🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Con Gái Người Kỹ Nữ - Juliet Philip & Trịnh Thúy Ngàn (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Lãng Mạn] Ebooks Nhóm Zalo CON GÁI NGƯỜI KỸ NỮ Tác giả: Juliet Phillip Người dịch: Trịnh Thúy Ngàn Phát hành: Phúc Minh Books Nhà xuất bản Văn Học 2015 —★— ebook©vctvegroup Chương 1 Chàng Súp Lơ cơ bắp Tôi là Kamada, con gái người kỹ nữ Taras, tôi sẽ là người hùng trong chính câu chuyện kể về cuộc đời mình. Tôi sẽ có những sự lựa chọn thận trọng để viết nên số phận cho riêng mình và thoát khỏi thế giới dơ bẩn mà mẹ tôi đã sống. Hôm nay, tôi sải bước trên con đường đông đúc, ôm khư khư trên tay một đống tài liệu quý giá, người bạn đồng hành của tôi trong suốt buổi tối, tập tài liệu này là một mớ hỗn độn về cuộc sống và cũng là những kế hoạch chạy trốn của tôi. Đống tài liệu màu xanh này còn đóng một vai trò quan trọng nữa: nó là “chiếc khiên” che ngực cho tôi. Nếu tôi không đủ khôn ngoan để bảo vệ mình trong khi sải bước trên những đường phố đông đúc của thành phố Bombay, tôi không thể tiếp tục mơ mộng được nữa. Những sự mơ mộng cho phép tôi thoát khỏi nơi bẩn thỉu này và trôi dạt vào một thế giới khác của sự tưởng tượng và tràn đầy những niềm hi vọng. Tâm trí tôi thường hay lơ đễnh, vì vậy tôi phải luôn nhớ mang theo tập tài liệu của mình đến bất cứ đâu. Tôi đã trải qua những năm đầu của thời niên thiếu để cố luyện cái được gọi là “nghệ thuật tự bảo vệ bản thân”, và mặc dù khả năng này của tôi đã quá đỗi “điêu luyện”, tôi vẫn miệt mài trau dồi thêm. Đôi khi, một gã đàn ông vô tình đâm sầm vào tôi với một sự ngạc nhiên vờ vịt và một câu xin lỗi “Ồ tôi xin lỗi, thưa cô”. Động cơ của lời xin lỗi ấy được thốt lên khi tôi ném vào hắn một ánh nhìn sắc lẹm để xác định xem nó chỉ là một tai nạn hay chủ ý. Chủ yếu, tôi dựa vào trực giác và kinh nghiệm trước đây để đánh giá sự khác biệt này. Những gã đàn ông như vậy gợi cho tôi nhớ về những người đàn ông mà tôi đặt cho họ một cái tên là “Brazilian wandering spiderat”, một loại đàn ông có đặc tính giống như những con nhện Brazil và những con chuột. Họ lẩn trốn trong những khu vực đông đúc và có đôi chút hiểu biết xã hội. Tôi phải cảnh giác vì sự tấn công của họ rất mạnh mẽ và có thể gây ra cho tôi những nỗi đau về thể xác. Một gã thuộc vào một nhóm đàn ông khác, thể hiện ý đồ xấu xa của mình mà không màng tới những hậu quả mà họ mang lại. Khi tim tôi đang đập loạn xạ, tôi tát hắn một cái và dĩ nhiên tôi có nguy cơ bị làm nhục một lần nữa. Một vài trong số những gã đàn ông này cảm thấy phấn khích với cái tát. Một vài gã khác thì nổi điên. Tôi đặt tên cho những gã này là “Chimpigog” - thứ đàn ông có đặc tính của loài tinh tinh kết hợp với lợn và chó - nhóm đàn ông này không có khả năng kiểm soát ham muốn tình dục của mình. Họ có dáng đi khệnh khạng giống như tổ tiên tinh tinh và cũng giậm trống ngực thình thịch để “thu hút bạn tình”. Với những gã này, tất cả chỉ là sự thỏa mãn tình dục. Một nhiễm sắc thể Y khác nữa nằm giữa hai thái cực này. Loại đàn ông này là những kẻ chuyên rình rập hay còn được gọi là “Snakepig”, một sự lai tạo đặc tính giữa những con rắn ghê tởm và những con lợn rừng bẩn thỉu. Họ lởn vởn một cách kín đáo và chờ đợi thời cơ để tấn công. Họ là một trong những loại đàn ông khiến tôi cảm thấy ghê sợ nhất. Tập tài liệu này có nhiệm vụ trông chừng tất cả các “loại” đàn ông này. Và đây quả là một nhiệm vụ khó khăn. Trong khi một người bình thường dành ra khoảng 47% quỹ thời gian trong ngày để mơ mộng, thì với tôi, con số này là 80%. Kinh nghiệm đã dạy tôi cách mơ mộng trong khi vẫn phải cẩn trọng với những gã đàn ông lảng vảng quanh mình, kinh nghiệm còn chỉ cho tôi cách tự bảo vệ bộ ngực chỉ khiêm tốn như hai nốt muỗi đốt trên cơ thể mình bằng tập tài liệu “quyền lực” trên tay mỗi lần tôi mơ màng trên phố đông. Tuy nhiên có vẻ hầu hết đàn ông ở đây đều coi tôi như một con mồi. Tôi tin vào điều này bởi vì thành phố Bombay chỉ có 750 nữ giới / 1000 nam giới. Tôi không biết ai hay cơ quan nào phải chịu trách nhiệm cho việc này, nhưng tôi không thể không đổ lỗi, vì vậy tôi quy trách nhiệm cho chính phủ, cho chế độ phụ hệ, cho những gã đàn ông không sử dụng bao cao su, cho những người phụ nữ mang thai mà không màng tới trách nhiệm của tình mẫu tử. Tôi luôn luôn đổ lỗi cho mẹ tôi, người lựa chọn cách sống của một người kỹ nữ thượng lưu ở cái thành phố nhơ nhuốc này. Đứng cách tôi vài mét là một thằng bé ăn xin đang gặm một khúc mía. Một thứ hỗn hợp của nước mũi và những thứ bẩn thỉu đang thập thò trên mặt nó. Khi tôi tiến lại gần thằng bé, mũi của nó như đang chơi trò yo-yo[1] với đám hỉ mũi thò lò, rồi chúng rơi xuống khẩu mía đang chuẩn bị rơi ra khỏi miệng. Ngay lập tức, lưỡi thằng bé lao về phía trước, đỡ lấy khúc mía chỉ trong tích tắc. Chắc hẳn nó cảm nhận được cái vị ngọt mặn của thứ đang nằm trong miệng. “Đằng sau thằng bé kia là những câu chuyện như thế nào?”. Tôi so sánh bản thân mình với nó. Tôi băn khoăn liệu mẹ thằng bé có phải là một gái bán dâm như mẹ tôi? Và nếu câu trả lời là “có” thì những vị khách của bà ta có lẽ sẽ không bảnh chọe và chịu chơi như những người đàn ông của mẹ. Tôi chưa từng nếm trải cái đói như thằng bé, nhưng tôi cũng có cảm giác thèm khát. Tôi cũng chưa từng phải mặc những bộ quần áo rách tả tơi, nhưng tôi lại cảm thấy mình trần trụi. Tận sâu thẳm trong đáy lòng, như thằng bé ăn xin kia, tôi thấy mình đói khát, trơ trọi và mong đợi quá nhiều vào cuộc sống này. Liệu tôi có quá tham lam và ích kỷ? Liệu tôi có quá tham vọng? Hay tôi chỉ đang tìm cách than vãn cho sự thất vọng của mình? Tôi thường hay băn khoăn thế nào là đủ đầy trong khi trong tôi thực sự đang cảm thấy đói khát và trơ trọi? Tôi cũng không thể lý giải nổi. Tôi thường ước rằng, giá như mình chưa từng được sinh ra - hay chăng tôi được sinh ra dưới thân phận một người đàn ông, để tôi có thể vứt bỏ cái đống tài liệu này ở nhà và cởi trần chạy tung tăng khắp con phố đông. Bên cạnh những bức vẽ và những mẩu báo sưu tập được, tập tài liệu trong tay tôi còn chứa một vài tư liệu quý giá, những thứ có thể giúp tôi giành được một tấm vé tới thiên đường mơ ước - nước Mỹ. À, làm thế nào mà tôi lại ôm ấp giấc mơ về một nước Mỹ xa xôi? Mẹ tôi đặt cho tôi cái tên Kamada, nó có nghĩa là “người làm thỏa mãn giấc mơ của kẻ khác”. Nhưng trái lại với những mong đợi của bà, tôi khao khát một cuộc sống hoàn toàn khác. Tôi đã lên kế hoạch được giải thoát khỏi nơi này từ nhiều năm trước. Tôi sẽ bước đến một tương lai sán lạn hơn, bỏ lại sau lưng những dơ bẩn về cả mặt thể xác lẫn đạo đức, những đám người đang vã mồ hôi kia, và mẹ tôi, một người đàn bà làm điếm, coi tiền hơn cả lòng tự trọng của mình, người luôn lo âu chờ đợi tôi chỉ để làm tròn bổn phận của một người mẹ. Một gã Snakepig đột nhiên xuất hiện và nhảy bổ vào dòng suy nghĩ của tôi. Tôi biết gã là một Snakepig vì gã đi quá gần, nhưng lại rất cẩn trọng để tránh gây sự chú ý giống như thói quen của một gã Chimpigog sẽ làm. Đồng thời, hắn cũng cố gắng phá bỏ “tấm khiên” trước ngực tôi. Bằng bàn tay nhơ bẩn và quỷ quyệt của mình, hắn cố dùng sức để tạo ra một khoảng trống giữa ngực tôi và tập tài liệu và cố tình thực hiện ý đồ xấu xa của mình. Đã chuẩn bị từ trước, tôi giữ khư khư tập tài liệu quý giá, ép sát chúng vào ngực mình và tặng cho hắn một cái cùi trỏ. Tôi đã tự giải thoát, nhưng lại quá sợ hãi để có thể ngoảnh lại nhìn cho rõ mặt hắn. Tôi liếc ngang qua hắn và thấy rõ sự nguy hiểm. Trí óc tôi chỉ kịp bắt được hình ảnh một chiếc thắt lưng với cái chốt sáng bóng lướt đi bên cạnh. Hắn không kéo hết khóa quần và tay hắn đang chuyển động, nhưng tôi sẽ không quay lại thêm một lần nữa để xác nhận những gì vừa trông thấy. Tôi cố gắng lẩn tránh những hình ảnh đó và thúc khuỷu tay mình lách qua đám đông giữa những phố phường đầy nắng. Mồ hôi nhễ nhại, tôi không chạy nữa và bước đi ước chừng trong hai phút. Tôi nhìn quanh để chắc chắn rằng hắn đã khuất xa. Nhưng không, chiếc thắt lưng với cái chốt sáng bóng vẫn ngay phía sau tôi. Hắn vẫn ở rất gần, đến nỗi nếu tôi chỉ cần ngả lưng mình lại một chút thì tôi đã chạm tới hắn. Thắt lưng của hắn trông có vẻ như đang oằn mình giữ chặt lấy chiếc quần màu nâu không kéo hết khóa với chiếc áo xanh bẩn thỉu được nhét vội vào cạp. Những chiếc răng ố vàng đứng chen lấn trên cái miệng ranh mãnh và những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán hắn. Trong giây tiếp theo, tôi cảm thấy có thứ gì đó dính và ấm nóng rơi trên tay mình. Tôi nhìn xuống dòng chất lỏng màu trắng đang nhỏ giọt. Tôi cố gắng huyễn hoặc bản thân mình về nguồn gốc trong sạch của thứ chất lỏng đó, nhưng tôi biết ngay được rằng đó là thứ xuất phát từ gã đàn ông bẩn thỉu nhơ nhớp là hắn. Khi tôi nhìn lên, gã đàn ông loạn trí đó đã mất hút vào đám đông loạn trí của cái thành phố cũng loạn trí này. Mắt tôi dáo dác săn lùng hắn, lướt qua sạp bán hoa quả, đảo qua một cô gái bán bóng, người qua đường, và những người đi xe đạp, tôi đã tìm thấy hắn. Hắn đã đi quá xa, hắn không cần đến một tập tài liệu giống như tôi, hắn được phép tự do mơ mộng, và vì vậy thật là dễ dàng cho hắn để lách qua những đám đông kia. Nếu cố đuổi theo hắn, tôi có nguy cơ bị lạc vào dòng người đông đúc kia hoặc có nguy cơ bị làm nhục một lần nữa. Điều này, cho đến nay, đã là một trong những ký ức tồi tệ nhất của tôi về những gã Snakepig. Tập tài liệu trên tay tôi giờ đây vẫn chẳng làm gì hơn ngoài nghĩa vụ của một tập tài liệu, nó chẳng thể bảo vệ cho tôi. Và tôi vẫn hoàn toàn bất lực. Khi thứ chất lỏng rơi xuống những ngón tay, tôi cố chống lại cơn buồn nôn và chỉ chực khóc. Tôi không thể tưởng tượng được bằng cách nào mà gã Snakepig lại có thể chơi trò ghê tởm - thứ mà tôi không muốn gọi tên ra ấy, ngay giữa đường phố đông đúc này. Thật là vô dụng khi cứ mãi quẩn quanh với câu hỏi đó. Việc dành thời gian và trí óc suy nghĩ về động cơ của những hành động đáng ghét của hắn thì quả là không đáng. Một mảnh ghép chợt nảy ra trong suy nghĩ của tôi. Một con chó được xích với một đoạn dây dài mười lăm bước, làm cách nào để nó có thể chạm tới khúc xương cách nó hai mươi bước? Câu trả lời cho câu hỏi này là một mảnh ghép với nội dung. Con chó không hề bị cột với bất cứ một vật gì, nó chỉ bị cột với sợi dây xích. Tôi không muốn coi hành động của gã đàn ông đó như một mảnh ghép. Tôi không có câu trả lời và cũng không muốn có nó. Càng nghĩ về điều đó, tôi lại càng cảm thấy ghê tởm. Những người đi đường ngang qua tôi hiển nhiên là không biết chuyện gì đang diễn ra, họ vội vã về nhà để chuẩn bị một bữa tối thịnh soạn cho những ông chồng, hoặc xem những trận bóng chày mới nhất. Đó có phải là sự thực không, hay họ bị mù? Liệu tôi có đang gặp ác mộng? Tôi nhìn lại bàn tay mình. Không, thực sự thì cái thứ nhơ bẩn của gã Snakepig kia đang làm vấy bẩn tay tôi. Tôi cảm thấy một sự xấu hổ tột cùng. Trên tất thảy, điều tôi muốn làm ngay bây giờ là phải gột sạch được thứ ghê tởm này ra khỏi tay mình. Tôi huých khuỷu tay len qua đám đông tới một nhà hàng ngay gần đó, có thể họ sẽ để tôi sử dụng nhà vệ sinh của họ. Một chiếc bảng trắng đặt trước cửa nhà hàng đề dòng chữ: “Chào mừng bạn đến với Nhà hàng Pure Vegetarian[2]- Khách sạn Sarawati”. Nhà hàng này có một căn bếp mở được đặt ngay lối vào, hai bên là những đầu bếp đang nhộn nhịp chuẩn bị những món ăn nhanh nóng hổi. Xa hơn phía bên trong là những khách hàng đang ngồi trên những chiếc bàn và ghế xếp theo hàng lối ngay ngắn. Bên phía tay phải, một đầu bếp đang sử dụng chiếc muỗng có rãnh ép một chiếc bánh bhatura[3] to trong cái chảo trũng to không kém. Chiếc bánh phồng lên như một quả bóng khổng lồ. Còn chiếc chảo rán to đến nỗi nếu đổ đầy nước vào trong đó thay vì dầu nóng thì nó có thể được sử dụng như một chiếc chậu bơi trẻ em. Một đầu bếp khác đang chuẩn bị món Paani puris[4], chiếc bánh hấp dẫn được chiên kĩ, giòn tan và phồng to giống như trái cầu rỗng. Những người bồi bàn bận rộn hô to tên những món ăn được yêu cầu về phía các đầu bếp, những người đang vội vã chế biến các món ăn cầu kỳ kia. ‘Ek masala dosal Ek masala dosat ‘Do lassil Do lassii Người bồi bàn gọi tên mỗi món ăn hai lần, điều này tạo nên sự náo nhiệt cho khu bếp. Hai cậu bé tầm mười tuổi nhanh nhẹn mang theo khay đựng đá vội vã tiếp thêm vào những chiếc cốc rỗng. Nếu có bất cứ một sai lầm nhỏ nào, chúng biết trước được rằng sẽ có một người lớn tuổi nào đó sẽ cốc vào đầu chúng. Mỗi một nhân viên ở đây đóng vai trò như một sợi dây curoa, một chiếc ốc vít, một tay quay, một ổ trục hay một ròng rọc “vận hành” nhà hàng. Một chiếc ốc vít bị mất có thể làm gián đoạn nhịp độ công việc đang hoạt động một cách trơn tru tại cái “đại” công xưởng này. Thứ “nọc độc” của gã Snakepig vẫn trên những ngón tay tôi, tôi phải giữ tay mình cách xa khỏi người và cẩn thận không để cho bất kỳ một giọt “nọc độc” nào rơi xuống những móng chân lộ ra từ đôi giày hở mũi của mình. Mặt tôi tỏ rõ sự căng thẳng, nhưng tôi cố gượng một nụ cười yếu ớt khi nhìn thấy một người bồi bàn lớn tuổi ra đón tại lối vào. Người bồi bàn chỉ vào tay tôi và hỏi: “Cháu bé, thứ gì trên tay cháu vậy?” Tôi bắt đầu cảm thấy căng thẳng và lo lắng với câu hỏi đó. Tôi có thể cảm nhận được tất cả máu trên khuôn mặt mình chảy dồn hết về những phần còn lại của cơ thể, để lại một bộ mặt trắng nhợt khi tôi nói dối: “Bùn bẩn ạ”. Người bồi bàn chạm tay lên cằm rồi gãi đầu. Người đầu bếp phụ trách món bhatura và một người bồi bàn có hàng ria mỏng chợt dừng lại và nhìn vào tay tôi. Họ xì xầm trao đổi với nhau. Có lẽ đến cả miếng bánh bhatura màu vàng nâu giòn rụm trong chiếc chảo dầu cũng nghe thấy tôi, sôi lên những tiếng xèo xèo và phụt hơi liên tục. Cùng trong chiếc chảo khổng lồ đó là tiếng dầu nóng đang thì thầm vào tai nhau những điều bí mật. Liệu chúng có biết chuyện gì đã xảy ra không? Chúng đang nói với nhau về chuyện gì vậy? Tôi cảm thấy xấu hổ tột độ. Tôi ước có thể chọc một cái lỗ trên chiếc bánh bhatura để chui vào đó mà lẩn trốn. Như thể đọc được suy nghĩ của tôi, vị đầu bếp ném cho tôi một ánh nhìn nghi ngờ trong khi đặt “công trình nghệ thuật” của mình - một quả bóng bhatura màu vàng nâu hoàn hảo lên một chiếc đĩa. “Không ai được phép làm hỏng món bánh bhatura của tôi”, khuôn mặt người đầu bếp như hiện lên lời cảnh cáo đó. Sau đó ông ta rắc thêm lên mặt chiếc bánh một vài gia vị ăn kèm được xem như là những người bạn thân thiết cho một món bhatura hoàn hảo - một chút nước sốt chhole, vài miếng hành tím, và một phần tư quả chanh. Khi những thành phần của món ăn đã “tề tựu” đầy đủ trên chiếc đĩa, chiếc bhatura lại to nhỏ điều gì đó với đám sốt chhole. Tôi căng tai lên cố nghe nhưng lại không thể nghe thấy chúng nói với nhau những gì. Từ khóe mắt, tôi bắt gặp khoảnh khắc đám chhole đều quay vòng vòng nhìn tôi. Miệng của đám chhole cái nào cái nấy há hốc lên kinh ngạc. Chúng shock đến nỗi những gì tôi nhìn thấy được chỉ là những cái miệng rộng ngoác lộ rõ trên khuôn mặt chúng. Người đầu bếp trao chiếc đĩa cho anh bồi bàn có hàng ria mỏng. Khi anh ta bưng chiếc đĩa đến cho khách, tôi trông thấy lũ chhole đang ba hoa với nhau. Và bây giờ, đôi mắt của cả người bồi bàn với hàm ria mỏng và khách hàng đều hướng về phía tôi. Một giọt nước mắt nóng hổi chợt rơi khỏi một bên khóe mắt trái. Với tất cả tâm trí của mình, tôi cố giữ giọt còn lại ở con mắt phía bên kia. Với mu bàn tay sạch, tôi vội gạt nước mắt và hỏi người bồi bàn lớn tuổi: “Bác ơi, nhà vệ sinh ở đâu ạ?” “Để làm gì?”. Ba từ đó chợt buột khỏi miệng ông ta trước khi tôi kịp nhìn ra chỗ khác để lảng tránh. Tôi cảm thấy mình phải đối mặt với một chiếc bánh bhatura khác. Nó thở dài, hít một hơi thật sâu rồi thở ra phì phì. “Thật tội nghiệp, hãy nhìn xem điều gì đã xảy ra với con bé. Giờ cuộc đời của nó đã bị vùi dập mãi mãi. Ai sẽ lấy con bé làm vợ đây?” Một trái cà chua tình nguyện giơ cánh tay mình lên. Chiếc bhatura nói với trái cà chua “À, vâng. Anh có muốn nói gì không?” Tất cả mọi người quay trở lại nhìn vào trái cà chua. Mặt trái cà chua ửng đỏ. Nó dường như không thích sự chú ý của công chúng, nhưng lại lẩm bẩm: “Thưa ngài, mẹ cô ta là một kỹ nữ. Sẽ chẳng một ai muốn kết hôn với cô ta bằng bất cứ giá nào!” Một củ hành tây bắt đầu khóc, tôi nhận thấy nó đang bị thương. Một anh súp lơ cường tráng gồng cơ bắp của mình và nói: “Tôi sẽ cưới cô ấy. Cô ấy cần một chàng hoàng tử như tôi giải cứu. Giống như nàng Rapunzel và Cinderella. Cô ấy quá hiền lành để có thể tự mình gây dựng được hạnh phúc. Và cái tập tài liệu màu xanh của cô ấy chẳng thể giúp được gì. Minh chứng là những chuyện đã xảy ra hôm nay.” Một lọ đựng gia vị tiến tới nàng hành tây đang khóc lóc. Anh chàng rắc những hạt bụi muối lên nàng hành tây và vỗ về nàng một cách ân cần. Sự thể hiện tình yêu đầy lòng vị tha ấy càng làm cho nàng hành tây khóc to hơn. Hai giọt nước mắt nóng hổi trào ra, tôi không muốn cưới một anh chàng súp lơ, tôi muốn đến nước Mỹ, tôi muốn thoát khỏi nơi đây. Khi nước mắt tôi rơi lã chã, một trong những cô nàng đậu bắp phải thốt lên cắt ngang lời súp lơ: “Anh làm ơn im đi được không?” Chàng súp lơ cười khúc khích, gồng cơ bắp của mình trước nàng đậu bắp và nói: “Cô có trông thấy những cơ bắp này không? Chúng có thể bảo vệ cô ấy. Chúng sẽ giữ an toàn cho cô ấy. Cô ấy không còn sự lựa chọn nào khác, thưa cô!” Vào lúc này, một chàng bí ngô bắt đầu hét toáng: “Aaahhh…”. Tiếng hét làm cả phòng ăn im phăng phắc. Anh ta lại hét một lần nữa: “Aaahhh…”. Tiếng thét giận dữ của bí ngô vang khắp nhà hàng khi anh ta gồng cánh tay và đấm mạnh vào không khí về phía chàng súp lơ. Anh ta nói với súp lơ: “Chất adrenaline[5] trong tôi đã được bơm đầy. Anh còn nói thêm một từ nào nữa, tôi sẽ đấm thẳng vào mặt anh”. Mặc dù lấy làm cảm kích sự quan tâm của nàng đậu bắp và hành động anh hùng của chàng bí ngô, nhưng tôi vẫn muốn được tự mình chiến đấu. Thực tế là bọn chúng đang thực sự quan tâm tới những gì đang diễn ra, khác hoàn toàn so với những người trên phố, và điều này đã phần nào an ủi tôi. Ý nghĩ đó đã làm cho đôi môi tôi cong lên thoảng một nụ cười. Nếu nụ cười ấy là một chiếc thuyền cô độc giữa một biển nước mắt, thì nụ cười của tôi sẽ là một con thuyền bình yên trên làn nước êm đềm. Một trong những nàng đậu bắp bị ấn tượng bởi hành động của chàng bí ngô. Cô nắm chặt lấy tay của chàng và ca ngợi chàng là người hùng. Họ trao đổi số điện thoại với nhau. Các nàng đậu bắp khác trở nên xám xịt và đố kị. Chàng súp lơ chiếm lợi thế trước những sự tổn thương và tự cao của các nàng đậu bắp, anh ta lên tiếng với một trong những nàng đậu bắp đang ghen tuông, “Tôi và em… có thể…, em biết đấy, chúng ta thi thoảng sẽ hẹn hò được không?” “Còn lâu!” - Cô nàng đáp trả. “Ôi, thôi mà, một người xinh đẹp như em phải cần có tình yêu và sự chăm sóc, chứ không phải là những cơ bắp kia. Và em còn đẹp hơn cả bạn gái của gã bí ngô kia nữa.” - Súp lơ tán tỉnh. Những nàng đậu bắp khác ra sức thuyết phục cô nàng rằng hắn là một tay chơi nhưng nàng ta không thèm để ý. “Thật thế sao?” Nàng bĩu môi rồi nở một nụ cười duyên, “Nhưng em nghĩ mắt của cô ta đẹp hơn em nhiều.” “Thật ra, em thực sự cần một đôi mắt khác”, anh ta buông lời tròng ghẹo “sao em không hỏi những cô nàng khoai tây nhỉ? Họ có rất nhiều, họ sẽ cho em mượn.” Nàng đậu bắp và chàng súp lơ bắt đầu trao đổi số điện thoại. Có lẽ lý do cho sự hiện diện của tôi với cái thứ chất lỏng gớm ghiếc đang ở các ngón tay này là để cho những sinh vật lạ lùng từ tất cả mọi ngóc ngách của thế giới có thể gặp được nhau. Vâng, tôi đang ở đây để thắp lửa cho một mối tình lãng mạn giữa một cô nàng đậu bắp và một anh chàng bí ngô, một cô nàng đậu bắp khác và một anh chàng súp lơ. Miệng tôi nở một nụ cười rõ ràng hơn. Tôi tưởng tượng mình đang mua một chiếc áo chống đạn tàng hình. Tôi nghênh ngang đi trên một con đường trải đầy hoa thủy tiên màu vàng. Tôi không thèm ôm khư khư tập tài liệu của mình để phòng thủ… bàn tay tôi tự do. Những kẻ đàn ông Brazillian wandering spiderats và Chimpigog chạy tới phía tôi hòng làm trò đồi bại. Chiếc áo chống đạn vô hình tôi đang mặc đã gây sát thương cho chúng. Chúng quay lại và hoang mang. Còn đối với lũ Snakepig lởn vởn xung quanh, chúng tạo ra những trò đùa độc ác. Không có cách nào để tấn công, chúng bắt đầu băn khoăn với câu hỏi làm cách nào mà tôi có thể bảo vệ mình. Tôi cười lớn và ngạo nghễ bước đi. Nhưng dưới cái nóng như thiêu đốt này, để mặc một chiếc áo chống đạn bằng kim loại - không kể đến lại là một chiếc áo tàng hình - điều này nghe thật kỳ quặc. Người phục vụ đưa tôi một chiếc khăn giấy. Khuôn mặt ông ta trông có vẻ quan tâm. Không hỏi lại thêm một lần nào nữa, ông ta chỉ tay về hướng tây căn phòng và nói: “Toilet ở đằng kia”. Tôi đi qua những vị khách đang chăm chú vào các món ăn và những người đi cùng họ. Mùi thơm của các món ăn khiêu khích cái dạ dày trống rỗng của tôi, nhưng tôi kiên quyết đấu tranh lại suy nghĩ đó để mua cho mình một món ăn nhanh ở ngoài kia. Bên cạnh đó, tôi không nghĩ mình có thể ăn bất cứ thứ gì ở nhà hàng này, không phải là vì đám rau củ đã đối xử tốt với tôi. Và tôi biết, dì Rosamma của tôi sẽ nấu cho tôi một bữa ăn ngon. Tất cả những điều tôi muốn bây giờ là có thể gột sạch thứ dơ dáy này ra khỏi tay. Tôi đi thẳng về phía nhà vệ sinh nữ với bảng hiệu là một cô gái mặc váy dạ hội màu đen. Tôi để lại dấu vết của thứ bẩn thỉu trên tay mình ở mọi nơi tôi đi qua. Từ khóe mắt của mình, tôi trông thấy những con mắt đang nhìn theo tôi…, những chiếc bánh bhatura, chhole, những người bồi bàn, những chiếc bánh masala dosa[6] và cả những cốc nước hoa quả - tất cả đều dõi theo mỗi chuyển động của tôi. Đi qua hành lang hẹp, tôi thấy nhà vệ sinh đang có người. Tôi đành đứng chờ. Một phút sau, cánh cửa toilet mở ra. Người phụ nữ vừa bước ra có mái tóc giống như một quả chuông; hầu hết các lọn tóc của bà ta chỉ dài