🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Giá Trị Học Ebooks Nhóm Zalo TLời nói đầu hật là một ngẫu nhiên hiếm có, một may mắn lớn cho tôi làm một số công việc cuối cùng của cuốn sách này vào các dịp kỉ niệm: - 1000 năm Thăng Long – Hà Nội - 120 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh - 65 năm ngày thành lập nước VNDCCH nay là CHXHCNVN - 56 năm Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ - 35 năm ngày hoàn toàn giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước. Các sự kiện lịch sử trọng đại này rất gắn bó với nhau trong dòng giá trị tinh thần bất diệt của dân tộc. Và mỗi một chúng ta, trong đó có tác giả các dòng chữ này, là một thành phần, đều có quan hệ keo sơn với các giá trị bất hủ của những chiến công thần thánh đem lại cho chúng ta cuộc sống ngày hôm nay. Tác giả cuốn sách xin được bày tỏ lời cảm ơn vô cùng sâu sắc tới Bác Hồ, Đảng và Nhà nước cùng nhân dân Việt Nam và Liên Xô (cũ) đã đào tạo tôi thành một cán bộ khoa học, các anh hùng, liệt sĩ, thương binh, các bà mẹ anh hùng, các chiến sĩ, nhất là các bạn cùng trang lứa, trong đó có các nhà giáo đi B và các nhà giáo kháng chiến trong vùng địch tạm chiếm, đồng bào đã hy sinh thân mình hoặc một bộ phận thân thể, đã chịu đựng những năm tháng biết bao gian khổ cực kỳ mà ngày nay không thể tưởng tượng nổi, cho nền độc lập, thống nhất Tổ quốc, cuộc sống hoà bình, an vui, hạnh phúc, cho nền giáo dục nhân dân, nền khoa học nước nhà từng bước sánh vai với bạn bè năm châu, bốn biển, như Bác Hồ hằng mong ước. Nước nhà không được như ngày nay, chắc khó có tác phẩm này. Tác giả hy vọng có đóng góp nhỏ, dù chỉ như hạt cát, giữ gìn và phát triển, phát huy các giá trị của dân tộc và con người Việt Nam. ́ Tôi đi từ giáo dục học, tâm lý học đến với giá trị học trong thời điểm nhấn mạnh hơn bao giờ hết đường lối “giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa nhân loại” và cũng là lúc trong xã hội, thang giá trị, định hướng giá trị, thước đo giá trị có những biến động mạnh, những thay đổi lớn lao, thậm chí có chỗ đảo lộn, gây nhiều bức xúc, băn khoăn, lo lắng có khi đến cay đắng, đau lòng từ trong nhà ra ngoài ngõ. Người người, nhà nhà quan tâm đến giáo dục, nhất là giáo dục đạo đức, nhân cách. Cuốn sách này mong được đáp ứng, dù phần nhỏ, vào công việc hết sức trọng đại này của dân tộc. Để làm được việc đó, vì là một công trình khoa học, nên lại phải đi từ ngọn nguồn, dù chưa có điều kiện, cả về thời gian cả về tư liệu, có khi cả trình độ cũng có chỗ hạn chế, thực hiện đến nơi đến chốn, mong bạn đọc thông cảm. Thế là một cuộc hành trình không ít gian nan bắt đầu từ tìm tòi xem ý tưởng “Giá trị con người” có tự bao giờ, ai là tác giả, ý tưởng đó phát triển qua vài mốc chính đến khoa học về giá trị hiện đại, quan tâm nhiều hơn tới hệ giá trị một số nơi trên thế giới – châu Âu, Mỹ, Đông Á, Đông Nam Á – bao gồm những gì và tác dụng của chúng đối với tiến bộ xã hội trở thành văn minh, giàu có - mục đích chính của cuốn sách nhỏ này. Cuộc hành trình muốn đến đích này, lại phải dừng lại một số vấn đề cơ bản, như đối tượng và cơ sở triết học của giá trị học, trải nghiệm là cơ chế tạo lập và vận hành của giá trị và thái độ giá trị. Một điều tác phẩm nhất thiết phải đề cập đến, dù chưa được như mong muốn, là tìm hiểu các giá trị chung của loài người và con người: Tính người, tình người, các giá trị “Chân, Thiện, Mỹ”, giá trị sống còn, giá trị lao động, quan hệ người - người, giá trị trách nhiệm xã hội... Tóm lại, giá trị học trình bày trong tập sách này là bước đi mới ban đầu ở nước ta, gắn bó mật thiết với các khoa học: - Đạo đức học, - Văn hoá chính trị học, - Nghiên cứu con người – Nhân học văn hoá, - Tâm lý học – Tâm lý học giá trị, - Giáo dục học – Giáo dục học giá trị. Nội dung sách này có thể hỗ trợ các khoa học kể ra ở đây. Ngược lại, tri thức của các khoa học này có phần trợ giúp đắc lực cho tiếp thu sách này. Nhưng công trình này không nhằm đơn thuần trình bày một số hiểu biết về giá trị học, mà, như tên gọi cuốn sách, chủ yếu nhằm mục đích cung cấp cơ sở lý luận để đúc kết và xây dựng Hệ giá trị chung của người Việt Nam trong thời đại công nghiệp hoá theo hướng hiện đại, mở cửa hội nhập với khu vực, với thế giới (nói gọn: Thời nay). Vạn sự khởi đầu nan, hy vọng, khó khăn ban đầu được khắc phục, công việc sẽ thu được kết quả. Tiếp nối truyền thống dân tộc, từng người, gia đình và cả xã hội... hơn bao giờ hết giáo dục vun xới giá trị bản thân và cộng đồng, nhất là các nhà chức trách, các tổ chức, doanh nghiệp... thực sự trọng dụng, phát huy giá trị của từng con người, để chúng ta có nguồn nhân lực, “vốn người” hoàn toàn đủ sức (trên thực tế chúng ta có đủ tiềm năng, như lịch sử dựng nước và giữ nước đã chứng minh) đồng thuận, đoàn kết đưa nước ta thành một nước văn hiến phát triển, độc lập, giàu có, dân chủ, an bình, hạnh phúc. Đây cũng là ước muốn của tác giả, như tất cả các bạn. Như trên đã nói, tác phẩm còn xa mới đạt mức hoàn thiện, chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Chỉ mong sao có bạn đọc và chờ đợi các bạn chỉ giáo những khiếm khuyết. Được vậy, tôi xin vô cùng cảm ơn! Hà Nội những ngày lịch sử năm 2010 TÁC GIẢ Bài mục thứ nhất Đi vào nghiên cứu giá trị học: Ý tưởng C và triển khai uốn sách này viết về Giá trị học là Khoa học về Giá trị. Bài mục này (mục lục sách không theo “Phần...”, “Chương...”, mà theo “Bài mục...”) trình bày “lịch sử” quá trình lao động viết nên công trình này. Trong quá trình viết luận án Tiến sĩ khoa học “Hành vi và hoạt động” ở khoa tâm lý học, trường Đại học Tổng hợp Lômônôsốp (1973-1977), tôi đã quan tâm đến Giá trị học - Khoa học về Giá trị. Nhưng hồi ấy ở Liên xô chưa cho phép trình bày suy nghĩ đó, mãi khi về nước, tại Hội thảo tâm lý học toàn quốc tổ chức năm 1978 tại Nha Trang, trong báo cáo khoa học “Tâm lý học và khoa học nghiên cứu con người” tôi mới có thể trình bày khẳng định: “... tâm lý học phải coi trọng giá trị và quy luật giá trị đang tồn tại một cách khách quan...”, coi đó là “nội dung cơ bản của cuộc sống thực, trong đó đời sống người nảy sinh và phát triển...”(1). Khi nghiên cứu Tâm lý học Hành vi ở Mỹ - nơi có nền kinh tế thị trường từ lâu và đã thu được nhiều thành quả phát triển kinh tế rất khả quan - tôi ngày càng thấy rõ việc nghiên cứu tâm lý người trong trường tác động của quy luật giá trị, chính là con đường nghiên cứu tâm lý, như Các Mác đã chỉ ra, của “... những cá nhân hiện thực..., hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ”(2). Tuy nhiên, cuối thập kỷ 70 và suốt thập kỷ 80 thế kỷ trước, tôi được giao một số đề tài nghiên cứu khoa học khác, nên chưa đi vào đề tài giá trị học được, ngoại trừ dịp tôi nhận làm Tổng chủ biên tập sách “Phương pháp luận nghiên cứu khoa học giáo dục” (Viện Khoa học Giáo dục, Bộ Giáo dục, 1981). Khi lập đề cương cho tập sách trên, tôi vẫn đeo đuổi ý tưởng đưa giá trị học vào khoa học giáo dục nên đã giao cho PGS. TS. Trần Tuấn Lộ viết một bài theo hướng này. Rất tiếc bài viết đó lại chủ yếu nói về các giá trị thẩm mỹ. Kể từ sau “Đổi Mới”, Đảng và Nhà nước ta mới quan tâm thực sự thích đáng (cả về lý luận và thực tiễn) đối với quy luật giá trị, được tính đến không phải chỉ trong lĩnh vực kinh tế, mà cả trong nhiều lĩnh vực khác, nhất là đối với con người. Chính sách sử dụng nhân lực đã tạo thêm cơ sở xã hội thôi tôi thúc suy nghĩ tìm cách triển khai ý tưởng nghiên cứu giá trị học. Rất may mắn, những năm 1989 và 1990 tôi được Uỷ ban Khoa học - Kỹ thuật Nhà nước (nay là Bộ Khoa học – Công nghệ) mời tham gia vào Tiểu ban chuẩn bị một số chương trình nghiên cứu khoa học, rồi tiếp đó làm Chủ nhiệm Chương trình khoa học – công nghệ Nhà nước (KHCN NN) KX-07 “Con người - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội” theo tư tưởng ghi trong Cương lĩnh của Đảng ta (1991). Phải nói thêm rằng đây là lần đầu tiên trong khoa học nước nhà có chương trình KHCN NN về con người: Cách tiếp cận mới với “nhân tố con người”, nhấn mạnh vai trò quan trọng của “nhân tố con người”. Với tư cách là Chủ nhiệm chương trình, tôi đề xuất 19 đề tài, được Ban chủ nhiệm chương trình nhất trí thông qua. Trong đó có đề tài về “Nhân cách”(3). Khi triển khai đề tài này cùng với đề tài “Phương pháp luận”, Chương trình đã vận dụng phương pháp tiếp cận giá trị học vào triển khai; đồng thời, có đề tài nhánh nghiên cứu “Định hướng giá trị nhân cách” và “Giáo dục giá trị” (một đề tài do PGS (nay là GS) TSKH. Thái Duy Tuyên, một đề tài do PGS. (nay là GS.) TS. Nguyễn Quang Uẩn phụ trách(4). Có thể nói, KX – 07 là công tình đầu tiên triển khai ý tưởng đi vào nghiên cứu khoa học về giá trị (giá trị học) ở Việt Nam và đã đạt được một số kết quả ban đầu. Trong đó, đặc biệt, đã nêu lên nhận định khái quát về những biến đổi rất đáng kể trong định hướng giá trị ở thanh niên ta (nhận định này lần đầu tiên được công bố trong sách “Vấn đề con người trong công cuộc đổi mới”, Phạm Minh Hạc, KX – 07, Hà Nội, 1994) và khẳng định một số giá trị chung của thế giới, như: Hoà bình, Phát triển, Dân chủ... và một số giá trị của dân tộc ta, như: Yêu nước, Cần cù, Hữu nghị... Giai đoạn những năm 2000-2006, theo tư tưởng bên cạnh cột trụ chính trị, cột trụ kinh tế, cột trụ xã hội, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh cột trụ “văn hoá, con người và nguồn nhân lực”. Chương trình ̀ KHCN NN “Phát triển văn hoá, con người và nguồn lực trong thời kỳ CNH, HĐH” do tôi làm Chủ nhiệm, có ba mảng: Văn hoá - Con người - Nguồn nhân lực, rất gắn bó với nhau và do đó phải có sự kết nối trong quá trình nghiên cứu. Chương trình đưa ra kết luận: từ giá trị văn hoá đến giá trị con người, cuối cùng ra giá trị nhân lực chứa đựng “lực lượng bản chất của con người” (Các Mác) là một dòng chảy - sức mạnh vô tận quan trọng nhất của nội lực dân tộc. Đây chính là ý nghĩa của giá trị học đối với cuộc sống, cũng như với chính trị học, ngày nay thường gọi là giá trị quan: vận dụng quan điểm giá trị vào văn hoá chính trị. Chương trình có cơ hội vận dụng phương pháp tiếp cận giá trị học vào tâm lý học khi dành hẳn một đề tài nghiên cứu “giá trị nhân cách” theo phương pháp thực nghiệm đang dùng rộng rãi trên thế giới, kết quả phản ảnh trong một tập sách khá dày(5) những số liệu và nhận định rất lý thú, phần nào được giới thiệu ở bài mục Tâm lý học giá trị trong tác phẩm này. Do những kết quả nghiên cứu về con người trong mười năm (1990-2000), nhất là với sự kiện ngày 20 tháng 9 năm 1999, Viện nghiên cứu Con người (NCCN) thuộc Viện Khoa học Xã hội (KHXH) Việt Nam, Dự án Điều tra Giá trị Thế giới (ĐTGTTG) - viết tắt là WVS - đã quyết định kết nạp Việt Nam vào Dự án ĐTGTTG. Với việc tham gia hai đợt điều tra vào năm 2001 và 2006 theo một phương pháp chung, tham gia một số hội thảo quốc tế trong khuôn khổ Dự án (có báo cáo khoa học) và công bố một số kết quả nghiên cứu trên sách và tạp chí quốc tế nên chúng tôi có thêm nhiều thông tin mới để cập nhật hơn về lý luận và phương pháp nghiên cứu. Nói theo ngôn ngữ thường nhật bây giờ, đề tài của chúng tôi đã “hội nhập” với thế giới. Thực ra, khoa học từ sau thời Cổ đại, đặc biệt từ giữa thiên niên kỷ trước, luôn luôn mang tính quốc tế. Ở ta, khoa học còn mới mẻ, chắc có thể tính từ sau Cách mạng tháng Tám hoặc chính xác hơn từ sau năm 1954. Từ lâu chúng ta đã nói về các giá trị di sản văn hoá - lịch sử - cách mạng, nhưng chủ đề Giá trị học, như trình bày trong sách này, mới được đề cập lần đầu tiên trong thời kì Đổi mới và mãi sang đầu thế kỷ XXI chúng tôi mới có điều kiện bước đầu tìm hiểu lịch sử khoa học này: Năm 2004 công bố bài đầu tiên và ̀ ́ phần lớn các bài mục trong tập sách này đã công bố trong 6 năm qua (2004 - 2010) trên tạp chí Nghiên cứu Con người, đôi bài trên tạp chí Giáo dục, Khoa học giáo dục, Tuyên giáo. Ngày 25 tháng 4 năm 2008 đánh dấu một mốc đáng ghi nhớ của công trình này: Theo sự phân công của Hội đồng lý luận Trung ương (HĐLLTƯ) và Viện KHXH Việt Nam, với tư cách nguyên là Viện trưởng Viện NCCN, tôi được trình bày báo cáo khoa học “Vấn đề xây dựng con người và nguồn nhân lực: Quan niệm, chính sách” với Bộ Chính trị. Báo cáo rút ngắn đã được HĐLLTƯ in trong một tập sách(6) và Viện NCCN đăng tải trong sách nhân dịp kỷ niệm 10 năm ngày thành lập Viện(7). Trong phần cuối của báo cáo chúng tôi đề xuất và kiến nghị Đảng và Nhà nước công bố đúc kết Hệ giá trị Việt Nam. Được chính thức báo cáo như vậy đối với chúng tôi hết sức có ý nghĩa: đó là đã có “đầu ra” (phục vụ xã hội) có ý nghĩa quan trọng nhất đối với công trình khoa học – điều mà ai trong giới khoa học cũng mong muốn. Triển khai kết luận của Bộ Chính trị, tháng 9 năm 2008, Viện KHXH VN đã giao cho tôi đề tài NCKH cấp Bộ “Những luận cứ khoa học của việc xây dựng Hệ giá trị chung của người Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập dưới tác động của toàn cầu hoá”, thực hiện trong 2 năm 2009 và 2010, theo đó tập trung vào cơ sở lý luận, chủ yếu sử dụng các cứ liệu của các chương trình, đề tài kể trên và chỉ điều tra định tính bổ sung cứ liệu cần thiết. Đề tài đã tạo điều kiện giúp tôi hoàn tất bản thảo cuốn sách này; mạnh dạn đề xuất đúc kết, xây dựng Hệ thống giá trị chung của Việt Nam thời nay; thử đưa ra một phương án để xin ý kiến rộng rãi, phát huy tác dụng của Giá trị học, hy vọng có đóng góp - dù rất nhỏ nhoi - vào giữ gìn và xây đắp nền tảng tinh thần của dân tộc, từng cộng đồng..., đặc biệt, giáo dục giá trị cho thế hệ trẻ, làm sao mỗi người đều tự mình, cũng như nhà trường, gia đình, xã hội giúp từng người kiến tạo nên những giá trị bản thân – giá trị nhân cách: Tâm lực, trí lực, thể lực; Phát huy các giá trị này, đồng thời (yêu cầu này rất quan trọng) cộng đồng xã hội tạo môi trường (điều kiện) lành mạnh cho mọi người tạo lập và sử dụng các giá trị bản thân: Quý trọng con người, đề cao, tận dụng giá trị con người (nguồn nhân lực - vốn ́ ̀ ̀ người), nhất là trọng dụng nhân tài - đầu tàu của nguồn nhân lực, tạo nên cuộc sống an bình, thịnh vượng, hạnh phúc. Đóng góp nhỏ bé này, nếu thực hiện được, là mục tiêu tối thượng của tập sách và nói chung, của cả cuộc đời làm khoa học của tác giả. Lời nói đầu tiên không thể thiếu: tự đáy lòng tôi muốn được bầy tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới các đồng chí lãnh đạo Đảng, các cán bộ quản lý khoa học nước nhà, các cơ quan chủ trì chương trình, đề tài cùng các bạn đồng nghiệp cộng tác trong các chương trình, đề tài do tôi phụ trách, các nhà xuất bản, các tạp chí đã công bố các sản phẩm của tôi trong suốt 20 năm qua (1990 - 2010) - nhờ vậy mà hôm nay có tác phẩm này. Giá trị học là một lĩnh vực khoa học rất phức tạp, khá nhạy cảm, đặc biệt trong thời gian này, lại là một chủ đề mới đối với tôi, nhiều chỗ có tính chất nêu vấn đề hơn giải quyết vấn đề. Cho nên không tránh khỏi thiếu sót, rất mong các bạn gần xa chỉ giáo. TÀI LIỆU THAM KHẢO (TLTK) 1. Phạm Minh Hạc. Tuyển tập tâm lý học. tr.493, tr.647, NXB. Giáo dục (GD), Hà Nội (HN), 2001; NXB. Chính trị quốc gia (CTQG), HN, 2005. 2. Các Mác và Ph. Ăngghen. Toàn tập, t.3, tr.28. NXB. CTQG, HN,1995. 3. Phạm Minh Hạc. Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào CNH, HĐH. NXB. CTQG, HN, 2001. 4. Thái Duy Tuyên (Chủ biên), Lê Đức Phúc, Nguyễn Đức Uy, Đặng Thành Hưng, Nguyễn Đức Thạc, Nguyễn Thanh Hoàn, Nguyễn Thế Hùng. Giá trị Định hướng giá trị - Sự biến đổi định hướng giá trị con người Việt Nam hiện nay (tư liệu). KX-07-10.HN, 1993. Phạm Minh Hạc. Vấn đề con người trong công cuộc đổi mới. KX- 07, HN, 1994. Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Thạc, Mạc Văn Trang. Giá trị - Định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị. KX- 07 – 04, HN, 1995. 5. Phạm Minh Hạc (Chủ biên), Vũ Thị Minh Chi, Nguyễn Văn Huy, Lê Thanh Hương, Phạm Mai Hương, Đào Thị Minh Hương, Nguyễn Công Khanh, Lê Đức Phúc. Nghiên cứu giá trị nhân cách theo phương pháp NEO PI-R cải biên. NXB. Khoa học xã hội (KHXH), HN, 2007. 6. Hội đồng lý luận Trung ương. Những vấn đề lý luận và thực tiễn mới đặt ra trong tình hình hiện nay. Tập I. NXB. CTQG, HN, 2008. 