng hai bàn tay tạo nên những tiếng bập bập bùng làm nhịp cho điệu múa.
Trong lúc đoàn vũ công múa đèn, dân làng đứng trước bàn thờ, xúm nhau lễ bái.
CỜ BỎI VÀ HÁT CHÈO
Ở một thửa ruộng bên cạnh đền, xưa kia có một bàn cờ bỏi để dân làng hoặc các tay danh kỳ tới đánh cờ mua vui.
Và buổi tối, ngay trước đền có ban chèo tới hát để thờ thần và dân làng xem giải trí.
Văn bia và văn thơ tại đền Hai Bà
Hai Bà đánh đuổi quân Tô Định đã được toàn thể dân Việt nhớ ơn, và được lưu truyền rất nhiều trong thơ văn kim cổ. Đáng kể hơn cả là những thi văn đã được ghi ngay tại đền Hai Bà, xã Đồng Nhân.
Khách trẩy hội đi từ ngoài vào đền ắt phải thấy hai cây cột trụ cao ngất mang một đôi câu đối vì phong sương chỉ còn một vế đọc được. Dù chỉ đọc lên một vế ta cũng thấy tác giả mỉa mai Mã Viện:
SƠN TIÊU ĐỒNG TRỤ TƯƠNG AN TẠI
Nghĩa là:
CHỖ NÚI, ĐÃ NÊU CỘT ĐỒNG CÒN ĐÂU NỮA!
Vế câu đối đã mất chắc ý nghĩa nói đến sự nghiệp nghìn thu của Hai Bà.
Rồi từ cổng đi vào, khách phải nhận thấy một tấm bia đặt trên lưng con rùa đá cổ kính. Bài văn bia do cụ Dương Duy Thành, người làng Phú Thị, phủ Khoái Châu tỉnh Hưng Yên (Hải Hưng) cung soạn khi cụ làm Đốc học Hà Nội.
Ông Hoa Bằng đã dịch bản văn bia đó như sau:
Trong vòng vũ trụ, sự nghiệp lạ, phần nhiều ra từ những tay đại trượng phu. Kể phận gái mà làm nên sự nghiệp lạ chẳng cũng là bậc nữ trượng phu ư? Thế lại càng đáng ghi chép lắm?
Nhớ Hai Bà Trưng: người Châu Phong, cha làm Lạc tướng, tổ là Hùng Vương. Kể dòng dõi đã không phải là hạng tầm thường ví được. Huống chi Hai Bà đem tấm thân ngọc trắng giá trong, ôm cái chí cung dâu tên cỏ, thì hoài bão ấy lại không phải vừa. Thủ đoạn làm việc lớn lao chẳng ở đây thì ở đâu nữa!
Kể từ khi nước Văn Lang nửa vời sụp đổ, bờ cõi mất về Thục, Triệu và Lưỡng Hán (Tây Hán và Đông Hán) đã đến vài trăm năm.
Thêm nỗi ngọn lửa bạo ngược của Tô Định lại lưng trời ngùn ngụt bốc.
Hai Bà, vợ vì chồng, em vì chị, phừng phừng nổi giận, cùng dấy nghĩa binh, ném trâm thoa mà mặc nhung phục, nhãng gương lược mà cầm can qua, không đầy vài tháng trời đã lược định đoạt năm mươi sáu thành ở ngoài Ngũ Lĩnh, dựng nước, xưng vương, đóng đô ở Mê Linh: Chẳng phải sự nghiệp lạ là gì đấy!
Đến như Hai Bà phải lưu giữ ở Cẩm Khê, rồi tuẫn tiết ở Hát Giang! Cũng là bởi trời chi há nên bình luận anh hùng thành hay bại.
Nhưng xét đến gan dạ kia, mưu lược kia và tiết tháo kia thì Hai Bà thật không thẹn là dòng dõi thần minh vậy.
Sau khi mất, chân thân Hai Bà hóa thành hai pho tượng đá, hiền linh ở phần sông Nhị.
Năm Đại Định thứ ba (1142) vua Lý Anh Tôn sai lập đền ở bãi Đồng Nhân, huyện Thanh Trì để thờ Hai Bà rất linh ứng. Các triều đại đều có sắc phong.
Hoàng triều ta rất hưng thịnh về mặt điển lễ, đã sắc phong rồi.
Năm trước, chỗ đền cũ hư hỏng vì nỗi sông lở, cát bay đã được chỉ dụ nhà vua cho dời vào xóm Hướng Viên, huyện Thọ Xương để dân xã tắc thờ phụng.
Nghìn thu hương lửa, dằng dặc với trời đất không cùng.
Nay nhân sửa đền lại, tôi xin kính thuật sự tích Hai Bà để khắc vào bia đá truyền lâu dài.
Ngoài bài văn bia này ở trước cửa đền, vào đến trong đền, ta còn thấy để ngay trên vách trước bàn thờ một bài thơ nôm của cụ Cúc Hương Hoàng Thúc Hối:
Ngựa Gióng đã lên không,[1]
Rừng Thanh voi chửa lồng.[2]
Nẩy chồi hoa nụ Lạc,
Mở mặt nước non Hồng.
Trăng tỏ gương hồ Bạc.
Mây tan dấu cột Đồng.
Nén hương lòng cố quốc.
Xin khấn một lời chung.
Ngoài văn thơ trên, ta được đọc ngay ở đền thờ Hai Bà tại làng Đồng Nhân, còn biết bao văn thơ khác đã nhắc tới Hai Bà.
Cụ Dương Bá Trạc, trước mọi dư luận có ý ám chỉ Hai Bà vì tư thù mà đuổi quân Hán, đã phân tích rõ hành động của Hai Bà là vì nghĩa công chứ không phải thù riêng:
Nước nhà gặp cơn bĩ,
Trách nhiệm gái trai chung.
Quyết lo đền nợ nước,
Há những vị thù chồng!
Tham tàn căm tướng chệch,
Tai mắt tủi nòi Hồng.
Em ơi đứng cùng chị,
Thù riêng mà nghĩa công.
Xin đem phận bồ liễu.
Đánh liều với non sông!
Soạn giả tập sách này, nhân viết tới ngày lễ kỷ niệm Hai Bà, cũng đã xin có bài thơ cung vịnh:
Nêu gương muôn thuở gái Châu Phong,
Chị cũng như em quyết một lòng:
Hận nước lấy binh đao rửa sạch,
Thù nhà đem cung kiếm đền xong.
Ba năm uy trấn miền Nam Việt,
Một trận lừng danh gái Lạc Hồng.
Miếu Hát bên sông còn dấu tích,
Lĩnh Nam cân quốc nữ anh hùng.
Đền xã Hát Môn
Hai Bà là anh hùng dân tộc, việc thờ phụng Hai Bà không phải chỉ riêng ở làng Đồng Nhân, ở nhiều nơi khác cũng có đền thờ.
Xã Hát Môn huyện Phúc Thọ tỉnh Sơn Tây (Hà Tây), nơi Hai Bà trẫm mình, ngay bên bờ sông Hát Giang cũng có đền thờ tục gọi là miếu Hát.
Vị trí địa dư và thần tích theo dân xã Hát Môn
Muốn tới miếu Hát, từ Hà Nội phải đi theo quốc lộ Hà Nội, Sơn Tây cho tới cây số 26 rẽ sang tay phải, đi vào con đê một quãng. Xã Hát Môn nằm ngay ven đê.
Xã này là một vị trí chiến lược quan trọng, xưa kia Hai Bà muốn dùng để quyết định thắng bại sau cùng với quân Mã Viện.
Hát Môn ở ngay cửa sông Đáy, một phụ lưu sông Hồng Hà, và ở quãng này mang tên là sông Hát. Nơi này vừa cách xa nơi đóng quân của Mã Viện ở Tây Hồ và cũng cách xa Mê Linh nay thuộc Phúc Yên nơi đóng đô của Hai Bà. Mê Linh, cách Hát Môn hơn 7 dặm, vào khoảng 30 cây số ngày nay, do Trưng mẫu là bà Man Thiện đóng quân giữ thành. Lúc
đó đạo tiền quân của Hai Bà đóng ở Lạng Sơn dưới quyền chỉ huy của bà Thánh Vẽ và bà Phùng Thị Chính, mắc mưu quân giặc đã bị thua ở Bắc Giang Hà Bắc. Hai Bà có một căn cứ thủy quân ở Tây Hồ, nhưng lúc này, sau trận thua quân ở Bắc Giang căn cứ này không còn là hậu cứ yểm trợ cho đạo tiền quân ở Lạng Sơn và đạo tiền quân ở Bạch Đằng nữa, đạo quân ở Bạch Đằng do bà Lê Chân điều khiển. Hai Bà rút quân về sông Hát, giao quyền chỉ huy đạo quân Tây Hồ cho bà Cao Nhự. Ở Hát Môn, Hai Bà chuẩn bị phòng tuyến thứ nhì chờ ngày chạm địch. Lúc đó
là ngày mồng 4 tháng 9 âm lịch, năm 39 tây lịch. Tại đây Hai Bà cho giết trâu mổ bò khao quân để khích lệ 7 vạn tân binh do bà Man Thiện mới tuyển mộ. Kế hoạch được bố trí, ngày 24 tháng Chạp năm đó, đội quân của bà Cao Nhự đóng ở Tây Hồ, trá bại rút về Mê Linh. Quân Mã Viện đuổi theo nhưng tới cửa sông Hát chúng bị Hai Bà đổ quân ra đánh, và cùng lúc bà Cao Nhự cũng quay lại phản công.
Lưỡng đầu thụ địch, quân Mã Viện đại bại phải lui về Tây Hồ cố thủ để chờ Lưu Long mang thêm 50.000 quân từ sông Hồng Hà kéo lên mới lại dám tiến đánh vị trí đóng quân của Hai Bà.
Trong trận này, lúc đầu Hai Bà có thắng, nhưng sau vào ngày mồng 6 tháng Ba năm 43, quân Mã Viện kéo tới đông, Hai Bà chống không lại phải gieo mình xuống sông Hát để đền nợ nước. Trận này Mã Viện tuy thắng nhưng cũng bị hao binh tổn tướng.
Thắng quân Hai Bà, Mã Viện tự cho mình là anh hùng, hắn đã ăn cắp chiếc trống đồng Ngọc Lũ của nước Nam, tự đúc tượng mình, một tay cầm gươm, một tay nắm tóc Bà Trưng để tại Liễu Châu khoe công trạng mình. Hắn quên mất rằng, hắn suýt chết dưới lưỡi gươm của Hai Bà đã phải lui quân về Tây Hồ để chờ quân cứu viện.
Sự tích trên, cho tới trước năm 1945, người dân nào ở xã Hát Môn cũng nhớ, họ nhớ như câu chuyện mới xảy ra hôm qua. Họ còn nhắc lại cả chuyện bà hàng bán bánh trôi đã dâng bánh Hai Bà xơi trước cửa dinh, khi Hai Bà xuất trận lần sau cùng. Và tại miếu Hát, có thêm cả đền thờ bà hàng bánh trôi, dưới gốc một cây đa cổ thụ.