đến tai, và phần còn lại là một lớp tóc dày ngang trán. Tôi nép mình lại như một bông hoa trên mảng giấy dán tường để bà ấy đi qua. Bà ấy nở một nụ cười thân thiện và vô tình quệt phải cái thứ chất lỏng chết tiệt khi đi ngang qua tôi. Tôi rất muốn nói với bà ấy, nhưng bản thân tôi đã dừng ngay ý định đó lại. Tôi sẽ phải giải thích với bà ấy ra sao? Bước chân vào toilet, nơi những thứ mùi khủng khiếp đang chờ đợi để tấn công, tôi cố nín thở. Tôi ước mình có thể bịt mũi bằng bàn tay sạch sẽ còn lại. Nhưng thay vào đó, tôi lại dùng nó để giữ khư khư đống tài liệu. Sự ẩm ướt và mùi hôi thối từ nhà vệ sinh đã làm cạn kiệt những mảnh vụn hạnh phúc cuối cùng trong tôi. Tôi mở vòi nước và cố gắng không để nôn ra. Đặt bàn tay bẩn của mình dưới vòi nước mát trong vài giây, tôi thấy tay mình sạch sẽ. Tôi lau tay với khăn giấy trong vài giây nữa, và khi tay tôi bắt đầu chuyển sang màu đỏ, tôi mới nhận ra tôi đang tự làm đau mình. Tôi thoa xà phòng lên tay và để chúng nổi bọt. Thứ mùi kinh khủng trong nhà vệ sinh vẫn tiếp tục tấn công các giác quan của tôi. Soi mình trong gương, tôi nhận ra mình để tóc kiểu “Saagar choti” - một kiểu tóc tết bím kiểu Pháp ôm vào đầu - giống như diễn viên nữ Dimple Kapadia trong bộ phim Saagar năm 1985. Trông nó hơi chặt nên tôi chọc ngón tay vào đám tóc để nới lỏng chúng ra. Một vài sợi tóc bị bung ra, lởm chởm trên đầu. Trông tôi chẳng có gì giống mẹ, tôi lấy làm vui mừng vì điều đó. Đôi khi tôi nghĩ vẻ đẹp hoàn hảo là vẻ đẹp phải được chia sẻ. Và tôi thường tự cốc vào đầu mình sau cái ý nghĩ xấu xa đó. Đôi mắt mẹ tôi giống như vỏ ốc xà cừ, còn của tôi thì tròn giống như những chuỗi hạt vòng cầu nguyện của tín đồ Hindu, mũi bà cao và hoàn hảo, còn mũi tôi toát lên một vẻ bướng bỉnh với lỗ mũi hơi loe, môi bà đầy mọng, còn môi tôi thì mỏng. Tôi cố gắng gài những sợi tóc lởm chởm trên đầu mình trở lại với kiểu Saagar choti, mà giờ trông chúng không khác gì một chiếc sừng. Sau đó, tôi gấp tấm khăn giấy thành hình chóp nhọn và chấm lên những vệt kẻ mắt bị nhòe đi dưới đôi mắt đẫm lệ của mình. Khi đang ngắm nghía trong gương, tôi để ý thấy phía môi trên của tôi có một hàng ria mép mờ. Không thể nín thở thêm được nữa, tôi quyết định rời đi. Trên đường đi ra, tôi thấy người bồi bàn lớn tuổi khi nãy. Ông ta mỉm cười “Cà phê Piyoge nhé?” Tôi lắc đầu, mỉm cười. Trên đường tiến ra phía cửa, tôi liếc nhìn những người đầu bếp. Họ quá bận rộn để để ý tới tôi. Một trái ớt xanh giơ ngón tay lên ra hiệu chúc tôi may mắn. Tôi mỉm cười. Tay tôi đã sạch sẽ, và tôi cũng cảm thấy khá hơn. Mặc dầu vậy, khi bước ra ngoài phố đông, tôi vẫn thầm nguyền rủa cái thời tiết khó chịu, dòng người đông đúc đổ ra khắp mọi nơi và cả gã súp lơ cơ bắp đó nữa. Chương 2 Chiếc xe kỳ diệu Tôi đang trên đường tới nhà ga. Giờ đây, khi đang đợi tàu đến trên sân ga trải bê tông dài vô tận và ngột ngạt này, tôi cố gắng nghĩ tới bất cứ thứ gì được cho là mát mẻ như dãy Alper ở Thụy Sĩ, những cốc bia và những ly falooda[7] mát lạnh… tuy nhiên, tôi đã không thành công trong việc tự đánh lừa tâm trí mình như lúc ở nhà hàng. Cái nóng làm tôi tự hỏi rằng chẳng phải thượng đế đang tra tấn tôi vì những tội lỗi mẹ tôi đã làm sao. Bà làm việc cho một công ty với vai trò là “người hộ tống”. Những “người hộ tống” tại nơi này không giống như những gái đứng đường khác, họ không khoác lên mình những bộ quần áo lòe loẹt, cũng không trang điểm kiểu rẻ tiền. Nơi mẹ tôi làm chuyên “cung cấp” “gái hộ tống” có phong cách. Và cái tổ chức nơi mẹ tôi làm việc - Exotic Indian Paris gọi những người như mẹ là các “nàng tiên”. Khi vào trang web của công ty này, khách hàng sẽ bắt gặp ngay dòng chữ: “Chào mừng đến với Exotic Indian Paris, Mumbai! Chúng tôi là một tổ chức hộ tống cao cấp, chuyên mang lại cho khách hàng những sự lựa chọn hàng đầu cũng như cung cấp các dịch vụ theo tiêu chuẩn cao nhất. Tất cả các “nàng tiên” của chúng tôi đều được tuyển chọn kỹ lưỡng, không chỉ qua vẻ đẹp tuyệt diệu của họ mà còn dựa trên sự tinh tế và thông minh. Mục tiêu chúng tôi là sự chuyên nghiệp cho cả khách hàng và “người hộ tống” nhằm đảm bảo những khoảng thời gian đồng hành tốt nhất có thể. Exotic Indian Paris còn cung cấp các gói “đồng hành” loại hình theo giờ, ngày, theo dịch vụ ăn tối, qua đêm hay dài ngày. Chúng tôi sở hữu hàng loạt các “nàng tiên” hộ tống xinh đẹp để các bạn lựa chọn, và chúng tôi sẽ làm tốt nhất những gì có thể để thỏa mãn yêu cầu cho mỗi trải nghiệm đáng nhớ với sự bảo mật tối đa”. Hình ảnh của những phụ nữ ăn mặc thiếu vải được phô trương lên trang chủ. Ở Bombay, Exotic Indian Paris là một trong số ít các công ty chuyên cung cấp gái gọi cao cấp, nơi mà dịch vụ của họ chỉ dành riêng cho những người đàn ông giàu có bao gồm người nổi tiếng và các vận động viên. Trong một tháng, mẹ tôi còn kiếm được nhiều tiền hơn cả số tiền kiếm được trong một năm của bố Anjana - người bạn duy nhất của tôi ở cuộc sống đời thực. Một vài tháng trước, tôi đã hỏi mẹ rằng vì sao bà không tìm một công việc khác và vì sao bà lại phải làm công việc này? Bà đã trả lời: “Sao lại không? Mẹ không phải những gái bán hoa ngoài đường kia hay những gái mại dâm ở nhà thổ, Kamada. Mẹ không biết con đang nghĩ gì, nhưng thực lòng, mẹ thấy quen với cuộc sống này, mẹ được đi du lịch, làm “trang sức” cho người khác và vui chơi. Mẹ cảm thấy mình như một thiếu niên, như những cô gái ở tuổi của con, được hẹn hò mọi lúc, từ trước cho đến nay và cả về sau này nữa. Con gái, không có một công việc nào có thể trả hậu hĩnh cho mẹ như công việc này.” Khi tôi hỏi bà, liệu bà có bao giờ muốn yêu, bà đã nói: “Tất cả mọi người đều muốn có tình yêu, Kamada. Và một khi đã yêu rồi, thì tất cả mọi người đều muốn thoát khỏi nó.” Liệu bà có đang lảng tránh câu hỏi của tôi? Bà có thực sự muốn yêu không? Tôi biết bà có một người tình cách đây nhiều năm, từ cả trước khi tôi được sinh ra. Khi tôi hỏi bà ai là bố của mình, bà trả lời: “Mẹ không biết, Kamada. Con làm ơn đừng hỏi mẹ câu hỏi đó nữa được không?” Có thể bà biết bố tôi là ai và từ chối nói cho tôi biết. Hoặc có thể bà thực sự không biết thật. Khi tôi hỏi bà liệu có bao giờ bà thấy mệt mỏi không, bà đã nói với tôi: “Không, mẹ thấy mình xinh đẹp, tràn trề sức sống và vui vẻ mọi lúc. Trừ những lúc con chỉ thẳng ngón tay vào mặt mẹ và hỏi những câu hỏi như vừa rồi, và làm mẹ cảm thấy như thể mẹ không đáp ứng đủ những điều con cần. Sao con không tự mình trả lời những câu hỏi đó? Mẹ vừa có một nhóm khách hàng cũng trẻ tuổi như con…” Khi mẹ tôi cố gắng thuyết phục tôi về con đường của bà, tôi thôi không vặn vẹo bà nữa, và lui về căn phòng của mình. Những cuộc nói chuyện khác giữa tôi và mẹ thường không đi sâu như những cuộc nói chuyện liên quan đến “nghề nghiệp” của bà, cha tôi là ai, và ý kiến của bà về tình yêu. Chuyến tàu lúc 3h36’ chiều bị muộn. Tôi ngắm nhìn vầng mặt trời mệt mỏi đang trở về nghỉ ngơi. Không biết từ đâu, một luồng gió nóng và bụi bặm cuốn lấy tôi và những hành khách đang khoác lên mình chiếc áo thấm đẫm mồ hôi trên sân ga. Giờ đây, tôi và họ là một đại gia đình “hạnh phúc và nhớp nháp”. Tôi thấy những lũ ruồi bâu lấy miếng bánh vada pav[8] của một phụ nữ lớn tuổi khi bà ta ngồi xổm xuống một góc sân ga để ăn. Tôi gần như có thể cảm nhận được mùi vị của nó khi bà ta nhai miếng bánh. Những nếp gấp của làn da nâu hằn sâu trên đôi mắt và dường như đang cố gắng che đậy một nỗi buồn sâu thẳm của cuộc đời người đàn bà. Vì không nhìn thấy gì, bà ta phẩy tay vào không khí để đuổi lũ ruồi. Mỗi bên vai bà là một nàng tiên, họ đang ra sức vỗ cánh như thể đang nâng mí mắt của bà ta lên vậy. Cả hai mí mắt của bà ta được nâng lên như chiếc rèm trong mỗi buổi mở màn của rạp hát, để lộ ra khoảng sân khấu phía sau. Tò mò về cuộc đời người phụ nữ đó, tôi lén nhìn vào trong đôi mắt ấy. Thoạt tiên, tôi không thấy gì ngoài bóng tối. Nhưng sau đó, một trong những nàng tiên đó thắp lên một chiếc đèn lồng nhỏ xíu. Trong một bên mắt, tôi nhìn thấy dáng hình một người phụ nữ trẻ ngồi bên đống lửa. Cô ta hát trong khi chuẩn bị món bánh mỳ chapattis. Tôi nhận ra người phụ nữ ấy có khuôn mặt giống người phụ nữ già ngồi trước mặt chúng tôi. Con mắt còn lại tiết lộ thêm nhiều điều nữa. Là một vũ nữ Kathak[9], người con gái trẻ kể về câu chuyện của đời mình thông qua điệu múa. Cô ta sinh ra đã bị mù. Âm thanh của cây sáo bansuri và chiếc chuông ở cổ chân lấp đầy không gian trong con mắt bà, nơi được thắp sáng bởi thứ ánh sáng lan tỏa từ chiếc đèn lồng. Cô ta xoay người nhảy múa một cách uyển chuyển, những chuyển động của cô ta kể cho chúng tôi nghe về những ngày tháng tươi đẹp của cuộc đời người con gái cho đến khi cô ta không còn nhảy được nữa. Giờ đây, người phụ nữ ấy không còn gia đình, bè bạn, không còn nơi nào để đi. Người con gái với món bánh mì chapattis trong con mắt kia quay lại nhìn chúng tôi và mỉm cười. Ở phiên bản này, cô ấy có thể nhìn thấy chúng tôi. Những nàng tiên giờ đã hạ “màn” và bay đi. Người phụ nữ lớn tuổi lại tiếp tục xua đuổi những con ruồi và ăn chiếc bánh vada pav. Ở một gian hàng đồ uống phía sau bà ta, món nước chanh nimbu paani đang xoáy tít trong hỗn hợp. Một thằng bé da nâu đang rót chúng vào hai chiếc cốc cho hai người đàn ông cũng có làn da nâu cùng hàng ria mép. Một con chim sẻ màu nâu hót vang trên cột điện. Và tôi… cũng là một cô gái da nâu sống trong một thế giới “màu nâu”. Đàn kiến thích thú với món snack miễn phí trong những mẩu beasan laddoos[10] vương vãi. Tôi nhớ đã nhìn thấy người hàng xóm chuẩn bị món ăn phức tạp này rất cẩn thận. Đầu tiên, cô ấy đun nóng một cốc sữa trâu trong chiếc chảo kadhai đáy dày. Sau đó, cô ấy thêm bốn cúp bột vàng và khuấy nó đến khi hỗn hợp chuyển sang màu nâu. Cô ấy trộn thêm hai cúp đường, một nắm hạnh nhân và nho khô trong khi không ngừng than vãn về bàn tay đau rát của mình. Sau đó, cô ấy nhúng tay mình vào nước lạnh trước khi nặn đám hỗn hợp nóng bỏng đó thành món besan laddoos. Tôi có đôi chút ghen tị với lũ kiến nhưng một thằng bé với khuôn mặt buồn tẻ, đi đôi giày bóng loáng quyết định giết chết bọn kiến bằng những ngón tay của nó. Tôi không thể tưởng tượng một cái chết nào lại đau đớn hơn thế nữa - giết bọn kiến chẳng vì lý do gì trong khi nó vẫn đang thưởng thức món snack ngon lành. Tôi thà chết đói để làm người có nhân tính còn hơn. Một cái chạm lạnh như băng giật nảy mình đẩy tôi ra khỏi sự mơ tưởng. Đó là một bé gái ăn xin với mái tóc ngả vàng do đi nắng. Khóe mũi bên phải của con bé có đeo một chiếc khuyên bạc. Mắt tôi lảng tránh khuôn mặt mang vẻ thỉnh cầu của con bé. Chúng hướng lên bầu trời, nhìn theo những con sẻ nâu và sau đó dừng lại trên những đường ray. Con bé đẩy đưa tôi. Những cái níu tay dẻo quẹo và mạnh mẽ. “Cho em xin ít tiền, làm ơn đi chị” - Con bé bắt đầu van lơn. Khi tôi cố ý tiếp tục lờ nó đi, nó lại lặp lại điệp khúc: “Làm ơn, làm ơn.” Tôi gạt tay nó ra. “Đi đi.” Tôi không muốn tiếp tay cho cái cách