7. Mai Quỳnh Nam (Chủ biên). Con người, Văn hoá - Quyền và phát triển. NXB. Từ điển bách khoa, HN, 2009. Công trình 20 năm 1991 - 2010 --------------- 3 Chương trình KHCN NN 1 đề tài cấp Bộ: Kết quả bước đầu Bài mục thứ hai Giá trị quan và cuộc sống: Tính thời sự G và khả năng ứng dụng iá trị quan, nói đơn giản nhất, là quan điểm giá trị, nói cụ thể hơn, là cách nhìn nhận vấn đề dưới góc độ giá trị, giải quyết vấn đề xuất phát từ giá trị, nhằm mục tiêu giá trị, từ cấp độ con người đến cấp độ cộng đồng, quốc gia – dân tộc... “Thời nay”, như trên đã nói, chỉ thời kỳ Đổi mới, thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, mở cửa hội nhập của nước ta, trên phạm vi rộng hơn và thời khắc những năm đầu thế kỷ XXI (thế kỷ mới). Bài mục này nhằm nêu lên tính thời sự (cũng có thể nói tính thời đại) của giá trị học, tuy nhiều bài mục đề cập những vấn đề hết sức cơ bản sẽ trình bày ở dưới, nhưng đều mang tính ứng dụng ở các cấp độ khác nhau. Một trong những nét nói lên tính thời sự, tính ứng dụng của giá trị học là ở chỗ, như các khoa học có liên quan đã chỉ ra, được coi là một bộ phận của Văn hoá chính trị trong chính trị học, nói đến cách ứng xử lịch sự, ân cần, khoa học của các cấp lãnh đạo, quản lý, các nhà chính trị theo phương pháp tiếp cận giá trị (theo hệ giá trị, thang giá trị, thước đo giá trị, định hướng giá trị). Ví dụ tiêu biểu về văn hoá chính trị có thể nêu 6 điều Tư cách người Công an được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong thư gửi Công an Khu 12, ngày 11 tháng 3 năm 1948 (Văn hoá chính trị Hồ Chí Minh). “Văn hoá chính trị” mới xuất hiện khoảng 3 thập kỷ nay. Khi cuộc cách mạng công nghệ thông tin bước vào giai đoạn phát triển rực rỡ, mang lại những biến đổi xã hội sâu sắc: một nền kinh tế mới, trình độ khoa học – công nghệ khác hẳn, dân trí cao hơn trước nhiều, cơ cấu xã hội biến đổi với sự tham gia của các giai tầng, các công dân vào quản lý và lãnh đạo xã hội, đòi hỏi ngày càng phải mở rộng dân chủ, bảo đảm nhân quyền và dân quyền, thì, ́ ̀ ́ ́ người ta bắt đầu nói đến một “kinh tế tri thức”, xã hội học tập, xã hội tri thức - vị trí của tri thức đang bước sang một thời kỳ vinh quang mới, bước lên đỉnh của “tam giác vàng quyền lực”(1). Một văn hoá chính trị mới ra đời trong thời đại mới: tư duy mới về quyền lực, phải hình thành mới quá trình sáng tạo, cải tiến, vận động chính trị. Văn hoá chính trị thời nay bao gồm yếu tố giá trị học bên cạnh yếu tố nhận thức (đường lối) và yếu tố cam kết (quyết tâm, kiên định) chính trị. Hệ giá trị dân tộc, từng ngành, từng tổ chức là cốt lõi văn hoá, chuẩn mực đạo đức của cả quốc gia, từng ngành, từng tổ chức, bảo đảm “nền tảng tinh thần”(2) của toàn bộ công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, thực hiện sứ mệnh “mục tiêu nhiệm vụ” của từng ngành, từng tổ chức, phát triển bền vững con người và nguồn nhân lực nói chung. Người quản lý, lãnh đạo phải là người tiêu biểu cho Hệ giá trị và có năng lực điều hành sự vận động Hệ giá trị theo hướng tạo ra sức mạnh thực hiện mục tiêu của tổ chức, của đất nước. Qua đó, củng cố, xây dựng, phát triển niềm tin của từng thành viên, cả cộng đồng và toàn xã hội. Niềm tin là một giá trị hết sức quan trọng trong tâm lý con người. Niềm tin vào bản thân, vào tương lai và niềm tin vào chế độ xã hội, vào tổ chức, cơ quan... và lòng tự hào dân tộc, gắn bó với Tổ quốc có quan hệ qua lại rất chặt chẽ, nâng đỡ nhau, hỗ trợ nhau. Ở đây có cả vấn đề quyền con người, quyền công dân, nói chung là vấn đề dân chủ. Ngày nay, khắp nơi đều đặt dấu nhấn vào vấn đề này trong văn hoá chính trị, một cơ sở cực kỳ quan trọng tạo nền đồng thuận trong cơ quan, doanh nghiệp và cả nước đoàn kết, đại đoàn kết thành “vốn người”, “vốn xã hội” là những điều kiện cực kỳ quan trọng bảo đảm đất nước phát triển bền vững. Để thấy vị trí của giá trị học, điểm qua giá trị quan thời nay, cụ thể xem các nhà chính trị, lãnh đạo có quan điểm về giá trị, vận dụng phương pháp tiếp cận giá trị vào hoạt động của mình như thế nào. Ở ta, ngày 27 tháng 4 năm 2010, Đại hội Đại biểu toàn quốc Hội Liên hiệp Thanh niên VN đã nêu nhiệm vụ giáo dục chuẩn mực đạo đức và làm tốt định hướng giá trị cho thanh niên(3); ngày 29 tháng 5 năm 2009, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã khuyên học viên của Học viện Hành chính: “Bên cạnh việc học tập nâng cao trình độ, ̀ ̀ tôi mong các đồng chí đặc biệt chú trọng trau dồi tư tưởng, đạo đức của người cán bộ, như Bác Hồ dạy là thật thà, trung thực, liêm chính. Đó là thước đo nhân cách của mỗi con người trong gia đình, ngoài xã hội, ở mọi quốc gia, trong mọi thời đại. Đó cũng là thước đo giá trị, phẩm chất cơ bản của người cán bộ, của cơ quan quản lý Nhà nước, của nền hành chính Nhà nước”(4); tiếp tục truyền thống “Ba sẵn sàng” Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh thành phố Hà Nội đã nêu hướng phấn đấu theo 8 giá trị cốt lõi: “Mỗi bạn trẻ Thủ đô thời đại mới, đó là: Trung thành, sáng tạo, khát vọng, dấn thân, tôn trọng và trách nhiệm...”(5); Báo Tuổi trẻ (Ngày 3 tháng 5 năm 2010) cũng đã nêu thuật ngữ “giá trị bản thân” con người. Ở nước ngoài, trong chính trị, phương pháp tiếp cận giá trị học phổ dụng hơn. Ví dụ, sau chiến tranh Lạnh (sau 1991), Nhật Bản có khuynh hướng “bản vị giá trị” chú trọng đề cao 5 giá trị: Tự do, dân chủ, nhân quyền, kinh tế thị trường và pháp quyền; coi việc bảo vệ và truyền bá các giá trị đó - thành tựu quý giá từ thời Minh Trị - là “lợi ích quốc gia cơ bản của Nhật Bản” và đặt chính sách “Ngoại giao giá trị quan” – “Ngoại giao hướng về giá trị”(6a) vào tầm cao chiến lược, lấy các giá trị đó làm một trong những tư tưởng chỉ đạo xây dựng Cộng đồng Đông Á, thậm chí có ý đồ tạo nên một “Liên minh giá trị quan” gồm Nhật - Mỹ - Ôxtrâylia - Ấn Độ(6b). Chính trị, ai cũng biết, rất phức tạp: Gần đây chính quyền Tôkyô đang đặt lại quan điểm ngoại giao này. Năm 2010, một học giả nổi tiếng ở Nhật cho ra một cuốn sách nhỏ với tiêu đề “Hướng tới một thời đại mới của sự sáng tạo giá trị”. Còn ở Mỹ tình hình có khác. Cũng như trước đây, có tới hàng thế kỷ, ngày nay chính giới Mỹ cũng rất hay nói về Hệ giá trị Mỹ (xem bài mục thứ mười chín). Trong tranh cử Tổng thống nhiệm kỳ này, ứng viên Ôbama đã nói: “Chúng ta có thể trung thành với các giá trị của mình và nhờ đó, thúc đẩy các giá trị đó ở nước ngoài”(7a). Trong các bài nói sau này, ông ta cũng hay theo cách tiếp cận giá trị(7b). Theo tinh thần đó, nhiều chính khách một số nước đôi khi cũng lên tiếng khẳng định, chẳng hạn như Tổng thống Pháp N. Sarcôzy đã nói: “Với một thế giới chìm trong rối loạn và hoài nghi, thì người Mỹ vốn tin tưởng vào những giá trị bấy lâu nay định hình nên bản ́ sắc Mỹ, đã thể hiện lòng tin của họ trong giai đoạn hiện tại và tương lai. Vào thời điểm mà chúng ta phải cùng nhau đối mặt với những thách thức to lớn, cuộc bầu cử của các bạn (ở Mỹ - PMH chú thích) đã tiếp hy vọng cho Pháp, Châu Âu và hơn thế nữa”(8), chính nước Pháp lo phục hồi 4 giá trị: Lao động, trí tuệ, tài năng và trách nhiệm. Singapo rất quan tâm đến thái độ giá trị của thế hệ trẻ(9). Trung Quốc đang “tập trung vào các giá trị ổn định truyền thống”(10), Thế vận hội Bắc Kinh 2008 được gọi là Thế vận hội của các giá trị nhân văn, Đảng Cộng sản Trung Quốc chủ trương xây dựng Hệ giá trị XHCN (xem bài mục thứ hai mươi). Nhà lãnh đạo Nga bây giờ cũng tiếp nhận cách tiếp cận giá trị: “Trong thế kỷ XXI đất nước chúng ta (nước Nga – PMH bị chú) một lần nữa cần phải hiện đại hoá toàn diện. Và đây sẽ là kinh nghiệm hiện đại hoá đầu tiên trong lịch sử đất nước dựa trên giá trị và thể chế dân chủ”(11). Gần đây, ở Mỹ có tác giả đưa ra thuyết “thực lực mềm” (bên cạnh “thực lực cứng”), “thực lực cứng” gồm kinh tế và quân sự, còn “thực lực mềm” gồm quan niệm giá trị và quan niệm giá trị được coi là nền tảng của nước Mỹ; tác giả này nhận định: “Quyền lực mềm” của Mỹ đang xuống dốc(12). Liên Xô sụp đổ (1991) có một nguyên nhân rất hệ trọng là không chú ý thoả đáng “vấn đề con người” và giá trị bản thân con người(13). Trong “Tổng quan về các giá trị trong thế kỷ XXI” công bố tháng 2-2008 đã điểm qua văn bản “Những xu hướng toàn cầu năm 2025: Một thế giới đã đổi thay” do CIA Mỹ biên soạn, một số tác phẩm khác nói về triển vọng của thế kỷ XXI, như “Bản đồ mới của Lầu Năm Góc: Hoà bình và chiến tranh thế kỷ XXI”, sách xanh về hành động: “Sáng tạo một Thế giới mới”(14) đều theo cách tiếp cận giá trị. Sau khi tình hình thế giới, như hệ thống đa cực, nhóm G20, các khu vực, các điểm nóng ở Trung Đông, Nam Á, chủ nghĩa khủng bố..., các công trình đã nói tới: (1) Các “Giá trị tập thể” (quyền lực, mâu thuẫn bộ lạc và Chính phủ Trung ương, tình hình ổn định và trật tự xã hội ở Nga và Trung Quốc); (2) “Giá trị cá nhân” bao gồm (a) Doanh nghiệp của các nền kinh tế thị trường tự do ở Mỹ và Anh có thể dẫn đến khủng hoảng tài chính, tuy qua phát triển doanh nghiệp mà lần đầu tiên có được hệ giá trị coi cá nhân giữ vai ́ trò trung tâm thúc đẩy phát triển đất nước, coi đây đúng là quan điểm thực dụng, nhưng mang lại tác dụng tích cực; và (b) Sinh thái và môi trường chủ yếu nêu vấn đề qua Cộng đồng Châu Âu (EC) và các nước Bắc Âu cũng là các nước coi trọng tự do cá nhân như các nước Mỹ, Anh nêu trong mục (a), nhưng ít thực dụng hơn, có thể mang lại tác dụng tích cực hơn; và (3) “Giá trị tích hợp” bao gồm giá trị “cùng hành động” một cách tiếp cận tích hợp các loại giá trị, để giải quyết các vấn đề toàn cầu phức tạp ngày nay. Chứng tỏ rằng giá trị học (cách tiếp cận giá trị) ngày càng được sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội, kéo theo ngày càng quan tâm đến khoa học này. Bài học lịch sử của dân tộc ta là: Dòng chảy giá trị từ văn hoá, con người tới nguồn nhân lực tạo nên sức mạnh dân tộc trường tồn. Ý nghĩa của giá trị học chính là ở chỗ đó. Kết quả của các chương trình KHCN NN trong 20 năm qua, như đã điểm qua một phần ở trên, đã đi đến kết luận: Các vấn đề văn hoá, con người và nguồn nhân lực rất gắn quyện với nhau. Các giá trị vật chất cùng với giá trị tinh thần (văn hoá) do con người tạo ra thông qua giáo dục và tự giáo dục trở lại với con người tạo ra giá trị bản thân (giá trị nhân cách) của con người, đó là sức mạnh ở con người cũng như nhóm, tập thể, lao động (suy rộng ra là của dân tộc...) thành vốn người, nguồn lực con người (nguồn nhân lực) tạo ra giá trị mới, đáp ứng nhu cầu của từng cá nhân, nhóm, tập thể lao động, sản xuất, kinh doanh... phát triển đất nước: Văn hoá, con người (giá trị bản thân), nguồn nhân lực quyện lại thành một dòng chảy sức mạnh trường tồn dân tộc. Vấn đề nguồn lực là một trong những vấn đề nổi cộm nhất khi loài người bước vào thời đại phát triển mới và ở nước ta - CNH, HĐH, mở cửa, hội nhập quốc tế. Trên thế giới, các nhà nghiên cứu đang xem lại sự phát triển nguồn nhân lực dưới góc độ giá trị học từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (bắt đầu từ thế kỷ XVIII), qua cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai (bắt đầu từ thế kỷ XIX) và đi vào thời đại mới ngày nay như thế nào(15). Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững... Con người và ̀ ́ ́ ́ nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ CNH, HĐH...”(16). Nói tới nguồn nhân lực, theo nghĩa đầy đủ, là nói tới nguồn lao động, đội ngũ lao động, nói chung lại là nói tới vốn người - tổng giá trị con người của cộng đồng, xã hội đang được phát huy tác dụng(17). Từ lâu, người Việt đã rất chú ý giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống văn hoá - lịch sử. Công việc này được đánh giá cao và thực sự mang lại tác dụng tốt, đóng góp rất quan trọng trong quá trình dựng nước và giữ nước. Xây dựng chiến lược đi vào thế kỷ XXI, nhiều nước đã nêu vấn đề đặt lợi ích giá trị là khát vọng của dân tộc mình. Hai thập kỷ qua, chúng ta chứng kiến việc có thêm nhiều công trình trong lĩnh vực này. Năm 1995, Uỷ ban Giáo dục – Khoa học – Văn hoá (UNESCO) và Quỹ Nhi đồng (UNICEF) của Liên Hiệp Quốc đã chủ trương giáo dục Giá trị sống, nhiều nước đã tích cực triển khai. Xem vậy, khoa học giá trị đang đi vào cuộc sống ngày càng rộng khắp như thế nào. Việt Nam cũng tích cực hưởng ứng với việc gần đây có một số hội thảo, đề tài nghiên cứu về chuyên đề giá trị17, báo chí cũng đã nêu vấn đề định hướng giá trị cho thanh niên theo “những chuẩn mực giá trị chung của xã hội”(18). Ở một số nơi công cộng, như nhà ga, sân bay, bảng quảng cáo đã nêu mục tiêu vì “giá trị sống”; có bài viết với tiêu đề “câu chuyện niềm tin về giá trị sống”, đưa ra 5 “giá trị cốt lõi”: Tri thức, lao động, tình yêu, công bằng, trung thực(19). “Giá trị sống” ở mỗi người, chúng tôi gọi là “giá trị bản thân”. Nhưng đến nay, chưa có văn bản nào về giá trị chung của nước ta. Vấn đề đặt ra cho chúng ta ở đây là thúc đẩy vận dụng phương pháp tiếp cận giá trị vào đời sống, nghiên cứu khoa học về văn hoá chính trị, trước mắt nêu lên nhiệm vụ đúc kết, xây dựng Hệ giá trị chung của người Việt Nam thời nay. Cuốn sách này mong có đóng góp nhỏ vào phát triển bền vững con người, giáo dục đạo đức, giữ gìn bản sắc dân tộc, an sinh xã hội, đất nước an bình, thịnh vượng. Đây chính là mục tiêu của tác phẩm. Tìm hiểu lịch sử khoa học về giá trị có thể giúp ích cho công việc này. TÀI LIỆU THAM KHẢO ̀ ̀ 1. Alvin Tofler. Thăng trầm quyền lực. Tr.31-36. NXB. Thông tin lý luận, Ban KHXH. TP Hồ Chí Minh, 1990. 2. Ban Chấp hành TƯ ĐCSVN. Nghị quyết kỳ họp lần thứ 5, khoá VIII 3. Nông Đức Mạnh. Bài phát biểu tại Đại hội lần thứ VI của Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam ngày 27-4-2010. Theo Truyền hình Việt Nam, Chương trình thời sự 19 giờ cùng ngày. 4. Nguyễn Minh Triết. Bài phát biểu tại Lễ kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Học viện Hành chính (29-5-2009). 5. Ngọ Duy Hiểu. Diễn văn kỷ niệm 45 năm phong trào “Ba sẵn sàng” và 10 năm phong trào “Thanh niên tình nguyện” do Thành đoàn TNCS Hà Nội tổ chức ngày 9 -8- 2009. 6. a-Asia News, 9-2006 b- Bản tin tham khảo đặc biệt (BTTKĐB), Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN), 28- 1- 2008 7. a- -nt- , 9- 9- 2008 b- -nt- 13- 11- 2009 c- Daisaku Ikêda. Tiến tới một thời đại mới của việc sáng tạo giá trị. 26-1-2010. Soka Gakkai xuất bản (tiếng Anh) 8. Báo Tuổi trẻ, 5- 11-2008 9. Báo Tuổi trẻ, 1- 9- 2007. Bài “Cây đũa thần của ông Lý”. 10. BTTKĐB TTXVN, 11 -7- 2008 11. –nt- 22-11- 2009 12. –nt-25 -4 - 2010 13. Martin Mccauley. Quyền lực Gorbachev. Bản tiếng Anh – 1998. Bản tiếng Việt do Mai Hạnh Dung dịch. NXB. Công an nhân dân, HN, 2009. 14. Alan Tonkin. Các giá trị trong thế kỷ XXI: Quan điểm tích hợp. Tạp chí Lãnh đạo tích hợp. Dưới đề mục “Cập nhật các giá trị toàn cầu. Tháng 1 - 2009” 15. Pitơ Đrơcơ (Mỹ). Con đường phía trước: Lực lượng lao động mới. Tạp chí Nhà kinh tế, số 3, tháng 11 – 2002. Hạnh Tâm dịch. 16. Văn kiện ĐH Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB. CTQG, Hà Nội, 2010, tr.108, 201. 17. Huỳnh Văn Sơn (Chủ nhiệm đề tài mã số B 2007. 19.27). Sự lựa chọn các Giá trị đạo đức nhân văn trong định hướng lối sống của sinh viên ở một số trường đại học TP. Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay. 18. Báo Thanh niên, 10- 5 -2007. 19. Nguyễn Thế Thanh. Câu chuyện niềm tin về giá trị sống. Báo Tuổi trẻ, 25-6-2010. Giá trị của Giá trị học: Văn hóa - Lịch sử ↓ GIÁ TRỊ SỐNG Giá trị bản thân → Giá trị cộng đồng ↓ Nguồn nhân lực Dòng chảy sức mạnh trường tồn dân tộc Bài mục thứ ba Tìm hiểu khoa học về giá trị 1. Cần nghiên cứu giá trị Trong các thời điểm bước ngoặt mở ra một thời đại mới trong nền văn minh của loài người, chẳng hạn thời Cổ đại, cách đây khoảng 25 – 30 thế kỷ, bước ngoặt mở đầu lịch sử khoa học, các nhà bác học ở phương Đông và phương Tây đã nêu ra những giá trị cao đẹp để nhân loại duy trì và hướng tới tương lai, đặt nền móng cho khoa học về giá trị. Những giá trị này, như sẽ trình bày ở dưới, đã là ngọn cờ nhân văn dẫn dắt các dân tộc trên hành tinh này vượt qua mọi khó khăn, trở ngại qua thời gian để xây đắp nên lịch sử văn minh trên Trái Đất. Rồi qua thời Phục Hưng, mở đầu thời đại cơ khí hoá, công nghiệp hoá, đặc biệt đến thế kỷ XIX - XX, khi nền công nghiệp phát triển đến đỉnh cao, khoa học về giá trị được hình thành rõ rệt với những bước phát triển mới giúp xã hội có thêm một công cụ làm cơ sở cho cách nhìn nhận cuộc đời của bản thân và xung quanh, định hướng hành động thúc đẩy sự phát triển con người làm được các công việc có ích cho mình và cho đời. Có bước ngoặt mở ra thời cơ phát triển và cũng có bước ngoặt vượt qua thách thức, nguy cơ. Như vào cuối nửa đầu thế kỷ XX, lúc mà loài người đứng trước nguy cơ huỷ diệt của chủ nghĩa phát xít, khi đó khoa học về giá trị có một bước phát triển quan trọng, được coi là bắt đầu nền khoa học giá trị hiện đại. Bây giờ đến thời kỳ chúng ta, thời điểm lịch sử giao thời giữa 2 thế kỷ, mở đầu thiên niên kỷ mới với những thành tựu khoa học vĩ đại kéo theo biết bao đổi thay to lớn trong đời sống. Trong đó, có những thay đổi trong hệ giá trị, thang giá trị, thước đo giá trị, định hướng giá trị. Về phương diện này, các nhà nghiên cứu giá trị ở nhiều nước đã phải thốt lên những nhận xét sửng sốt, đau lòng, như tác giả của cuốn sách “Giá trị học, lý thuyết về giá trị” đã ́ ́ viết: “Thời đại hiện nay là thời đại lộn xộn, thời đại của những mất mát lớn, chiến tranh và xung đột liên tục, khắp nơi trên toàn cầu đầy rẫy các hiện tượng đồi bại như: nạn khủng bố, phá hoại, hoả hoạn, lừa gạt, giết chóc, ma tuý, rượu chè, dâm ô, gia đình tan vỡ, phá hoại công lý, tham ô, đàn áp, cướp bóc, vu khống. Cảnh lộn xộn đã làm mất rất nhiều tài sản giá trị nhất của loài người, mất lòng tin giữa con người với con người, giảm uy tín của cha mẹ, của nhà giáo, giảm uy thế của chính quyền, coi thường nhân phẩm, miệt thị truyền thống, coi thường giá trị của cuộc đời. Người ta cảm thấy thế giới đạo đức ngày càng hoang vu”. Tác giả các dòng này nhận định nguyên nhân của tình hình là do các quan điểm giá trị truyền thống bị sụp đổ, cụ thể là không còn coi chân, thiện, mỹ là các giá trị cao cả nữa, nhất là quan điểm về cái thiện, về đạo đức, về luân lý đã mất mát đi nhanh quá. Đúng đây là một điều đáng phải suy ngẫm. Có phải các quan điểm giá trị truyền thống đã sụp đổ? Nếu có, thì vì sao? Hay là thời đại thay đổi, giá trị truyền thống cũng thay đổi? Cũng có thể đặt một câu hỏi nữa: hay hệ giá trị thay đổi, tức là tâm lý thay đổi, tạo nên niềm tin tôn giáo rằng, “trời” không còn có tác dụng tinh thần như xưa? Tất nhiên, nếu tình hình là như vậy, đây có thể chỉ là một trong những nguyên nhân hoặc chỉ là một cách nói, nhất là vận vào hoàn cảnh của nước ta, thì lại càng không phải như vậy. Nguyên nhân của các hiện tượng xã hội vừa kể ở trên phải tìm trong thực tiễn xã hội cụ thể dưới ánh sáng của duy vật lịch sử. Chương trình KX-07 đã chỉ ra rằng đây là một trong những vấn đề thời sự của xã hội, nhưng trong thời gian trước đó lại bị xem nhẹ, không được nghiên cứu mấy, công luận ít nói tới. Bây giờ tình hình nổi lên là thang giá trị bị đảo lộn, có tình trạng khủng hoảng, nhiều biểu hiện suy thoái và có người cho rằng đó là bi kịch. Đúng là đường lối đổi mới đã và đang mang lại biết bao thành tựu tốt đẹp cho nhân dân, cho đất nước, nhưng cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc, nóng bỏng, trong đó có vấn đề giá trị, nhất là giá trị phẩm chất, nhân cách. Nghiên cứu về vấn đề này gọi là giá trị học với bộ máy khái niệm công vụ: (1) Hệ giá trị là các giá trị của một tập hợp người như dân tộc, thế giới, vùng, gia đình, bản thân...; (2) Thang giá trị là sự sắp xếp các giá trị theo một thứ bậc nhất định; (3) Thước đo giá trị là đánh giá đối tượng theo một (hoặc một số) giá trị nào đó; (4) Định hướng giá trị lấy hệ, thang, thước đo làm ́ ́ ́ mục đích phấn đấu, tiến thân, đường đời - một nội dung cơ bản của giáo dục giá trị, giáo dục đạo đức, luân lý, văn hoá (thuần phong mỹ tục), kỷ cương. Hệ giáo dục dân tộc (cả bản thân, cộng đồng...) nói lên tinh thần dân tộc, bản sắc dân tộc, đạo lý dân tộc. 2. Tư tưởng giá trị học thời Cổ đại Thời cổ đại, chưa có điều kiện tìm hiểu một cách đầy đủ về khoa học nghiên cứu giá trị, mà mới giới thiệu sơ lược một vài vấn đề về lịch sử của khoa học này: Ý tưởng khởi đầu về giá trị, tách nghiên cứu giá trị thành một bộ môn khoa học, v.v... Lịch sử giá trị học bắt đầu từ Pơrôtago (481 - 411 TCN), nhà triết học Hy Lạp Cổ đại, đã nói một câu nói được coi là viên gạch đầu tiên của khoa học về giá trị: “Con người là thước đo của mọi sự vật” được các nhà học giả hậu sinh biểu đạt bằng các cách nói khác nhau: “Con người là giá trị cao nhất trong mọi giá trị” hay “Con người là giá trị của mọi giá trị”. Nói một cách đơn giản, từ khi có con người lý trí với cái tên khoa học là “Homo Sapiens” mới có các thứ được coi là giá trị, mặc dù giá trị bao giờ cũng chứa đựng sẵn trong các vật thể, các sản phẩm của thiên nhiên cho con người cũng như do chính con người tạo ra. Từ đây trí tuệ, lý trí được coi là một trong những nguồn tạo ra giá