Giặc đến nhà đàn bà phải đánh, người dân Hát Môn không quên lịch sử oanh liệt của làng mình đã là nơi dụng binh của hai vị nữ anh hùng dân tộc, và họ truyền tụng nhau thi ca về sự tích Hai Bà:
Tay tiên phất ngọn cờ đào,
Sáu mươi thành quách thu vào một tay.
Cơ quân gặp bước không may,
Than ôi! Sông Hát, nước nay là mồ!
Mảnh gương tiết nghiã chưa mờ,
Muôn thu giọt nước Tây Hồ vẫn trong!
Theo thần tích trên, Hai Bà đã thua quân tự trẫm mình vào ngày mồng 6 tháng Ba, không phải ngày mồng 6 tháng Hai như sự tích ghi trong sử, chép theo thần tích xã Đồng Nhân.
Những ngày lễ tại Miếu Hát
Dân xã Hát Môn không phải chỉ làm lễ kỷ niệm một ngày mồng 6 tháng Ba, ngày Hai Bà tuẫn quốc, nhưng họ đã làm lễ kỷ niệm một năm ba lần theo ba giai đoạn hành quân của Hai Bà.
Ngày mồng 6 tháng ba
Ngày Hai Bà tuẫn quốc, ngày hôm nay dân làng làm bánh trôi để dâng lên Hai Bà, kỷ niệm ngày Hai Bà từ giã nhưng cũng là kỷ niệm ngày Hai Bà ra quân trận sau cùng, và nhắc lại lòng thành kính của người dân đối với Hai Bà ngay từ lúc sống: một bà hàng bánh trôi đã dâng bánh trôi lên Hai Bà!
Theo dân làng Hát Môn, sự tích bánh trôi của Việt Nam khác hẳn sự tích bánh trôi của người Tàu làm để kỷ niệm Giới Tử Thôi trong ngày Hàn thực.
Bánh trôi Việt Nam dựa theo sự tích trăm trứng nở ra trăm con của bà Âu Cơ. Bởi dựa theo sự tích này nên dân xã Hát Môn nặn bánh trôi theo hình quả trứng. Để dâng Hai Bà bánh được nặn đúng 100 viên rất nhỏ và sau khi tế thân xong dân làng đem 49 viên đặt vào lòng một bông hoa sen thả ra sông Hát để trôi ra biển, người ta nhìn những viên bánh trôi trôi đi…[3]
Trong khi cúng tế Hai Bà, dân xã Hát Môn không quên bà hàng nước. Họ cũng dâng bánh cúng bà. Đền bà dưới gốc cây đa ở ngay cửa đền Hai Bà.
Tục ăn bánh trôi ở xã Hát Môn
Dân Việt Nam ta thường trong mấy ngày sóc vọng về tháng Ba âm lịch có tục cúng bánh trôi bánh chay, gọi là trôi nước. Cúng vào tháng Ba, nhưng thường bánh trôi xuất hiện ngay từ giữa tháng Hai.
Dân làng Hát Môn không bao giờ và không ai dùng bánh trôi trước ngày mồng 6 tháng Ba.
Ngày hôm đó, trong khi ở đền cúng Hai Bà, tại các tư gia người ta cũng làm bánh trôi để cúng tổ tiên, và chỉ sau những cuộc cúng lễ này, người ta mới ăn bánh trôi.
Món bánh này, đối với dân làng Hát là một thứ bánh Thánh, Thánh hưởng thụ rồi người dân mới ăn. Nếu chưa đến ngày mồng 6 tháng Ba, người dân Hát Môn dù có đi đâu, được bạn bè mời ăn bánh trôi cũng không bao giờ họ ăn. Đây là do lòng thành kính họ đối với Hai Bà, chưa đến ngày giỗ Hai Bà, Hai Bà chưa hưởng, họ chưa ăn. Và họ cũng muốn nhớ lại cử chỉ cao đẹp của Bà hàng bánh trôi, dù nghèo khổ cũng dâng bánh lên Hai Bà, trước khi Hai Bà xuất trận.
Ngày mồng 4 tháng 9
Đây là ngày Hai Bà khao quân khi vừa rút quân ở Tây Hồ về. Trong ngày này dân làng kéo cờ Đại, giết trâu, dê, bò, lợn để tế Hai Bà.
Trong ngày hội này có lễ trình diện con trâu do các ông Quan viên chọn mua để tế Hai Bà. Con trâu này không phải chỉ béo tốt là đủ, tục lệ nơi đây cần đến tướng trâu. Con trâu mang trình diện phải có quý tướng, nghĩa là theo kinh nghiệm phải lưng cầu, đầu quạ, dạ bình vôi, mắt ốc nhồi. Chọn được con trâu trúng cách, dân làng sẽ làm ăn phát đạt. Con
trâu mang trình diện được cho uống rượu, sau đó mới bị làm thịt cắt tiết thui vàng rồi khiêng vào trước sân đền để làm lễ tế.
Ngày 24 tháng chạp
Đây là ngày hội quan trọng nhất trong năm của xã Hát Môn. Trong ngày hội này hàng ngàn trai gái trong làng được động viên để chia thành hai đạo binh tiền hậu.
Tám cô trinh nữ nhan sắc được lựa chọn để theo sau hầu kiệu Hai Bà.
Các thanh niên được cắt đặt vào những địa vị cao thấp trong ngày hội tùy theo gia thế từng dòng họ. Thanh niên nào ba đời bạch đinh sung các chân vác cờ, vác giáo, khiêng chiêng, khiêng trống, hoặc làm quân lính. Hạng thanh niên trí thức hay con nhà gia thế được mang gươm phù giá.
Cắt đặt xong mọi người phải tập dượt hàng tuần trước.
Nửa đêm hôm 24 tháng Chạp, nghe tiếng trống làng thanh niên thanh nữ tập họp thành từng đội rước thần tượng ra bờ sông làm lễ mộc dục sau đó lại rước thần tượng về đền.
Đêm hôm giá lạnh mùa đông, đám rước rầm rộ giữa tiếng đàn nhạc.
Người dân Hát Môn vui sướng vì đã lo tròn nhiệm vụ đối với hai vị nữ anh hùng trong ngày kỷ niệm và cùng nhau, đây là dịp người ta ôn lại lịch sử oai hùng của Hai Bà.
Hội đền Hạ Lôi
Làng Hạ Lôi, phủ Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên (Vĩnh Phú) ngày nay, tức là Mê Linh xưa, dân làng cũng có đền thờ Hai Bà. Hàng năm làng này mở hội vào ngày 15 tháng Giêng, nhân dịp lễ Thượng Nguyên.
Không hiểu tại sao làng này lại làm lễ kỷ niệm Hai Bà vào ngày Thượng Nguyên, có lẽ dân làng cho ngày rằm tháng Giêng là ngày tốt đẹp nhất trong năm chăng?
Trong ngày hội có nhiều trò vui cổ truyền như đánh cờ, đánh đu, đáo đĩa v.v... nhưng quan trọng hơn cả là đám rước tập trận.
Để cử hành đám rước này dân làng phải kén 150 thanh niên và 150 thiếu nữ để đóng làm quân Hai Bà Trưng. Nam thì áo dài đen quần trắng thắt lưng đỏ bó que, nghĩa là thắt ra ngoài áo dài đen, buộc múi sang bên cạnh sườn, nữ thì áo dài màu nâu, sống màu đen, áo dài tứ thân, hai vạt thắt ra đằng sau[4].
Những thanh niên thiếu nữ này phải luyện tập trước. Hôm rước họ sẵn sàng để hiểu biết tuân theo hiệu lệnh của người chỉ huy, chịu trách nhiệm về toàn thể buổi rước.
Đám rước bắt đầu từ đình, đi vòng dưới chân đê sông Hồng Hà, nghỉ ở bờ sông, rước kiệu xuống sông lấy nước rồi lại quay về đình. Đám rước không đi vòng lên đê, vì bờ đê cao hơn mặt đình, quân sĩ leo lên bờ đê sẽ mất vẻ tôn kính đối với Hai Bà xưa nay vẫn được thờ ở đình.
Trong lúc đi rước đám quân nam, nữ hò reo và hát lên những bài hát, trong số đó có bài sau đây, theo ông Trịnh Đình Rư là một khúc hát có từ đời Hai Bà đặt ra để quân lính hát khi đồn trú trên núi.
Ta lên núi,
Ta lên núi,
Đuổi đàn hươu,
Đuổi đàn hươu,
Chị em năm ba mặt cũng rầu rầu.
Ta lên núi,
Ta lên núi
Đuổi đàn nai
Đuổi đàn nai,
Nỗi niềm tâm sự than thớ cùng ai?
Đoái trông phương Đông: nước rộng mênh mông,
Đoái trông phương Tây: đá trắng gỗ ghề,
Đoái trông phương Nam: mây che đầu ngàn,
Đoái trông phương Bắc: núi cao ngất.
Trong bài ca trên Hai Bà dụng ý cổ võ nhân dân và khuyến khích quân lính cùng lo việc đuổi quân Đông Hán.
Có lẽ còn có nhiêu nơi ở Việt Nam lập đền thờ Hai Bà và hàng năm, đã có đền thờ ắt phải có cúng lễ kỷ niệm, nhưng biết tới đâu chúng tôi xin thưa tới đó và chúng tôi chờ mong sự chỉ dẫn của các bạn đọc để sau này, có dịp tái bản tập sách chúng tôi sẽ bổ khuyết thêm.
Để kết luận về các ngày hội kỷ niệm Hai Bà, chúng tôi xin mượn lời thơ sau đây của Hoàng Thái Xuyên, bài thơ nhan đề Trưng Vương:
Tượng đá trời Nam giãi tuyết sương,
Nghìn năm công đức nhớ Trưng Vương.
Tham tàn trách bởi quân gây biến,
Oanh liệt khen cho gái dị thường,
Liều với non sông hai má phấn,
Giành nhau loài giống một da vàng,
Cột đồng Đông Hán tìm đâu thấy,
Chỉ thấy Tây Hồ ánh nước gương.
Đền thờ Mã Viện
Nói đến công ơn Hai Bà Trưng, không bao giờ chúng ta quên nỗi hận thù đối với Mã Viện. Người Hán ghi công Mã Viện vì hắn đã đem quân đánh dẹp được Trưng Vương để tái lập nền đô hộ trên đất nước ta, họ ghi công ca tụng, nhưng người Việt chúng ta, chúng ta chỉ nhớ đến Mã Viện là
một kẻ xâm lăng. Trong một bài thơ về Mã Viện, Hải Nam Đoàn Như Khê đã kết luận:
Mặc kẻ ghi công ta chép oán,
Công riêng ai đó, oán ta chung!