mà thành phố này đang làm, ăn xin có mặt khắp mọi nơi. Nó nhìn tôi, nhăn nhó, rồi bỏ đi như một con dê tinh nghịch để bắt đầu nài nỉ người phụ nữ có đứa con trai giết kiến khi nãy. Đôi mắt của người phụ nữ này cũng chọn cách lờ đi như tôi. Vẫn giữ vẻ vui vẻ đó, con bé nhảy nhót qua đám đông và nhảy lên những bậc cầu thang theo cách riêng của nó. Đôi mắt tôi dõi theo con bé cho tới tận cây cầu, nơi mà nó sẽ nhảy qua rồi bật xuống những nhịp thang tiếp theo. Khi nó đi xuống nhịp cầu, con đường hoa lớn gần đó đang bắt đầu nở rộ. Con đường hoa chạy dài theo bước chân con bé đến nơi gia đình nó đang ngồi túm tụ trên những bậc thang cuối cùng của sân ga chạy song song với nơi tôi đang đứng. Như thể nếu không có lịch trình cho chuyến tàu sắp đến sân ga này, thì họ không có vẻ gì là bị làm phiền trong những giờ tới và còn lâu hơn thế nữa. Tôi quan sát họ lần lượt cắn từng miếng vada pav cùng những quả ớt xanh ướp muối. Một người nào đó đã đáp lại lời cầu xin của con bé. Những đóa hoa nhảy nhót trên những mái đầu của họ sau những nhóm người đang đứng túm tụm. Chuyến tàu của tôi đã tới. Tôi nhìn những gia đình nhỏ và chiếc kính vạn hoa được kết từ những đóa hoa đang nhảy múa qua những khoảng trống giữa những hành khách trong vài giây cho tới khi tôi để ý tới sự đông đúc của chuyến tàu hôm nay. Nó gợi tôi liên tưởng đến một con rết kỳ lạ đang phải chống chọi với hội chứng Hypertrichosis - hội chứng Người sói, một thể trạng bệnh gây ra chứng tóc phát triển quá mức. Mọi người treo mình lơ lửng ở các cửa ra vào và giữ chặt báng tàu như những sợi tóc mọc không đúng chỗ. Tôi nghe tiếng phanh tàu ré lên và một sự hỗn loạn nổ ra. Các hành khách trên chuyến tàu tạo nên một sinh vật khổng lồ đang dần dần hiện ra. Đám đông chật ních từ sân ga tạo nên một con quái vật khác. Cả hai sinh vật này vật lộn với nhau. 3h52’ chiều. Cuộc chiến bắt đầu. Tôi là một phần của sinh vật trên sân ga. Giờ đây, các phần nhỏ cơ thể sinh vật trên sân ga đang mắc lại với các phần cơ thể của sinh vật trên tàu. Tôi vật lộn để lên tàu trước khi nó rời ga. Tôi cố gắng giữ cho mình càng nhiều khoảng trống càng tốt và xoay xở để có thể dang chân mình ra khoảng 6 inch trên sàn tàu. Tôi đứng trên các ngón chân ở bậu cửa và toàn thân ngửa ra ngoài. Tôi bám vào tay nắm cửa của con tàu. Con tàu không có đủ chỗ để có thể cho phép toàn bộ thân hình của sinh vật dưới sân ga kia nằm trọn vẹn trên tàu, vì vậy, một số bộ phận phụ bị ném đi và phần ngực của nó bị đè nát. Con vật cố chống trọi để thở. 3h55’ chiều. Tôi cưỡi con tàu từ bên ngoài, giống như một nữ diễn viên ballet giữ thăng bằng trên bờ vực giữa sự sống và cái chết. Loài sinh vật bị thương kia đang vật lộn để sống sót. Cuộc xung đột chỉ vừa mới bắt đầu. 4h01’ chiều. Sân ga tiếp theo đã hiện ra trước mắt. Trong vòng 6 phút, sinh vật khổng lồ mà tôi là một phần trong nó đã tự nhân bản vô tính. Từ bên ngoài, một cái chồi được hình thành trên cơ thể con vật khổng lồ. Mầm mống này là con đẻ của nó. “Đứa trẻ” này được thừa hưởng toàn bộ đặc điểm từ mẹ mình, nó là một sinh vật giận dữ, có bản năng tự đấu tranh để tồn tại. Một số bộ phận cơ thể cố gắng cắt đứt với phần thân và di chuyển về phía bên cạnh của con tàu trong nỗ lực tách ra từ đám người đang di tản. Khi “đứa trẻ” tách ra từ cơ thể mẹ mình, nó rên rỉ trong cơn đau đớn khủng khiếp. Ở những phần còn lại chưa được tách rời, một số bộ phận của “đứa trẻ” bị cuốn trở lại bên trong con tàu, cùng với một phần thân thể mới của một sinh vật khổng lồ khác. Bây giờ là trò chơi kéo co giữa hai loài sinh vật bên trong thân tàu. Một số bộ phận cơ thể nham nhở thuộc về hai sinh vật khác nhau đang vật lộn ở phía trong. 4h49’. Tôi vẫn cưỡi gió phía bên ngoài con tàu. Ngay khi nhìn thấy một nhà ga đang dần hiện ra, tôi tách ra khỏi cơ thể của sinh vật khổng lồ trước khi nó lại nhập vào cơ thể mẹ và rời bến. Tôi cảm thấy luồng không khí đặc quánh và một cơn mưa phùn nhỏ vỗ vào mặt. Các ngón tay trở nên tê liệt do nắm chặt vào bậu cửa quá lâu. Con tàu xé toạc những luồng gió. Khi gần đến sân ga, nó đi chậm lại và lướt êm ru giống như một con ốc sên đang đi trên những dải nhớt mà nó tạo ra. Đây là ga Malad, Bombay, và đây là bến tàu mà tôi sẽ xuống. Tôi thả chân mình dọc theo sân ga để kiểm tra tốc độ của tàu. 4h50’. Đôi mắt và đôi chân kinh nghiệm của tôi nắm lấy cơ hội và nhảy ra khỏi con tàu, tôi chạy dọc theo một đoạn để giữ đà. Tôi đã hoàn toàn tự do để nhập vào một bộ phận khác và trở thành một phần thân thể khác. Tôi là một kẻ phản bội, một bộ phận có thể tự hợp nhất và tách ra theo ý muốn, hay một sinh vật ngây thơ với một bản năng tự bảo toàn nguyên thủy của mình? Sân ga như một bức tranh đa sắc màu được phản chiếu từ các cửa hàng quần áo, khách hàng, của những người lao động và của cả những người vô gia cư. Có cả những cục phân màu vàng và những mẩu thức ăn thừa, những con chó hoang chạy ngoài đường với những vết thương hở màu hồng. Những vệt bã trầu đỏ ngầu trang hoàng khắp các ngả đường và tường phố. Thay vì cầu vồng trên trời, những đường phố của thành phố Bombay như những vệt cầu vồng phản chiếu trong một cái ổ voi đầy váng dầu. Tôi cũng ăn vận lòe loẹt nhưng lại có một trải nghiệm thật khó chịu khi bắt đầu đi ra ngoài và hòa vào một phố phường đông đúc khác. Tôi cố lần ra một chiếc xe lam còn trống qua đám đông trước mặt trong khi cố né những kẻ đê hèn trên phố. Một gã Brazilian wandering spiderat đâm sầm vào tôi. “Lại không phải thêm một lần nữa đấy chứ”. Tôi chỉ muốn gào lên. Tôi đẩy anh ta với tập tài liệu trên tay. Gã Brazilian wandering spiderat nói với tôi: “Xin lỗi, thưa cô. Tôi xin lỗi.” Tôi nói với anh ta: “Hãy nhìn đường của anh đi.” “Xin lỗi. Tôi rất tiếc”. Anh ta lặp lại với một nụ cười trong khi nhìn vào mắt tôi. Tôi lục lọi trong kho lưu trữ của bộ nhớ. Từ những kinh nghiệm từng trải, những người vụng về, họ thường xin lỗi với một nụ cười, nhìn thẳng vào mắt và chờ đợi sự phán quyết của đối phương, nhưng nếu không tỏ ra sợ hãi, thì đó là những kẻ Brazilian wandering spiderat thích ve vãn. Họ cần sự chú ý và làm tôi khó chịu hơn là làm tôi cảm thấy nguy hiểm. Họ sở hữu nhiều đặc tính của loài chuột nhiều hơn là loài nhện. Tôi chọn cách phớt lờ hắn và quay đầu bỏ đi. “Tôi xin lỗi”. Anh ta nói lớn phía sau. Tôi vẫn lờ hắn đi. Một tay bịt chặt mũi, tay còn lại giữ khư khư tập tài liệu và đi qua khu vực xử lý rác đầy ngộn. Một núi rác nằm trên xe giống như một vị phụ huynh độc đoán, chỉ biết đòi hỏi mà không thèm đáp ứng hoặc nuôi dưỡng “đứa con” xe rác của mình. Cũng như mẹ của tôi, những núi rác trời đánh đã đẩy những xe rác vào tình thế không còn sự lựa chọn nào khác để có thể bỏ đi. Nó thiếu sự ấm áp, tình yêu vô điều kiện, và sự nuôi nấng mà đứa trẻ cần. Chiếc xe rác giấu giếm khuôn mặt hổ thẹn của mình và rút lui. Nó coi sự tự cô lập mình với thế giới bên ngoài như một cách để tự bảo vệ mình. Người bạn duy nhất của chúng là những con chó hoang ngày ngày tới lui. Lũ chó thể hiện sự quan tâm của mình bằng những cái liếm láp nhẹ nhàng và từ tốn. Tôi lắc đầu thất vọng và đi qua những “vị phụ huynh độc đoán” và những “đứa trẻ” làm việc hết công suất kia. Bàn chân tôi di chuyển một cách rệu rã. Tôi xem lại đồng hồ. Bây giờ là 5h15’ chiều. Mẹ tôi sẽ mặc một chiếc sari[11] bằng lụa và đi hẹn hò vào tối nay. Tôi nhìn thấy một chiếc xe lam trống bên kia đường và hi vọng rằng đó là món quà trời cho - Nhưng liệu có ai sẽ nhảy vào đó trước tôi không? Tôi vội vã băng qua đường. Một chiếc xe lam khác gần như tông thẳng vào tôi, nhưng thật may, cả tôi và nó đều bình yên vô sự. Tất cả mọi người ở Bombay đều biết cách tránh xa những tai nạn giao thông luôn rình rập và các tài xế luôn hi vọng mọi người ở trên đường vào bất cứ lúc nào. Đây là trò chơi mà cả người lái xe lẫn người đi bộ đều biết. Trò chơi điển hình này không có bất cứ một luật gì. Tôi băng qua đường và tiến lại gần chiếc xe đậu ngay phía trước một người phụ nữ cao ráo đang kéo xềnh xệch đứa con. “Có đi không bác?” - Tôi hỏi người tài xế. Người lái xe rời mắt khỏi tờ báo Hundustan Times đang đọc, ngước lên nhìn tôi và trả lời “Có, cháu gái”. Điều gây ấn tượng đầu tiên với tôi là bộ ria mép của ông. Nó là một bộ ria theo phong cách cũ và rậm rạp. Tôi đã từng nhìn thấy những bộ ria như vậy của những sĩ quan quân đội, nhưng nó không hề tồn tại trong thực tế và lại càng không bao giờ xuất hiện tại những con phố chật hẹp như thế này. Tôi quan sát bộ ria thêm một lúc nữa và nhận ra sự tài tình của nó. Bộ ria mép mọc dài tới tận cuối bờ môi trên với phần chót cuối cuộn lại thành một điểm. Chúng làm cho chủ sở hữu của mình có một diện mạo rất quý tộc, một diện mạo mà hầu hết mọi người sẽ phải e dè khi đối mặt. Khi lên xe, tôi có thể nhìn rõ người tài xế qua gương chiếu hậu, và thẫn thờ với bộ ria mép của ông. Người tài xế cuộn bộ ria lên và ép nó vào mặt mình như dán nó lại, cứ như thể ông ấy sợ nó sẽ rơi xuống. Tôi nhảy lên xe, siết chặt tập tài liệu trước ngực. Xe lam là một loại phương tiện thông thoáng vì cả hai bên đều mở toang hoác. Bất kỳ loại đàn ông nào cũng có thể bất ngờ sàm sỡ tôi tại những trạm đèn giao thông hay trong những con phố tắc nghẽn và biến đi thật nhanh. Tôi sẽ không thể đuổi theo hắn vì hai lý do: Một là, người tài xế của tôi sẽ la toáng lên nếu tôi chạy ra khỏi chiếc xe mà không trả tiền sau khi đồng hồ đếm được khởi động, hai là, nếu tôi chạy đi, tôi sẽ mất luôn chiếc xe này và thật là khó để có thể tìm lại được một chiếc khác. Khi quan sát phía bên trong của chiếc xe lam, tôi để ý thấy nó rất khác biệt so với tất cả những chiếc xe mà tôi đã từng nhìn thấy. Vẻ bề ngoài của nó thì không có gì khác biệt với bao chiếc bánh xe màu đen đơn điệu với một dải lụa vàng chạy xung quanh như một chiếc thước dây bám lấy điểm trung tâm. Ngoài ra, giống như tất cả những chiếc xe khác, đây là xe cơ giới hóa, cho phép người tài xế có thể ngồi và lái. Những tháng ngày của việc kéo xe với đôi vai đau nhức hay gồng mình lên đạp bằng đôi chân rã rời đã đi xa. Phía bên trong trông nó có vẻ khác lạ và có mùi hoa. Đám hương trầm mang luồng hương hoa nhài tới nơi tôi ngồi. Tôi để ý tới chiếc đài, tờ lịch, chiếc đồng hồ, chiếc quạt, đồ cứu thương và một chiếc ti vi nhỏ xinh được bài trí ở những nơi khác nhau trong chiếc xe. Hình ảnh và biểu tượng của các tín ngưỡng khác nhau tô điểm cho nội thất bên trong. Đức thánh Sai Baba[12], với tư thế ngồi chân phải đặt lên chân trái, mặc một chiếc áo Dhoti da cam, cười với tôi từ một bức ảnh bị gấp mép sau ghế tài xế. Một chuỗi tràng hạt màu xanh chói lòa hiện lên trong bóng tối và một chuỗi tràng hạt gồm 108 lời cầu nguyện Hindu quấn vào nhau khi chúng được treo trên chiếc gương phía trước, trông như hai con rắn đang giao phối lộn ngược. Một chiếc túi được may giống kiểu trên máy bay đựng một vài tờ báo và một vài cuốn tạp chí Femina cho hành khách. Ghế nơi tôi ngồi khoác lên mình một chiếc áo