trị. Nhưng trình độ lý trí nói riêng, trình độ tâm lý, tinh thần nói chung, phải phát triển đến một mức độ nhất định con người mới xuất hiện như là chủ thể, khách thể, quan hệ người - người, quan hệ mình với chính bản thân và khi đó mới có sự đánh giá, nhận xét, công nhận cái gì có ích, có ý nghĩa. Đấy là nguồn gốc của giá trị. Chỉ có con người và cộng đồng người mới có hệ giá trị, thang, thước đo, định hướng giá trị. Từ thời Cổ đại, tư tưởng triết học phương Đông cũng như phương Tây đã đi đến ba giá trị tổng quát nhất là chân, thiện, mỹ. Về sau một số tác giả thêm vào một giá trị tinh thần tổng quát nữa là tình yêu. Về sau nữa Friedrich Nietzch (1844 - 1900), nhà triết học Đức cũng đã đi đến kết luận rằng có “giá trị chung của giá trị” gọi là giá trị gốc. Từ các giá trị ấy mà xây dựng nên hệ giá trị, định hướng giá trị, thước đo giá trị, thang giá trị cho các thời sau này của các cộng đồng dân tộc, vùng miền, đất nước, nhân loại. 3. Giá trị học Cổ điển Giá trị tinh thần chứa đựng trong các thái độ của con người đối với một hiện tượng, một phong trào, ta có thái độ giá trị. Thái độ này được biểu đạt qua các phán đoán. Học thuyết của Immanuel Kant (1724 - 1804), nhà triết học lỗi lạc Đức có vai trò đặc biệt quan trọng đối với giá trị học. Trong tác phẩm “Phê phán sự phán đoán” (1790), Kant đã phân biệt ra ba loại phán đoán: - Phán đoán khách quan, - Phán đoán chủ quan, - Phán đoán về gu thẩm mỹ. Phán đoán khách quan nói lên đặc điểm của sự vật, ví dụ: “Cái nhà này màu vàng”. Hai là phán đoán gắn với thái độ giá trị là phán đoán chủ quan nói lên sự cảm nhận của chủ thể, ví dụ: “Cái áo này đẹp, tôi thích mua”. Loại phán đoán thứ ba vừa mang tính khách quan, vừa mang tính chủ quan, nói lên trải nghiệm (xem bài mục thứ bảy) chỉ có ở chủ thể biểu đạt phán đoán đó, đồng thời cũng có thể gặp ở người khác có cùng phán đoán đó, nếu người đó cũng chú ý tới đặc điểm khách quan đó của vật thể. Trải nghiệm trong đời sống con người là một khái niệm có ý nghĩa đặc biệt trong khoa học về giá trị, cùng với khái niệm phán đoán của trải nghiệm đời sống con người. Kant viết: Trải nghiệm “bay nhảy tự do” trong tưởng tượng của người mang trải nghiệm đó, nó tổng hợp cả tri giác (cảm tính) lẫn quan niệm (tâm lý). Với phân loại phán đoán và lý luận về trải nghiệm này, ông được coi là người sáng lập ra giá trị học. Sau này, Nietzche đã tán thưởng luận điểm này của Kant, cho rằng chính nhờ trải nghiệm “bay nhảy tự do” mới tạo ra được các quan niệm về giá trị, làm tăng sức mạnh tinh thần của con người, phát triển con người, tạo ra khả năng mới cho hoạt động của con người - đưa ra một lý thuyết về giải phóng tiềm năng con người. Nói “con người là thước đo của mọi sự vật” cũng còn có ý là mỗi người có một cách đánh giá và như vậy, như đã nói ở trên, cũng đặt ra phạm trù chủ quan – khách quan, từ đây nảy sinh ra giá trị và thái độ giá trị. David Hume (1711 - 1776), nhà triết học nổi tiếng Scốtlen đã chỉ ra rằng có sự kiện khoa học và giá trị. Sự thật, không có sự phân định rạch ròi như vậy, có thể nói một bên mang đầy đủ tính khách quan, một bên mang nhiều tính chủ quan, một bên ít tính tương đối. Khoa học (các định luật, định lý v.v…) là giá trị và giá trị cũng là đối tượng khoa học, do đó mới có khoa học về giá trị. Đúng là sự vật có một, nhưng thích hay không, công nhận nó là giá trị hay không, cho nó là giá trị cao hay giá trị thấp, trong một thời điểm nào đó với người này nó có ích và có thể có ích ít nhiều cũng khác nhau trong từng hoàn cảnh cụ thể, v.v..., lại rất khác nhau. Tương tự như vậy, cái đẹp có một, nhưng khiếu (gu, ý thích) thẩm mỹ hết sức đa dạng. Đó là đặc điểm tâm lý của con người. Nghiên cứu tính đa dạng đó, thống nhất được tính khách quan và tính chủ quan trong giá trị, tìm mối tương quan giữa cơ sở xã hội của giá trị và cơ sở tâm lý của giá trị, không tách biệt sự kiện và giá trị, khái quát lên, nhận ra hiện trạng, dự kiến xu thế phát triển... đó là công việc của khoa học, đem lại những kết luận có ích cho con người và xã hội(1). Từ tư tưởng của Pytago và các nhà triết học Cổ đại, đến Hume, nhất là Kant, rồi Nietzch, v.v… giá trị học ra đời. Ngày nay gọi khoa học về giá trị thời đó là giá trị học cổ điển. Thời kỳ phát triển tiếp theo, được gọi là Hậu giá trị học (hay còn gọi là giá trị học hậu Nietzsche), đặc biệt chú ý tới cơ sở xã hội như giáo dục, vai trò của gia đình, hoàn cảnh xã hội, vị trí của giai tầng đối với quan điểm giá trị. Bourdieu2, nhà triết học Pháp, một đại diện cho thời kỳ này nhấn mạnh đến vai trò của cơ sở xã hội của hệ giá trị, chứ không phải chỉ chú ý tới cơ sở tâm lý của các giá trị. Ông đã lấy cơ sở xã hội (các thiết chế của nghệ thuật) để giải thích các khiếu thẩm mỹ. Theo ông, khiếu thẩm mỹ không phải là biểu trưng của tự do. Đúng là rất đáng chú ý tới ý kiến này. ́ ́ Có lẽ như đã nói ở trên, ta phải tìm sự thống nhất, tính biện chứng giữa cái xã hội và cái tâm lý, lịch sử và cá nhân, khách quan và chủ quan, giáo dục và di truyền, v.v… trong khi nghiên cứu về giá trị. Tất nhiên, phải chú ý xem xét vai trò quyết định đối với giá trị là trí tuệ, trực giác, quan điểm, tình cảm, ước muốn và nhân cách của con người đối với giá trị ấy. Nhiều thập kỷ qua, giá trị học được coi là một trong bộ ba trong triết học: - Bản thể luận; - Nhận thức luận; - Giá trị luận (giá trị học). Bản thể luận đề cập đến sự tồn tại bản chất của thực tại, trong đó có bản chất tồn tại của con người, tồn tại là gì? Cuộc sống là gì? Thế giới là gì? Nhận thức luận đề cập đến chân lý và cơ sở của tri thức, bằng cách nào con người đi đến tri thức, chân lý là gì? Và giá trị luận (giá trị học) xem xét vấn đề tồn tại khách quan của các giá trị, phải làm cái này, không làm cái kia, tỏ thái độ đánh giá, công nhận... Giá trị học là một bộ phận không thể thiếu của triết học. Nhiều trường đại học trên thế giới có dạy giá trị học và nó nằm trong môn triết học. Trong chương trình đại học, ngày nay người ta rất chú trọng tới hệ thống khoa học phức hợp, lô-gíc cận thích hợp (lô-gíc phi-Aristốt) và khoa học về giá trị. Nói giá trị học được dạy trong môn triết học, đấy là việc sắp xếp chương trình, môn học trong nhà trường, chứ giá trị học không chỉ là phân môn của triết học. Lúc đầu là như vậy, sau giá trị học là một môn khoa học độc lập và có liên quan đến nhiều bộ môn, có giá trị trong chính trị học, xã hội học, nhân học văn hoá, nghiên cứu con người, giáo dục học, tâm lý học, đạo đức học, thẩm mỹ học, v.v… Mỗi môn khoa học kết hợp với giá trị học có đối tượng riêng của nó, như chính trị học nghiên cứu các giá trị xã hội, đạo đức học nghiên cứu các giá trị đạo đức, thẩm mỹ học nghiên cứu các giá trị thẩm mỹ... Giá trị học quan hệ mật thiết với tâm lý học, với nghiên cứu con người, giá trị học giữ vai trò đặc biệt trong văn hoá học, vì thông thường coi văn hoá trong nghĩa rộng nhất là tổng của các giá trị vật ́ ̀ ́ chất và giá trị tinh thần. Đối tượng của văn hoá học (xét một cách đại thể) là các giá trị. Vấn đề giá trị là vấn đề trung tâm của văn hoá, được gọi là các giá trị văn hoá mà chúng ta rất quen thuộc. Tuy vậy, không nên đồng nhất hai khoa học này. Văn hoá học và xã hội học, trên cơ sở lấy 3 giá trị phổ quát: Chân, thiện, mỹ là đối tượng của các phân môn trong giá trị học (xem bài mục thứ chín). 4. Giá trị học hiện đại Từ thời Cổ đại, trong triết học phương Đông lẫn phương Tây đều đã có ý tưởng về giá trị, nhưng phải mãi sau này, vào thế kỷ XVIII – XIX, ý tưởng đó mới được phát triển và mãi sang thế kỷ XX, khi chủ nghĩa phát xít Hít-le hoành hành, đạo đức xã hội xa đoạ, khoa học về giá trị (giá trị học) dần dần mới hình thành với hy vọng tìm ra con đường đưa đạo đức học, khoa học về luân lý vào thực tiễn đời sống tinh thần, đời sống văn hoá. Trong thời đổi mới, chúng ta cũng phải giải quyết vấn đề này. Khoa học giá trị có những thập kỷ nở rộ vào nửa sau của thế kỷ XX, đặc biệt được đưa vào cuộc sống. Nhiều cuộc điều tra giá trị được tiến hành rộng rãi giúp chúng ta hiểu được, đánh giá được tình hình luân lý của các nhóm xã hội khác nhau, tạo nên cơ sở đưa đời sống tinh thần của xã hội phát triển theo hướng tiến bộ, lành mạnh, đúng đắn. Giá trị học được sử dụng phổ biến trong đời sống hàng ngày, mở ra một thời kỳ phát triển mới, ngày nay được coi là thời kỳ hiện đại - giá trị học được gọi là giá trị học hiện đại, R.S. Hátman (R. Hartman) được coi là người sáng lập. Trên cơ sở xuất phát từ thực tiễn khẳng định sự tồn tại của khoa học về giá trị và tác dụng xây dựng hệ thống lý thuyết chặt chẽ về giá trị, ông đã đưa ra Mẫu đo giá trị (The Hartman Value Profile, viết tắt HVP) được sử dụng rộng rãi và vận dụng toán học vào tính kết quả đo đạc. Hátman thực sự đã đặt nền tảng mở đầu giá trị học ngày nay, được ông gọi là giá trị học hình thức mà ai đi vào lĩnh vực này cũng cần phải biết. Rôbớc Sirôcaoơ Hátman (Robert Schirokauer Harman), sinh ngày 27 tháng 1 năm 1910 tại Béclin, đã theo học trường Cao đẳng Chính trị Đức, rồi Đại học Pari (Pháp), trường Kinh tế Luân Đôn (Anh), ́ ́ cuối cùng tốt nghiệp Đại học Béclin (Đức) năm 1932. Cùng năm đó ông bỏ nước đang bị trị bởi chủ nghĩa phát xít Hítle, trốn sang Anh, làm thợ chụp ảnh ở Luân Đôn và rồi cả Pari. Bảy năm tiếp theo (1934 - 1941) ông làm đại diện cho hãng phim Van Đisnây (Mỹ) lúc đầu ở Bắc Âu, sau ở Mếchxích, rồi ở Trung Mỹ. Năm 1938 ông rời hẳn Châu Âu sang Mêhicô, cho đến 1941 sang định cư và trở thành công dân Mỹ. Tại đây ông dạy học ở Học viện Lâm nghiệp - Ao hồ Ilinoi, đồng thời theo học nghiên cứu sinh tại Đại học Tây Bắc, lấy bằng tiến sĩ năm 36 tuổi (1946). Ông tiếp tục làm công tác giảng dạy ở trường Cao đẳng Ôhiô (1945 - 1948), Đại học bang Ôhiô (1948 - 1956), giáo sư thỉnh giảng ở trường Đại học Công nghệ Mátsatsusét rất nổi tiếng (1955 - 1956) và Đại học bang Ian (1966). Sau đó ông rời Mỹ sang Mêhicô làm giáo sư Triết học của trường Đại học quốc gia Mêhicô từ năm 1957 và trường Đại học Tênnêsi (Mêhicô) từ năm 1968 cho đến khi qua đời (20 -9 -1973), thọ 63 tuổi. Hátman cũng tích cực hoạt động xã hội. Ông đã làm Chủ tịch Tiểu ban Hoà bình của Hội đồng Quốc gia Nhà thờ Cộng đồng, Giám đốc Hội đồng Công nghiệp cùng chia lãi, sáng lập viện tổ chức xã hội - công nghiệp Đức, tài trợ cho Hội tâm lý học nhân văn Mỹ, Chủ tịch đầu tiên của Hội Điều tra giá trị tại Mỹ (từ năm 1971). Rất lý thú nếu nhận xét rằng, Hátman rất gắn việc giảng dạy, nghiên cứu khoa học với công việc thực hành. Ông đã làm tư vấn áp dụng Lý thuyết Giá trị vào công việc của Công ty ATAT: Tổng công ty Lương thực, Công ty Điện lực và IBM. Ông đã viết được tới 10 cuốn sách, hơn 100 bài báo. Ngoài ra ông còn dịch sách. Có 6 tác phẩm và sách của ông được dịch ra hàng chục thứ tiếng. Lúc sinh thời, Hátman đã là một nhà khoa học rất nổi tiếng, nhất là có công đầu trong sự nghiệp phát triển khoa học về giá trị, trong đó có tác phẩm chính của giá trị học hiện đại “Cấu trúc của giá trị: Cơ sở của giá trị học”(2) do ông viết bằng tiếng Tây Ban Nha năm 1959 ở Mêhicô, sau chuyển sang tiếng Anh năm 1965, xuất bản lần đầu ở Mỹ năm 1967 . 4.1. Xuất phát điểm. Nghiên cứu ý kiến của một số bác học về giá trị và giá trị học Cổ đại đến hiện đại, Hátman tập trung vào 5 phương pháp tiếp cận xuất phát điểm sau đây: ́ É (1) Từ Aritốt (284 - 322 TCN) tới Étoa Giônathan (Edawards Jonathan, 1703 – 1758, Mỹ) bàn về cái Thiện và cái Mỹ; (2) Theo phương pháp của Galilê (1564 - 1642, Ý), xây dựng nền móng của cơ học như là một khoa học thực sự - đưa giá trị học thành một khoa học thực sự; (3) Qua lô-gíc học của B. Rútsen (B. Russell, 1872 - 1970, Anh), nhất là lý thuyết về lớp và các phần tử về lớp - đây là một phương pháp luận chủ yếu dẫn Hátman đến với giá trị học; (4) Từ giá trị của G.E. Mo(3) dẫn đến bảng phân loại tổng quát về giá trị (bài mục thứ ba, bốn); (5) Hiện tượng học Hútxéc, nhất là cơ chế trải nghiệm tạo nên (hay đánh giá)(4) giá trị (xem bài mục thứ 7). Xem vậy, mới thấy tác giả đi vào một lĩnh vực khoa học mới với sự chuẩn bị rất công phu, tạo nên một cơ sở thật vững vàng cho các công trình lớn lao giữ một ví trí hàng đầu trong giá trị học mà Hátman gọi là giá trị học hình thức. 4.2. Giá trị học hình thức (Formal Axiology). Thuật ngữ “hình thức” ở đây không phải là đối nghĩa của thuật ngữ “nội dung”, mà mang ý nghĩa của lô-gíc học. Cụ thể là, giá trị học hình thức đặt ra mục đích đi tìm chất của giá trị như phê-nô-men (hiện tượng), xác định các thuộc tính cơ bản của giá trị trong phạm vi các quan hệ hình thức - các quan hệ lô-gíc, phản ánh các mối quan hệ giữa các giá trị như là các hiện tượng, cuối cùng để “tìm giá trị trung bình” của cuộc sống bằng mô tả và tính toán (lượng hoá) các giá trị thu thập được trong các cuộc điều tra. Công mở đầu giá trị học hiện đại chủ yếu bắt đầu từ đây. Đồng thời “Giá trị trung bình” là định tính hệ giá trị, thước đo giá trị... của một nhóm người (giai tầng, một lứa tuổi, v.v...) trên cơ sở định lượng. Ngày nay trên toàn thế giới phần lớn các số liệu điều tra giá trị nói riêng, các số liệu thu thập được trong các công trình khoa học xã hội và nhân văn nói chung, đều được tính toán theo các công thức của SPSS (Statistical Package for Socical Sciences: Phương pháp thống kê dùng trong KHXH), tức là được ̀ ́ lượng hoá, rồi từ đó đi đến định tính, định tính bao giờ cũng có cơ sở (căn cứ) định lượng. Điều tra giá trị trong xã hội ngày càng phổ biến rộng rãi khắp toàn cầu: Giá trị học được vận dụng (và vận dụng được) vào thực tiễn, nó trở thành một khoa học mới4, được mọi người công nhận, gọi là giá trị hiện đại. a. Thực tiễn giá trị Để xây dựng một khoa học phải khẳng định sự tồn tại đối tượng của khoa học ấy là một thực tiễn khách quan. Ở đây, đối với khoa học về giá trị cần khẳng định rằng trong xã hội, ở con người có thực tiễn giá trị, nghiên cứu lý thuyết về giá trị để áp dụng được vào việc thúc đẩy thực tiễn đó ngày càng tiến bộ. Trong thế giới tự nhiên có sự vật hiện tượng (event), trong xã hội có các quan hệ xã hội..., các sự vật, quan hệ của con người. Giá trị học không đi vào tìm hiểu từ bản thân của sự vật đến bản chất của chủ thể: không phải chỉ riêng bản chất của sự vật, mà cả bản chất của chủ thể - hai yếu tố này cùng nhau (có thể không “bằng nhau”) tạo ra ý nghĩa của sự vật đối với con người (được con người trải nghiệm) - một sự tồn tại khách quan – đó là thực tiễn giá trị - đối tượng của giá trị học. Hátman đi từ tồn tại khách quan của sự kiện và chủ thể đến tồn tại khách quan của giá trị. Dưới góc độ nghiên cứu khoa học, sự kiện có ba cấp độ: sự kiện hình thức (lô-gíc), sự kiện này là đối tượng của lý thuyết thuần tuý; sự kiện hiện tượng luận trong một hoàn cảnh cụ thể, sự kiện này là đối tượng của quan sát; tổng hợp hai cấp độ trên ta có sự kiện như là đối tượng của khoa học. Tương tự như vậy, giá trị cũng có 3 cấp độ: (1) Giá trị ở cấp độ lý luận thuần thuý; (2) Giá trị ở cấp độ thực tiễn; (3) Tổng hợp hai cấp độ trên ta có cấp độ giá trị học như là một khoa học nghiên cứu sự vận động của giá trị: Quá trình xác định và giải thích giá trị. Giải thích giá trị xuất phát từ quan niệm về bản chất của giá trị là sự tồn tại có mục đích. Nói cách khác, giá trị tương đồng với mục đích quy định đặc điểm của giá trị và cấu trúc giá trị. Toàn bộ các giá trị đều xuất phát từ việc soát xét mục đích, thực hiện mục đích, ́ ̀ ̀ gắn liền với các chuẩn mực do mục đích đề ra. Ví dụ, từ quan niệm Thiện đi đến một hệ (hay tiểu hệ, nếu cả Chân - Thiện - Mỹ coi là một hệ) giá trị thành quan niệm (quan điểm - concept) của bản thân – thành mục đích, niềm tin của cuộc sống có cơ cấu giá trị, trở thành thước đo giá trị, tạo ra hành vi đạo đức: các thuật ngữ “danh dự”, “chân thành”, “thật thà”… trở thành giá trị; “vô liêm sỉ”, “không chân thành”, “giả dối” – các phản giá trị. Cấu trúc của con người (person) bây giờ hay nói “cấu trúc của nhân cách”, trở thành cấu trúc giá trị... biểu hiện cụ thể trong ngữ cảnh. Cơ sở của cấu trúc này là năng lực giá trị là một loại hình năng lực chuyên biệt của con người, tương tự như năng lực toán, năng lực âm nhạc, v.v... Năng lực giá trị là năng lực của từng người (tạo lập giá trị của bản thân và tỏ thái độ đối với giá trị của mình và người khác, gọi là thái độ giá trị), đánh giá giá trị của xã hội, dân tộc, cộng đồng, nhóm, tạo lập hệ giá trị, thước đo giá trị, v.v...