Chúng ta oán Mã Viện là oán con người Mã Viện trong tước Phục Ba tướng quân đã đem quân cướp nước chúng ta, nhưng không vì thế chúng ta chê Mã Viện. Dù sao Mã Viện cũng là một tôi trung của Hán Triều, chỉ biết mệnh vua, chẳng quản khó nhọc, để từ miền Bắc sang chinh phục phương Nam.
Có lẽ vì thấy Mã Viện không những là một bầy tôi trung lại có đảm lược, nên dân ta đối phó với họ Mã đã có một sự quảng đại không một dân tộc nào có thể có được. Tổ tiên chúng ta đã bao dung cả sự thờ phụng Mã Viện ở ngay giữa Kinh đô của nước nhà trước đây là Hà Nội.
Thực vậy, trước đây ở phố Hàng Buồm Hà Nội có đền thờ Bạch Mã Thần. Đền này chính là đền thờ Mã Viện do người Trưng Hoa lập nên. Cùng thờ với Mã Viện, ở nơi đây người Trung Hoa còn thờ cả Thành hoàng phường Hà Khâu, huyện Thọ Xương tức là Hà Nội ngày nay. Đây cũng chỉ là một mánh khóe của họ để lôi kéo người Việt cùng vào lễ tại đền này, người Việt lễ Thành hoàng Hà Nội, còn họ lễ cả Thành hoàng lẫn Mã Viện. Mặc dầu vậy, người Việt cũng chỉ lác đác có đôi người tới lễ, còn người Trung Hoa quanh năm hương khói tới lễ đông lắm.
Đáng chú ý là tại đền có một bức hoành phi của Đốc Biện quân vụ Quảng Tây Phùng Tử Tài cúng vào năm Đồng Trị thứ 8 tức là năm 1869
với bốn chữ DU LẬP TRỤ TÔN để nhắc tới Đồng Trụ của Mã Viện đã dựng nên ở biên giới của hai nước.
Hội các đền thờ các tướng lãnh của Hai Bà
Nói đến những ngày hội tại các xã có đền thờ Hai Bà Trưng, lẽ tất nhiên không thể bỏ qua được những hội làng tại các nơi có đền thờ các nam, nữ tướng lãnh đã cùng Hai Bà dấy quân khởi nghĩa đánh đuổi quân Hán, bọn người đã cai trị dân Nam một cách quá tàn nhẫn độc địa.
Danh tướng của Hai Bà nhiều, nam cũng như nữ, và dân Nam thờ các vị này ở rải rác nhiều nơi. Chúng tôi rất tiếc không biết hết để nhắc lại trong sách này dù tóm lược, chúng tôi đã cố gắng tìm kiếm, hỏi các cụ già, nhưng người ở miền Nam tìm hiểu về những điều ở miền Bắc, nhất là những điều đã thuộc vê quá khứ, kết quả rất ít ỏi chẳng có bao nhiêu. Chúng tôi ghi chép lại đây những điều gì chúng tôi biết, và cũng như ở các điểm khác, chúng tôi chờ đợi sự chỉ dẫn của những vị biết nhiều hiểu rộng.
Hội Mai Động nơi có đền thờ bà Lê Chân
Làng Mai Động, tổng Mai Điệp, Đại Lý Hoàn Long, Hà Nội ở ngay Hà Nội, trên con đường ngã tư Trung Hiền đi Vĩnh Tuy là nơi có đền thờ bà Lê Chân, nữ danh tướng của Hai Bà Trưng đã cầm quân chống quân Mã Viện ở Bạch Đằng.
Hàng năm làng này mở hội trong ba ngày vào các ngày mồng bốn, năm và sáu tháng Giêng.
Trong ba ngày này, ngoài các cuộc tế lễ, có những trò vui xuân cho dân làng giải trí, nhưng đặc biệt nhất ở nơi đây có cuộc thi vật.
THI VẬT. Thi vật ở ngay trước bãi đình làng. Các tay đô vật các nơi kéo nhau về dự giải vật ở đây đông lắm, và những trận vật hào hứng đã kéo được rất nhiều khách ở Hà Nội tới xem.
Trong những trận đấu vật, có các cụ, các quan viên đánh trống cái cầm trịch, lại có một anh tuần đinh cầm trống khẩu đánh ngay sát bên tai các đô vật, nửa như thúc giục, nửa như khuyến khích.
Đánh vật còn được gọi là chọi vật.
Đánh vật lẽ đương nhiên phải dùng sức, nhưng muốn chế ngự bên địch, sức khỏe không đủ, cần phải biết thế vật gọi là miếng để lừa địch để ngáng hoặc đội địch lên.
Đánh vật, muốn thắng hoặc phải vật ngã ngửa, danh từ vật gọi là vật ngã trắng bụng, hoặc là đội bổng địch thủ lên.
Trong hội xuân, những cuộc đánh vật bao giờ cũng được hoan nghênh. Những làng mở hội thường treo giải vật, gồm ba giải chính, nhất nhì ba và nhiều giải hàng.
Giải hàng là những giải được vật trước khi có vật các giải chính. Trong giải hàng hai đô vật vào với nhau, ai thắng là được giải và làng tặng một món tiền hoặc một món quà nhỏ.
Ba giải chính có người giữ giải và thường chỉ vật vào ngày chính hội. Người giữ giải tức là người nhận lấy cái giải đó về phần mình, ai vật nổi người giữ giải sẽ được thế để giữ. Người giữ giải có thể được giải không cần vật, nếu trong thời gian ấn định bởi làng treo giải không có ai là người phá giải.
Thường thời gian giữ giải là ba ngày.
Tại một làng mở hội xuân với giải vật, đô vật các nơi kéo nhau tới xin vật. Trong lúc vật, họ cởi trần và chỉ đóng một chiếc khố cho kín hạ bộ. Cởi trần để đôi bên không thể nắm áo nắm quần nhau gây lợi thế cho mình được.
Khố các đô vật đóng màu hồng điều, màu xanh hay màu vàng, thường phần nhiều bằng lụa, nhiễu, lụa nhiễu đây chính là những vuông nhiễu,
vuông lụa họ đã được giải trong các giải vật.
Trước khi vào vật, hai đô vật lễ vọng vào trong đình.
Cuộc vật bắt đầu, các đô vật lên đài, nghĩa là đi đi lại lại múa tay khoa chân để rình miếng nhau. Lên đài một hồi họ mới xông vào ôm lấy nhau. Họ lừa, họ dùng những miếng ngáng cho nhau ngã xuống, hoặc dùng đầu đội bổng nhau lên. Có những tay đô vật bị hở cơ, phải vội nằm sấp xuống, bò nhoài trên mặt đất. Địch thủ muốn thắng phải vật ngửa họ được lên. Với miếng nằm bò, tay đô vật nằm lì mặc cho địch thủ bẩy mình, rồi bất thần trong lúc địch sơ hở, họ lại nhỏm đứng dậy để tiếp tục cuộc vật.
Các cuộc vật các giải chính bao giờ cũng rất hào hứng. Khi vật các giải chính có lệ:
Giải nhất trong sáu ngoài năm,
Giải nhì trong năm ngoài bốn,
Giải ba trong bốn ngoài ba.
Theo lệ này thì ở giải nhất người giữ giải phải thắng luôn sáu keo, vật ngã sáu đô vật khác nhau mới được giải còn người phá giải chỉ cần thắng năm keo, nghĩa là vật ngã người giữ giải và bốn người khác nữa là được giải; giải nhì, người giữ giải phải thắng luôn năm keo còn người phá giải chỉ cần thắng luôn bốn keo, ở giải ba, người giữ giải phải thắng luôn bốn keo, người phá giải thắng luôn ba keo.
Thường thường giả ba được vật trước, rồi đến giải nhì và sau cùng là giải nhất. Mỗi một giải vật xong, người thắng giải thường được làng đốt mừng một bánh pháo.
Vật các giải chính gay go lắm, các đô vật lừa nhau từng miếng, người xem ở ngoài cũng thấy thú vị và nhiều khi hồi hộp như chính mình là một đô vật đang dự cuộc vật vậy.
TẠI SAO LÀNG MAI ĐỘNG CÓ CUỘC THI VẬT. Như trên đã nói, làng Mai Động thờ bà Lê Chân, nữ danh tướng của Hai Bà Trưng. Bà là tướng tiên phong, chống giữ với quân Mã Viện ở Bạch Đằng, sau rút lui về hồ Lãng Bạc (Hà Tây). Ở đây bà đã chống cự rất anh dũng với quân Hán, nhưng quân ít, bà đã không địch nổi giặc do chính Mã Viện điều khiển, với sự phụ tá của hai phó tướng là Phù Lạc Hầu Lưu Long và Đốc Lâu Thuyền Tướng Quân Đoàn Chí. Bà Lê Chân phải lui về Mai Động và bị chết tại đây.
Dân làng Mai Động lập đền thờ bà. Vê sau bà được phong làm Thượng Đẳng Phúc Thần công chúa.
Làng Mai Động ngày này mở hội có thi vật là để ghi nhớ những cuộc thi binh tuyển tướng của hai bà ngày xưa mà môn vật đã là một môn quan trọng trong các môn võ nghệ.
Chính ra vật là một môn võ rất được dân ta ưa chuộng nhất là giới bình dân.
Trong thời bình đây là một môn giải trí, nhưng trong thời loạn, đây là một môn võ thực dụng đề tự bảo vệ mình và để giúp nước. Hầu hết các thanh niên đồng quê đều có tập qua một vài miếng vật. Có nhiều làng có những tay đô vật có tiếng như làng Chung Màu, làng Yên Xá tỉnh Bắc Ninh (Hà Bắc), làng Vị Thanh, làng Lầm, bàng Dịch Đồng, làng Hội Hạ tỉnh Vĩnh Yên (Vĩnh Phú), làng Mộ Trạch tỉnh Hưng Yên, làng Mai Động (Đại Lý Hoàn Long cũ) Hà Nội v.v...
Bà Lê Chân, ngoài đền thờ ở xã Mai Động còn có nhiều nơi khác có đền thờ bà, như ở làng An Biện, huyện Đông Triều tỉnh Hải Dương (Hải Hưng) và Ngõ Nghè, Hải Phòng.
Hội làng Tân La
Làng Tân La tỉnh Thái Bình, hàng năm mở hội vào ngày 16 tháng Giêng. Làng này thờ Bát Nàng công chúa, một nữ tướng của Hai Bà.
Chồng Bát Nàng công chúa là một lạc tướng bị quân Tàu giết chết. Trước nợ nước thù chồng, Bát Nàng công chúa đã dẫn quân theo Hai Bà khi Hai Bà khởi nghĩa. Bà được sung vào đạo quân tiền phong cùng với bà Lê Chân.
Khi Hai Bà chết, Bà cũng chết theo.
Không rõ tên thật của Bà là gì, thần tích làng Tân La chỉ ghi là Bát Nàng công chúa.