choàng có lông mượt và mịn màng. Những câu trích dẫn được viết cầu kỳ chạy dọc theo bức vách. Một vài trong số đó được viết bằng tiếng Anh với những lỗi chính tả thường gặp, số còn lại là tiếng Hindi. Ví dụ như “Be happy, don’t worry!” hay “Woh sabse tez chalta hai jo akela chalta hai[13]” và “Love is blind, love is friendship”. Gần với bức ảnh đức Sai Baba, người tài xế cao quý này có dán một thông báo giảm giá 25% cho người khuyết tật và miễn phí cho người mù. Người tài xế mỉm cười với tôi qua tấm gương. Tôi cười đáp lễ rồi nhìn ra bên ngoài. Nhờ mẹ, một người kỹ nữ, mà tôi có thể chi trả tiền đi xe. Tôi nhìn những cửa hàng lướt qua trước mắt, những người đi túm tụ vào nhau như những cặp tình nhân trong một buổi sáng mùa đông rét mướt. Họ bán mọi thứ từ bánh kẹo, gạo, đậu lăng, các loại trái cây khô, các loại hạt cho đến tủ lạnh và xe máy. Trên con đường chúng tôi đi, tôi thoáng thấy một cuộc xích mích giữa hai người tài xế xe lam. Một đám đông chế giễu đang vây lấy họ. Một lát sau, chúng tôi đi qua một cái cây được trang trí với một bức tranh kết tràng hoa về vị thần Kali Ma, vị thần của thời gian và sự thay đổi. Lưỡi vị thần này thè ra dưới đôi mắt đỏ ngầu. Tôi nghe thấy tiếng một kẻ ăn mày than khóc. Một đứa bé gái gần đó véo đứa trẻ sơ sinh được bọc trong những lớp tã, hành động và tiếng khóc này mang lại cho họ những đồng xu, thứ mà có thể mua cho họ bữa tối nay. Bombay là một thành phố đầy sự mê hoặc và bí ẩn. Đèn tín hiệu giao thông chuyển sang màu đỏ, chiếc xe khựng lại một cách thô lỗ. Đứa bé gái ăn xin tiến lại gần tôi và lại véo đứa trẻ sơ sinh thêm một lần nữa. Tôi nói với nó rằng hãy thuyết phục cha mẹ mình tìm bất cứ một công việc gì để làm. Nó thè lưỡi và lại véo đứa trẻ trước khi nó rời sang một chiếc xe khác. Tôi vừa thấy ghét vừa thương nó. Tín hiệu đèn chuyển sang màu xanh. Người tài xế nhìn tôi qua gương rồi vặn ga bằng tay trái của mình và khởi động chiếc xe. Tất cả những chiếc xe xung quanh tôi đều kêu lên, chạy ầm ầm và gầm gừ với cuộc sống. Đây là sự tồn tại duy nhất mà tôi có thể cảm nhận được vào lúc này và nếu những âm thanh buồn chán này giảm đi dù chỉ một vài decibel[14] thôi thì tôi cũng cảm thấy thật kinh khủng. Nếu tôi không nhìn thấy những đám người với vai trò là những bộ phận không thể đếm xuể của loài sinh vật khổng lồ có khả năng tách rời và hợp nhất theo ý muốn kia, tôi sẽ tự hỏi rằng, liệu họ đã đi về đâu. Mỗi một phút ngồi trên xe là một trải nghiệm giống như việc ngồi tàu lượn, khi mà cả năm giác quan của tôi bị đánh thức cùng một lúc: Tôi nghe tiếng ồn ã của đường xá đông đúc, nhìn và ngửi thấy mùi của những đám đông, ngửi và cảm nhận sự ô nhiễm phát ra từ các ống xả của những phương tiện giao thông lớn hơn chạy ngang qua cái xe bé nhỏ và lộng gió mà tôi đang ngồi… và đối với tôi, tôi cảm nhận được những hạt cát. Tối nay, khi tắm, xà bông sẽ kết hợp với nước tạo thành những dòng nước nhỏ đen đúa chạy dọc từ cơ thể tôi xuống, tạo thành một vũng nước đen ngòm dưới chân. Khi chiếc xe lam tôi ngồi bắt đầu khởi hành, bé gái ăn xin với đứa em sơ sinh trên tay đã ném một hòn đá vào tôi. Tôi cố thò đầu mình ra khỏi xe để nhìn nó, trong khi nó chạy mất hút. Tôi nhìn thấy một đàn bươm bướm với những đôi cánh rách rưới màu xanh đuổi theo nó. Chúng để lại những vệt phấn lấp lánh trông như những ngôi sao xanh rơi lại phía sau. Đứa trẻ tuổi còn ẵm ngửa trên tay bé gái bắt đầu cười lớn. Thằng bé vươn tay ra để chạm vào lũ bướm, nhưng chúng vụt bay đi mất, để lại những hạt sao màu xanh cho thằng bé nghịch ngợm. Chiếc xe lam đột ngột dừng lại. Lại một cột đèn giao thông khác chăng? Tôi không thể cảm nhận được chuyện gì đang diễn ra vì một chiếc xe tải đồ sộ phía trước chắn mất tầm nhìn của tôi. Chiếc xe lam đang ở phía rìa bên trái của lề đường, người đi bộ, những kẻ ăn xin chạm tay vào mặt bên ngoài của chiếc xe khi họ đi ngang qua. Tôi giữ khư khư tập tài liệu vào ngực và cảnh giác với những gã Brazilian wandering spiderat, Snakepig, và Chimpigog. Khi chúng tôi đang chờ đợi, một khuôn mặt quen thuộc tiếp cận chiếc xe tôi đang ngồi. Khuôn mặt hắn đeo kính và được gắn lên những nốt mụn to bằng hạt mù tạt. Chúng thật tròn trịa, và như thể có ai đó đã lấy một chiếc compa và vẽ chúng khắp khuôn mặt của anh ta bằng một bàn tay vững chãi trong khi anh ta ngồi ngoan ngoãn, không chớp mắt và thở một cách khó nhọc. “Có phải cô đang đi về phía nhà thờ Orlem không?” Khuôn mặt đầy mụn của anh ta mở lời hỏi tôi. Trước khi tôi có thể trả lời câu hỏi của mình, anh ta nói thêm: “Tôi đang trên đường tới Tank Colony. Cô làm ơn có thể cho tôi xuống quá một đoạn sau nhà thờ được không? Tôi sẽ trả chung tiền với cô”. Tôi nhớ lại khuôn mặt của anh ta trong lớp toán học, chúng tôi học cùng nhau mấy năm trước. Anh ta cũng là một người bạn rất tốt của Anjana, người bạn thân nhất của tôi. “Được, chắc chắn rồi!” Tôi trượt theo ghế trở về phía cuối chiếc xe và chừa chỗ ngồi cho anh ta. Anh ta lên xe và ngồi huỵch xuống. Anh chàng nặn một cái mụn trên mặt ngay sau khi nói “Cám ơn!”. Anh ta nhíu mày, nghiến răng trong đau đớn và chịu đựng nỗi đau như thể có ai đó vừa bắn một phát súng vào mình và anh ta phải moi viên đạn ra bằng một cái kẹp. Tôi lùi lại và cố gắng phớt lờ anh ta. Nhưng trong đầu tôi vẫn hiện ra hình ảnh anh ta nhăn nhó vì bóp và nặn mụn. Không ai trong chúng tôi nói với nhau một câu nào. Chiếc xe lam bắt đầu lăn bánh. Nó xê dịch từng li một trước khi chạy qua một ổ voi. “Có chuyện gì vậy?” Anh ta gắt lên với bác tài. Bác tài không nói gì. Rồi anh ta nhìn tôi và tiếp tục: “Những ổ voi này nên được lấp lại. Có Chúa mới biết được tại sao chúng lại không được làm vậy.” “Ai không lấp chúng?” - Tôi hỏi lại. “Đó là ai á? BMC. Hiển nhiên là hội đồng thành phố Brihanumbai. Họ chỉ biết ăn hết tiền. Chúng ta có một chính phủ tham nhũng như vậy đó.” Sau đó, anh ta bóp một cái mụn khác và không quên thêm vào đó một tiếng thì thào: “Họ nên dẹp hết những người bán hàng rong kia đi, lấp ổ gà, xây dựng hệ thống nhà vệ sinh. Và còn giải quyết rác thải ở mọi nơi. Ngày hôm qua, một người phụ nữ đi trước mắt tôi, bà ta ăn một chiếc bánh Simba khoai tây chiên, sau đó vứt luôn vỏ bánh xuống đường, chỉ như vậy thôi. Tiếp đó là một vỏ chai Coca; bà ta cũng uống và vứt nó trên đường. Tiếp đó là vỏ kẹo chocolate. Tôi đã rất tức giận và phát chán khi phải nhìn thấy bà ta. Tôi tiến lên phía trước và hỏi “Bà làm ơn có thể vứt rác vào thùng rác được không?”. Bà ta trả lời tôi rằng: “Anh có thấy cái thùng rác nào không?”. “Bà ta đã đúng, cô biết đấy. Chúng ta sẽ vứt rác vào đâu nếu những lão làm việc cho Hội đồng Thành phố BMC không bố trí thùng rác dọc đường, ít nhất thì cũng cần phải có năm đến sáu chiếc trên một kilômét”. Tôi đã nói với bà ta: “Nếu là tôi, tôi sẽ để rác vào trong túi xách và vứt chúng khi trở về nhà”. Bà ấy nhìn tôi và cười lớn rồi nói: “Một cánh én không làm nên mùa xuân”. Tôi lại tiếp tục: “Sao bà không thử và thấy nó ra sao?” Người bạn đồng hành tự mãn của tôi dựa lưng vào chiếc ghế mượt mà. “Vâng. Thật là khó để có thể thay đổi tâm tính của một người” - Tôi đồng tình. Tôi nhận ra rằng anh ta đã nói quá nhiều nhưng không thể nhớ nổi tên anh ta. Tôi quyết định không hỏi. “Vâng, thật là khó. Và những người kia thì nhổ bã trầu khắp mọi nơi. Thật là kinh tởm”. Tôi nhìn anh ta nặn thêm một cái mụn khác khi anh ta nói điều đó. “Đó là một thói quen cá nhân, tôi đoán nó rất khó có thể thay đổi được!” - Tôi đáp lời. “Ồ, đúng là kinh tởm!” - Anh ta nói rồi sờ soạng trong túi của mình và cố gắng không bị trượt khỏi ghế và ngã sang phía tôi khi chiếc xe đi qua một ổ gà khác. Chiếc đèn giao thông chuyển qua màu đỏ trong khi anh ta xoay xở để moi được một tờ giấy bạc 10 đồng từ trong túi quần. Lốp sau của chiếc xe lam đã yên vị trong một ổ voi, và điều này làm cho chiếc xe nghiêng về phía tôi ngồi. Chiếc xe không còn chỗ để có thể di chuyển về phía trước, vì vậy nó yên vị ở một thế nghiêng góc 40 độ. Từ giữa ổ gà nổi lên một đống bùn giống như một sinh vật đang sống, mà toàn thân nó được bao phủ bởi những hạt mụn cóc. Khi tôi cố gắng để trượt sang phía bên kia, nó giữ tay tôi lại. Nó nói với tôi: “Vì sao cô lại một lần nữa phá hỏng gia đình tôi, hỡi kẻ không mời mà đến kia?” Tôi rít lên. Tôi trông thấy bác tài quay lại và xịt một thứ gì đó vào mặt nó. Thứ này làm cho bàn tay và thân thể của nó tan thành mây khói. “Ồ, tiện thể” - người kế bên tôi lên tiếng: “Tôi đang cố tìm cách tham gia vào một seri chương trình trên tivi. Chưa có gì là chắc chắn cả, nhưng nếu cô nhìn thấy tôi xuất hiện trên truyền hình thì đừng ngạc nhiên nhé.” Anh ta cười lớn. “Thật là tuyệt. Tôi hi vọng một ngày nào đó sẽ được nhìn thấy anh xuất hiện trên truyền hình”, tôi nói với anh ta. “À, chắc là cô đã quên, tôi tên là Balarama” - Anh ta nói trong lúc cố không bị trượt về phía tôi một lần nữa. “Tôi là Kamada”, tôi nói thêm: “Tôi vẫn nhớ tên anh. Anjana thường hay nhắc tới anh.” Trong khi tôi đang tự hỏi vì sao tôi lại nói với Balarama rằng vẫn nhớ tên anh ta thì một cô gái chuyển giới tiến lại gần chúng tôi và đưa toàn bộ phần thân trên - tay, chân, đầu, ngực, bụng - vào xe của chúng tôi bên phía Balarama. Bằng một giọng nói nam tính, cô ta giới thiệu: “Tôi là Chameli”. Cô ta đưa tay ra chào. Balarama không đáp lại, vì vậy Chameli cúi đầu, chắp tay vào ngực và nói “Namaste”. Lời cầu nguyện của cô ấy mong chúng tôi được bình an. Người tài xế mỉm cười qua tấm gương. Khoảnh khắc này giống như chúng tôi đang là những thành viên trong một nhóm bốn người, cố gắng làm quen và kết bạn với nhau. Chúng tôi vừa mới giới thiệu về bản thân. Và chúng tôi hoàn toàn có thể trở thành một đội. Chameli, Balarama và tôi là người ngồi sau chiếc xe lam, còn bác tài có thể đưa chúng tôi đi. Chúng tôi có thể cùng ăn một bữa ăn tại nhà hàng, đến rạp chiếu phim, tham dự hội hè và đi bộ cùng nhau. Một chiếc gậy thần tiên có thể chắp thêm đôi cánh cho chiếc xe chúng tôi đang ngồi. Nó có thể lấy đà vọt qua những cột đèn giao thông và bay mất hút vào bầu trời. Khi bay qua những đường phố đông đúc, Chameli, Balarama, bác tài và tôi có thể vẫy tay chào tất cả mọi người. Cùng với nhau, chúng tôi có thể chu du đến những vùng đất kỳ lạ, bay qua những đại dương xanh thẳm. Chúng tôi có thể ngắm nhìn những con sư tử và những con linh dương đang chạy trong khu rừng đỏ của châu Phi. Chúng tôi được bay qua những ruộng lúa bậc thang ở Trung Quốc, thăm các chú chim cánh cụt ngự trị tại vùng cực Artartica. Chúng tôi có thể xem những đám mây thay đổi hình thù từ những con gấu Teddy thành những khuôn mặt cười ngộ nghĩnh, ngắm nhìn hoàng hôn ở khu đền Taj Mahal và cầu vồng ở Ireland. Chúng tôi có thể đi đến những khu rừng mê hoặc, và lạc vào thế giới cổ tích thần tiên. Cuộc hành trình lịch sử của chúng tôi có thể là sự khởi đầu của rất nhiều niềm vui và những cuộc phiêu lưu đầy thú vị. Chúng tôi thậm chí còn có thể chia sẻ cho nhau những giấc mơ và biến chúng thành sự thật. Chương 3 Trải nghiệm kỳ cục Chameli trông hài hước, đặc biệt và thú vị. Cô ấy có thể khiến chúng tôi cảm thấy phấn khích. Barlarama quan tâm đến đất nước Ấn Độ và những cái mụn của anh ta. Điều đó làm cho anh ta trở nên từ bi. Anh ta có thể đưa tay ra chăm sóc và giúp đỡ chúng tôi. Bác tài xế có thể cho chúng tôi xe và thêm vào đó là bộ ria của mình, với nó, ông ấy có thể dọa dẫm những người mà chúng tôi không thích. Hoặc với chiếc bình xịt kỳ diệu của mình, ông ấy còn có thể dọa dẫm những loài sinh vật kỳ bí không thuộc thế giới này. Tôi có thể giúp được gì nhỉ? Tôi có thể đóng vai trò là người lên kế hoạch cho những cung đường mà chúng tôi sẽ đi qua trên không trung. Tôi còn có thể tổ chức những trò chơi thú vị. Chameli mặc một chiếc sari màu cam, khuôn mặt dày cộp phấn. Cô ấy ăn vận như thể mình đang tham gia cuộc thi dành cho những kẻ cuồng thời trang, nhưng đây lại là phong cách hàng ngày của cô ấy. Tôi đã gặp cô ấy rất nhiều lần trước đây chỗ tín hiệu đèn giao thông. Hôm nay, mũi cô nàng lấm tấm những giọt mồ hôi trong khi cặp mắt giấu đằng sau lớp kẻ mắt và phấn trang điểm lấp lánh. Đôi môi được tô son đỏ bóng. Cô ấy đẹp một cách lạ lùng. “Này người hùng, cho tôi xin 2 rupee[15].” Giọng của cô ấy nghe có vẻ nam tính hơn Balarama và bác tài xế. Điều đó không có gì lấy làm ngạc nhiên vì những người chuyển giới (hijra) vốn là một nam giới đã được phẫu thuật cắt bỏ bộ phận sinh dục. Hoặc có thể anh ấy đã được sinh ra theo cách đó, không có bộ phận sinh dục nam. Hoặc có thể anh ấy đã bị dùng vũ lực để ép phải bỏ nó. Hoặc có lẽ cộng đồng những người chuyển giới đã bắt cóc anh ấy đi từ khi anh ta còn là một đứa trẻ. Hay chăng bản thân anh ấy mong muốn được trở thành người chuyển giới. Những người nam chuyển giới thích những cái tên nữ tính như: Champa, Sunita, Mehak. Chỉ nhìn vào vẻ bề ngoài của Chameli, tất nhiên, tôi không thể nói về cuộc đời của cô ấy. Mỗi khi nhìn thấy một hijra, tôi điều liên tưởng đến cả quá trình đau đớn mà họ phải trải qua. Đây là điều mẹ tôi đã dạy khi lần đầu tiên tôi nhìn thấy một người cuồng nộ trong số họ ở nhà ga Malad. “Mẹ, sao cô lấy lại giãy đạp và la hét đến như vậy?” - Tôi sợ hãi hỏi mẹ. Khi mẹ tôi giải thích toàn bộ quá trình đó cho tôi, tôi mới có 6 tuổi. Sau đó, vượt xa khỏi sự tò mò, tôi bắt đầu đọc thêm về nó để khỏa lấp những khoảng trống tò mò trong não bộ. Đầu tiên đứa bé trai sẽ được giam cô lập khỏi thế giới bên ngoài trong vài ngày. Trong những ngày này, cậu ta phải thực hiện một chế độ ăn kiêng hà khắc chỉ với thuốc phiện và sữa. Những viên thuốc phiện sẽ giúp cậu ta luôn trong trạng thái hưng phấn. Trong suốt thời gian này, một vị đạo sư, hoặc người đứng đầu của những người chuyển giới sẽ ấn định một ngày may mắn cho lễ hoạn. Cậu bé đang hưng phấn vì thuốc phiện kia được mang ra ngoài khỏi phòng cách ly và nằm xuống một mặt phẳng cứng. Tinh hoàn của cậu ta được buộc lại để ngăn máu lưu thông. Một vài người chuyển giới giữ chặt anh ta trong khi một vài người khác chăm sóc cho vết thương xuất hiện chỉ qua một động tác nhỏ. Vết thương sẽ chảy máu trong vài giờ đồng hồ. Sự chảy máu này đánh dấu sự bắt đầu cuộc đời của một nữ giới. Một lát sau, một dụng cụ kim loại hoặc một thanh gỗ được đặt vào vết thương đang chảy máu. Dụng cụ này cho phép nước tiểu chảy qua và ngăn ngừa sự nhiễm trùng. Công việc này là tín hiệu cho sự kết thúc cho buổi lễ và phận nam nhi của cậu ta. Người chuyển giới rót dầu nóng lên vết thương để giúp mau lành và sử dụng thảo dược để giảm đau. Người vừa được chuyển giới sẽ đi theo đạo sư để học các phong tục tập quán của họ. Anh ta sẽ lớn lên trong một môi trường cô lập cùng với tình thương và sự chăm sóc. Khi anh ta bắt đầu cảm nhận được cuộc sống, anh ta sẽ tham gia cùng những người chuyển giới khác trên đường phố và hối hả kiếm tiền. Họ không chỉ ăn xin, có những người thuê họ để ban phước trong mỗi dịp sinh nhật của trẻ nhỏ, trong đám cưới, và những dịp tốt lành khác. Họ còn nguyền rủa, chửi bới và tròng ghẹo để lấy tiền từ những người đi bộ và khách du lịch. Mọi người coi lời nguyền rủa của họ có sức mạnh như những lời ban phước. Tôi lục lọi trong chiếc túi của mình để tìm lấy cái ví nhỏ. Trong đó có tiền, và đây cũng là một trong những biện pháp an toàn của tôi để tránh lời nguyền của những người chuyển giới (hijra) và thoát khỏi những người ăn xin dai dẳng. Tất nhiên, tôi không thể tìm thấy nó, vì hôm nay, tôi có một chiếc túi mới để kết hợp với bộ salwar kameez[16] màu xanh của tôi - và cái ví thì lại ở trong cái túi tôi hay mang theo. Nếu cô ấy không nhận được tiền, cô ấy sẽ nguyền rủa một hoặc tất cả chúng tôi. “Không có đâu”, Balarama nói và dán mắt mình vào bức tranh bị gấp mép có hình ảnh của Đức Sai Baba. Tôi để ý thấy một trong những cây hương đã được đốt cháy. Tàn tro, vẫn còn nguyên vẹn, được treo lơ lửng bằng một sợi chỉ và có thể rơi bất cứ lúc nào chỉ qua một cơn gió nhẹ. Một chiếc nhẫn màu xám quấn quanh lư hương trông có vẻ như được gắn chặt với bề mặt bằng keo. “Này anh bạn, sao anh lại nói dối, anh rõ ràng là có 10 rupee mà”, cô ấy thách thức. Cô ấy nhìn chằm chằm vào tờ giấy bạc 10 rupee trong tay Balarama. “Vậy cô trả tiền xe giúp tôi nhé, tôi còn chẳng biết cô là nam hay nữ nữa kia!” Balarama đáp trả bằng những lời hoa mĩ, nhấn nhá vào những động từ được sử dụng khi ám chỉ những người chuyển giới. Cô ấy rất kích động. Cầm lấy vạt áo chiếc sari, tuột nó qua vai rồi cô ấy ném thẳng xuống lòng đường. Hành động đó đã làm một mảng bụng cô ấy hở ra. Sau đó, Chameli bắt đầu cởi từng nút áo trên chiếc áo sari bên trong. Tất cả chúng tôi đều sững sờ nhìn cô ấy. Một lũ yêu quái với những chiếc cánh mỏng bay xung quanh cô ấy. Tay chúng cầm những chiếc dĩa nhọn làm vũ khí. Một trong những con yêu quái cầm lấy thứ vũ khí này và đâm vào một bên mắt của cô ấy dường như để cô ấy nhìn rõ hơn thực tế của cuộc sống này. Tôi cảm nhận được rằng Chameli không màng đến việc mình đang thu hút mọi sự chú ý bởi cô ấy chọn cách phớt lờ tất cả. Đây mới là vấn đề lớn. Chameli rất táo bạo và tôi gần như hoàn toàn ngưỡng mộ cô ấy bởi việc dám đứng lên vì những gì cô ấy cho là đúng. Nhưng tuy nhiên, hành động này có thể thu hút bọn đàn ông Brazilian wandering spiderat, Chimpigog và Snakepig. Tôi cảnh giác với sự “cao hứng” của cô ấy nhưng tôi biết rằng tập tài liệu của tôi không thể đối phó với hơn một hạng người trong số họ. Thật là đáng tiếc khi tôi phải loại bỏ cô ấy ra khỏi “đội” của chúng tôi. Những con tiểu yêu bắt đầu đánh nhau. Đèn tín hiệu đã chuyển sang màu xanh, nhưng phía trước lại có quá nhiều xe cộ, buộc lòng chúng tôi phải chờ tới lượt đèn xanh tiếp theo. Cả bác tài xế và Balarama nhảy ra khỏi xe để ngăn cô ấy lại. “Này này, cô nghĩ mình đang làm gì hả, dừng cái vở kịch đó đi, dừng lại ngay”, bác tài yêu cầu cô ấy dừng lại. Ông ấy lau trán ướt đẫm mồ hôi và vuốt lại ria mép của mình một cách thô bạo. Tôi nhìn bộ ria mép rơi xuống đất với một cú shock đến ngây ngô. Tôi không thể tin nổi. Đầu tiên, tôi nghĩ đôi mắt đang lừa gạt tôi. Khi tôi nhìn lại một lần nữa, khuôn mặt của ông ấy vã mồ hôi và bóng nhờn, bộ ria của ông ta có vẻ như đã bị rơi xuống cùng đám bụi bẩn và mồ hôi trên khuôn mặt mình. Tôi nghĩ bộ ria mép của ông ấy là một thứ quý tộc giả tạo. Thật là một trò đùa ngớ ngẩn. Tôi băn khoăn tự hỏi vì sao ông ấy lại phải ngụy trang như vậy. Liệu ông ấy có phải làm một cảnh sát mật? Hay là một tên tội phạm? Qua khóe mắt, tôi nhìn thấy ông ấy bị hở hàm ếch. Hàm ếch bắt đầu từ môi trên và kéo dài lên phía mũi. Ông ấy tìm quanh, nhặt bộ ria giả, và đặt nó lại vào chỗ cũ. Ông ấy gí nó thật mạnh và dùng mu bàn tay để giữ. Một con chim trắng nhỏ xinh, chỉ nhỏ bằng chiếc khuyên mũi, đậu trên mũi của người tài xế. Chú chim này đeo một ống nghe của bác sĩ quanh cổ. Mỏ của nó ngậm một cây kim đã xỏ theo một sợi chỉ dài màu be. Một con yêu quái mặc một chiếc tạp dề và đội mũ y tá giữ khuôn mặt bác tài và ngồi sang một bên. Con chim nhỏ bắt đầu vá lại chỗ môi bị sứt. Khi ông ấy quay lại nhìn tôi, tôi giả đò như không nhìn thấy gì và nhìn vào Chameli và những con yêu quái xung quanh cô ấy. Tất nhiên, ông ấy không thể là một thành viên của đội chúng tôi nữa. Không có bộ ria mép, ông ấy không thể đe dọa và xua đuổi những sinh vật mà tôi không thích. Ông ấy vẫn sở hữu chiếc xe lam có cánh thần kỳ và bình xịt phép thuật tuyệt vời kia, nhưng tôi nghi ngờ vào niềm tin của chúng tôi dành cho ông ấy sau chuyện này. Loại bỏ bác tài ra khỏi danh sách là tốt nhất. Cô nàng chuyển giới và Balarama đang vật lộn với nhau vì một đồng 10 rupee, thứ mà cô ấy định cướp từ tay chủ nhân của nó. Tình hình trở nên hỗn loạn. Các tài xế khác bắt đầu bóp còi inh ỏi về phía chúng tôi, một vài người khác văng những lời tục tĩu về phía hijra. “Này, đồ cặn bã”, một anh chàng hét lên từ hàng ghế đằng sau trên một chiếc taxi và cho cả hai ngón tay lên miệng huýt sáo. Một anh chàng khác la hét với cô nàng, khiêu khích cô ấy cởi hết đồ trên người. Một người lái xe khác vỗ tay tán thưởng rồi bấm còi và huýt sáo bắt chước. Sau những tiếng huýt sáo là tiếng còi xe. Giống như một cơn sốt, càng lúc càng có nhiều tài xế hùa theo. Cùng lúc đó, một vài tờ giấy bạc và tiền xu rơi ra từ nửa thân trên chiếc áo của Chameli. Cô ấy trông như một nữ thần với mái tóc ngang ngạnh cùng bờ môi bóng đỏ ánh lên sự bí ẩn. Tiền rơi xuống đường phố như một đài phun nước. Trông cô ấy giống Kali Ma[17] nhưng từ ngực áo, tiền vẫn rơi lả tả. Có thể cô ấy là Lakshmi, vị thần tiền bạc, người sẽ nuôi sống những kẻ nghèo đói. Có thể cô ấy là câu trả lời cho cô bé ăn xin ban nãy và cũng là lời chúc phúc cho đứa trẻ sơ sinh kia. Những đồng tiền vẫn tiếp tục rơi. Sẽ không có ai phải chịu cái đói một lần nữa. Những đồng bạc và những đồng tiền nhàu nhĩ kia tiếp tục tuôn ra rồi sau đó dừng hẳn. Vị thần của những đồng tiền trở nên giận dữ và tất cả mọi người đều phải đối mặt với cơn thịnh nộ này. Một trong những con yêu quái đang bị thương rất nặng, khuôn mặt của nó trở thành một khối thịt đỏ ối và nhão nhoét. Nó từ bỏ trận chiến và bay đi, vượt qua mớ giao thông hỗn độn. Khi người tài xế chạy đến cứu thoát Balarama, bộ ria giả của ông ấy lại rơi ra một lần nữa. Vị thần tiền bạc bỏ mặc Balarama. Cô ấy tiến thẳng tới chỗ bác tài, cười vào mặt ông ấy, nhặt bộ ria giả lên và nhét vào chiếc váy sari đang mặc. Cô ấy đã dành được tờ 10 rupee của Balarama. Đôi mắt mở to, Chameli chỉ vào bộ ngực của mình, thứ mà giờ đây còn không bằng một nốt muỗi đốt, thứ mà chỉ vài phút trước được bơm căng nhờ những bọc tiền đã rơi lả tả xuống đất. Cô ấy nhìn Balarama và hỏi: “Này anh kia, hãy nhìn đi, nhìn đi, liệu đây là đàn ông hay đàn bà?”