(6). Đó là thực tiễn giá trị, gắn liền với đạo đức, với năng lực con người - giá trị sống - giá trị bản thân. Phải nghiên cứu, cải thiện, thay đổi thực tiễn này, tức là xây dựng lý thuyết về giá trị, bắt đầu bằng xây dựng tiền đề của lý thuyết này - tiên đề của giá trị và giá trị học. b. Tiên đề (axiom) của giá trị học Tiên đề thường được hiểu là một mệnh đề được công nhận không chứng minh và làm điểm xuất phát cho việc suy diễn trong lĩnh vực này hay lĩnh vực khác. Ở đây nói về tiên đề của giá trị học: “Tiên đề, - theo R.S. Hátman, - là một công thức, một thể thức (formula) phát triển lên thành một hệ thống tương đồng với trường của hiện tượng”. Hệ thống này luôn luôn là hệ thống lô-gíc. Trong giá trị học, giá trị được xác định bởi một tiên đề, mà tiên đề này đồng nhất với một khái niệm về một lô-gíc nào đấy, tức là từ một cách nhìn, một quan niệm được rút ra từ một cách nhìn, một quan niệm nào đó chung hơn và được đặt vào “trường hiện tượng”, như trình bày trong bài mục về hiện tượng học và giá trị học4. Hátman coi tiên đề là nguyên tắc cơ bản. Tiên đề của giá trị học, được R.S. Hátman chỉ ra, - do Mo (Moore) khởi xướng từ năm 1922 và 1942. Tiên đề đó là nghịch lý sau: “Hai mệnh đề khác nhau cùng nói về sự thật của cái thiện ́ (good): (1) nó chỉ phụ thuộc vào bản chất nội tại (intrinsic nature) mà có... (2) tuy vậy, nhưng bản thân nó lại không phải là thuộc tính nội tại (intrisic property)”(7). Điều đó có nghĩa là bản chất chỉ có một, còn thuộc tính thì có thuộc tính thiên nhiên và thuộc tính không thiên nhiên, tức là không được mô tả như thuộc tính của một vật thể, mà có thể hiểu là được mô tả như là một nhận xét... của chủ thể, trong đó có thể có sự đánh giá, xác định giá trị của khách thể đối với bản thân vật thể. Tiên đề nói trên khẳng định bên cạnh hệ thống tri thức về thế giới khách thể còn hệ thống tri thức về thế giới giá trị. Một lần nữa khẳng định giá trị là tồn tại khách quan và phải có khoa học về giá trị, nói cách khác là lý thuyết về giá trị. Lý thuyết này tập trung trả lời hai câu hỏi: (1) Giá trị là gì?; (2) Đo đạc và tính toán giá trị như thế nào? Để giải quyết hai vấn đề này R.S. Hátman tập trung vào nghiên cứu cấu trúc của giá trị. c. Cấu trúc của giá trị và khoa học về giá trị Không đi vào định nghĩa, mà chủ yếu nghiên cứu các mối quan hệ lô-gíc của giá trị, Hátman đã xác định nghiên cứu thái độ của một người, một nhóm người... hay đại diện của họ đối với ý nghĩa của vật thể đối với người đó (chủ thể) - đi vào đặc điểm, chiều kích... của giá trị. Trên cơ sở đó, xây dựng khoa học về giá trị, cụ thể qua một số vấn đề dưới đây: - Thuật ngữ về giá trị; - Các quan hệ giá trị; - Các biểu đạt giá trị; Giải thích các biểu đạt giá trị, với 5 đặc điểm (tính chất) của giá trị tương đối: - Có giá trị duy lý và giá trị không duy lý; - Tính khách quan và tính chủ quan của giá trị; - Giá trị đồng tình và giá trị phản đối; - Lạc quan và bi quan; - Tốt và xấu trong thế giới này. Ba cấp độ của giá trị: - Quan điểm; - Chuyên biệt; - Đơn nhất. Các chiều kích (loại hình) của giá trị - các giá trị có 3 chiều kích chính: Giá trị nội tại (intrinsic value - viết tắt là I)3, giá trị ngoại tại (extrinsic value - viết tắt là E) và giá trị hệ thống (systemic - viết tác là S). Giá trị I là giá trị ở cấp độ đơn nhất. Đó là các phán đoán của từng cá thể người; ví dụ các giá trị về bản thân của người này về người kia, hay như sự đồng cảm... Giá trị E là giá trị giữa trường hợp cá thể với một nhóm hay một số trường hợp, thoả mãn một luận điểm trừu tượng ở mức độ kinh nghiệm, ví dụ, lời phán đoán về một hoàn cảnh cụ thể, thực hành... Giá trị S thuộc loại một luận điểm lô-gíc; ví dụ, câu phán đoán về một luận điểm lô-gíc; ví dụ câu phán đoán về một ý tưởng, một lý thuyết... Ba chiều kích này hợp lại thành một cấu trúc thứ tự về độ phong phú chất lượng: Giá trị I phong phú nhất, thứ đến giá trị E và cuối cùng là giá trị S. Ba giá trị này trong một cấu trúc liên hệ với nhau rất chặt chẽ: Từ S phải suy ra E, từ E phải suy ra I. Trong điều tra giá trị thường phải tìm ra các mối liên quan này, tuy nổi bật là giá trị nội tại. Ngoài các chiều kích nói trên, Hátman còn chỉ ra các đặc điểm khác của giá trị có thể và cần phải tính đến trong quá trình điều tra: + Giá trị tương đồng hay giá trị đối nghịch; + Giá trị tích cực (composition) được đánh giá bằng dấu (+) hay giá trị tiêu cực (transposition) được đánh bằng dấu (-). ̀ ̀ Để có các ví dụ cụ thể về các chiều kích (loại hình) giá trị vừa nêu, tiếp theo chúng tôi sẽ giới thiệu mẫu (profile - P) điều tra giá trị (V) của Hátman (H). d. Mẫu điều tra giá trị của Hátman (HVP) (+) Giá trị nội tại (I) là giá trị tinh thần của con người, được xác định bởi vô số các thuộc tính của giá trị mang tính đặc thù, không thay thế, nói lên bản sắc của cá thể, được tính như giá trị thông cảm, giá trị tự trọng... thường thấy trong HVP. (+) Giá trị ngoại tại (E) là giá trị thực tiễn, giá trị hoàn cảnh, được xác định bởi một số (có giới hạn) các thuộc tính nói lên quan niệm được vận dụng vào thực tiễn. Đó là các giá trị gắn với nhu cầu vật chất nói chung. Ví dụ, món ăn ngon, người đánh đàn hay... Trong bảng điều tra giá trị của Hátman (HVP) thường là các phán đoán thực tế. (+) Giá trị hệ thống (S) là các giá trị về luận điểm được xác định bằng một số thuộc tính nhất định, nói lên ý tưởng, sự thoả mãn về một sự hoàn hảo nào đó. Ví dụ, đánh giá tính đảm đang, luật thừa kế... Trong HVP: Các phán đoán hệ thống, tự định hướng cá nhân, v.v...19. Ngày nay những điều nói trên đã và đang được vận dụng phổ biến vào các dự án điều tra giá trị thế giới, các châu, các vùng (riêng ở Châu Á, có dự án “Hàn thử biểu Châu Á”, “Hàn thử biểu Đông Nam Á”, ở Philipin có “Trạm thời tiết” chuyên điều tra giá trị và dư luận...), v.v...; Các số liệu của các cuộc điều tra này được tính toán theo các công thức thống kê (SPSS) được áp dụng chung trên thế giới, đưa việc toán học hoá khoa học về giá trị do R.S. Hátman đặt nền móng vào thực tiễn. Hátman còn chỉ ra khả năng ứng dụng giá trị học vào nhiều lĩnh vực khác nhau, nhất là đạo đức học, tâm lý học (từ đây có một ngành mới trong tâm lý học gọi là tâm lý học giá trị)..., có tính thời sự với xã hội ta ngày nay. đ. Năng lực xác định giá trị Hátman khẳng định con người có một năng lực gọi là năng lực giá trí (năng lực xác định giá trị) và đưa ra các năng lực giá trị sau đây: (+) Đồng cảm là năng lực thấy và đánh giá được đúng giá trị bên trong của người khác, có khả năng đặt mình vào vị trí của người khác; (+) Năng lực thực tiễn là năng lực nhận thấy và đánh giá các giá trị vật chất, giá trị chức năng, tư duy thực tiễn và theo các tiêu chí chung, có tư duy so sánh, có năng lực nhận thấy điều đáng giá của các tổ chức xã hội và các chuẩn mực xã hội, các điều xã hội mong muốn; (+) Phán đoán có hệ thống là năng lực nhận thấy và đánh giá hệ thống, thứ tự, cấu trúc, sự thích hợp và uy tín; có tư duy lý luận, phân tích và cấu trúc, có tổ chức và kế hoạch, theo quy chuẩn các nguyên tắc tổ chức; (+) Lòng tự tin là năng lực nhìn thấy và đánh giá điều đáng giá và độc đáo của bản thân, chân thành, xác thực, lương thiện, đánh giá khả năng và hạn chế một cách thực chất; (+) Ý thức về vai trò của bản thân là năng lực nhận thấy và đánh giá vị trí và chức năng của bản thân trong xã hội; cảm thấy bản thân có ích, có đóng góp; cảm thấy tự tin rằng mình có thể và thực sự hoàn thành công việc, cảm thấy thoả mãn khi có hành động đúng; (+) Năng lực xác định phương hướng của bản thân là năng lực nhận thấy và đánh giá các ý tưởng và suy nghĩ trong bản thân; cảm thấy có nhiệm vụ, trung thành và cam kết đối với cái gì mình tin là đúng, kiên trì theo đuổi một phương hướng đã được xác định. Các năng lực hợp lại thành “giá trị bản thân”. Hátman cũng đã đưa ra 5 phạm trù đo đạc giá trị (thái độ giá trị): - Biết phải làm gì? Đo khả năng xác định vấn đề nên làm, phải làm và biết dự báo kết quả. - Biết làm bằng cách nào? Đo khả năng quyết định cần làm gì, ai làm việc đó và cách làm tốt nhất. ́ - Cụ thể phạm trù thứ hai ra thành đo khả năng kế hoạch và tổ chức thực hiện, đo năng lực xác định thứ tự ưu tiên xem thoả mãn nhu cầu nào trước và tuỳ hoàn cảnh đặt ra mục đích thực hiện hành động. - Đo năng lực đạt kết quả, năng lực tập trung năng lượng vào thực hiện nhiệm vụ và theo đuổi đến đạt được, vượt qua khó khăn, kiên định phương hướng. - Đo khả năng hợp tác với người khác một cách tốt đẹp, tích cực, biết đánh giá người khác (đồng cảm). Từ những năm 70 thế kỷ XX có Dự án điều tra giá trị (ĐTGT) châu Âu, 10 năm sau ĐTGT thế giới, cuối thế kỷ XX và hiện nay có ĐTGT (gọi là Hàn thử biểu) các Châu lục và các vùng, ở Việt Nam bắt đầu ĐTGT từ 1991 và tham gia ĐTGT thế giới từ 2001. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giá trị học: Lý thuyết về giá trị. Tiếng Anh, mạng Yahoo ngày 2-3-2004 (không có tên tác giả) 2. Regenia Gagnie. Lý thuyết giá trị. Yahoo, 22-4-2004 3. R. Harman. Cấu trúc của giá trị: Cơ sở của giá trị của giá trị học. 1959. tr.304. 4. R. Harman. Sđd, tr.305 5. R. Harman. Sđd, tr.193 6. Giôn Aotstin (John Austin). Bảng điều tra giá trị của Hátman (HVP), 1991, tr. 17, 19, 27. 7. G.E. Mo. Nghiên cứu triết học, Luân Đôn 1922, tr.273 (trích theo Hátman, Sđđ). Các TLTK đều bằng tiếng Anh Pơrôtago (Thế kỷ V TCN) - tổ sư Giá trị học Hátman (giữa Thế kỷ XX) - Giá trị học hiện đại -------------------- Bộ máy khái niệm Hệ giá trị Thang giá trị Thước đo giá trị Định hướng giá trị Bài mục thứ tư Đối tượng của giá trị học 1. Khái niệm giá trị học Để đi vào tìm hiểu khoa học về giá trị, cần xem giá trị nói trong khoa học này là gì? Chữ “giá trị” có nhiều nghĩa, như trong các từ điển đã viết và trong các công trình đã trình bày (xem bài mục thứ nhất, TLTK: 3, 4). Thường trong đời sống hàng ngày ta hay gặp thuật ngữ này để nói lên giá trị cả ở nơi mua bán, giá thành ở nơi sản xuất. Trong kinh tế học thường đề cập đến giá trị sử dụng và giá trị trao đổi. Người ta cũng hay nói: “Cái gì cũng có cái giá của nó”, với ý là muốn được một cái gì đó, thì phải mất một cái gì đó, như công sức, tiền tài hay một sự chịu đựng, thậm chí đến tổn thương tinh thần. Nói một cách tổng quát, toàn bộ sự tồn tại của loài người trên thế giới này bao gồm các giá trị vật chất và giá trị tinh thần - các giá trị bảo đảm sự tồn tại, cuộc sống của con người, cộng đồng. Đối tượng của khoa học về giá trị là các giá trị tinh thần (văn hoá, lịch sử, tâm lý, thái độ đối với giá trị) - các giá trị này mang tính chất chủ quan, phản ánh tồn tại khách quan, không nghiên cứu các giá trị vật chất. Các giá trị vật chất nằm ngay trong sự vật, hàng hoá... Giá trị tinh thần nói lên ý nghĩa (thích thú, ước muốn, quan tâm) của sự vật, hàng hoá đối với từng người, nhóm người, cộng đồng, dân tộc, nhân loại (ta có giá trị nhân loại, giá trị dân tộc, giá trị thế giới, giá trị vùng... đó là đối tượng của giá trị học). Còn các giá trị vật chất có sẵn trong thiên nhiên như sông, núi, đất, nước... Ví dụ: Bông hoa là giá trị vật chất, nhưng khi nó được con người đánh giá là đẹp lại là giá trị tinh thần và cái đẹp tự nhiên được đánh giá chi tiết hơn nói lên ý nghĩa trong từng trường hợp cụ thể như: Đẹp duyên dáng, đẹp kinh hồn, đẹp trang trọng, đẹp lộng lẫy, đẹp hấp dẫn, đẹp khôi hài... Đó là các giá trị tinh thần, tâm lý do con người tạo ra của giá trị học. Nhà thơ Tản Đà, theo nhà văn Trương Tửu, viết: “Ở con mắt tiên sinh ... tiền tài, danh vọng đều vô giá trị...”(1), nói theo giá trị học, nhà thơ coi trọng nhất là giá trị bản thân ông. Cũng có các giá trị vật chất do lao động của con người làm ra như các sản vật thoả mãn các nhu cầu ăn, ở, đi lại. Bản thân các vật thể này chứa đựng giá trị có thể dùng vào việc này hay việc khác, ta gọi đó là các giá trị sử dụng. Khi các sản vật này trở thành hàng hoá, đem trao đổi giữa người này với người kia, lúc đó sản vật này trở thành giá trị vì nó thoả mãn nhu cầu hay nhu cầu khác của con người. Và khi nào sự thoả mãn nhu cầu này được con người nhận ra ý nghĩa của vật thể hay sản phẩm đó đối với cuộc sống của bản thân, tức là khi nhu cầu ấy trở thành ước muốn (động cơ của hoạt động), vật thể, sản phẩm trở thành mục đích của một hoạt động cụ thể, khi đó ta có các giá trị mà giá trị học nghiên cứu. Ở đây, ta thấy vấn đề nghiên cứu giá trị rất gắn bó với nghiên cứu hoạt động tâm lý con người. Cách hiểu khái niệm giá trị trong giá trị học có quan hệ chặt chẽ với khái niệm chủ thể, tính chủ thể. Tính chủ thể biểu hiện rõ nhất ở tính mục đích của hoạt động bao giờ cũng là làm sao đạt tới cái mà mình coi nó là giá trị đối với bản thân. Từ đó, có thể đi tới định nghĩa giá trị trong giá trị học là cái quy định mục đích của hoạt động và động cơ thúc đẩy hoạt động đạt được mục đích đó. Đó là vấn đề sống còn của từng con người, mà tổng hợp lại có thể nói rằng vấn đề giá trị đi theo suốt đời người: xác định hệ giá trị, thang giá trị, thước đo giá trị, định hướng giá trị (gọi tắt là xác định giá trị), rồi theo đuổi giá trị, biểu hiện giá trị, thực hiện giá trị, có thái độ đối với giá trị. Như vậy, nói đến giá trị ở đây là nói đến đánh giá, tìm ra ý nghĩa của sự vật này, sản phẩm kia mà chủ thể quan tâm tới, có ước muốn đạt được để thực hiện một mục đích nào đấy, đó là thái độ (hệ thống thái độ) của từng con người đối với xung quanh, một phần cực kỳ quan trọng trong lối sống, cách sống. Hệ thống thái độ của con người là nhân cách của con người, cá tính của nó, trong đó, có cả ́ ́ ́ nhận thức, triết lý, tình cảm, tâm trạng, tâm thế và hành động. Tất cả những gì con người đã sống, đang sống ta gọi là vốn trải nghiệm. Thái độ giá trị là thái độ qua trải nghiệm. Theo lý thuyết hoạt động trong tâm lý học, đời người là một dòng hoạt động. Dưới góc độ của giá trị học, đời người là tổng các giá trị do người đó tạo nên, tiếp thu, chấp nhận, lấy làm chuẩn mực bằng dòng hoạt động của bản thân. Tổng các giá trị này là văn hoá của người đó. Trong đời sống hàng ngày, con người có các phán đoán về các giá trị: thái độ ủng hộ giá trị này, phản đối giá trị kia, đánh giá giá trị này cao, coi giá trị kia thấp, v.v... Các cuộc điều tra giá trị là điều tra các phán đoán đó, các thái độ đó, ta gọi là thái độ giá trị. Cùng với các giá trị cá thể, mà có chỗ gọi là giá trị nhân cách, có các giá trị của cộng đồng mà ta gọi là các giá trị xã hội, tức là những yếu tố trong đời sống tinh thần được cả xã hội quan tâm, nói một cách chính xác hơn, từ các giá trị này (cùng với các giá trị khác), tạo dựng nên xã hội, như giá trị dân chủ, niềm tin xã hội, trách nhiệm xã hội... của các cộng đồng từ các đơn vị cơ sở đến cộng đồng các dân tộc cư trú trên lãnh thổ một đất nước như Việt Nam, cộng đồng các dân tộc một vùng như Đông Nam Á, Đông Á và cộng đồng toàn thể loài người. Trong cộng đồng có các giai tầng, giai cấp như công nhân, nông dân, trí thức và các cuộc điều tra đã tiến hành điều tra các giá trị ở các giai tầng này. Nó có thể tiến hành điều tra theo lứa tuổi học sinh, sinh viên, lao động trẻ... Trong các cuộc điều tra giá trị chủ yếu tập trung vào tìm hiểu ý kiến phán đoán thái độ của những người được hỏi đối với một giá trị nào đấy, gọi là thái độ giá trị. Với các phương pháp khoa học được tính toán và rút kinh nghiệm qua thời gian gần một thế kỷ nay, mở đầu từ R. Hartman. Ông đã toán học hoá, với công cụ thống kê hiện đại, bảo đảm độ chính xác tin cậy từ việc soạn các câu hỏi (được gọi là các giá trị), việc chọn mẫu, chọn người để hỏi theo phương pháp xác suất mang tính đại diện cho cả một nhóm dân cư của từng vùng và cả nước. Từ chỗ tính toán các số liệu với sự mô tả trên các tư tưởng phương pháp nhất định, đánh giá, phân tích... đi đến các nhận định về một nét tình hình nào đó của xã hội tương ứng, như thái độ của người dân đối với giá trị dân chủ, giá trị thị trường, giá trị niềm tin, v.v... Cao hơn nữa, có thể đưa ra giả định về xu thế mà xã hội sẽ tiến tới, như xu thế từ truyền ́ ́ thống sang thế tục trong các quan niệm đạo đức, văn hoá... của trào lưu hiện đại hoá xã hội ngày nay (xem bài mục thứ hai mươi hai). Các giá trị nghiên cứu trong công trình này là các giá trị hiện hữu (có người gọi là giá trị bộc bạch), với các giá trị đang tồn tại trong não được phát biểu ra bằng phán đoán (thái độ) đối với một giá trị nào đấy. Bên cạnh đó còn có giá trị tồn tại trong não người, nhưng chưa phát biểu ra thành phán đoán, chưa bộc lộ thái độ đối với một giá trị nào đó. Trong các giá trị này phổ biến nhất là các giá trị xã hội, trong đó có các giá trị cốt yếu nhất đối với cuộc sống (đối với nhân loại) gọi là giá trị nhân loại như giá trị hoà bình, hợp tác, khoan dung, dân chủ v.v...; đối với dân tộc: độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, bản sắc v.v...; đối với con người: phát triển con người, thu nhập, việc làm, quyền con người, v.v... gọi là các giá trị cốt yếu, giá trị sống còn, giá trị bản chất, giá trị nội tại. Có người còn cho rằng loài người có cả giá trị vĩnh hằng (thiên đường, niết bàn, v.v…). Nói tóm lại, đối tượng của giá trị học là các giá trị tinh thần (bao gồm các giá trị văn hoá, lịch sử, tâm lý) và thái độ giá trị của chủ thể đối với khách thể có ý nghĩa (nhiều, trung bình, ít - hoặc không), thích hay không thích, đánh giá cao thấp khác nhau. Có tác giả, như Mo, gọi đối tượng của khoa học này là giá trị nội tại. 2. Lý thuyết của G.E. Mo về giá trị nội tại. Tìm hiểu giá trị học - khoa học về giá trị, thấy G.E. Mo đã đánh một mốc son vào những năm 20 thế kỷ XX trong lịch sử môn khoa học này: Ông đã đưa ra khái niệm (phạm trù) “giá trị nội tại” - tiếng Anh là “Intrinsic Value”. George Edward Moore (1873 – 1958, Anh) tốt nghiệp trường Đại học Kembơrít (Cambridge), giảng viên khoa học lý luận, đạt học vị tiến sỹ năm 1913, Viện sỹ Viện Hàn lâm Anh từ năm 1918, một số năm sang Mỹ dạy học trong một số trường Đại học. Sau khi thôi không dạy học, từ năm 1921 - 1947 ông làm Tổng biên tập Tạp chí ̀ ́ ́ Tâm trí (Mind), một tạp chí hàng đầu của thế giới triết học Anh. Mo được đánh giá là nhà triết học nổi tiếng đã có đóng góp rất to lớn vào sự phát triển tư tưởng Anh - Mỹ trong các lĩnh vực siêu hình học, nhận thức luận, đạo đức học và phương pháp luận triết học, đặc biệt phải kể đến luận điểm về bản thể luận của nhận thức, luận điểm “nghĩa chung” (commonsence) còn gọi là “nghĩa thông thường”, trong cuốn sách “Bảo vệ nghĩa chung” (1925); luận điểm về “thực” và “hư” được trình bày trong tác phẩm “Bản chất của phán đoán” (1899), trong “Bác bỏ chủ nghĩa duy tâm” (1903) Mo đã phủ định quan điểm “tồn tại là khi nào được cảm nhận”, câu Latinh là “esse est percipi” của Gioóc Beccơli (G. Beckeley, 1685-1753). Ông rất chú trọng đến tri thức thường ngày, đơn giản mà về sau này chúng ta gọi là thực tiễn. Từ các luận điểm trên ta thấy Mo đã hình thành một phương pháp luận triết học duy vật - từ đây ông đi đến triết học về luân lý, cũng còn gọi là đạo đức học. Từ triết học đi đến đạo đức học, trước hết xây dựng cơ sở triết học của đạo đức học mà người ta còn gọi là “siêu hình học đạo đức” (Metaethics) chuyên nghiên cứu các nguyên tắc chung của đạo đức học được Mo trình bày trong tác phẩm rất nổi tiếng “Các nguyên tắc đạo đức” (1903). Ngoài lĩnh vực siêu hình học của đạo đức học, ngày nay còn kể đến hai lĩnh vực nữa của đạo đức học, đó là: Chuẩn mực đạo đức và đạo đức học ứng dụng. Chính từ đây, Mo đi vào vấn đề giá trị, bàn về cái Thiện là chất lượng cơ bản, không - tự nhiên (con người tự tạo) và không định nghĩa được (như là một cái gì đương nhiên, tự nó nói lên). Đây là một luận điểm rất gần (cũng có thể coi là đồng nhất) với triết lý phương Đông về “tính bản thiện” có gốc gác từ “tính người” và “tình người”, một luận điểm rất hay về tiềm năng con người. Luận điểm này của Mo được đánh giá cao ở phương Tây, có ảnh hưởng quyết định đối với G.M. Kên (John Maynard Keynes, 1883 - 1946, người Anh, nhà kinh tế học lỗi lạc vào bậc nhất trong thế kỷ XX) và các thành viên trong nhóm Bơlumbơry (Bloomsbury)(2). Từ triết học theo hướng duy vật, thực tiễn, đời thường, đi sâu vào đạo đức học với phạm trù Thiện, được coi là “một nhà đạo đức học quan trọng nhất trong thế kỷ XX trong các nước nói tiếng Anh”(3), tác giả của lý thuyết về “giá trị nội tại”. ́ Năm 1922, trong tạp chí “Nghiên cứu Triết học” G.E. Mo đã công bố một bài báo dưới đầu đề “Lý thuyết về giá trị nội tại”. Bài báo này đánh dấu một mốc phát triển cực kỳ quan trọng trong tiểu sử khoa học của Mo, ghi một dấu ấn rất đậm nét trong đạo đức học nói riêng và triết học (GTH) về luân lý nói chung, đưa ông trở thành một trong những tác giả nổi tiếng trong giá trị học về luân lý. Thật vậy, Mo đã đề cập đến một loạt khái niệm cơ bản của khoa học về giá trị: “đúng - sai”, “nghĩa vụ - phải làm”, “tốt - xấu”, “dễ chịu - khó chịu”, mà trong triết học Cổ đại, cả Đông lẫn Tây, đã tổng kết vào ba phạm trù Chân, Thiện, Mỹ (xem bài mục thứ chín). Ba phạm trù (ba khái niệm cơ bản và cũng là ba khái niệm công cụ) này là các phạm trù cốt lõi của giá trị học (gắn liền với nhận thức học, đạo đức học và thẩm mỹ học) của quá khứ cũng như hiện tại và cả tương lai nữa. Tất nhiên, mỗi thời có giá trị học của mình, nhưng không lúc nào xa rời ba phạm trù hết sức tổng quát, rất cơ bản của khoa học về giá trị. Đồng thời để lý giải các vấn đề được bàn tới trong bài báo đang nói ở đây, chủ yếu bằng phương pháp đặc thù của lô-gíc học, Mo đã đề cập đến một số phạm trù khác, như cặp phạm trù “chủ quan” và “khách quan”, “số lượng” và “chất lượng”, “nội tại” (internality) và “ngoại giới” (hoàn cảnh, môi trường), v.v... Ông cũng đề cập cả đến khái niệm “độ” (degree), ví dụ: độ khác nhau có khi nói là mức độ, rồi đến “kích thước” (size, có khi còn dịch là “khổ”). Những phạm trù và khái niệm này có nội dung cực kỳ phong phú và phức tạp, Mo không trình bày chi tiết chỉ đề cập trong phạm vi cần thiết để đi đến khái niệm “giá trị nội tại” (“giá trị bản chất”) là đối tượng của giá trị học. Để giải quyết nhiệm vụ này, Mo trước hết đã chứng minh các giá trị “đúng”, “sai”, “tốt”, “đẹp”, “xấu” mang tính chất chủ quan. Ví dụ, từ “đẹp” trong câu “cái này đẹp”, đẹp ở đây là vị ngữ nói lên một hiệu quả tâm lý do một cái gì đó tác động tới một người hay nhóm người trong một hoàn cảnh nhất định nào đó. Hiệu quả tâm lý ấy cho thấy người hay nhóm người bị tác động bởi một khách thể tới họ trong một hoàn cảnh nhất định nào đó. Hiệu quả tâm lý ấy cho thấy người hay nhóm người bị tác động ấy có “một thái độ tinh thần” - “thái độ tâm lý” (“mental attitude”) - chúng tôi gọi là thái độ giá trị - đối với vật tác động. Thái độ ấy nói lên sự ưa thích, hài ́ ́ lòng... mong muốn có sự tác động ấy của vật thể đó - tức là người (hay nhóm người) đó. Cái gì không chứa đựng “thái độ tinh thần” (thái độ tâm lý) tương tự như vừa mô tả ông gọi là “khách quan”. Tuy vậy, Mo khẳng định rõ: chính thái độ là các loại giá trị nội tại. Đóng góp chính của Mo trong vấn đề này là nêu được tính chủ quan (chủ thể) và tính tâm lý của giá trị trong giá trị học. Cái Thiện, cái Mỹ là tổ hợp các giá trị nội tại và các giá trị này tồn tại một cách khách quan - Mo hoàn toàn bác bỏ quan điểm chủ quan đối với các giá trị này. Rồi đến cái Chân cũng vậy, nó cũng có đầy đủ các tính chất nội tại, đồng thời nó cũng mang đầy đủ tính chất khách quan. Mo đã chỉ ra rằng phải phân biệt rõ “tính khách quan” và “tính bên trong”. Như trên đã nói, đây là một vấn đề rất phức tạp của triết học, tâm lý học. Ở đây, trong phạm vi của giá trị học cần khẳng định công lao to lớn của Mo là đã phát hiện ra một loại giá trị mang tên là “giá trị nội tại” là sự phản ánh thái độ của chủ thể đối với sự tác động ấy bao giờ cũng xảy ra trong một môi trường, hoàn cảnh nhất định và thái độ của chủ thể cũng không tách rời ảnh hưởng của môi trường ấy. Như vậy, Mo đã vận dụng thành công phương pháp luận triết học duy vật vào việc khẳng định sự tồn tại của loại hình “giá trị nội tại”, chứng minh tính tự nhiên, tính thực chứng và cũng là tính khách quan của các giá trị ở con người, nhóm người, dân tộc và nhân loại, tức là các giá trị đó là có thực, được sinh ra và phát triển trong lịch sử tiến hoá của loài người. Theo đó, Mo khẳng định các phán đoán (lời phát biểu, các trả lời, v.v...) về các giá trị mà chúng ta thường gặp trong các công trình nghiên cứu, điều tra giá trị. Các phán đoán về giá trị do người này hay người kia (nhóm người này hay người kia) phát biểu cũng mang tính khách quan, tự nhiên, thực chứng tuy nó khẳng định đầy đủ một thái độ chủ quan. Chính vì vậy mà ngày nay trong xã hội học... điều tra giá trị bằng các bảng hỏi là một phương pháp khá phổ biến, mang lại kết quả nói lên một hiện trạng nào đó trong xã hội. Với khái niệm “giá trị nội tại” Mo đã giúp ta khẳng định giá trị của một phẩm chất đạo đức hay hành vi, hành động ứng xử của ai đó là tự thân các phẩm chất, hành vi ấy chứa đựng giá trị đó. Đây chính ́ là “bản chất nội tại” (“intrinsic nature” - từ “nature” vừa có nghĩa là “tự nhiên”, vừa có nghĩa là “bản tính”) có thể hiểu là cái vốn có, tức là có chính ở trong sự vật. Trong triết học, ta đã biết tới cặp phạm trù “bản chất và hiện tượng”, vận dụng hiểu biết phạm trù này vào các vấn đề cụ thể hết sức đa dạng, phức tạp. Ở đây có thể rút ra kết luận rằng, nói tới “giá trị nội tại” chính là muốn nói đến “giá trị bản chất”. Và, Mo đi đến định nghĩa về giá trị này như sau: “Nói một loại giá trị của vật thể nào đó là giá trị “nội tại” đơn giản có nghĩa là vật thể ấy có giá trị ấy và có đến mức độ nào là thuộc về bản chất nội tại của sự vật ấy”(4). Tiếp theo, Mo đã làm sáng tỏ các giá trị xuất phát từ bản chất được gọi là “giá trị nội tại” mà ở đây ta gọi là “giá trị bản chất” phải theo ba nguyên tắc: (1) Cùng một sự vật trong một hoàn cảnh chỉ có thể có một mức độ, chứ không thể khác được; (2) Hai vật thể giống hệt nhau trong hoàn cảnh như nhau nhất thiết có cùng một giá trị nội tại - giá trị bản chất, vì chúng có cùng các thuộc tính nội tại như nhau. Còn trong trường hợp các giá trị bản chất khác nhau, bản chất chúng khác nhau. Nói về các giá trị khác nhau, Mo đã đề cập đến hai mặt của sự khác nhau: về lượng và về chất. Ngoài ra,ông còn nói tới sự khác nhau về độ và khổ. Mo nhấn mạnh nguyên tắc thứ ba: (3) “Một loại giá trị là giá trị nội tại, khi mà nếu và chỉ nếu vật thể có chứa đựng giá trị ấy trong bản thân nó và nếu chính vật thể ấy hay một vật thể giống y hệt, trong mọi hoàn cảnh, nhất thiết hoặc luôn luôn phải có cùng một giá trị ấy và các giá trị ấy của các vật thể ấy phải có cùng một độ” (PMH). Một lần nữa ta có căn cứ để đi đến kết luận rằng, có thể gọi “giá trị nội tại” là “giá trị bản chất” nhấn mạnh tính chất tâm lý trong giá trị tinh thần - đối tượng của giá trị học. Cho đến nay, còn có ý kiến tranh cãi về lý thuyết “giá trị nội tại” của Mo, có người không đồng ý, như Kagan, Tômát Huyếcca (Thomas Hurka), v.v...; có người tán thưởng và phát triển lý thuyết giá trị của Mo, như Ben(5). Ben còn đặt tên cho các nguyên tắc trên là: (1) Nguyên tắc siêu thuận lợi (supervenience): nguyên tắc ́ ́ ́ ́ ́ không thể; (2) Nguyên tắc nhất thiết; (3) Nguyên tắc độc nhất: cùng một giá trị. Có một điều có thể kết luận chắc chắn là trong bảng phân loại các giá trị của Mo, chúng ta có một loại giá trị là “giá trị bản chất” được dùng như là một số khái niệm công cụ trong suốt nhiều thập kỷ qua. Nghiên cứu giá trị của một nhóm người này hay một nhóm người kia (một địa phương, một tầng lớp, một dân tộc...) nhất thiết phải tìm được các giá trị nội tại bản chất. Tất nhiên, bên cạnh giá trị nội tại có phạm trù “giá trị ngoại tại”, trong đó có “giá trị không bản chất”, có thể trong “giá trị nội tại” có “giá trị bản chất” và “giá trị không bản chất” và ở đó có phạm trù “giá trị công cụ”, làm cho bảng phân loại giá trị ngày càng phong phú. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trương Tửu. Uống rượu với Tản Đà. Đại đồng thi xã, Hà Nội 1939. Trích theo Hà Đình Nguyên “Tản Đà – thơ, rượu, ngông”, báo Thanh Niên, 6-5-2010. 2. Tên một nhóm văn nghệ sỹ, kiến trúc sư nổi tiếng của nước Anh; tên Bloomsbury xuất phát từ tên một người chủ một làng Anh, nay là tên của một khu vực giữa Thủ đô Luân Đôn có trường Đại học Luân Đôn và một số cơ quan khoa học. 3. Bryan Hutchinson. Lý thuyết về đạo đức của G.E.Moore. Yahoo 7-10-2006. 4. E.G. Moore. Luận điểm về giá trị nội tại. Tạp chí Triết học. 1922. Yahoo, 10-7-2006, tr.4. 5. R.M. Chisholm. Brentano và giá trị nội tại. NXB. Đại học Kembrít, Luân Đôn, Nữu ước..., 1999. Risieri Frondizi. Giá trị là gì? Nhập môn giá trị học. NXB. Open Court, 1971. ̀ 6. Ben Bradley. Giá trị nội tại có phải là giá trị có điều kiện không? Tạp chí Nghiên cứu Triết học số 107 (2002) (4 Ct cuối - tiếng Anh). Yahoo 20-7-2006 GTH nghiên cứu: GT tinh thần, nội tại, GT di sản văn hóa, thái độ giá trị (tâm lý: có ý nghĩa, có lợi, thích thú). Bài mục thứ năm Chủ nghĩa Mác – Cơ sở phương pháp C luận của giá trị học ác Mác (1818 - 1880, Đức) đến đầu thế kỷ XXI, theo kết quả điều tra của Đài BBC (Anh) năm 2005, vẫn được đánh giá là một “nhà triết học vĩ đại nhất của mọi thời đại”. Chủ nghĩa Mác đã tạo ra bước ngoặt lớn trong khoa học xã hội - nhân văn: xây dựng nên phương pháp tiếp cận lịch sử trong nghiên cứu xã hội và con người. Ở nhiều bài mục trong sách này, nhất là bài mục về giá trị lao động, bài mục về giá trị gia đình, v.v…, có trích dẫn Các mác, Ăngghen và Lênin. Ở đây, khái quát chung ý nghĩa phương pháp luận của chủ nghĩa Mác đối với giá trị học, cụ thể là vận dụng phương pháp tiếp cận hoạt động - giá trị vào các chuyên đề (bài mục) nghiên cứu mà một phần kết quả được trình bày trong sách này. Từ rất sớm, Mác đã nêu giá trị bản thân con người qua khái niệm “lực lượng bản chất” người và lý thuyết tha hóa người trong tác phẩm “Bản thảo kinh tế - chính trị năm 1844”. Một năm sau (1845), trong Luận cương thứ sáu về Phoiơbách, ông khẳng định con người không phải là cái gì trừu tượng, mà là cụ thể: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội”. Luận đề đó chỉ ra rằng nghiên cứu con người, cũng như nghiên cứu các giá trị gắn bó với con người không bao giờ bỏ qua tính lịch sử và luôn luôn đặt trong các quan hệ xã hội nhất định. Chẳng hạn, hệ giá trị của một nước rõ ràng là kết quả của các dân tộc sinh sống ở đó sản sinh ra, đồng thời phản ảnh yêu cầu đương thời của họ; các cuộc cách mạng hay cải cách xã hội bao giờ cũng kéo theo các biến động của thang giá trị của một cộng đồng dân cư hay một giai tầng xã hội, v.v... Đặc biệt, tác phẩm vĩ đại “Tư bản” (1857) của Mác, theo phát kiến của các nhà tâm lý học Xô viết vào những năm 30 thế kỷ XX (Vưgôtxki, A. N. Lêônchiép, A. R. Luria, v.v...), đã mở ra một trang mới trong lịch sử tâm lý học: Tâm lý học nghiên cứu tâm lý con người theo mô hình của hoạt động lao động. Từ tâm lý học hoạt động, chúng tôi đi đến giá trị học, đề xuất phương pháp tiếp cận hoạt đông - giá trị (có khi còn gọi là phương pháp tiếp cận hoạt động - giá trị - nhân cách): Hoạt động của con người vận hành trong các quan hệ giá trị, các giá trị, kể cả vật chất và tinh thần, đều sinh ra trong hoạt động. Thông qua một so sánh nổi tiếng, công việc của người thợ dệt với con nhện, của người kiến trúc sư với con ong, Mác đã mô tả hoạt động lao động theo quy luật hàng đầu là tính mục đích, ý chí thực hiện và có sự tham gia của các quá trình, thuộc tính tâm lý; mục đích và ý chí hoạt động không tách rời khỏi tính ý nghĩa, hấp dẫn, tình cảm (thích hay không thích), từ đây nảy sinh và vận hành các giá trị tinh thần - tâm lý là các biểu tượng về quá trình và sản phẩm lao động. Kỹ năng sáng chế và sử dụng công cụ lao động, như Vưgôtxki (1896 -1934, Nga) và Luria (1902 -1977, Nga) trong tác phẩm “Các công trình nghiên cứu lịch sử hành vi” (1930) đã chỉ ra, là tiền đề của toàn bộ phát triển văn hóa của loài người. Như vậy là hai phạm trù “hoạt động” và “giá trị” gắn liền với phạm trù “văn hóa” (trong các Bài mục sau sẽ nói tiếp). Chính vì vậy có thể gọi các giá trị tinh thần, như thường gọi, là các giá trị văn hóa. Các giá trị và thái độ giá trị là “các ý niệm” trong đầu (Các Mác), các công cụ tâm lý trong óc (Vưgôtxki), “các biểu trưng” trong tưởng tượng (L. Oaitơ, 1900 – 1975, Mỹ, trong tác phẩm “Khoa học về văn hóa: Nghiên cứu con người và văn minh”, 1949) tham gia vào động cơ của hoạt động, tác động đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách (xem bài mục thứ mười sáu: cấu trúc nhân cách). Đối với con người trong thời văn minh, đặc biệt khi có kinh tế thị trường, khi quy luật giá trị là quy luật tổng quát nhất, trong mọi sự vật thường người ta xem xét dưới góc độ giá trị, có cả giá trị vật chất và giá trị tinh thần; các quan hệ xã hội với cơ sở là các quan hệ kinh tế đều chứa đựng (bao gồm cả phản ánh) các quan hệ giá trị. Hoạt động của con người, mà điển hình là hoạt động lao động, là giá trị cội nguồn đảm bảo sự tồn tại và phát triển con người, thông qua giá trị sử dụng, giá trị trao đổi, giá trị thặng dư. Mục đích, như đã nói ở trên, là quy luật của hoạt động: hoạt động bao giờ cũng nhằm vào đối tượng có ý nghĩa, đem lại lợi ích cho cuộc sống của chủ thể, đáp ̀ ̀ ứng được nhu cầu này hay nhu cầu khác - tức là đạt được một giá trị nào đấy, để tồn tại và phát triển. Nói theo lý thuyết hoạt động, giá trị là “cứu cánh” của cuộc sống, như Căng (I. Kant, 1724 - 1804, Đức) đã chỉ ra. Là một giá trị rất đặc trưng của con người, niềm tin, lý tưởng là động cơ của cả đời người, tạo ra sức mạnh phi thường giúp con người thực hiện các sứ mệnh cao cả, có khi sẵn sàng hy sinh thân mình vì sự nghiệp, lập nên chiến công lẫy lừng, để lại những giá trị bất hủ. Nói một cách đơn giản, khó có thể khẳng định rằng đời người có thể gói gọi trong hai chữ “hoạt động” và “giá trị”, nhưng với tư cách là hai phạm trù khoa học, “hoạt động” và “văn hóa” chứa đựng nhiều khả năng giúp ta hiểu được sự phát triển văn hóa và sự nghiệp con người. Có ba điều cần lưu ý: (1) Nói khái quát, các thành tố văn hóa, văn minh đều có thể coi là giá trị; (2) Văn hóa và văn minh là tổ hợp các giá trị vật chất và giá trị tinh thần; (3) Có vốn văn hóa của xã hội và vốn văn hóa của cá nhân thông qua hoạt động học tập (theo nghĩa rộng của từ này) mà cá nhân lĩnh hội được. Từ thế kỷ XIX, có một sự phân biệt giữa thuật ngữ “văn minh” bởi những năng lực vật chất và kỹ thuật với thuật ngữ “văn hóa” là đặc trưng bởi sự phát triển về giá trị và phẩm chất đạo đức của một dân tộc, một con người. Nói gọn hơn, văn minh là tổ hợp các giá trị vật chất, văn hóa, là tổ hợp các giá trị tinh thần của một dân tộc và loài người, do hoạt động của con người tạo nên và đến lượt từng cá nhân tiếp thu từ văn minh, văn hóa chung (Hệ giá trị chung của loài người, dân tộc…) thành các giá trị nhân cách của bản thân, biểu hiện tập trung ở ứng xử có đạo đức, hành vi văn minh, nói chung lại là “phương thức sinh hoạt” (Hồ Chí Minh, cuối “Nhật ký trong tù”, Mục đọc sách). Hoạt động là bản thể của giá trị: Nhờ hoạt động mà có giá trị bản thân và thái độ giá trị Bài mục thứ sáu Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh – Tư tưởng chỉ đạo nghiên cứu giá trị 1. Chủ nghĩa nhân văn và chủ nghĩa nhân đạo Công cuộc đổi mới, cũng như suốt sáu, bảy thập kỷ trước đó, ngày càng thấm đượm tư tưởng Hồ Chí Minh - ngọn nguồn của mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Nhất là mấy năm gần đây, phong trào học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người đang được nở rộ và đi vào chiều sâu. Theo đó, việc nghiên cứu tư tưởng, sự nghiệp và thân thế của vị lãnh tụ vô vàn kính yêu của toàn quân, toàn dân, toàn Đảng - di sản tinh thần vô giá của dân tộc ta - được quan tâm, chú ý hơn bao giờ hết. Theo chủ đề cuốn sách này, chúng tôi tìm hiểu chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh. Vào thế kỷ thứ VI - thứ V trước Công nguyên (TCN) các bác học cả phương Đông và phương Tây mới xây dựng nên các bài học, lý luận triết học, đạo đức học về đạo làm người và gần 20 thế kỷ sau, vào thế kỷ thứ XIV mới có tên gọi “Chủ nghĩa nhân đạo”, các tiếng dòng La tinh, như tiếng Anh gọi là “Humanism”, thường chuyển sang tiếng Việt là” Chủ nghĩa nhân đạo”; theo từ điển Trung Quốc(1) định nghĩa “Chủ nghĩa nhân văn” hàm chứa nội dung của “Chủ nghĩa nhân đạo”. Ở ta, nói chủ nghĩa nhân văn thường có nghĩa là nhân ái, khoan dung, có lòng yêu thương mênh mông, niềm tin vào sức mạnh và phẩm giá con người. Trong bài mục này nói “Chủ nghĩa nhân văn” hàm chứa nội dung của “Chủ nghĩa nhân đạo”, không tính đến các sắc thái ngôn từ, các cách diễn đạt tinh tế khác nhau về hai thuật ngữ này. ́ Ai cũng thấy trong các thuật ngữ “nhân nghĩa”, “nhân đạo”, “nhân ái” đều có chữ “nhân”. Tiếng Anh: “human”, chuyển ngữ cũng là “người”. Khổng Tử (551-478 TCN) người đầu tiên đưa ra triết thuyết, đạo đức học, giáo dục học lấy chữ “Nhân” làm đầu, mang một nội dung rất phong phú: “Nhân” trước hết là “thương yêu con người” (nhân ái, bác ái); tôn trọng con người (“cái gì mình không muốn, thì đừng làm cho người”) - không khinh người (cung kính), khoan dung, giữ chữ tín; cần mẫn, nhẫn (nhẫn nại, kiên nhẫn), biết dùng người, có tâm trong sáng (cương trực, nghiêm túc, chất phác - thật thà)… Vì thế, lâu nay đạo Khổng được gọi là “đạo nhân”(2). Thực ra đấy chính là nội dung chủ yếu của chủ nghĩa nhân đạo, chỉ thay đổi trật tự “nhân” lên trước, “đạo” xuống sau. Thuật ngữ “nhân đạo” theo chữ La tinh “Humanismus” được dùng trong nhà trường Đức từ năm 1806. Năm 1836, nhà sử học Georg Voigt người Đức chuyển sang tiếng Anh “Humanism” để mô tả Chủ nghĩa nhân đạo thời Phục Hưng (thế kỷ XIV - XVI), bắt đầu từ nước Ý với nội hàm giải phóng con người khỏi quyền uy của tôn giáo, chuyển sang cuộc sống thế tục, trong thế giới này quan trọng nhất là con người, tôn vinh nhân phẩm, chú ý tới những gì con người quan tâm, đề cao các năng lực của con người, nhất là năng lực duy lý. R. Đề các đã đặt ra một mốc rất quan trọng cho thời đại lý trí vào nửa đầu thế kỷ XVII, tiếp đó là Thế kỷ Ánh sáng - thế kỷ XVIII - là thế kỷ giáo dục, nêu bật vấn đề giáo dục tính người, tình người, nhấn mạnh bắt đầu từ dạy biết đọc, biết viết; tình yêu con người gắn liền với tình yêu cộng đồng người và nhân loại. Mấy điều vừa kể về chữ “Nhân” và “Chủ nghĩa nhân đạo” mở ra một thời đại mới với những giá trị nhân văn - nhân đạo là hạt nhân của Hệ giá trị đạo đức chung của loài người, cũng như riêng của từng người, mà từ nôi gia đình, rồi nhà trường và cả xã hội phải hết sức chăm lo giáo dục, mỗi người không được quên tự giáo dục những phẩm chất thiết yếu ấy của con người. Suốt mấy thế kỷ gần đây, từ hành vi con người đối xử bạo lực, tai quái, độc ác… đến các cuộc thực dân xâm lăng chiếm thuộc địa, áp đặt chế độ tàn bạo lên nhân dân các nước thuộc địa, đặc biệt các cuộc chiến tranh xâm lược đều bị nhân loại lên án là phi nhân ́ ́ ́ ́ văn, vô nhân đạo. Đến thế kỷ XX, nhất là sau đại chiến thứ II, chủ nghĩa nhân văn - nhân đạo phát triển mạnh hơn bao giờ hết: các khối chính trị - ngôn ngữ, như khối Pháp ngữ (vốn phần lớn là các nước đã là thuộc địa Pháp, hiện nay Việt Nam là một thành viên) chẳng hạn, đều phải nói đến Chủ nghĩa nhân đạo là mục tiêu cao cả của Cách mạng Pháp (1789) vì các quyền của con người, cố giải thích khối Pháp ngữ đề cao chủ nghĩa nhân đạo không phải như là một từ rỗng tuếch, mà thực sự là một ý tưởng “vì con người toàn vẹn” có lý trí, có tình cảm, có đời sống tinh thần, có tư tưởng đạo đức(3). Trên thế giới cũng diễn ra những cuộc trao đổi giữa các nhà khoa học về tương lai tiến hoá của loài người, trên cơ sở so sánh văn hoá - hệ giá trị phương Đông và phương Tây, một số trong đó tập trung vào đề tài “Chủ nghĩa nhân đạo”: Nếu ở phương Tây, chủ nghĩa nhân đạo xuất hiện từ thời Phục Hưng để phản ứng lại thần quyền của Đức chúa trời, thì chủ nghĩa nhân đạo là nền móng của văn hoá - hệ giá trị phương Đông; tuy vậy, đôi bên đều nhất trí thời đại ngày nay hơn bao giờ hết phải tập trung vào mục tiêu phấn đấu vì con người - vì sự độc lập, tự do, nhân phẩm của con người và họ nêu lên một tên gọi mới “chủ nhân đạo mới” mà Đạo Phật là một mô hình, được phân tích ở ba cấp độ: triết học - nhân đạo, đạo đức và giáo dục(4). Ba cấp độ theo chúng tôi cần nhấn mạnh, đều mang nội dung cốt lõi tập trung vào con người, nên thuật ngữ “humanism” chuyển dịch thành chủ nghĩa nhân văn - nhân đạo. Phong trào giải phóng dân tộc từ thế kỷ XX thấm đượm chủ nghĩa nhân văn: Công cuộc giải phóng con người gắn liền với công cuộc giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và cả nhân loại nữa, như Ph. Ăngghen đã chỉ ra: “…hiện nay đã đến một giai đoạn mà giai cấp bị bóc lột và bị áp bức không còn có thể tự giải phóng khỏi giai cấp bóc lột và áp bức mình (tức là giai cấp tư sản) được nữa, nếu không đồng thời và vĩnh viễn giải phóng toàn thể xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp bức và khỏi cuộc đấu tranh giai cấp”(5). Từ những năm 20 của thế kỷ trước, Nguyễn Ái Quốc với tình thiết tha yêu thương con người, cả dân mình và khắp thế gian và lòng yêu nước sâu sắc đã dấn thân hiến dâng cả đời mình vì dân tộc được hoàn toàn độc lập, con người được hoàn toàn tự do và đã trở thành người chiến sĩ tiêu biểu, lỗi lạc của phong trào này - Người là “hiện thân của chủ nghĩa nhân văn cao cả, chủ nghĩa nhân văn cộng sản, là một con người nhân ái, vị tha” (Võ nguyên Giáp)(6). 