Hội làng Tân La chỉ có rước xách tế lễ để dân làng mua vui trong dịp đầu xuân. Trước kia, cũng có năm dân làng tổ chức những cuộc đánh Trung bình tiên.
Hội làng Thượng Lạp
Làng Thượng Lạp, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên (Vĩnh Phú) có đền thờ Cao Nguyên, một nam tướng của Hai Bà. Hàng năm làng mở hội vào dịp đầu xuân trong khoảng thượng tuần tháng Giêng.
THẦN TÍCH. Cao Nguyên là một danh tướng của Hai Bà, đóng quân ở Mê Linh cùng với Trưng Mẫu là bà Man Thiện. Khi quân Hai Bà bị quân Mã Viện đánh ở Hát Môn, quân của Trưng Mẫu cùng các tướng trong đó có Cao Nguyên kéo quân tới cứu viện, nhưng vì quân Hán quá đông, quân Hai Bà đánh không lại, Hai Bà phải tự vận, thì quân Hán cũng đánh dồn đạo quân của Trưng Mẫu lui về Mê Linh. Ở đây, đạo quân này cố sức chống cự, nhưng ít khó chống nhiều nên sau cùng cũng bị tiêu diệt, và các tướng nam nữ hoặc bị chết trận hoặc nhảy xuống sông tự tận.
Riêng tướng Cao Nguyên, sau khi tử tiết, xác trôi về hạt Vĩnh Tường ở Phong Châu và được dân làng Thượng Lạp vớt lên lập đền thờ. Hàng năm, mỗi độ Xuân về, tại đền Ngài dân làng có mở hội tế lễ trước là để tỏ lòng biết ơn đối với một vị anh hùng đã vì nước bỏ mình, sau là để nhân dịp hội hè dân làng mua vui.
NHỮNG CUỘC VUI TRONG NGÀY HỘI. Hội làng Thượng Lạp ngoài các cuộc tế lễ rước sách theo nghi lễ, còn các trò vui xuân như đánh vật, đánh phết và các môn cờ bạc như đáo đĩa, quay đất v.v...
ĐÁNH PHẾT. Trong các trò vui ngày hội, đáng kể và vui một cách ồn ào nhất là đánh phết. Thú vui này chúng tôi đã trình bày cặn kẽ trong PHONG LƯU ĐỒNG RUỘNG.
Đây là một môn du hí lưu truyền từ đời Hai Bà, rất vui nên ta đã có câu vui ra Phết.
[1] Phù Đổng Thiên Vương tức Đức Thánh Gióng
[2] Bà Triệu, sau Hai Bà Trưng khởi nghĩa ở Cửu Chân nay là Thanh Hoá
[3] Danh từ bánh trôi có lẽ do đây mà có.
[4] Sống tức là váy, quần 1 ống, áo tứ thân là áo may bằng 4 mảnh vải, 2 mảnh đằng trước bằng nhau là 2 vạt áo.
Hội đền vua Đinh Tiên Hoàng
Làng Trường Yên, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình là nơi có đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng và hàng năm dân làng mở hội từ 15 đến 20 tháng Hai âm lịch.
Nơi đây xưa chính là Hoa Lư, đế đô nhà Đinh, phong cảnh thật nên thơ, núi non hùng vĩ, với động phủ đẹp tuyệt vời.
Nhắc đến Trường Yên và ngày hội nơi đây, ca dao ta có câu: Ai là con cháu rồng tiên ?
Tháng Hai mở hội Trường Yên thì về.
Về thăm đất cũ Đinh, Lê,
Non xanh nước biếc bốn bề như xưa.
Muốn tới Trường Yên, du khách hoặc đi theo một con đường hàng tỉnh dễ đi, cách thị xã Ninh Bình không xa, hai bên đường rất nhiều thắng cảnh, non xanh nước biếc, suối róc rách bên khe, hoặc theo dòng sông Đáy đến bên Gián Khẩu, rẽ vào sông Hoàng Long độ 6 cây số thì tới.
Thực ra cho tới nay, trải qua hơn mười thế kỷ của lịch sử, di tích của hai triều đại Đinh và Tiền Lê đã bị thời gian xóa nhòa gần hết, chỉ còn lại hai ngôi đền thờ vua Đinh và vua Lê ở giữa một vùng núi non trùng điệp. Với địa thế, Trường Yên quả là một nơi cố thủ vững vàng trong thời loạn lạc. Với sự phân chia đất nước làm mười hai mảnh của Thập nhị sứ quân, Vạn Thắng Vương chọn nơi đây đóng đô, thật ngài đã lo xa tính rộng vậy.
Đền vua Đinh không rộng lắm. Ở ngoài sân có một cái sạp đá trên mặt chạm rồng, hai bên có hai con nghê bằng đá, theo người địa phương, những vật này đã lấy ở nước Chiêm Thành về.
Đền không cao mấy, cột trong đền sơn son thiếp vàng.
Trong hậu cung có tượng nhà vua. Tượng nhà vua ở giữa, bên phải có tượng ông chú, bên trái là tượng hai Hoàng tử. Từ đời vua Gia Long về trước theo lời các cụ truyền lại, xưa có cả tượng Đỗ Thích, kẻ đã ám sát nhà vua. Tượng này hàng năm đến ngày hội bị mang ra cửa đền chịu sự đánh đập. Tục lệ không mấy đẹp này đã được bãi bỏ bởi vua Gia Long và tượng Đỗ Thích cũng đã được đem đốt đi.
Trước đền vua Đinh có ngọn Mã An Sơn, cao độ 200 thước, trên có lăng vua Đinh, đường lên lăng khúc khuỷu và dốc chênh vênh rất khó đi.
Ngoài đền thờ nhà vua còn có đền thờ Thục Tiết công chúa cơn gái nhà vua.
Lịch sử thần tích
Lịch sử vua Đinh Tiên Hoàng có lẽ người Việt Nam ai cũng phải biết với các cuộc cờ lau tập trận, với sự bình định Thập nhị sứ quân. Tất cả các tập sách lịch sử Việt Nam đều có nhắc tới, nhiều văn thơ đã được sáng tác đề ca tụng nhà vua cũng như đế đô Hoa Lư của người. Ở đây chúng tôi chỉ xin nhắc sơ qua lại.
Năm 945, Dương Tam Kha chiếm ngôi nhà Ngô, trong nước bắt đầu có loạn; thổ hào các nơi nổi lên, mỗi người chiếm cứ một phương tự xưng là sứ quân. Tất cả có 12 sứ quân, con vua Ngô Quyền cũng chỉ còn uy quyền của một sứ quân, đóng ở Bình Kiều.
Lúc bấy giờ có ông Đinh Bộ Lĩnh, người động Hoa Lư con ông Đinh Công Trứ, đã dẹp được hết 12 sứ quân và thống nhất giang sơn về một mối.
Đinh Bộ Lĩnh mồ côi cha từ thuở nhỏ, ở với mẹ nơi quê nhà, đi chăn trâu cho chú. Ngay từ nhỏ, ông đã tỏ ra gan dạ anh hùng, thường bắt trẻ chăn trâu khoanh tay làm kiệu cho ngồi để chúng rước, cùng chúng lấy bông lau làm cờ, tập trận đánh nhau. Ông can đảm, lũ trẻ đứa này cũng sợ, tôn
ông đứng đầu. Khi cùng chúng bạn cờ lau tập trận, ông thường cho hát bài ca sau đây:
Cây cỏ ấy, nước non này,
Nước non quanh quất, cỏ cây xanh rì.
Rừng hoang, cỏ rậm để chi,
Phen này ta quyết dọn đi cho rồi.
Này này chúng bạn ta ơi!
Qua bài ca trên, nhà vua đã biểu lộ ngay từ lúc thiếu thời ý chí muốn quét sạch lũ giặc Bắc xâm lăng cũng như muốn bình định hết các sứ quân gây rối nước nhà.
Nhà vua đã thể hiện được ý chí của mình. Trong, đã thống nhất nước nhà; ngoài, đã đương đầu được cùng giặc Bắc.
Lớn lên, nhà vua theo sứ quân Trần Minh Công ở Bố Hải Khẩu. Minh Công rất tin cẩn giao cho giữ binh quyền. Khi Minh Công mất nhà vua đem quân về giữ Hoa Lư, chiêu mộ hào kiệt, hùng cứ một phương. Về sau, nhà vua bình định xong hết các sứ quân.
Năm 968, Ngài lên ngôi Hoàng Đế, tức là Tiên Hoàng Đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt đóng đô ở Hoa Lư.
Về sau nhà vua bị Đỗ Thích ám sát. Cái chết của nhà vua đã làm cho muôn dân nhớ tiếc. Hàng năm, tới rằm tháng Hai tại đền nhà vua, dân làng mở hội có quốc tế và chủ tế bao giờ cũng do vị đại diện của triều đình đảm trách.
Các tục lệ ngày hội
Ngoài các cuộc tế lễ rước xách thông thường, trong thời gian ngày hội, dân làng có tổ chức nhiều trờ vui: Thi thơ, hát chèo, rước đuốc, chọi gà,
kéo chữ, bơi thuyền trên sông Hoàng Giang, múa Mường, uống rượu cần. Lại có tế nữ quan tại đền thờ Thục Tiết công chúa, con gái Vạn Thắng Vương. Và sau hết là điển tích Cờ lau tập trận.
Cờ lau tập trận
Ngoài các trò vui trên, cuộc vui chính của ngày hội được dân làng đặc biệt chú trọng và khách xem hội chờ đợi là cuộc diễn lại sự tích Cờ lau tập trận. Cuộc diễn này do các trẻ em trong làng và hàng tổng thực hiện dưới sự chỉ dẫn của ban tổ chức ngày hội. Các trẻ em chia làm hai phe, một bên đóng vua Đinh Tiên Hoàng và chúng bạn, một bên đóng trẻ chăn trâu các làng lân cận.
Trong cuộc diễn lại tích Cờ lau tập trận này, khách trẩy hội sẽ thấy cậu bé Đinh Bộ Lĩnh hăng hái xông pha chiến đấu cùng chúng bạn đuổi lũ mục đồng đối phương. Chiến cuộc thắng lợi, cậu Đinh Bộ Lĩnh được chúng bạn làm kiệu công kênh giữa những cờ quạt sặc sỡ màu lá cây hoặc tết bằng rơm rạ. Các bạn che tàn, che lọng cho cậu, rước cậu đi giữa rừng cờ lau.
Cuộc diễn tích Cờ lau tập trận năm nào cũng kết thúc ngày hội giữa sự nô nức của mọi người, giữa tinh thần phấn khởi của dân làng biểu lộ lòng tôn sùng đối với các vị anh hùng của Quốc gia dân tộc.