. Cô ấy chỉ vào bộ ngực xẹp lép của mình. Balarama nhảy lên xe và ngồi huỵch xuống. Bác tài đã ở yên vị ở vị trí của mình trên xe, bộ ria mép trang nghiêm của ông ấy đã biến mất. Cả hai đều chào thua với Chameli. “Đồ quạ tha! Đồ quạ tha! Đồ quạ tha!”, Balarama thò đầu ra khỏi chiếc xe lam và hét vào mặt “vị thần Tiền Bạc”. “Vị thần Tiền Bạc” đã bị tổn thương, cô ấy sẽ không bao giờ ban phát tiền nữa. Cô ấy nguyền rủa Balarama, “Anh sẽ không bao giờ thành công trong cuộc sống, xin lỗi người hùng.” “Xin lỗi chàng trai”, cô ấy nhắc lại, “Anh sẽ không bao giờ thành công!” Chất giọng đầy nam tính của cô ấy vang vọng khắp đường phố, kèm theo cả những tiếng huýt sáo và còi xe. Balarama thở dốc. Cả bác tài xế, Balarama và tôi đang tận hưởng những cốc “sinh tố” của tiếng ồn từ những đám đông và sự kích động. Đèn tín hiệu giao thông lại chuyển sang màu xanh, và nếu chúng tôi muốn tẩu thoát khỏi nghịch cảnh này trước khi mọi chuyện trở nên tệ hơn thì chúng tôi phải đi ngay bây giờ. Sự nguy cấp của thời khắc quan trọng này đang treo lơ lửng trên không trung và nó thúc giục bác tài tiếp tục lên đường. Tiếng động cơ của chiếc xe gầm rú với thực tại. Cô gái hijra giơ tay với theo một cách lố bịch và chạy theo xe chúng tôi. Một vài con yêu quái đánh đấm lẫn nhau đằng sau cô ta. Đám đông nổ một tràng đạn, đó là những tiếng còi xe, tiếng huýt sáo hỗn loạn cả một vùng. Khi chiếc xe lam tăng tốc, và rốt cuộc cô ta đành chịu thua. “Anh có sao không?”, tôi hỏi Balarama. “À vâng, tôi ổn. Đó liệu có phải là một lời nguyền không?“, anh ta băn khoăn. Tôi trả lời “có” và đặt tay lên vai anh ta trấn an. Cùng lúc đó, khi nỗi buồn đang len lỏi trong tim tôi, tôi quyết định loại bỏ người cuối cùng trong phi đội của mình - Balarama. Một người bị nguyền rủa không phù hợp để làm bạn đồng hành, đặc biệt là khi đó là kế hoạch chạy trốn của chính tôi. Tôi quay người lại và thò đầu ra ngoài để xem chuyện gì xảy ra với Chameli. Chúng tôi đã ở cách xa cô ấy ít nhất 100 feet[18]; chiếc xe lam đặc biệt của chúng tôi đang cố gắng tránh xa những ổ gà trên phố nhiều nhất có thể. Tôi cảm thấy rằng bác tài xế không muốn vấy bùn lên chiếc xe thêm nữa. Tôi trông thấy Vị thần Tiền Bạc đang nhặt những đồng tiền bị rơi và vắt chiếc áo Sari Pallu lên vai. Chiếc áo cánh trên người cô ấy vẫn nửa cài khuy nửa không. Một vài khách qua đường dừng lại để chứng kiến. Khi tôi thấy bóng Vị thần Tiền Bạc khuất xa dần, tôi lục lọi lại giấc mơ của mình về một phi đội có cả bốn chúng tôi - Balarama, bác tài xế, Chameli và tôi - Chúng tôi đã từng là những chiến hữu trên cùng một phi đội, nhưng giấc mơ ấy cũng dần rời xa. Chương 4 Những con cá vàng Tình trạng giao thông lại bị tê liệt thêm một lần nữa. Chiếc xe kỳ kiệu của chúng tôi len lỏi tìm lối thoát từ đường Saint Anne’s Dry Cleaners tiến đến chiếc cổng bằng sắt to màu đen, bao bọc nhà thờ Orlem. Chúng tôi đi sau một hàng dài xe bus BEST[19] màu đỏ, đang nối đuôi nhau ì ạch hướng tới Madh Jetty như hình ảnh trong những thước phim quay chậm. Khi muốn buông xuôi những mối bận tâm về hoàn cảnh thực tại và tận hưởng cuộc sống một chút, tôi thường bắt loại xe bus này và đến Madh Jetty. Nơi đó cách nhà tôi khoảng 10 kilômét nên tôi bắt xe bus, thay vì đi bộ một đoạn đường dài. Madh Jetty là một dải đất kéo dài đến 3 kilômét, nơi tôi vùi mình vào sự tĩnh lặng của ba bãi biển: Erangal, Dana Pani, và Aksa. Tôi đã khám phá ra nơi này không lâu trước đó, khi vừa bước sang tuổi 13. Tôi đã lấy trộm của mẹ một tờ 100 rupee và trốn khỏi nhà vào một buổi sáng khi lũ chim vừa mới thức giấc. Tôi lên chuyến xe bus đầu tiên vừa rời bến. Đến với đảo Madh giống như bước lên một con tàu thời gian. Đây là một vùng đất khác biệt, và trông như thể chưa từng có một ai biết về nó, bởi vì chẳng có ai ở đây cả, thậm chí là vào giữa trưa. Trí nhớ của tôi chứa đựng những hình ảnh mờ nhạt về một vài con chó hoang, một con chim biển có tên là Hamsa và một vài cặp tình nhân, những người muốn thực hiện một nụ hôn vụng trộm vào mọi lúc. Những chú chim Hamsa vụt bay lên bầu trời, rồi lặn xuống nước và tìm thấy những con trai. Đó chính là hòn đảo này, nơi tôi không những được nhìn ngắm những chú chim Hamsa mà còn khám phá ra những ngôi làng bé nhỏ kỳ lạ và Saint Bonaventure, một nhà thờ đã 500 tuổi. Nhìn chằm chằm vào chiếc bệ thờ giờ đã hoàn toàn biến thành tro bụi, tôi tự hỏi chắc hẳn nó phải tồn tại ở đây từ 500 năm trước để tham dự những buổi Thánh lễ trong nhà thờ, cử hành những nghi lễ và cùng nói “Amen” sau khi vị linh mục hô vang “Đức Chúa Trời”. Có một bí mật mà tôi đã chôn vùi dưới một cây đước bên ngoài nhà thờ. Và còn hơn cả những bí mật ấy nữa, nhà thờ này và cả ngôi làng kì bí kia mà tôi hứa sẽ kể về nó sau này. Tâm trí tôi đang trôi dạt vào ngôi nhà thờ mà tôi nhìn thấy qua những chấn song của chiếc cổng đồ sộ màu đen trước mặt. Một dải sáng màu bạc vắt ngang qua bóng tối chạng vạng trên mái nhà thờ Orlem 1880 và kể trong im lặng câu chuyện về một người đàn ông kiệt xuất - Jesus. Không chỉ nổi bật trong bóng tối, nó còn trông coi cho từng ngôi mộ trong khu nghĩa địa phía bên trái suốt ngày đêm. Những ngôi mộ, như nhận thức được sự coi sóc và bảo vệ cẩn thận, im lìm trong những giấc ngủ ngàn thu tăm tối. Vào một ngày mưa tầm tã rất nhiều năm trước đây, cụ của tôi được chôn cất tại chính khu nghĩa địa này. Tôi đã được kể lại rằng phần mộ của cụ được đào vào ngay đêm trước khi lễ tang diễn ra và người đào huyệt đã quên không che huyệt lại. Qua một đêm mưa, ngôi mộ của cụ đã ngập đầy nước. Vào buổi sáng, khi chôn cất, bác phu đào huyệt đã phải tát nước khỏi ngôi mộ để có chỗ cho cụ trong ngôi nhà mới của mình. Hàng năm sau, khi khu nghĩa địa không còn đủ chỗ nữa, người đào mộ bắt đầu cải táng những hài cốt cũ của những người đã được chôn cất. Bà cố của tôi đã kể rằng, kính của cụ vẫn còn nằm ngay ngắn trên hộp sọ, đúng vị trí mắt của người trước kia. Suy nghĩ đó đã ám ảnh tôi trong suốt nhiều năm. Liệu cụ tôi có chứng kiến từng con bọ nhỏ đang gặm nhấm cơ thể mình? Bà cố còn kể thêm, xương của cụ đã bị xê dịch vào một hốc tường ngay sát với ngôi mộ của cụ. Sau những năm làm việc cần mẫn, cụ tôi cuối cùng đã tìm được một nơi ấm cúng để gửi gắm bộ xương của mình - một căn phòng nhỏ bé, không có quang cảnh xung quanh, tạo điều kiện cho cụ có cơ hội để luyện tập trí tưởng tượng của bản thân ở mức độ tối đa. Liệu rằng sức mạnh của trí tưởng tượng đã giúp cụ tiếp tục trên những hành trình của riêng mình, đi qua những mảnh đất kỳ lạ, mê hoặc, trải nghiệm những nền văn hóa mới, những sinh vật thần tiên và phong cách sống kỳ lạ? Liệu cụ có thể có thêm những người bạn mới như những người bạn tri kỷ, như những người bạn thực sự, và có những cử chỉ hòa nhã không? Bây giờ, chiếc xe lam lại tiếp tục vai trò vốn dĩ của mình, như một trong những cỗ xe trong thế giới tưởng tượng, nhưng chiếc xe dừng lại thường xuyên hơn và ở đó không có những bậc lên xuống ở ngay cửa xe. Trời bắt đầu mưa phùn, và chúng tôi đã tới Narendra Rantansi, một cửa hiệu nhỏ xíu bán ngũ cốc, chocolate Cadbury, hành tây, và những quả dừa. Mưa bắt đầu đổ xuống dồn dập trong giận dữ. Ổ gà, những rãnh nứt dọc ngang trên đường bắt đầu ngập nước, qua những hình ảnh lướt nhanh qua trước mắt, chúng dường như đang quẳng những cái nhìn nhơ bẩn về phía tôi. “Tôi vừa làm gì thế này?” Tôi hỏi không thành tiếng. “Không có gì”, câu trả lời lập tức được đưa ra. “Ta vừa mới bị kích động bởi sự xuất hiện của những cơn mưa mà thôi”. Những đám mây đen đáng ngại đang xâm chiếm lấy bầu trời, chớp giật liên hồi. Như thể ngày hôm nay vẫn chưa đủ những sự kiện đặc sắc, điện bắt đầu vụt tắt. Hầu hết các tòa nhà đứng im lìm trong bóng tối đặc quánh. Tôi chỉ còn cách nhà khoảng 10 phút nữa. Balarama trầm ngâm khi nhìn vào dòng xe cộ qua khung cửa. Anh ta đang mải suy nghĩ trong khi vẫn mân mê nặn đống mụn của mình. Khi một lần nữa nhìn thấy những con chó hoang, những kẻ ăn xin và những đứa trẻ cáu bẩn, tôi lại dặn lòng mình một lần nữa, phải thoát khỏi nơi đây. Tôi nhắc đi nhắc lại một câu thần chú trong đầu: Tôi sẽ thoát khỏi những thứ hỗn độn này. Tôi sẽ thoát khỏi những con người đang quấy nhiễu giao thông này, và những con đường náo loạn này. Mưa càng lúc càng nặng hạt, lấn át tiếng ồn ào của xe cộ; bác tài nhắc chúng tôi thả hai chiếc mành hai bên xe xuống. Cả tôi và Balarama đã quá mệt để có thể nhúc nhích ngón tay của mình. Tôi cảm nhận được một ký ức ảo giác trong bụng. Tôi biết rằng trời sẽ mưa suốt đêm và điện sẽ không được cấp lại trước sáng mai. Người lái xe khoe mình thuận cả hai tay khi ông ấy giữ một tay trên vô lăng, trong khi tay kia nới lỏng sợi dây được gắn với một cuộn giấy ở một bên chiếc xe. Cuộn giấy, giống như một chiếc áo mưa chỉ dành cho xe lam, bắt đầu tung ra về phía tôi. Nếu nó đang tham gia vào một cuộc thi cho các tín đồ thời trang, cuộn giấy đó sẽ có màn giới thiệu bản thân với ban giám khảo dưới vai trò là một cánh cửa. Nó sẽ nói, “Kính chào ban giáo khảo”, kèm với một nụ cười buồn và một giọng nói khàn khàn do bị cuộn lại quá lâu, “Tôi là một cánh cửa, khi các vị muốn thấy điều gì đang xảy ra ở phía bên kia của tôi, đơn giản hãy đẩy tôi sang một bên. Tôi không có nắm tay đấm và bạn cũng không cần thiết phải khóa tôi lại. Tôi ngủ lộn ngược giống như một con dơi. Đôi khi bạn phải mở tung tôi ra và cho tôi tiếp xúc với không khí, bởi vì bạn có thể ngửi thấy một thứ mùi giống như đống quần áo chưa được giặt vì tôi được làm từ da thuộc. Tôi có rất nhiều màu sắc và xuất thân từ các loại vải nhựa khác nhau. Tôi có thể cho bạn một chút bóng râm dưới cái nóng của mặt trời kia. Tôi cũng mang lại sự riêng tư cho các cặp tình nhân để họ có thể lạc vào thế giới thần tiên trong giây lát. Tất cả mọi thứ họ cần có là 10 rupee và khả năng giữ vững sự tự nhiên của mình khi họ bắt gặp bác tài xế đang nhìn mình qua gương chiếu hậu. Người lái xe hạ tấm mành che bên Balarama xuống. Hai cánh cửa tạm thời. Một làn gió khổng lồ ho ra một gallon nước như thể vừa bị mắc nghẹn bởi một vật gì đó. Tôi cảm giác như sắp chết đói và cái thời tiết lạnh và xám xịt này làm tôi cảm thấy tình trạng đó còn tồi tệ hơn. Mắt tôi nhìn thấy những núi cơm, món cà ri gà, và món bánh quy jalebis[20]. Tôi tưởng tượng ra vị ngọt lịm và giòn tan của những chiếc bánh. Một lọn tóc bị thổi tung quẩn vào miệng tôi. Tôi nhẹ nhàng vén chúng ra sau tai. Khuôn mặt ướt nước mưa của tôi lấy làm biết ơn với hành động đẹp đẽ của những ngón tay, trong khi bộ não của tôi, nơi khởi xướng cho những hành động đẹp, lại không được để ý đến. Những ngón tay tôi bắt đầu nóng dần lên, một thứ cảm giác ấm áp tôi đã từng trải qua khi một người nào đó bày tỏ lòng biết ơn về điều gì đó tôi vừa làm. Sau một lát suy nghĩ, bộ não của tôi, đang giận dữ vì không được ghi công, bắt đầu trút giận và tâm trí tôi phải chống đỡ cơn cuồng nộ này. Tôi cảm giác như thể bộ não của tôi đang chơi trò Broken Telephone với tâm trí và khuôn mặt của mình. Người chơi trong trò chơi này sẽ ngồi thành một vòng tròn. Bộ não của người chơi - chủ nhân của những suy nghĩ - được chọn ngẫu nhiên, và