2. Nghiên cứu chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh Sách báo viết về Hồ Chí Minh, cả trong nước lẫn nước ngoài, nhiều vô kể, khó làm được một tổng quan. Có một nhận xét chung là nhiều công trình, trong số đó nông sâu khác nhau, dưới khía cạnh này hay khía cạnh khác, ít nhiều đều có ý tưởng tiếp cận với chuyên đề “chủ nghĩa nhân văn”, vì đấy chính là một nội dung không thể thiếu khi nói về nhân cách Hồ Chí Minh. Xin nêu một vài trường hợp tiêu biểu: Phạm Văn Đồng năm 1926 đã tham gia lớp học do Người dạy, về sau từ những năm 1940 đến 1969, suốt gần 30 năm trực tiếp làm cộng sự, sống và làm việc trực tiếp với Người, đến năm 1990 mới hoàn thành một công trình khoa học rất sâu sắc về con người Hồ Chí Minh, đi đến một nhận định khái quát rất chính xác: “Chất con người Hồ Chí Minh là chất Việt Nam, chất cách mạng, chất cộng sản, chất nhân văn… Hồ Chí Minh là người của chủ nghĩa nhân đạo theo ý nghĩa đầy đủ nhất”(7). Có thể nói, đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa nhân văn và chủ nghĩa nhân đạo trong cùng một vòng tròn lôgic, gắn liền với tư tưởng cộng sản Mác – Lênin, được nuôi dưỡng trên mảnh đất Việt Nam và các giá trị nhân văn Việt Nam vừa làm điểm xuất phát vừa là mục tiêu thường trực của cách mạng Việt Nam. Người đã mang tinh hoa văn hoá Đông - Tây và tinh thần nhân ái Việt Nam ( “ái quốc, ái dân”)(6) giáo dục, động viên, khơi dậy khát vọng, nhiệt tình, ý chí ở đông đảo mọi tầng lớp nhân dân đứng lên tự giải phóng dân tộc, giai cấp và bản thân con người. Phạm Văn Đồng viết: “Hồ Chí Minh là hiện thân của tình thân ái…, giàu lòng khoan dung”, tác phong Hồ Chí Minh là một điểm nổi bật trong nhân cách của Người, nói khái quát là tin ở dân và dựa vào dân, gắn bó với Đảng và dân tộc: lòng tin vào con người là một nét cơ bản của chủ nghĩa nhân văn”. ́ ̀ Trong một số tài liệu nghiên cứu nhân cách Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh một số nội dung của chủ nghĩa nhân văn, như “thương người, quý người, nâng đỡ con người…, khiêm tốn, giản dị…, yêu thiên nhiên, hoà hợp với thiên nhiên”(7). Tinh thần cốt lõi của chủ nghĩa nhân văn - nhân đạo chính là Con người - yêu thương con người, quý trọng con người, giúp đỡ lẫn nhau, tất cả vì con người, như Võ Nguyên Giáp viết: “Nếu như khi còn trẻ, trong “Số 1 Le paria” (“Người cùng khổ”, năm 1922 – PMH chú thích), Bác Hồ đã chú trọng “vấn đề con người và giải phóng con người”, thì 43 năm sau, đến cuối đời, trong Di chúc (Dự thảo Di chúc viết năm 1965 - PMH chú thích) Bác vẫn căn dặn lại sau khi chiến tranh kết thúc “đầu tiên là công việc đối với con người”, “Tư tưởng về con người, về giải phóng và phát triển con người, coi con người là nhân tố quyết định thành công của cách mạng, quán xuyến toàn bộ sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh… Tin dân mãnh liệt, lại thương dân hết mực…”(8) Nghiên cứu “Tư tưởng Hồ Chí Minh”, chưa có nhiều công trình tập trung trực tiếp viế99t theo chủ đề “Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh”. Không có ý định làm một tổng quan về vấn đề này, chúng tôi xin được nhắc đến Hội thảo do Viện Nghiên cứu Con người thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam tổ chức. Ở Hội thảo này có hai bài lấy tiêu đề “Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh”: Bài thứ nhất của chuyên gia cao cấp Việt Phương, bài thứ hai của người viết những dòng này. Trong bài của mình Việt Phương viết: “Nhắc đến Hồ Chí Minh chúng ta liên tưởng ngay đến tư tưởng nhân văn… Hồ Chí Minh là người trong suốt đời mình tìm kiếm giá trị con người… Một trong những cống hiến to lớn của Hồ Chí Minh đối với loài người là Chủ nghĩa nhân văn về Con người được thể hiện rõ nét mang đậm tính dân tộc”(9). Ông đã đúc kết “Chủ nghĩa nhân văn và chất nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh” vào 5 điểm như sau: (1) Coi trọng tình người, đào tạo, thức tỉnh tình người; (2) Biết đánh giá, sử dụng, phát huy năng lực của từng người; (3) Thận trọng, chăm lo, tạo điều kiện hoàn thiện nhân cách của từng người; (4) Thực sự bình đẳng giữa các cá nhân con người; (5) Hiểu được nhu cầu tự khẳng định của từng người. Năm điểm này vừa cụ thể hoá, vừa có phần bổ sung vào những khái quát trình bày ở trên, ̀ ́ hoàn thiện dần hệ thái độ đối với con người từ góc độ một con người bình thường đến một nhà chính trị, một nhà lãnh đạo quốc gia, một lãnh tụ của Đảng, một nhà giáo dục, có cả dưới góc độ tâm lý học (nói tới nhu cầu tự khẳng định mình trong thang nhu cầu của nhà tâm lý học nhân văn Mátslâu (1908-1970, Mỹ). Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là phương châm nghiên cứu con người và giá trị học gắn liền với nghiên cứu nguồn nhân lực trong dòng chảy văn hoá, như là một chân kiềng của công cuộc phát triển bền vững đất nước theo tinh thần kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống dân tộc và tiếp thụ tinh hoa văn hoá nhân loại. Nêu bật phép biện chứng “truyền thống - hiện đại” trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chỉ ra nghiên cứu con người phải theo quan điểm lịch sử, quan điểm phát triển và quan điểm thực tiễn. Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là phương pháp luận nghiên cứu con người bao gồm ba quan điểm đó và là nội dung cơ bản xây dựng và phát triển nền giáo dục nhân văn là yêu cầu mới của thời đại thông tin, công nghệ mới, mở cửa, hội nhập: tăng cường giáo dục công nghệ luôn luôn phải đi liền với tăng cường giáo dục nhân văn, giáo dục con người. Trong bài thứ hai này tác giả đã nêu lên bốn nội dung của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, như lòng yêu thương con người, coi trọng con người, giải phóng con người, con đường thực hiện triết lý nhân văn, sẽ trình bày chi tiết trong mục tiếp theo. 3. Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh Chủ tịch Hồ Chí Minh không nói trực tiếp vào chủ đề này. Các trước tác của Người được khái quát lên thành “Tư tưởng Hồ Chí Minh” chính thức bắt đầu từ Đại hội IX Đảng CSVN (2001). Tôi rất đắn đo, suy nghĩ, mạnh dạn đề ra mục này, nội dung rất khó, rất phong phú, cách diễn đạt (trình bày) không đơn giản chút nào, phải dày công tìm tòi, phát hiện. Trước đây, nhiều dịp kỷ niệm ngày sinh của Người, tôi có viết một ít bài vận dụng tư tưởng của Người vào giáo dục và tâm lý học. Trong suốt quá trình đó, nhất là bước vào thời đại mới - cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI - khi thực tiễn và lý luận giáo dục đòi hỏi phải đào sâu và phổ biến rộng rãi giáo dục nhân văn, tôi không rời ý tưởng nghiên cứu và vận dụng chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh vào nghiên cứu con người và giá trị học, qua đó vào giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình, giáo dục xã hội. Rất may, những học trò lỗi lạc và cũng là những cộng sự rất đắc lực, sống và làm việc bên Người suốt mấy thập kỷ, như trên đã trình bày và đấy lại là các bậc trí giả tiêu biểu nhất của đất nước trong thời đại Cách mạng tháng Tám, đã chỉ ra các nội dung cơ bản và cả các tên gọi của chủ đề nghiên cứu này, mà chúng tôi lấy làm tư tưởng chỉ đạo công việc đúc kết và đề xuất xây dựng Hệ giá trị chung của người Việt Nam thời nay. Theo đó, tôi đề xuất nội dung sau đây của Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh: (1) Yêu thương vô hạn con người, nhất là người bị áp bức, nghèo khổ: Để giải phóng khỏi ách thực dân đô hộ, muốn xây dựng nước ta thành một thiên đường, từ năm 1925 Nguyễn Ái Quốc đã khuyên, dân mình phải “Hãy thương yêu nhau, cùng nhau đoàn kết” - trong thời điểm đó, dân mình sống một đời nô lệ cùng khổ, nhục nhã và cả sau này, suốt cả tiến trình cách mạng, đấy chính là nội hàm cực kỳ quan trọng của chữ “Tâm” mà Nguyễn Ái Quốc xếp lên đầu, trước “tài và lực” (Hồ Chí Minh, 1925)(10). Nói một cách dân dã, “Tâm” là “tình nghĩa”. Bác Hồ có một cách hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin hết sức độc đáo, rất Việt Nam, có một không hai trên đời này, Bác nói: “Hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin là phải sống với nhau có tình nghĩa” (Hồ Chí Minh, 1968)(11). Tình thương là động lực của cuộc sống, đoàn kết là sức mạnh của cộng đồng, dân tộc. Đấy là chân lý cao đẹp nhất trong cuộc đời Hồ Chí Minh. Trong Di chúc Bác đã “để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh thiếu niên, nhi đồng”. (2) Tôn trọng con người: Trong xây dựng nền văn hoá dân tộc của một xã hội tốt đẹp, Hồ Chí Minh hết sức coi trọng yếu tố tâm lý con người, xây dựng yếu tố này được coi là số 1, sau đó mới đến “xây dựng luân lý, xây dựng xã hội, xây dựng chính trị, xây dựng kinh tế” (Hồ Chí Minh, 1943)(12), coi trọng tâm tư, ước nguyện, nhu cầu của con người. Người đã cống hiến cả đời mình mong sao nước nhà được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Mục tiêu của cách mạng là “tất cả vì con người”. (3) Giải phóng con người khỏi áp bức, nô lệ, nghèo khổ, lầm than: Đấy là lý tưởng kiên định suốt đời Người. Từ ngày còn là học sinh trung học, Nguyễn Tất Thành đã quan tâm, tìm hiểu tư tưởng “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” của Cách mạng Pháp. Càng hiểu tư tưởng này, Người càng căm thù bọn thực dân Pháp và quyết tâm đi tìm con đường cứu dân, cứu nước, cả nước mình, cả các nước thuộc địa khác, khỏi ách nước ngoài đô hộ. Tháng 5 - 1923, trong bài “ Kỷ niệm báo Le Paria”, Người đã nêu khẩu hiệu “Sự nghiệp giải phóng và những người bị ngược đãi muôn năm!” ( Hồ Chí Minh, 1923)(13). Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp cũng nhằm vào giải phóng con người. (4) Khoan dung: Nguyễn Ái Quốc dành trang đầu “Đường cách mạng” (1927)(14) cho mục “Tư cách người cách mạng” cần có 23 thái độ với bản thân, với người khác và với công việc; trong “Thái độ với người khác”, thái độ đầu tiên Bác viết: “Với từng người thì khoan thứ”, ngày nay gọi là “khoan dung”, theo nghĩa thông thường, là rộng lượng (có khi nói “lượng thứ”), không chấp nhặt, biết thông cảm, đồng cảm, chia sẻ, tất nhiên không khoan nhượng, hơn nữa phải đấu tranh với những hành vi lệch lạc, sai trái. Vì mục tiêu hoà bình, bác ái, Liên Hiệp Quốc đã lấy năm 1995 là “năm khoan dung”. Bấy lâu nay, báo chí ta lên án mạnh hiện tượng vô cảm, vô nhân đạo, mất nhân tính đang có xu thế ngày một tăng. Một xã hội tốt đẹp, điều cực kỳ quan trọng là ở thái độ giữa con người với con người là hạt nhân. Giáo dục nhân văn bắt đầu từ đó và mục tiêu quan trọng nhất là nhằm vào đó, như Bác Hồ đã viết huấn luyện cho những cán bộ cách mạng đầu tiên của chúng ta. (5) Sử dụng đúng từng người - phương châm hoạt động Hồ Chí Minh quán triệt suốt đời: Cách mạng là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Vì vậy, ở đâu Người cũng quan tâm chăm sóc đội ngũ cán bộ làm nòng cốt và chỉ đạo phong trào, các tầng lớp nhân dân. Muốn sử dụng đúng cán bộ, phải đánh giá đúng con người, sắp xếp họ vào đúng công việc, phát huy tối ưu giá trị bản thân từng người. Ngày nay, nhiều tác giả, cả trong nước lẫn ngoài nước, đều ́ ̀ ̀ ́ nhắc lại thành phần Chính phủ Cụ Hồ như là một tấm gương sáng về chính sách dùng người, từ trí thức đến công nông, từ người già đến người trẻ, đặc biệt chú ý tới người tài (tháng 11 - 1945 Bác viết bài “Nhân tài và kiến quốc”, tháng 11 - 1946 Bác ban hành công văn “Tìm người tài đức” về sau được gọi là “Chiếu cầu hiền tài”). Mỗi người đều phải tự kiến tạo thành một hệ giá trị và cả xã hội có trách nhiệm phát huy tác dụng của hệ giá trị bản thân của mọi người - đấy là nguồn tài nguyên vô tận giữ vai trò hàng đầu tạo nên của cải phúc lợi xã hội. (6) Một triết lý hành động: Chủ Nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh không chỉ là một triết lý đơn thuần tranh đấu vì con người theo nghĩa rộng thông thường, mà như Mác nói trong “Luận cương Phơbách”, đó là triết lý hành động - cải tạo thế giới. Cụ thể là, từ tình thương yêu con người, nhất là những người nghèo khổ, bị áp bức, đàn áp, yêu nước, yêu dân mà Bác đã thấy tận mắt và cảm nhận sâu đậm từ trong nước đến những năm bôn ba khắp các châu lục, Nguyễn Ái Quốc đã đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng vào hoàn cảnh Việt Nam, đề ra chiến lược, chiến thuật tổ chức và lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh đã có sức hấp dẫn, lôi cuốn các giai tầng xã hội và đã là nguồn cổ vũ tạo nên sức mạnh tinh thần cho các cán bộ, chiến sĩ vượt qua cực hình trong lao tù, khó khăn gian khổ trong chiến đấu, sẵn sàng theo tiếng gọi của Người “Thà hy sinh tất cả, không chịu làm nô lệ” - và biết bao cán bộ, chiến sĩ, nhân dân đã hiến thân mình, con cháu mình, của cải của gia đình mình… cho Tổ quốc mà chúng ta ngày nay có cuộc sống đổi mới trong hoà bình, thống nhất, sánh vai với các nước năm châu bốn biển. Ngày nay, tích cực xoá đói giảm nghèo, phát huy truyền thống “lá lành đùm lá rách”, làm từ thiện… Những điều trình bày ở trên, tuy còn sơ sài, mới chỉ là một phác thảo ban đầu, có lẽ là nêu vấn đề nhiều hơn là giải quyết vấn đề, nhưng cũng đã cung cấp một số tư liệu, ý tưởng làm cơ sở để khẳng định: chủ nghĩa Mác - Lênin là kim chỉ nam của cách mạng Việt Nam, chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh - cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh - là nền tảng lý luận trực tiếp của đường lối phát ̀ triển bền vững của Việt Nam, là tư tưởng chỉ đạo nghiên cứu giá trị học thông qua nhân cách của Người. 4. Nhân cách Hồ Chí Minh Về đề tài này, ở ta mới có một vài người viết, có lẽ mở đầu từ Giáo sư Trần Văn Giàu. Nhưng đây chính là một nội dung cực kỳ phong phú, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn quan trọng, hấp dẫn nhiều nhà nghiên cứu, các nhà chính trị, các nhà giáo dục nhiều nước, những người muốn đóng góp hướng loài người và dân tộc mình tới một tương lai tốt đẹp hơn. Trên mạng Gugôn (Google) có hẳn mục từ “Nhân cách Hồ Chí Minh”, nhiều tác giả dùng cụm từ này, như Bơcxét (W. Burchett), nhà báo nổi tiếng, người Úc, sau khi được Hồ Chủ tịch tiếp (năm 1954) đã viết “tôi được tiếp xúc với một nhân cách vĩ đại” (“Great personality”)2. Một số từ điển đặt ảnh Bác cùng với nhà khoa học vĩ đại Anhstanh. Tanuôcca (G. Talwalkar, Ấn Độ) trong bài “Hồ Chí Minh - truyện cổ tích” (2001) giới thiệu sách “Hồ Chí Minh” (2000) của Đuycơ (W.J. Duiker), giáo sư sử học Mỹ, đã ca ngợi tác giả giải quyết thành công những điều bí ẩn trong “nhân cách huyền bí” (“mysterious personality”). Bách khoa thư Wikipedia (12-6-2009) viết Hồ Chí Minh là “một nhân cách thần thánh” (“Personality Cult”), một số tác giả gọi Người là “Găngđi” hoặc “nửa Găngđi”, nửa Lênin”. “PĐ. Phơrăngxit (D. Franceschi), nhà báo Pháp, trong một bài báo (2007) viết: Hồ Chí Minh đã “góp phần dựng nên một nhân cách kiệt xuất”. Suốt mấy thập kỷ qua và cả những năm gần đây, nhiều nơi, nhiều nước muốn quảng bá nhân rộng hình mẫu nhân cách Hồ Chí Minh. Theo Hồ Chí Minh, nhân cách là một hệ thống thái độ của con người. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh” công bố năm 1927 ở mục “Tư cách người cách mệnh”, Bác khuyên người cán bộ cách mạng phải có nhân cách gồm: Tự mình phải: Cần kiệm. Hoà mà không tư. Cả quyết sửa lỗi mình. Cẩn thận mà không nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn nại (chịu khó). Hay nghiên cứu, xem xét. Vị công vong tư. Không hiếu danh, không kiêu ngạo. Nói thì phải làm. Giữ chủ nghĩa cho vững. Hy sinh. Ít lòng tham muốn về vật chất. Bí mật. Đối với người phải: Với từng người thì khoan thứ. Với đoàn thể thì nghiêm. Có lòng bày vẽ cho người. Trực mà không táo bạo. Hãy xem xét người. Làm việc phải: Xem xét hoàn cảnh kỹ càng. Quyết đoán. Dũng cảm. Phục tùng đoàn thể. Như vậy là tất cả có 23 điều mỗi cán bộ phải làm, có điều là đức tính, có điều là công việc, có điều là cách ứng xử… chúng tôi gọi chung là 23 “thái độ”, là các mối quan hệ của con người với chính mình, với người khác, với công việc, trong đó Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu các thái độ với bản thân - tự ý thức, tự giác ngộ, cầu tiến, gương mẫu, rồi mới đến thái độ đối với người, với công việc. Về số lượng cũng vậy: 14 thái độ đối với bản thân, với người - chỉ có 5, với công việc - 4. Thậm chí, có thể nói nếu mỗi chúng ta làm được 14 điều cần làm với chính mình, thì mọi chuyện khác đều ổn. Điều cần nói ở đây là cuộc đời và sự nghiệp của Người và những điều viết trong tác phẩm là một: đó chính là 23 giá trị nhân cách đúc kết trong các thành tố tiểu cấu trúc nhân cách bao gồm: “Tâm, tài, lực”, như Bác viết trong bài thơ “Hãy yêu thương nhau và cùng nhau đoàn kết” ngày 25 tháng 8 năm 1925 với chữ “tâm” lên đầu, có thể hiểu là nhân cách, hay như Phạm Văn Đồng gọi là “chất người”, về sau khái quát thành lý thuyết “cấu trúc vĩ mô của nhân cách bao gồm tài và đức”, trong đó đức là gốc. Đây là 3 giá trị bao trùm bảo đảm sự sống và phát huy năng lực nói chung của con người. 