Thi thơ
Việt Nam vốn chuộng văn học. Ninh Bình lại là nơi phong cảnh thanh tú, nhất là Hoa Lư, phong cảnh càng hùng vĩ nên thơ. Hàng năm nhân ngày hội, để giữ gìn nếp xưa, để khuyến khích dân chúng trên đường văn học,
dân làng mở hội thi thơ không những riêng cho dân sở tại mà cho tất cả những ai văn hay chữ tốt, muốn được giải và muốn lấy tiếng tăm với mọi người. Đề thơ tùy ban tổ chức lựa chọn. Giải thưởng thường chỉ mấy vuông nhiễu điều, gói chè, mươi quả cau, những người được giải hãnh diện vì thơ hơn vì giải. Hàng năm có ba giải thưởng trong cuộc thi này, và ban giám khảo gồm các tay văn học nổi tiếng trong vùng, có khi ban
tổ chức mời cả những bậc đại khoa có danh tới chấm giải. Ngày xưa, thường vị tuần phủ chủ tỉnh làm chủ tịch hội đồng chấm thơ.
Những bài được giải, ban tổ chức cho bình lên để mọi người cùng thưởng thức.
Hát chèo
Cũng như bất cứ ở hội Xuân nào, khi xã Trường Yên bắt đầu mở hội là có các ban chèo tới xin trình diễn. Hát chèo để thờ thần và cũng để dân làng mua vui buổi tối.
Rước đuốc
Tổ chức vào buổi tới hôm trước ngày rã đám, do các trẻ em đảm trách, những em này sẽ tham dự diễn tích Cờ lau tập trận ngày hôm sau. Đám rước được đi từ đình làng qua đền Thục Tiết công chúa.
Chọi gà
Các tay chơi gà chọi các nơi mang gà tới dự giải. Có ba giải. Kéo chữ
Do dân đinh phụ trách. Những dân đinh này được dân làng chọn trước và phải có luyện tập dưới hiệu lệnh của một vị chức sắc. Những chữ được kéo thường là mấy chữ Thiên hạ thái bình, Phong đăng hòa cốc, tùy từng năm.
Về tục này xin xem trong PHONG LƯU ĐỒNG RUỘNG có những chi tiết.
Bơi thuyền
Sông Hoàng Giang chảy qua xã Trường Yên. Đây là nơi xưa vua Đinh Tiên Hoàng thường cùng chúng bạn bơi lội, và khi nhà vua bị ông chú đuổi, nhà vua đã nhảy xuống sông này.
Trong ngày hội, có cuộc thi thuyền của dân làng rất vui và rất được các khách trẩy hội thưởng thức.
Múa xòe
Xòe do các cô Mường ở phủ Nho Quan tới múa. Họ Đinh là một họ trong dân Mường, và Hoa Lư cũng là một phần đất của xứ Mường. Vua Đinh Tiên Hoàng rất được dân Mường tôn sùng, và họ hãnh diện với sự tích nhà vua xuất phát từ đất Mường.
Các cô múa xòe được họ lựa chọn đưa tới. Những điệu múa rất nhịp nhàng được các cô biểu diễn trước bàn thờ.
Sau cuộc múa này là tiệc uống rượu cần của ban tổ chức và chức sắc trong làng.
Trên đây là sơ lược về các tục lệ tại hội Trường Yên.
Những tục lệ này không những làm vui cho ngày hội, còn nói lên phần nào cái tinh thần ganh đua cố hữu của dân ta, ganh đua để tiến và để giữ vững thuần phong mỹ tục.
Một câu chuyện tục truyền về vua Đinh Tiên Hoàng
Ở trên về phần thần tích chúng tôi mới nhắc tới vua Đinh Tiên Hoàng qua lịch sử. Bên những dòng sử nghiêm trang, truyện vua Đinh Tiên Hoàng thường được dân chúng kể lại qua một câu chuyện tục truyền, tuy đầy vẻ hoang đường, nhưng cũng đầy thi vị. Câu chuyện tục truyền như sau theo các ông Đỗ Đình Nghiêm, Ngô Vi Liễn và Phạm Văn Thư trong ĐỊA DƯ CÁC TỈNH BẮC KỲ:
''Tiên Hoàng họ Đinh, tên là Bộ Lĩnh, người ở động Hoa Lư, phủ Đại Hoàng (bây giờ là phủ Yên Khánh)[1], là con ông Đinh Công Trứ.
''Tục truyền rằng: vợ ông Trứ một hôm tắm ở dưới suối bị một cơn rái cá hiếp về có mang. Sau người ta bắt con rái cá ăn thịt, vứt xương đi, bà ấy nhặt lấy, đem về cất đi.
''Khi ông Trứ mất, bà ấy mới sinh ra Đinh Tiên Hoàng.
''Tiên Hoàng lớn lên, thông minh, nhanh nhẹn lại có tài bơi lội. Nhà nghèo phải nương nhờ ở với chú. Bấy giờ có một thầy địa lý Tàu sang nước ta xem đất, đến phủ Đại Hoàng trông xuống dòng sông, thấy nước sâu thăm thẳm mà xoáy mạnh lắm, đồ là đấy có huyệt đế vương. Người địa lý ấy mới gọi trẻ, thuê tiền bảo lặn xuống chỗ ấy xem thế nào. Tiên Hoàng nhận lời lặn xuống, thì sờ thấy con ngựa bằng đá, lúc lên bờ bảo với người khách ấy. Người ấy đưa cho nắm cỏ xuống nhử thì con ngựa đớp ngay lấy.
''Lúc lên nói chuyện lại thì người khách lấy tiền thưởng cho rồi đi. Tiên Hoàng vốn thông minh, biết ngay chỗ ấy hẳn là đại huyệt, về nói với mẹ, xem mả cha ở đâu, để đem táng vào huyệt ấy. Bà mẹ trỏ lên gác bếp rồi lấy nắm xương đưa cho con. Tiên Hoàng lại lặn xuống chỗ vực sâu ấy, cũng lấy cỏ bọc nắm xương nhử vào mồm ngựa thì con ngựa cũng đớp mà nuốt đi.
''Từ đấy Ngài sinh ra bạo tợn, các trẻ chăn trâu bò đều sợ, để Ngài làm tướng, bẻ hoa lau làm cờ, chặt tre làm khí giới đi đánh nhau với trẻ các làng khác. Đi đến đâu, trẻ cũng sợ hãi kính phục. Một bữa nọ Ngài hội hết trẻ các làng ở ngoài đồng rồi nhân có con bò của chú cho đi chăn, mổ
ngay ra làm cỗ để khao chúng. Chú ở nhà nghe tin tức giận lắm, vác gậy ra đuổi đánh.
Ngài sợ hãi chạy mãi, sau phải nhảy choàng xuống sông. Bỗng dưng có con rồng vàng ở dưới sông đội ngài lên. Người chú thấy vậy kinh hoảng, vội vàng bỏ gậy mà lạy phục xuống đất.
''Từ bấy giờ, danh tiếng Ngài lừng lẫy, các hào kiệt trong nước để lòng trông mong về Ngài. Nhân bấy giờ về cuối đời Nam Tấn, nước ta có 12 ông sứ quân nổi lên, mỗi người chiếm giữ một phương.
''Tiên Hoàng nhân dịp ấy, theo về ở với Trần Minh Công. Trần Minh Công thấy Ngài là dòng dõi tướng võ và có tài cán, mới dùng cho cai quản binh lính. Dần dần Ngài đem quân đi dẹp được các sứ quân rồi tự
xưng là Vạn Thắng Vương, lên ngôi Hoàng Đế, đóng đô ở Hoa Lư, sửa sang thành quách, cung điện, đặt Quốc hiệu là Đại Cồ Việt.
''Ngài ở ngôi được mười một năm thì bị Đỗ Thích giết mất, đến đời con là Vệ Vương thì cơ nghiệp lại về tay triều khác''.
[1] Ngày nay là huyện Gia Khánh, Hà Nam Ninh
Hội Đền Hùng
Nhân ngày giỗ tổ Hùng Vương năm Giáp Dần, 1914, ông Phạm Huy Hồ có cung soạn đôi câu đối thờ đăng trong Đông Dương tạp chí:
Non nước cao sâu, tưởng bóng Long Tiên còn thoảng đó. Khói hương ngào ngạt, động lòng sơn hải biết yêu nhau.
Với đôi câu đối này, tác giả có ý nhắc nhở đồng bào Nam quốc Nam nhân nên biết thương yêu nhau, nhất là giữa lúc nước non bị ngoại bang thống trị, như bóng Tổ xưa còn thoảng đó để con cháu phải động lòng.
Hàng năm, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương vẫn tới với ngày mồng 10 tháng Quý xuân (tháng Ba). Phàm đã là người dân Việt, ai mà quên được giỗ tổ. Nhớ tới Tổ không phải để nhớ tới những điều hoang đường thời tiền
sử nhưng để kiêu hãnh rằng dân tộc Việt Nam ta có Tổ, có tổ nghĩa là có một lịch sử từ mấy nghìn năm nay, hơn hẳn nhiều quốc gia, tuy văn minh nhưng dân tộc lại không gốc rễ, chỉ vẻn vẹn văn minh với vài trăm năm lập quốc.
Từ xưa ngày giỗ Tổ vẫn được coi là ngày Quốc lễ, và hàng năm tại đền thờ vua Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh, rừng Hy Cương thôn Cổ Tích, phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ (Vĩnh Phú) vẫn có Quốc lễ và triều đình qua các triều đại vẫn cử đại diện tới để làm chủ tế.
Ngày hội
Ngày có Quốc tế tại đền thờ vua Hùng là ngày Hội đền Hùng, hàng năm dân xã Hy Cương vẫn theo cổ lệ tổ chức ngay từ đầu tháng, tuy chính lễ vào đúng mồng 10.
Trong ngày hội, dân chúng Việt Nam từ bốn phương kéo tới lễ Tổ để tỏ lòng thành kính biết ơn các đức Hùng Vương đã dày công gây dựng nên nước Văn Lang, tức là nước Việt Nam ngày nay.
Là người Việt Nam, ai cũng nên biết hội Đền Hùng, ai cũng phải nhớ đến ngày giỗ Tổ. Từ hơn bốn nghìn năm nay, dân tộc Việt Nam trải bao hưng vong biến chuyển, sở dĩ vẫn vững bền tồn tại, chính là vì người Việt Nam uống nước biết nhớ nguồn, trăm vạn người như một, hàng năm ai cũng nhớ ngày giỗ Tổ. Người Việt Nam có thể quên hết mọi ngày, nhưng ngày giỗ tổ, người không quên gốc không ai quên. Dù ở xa xôi, người ta vẫn hướng về non Nghĩa Lĩnh để nhớ tới các vị Tổ chung.
Vị trí đền Hùng
Đền Hùng xây trên núi Nghĩa Lĩnh, rừng Hy Cương, thôn Cổ Tích, phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ (Vĩnh Phú).
Ngọn Nghĩa Lĩnh là một ngọn núi cao của vùng trung du miền Bắc, bắt nguồn từ núi Thắm chia làm nhiều chi, mỗi chi có nhiều đồi nhỏ. Chi giữa ăn tới làng Hy Cương, thôn Cổ Tích thì nổi bật lên một ngọn núi cao.