12 năm sau, vào tháng 10 năm 1947, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Bác cụ thể hoá đạo đức cách mạng bao gồm “nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm” - coi là 5 thành tố trong tiểu cấu trúc nhân cách. Đây là 5 giá trị chung, tạo ra năng lực cụ thể, có khi đạt đến tầm cao được gọi là tài năng, nhân tài… phát huy sức mạnh đời người. 2 năm sau, trong 2 tháng (5 và 6) năm 1949 Bác viết 4 bài báo: “Thế nào là cần?”, “Thế nào là kiệm?”, “Thế nào là liêm?”, “Thế nào là chính?”, sau gộp lại in thành một cuốn sách “Cần kiệm liêm chính”, xác định rõ nội dung của các thành tố tiểu cấu trúc nhân cách, mà mỗi một cán bộ Đảng, Nhà nước cần phải có - ́ ̀ ́ ́ ́ vấn đề hết sức thời sự đối với đợt học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh hiện nay nên tập trung vào nội dung này, coi đây là một điểm tựa khắc phục các vấn nạn của thời kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập. Chủ nghĩa nhân văn và nhân cách Hồ Chí Minh là một xuất phát điểm đúc kết và xây dựng Hệ giá trị chung của chúng ta. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Từ điển Từ Hải. Thượng Hải từ thư xuất bản xã, 1999. 2. Trần Trọng Kim. Nho giáo trọn bộ, 1930. NXB. Văn học, HN, 2003, tr.47-57. 3. Stelio Farandjis. Khối nói tiếng Pháp với chủ nghĩa nhân đạo (tiếng Pháp), Tr.338-340. NXB. Tougui, Paris,1989. 4. Giôjep Đecbôlap, Đaisacu Ikêđa. Tìm chủ nghĩa nhân đạo mới (tiếng Anh), Tr.43-46. NXB. Weatherhill, Nữu ước – Tôkyô,1992. 5. Ph. Ăngghen. Lời tựa cho bản tiếng Đức “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” xuất bản năm 1883. C. Mác, Ph. Ăngghen. Toàn tập, t.21, tr.12. NXB. CTQG, HN, 1995. 6. Phạm Văn Đồng. Hồ Chí Minh một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp. NXB. CTQG, HN, 1990. 7. Trần Văn Giàu. Nhân cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Kỷ yếu Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá. NXB. KHXH,HN,1990. 8. Võ Nguyên Giáp. Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng và phát triển con người. Trong kỷ yếu Tư tưởng Hồ Chí Minh – Phương pháp luận nghiên cứu con người, do Phạm Minh Hạc, Phạm Thành Nghị, Trịnh Thị Kim Ngọc chủ biên. NXB. Khoa học xã hội (KHXH), HN, 2003, tr.17-39). ̀ 9. Việt Phương. Chủ nghĩa nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Kỷ yếu (xem số 6 trong TLTK này), tr.112-118. 10. Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.2, tr.440-441. NXB. CTQG, HN, 1995. 11. Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.12, tr.554. NXB. CTQG, HN, 1995. 12. Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.3, tr.431. NXB. CTQG, HN, 1995. 13. Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.1, tr. 463. NXB. CTQG, HN, 1995. 14. Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.2, tr.260. NXB. CTQG, HN, 1995. Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh 1. Yêu thương con người 2. Tôn trọng con người 3. Giải phóng con người 4. Khoan dung 5. Trọng dụng con người 6. Tranh đấu vì con người Bài mục thứ bảy Trải nghiệm – Cơ chế hình thành giá trị (Hiện tượng học và giá trị học) 1. Đặt vấn đề Sự hình thành Giá trị học có quan hệ mật thiết với triết học hiện tượng của E. Hútséc. Bài mục này tìm hiểu thêm về đối tượng và nội dung của Giá trị học thông qua việc xem xét quá trình Hútséc đi từ hiện tượng học đến giá trị học. Tìm hiểu sự hình thành khoa học về giá trị (giá trị học) không thể nào bỏ qua Hiện tượng học. Từ “hiện tượng” ở đây không hiểu một cách thông thường là “cái xảy ra trong không gian, thời gian mà ta nhận thấy”(1), cũng không hiểu là “trạng thái sự vật, sự việc xảy ra trong tự nhiên và xã hội…, hình thức biểu hiện ra bên ngoài… phân biệt hiện tượng với bản chất”(2). Từ “hiện tượng” ở đây dùng để chỉ đối tượng nghiên cứu của một triết học - triết học “Hiện tượng” do Étmun Hútséc sáng lập. Nhưng chủ đề của bài mục này không phải là giới thiệu nội dung của triết học này mà muốn tìm hiểu quá trình Hútséc đi từ hiện tượng học đến giá trị học như thế nào, qua đó hiểu thêm được đối tượng và nội dung của giá trị học. Đây là một vấn đề có lịch sử ra đời và phát triển lâu dài, khoảng một thế kỷ, nội dung rất phong phú (riêng Hútséc đã viết 40.000 trang) và phức tạp, đây mới là bước đầu tìm hiểu, chủ yếu dưới góc độ của khoa học về giá trị do Hútséc đặt một phần nền móng quan trọng. 2. Con đường dẫn Hútséc (1859-1938) tới hiện tượng học Hútséc tên đầy đủ là Étmun Hútséc (Edmund Husserl) sinh ngày 8 tháng 4 năm 1859 tại Tiệp, học ở Laixích, Béclin (Đức) và Viên (Áo). Năm 1884, ông học tâm lý học và triết học từ Bơrentanô (Fran Brentano, 1838 - 1917)(3), năm 1886 bảo vệ thành công luận án tiến sĩ khoa học và ngay sau đó (1887) đã hoàn thành công trình “Bàn về các số tự nhiên”, rồi từ công trình này đã viết một cuốn sách quan trọng đầu tiên “Triết học về số học” (1891). Trong những năm này, Hútséc đã cố kết hợp toán, tâm lý học và triết học lại với nhau, ví dụ, để phát hiện cơ sở tâm lý học của quá trình hiểu các con số. Tiếp theo, ông đi vào nghiên cứu phân biệt biểu tượng trực tiếp (tương đương với tri giác) và biểu tượng gián tiếp (bây giờ ta gọi là biểu tượng hay một biểu trưng, một tín hiệu về hình ảnh đã tri giác). Thành phần “Về” ở đây là một đặc trưng rất quan trọng trong các hiện tượng tâm lý, nó là dấu gạch nối giữa tâm lý và thế giới bên ngoài: giá trị trong giá trị học là giá trị “Về” một cái gì đó. Đó là một ý tưởng Hútséc học được ở các thầy của mình, ý tưởng này gắn liền với thuyết “chủ đích” của Bơrentanô: Mỗi quá trình tâm lý, ý thức bao giờ cũng nhằm vào (hay hướng tới về) một cái gì đấy, đây là đặc điểm chủ yếu của tâm lý, ý thức được gọi là chủ đích trong biểu tượng (Intentional Inexistence), tức là cái đích chưa có trong thực tế. Còn cái mà tâm lý, ý thức nhằm tới được gọi là “đối tượng chủ đích” - đây chính là đối tượng của tâm lý, ý thức, tư duy, giá trị được coi là các tồn tại của chủ đích, các vật thể vật lý bình thường không thuộc vào loại tồn tại này. Đóng góp quan trọng của Hútséc ở đây là đưa ra cơ sở của sự tồn tại của phạm trù “hiện tượng tâm lý” trong đó có giá trị và thái độ giá trị. Vào thập kỷ cuối của thế kỷ XIX và thập kỷ đầu của thế kỷ XX, Hútséc thấy riêng khẳng định tâm lý học, như vừa trình bày, không rõ được nội dung của các hiện tượng tâm lý. Do đó ông đã chuyển sang cách tiếp cận lô-gíc theo Pơlatông (Platon, 427 - 347 TCN) vì nhờ lô-gíc mà ta mới có được các quy luật khách quan (có khi gọi là các quy luật tiên nghiệm là các tiên nghiệm khách quan - A priori). Các quá trình phán đoán, tư duy, phát hiện không chỉ là các quá trình tâm lý, mà còn là những quá trình lô-gíc, mà lô-gíc có chuẩn mực trong thiên nhiên, hay phải phân biệt các quá trình phán đoán và kết quả của quá trình ấy là chính phán đoán, trong đó có phán đoán về giá trị tinh thần - thái độ giá trị đối với sự vật hiện tượng. Như vậy là theo đường lô-gíc học, như đã trình bày trong công trình nghiên cứu “Nghiên cứu lô-gích học” (1900-1901), Hútséc đi tìm nội dung của quá trình tâm lý - cái tạo ra hướng đích nhằm vào hay “về” một khách thể nào đấy: một bên là ý tưởng, một bên là hiện thực. Từ đó, mỗi hiện thực (một vật thể) trong từng trường hợp cụ thể trong một không gian, một thời gian nhất định có một nghĩa nhất định. Một nghĩa chung của một nhóm (loại) khách thể tạo nên một quan niệm, có khi gọi là khái niệm hay luận điểm - những cái này được gọi là kinh nghiệm, cảm nghiệm, thể nghiệm, trải nghiệm (bốn thuật ngữ này trong tiếng Anh đều gọi là Experience, dưới đây chúng tôi dùng thuật ngữ “trải nghiệm” để chỉ chung cho cả bốn thuật ngữ này). Đây là kết luận chính của tác phẩm “Trải nghiệm và phán đoán” (1939). “Trực giác nhạy cảm” (Sensible Intuition) là con đường tìm ra nghĩa, ý nghĩa (Meaning) của một vật thể (khách quan, hàng hoá) hay một lớp (một nhóm), con đường này gọi là “trực giác phạm trù”, có khi còn dùng tới cả “trực giác bản chất” hay “trực giác Âyđêtic” (Eidetic: biểu tượng sự vật y như tri giác nhìn thấy trực tiếp sự vật). Trải nghiệm việc “hướng tới”, “nhằm vào” hay “về” được gọi là hiện tượng. Hiện tượng học của Hútséc là triết học được hình thành từ đây. Trải nghiệm là một cấu trúc tâm lý, ý thức, nơi hình thành, diễn biến quá trình đánh giá biểu hiện một (hay hệ thống) giá trị: cơ chế hình thành giá trị trải nghiệm thành giá trị tinh thần - tâm lý - văn hoá. Người giàu trải nghiệm là “người từng trải”, “biết điều”, “hiểu đời” học từ sách vở, nhà trường, từ thực tế trường đời, giàu kinh nghiệm sống, không bó hẹp trong tri thức hàn lâm, nói gọn, có lí luận, có hiểu biết gắn liền với thực hành. Nói theo tâm lý học, có cả IQ (chỉ số thông minh) lẫn EQ (thông minh cảm xúc đam mê), CQ (sáng tạo). 3. Hiện tượng học Hútséc ́ ̀ ́ Hiện tượng học Hútséc, như vừa trình bày gắn liền với sự xuất hiện của trải nghiệm, không nghiên cứu “hiện tượng” theo nghĩa thông dụng (event), mà là một triết học về sự xuất hiện của một đối tượng vật thể đối với ý thức - đây chính là đối tượng học của Hútséc. Người ta còn phân biệt “hiện tượng học” (Phenomenology) và “hiện tượng luận” (Phonomenalism)(4) với ý định phát triển triết học cả về tự nhiên, cả về con người. Năm 1911, Hútséc công bố bài báo “Triết học là một khoa học chính xác”. Tiếp đó, năm 1913, ông cùng với một số cộng tác viên xuất bản “Biên niên triết học và nghiên cứu hiện tượng học”; ở đây ông công bố tác phẩm “Ý tưởng (Ideas) thuộc về hiện tượng học thuần khiết và triết học hiện tượng học: quyển một”, quyển hai công bố sau khi ông mất. Ideas là tác phẩm chính kiến tạo nên Hiện tượng học Hútséc, trình bày cấu trúc tâm lý bao gồm các trải nghiệm của ý thức, bao gồm những gì người ta cảm nhận thấy từ thế giới vật chất - tuy thế giới này tồn tại (như là các vật thể), nhưng các thuộc tính của chúng thì lại phụ thuộc vào chỗ ta hướng vào cảm nhận, thể nghiệm thấy chúng - và cuối cùng các vật thể chỉ còn là các vật thể được ta thể nghiệm. Cái gọi là hiện tượng (phenomeno) trong hiện tượng học nhấn mạnh đến trải nghiệm hầu như từ ý thức mà ra, nên còn gọi là “hiện tượng tiên nghiệm” khi chỉ còn lại các vật thể trong biểu tượng: vật thể chỉ còn là hiện tượng trong ý thức, tâm lý. Ở đây lập trường hiện tượng luận Hútséc là lập trường duy tâm. Nhiều sách báo(5) đã phân tích lập trường này, đặc biệt với những người nghiên cứu Việt Nam chúng ta rất may có công trình “Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng” của Giáo sư Trần Đức Thảo (1917-1993) đã viết bằng tiếng Pháp từ 1942 và hoàn thành năm 1951(6), nêu bật lập trường Mác-xít đối với trường phái triết học này. Lập trường Mác-xít khẳng định trải nghiệm qua hoạt động thực tiễn và giao tiếp (sống thật - sống thực) là trải nghiệm quan trọng nhất trong cơ chế tạo ra giá trị. 4. Từ hiện tượng học đến giá trị học. ́ Không đi sâu vào phân tích phê phán vừa nêu, chúng tôi viết mấy điều sơ giản trên để tìm hiểu sự đóng góp của trường phái triết học này đối với việc xây dựng và phát triển giá trị học hồi nửa đầu của thế kỷ XX. Giáo sư Trần Đức Thảo viết: “Công lao chính của hiện tượng học là triệt để thanh toán chủ nghĩa hình thức trong chiều hướng phát triển của chính chủ nghĩa duy tâm và đã đặt tất cả các vấn đề về giá trị trên mảnh đất của cái cụ thể” (PMH nhấn mạnh)(7) - tạo cơ sở để hình thành, phát triển khoa học về giá trị. Chính khi thế giới đối tượng (vật thể) xuất hiện tạo nên sự cảm nhận, rồi tri thức, trải nghiệm xuất hiện và ở đây xúc cảm, tình cảm giữ một vai trò quan trọng, tạo nên trạng thái thoả mãn hay không thoả mãn, dễ chịu hay khó chịu, tóm lại, kéo theo quá trình đánh giá, tức là thấy được mặt giá trị của sự vật và kết quả là sự cảm nhận giá trị và phán đoán về giá trị (thái độ giá trị) - Điều mà chúng ta thường thấy trong khi điều tra khảo sát giá trị. Vì có quá trình đánh giá một cái gì đấy trong cấu trúc trải nghiệm nên trong ý thức có cái gọi là hành vi ý thức, và trong “Ideas”, E. Hútséc đã chỉ ra, có “cái trí” (tiếng Đức - noesis, có người sau này gọi là “noetic”: “trí năng”), để đánh giá một cái gì đấy. Có thể diễn đạt ý này theo một cách khác: dùng một (hay một hệ, một thước đo…) giá trị trong vốn trải nghiệm của bản thân đánh giá một (hay một hệ, một thước đo…) giá trị khác (trong hay ngoài bản thân). Quá trình đánh giá này và sản phẩm của nó nói lên giá trị, hệ giá trị của bản thân thông qua thái độ đối với các giá trị nào đấy. Đây chính là đối tượng của các điều tra giá trị. Có thể hiểu cơ chế giá trị vừa trình bày qua tìm hiểu một bài giảng nổi tiếng của Hútséc - đó là bài “Triết học và sự khủng hoảng của con người châu Âu” (Viên, 10 tháng 5 năm 1935). Bài này giữ một vị trí quan trọng trong quá trình ông vận dụng triết học, hiện tượng học vào xây dựng và phát triển giá trị học thông qua chứng minh sự tồn tại các chuẩn mực trong thế giới tinh thần. Giá trị học có ý nghĩa trực tiếp rất lớn đến đạo đức, luân lý - một vấn đề thời sự bức xúc trong xã hội đương thời. Bài giảng không giới thiệu nội dung của cuộc khủng hoảng ở Châu Âu hồi đó, mà chỉ chỉ ra đây chính là cuộc khủng hoảng con người  ̀  Châu Âu - cuộc khủng hoảng tinh thần (Spirit) Châu Âu. Để thoát khỏi tình trạng này phải xem lại cả hệ thống khoa học nhân văn - các khoa học về thế giới tinh thần: vấn đề là, phải có một tinh thần mới, lối suy nghĩ mới - một triết học mới, như chúng ta gọi là “đổi mới tư duy lý luận”, trong đó có vận dụng vào lĩnh vực giáo dục tư tưởng - chính trị, đạo đức thời nay ở nước ta. Tác giả khẳng định, các khoa học tự nhiên là các khoa học chính xác nghiên cứu thế giới tự nhiên. Tinh thần và tự nhiên là hai lĩnh vực bình đẳng cấu tạo nên thế giới (tất nhiên, đây là thế giới tồn tại của con người). Không đi vào phê phán việc phân tích tính chất duy tâm của khẳng định này, mà chỉ nhấn mạnh sự tồn tại và vai trò quan trọng của thế giới tinh thần, tác giả coi trọng mối quan hệ mật thiết giữa hai thế giới này, như mối quan hệ TÂM - THÂN trong con người. Khoa học nhân văn nghiên cứu tồn tại người như là những con người (Human beings as persons), cuộc sống và hoạt động của con người trong xã hội còn gọi là cộng đồng (“cộng đồng” Hútséc gọi là “chân trời”) gắn liền với các trải nghiệm xảy ra trong quan hệ con người - cộng đồng (gia đình, dân tộc, quốc tế) và ở đây, Hútséc nhấn mạnh “quan hệ giữa các chủ thể”. Điều tác giả đặc biệt lưu ý là các mối quan hệ này không diễn ra theo ý (Sense) sinh lý học, mà luôn luôn biểu thị một sự sáng tạo tinh thần nào đó - Hútséc suy rộng ra gọi là “sự sáng tạo văn hoá trong sự liên tục lịch sử”7, thế giới quan quanh ta đối với ta không là thế giới khách quan đơn thuần, mà là các khách thể tạo ra biểu tượng trong cấu trúc trải nghiệm, rồi đọng lại ở đó (epoche) và - qua cái ta đã nghiệm thấy, đã trải qua, trong đó có cảm xúc, nhận thức và cả đạo đức nữa - qua đó mà đánh giá cái gì có giá trị, cái gì phù hợp với hệ giá trị của bản thân, cái gì không. Đây là cơ chế xuất hiện hệ giá trị, thước đo giá trị… Trải nghiệm là giá đỡ của giá trị. Hệ giá trị của mỗi người luôn mang tính lịch sử. Lịch sử loài người từ thuở ban đầu luôn luôn là lịch sử các chuẩn mực nhất định cả về đạo đức, cả về chân lý, cả về vẻ đẹp. Khái niệm “giá trị” trong giá trị học luôn gắn liền, nhiều khi đồng nghĩa với “chuẩn mực”. Trong quá trình tiến hoá, con người luôn luôn tự nhìn lại mình - nhìn sâu vào tâm hồn mình (insight) - như Hútséc đã chỉ ra, để tự phê phán các giá trị không còn phù hợp, cả dưới dạng bộc bạch, cả ̀ ́ ́ dưới dạng tiềm ẩn. Triết học phương Đông lẫn triết học phương Tây đều quan tâm vấn đề này. Lịch sử tinh thần (các chuẩn mực, các giá trị) luôn phát triển. Tuy có sự khác nhau trong các dạng thức tồn tại qua các thời đại khác nhau, nhưng các chuẩn mực có tính đồng nhất gắn với tính mục đích, động cơ, lòng mong muốn chung của loài người, như đã trình bày ở trên. Từng con người và cả loài người (hay từng cộng đồng) mang các giá trị chung mà Hútséc gọi là “giá trị thật - giá trị chính đáng (true values, genuine goods, absolutely valid)”. Tất cả những điều vừa nói đều biểu thị qua thái độ của con người (Điều tra giá trị đo các thái độ này). Thái độ là thành phần chủ yếu của văn hoá, và cũng chính là nhân cách. Trong điều tra giá trị học ta có thể tìm hiểu “giá trị xã hội”, “giá trị nhân cách trung bình”… Con người, theo Hútséc, là tồn tại văn hoá sáng tạo, làm sao để họ luôn cùng với các chuẩn mực của loài người, dân tộc, chủng tộc… đó là một cách thoát ra khỏi khủng hoảng - và chuyển vào nội tâm thông qua cơ chế trải nghiệm (khắc phục cơ chế duy lý đơn thuần của Đềcác, Hume và Kant) và thay vào đó là “chủ nghĩa anh hùng của lý trí” thành các chuẩn mực, giá trị của bản thân, đánh giá và hoàn thiện chúng: khoa học giá trị được củng cố và phát triển, đi vào đời sống văn hoá, đạo đức của con người và cộng đồng xã hội. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hoàng Phê (Chủ biên). Từ điển tiếng Việt. NXB. Khoa học xã hội, Trung tâm từ điển học, Hà Nội,1994. 2. Nguyễn Như Ý. Đại từ điển tiếng Việt. NXB. Văn hoá thông tin, Hà Nội, 1999. 3. Brentano, nhà triết học Đức, tác giả, “Tâm lý học từ một quan điểm thực nghiệm” (1874), “Tâm lý học miêu tả”(1882), đưa ra lý thuyết chủ đích (Intentionlity; có người gọi là ý hướng) với luận điểm cơ bản: phân biệt “hiện tượng tâm lý” (Psychical Phenomena”; có người dịch là “hiện tượng tâm linh” và “hiện tượng vật lý” (tiếng Anh – Physical Phenomena”). Chú thích tiếng nước ngoài toàn bằng tiếng Anh. ́ 4. Ted Honderich (chủ biên). Hành trình cùng triết học. Lương Văn Hy dịch. NXB. Văn hoá thông tin, Hà Nội, 2001, tr.806-809. 5. Tài liệu tiếng Anh: Từ điển Wikipedia, The Window Philosophers, trang Web Phenomenology Center. 6. Trần Đức Thảo. Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng. Bản dịch của Đình Châu. NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004. 