Đứng trên đỉnh Nghĩa Lĩnh, nhìn về phía Đông là dãy núi Tam Đảo thuộc hai tỉnh Vĩnh Yên và Thái Nguyên (Bắc Thái), mập mờ trong mây, như xa như gần, như thực như hư. Về phía Nam là núi Cánh Phượng, trông như con phượng luôn luôn xòe đôi cánh. Đây chính là núi Ba Vì, còn gọi là núi Tản Viên, thuộc tỉnh Sơn Tây (Hà Tây). Bao giờ trên đỉnh cũng có mây che trông thật là huyền ảo. Giữa hai cảnh núi hùng vĩ đó, là hai dòng sông Lô và sông Thao nước cuồn cuộn chảy, gặp nhau ở Bạch Hạc, cố đô Phong Châu đối diện với thành phố Việt Trì trông rất ngoạn mục.
Lộ trình đi Đền Hùng
Muốn trẩy hội Đền Hùng, con cháu tổ có thể dùng đường thủy hay đường bộ.
Đường bộ dùng đường xe lửa Hà Nội đi Vân Nam Phủ, hay đi xe hơi theo quốc lộ số 2, từ Hà Nội tới ga Kiên Cương. Từ đây rẽ sang tay phải, đi bộ vào thôn Cổ Tích theo đường hàng xã tới chân núi Nghĩa Lĩnh.
Đi đường thủy phải ngược dòng sông Hồng Hà tới Việt Trì. Từ Việt Trì, lại theo đường bộ tới xã Kiên Cương để lại rẽ vào con đường hàng xã nói trên, đi cho tới chân núi như những người đi đường bộ.
Hai lộ trình trên dùng cho những người từ Hà Nội đi lên, còn những người ở men ngược, lẽ tất nhiên phải đi xuôi trở xuống cho tới ga Kiên Cương. Đường bộ, theo quốc lộ số 2, còn đường thủy, xuôi dòng sông Lô hoặc sông Thao tùy địa phương.
Quang cảnh lộ trình trong ngày hội
Như trên đã nói, ngày chánh hội là ngày mồng 10 tháng Ba, nhưng dân làng Hy Cương hàng năm vẫn mở hội từ mấy ngày trước. Trong những ngày hội, con cháu đức Tổ từ bốn phương tám hướng kéo nhau về thăm
mộ Tổ và dự lễ rất đông. Những con đường Phú Thọ tới Kiên Cương, Hà Nội đi Việt Trì luôn luôn tấp nập những người. Những chuyến xe chở khách, trong Nam gọi là xe đò, đông nghẹt hành khách đều ngừng ở ga Kiên Cương để trút khách xuống, có những chuyến đông đến nỗi có khách phải ngồi trên mui và có khách bám đằng sau xe. Và trên những chuyến xe lửa, toa nào toa nấy khách trẩy hội chen chúc nhau suốt từ Hà Nội qua các ga Yên Viên, Đông Anh, Phúc Yên, Vĩnh Yên, Bạch Hạc, Việt Trì cho đến ga Kiên Cương. Ở mỗi ga, khách trẩy hội lại kéo nhau lên thêm càng nhiều, toa tàu càng đông hơn, người đã lúc nhúc lại càng như lén chặt. Đông thì đông, chen thì chen, lòng người ta vẫn hân hoan hướng về Hùng Sơn Nghĩa Lĩnh, cần được tới nơi chiêm bái mộ tổ là hài lòng.
Khách trẩy hội có người già, có người trẻ, có nữ tú, có nam thanh. Người ta chen nhau để lấy một chỗ đứng, người ta vịn vào nhau và nhiều người đứng cả ở bực toa tàu. Con tàu từ từ đi, khách trẩy hội ồn ào trò chuyện.
Khi con tàu ngừng ở ga Kiên Cương, đoàn người đổ xuống như thác, người nọ trước người kia sau. Các ông già bà lão thường dắt díu theo các cô gái quê còn e lệ, thẹn thùng giữa đám khách thập phương, các cô mới đi lễ Tổ lần đầu. Các bà đứng tuổi, gọn gàng vai vác đẫy vàng hương đồ lễ, nhanh nhẹn bước bên các cụ già thủng thỉnh.
Sở Hỏa xa trong những ngày hội, ngoài các chuyến xe lửa thường lệ, có đặt thêm nhiều chuyến xe phụ để đủ chở hành khách trẩy hội. Những chuyến xe này đậu ngay tại địa phận xã Hy Cương, nơi đó con đường đi thẳng vào thôn Cổ Tích tới đền Hùng.
Con đường qua thôn Cổ Tích này đi trên bờ ruộng giữa cánh đồng. Chư khách thập phương nhộn nhịp kẻ ra người vào, người này gặp người khác, người nọ trước người kia. Có người vừa đi vừa lâm râm cầu khấn muốn xin Tổ phù hộ độ trì cho. Họ đi tới đền với một lòng thành kính.
Có người nói chuyện ồn ào, tiếng vọng vang lên đồng ruộng, lách vào giữa đám rừng sâu, sát ngay khu cánh đồng.
Cái cảnh tịch mịch quanh năm tại xã Hy Cương, vị trí ở một nơi nửa núi rừng, nửa đồng ruộng của trung du, mất hẳn để nhường chỗ cho một vẻ tấp nập khác thường. Người người vui chân đi, người người vui miệng nói hoặc thành tâm tụng niệm.
Đền Hùng là đây
Theo con đường hàng xã qua thôn Cổ Tích, khách trẩy hội chẳng mấy chốc đã tới chân núi Nghĩa Lĩnh, còn có tên gọi là núi Đền, chính tại núi này có đền thờ vua Hùng.
Ngay ở dưới chân núi có đền thờ hai bà công chúa con vua Hùng Huệ Vương là Tiên Dung và Ngọc Dung công chúa.
Đền này còn được gọi là đền Giếng, ở trước đền thờ có mạch nước chảy thành giếng trong và mát. Đền Giếng còn có tên là đền Hạ, bởi ở ngay dưới chân núi.
Vào lễ đền Giếng xong, khách lên đền Trung và đền Thượng. Từ đền Hạ lên đền Thượng phải leo 296 bực đá.
Đền Trung ở lưng chừng núi, giữa khoảng hai đền Thượng và Hạ. Ở cạnh đền Trung có ngôi chùa của xã Hy Cương, và ở ngay trước đền có nhà Bia với một bia chính lớn và rất nhiều tấm bia phụ.
Tấm bia chính, nét chữ khắc còn rõ, nhắc lại lịch sử của các đức Hùng Vương, còn các tấm bia phụ ghi về công việc xây đền cùng danh sách những vị đã giúp công giúp của vào công việc trùng tu đền.
Đền Thượng ở trên đỉnh núi, thờ mười tám đức Hùng Vương. Trước đền có bức hoành phi mang bốn chữ VIỆT NAM TRIỀU TỔ. Đền này trước đã đổ nát mới được trùng tu vào năm 1914. Nhân dịp trùng tu đền này, cuộc lễ Tổ đã được tổ chức rất trọng thể.
Ở chính giữa bàn thờ đền Thượng có bài vị 18 đức Hùng Vương với 14 chữ sau đây:
ĐỘT NGỘT CAO SƠN CỔ VIỆT HÙNG THỊ THẬP BÁT THÁNH VƯƠNG VỊ
Lại có rất nhiều câu đối chữ Hán có, chữ Nôm có trong số đó có đôi câu đối Nôm của cụ Nguyễn Kỳ Nam được nhiều người chú ý:
Đồ vương tranh bá, thôi nói chi lịch đổi số trời, hỏi trước sau truyền bốn nghìn năm, nước biếc non xanh, bờ cõi ai xây bờ cõi ấy;
Vấn tổ tìm tông, nay vẫn còn lăng xưa miếu cũ, kể nhiều ít hai mươi nhăm triệu, con đàn cháu đống, cỗi cành đâu chẳng cỗi cành đây.
Cùng với đôi câu đối trên, đôi câu đối sau đây, cũng treo ở đền Thượng, rất được nhiều người ghi nhớ:
Vật đổi sao dời, phúc tổ vẫn lưu nền Cổ Tích,
Nước nguồn cây cội, đạo người nên nhớ mộ Hùng Vương.
Kể ra câu đối ở cả ba đền rất nhiều, nhưng rất tiếc trong lúc này, chúng tôi không còn đủ tài liệu để trình bày cùng bạn đọc.
Mộ Vua Hùng
Ngay gần đền Thượng có một ngôi mộ tương truyền là mộ vua Hùng Vương, nhưng không biết là mộ vua thứ mấy. Lối vào mộ có khắc năm chữ Sắc kiến Hùng Vương lăng, nghĩa là sắc xây mộ vua Hùng, do Hoàng đế Tự Đức kính đề.
Hỏi thăm về ngôi mộ, dân làng nói họ cũng chỉ được các cụ dạy đây là mộ vua Hùng Vương, không rõ là vua thứ mấy.
Có người nói có lẽ đây chỉ có hình thức lăng, còn bên dưới không biết có cốt hay không.
Các bậc thức giả thì bảo rằng, ngôi mộ đây chỉ cốt để tượng trưng cho mộ Tổ, con cháu tới lễ đền Hùng, thấy mộ càng nhớ tới Tổ xưa.
Hai chiếc rọ lớn
Vào mấy năm cuối cùng hồi tiền chiến, khách đi trẩy hội, hẳn phải để ý ngay ở dưới đền Hạ, lối vào đền, hai bên cho treo hai chiếc rọ lợn rất lớn.
Hỏi sẽ được dân làng trả lời:
Ngày giỗ Tổ là ngày trang nghiêm, vậy mà có các người ở nơi xa xôi tới, (có ý ám chỉ các thanh niên thành thị), lấy đây làm nơi chòng ghẹo các thôn nữ, các cô van lơn cũng không tha, có những cử chỉ suồng sã. Những người đó cần phải bị trừng phạt. Hai chiếc rọ này dùng để trừng
phạt những ai giở trò trăng hoa, ghẹo cợt thôn nữ tại đây. Ghẹo gái ở nơi thờ tự này bị dân làng bắt được sẽ bị nhốt vào trong rọ trong hai giờ để khách thập phương đi qua cùng thấy.
Biện pháp này thật hiệu nghiệm. Từ khi có người bị nhốt vào rọ, trò ghẹo gái không còn chàng thanh niên nào dám thò ra ở giữa đền nữa.
Những tục lệ cổ truyền
Hội đền Hùng mở từ ngày đầu tháng cho đến hết ngày mồng 10 mới rã đám.
Trong ngày hội có rước xách tế lễ và trong các buổi tế lễ có buổi quốc tế vào sáng ngày mồng 10 do vị Đại diện triều đình, thường là vị Tỉnh hiến Phú Thọ, làm chủ tế. Trong buổi tế này có đông đủ các quan chức địa phương tới dự.