7. Tương tự với thuyết lịch sử - văn hoá của L.X. Vưgốtxki (Nga) đề xuất cùng thời gian (1925-1935). Xem Phạm Minh Hạc, Tuyển tập tâm lý học. NXB. Giáo dục, Hà Nội, 2002; NXB. CTQG, Hà Nội, 2005. Mục: Tâm lý học Vưgốtxki. Tích cực hoạt động - chăm học, chăm làm vì mình, vì mọi người sẽ giàu trải nghiệm - cuộc sống phong phú, hạnh phúc, niềm vui nâng cao giá trị bản thân. Bài mục thứ tám Tính người, tình người – Hai giá trị cội T nguồn của cội nguồn rong mấy thập kỷ vừa qua, cùng với cuộc cách mạng thông tin và công nghệ sinh học, một số nhà khoa học cũng tập trung nhiều vào việc tìm hiểu các quy luật của vũ trụ, lịch sử trái đất, nguồn gốc sự sống và nguồn gốc loài người, đưa ra nhiều giả thuyết khác nhau, tuy đều xuất phát từ thuyết tiến hoá của S. Đácuyn (1809-1882). Các nghiên cứu đều khẳng định con người xuất hiện, loài người được hình thành cùng với sự tạo lập tính người (nhân tính), tình người. Theo một số nhà nhân học, loài khỉ hiện đại ngày nay đã tách khỏi đường phát triển chung với con người từ 10-15 triệu năm về trước. Nhánh người bắt đầu hình thành rõ cách đây 10 triệu năm, bắt đầu từ “khỉ phương Nam” (Ôstralôpitéc) mà có khi còn gọi là vượn người. Vượn người, thời 7-8 triệu năm trước đã đi thẳng, dùng tay phải, biết sử dụng rộng rãi gậy, đá, xương động vật làm công cụ và bắt đầu chế tạo công cụ lao động thô sơ cũng như dùng lửa. Một số tác giả gần đây đưa ra giả thuyết coi tổ tiên trực tiếp của loài người là vượn người Apharăngxít xuất hiện cách đây khoảng 3,5-4,4 triệu năm. Có giả định rằng, ở Đông Nam Á cũng có vượn người sống khoảng 30-40 vạn năm trước đây. Cuộc sống của loài người vượn vẫn theo quy luật sinh vật: sống hoà lẫn vào thiên nhiên, sinh sống hoàn toàn tuỳ thuộc vào bản năng vốn có sẵn trong cơ thể và những thứ có sẵn trong thiên nhiên, hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên. Theo thời gian, vượn người tiến hoá lên thành người vượn thẳng đứng. Nhờ tư thế thẳng đứng, nó có thể đi được bằng hai chân; mặt và mắt nhìn thẳng, đầu thường ở tư thế dọc,v.v…, tạo ra những điều kiện ít lệ thuộc dần vào thiên nhiên(1). ́ Ô Tiếp theo đường phát triển từ Ôstralôpitéc, con người phát triển qua 3 thời kỳ: (1) người khéo, (2) người đứng thẳng, (3) người có lý trí (còn gọi là người khôn): Người khéo (Homo Habilis) có tuổi từ 4 đến 2 triệu năm cho đến vài chục vạn năm trước đây. Qua các công cụ của người khéo sáng tạo và sử dụng chứng tỏ, họ bắt đầu có hoạt động lao động và đây chính là ranh giới tách người ra khỏi thế giới sinh vật nói chung cũng như thế giới động vật nói riêng, như Ph. Ăngghen đã chứng minh. Cuộc sống bắt đầu có phần dựa vào hoạt động lao động đã làm thay đổi khá cơ bản cơ thể con người, nhất là sọ, bộ não, và các giác quan, tạo nên hình thể con người tuyệt đẹp (nói ở dưới), tạo nên tiền đề vật chất cho sự xuất hiện thế giới tâm lý và thế giới tinh thần - tính người và tình người manh nha từ đây. Người đứng thẳng (Homo Erectus) là một trong số tổ tiên của loài người, có khi gọi là “người cổ” (Archaios Anthropos), tồn tại từ khoảng 2 triệu năm đến 14 vạn năm trước đây. Hoạt động lao động bằng công cụ của người này đã phát triển hơn, bắt đầu có cuộc sống bầy đàn và đặc biệt đáng chú ý là người đứng thẳng đã hoàn toàn đi bằng hai chân và đã có ngôn ngữ thực sự: cuộc sống bầy đàn và ngôn ngữ cùng hoạt động lao động là cơ sở vật chất hình thành rõ nét tính người và tình người. Loài người trải qua ba thời đại lịch sử: từ thời đại mông muội, qua thời đại dã man tới thời đại văn minh (L.H. Moocgan, 1871, Ph. Ăngghen, 1884); nâng dần trình độ mở rộng các nguồn sinh tồn, học được và càng phát triển hoạt động mở rộng, nhất là hoạt động sản xuất (“thuần dưỡng và chăn nuôi động vật và trồng trọt cây cối,… dùng gạch mộc và đá vào việc xây dựng…” - được gọi là “thời đại dã man”), của con người, vượt qua được tình trạng ăn thịt người(2), dần dần hình thành được tính người và tình người (thực ra nói “tính người” là đủ, trong tính người có nét rất đặc trưng là tình người, đan quyện với các đặc tính khác như ngôn ngữ, lý trí, giao tiếp, v.v..., nói ghép “tính người” với “tình người” biểu hiện một nét đặc trung của tiếng Việt). Tính người, tình người phát triển mạnh ở người khôn (người có lý trí - Homo Sapiens) là đỉnh cao của nhóm người Nêanđéctan (là nhóm người sống khoảng 25 - 4 vạn năm trước đây). Người khôn ́ ̀ ́ ̀ xuất hiện khoảng 10 vạn năm về trước (cũng có ý kiến cho rằng chỉ khoảng 5 đến 6 vạn năm trước đây) và lịch sử văn hóa loài người bắt đầu từ mốc này. Từ đó con người và loài người tồn tại cho đến ngày nay, vì vậy người khôn còn được gọi là người hiện đại, nhất là về mặt cơ thể thì cơ bản cho đến ngày nay không có gì thay đổi. Người khôn tiếp thu và phát triển những thành tựu mà các loại hình người trước đã đạt được, nhất là hoạt động lao động và hoạt động ngôn ngữ. Đặc biệt, cuộc sống bầy đàn của họ đã được phát triển cao lên, đã mang tính xã hội và bắt đầu hình thành xã hội. Nhờ có bộ não phát triển rõ nét hơn hẳn các loại hình người trước, bầy đàn người khôn biết tập hợp nhau lại, tạo ra và sử dụng vũ khí, cùng chống lại thú dữ, có nơi cư trú, biết chống nắng, chống rét, cùng săn bắn, truyền đạt kinh nghiệm cho nhau (mầm mống của giáo dục). Họ coi trọng những người có năng lực trí tuệ tốt (ngày nay gọi là nhân tài) và biết sản xuất công cụ, truyền tin, quan sát…, cho nên trong những người này, người già, người yếu, người ốm không còn bị ăn thịt như trước đây, ngược lại được bảo vệ để phục vụ bầy đàn và sau này là bộ lạc. Từ đó, tính người, tình người ngày càng được khẳng định và dần dần hình thành nên giá trị cao cả là lấy quyền lợi của bộ lạc làm trọng. Theo đó, cơ chế “chọn lọc tự nhiên” cũng được thay thế bằng cơ chế chọn lọc theo “gen vị tha”. Khả năng tự nhận thức bản thân bắt đầu hình thành, khả năng này chỉ xuất hiện từ con người lý trí trở đi. Với tất cả các đặc điểm của con người được hình thành từ xa xưa, như đi hai chân, sử dụng lửa, lao động, ngôn ngữ, tính xã hội (tinh thần vị tha, xả thân vì bộ lạc…), tự ý thức và ý thức phát triển ngày càng cao với tốc độ ngày càng nhanh khả năng thuần hoá động vật (bắt đầu có gia súc) và trồng trọt, bắt đầu có nền văn minh nông nghiệp (một vạn năm trước đây - cũng có ý kiến cho rằng muộn hơn). Con người và cả loài người nói chung đã sống và phát triển qua khoảng 90 thiên niên kỷ trước khi bước vào thời đại văn minh. Suốt từ 10 vạn năm nay, con người hầu như không có gì thay đổi về mặt cơ thể, nhưng về phương thức sống, từ lao động cho đến lối sống và kéo theo đó là toàn bộ đời sống tâm lý, tinh thần với cội nguồn từ tính người, tình người đã có biết bao nhiêu biến đổi ̀ ngày càng phong phú, phức tạp theo cả hai chiều tích cực và tiêu cực. Những biến đổi đó tập hợp lại được gọi là phát triển văn hoá; quy luật lịch sử - văn hoá trở thành quy luật chủ đạo chi phối sự phát triển của con người, trong đó cơ chế di sản (truyền kinh nghiệm qua giáo dục) giữ vai trò chính. Cơ chế di sản là cơ chế thế hệ trước truyền cho thế hệ sau qua giáo dục, giáo dưỡng bằng các sản phẩm văn hoá, văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể. Cơ chế di truyền bảo đảm tiền đề vật chất cho cuộc sống và hoạt động của con người và loài người. Nhưng thông qua truyền thụ và lĩnh hội kinh nghiệm sống, lao động, học tập, nghỉ ngơi, giao tiếp, thông qua sinh hoạt hàng ngày, lao động kiếm sống, kiến tạo nơi ăn, ở, mặc, rồi sau nữa là qua sách vở, qua nhà trường, nhờ gia đình và xã hội, con người, cộng đồng, xã hội loài người tồn tại và phát triển. Đặc biệt trong suốt quá trình tiến hoá loài người rất chú ý giáo dục nối tiếp, duy trì, phát triển tính người và tình người, trước thế là qua các hình thức theo ngôn ngữ hiện đại, “giáo dục không chính quy” bao gồm cả tự giáo dục, về sau, cách đây khoảng bốn nghìn năm trường học như một thiết chế xã hội (“giáo dục chính quy”) ra đời, truyền đạt một cách chính tắc cho thế hệ trẻ các hoạt động hội tụ thành tính người và tình người (đây chính là nội dung của việc “dạy người”, mục tiêu quan trọng nhất của giáo dục) - bảo đảm sự tồn tại và phát triển của loài người. Văn hoá là sự phát triển do con người tạo ra. Đó chính là phát triển con người, bắt đầu và cuối cùng để dòng tính người và tình người - hai giá trị cội nguồn của loài người chảy mãi trong tuần hoàn máu mỗi người, làm sao không còn chiến tranh, xâm lược, không giết nhau, chấm dứt mọi hình thức bạo lực, các biểu hiện vô nhân đạo, phi nhân tính nhất. Cho đến ngày nay, hoà bình thế giới, giữa các dân tộc vẫn là mục tiêu cao cả, một cuộc đấu tranh bền bỉ để bảo toàn loài người. Tội danh chiến tranh, huỷ diệt loài người, giết người là trọng tội số 1. Từ xưa đến nay, nhất là từ sau đại chiến thế giới thứ II, hoà bình, an ninh là một giá trị toàn cầu, luôn luôn được coi trọng. Tổ chức Giáo dục - Khoa học - Văn hoá (UNESCO) Liên Hiệp Quốc (LHQ) rất quan tâm và đưa ra chương trình giáo dục giá trị (sẽ nói ở dưới). Chương trình KHCNNN KX-07, trong đó có đề tài KX-07-07, đã điều tra thang giá trị ở thanh niên (1991 - 1996) cho thấy giá trị ́ ́ ́ “hoà bình” luôn luôn được xếp số 1, ý thức rất rõ có hoà bình, ổn định mới xây dựng đất nước được thịnh vượng(3). Đại hội đồng lần thứ 27 của UNESCO tại Pari, Pháp (1992) đã đưa ra luận điểm Văn hóa Hòa bình: hãy đối xử với nhau một cách hòa bình, lên án chiến tranh, khẳng định hòa bình là một giá trị vô cùng cần thiết để bảo vệ loài người. Tính người là phẩm chất đầu tiên của con người, bảo đảm sự tồn tại của loài người, chống mọi sự huỷ diệt con người. Từ đó có tình người là phẩm chất quý con người, yêu thương, chia sẻ, thông cảm, đồng cảm tương thân tương ái, nói gọn lại là lòng nhân ái, nói rộng ra tính người và tình người là nội dung cơ bản của chủ nghĩa nhân đạo, nhân văn. Khoảng năm, sáu trăm năm trước công nguyên (TCN) từ tính người, tình người được khái quát thành 3 giá trị lý tưởng: Chân, Thiện, Mỹ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. A.V. Iablôcốp – A.G. Iuxuphốp, Học thuyết tiến hoá, NXB. Trường cao đẳng, Matxcơva, 1998, tr.260-273; Clíppho Gi.Giơli – Phrét Pơlốc, Nhân học hình thể và khảo cổ học, NữuOóc,1987. 2. L.H.Moocgan. Các hệ thống quan hệ dòng máu và quan hệ hôn nhân.1871. Theo Bách khoa thư Vikipêđia (BKTV), mạng Gugôn (Google), tiếng Anh; Ph. Ăngghen. Nguồn gốc gia đình, nguồn gốc tư hữu, nguồn gốc Nhà nước. Nhân có những công trình nghiên cứu của Luy – xơ H. Moocgan. 1884. C. Mác, Ph. Ăngghen. Toàn tập, t.21, tr.52. NXB. CTQG, Hà Nội (HN),1995. 3. Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Thạc, Mạc Văn Trang. Giá trị - định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị. HN,1995, các tr. 82, 126, 154, 456, v.v… Đừng khi nào để mất TÍNH NGƯỜI TÌNH NGƯỜI Hai báu vật của đời ta; hãy nhân lên, dù một tí tẹo, trong tâm trí. Bài mục thứ chín Chân, thiện, mỹ - Ba giá trị phổ quát nhất 1. Đặt vấn đề Tính người, tình người được khái quát thành ba phẩm hạnh chung của loài người: “Chân, Thiện, Mỹ” - ba giá trị quan trọng luôn có mặt trong hệ giá trị của cá nhân cũng như quốc gia - dân tộc, là những giá trị phổ quát lý tưởng của toàn nhân loại. Vấn đề là khi mọi cá nhân thấm nhuần, dung nạp các giá trị ấy trong hệ giá trị nhân cách của chính giá trị bản thân thì không những con người, gia đình mà cả cộng đồng, xã hội đều bình yên và phồn thịnh. Bài mục này tìm hiểu một số nét chủ yếu, nội hàm của từng giá trị cũng như mối quan hệ qua lại giữa các giá trị ấy qua một số tác giả từ cổ đại đến hiện đại, làm cơ sở khoa học của việc xây dựng hệ giá trị của người Việt Nam khi đi vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Ba từ (thuật ngữ) “chân”, “thiện”, “mỹ” rất quen thuộc với mọi người nhưng lại có nội dung cực kỳ phức tạp. Cuộc sống thường nhật và cả trường tồn của chúng ta là cuộc vật lộn giữa thật và giả, thiện và ác, đẹp và xấu, để chân, thiện, mỹ giành lấy ưu thế, thắng thế. Có thể nói loài người, từng cộng đồng xã hội hình thành và phát triển từ cái thật, cái tốt, cái đẹp luôn đòi hỏi có ba phẩm chất ấy để tồn tại và tiến hoá. Ba thuật ngữ này vừa rất bình dị, gần gũi với mọi người, vừa là lý tưởng mọi người mong vươn tới, như Tản Đà nói: “Suốt đời chỉ đi tìm cái chân, cái thiện, cái mỹ; nghĩ đời lắm lúc chân như giả”(1). Xưa nay, thời nào chân, thiện, mỹ cũng vừa là nội dung vừa là mục tiêu của giáo dục, góp phần làm ra cuộc sống, dần dà khái quát lên thành ba khái niệm - ba phạm trù khoa học phong phú, vừa là sản phẩm, vừa là đối tượng của trí tuệ loài người, cổ kim đều bàn thảo. Khái quát nhất, đó chính là ba phạm trù của triết học. Cụ thể hơn, có thể chia ra, phạm trù “chân” thuộc về nhận thức luận, phạm trù “thiện” - đạo đức học, phạm trù “mỹ” - thẩm mỹ học. Phân chia như vậy cũng rất tương đối, có người nói: tất cả đều từ nhận thức; ngược lại, có tác giả bảo tất cả thuộc về thẩm mỹ, cũng có khi lại quy về đạo đức. Có điều thống nhất đây là những vấn đề của mọi thời đại, sống là phải như vậy, không thể thiếu chúng được, luôn luôn có đấu tranh sinh tồn, bên cạnh mặt phải bao giờ cũng có mặt trái: Có cái “giả”, cái “ác”, cái “xấu” mà ta gọi chung là “tiêu cực”, “xây” phải nhiều hơn “chống”, “xây” để “chống”, “chống” bằng cách “xây”. Có vậy mới có cuộc sống văn minh, văn hoá đến hôm nay và cả ngày mai. Vận vào thời cuộc Việt Nam hiện nay, vấn đề “chân, thiện, mỹ” đang nổi lên chẳng phải chỉ như là một vấn đề lý luận, mà còn là một vấn đề hết sức thực tiễn trong đời sống xã hội ta, khi đang chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Công cuộc mở cửa hội nhập toàn cầu hoá đã mang lại biết bao thành tựu tốt đẹp nhưng cũng nảy sinh nhiều chuyện bức xúc nổi cộm từ gia đình đến cộng đồng, gây băn khoăn, lo lắng, có khi đến kinh hoàng. Vấn đề vừa thời sự, vừa vĩnh hằng, cực kỳ phong phú và phức tạp đáng để suy tư kỹ lưỡng, nhưng vì nhiều lẽ không đi vào ngóc ngách, cặn kẽ, mà chỉ đề cập một số ý khuôn lại trong phạm vi giới thiệu khoa học về giá trị, góp phần khẳng định “chân, thiện, mỹ” là ba giá trị không thể thiếu trong hệ giá trị của mỗi người, cũng như của quốc gia - dân tộc, đồng thời là ba giá trị phổ quát của toàn nhân loại, và về đại thể cũng tức là của từng con người, vừa thực hiện từng phần, vừa vươn tới nâng cao nên gọi là ba giá trị lý tưởng. Nhiệm vụ đặt ra là, làm sao ai cũng thấm nhuần, dung nạp các giá trị ấy trong hệ thống giá trị nhân cách của bản thân, góp phần xây dựng con người, gia đình, cộng đồng, xã hội bình yên và phồn thịnh. Trong khuôn khổ đó, tìm hiểu một số nét chủ yếu nội hàm của từng giá trị (Chân là gì? Thiện là gì? Mỹ là gì?) và mối quan hệ qua lại của các giá trị ấy qua một số tác giả từ cổ đại đến hiện đại, làm cơ sở khoa học cho việc xây dựng giá trị của người Việt Nam đi vào công nghiệp hoá (CNH) theo hướng hiện đại (HĐ). 2. Ba khái niệm (ba phạm trù) Như chúng ta đều biết, khoa học bắt đầu hình thành và phát triển từ khoảng giữa thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên (TCN), ở cả phương Đông và phương Tây. Lịch sử tri thức ba khái niệm đang đề cập ở đây cũng vậy. Điểm qua lần lượt từng khía cạnh để thấy ngọn nguồn. a. Chân “Chân” tiếng Anh là “truth”(2) có nghĩa là “chân thật”, “xác thực”, đều có chữ “thật”, thông thường nói đến “chân”, ai cũng hiểu là để chỉ phạm trù “thật” đối nghĩa với phạm trù “giả” - “không thật”, để theo cái “thật”, bỏ cái “giả”, làm cái “thật” diệt trừ cái “giả”. Đó là nhận thức khoa học, hiểu biết, vốn tri thức gắn quyện với hoạt động thực tiễn, khái quát thành các quy luật, các quan niệm, các luận điểm, trong bảng phân loại khoa học gọi đây là khoa học về nhận thức hay nhận thức luận. Chúng ta hãy bắt đầu từ văn minh cổ đại. Ở Trung Quốc thời đó, các nhà triết học, nhất là Mặc Tử (476- 390 TCN), Trang Tử (369-286, TCN), Tuân Tử (315-236 TCN), đã có nhận thức luận, trong đó có phạm trù “chân” mà các ông gọi là “chân tri” có nghĩa là cái biết thật, biết đúng, sau này có khi còn gọi chung là “chân lý” - tri thức chân xác. Thế nào là “chân”? Là “thật”, là “đúng”? Tuân Tử trả lời: Đó là cái biết phù hợp (tương ứng) với thực tại ngoại giới; đây là một trong các lý thuyết về “chân” tồn tại cho đến ngày nay, gọi là “thuyết phù hợp”. Trước đó, Mặc Tử đã khái quát đưa ra tiêu chuẩn của “chân” trong triết học của Trung Quốc gọi là “biểu chuẩn của chân tri”. Trong tác phẩm “Phi mệnh thượng”, ông viết: “Phàm nói năng bàn luận, không thể không lập định tiêu chuẩn trước, rồi sau đó mới nói bàn… thế nào là phải trái, lợi hại…” và đưa ra ba tiêu chuẩn của chân lý (“tam pháp”, “tam biểu”): (1) Có dung hợp với kinh nghiệm của quá khứ không (“xem xét bản thuỷ”); (2) Có phù hợp với kinh nghiệm sống thật của đa số dân chúng không (“quan sát sự cố”): “Nếu thật, dân chúng mắt thấy, tai nghe, thì ắt phải coi là có”); (3) Kết quả ứng dụng có phù hợp với nhân dân và nhà nước không (“Lời nói có đủ ảnh hưởng đề cao được việc làm, thì coi đó là đúng”). Cần nhấn mạnh một nhận định rất quan trọng của Mạnh Tử (372-289 TCN): “chân” là bản tính của con người. Ông nói: con người có khả năng nhận thức (“Biết là tài năng vậy”); sau này Tuân Tử gắn liền “chân” với “tâm”; chữ “tâm” phải hiểu theo nghĩa rộng nhất là năng lực tinh thần - một giá trị duy nhất chỉ loài người mới có; không có cái “tâm” đó, thì sao có được tri thức đi đến cái “thật”, phân biệt được cái “giả”(3). Năng lực này nảy nở rực rỡ trong mấy thế kỷ trước Công nguyên, rồi mãi đến thế kỷ XVII, thời đại lý trí mới được phục hưng, mở ra một giai đoạn đầy ắp những phát minh trong mọi lĩnh vực, khắc phục dần những sai làm. Về nguyên nhân nhầm lẫn của tri thức, Tuân Tử cho đó là do cái “tâm” không trong sáng, “tinh thần” không sáng suốt. Tìm ra chân lý, thấy được “chân” là cả một quá trình từ không biết đến biết, từ thấp đến cao, phiến diện đến toàn diện… theo tâm lý học, đó là vấn đề nhu cầu - động cơ - hoạt động đi tìm chân lý, vận dụng khoa học - kỹ thuật - công nghệ vào thực tiễn, thúc đẩy văn minh, văn hoá, tiến bộ xã hội, cải thiện cuộc sống con người. “Chân” vận động theo cuộc sống. Vài nét tìm hiểu sơ lược tư tưởng triết học phương Tây tiếp theo giúp ta thấy rõ các lý thuyết về “chân”. Ở Hy Lạp, Sôcơrát (469-399 TCN), Pơlatông (427-347 TCN) rồi Aristốt (387-322 TCN) đã đưa ra thuyết phù hợp (tương ứng - Correspondence): cái “thật”-“chân” là cái phù hợp, tương ứng với thực tế, rất thống nhất với các nhà triết học Trung Quốc vừa trình bày ở trên. Rõ ràng nhất là trong tác phẩm “Giải thích” (“De Interpretatione”) Aristốt viết: Một tư tưởng đúng là một tư tưởng giống như - tương đồng (homoiosis) với sự vật; trong tác phẩm “Các phạm trù” (“Categories”) ông khẳng định: Cái gì làm cơ sở đưa ra một lời phát biểu đúng về một hoàn cảnh hay một sự việc là cái có thực (pragmata), cái có thực là chính hoàn cảnh hay sự việc đó được cấu ̀ ́ ́