Ngoài ra còn có rất nhiều các trò vui cổ truyền. Cụ Vân Toàn Dương Tự Như, một bậc khoa bảng trước đây, trong bài thơ tả quang cảnh ngày hội đền Hùng, đã có đoạn nhắc đến các cuộc vui cổ truyền đó:
…
Ai ơi tới hội mà trông,
Nơi tung diều sáo, nơi trồng đu tiên;
Nào cờ, nào trống, nào đèn,
Nào xe, nào ngựa, như len chật đường.
Leo dây, múa rối đủ phường,
Đánh cờ treo giải lạ thường vui thay.
…
Qua đoạn thơ trên, ta thấy trong ngày hội có leo dây, múa rối, thi diều sáo, treo đèn, đu tiên và đánh cờ. Cụ Vân Toàn quên không nói tới đánh còn, một trò chơi rất thú vị của phụ nữ Phong Châu mà chính chúng tôi đã được dự kiến khi đi lễ Tổ vào năm Tân Tỵ (1941).
Leo dây
Đây là một trò chơi giống như ngày nay các đoàn xiếc thường biểu diễn. Một chiếc dây được căng trên hai chiếc cột, rồi có người đi lên trên, vừa đi vừa múa. Thường người này trong tay cầm một chiếc gậy để giữ thăng
bằng trong lúc biểu diễn. Cũng có khi một chiếc dây được cột trên một chiếc xà cao buông thõng xuống để người biểu diễn leo lên làm trò.
Múa rối
Xin xem trong bài nói về Hội Chùa Thầy ở Chương Hai. Đánh Cờ
Đã trình bày trong Nếp cũ: THÚ VUI TAO NHÃ.
Thi diều sáo
Ngoài Bắc, chơi diều là một thú rất say mê của người lớn. Đây không phải là những chiếc diều nhỏ có đuôi như diều trẻ em, mà là những chiếc diều thật lớn bề ngang, có khi tới sải rưỡi tay và có mang một hoặc nhiều chiếc sáo. Khung diều làm bằng cật tre, giấy phất vào diều bằng cậy.
Diều thả bằng dây tre vót nhỏ hoặc bằng dây mây. Mấy hồi về sau có dây thép, nhiều tay chơi diều dùng dây thép nhỏ.
Sáo diều có ba loại chính phân theo tiếng kêu:
Sáo CỒNG, tiếng kêu vang vang như tiếng cồng thu quân của một vị tướng quân. Những tiếng du du, dòn dòn dõng dạc.
Sáo ĐẨU, tiếng kêu rên rỉ, dài dài như lời than của một nàng cung phi thời xưa bị sống trong cảnh lạnh lẽo cô phòng.
Sáo CÒI, tiếng kêu the thé dài như tiếng còi.
Thi diều sáo, ban giám khảo có thể chấm theo tiếng sáo, nhưng trước tiên bao giờ cũng phải xem diều có lên bổng, dây điều căng hay võng, nhất là lúc ở trên không diều có lắc lư đảo ngang đảo dọc không.
Treo đèn
Tháng ngày hội từ đền Hạ lên đến đền Thượng chùa và các lăng miếu đều có chăng đèn. Buổi tối đèn thắp lên rất vui mắt.
Đu tiên
Đu tiên không giống như cây đu thường tám cọc mọi người vẫn hằng thấy. Người lên đu tiên không phải rướn, và cũng không đứng trên bàn đu, trái lại ngồi trên ghế đu. Đu tiên có nhiều người cùng đu một lúc.
Đu tiên gồm hai chiếc cột cao có trục bắc ngang. Chiếc trục này ăn ra hai chiếc vành như một chiếc bánh xe lớn. Mắc và hai chiếc vành này là những chiếc ghế buông thõng xuống để các nàng tiên ngồi. Những ghế này cũng có trục bắc vào vành đu, khi đu quay, ghế không quay theo, vẫn giữ nguyên một chiều. Các nàng tiên ngồi trên đu vừa đu vừa hát những bài ca cổ truyền theo nhịp đu quay.
Những nàng tiên là các cô thôn nữ do dân làng cắt cử sẵn. Lên đu, các cô ăn mặc diêm dúa như những nàng tiên.
Các cô ngồi trên ghế đu, một loạt, có người quay chiếc vành đu để các cô lên cao lại xuống thấp trông rất ngoạn mục.
Đánh còn
Đánh còn là một môn giải trí lưu truyền từ đời Hùng Vương, nghĩa là từ khi có các Quan Lang và các cô Mỵ Nương. Còn là một trò chơi quý
phái của quý tộc thời xưa, là một thú chơi riêng của nữ nhi, hay đúng hơn, là một thú chơi riêng của các tiểu thư con các Lạc hầu, Lạc tướng.
Lưu truyền tới thế kỷ XX, môn du hí này vẫn giữ nguyên nếp chơi của thời trước và rất được thịnh hành tại các vùng sơn cước miền Bắc.
Trong các hội, mồng 9 tháng Giêng ở Đồng Mỏ thuộc châu Ôn tỉnh Lạng Sơn, mồng 10 tháng 3 tại đền Hùng và nhiều nơi khác tại các tỉnh Thượng du miền Bắc, các cô sơn nữ dắt nhau tới hội là tìm hát lượn và đánh còn.
CÒN là một trái cầu to bằng quả cam lớn khâu bằng vải, trong ruột là bông, cỏ mềm hay vải vụn. Còn bọc bằng vải mầu và tua ngũ sắc sặc sỡ rất đẹp.
Đánh còn thường được tổ chức ở một khoảng đất rộng gọi là sân còn. Giữa khoảng đất này có trồng một cột tre cao bằng cả cây tre. Trên ngọn cột tre ngoài những lá cờ đuôi nheo ngũ sắc phấp phới, biểu hiệu của đình đám ngày xuân, có một vòng tròn đường kính ước độ già hai tấc gọi là vòng còn. Các thiếu nữ chơi Còn đứng về hai phía sân Còn, đối diện nhau để lần lượt thi ném quả Còn cho lọt qua vòng Còn, hai mặt vòng Còn hướng về phía các cô ở hai bên. Khán giả đứng xem vây chung quanh sân Còn.
Muốn ném Còn, các thiếu nữ cầm rua Còn đưa tay văng vụt lên. Trái Còn lướt qua ngọn cột tre, những dây rua cũng lướt xòe ra trông rất ngoạn mục. Thường thường trái Còn chỉ lướt qua cạnh vòng Còn, ít khi trúng vào giữa vòng. Mỗi lần trái Còn trúng giữa vòng Còn, khán giả thường hò reo khen ngợi khuyến khích.
Tưởng cũng cần nói thêm, vòng Còn có dán giấy, thường là giấy đỏ. Còn ném trúng vòng xuyên thủng tờ giấy, rồi rớt xuống phía đối diện. Các cô bên này lại nhặt Còn ném trở lại.
Các thiếu nữ say mê ném Còn, ganh đua nhau mong ném quả Còn qua giữa vòng Còn. Ném trúng đích, các cô hãnh diện không những với các
bạn chơi Còn, đem thắng lợi về cho bên mình, mà còn hãnh diện với cả khách đứng xem, nhất là với những chàng trai đã cùng các cô hát lượn, trong những ngày hội có hát lượn. Các chàng trai gọi tên các cô để ngợi
khen, mắt các cô sáng lên, má các cô ửng hồng, miệng các cô cười và các cô cố gắng hơn.
Trái Còn văng đi, trái Còn văng lại, những tầm con mắt ngước theo đà Còn, và những trái tim hồi hộp khi trái Còn lướt tới chiếc vòng Còn.
Cuộc chơi ném Còn thường kéo dài suốt mấy ngày hội, và các cô hàng ngày trong thời gian ấy chỉ ngưng cuộc vui khi bóng đêm đã xuống, không cho phép các cô ném được tinh tường nữa.
Đánh Còn cũng vui ra phết.
Sơ lược lịch sử đền Hùng
Thần tích tại đền Hùng chính là lịch sử nước Văn Lang, với họ Hồng Bàng gồm mười tám đời Hùng Vương. Nhắc tới đoạn lịch sử đầu tiên này, chúng tôi nghĩ không gì bằng chép lại ra đây những trang đầu tập Đại Nam Quốc sử diễn ca của các ông Phạm Đình Toái và Lê Ngô Cát:
Kể từ trời mở viêm bang,
Sơ đầu có họ Hàng Bàng mới ra;
Cháu đời Viêm đế thứ ba.
Nối dòng hỏa đức, gọi là Đế Minh.
Quang phong khi giá Nam hành,
Hay đâu Mai Lĩnh, duyên sinh Lam Kiều.
Vu tiên vừa thuở đào yêu,
Xe loan nối gót, tơ điều kết duyên.
Dòng Thần sánh với người Tiên, Tinh anh nhóm lại, thánh hiền nối ra. Phong làm quân trưởng nước ta, Tên là Lộc Tục, hiệu là Kinh Dương. Hóa Cơ dựng mối luân thường, Động đình sớm kết với nàng Thần Long. Bến hoa ứng vẻ lưu hồng,
Sinh con là hiệu Lạc Long trị vì? Lạc Long lại sánh Âu Ky,
Trăm trai điềm ứng hùng bi lạ dường, Noãn bào dù truyện hoang đường, Ví xem huyền diệu sinh thương khác gì? Đến điều tan hợp cùng kỳ,
Há vì thủy hỏa sinh ly như lời. Chia con cũng sự lạ đời,
Quy sơn, quy hải khác người biệt ly. Lạc Long về chốn Nam Thùy,
Âu Cơ sang nẻo Ba Vì Tản Viên. Chủ trương chọn một con hiền, Sửa sang việc rước nối lên ngôi rồng.
Hùng Vương đô ở Châu Phong,
Ấy nơi Bạch Hạc, hợp dòng Thao Giang.
Đặt tên là nước Văn Lang,
Chia mười lăm bộ, bản chương cũng liền.
Sinh viên với ngày giỗ tổ
Trong mọi việc gây tinh thần cao đẹp cho dân tộc, bao giờ anh em sinh viên cũng giữ một vai trò quan trọng. Viết tới ngày hội đền Hùng chúng tôi không quên một việc làm của sinh viên cách đây mấy chục năm:
Năm 1941, giữa lúc dân tộc Việt Nam đang bị đè nén dưới hai gọng kìm đế quốc Pháp và quân phiệt Nhật, nhân ngày giỗ tổ để nhắc nhở đồng bào khỏi quên nguồn gốc, anh chị em sinh viên ở Hà Nội đã tổ chức một cuộc đi thăm lăng miếu Tổ rất nhộn nhịp. Trong dịp đi thăm mộ Tổ này, một sinh viên sinh quán miền Nam (anh Lưu Hữu Phước) đã soạn bài hát Đi hội đền Hùng. Và bài hát này đã được Tổng hội Sinh viên cho in và phát không ngay tại đền Hùng cho những ai đi lễ Tổ. Bài hát đã làm rung động con tim bao người.
I
Chúng ta cùng nhau đi viếng thăm
Nơi cố hương của giống Tiên Rồng;
Chúng ta cùng nhau đi viếng thăm
Những vết xưa của núi sông,
In dấu chân biết bao anh hùng,
Cùng với nhau Bắc, Nam, Trung.
Chúng ta về thăm mộ Tổ ta,
Cho vẻ vang với nước non nhà. II
Biết bao đời Tiên vương nổi lên, Để chống ai đắp lũy xây thành, Biết bao đời Tiên vương nổi lên Giữ núi sông trong thanh danh,
Xây nước non với tôi trung thành. Cùng khắc tên trên sử xanh, Hiến thân mình để lo quốc gia, Cho vẻ vang với nước non nhà. III
Chúng ta cùng vui ca hát lên, Ta hát lên trước cảnh huy hoàng, Chúng ta cùng vui ca hát lên, Lễ Tổ tiên, người Văn Lang, Ta hát lên khúc ca nhịp nhàng, Cùng với nhau lên mấy tiếng vang Chúng ta cùng nhau lên tiếng ca Cho vẻ vang thêm nước non nhà. Báo chí với ngày giỗ tổ
Tổ là Tổ chung của mọi tầng lớp dân tộc Việt Nam, đối với giới lao động chân tay cũng như giới lao động trí thức. Thời thường giới cầm bút, các nhà thơ, nhà văn, nhà báo, bao giờ cũng là giới đi tiên phong cùng với anh chị em sinh viên trong những công tác đề cao tinh thần dân tộc, và lòng yêu nước, mở con đường cho các giới khác theo sau.
Các nhà làm báo ở Hà Nội trong năm 1953 đã làm một việc vô cùng đẹp đẽ và đầy ý nghĩa: làng báo xứ Bắc năm đó đã quyết định lấy ngày đại đoàn kết của tất cả các ký giả khắp trong nước, ngày thiêng liêng để lớp người cầm bút hướng về Tổ Hùng Vương.
Ban tổ chức của làng báo đã trình bày bài diễn văn đọc nhân ngày giỗ Tổ năm Quý Tỵ (1953), lý do việc làm của mình:
Chúng tôi đã chọn ngày đó là đã cố tâm muốn được anh hồn tổ tiên của nòi giống Lạc Hồng ấp ủ lên công việc của báo chí nâng đỡ phù hộ cho báo chí ngày một phát triển và trở nên dụng cụ tranh đấu thiết thực nhất của dân chúng trong Quốc gia và của Quốc gia trong thế giới.
Chúng tôi chọn ngày đó là muốn chiêm ngưỡng tiền nhân mà nhớ đến tiền nhân là nhớ rằng bổn phận mình là ở bên cạnh dân chúng, và vun đắp vào công việc chung làm cho quốc gia Việt Nam xứng đáng với những trang sử oanh liệt của tiền nhân.
Trong năm Quý Tỵ (1953) cũng như năm sau Giáp Ngọ, báo chí đã nghỉ ngày giỗ Tổ và cho xuất bản một số ĐẶC BIỆT HỢP NHẤT BÁO CHÍ.
Trong số báo đặc biệt này, ngoài phần tin tức có các bài khác viết rất nhiều về ngày giỗ Tổ.
Trong số đặc biệt năm Giáp Ngọ, thi sĩ Xuân Tiên có một bài thơ rất cảm động về ngày giỗ Tổ, sau đây là đoạn kết:
Đứng trước ngọn lửa thiêng rừng rực
Đỉnh trầm hương sực nức khói hương
Chúng ta con cháu Hùng Vương,
Cao tay thề quyết noi gương Tổ truyền.
Nguyện gìn giữ cho bền danh dự,
Cố ganh đua rộng mở tinh thần.
Nước non ngày một canh tân.
Tiên rồng nòi giống góp phần văn minh.
Cờ độc lập tung hoành trước gió,
Đài vinh quang đồ sộ ngất cao
Năm Châu thiên hạ trông vào
Việt Nam lên tiếng tự hào từ đây...
Hội đền Lý Bát Đế
Đền Lý Bát Đế là nơi thờ tám vị vua nhà Lý, hiện nay ở làng Đình Bảng, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (Hà Bắc). Làng Đình Bảng trước kia là làng Cổ Pháp, nơi Lý Công Uẩn khởi phát.
Làng Đình Bảng, ngoài đền thờ tám vị vua nhà Lý lại có đền thờ Lý Chiêu Hoàng và có cả băng Lý Bát Đế nữa.
Làng Đình Bảng ở ngay ven quốc lộ số 1, quãng đường từ Hà Nội tới Bắc Ninh, cách Hà Nội 18 cây số và cách thị xã Bắc Ninh 23 cây số.
Du khách, nếu có dịp đi trên quãng đường này của quốc lộ số 1, đi khỏi ga Yên Viên tới chùa Dận, và cách chùa Dận trên một cây số, sẽ thấy ở mé tay phải một làng rất trù phú với nhà gạch, mái ngói phong quang, có chợ lớn, có trường học rộng rãi. Đó là làng Đình Bảng.
Hàng năm, làng Đình Bảng kéo hội vào trung tuần tháng Ba để kỷ niệm các vị vua nhà Lý. Hội không nhất định mở vào ngày nào, thay đổi tùy từng năm, nhưng bao giờ cũng vẫn mở trong trung tuần tháng Ba.
Hàng năm, sắp tới kỳ hội, dân làng họp bàn để ấn định ngày mở hội, chiếu theo ngày xấu tốt trong âm lịch.
Trong ngày hội, có tế lễ, có rước xách. Hội mở tại đình, nhưng ở quanh đình dân chúng và khách xem hội tụ họp để cùng mua vui với những trò giải trí đầu Xuân: cờ bỏi, đáo đĩa, múa rối, leo dây, đánh đu và đôi khi có cả hát đúm, lại có những đám cờ bạc chơi xuân: thò lò, xúc xắc, bài lá... Cũng có năm có tổ tôm điếm hoặc tam cúc điếm do ban tổ chức mở ra với giải thưởng của dân làng… Buổi tối có hát chèo thờ, và cho dân chúng xem.
Tại đền thờ Lý Bát Đế có tám kiệu của tám vua:
Lý Thái Tổ,
Lý Thái Tôn,
Lý Thánh Tôn,
Lý Nhân Tôn,
Lý Thần Tôn,
Lý Anh Tôn,
Lý Cao Tôn,
Lý Huệ Tôn,
Tám kiệu của tám vua bằng nhau và đồng kiểu.
Tại đền thờ của Lý Chiêu Hoàng cũng có kiệu của Lý Chiêu Hoàng, nhỏ hơn tám kiệu trên và làm theo kiểu kiệu đàn bà.
Trong ngày có lễ rước kiệu của tám vua. Kiệu của Lý Chiêu Hoàng không được rước, phải khiêng ra đặt ở trước đền thờ để bà nghênh đón kiệu của tám vua. Đó là một sự trừng phạt đối với Lý Chiêu Hoàng, vì Lý Chiêu Hoàng không những làm mất ngôi nhà Lý lại còn là đầu mối cho nhà Trần giết con cháu nhà Lý.
Cuộc rước tám kiệu rất vui. Dân làng, những con trai từ 18 tuổi trở lên được cắt cử khiêng kiệu. Đây là một điều vinh dự. Được cử khiêng kiệu các trai làng phải sắm sửa quần áo rất tốn kém. Ngoài việc khiêng kiệu cũng chính trai làng được đề cử vác cờ, vác tàn, vác tán cùng những đồ thờ trong đám rước. Tám kiệu đi theo thứ tự của tám vua.
Đi đầu đám rước là cờ quạt ngũ sắc, kế đến phường bát âm rồi đến tám kiệu.
Đám rước đông vui lắm. Dân làng Đình Bảng, dân các xã chung quanh, có khi xa hơn nữa, có người từ Bắc Ninh, Thị Cầu, Đáp Cầu tới có người từ Hà Nội về, đều nô nức đi xem đám rước lịch sử hàng năm này. Các cô gái làng hôm đó, cũng như các cô gái làng bên trang điểm thật là đỏm dáng. Các cô mong má hồng được lọt vào mắt xanh của những chàng trai đi rước và đi xem rước.
Hội làng Đình Bảng mở liên tiếp trong ba ngày. Suốt trong thời gian này cửa đền thờ tám vua cũng như cửa đền thờ Lý Chiêu Hoàng rộng mở để khách thập phương tới lễ.
Sơ lược lịch sử và thần tích
Nhà Lý là một triều đại oanh liệt của Việt Nam, đã đánh Chiêm Thành, bình Tống, sự nghiệp thật hết sức hiển hách. Thủy tổ nhà Lý là vua Lý Thái Tổ, tên tục là Lý Công Uẩn vốn người làng Cổ Pháp.
Tục truyền rằng ông Lý Công Uẩn không có cha, mẹ là Phạm Thị đi chơi chùa Tiêu Sơn, nằm mộng ân ái với thần nhân, rồi thụ thai sinh ra Lý Công Uẩn. Khi Công Uẩn lên ba tuổi, bà đem cho sư ông trên chùa Cổ Pháp là Lý Khánh Vân làm con nuôi, bởi vậy mới lấy họ Lý. Công Uẩn
lớn lên vào Hoa Lư làm quan với nhà Tiền Lê đến chức Tả Thị vệ Điện tiền Chỉ huy sứ. Khi vua Lê là Lê Long Đĩnh mất, triều đình thấy nhân dân oán giận nhà Lê, tôn Lý Công Uẩn lên làm vua. Vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long và truyền ngôi được tám đời, cho tới đời Lý Chiêu Hoàng mới chuyển sang nhà Trần.
Nguyên vua thứ tám của nhà Lý là Lý Huệ Tôn bị bệnh lại không có con trai nên sau khi trị vì được 14 năm thì truyền ngôi cho con gái thứ hai là Phật Kiên, tức là Chiêu Thánh công chúa. Công chúa lên ngôi lấy hiệu là Lý Chiêu Hoàng.
Chiêu Hoàng làm vua nhưng quyền chính ở cả trong tay Trần Thủ Độ. Muốn chiếm ngôi nhà Lý, Thủ Độ tìm cách cho cháu mình là Trần Cảnh lấy Lý Chiêu Hoàng.
Năm Ất Dậu (1225), Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng và nhà Lý cũng mất từ đó.
Nhà Lý làm vua được tất cả 216 năm đã có công làm cho nước Nam trở nên cường thịnh.
Hội làng Đình Bảng hàng năm nhắc nhở cho dân ta công ơn nhà Lý với đất nước và một thời oanh liệt của dân tộc.
Hội Gióng và tục diễn lại sự tích Phù Đổng Thiên Vương phá giặc Ân
Ca dao có câu:
Mồng bảy hội Khám,
Mồng tám hội Dâu,
Mồng chín đâu đâu