sẽ nghĩ về một thông điệp rồi chuyển tiếp nó cho người ngồi kế bên. Trò chơi này chỉ có một nguyên tắc duy nhất: mỗi người chơi thì thầm vào tai người bên cạnh một cách nhanh nhất có thể, và chỉ được nói một lần. Điểm mấu chốt của trò chơi là khi người chơi cuối cùng đưa ra thông điệp mình nhận được cho cả nhóm nghe, thông điệp cuối cùng thường khác so với thông điệp gốc. Xảy ra tình trạng này là do nhịp độ của trò chơi thường rất nhanh và chức năng dịch thông điệp của não bộ chỉ vận hành trong chớp mắt. Não bộ không được phép dừng lại bất kỳ một giây phút nào. Thậm chí, nếu tai người chơi bắt được một thông điệp chính xác, anh ta có thể có một “lớp chống dính” ở não bộ, nơi thông điệp bị trượt khỏi vỏ não trong khoảng thời gian ở trạng thái đóng băng đó, vì vậy, khi anh ta thì thầm thông điệp còn lại vào tai người tiếp theo, nó có thể không chính xác. Ví dụ, thông điệp đầu tiên có thể là: “Não bộ của tôi nghĩ rằng ráy tai của bạn nên được làm sạch, như thế bạn có thể nghe được rõ hơn”. Tai của người chơi thứ hai hấp thụ các thông điệp và gửi tín hiệu âm thanh chính xác đến não bộ của cô ta. Trong nháy mắt và trong thời điểm gấp rút, một thông điệp mới đã bị cắt xén được tạo ra: “Não bộ của tôi nghĩ rằng ráy tai của tôi nên được làm sạch, như thế bạn có thể nghe được rõ hơn”. Một số người chơi cố tình thay đổi thông điệp để tạo ra sự hài hước khi kết thúc trò chơi. Thông điệp cuối cùng, sau khi đã đi qua tất cả các bộ não, tai và miệng của những người ngồi trong vòng tròn sẽ là: “Ráy tai của tôi và ráy tai của bạn thi thoảng nên ra ngoài hẹn hò”. Trò chơi không nhằm mục đích phân biệt thắng thua, mà chú trọng vào việc tạo ra không khí vui vẻ, thông điệp được xáo trộn, và theo dõi trí nhớ của mọi người làm thông điệp trở nên tam sao thất bản như thế nào. Hôm nay, tất cả tế bào thần kinh của tôi cố gắng chuyển tiếp một thông điệp thông qua tâm trí tới khuôn mặt của tôi và rằng chúng sẽ đánh giá cao một lời nói “cám ơn” cho cử chỉ tốt đẹp lúc ban đầu. Điều vốn dĩ phải xảy ra là hàng tỉ tế bào thần kinh trong não bộ của tôi chơi trò Broken Telephone với nhau, và thông điệp cuối cùng tâm trí của tôi nhận được chẳng có gì ngoài việc não bộ của tôi muốn nhận một lời “cám ơn” từ khuôn mặt. Nhưng thay vào đó, thông điệp cuối cùng lại bị thay đổi. Đây có phải là sự thật không, vì bộ não của tôi đã không nhận được món quà mà nó đã nghĩ nó xứng đáng được nhận hoặc bởi vì một số tế bào thần kinh trong tôi trở nên bướng bỉnh vì cho rằng thông điệp đó cần được biến đổi cho thật thú vị? Khi tôi đang suy ngẫm để tìm ra câu trả lời thực sự cho vấn đề này, não bộ của tôi đã tận dụng cơ hội trong trạng thái ngớ ngẩn của tâm trí tôi mà bắt đầu trút giận. “Một ngày nào đó, Tôi sẽ thoát khỏi cuộc sống này”, não bộ của tôi nói với tôi. “Tôi sẽ không bao giờ đi trên một chiếc xe lam như thế này một lần nữa, và tôi sẽ không bao giờ để một kẻ ăn xin chửi vào mặt tôi trong khi đó không phải lỗi của tôi”. Tâm trí tôi giờ đây bước sang một lượt chơi mới và tự thực hiện một chương trình nghị sự của riêng mình, và thay vì dịch thông điệp cuối cùng đã được biến đổi, chúng bắt đầu một chuỗi những lời động viên. Trái tim tôi cảm thấy một sự thay đổi đột ngột về năng lượng và sự dằn vặt trong tôi bắt đầu thầm thì, “Tôi sẽ viết một câu chuyện. Và tôi sẽ kể cho mọi người về câu chuyện của mình với một sự thành tâm, và hoàn toàn là sự thật. Tôi là một nạn nhân - được sinh ra để làm gái bao và không có quyền tự lựa chọn con đường sống cho riêng mình. Nhưng tôi sẽ thưởng thức mùi vị của chiến thắng, và câu chuyện của tôi sẽ là một câu chuyện để đời. Những độc giả sẽ nghe những câu chuyện của tôi với sự cảm nhận từ tận đáy lòng mình và câu chuyện này sẽ chạm tới trái tim họ. Tôi sẽ viết nên câu chuyện của tôi với niềm đam mê cháy bỏng, với tất cả tâm hồn và trái tim. Làm sao một câu chuyện có thể là sai trái khi nó được xuất phát từ chính trái tim của tác giả?”. Nếu như những tế bào thần kinh ngang bướng, tâm trí hay bất cứ điều gì khác đang chơi trò Broken Telephone với trái tim - bất chấp cả những thông điệp được chuyển tiếp, sự đồng nhất của người chơi hay sự đồng nhất trong ý định của chúng - thông điệp cuối cùng vẫn luôn luôn đong đầy tình yêu thương bởi vì tất cả các thông điệp đều đi qua trái tim và ra ngoài một cách trọn vẹn. Trái tim tôi đang dẫn đầu một đội cổ động của tế bào thần kinh thuần hóa, đang đội trên đầu những cục bông nhỏ đầy màu sắc. “Cảm giác này thật tuyệt”, tất cả đều đồng loạt thốt lên, trái tim tôi bật khóc vì những tế bào thần kinh ngang bướng kia đã học được một bài học về tình yêu và tâm trí tôi bây giờ là bất bại. Balarama bám vào vai người lái xe và hét lên thất thanh, vì thế giọng của anh ta không bị lấn át bởi tiếng mưa nặng hạt. “Bác tài, cho tôi xuống đây”. Bác tài tạt qua một rãnh nước đã đầy lên một cách nhanh chóng, Balarama nhảy ra khỏi xe. Tôi nhìn vào mặt anh ta, trông như thể anh ta vừa mới khóc trong khi tôi chìm đắm trong sự mơ mộng của riêng mình và vẽ nên một câu chuyện đầy chiến thắng với kết cục có hậu. Trời vẫn đang mưa, nhưng tôi có thể đảm bảo rằng những giọt nước mắt đó không phải từ những giọt mưa. Hay vị nữ thần Tiền Bạc kia đã làm anh ta khóc? Hay liệu những lời nguyền rủa của cô ấy bắt đầu linh nghiệm? “Xin lỗi bạn”, anh ta gọi tôi là bạn. “Tôi phải đi bây giờ. Tôi đã quá sợ hãi. Điều gì sẽ xảy ra nếu những lời nguyền đó là sự thật? Tôi thực sự muốn trở thành một diễn viên.” Càng lúc càng có nhiều nước mắt vương vấn trên khuôn mặt anh ta khi anh ta nói. “Bạn có quá nghiêm trọng hóa vấn đề không, Balarama? Tại sao bạn lại phải khóc cho cái điều thật là ngớ ngẩn đó?” “Bạn sẽ không nói với ai phải không?”, giọng anh ta run rẩy. “Ồ không, tất nhiên rồi, tôi sẽ không kể với bất cứ ai đâu. Hãy đi về đi và ngủ một giấc thật ngon. Trong một vài ngày, anh hãy quên đi tất cả mọi sự cố ngớ ngẩn này đi”. Tôi mỉm cười với anh ta. “Ok, cám ơn bạn. Cám ơn vì những lời lẽ tốt đẹp bạn dành cho tôi”. Bác tài ngồi ngoáy mũi trong khi chúng tôi nói chuyện. “Tôi sẽ trả phần tiền xe của tôi sau, tôi sẽ đưa cho Madhuri hoặc sẽ trực tiếp trả nó cho bạn. Hi vọng sẽ gặp bạn sớm”. Anh ta thò tay vào trong túi xách của mình trong khi nói chuyện với tôi. “Đừng bận tâm. Anh có cần gì không?” Mắt tôi sáng lên tỏ vẻ sẵn sàng giúp đỡ. “Không, tôi đã tìm thấy nó”. Anh ta mở chiếc ô có phần tay cầm cong lên hình chữ U. “Ok chàng trai, hẹn gặp lại anh”. Anh ta vẫy tay chào tôi bằng cánh tay không cầm ô và cố tránh một chiếc xe lam khác trong khi đang cố băng qua đường. “Tạm biệt Balarama, hãy bảo trọng.” Bác tài thôi không ngoáy mũi và bắt đầu khởi động chiếc xe. Chúng tôi lại lên đường. Ba phút trôi qua như ba quả bóng tuyết khổng lồ, đồng nhất lăn xuống một sườn đồi thoai thoải với tốc độ chậm nhưng đều đặn và liên tiếp nhau. “Bác ơi, rẽ phải”, tôi nói với người lái xe. Tôi có thể nhìn thấy ngôi nhà gỗ của mình từ xa. “Nhà cháu kia rồi”. Tôi khoát tay về phía bên phải ra hiệu nhà tôi nằm phía bên kia đường. Tôi sống trong một ngôi nhà gỗ xinh đẹp, ẩn mình trong những lùm cây. Khi chúng tôi đến trước cổng ngôi nhà, một bộ xương di động được bọc trong một tấm ga trải giường màu da nâu sậm vội vàng chạy ra mở cửa, trông có vẻ như là nó có thể lách qua được những chắn song cửa một cách dễ dàng. Đó là người gác cổng của chúng tôi, Shalabh Kaka, ông cao đến hơn 6 feet. Ông là một trong những người cao nhất và gầy guộc nhất mà tôi từng biết trong 16 năm cuộc đời. Nhảy ra khỏi chiếc xe đặc biệt và nhìn lại bức ảnh Đức Sai Baba lần cuối, tôi lục lọi trong túi và mở chiếc ô màu be của mình. Kẹp chiếc ô giữa cằm và vai, tôi xoay xở để moi ra một tờ giấy bạc 20 rupee màu cam tím. Để có thể sống sót tại thành phố này, nếu bạn thuận cả hai tay hoặc bạn có thể học được cách phân chia các bộ phận cơ thể mình làm nhiều việc khác nhau cùng lúc thì thật là hữu dụng. Mahatma Gandhi, vị lãnh tụ của dân tộc, mỉm cười qua cặp kính tròn trên mặt trước đồng tiền 20 rupee, trong khi hình ảnh bãi biển Kovalam, Kerala khi thủy triều rút nằm ở mặt sau. Những từ như là “20 rupee” được dịch sang mười lăm thứ tiếng khác nhau (Assamese, Bengali, Gujarati, Kannada, Kashmiri, Konkani, Malayalam, Marathi, Nepali, Oriya, Punjabi, Sanskrit, Tamil, Telugu and Urdu) và in nhỏ xíu trên một dòng chữ ở mặt sau theo thứ tự bảng chữ cái. “Còn thiếu một xu nữa”, bác tài lên tiếng trong khi kiểm tra đồng hồ đếm và giật lấy tờ tiền có gương mặt Mahatma Gandhi đang mỉm cười trên tay tôi. Mahatma Gandhi không hề nhăn nhó hay có ý định trả thù. Ông là hiện thân của thuyết cấm sát sinh của Phật giáo, không bạo lực, giống như những gì ông đã làm từ rất nhiều năm trước trong suốt thời kỳ Dandi March, khi ông dẫn đầu hàng nghìn người Ấn Độ trong một cuộc biểu tình chống lại chế độ đô hộ của Anh. Tôi lục lọi được một đồng 1 xu sáng bóng, thứ mà có thể dễ dàng sử dụng như một chiếc gương nhỏ xíu cho những nàng tiên. Người lái xe xòe bàn tay chai sạn và khô ráp ra đỡ lấy đồng xu từ tay tôi. “Cám ơn”, tôi chào bác tài, quay lưng lại và đi thẳng vào nhà, mùi thức ăn cuốn hút phảng phất từ phía cửa trước. Khi vừa đi được ba bước, tôi nghe thấy bác tài gọi giật lại. “Xin lỗi, cô làm ơn đừng kể với ai về bộ ria giả của tôi, được không?” Bác tài đề nghị. “Tôi sẽ kể với ai được cơ chứ?”, tôi nói như đang hít một hơi thật sâu và cố nặn ra một nụ cười. “Cứ cho rằng tôi sẽ kể điều này với ai đó, nhưng liệu ông có biết ai mà tôi biết không”, tôi nói thêm và chỉ ra rằng tôi và ông ấy không có ai là bạn chung cả. “Nhưng làm ơn đừng nói với ai cả”, ông ấy cầu xin. “Tôi sẽ không nói đâu,” tôi đáp. Tôi nói rằng tôi đã rất ấn tượng với sự quý phái của ông. Và ông ấy như một món quà với chiếc xe lam đặc biệt của mình. Lưng tôi đã quá đau nhức và tôi chỉ muốn ông ấy rời khỏi và nghĩ về những lời khen ngợi đó. “Ok, cám ơn cô bé, tạm biệt”. Bác tài khởi động chiếc xe và trao cho tôi một nụ cười thiểu não. Một kiểu cười mà người ta thường trao cho nhau trong ngày tang lễ. Chú chim nhỏ vẫn cần mẫn vá lại bờ môi ông ấy. Những con yêu quái với vai trò là những cô y tá vẫn ngồi không trên tai ông. Giờ đây, tôi đang chịu gánh nặng của hai bí mật: Lời nguyền của một người chuyển giới, và bộ ria giả kia. Shalabh Kaka vẫn đứng ở cổng. Chiếc xe lam quẹo một vòng hình chữ U và hòa mình vào con phố. Shalabh Kaka đóng chiếc cổng phía sau lưng ông. Tôi nhìn chiếc xe lam kỳ diệu qua những song cửa cho đến khi bóng của nó khuất xa. Tôi đến trước cửa và bấm chuông. Ký ức trong tôi vụt trở lại với hình ảnh cô bé ăn xin và khuôn mặt của hijra. “Giờ là lúc nghỉ ngơi rồi”, tôi nhắc nhở bản thân. “Cuối cùng ta đã về nhà”. Rosamma, người giúp việc của gia đình chúng tôi và cũng là người phụ nữ duy nhất mà tôi thấy rằng bà là người nuôi nấng tôi, ra mở cửa. Tôi cười với bà và bước vào phòng khách rộng. Một cửa sổ kính rộng 6 bước chân phía bên phải giữ cho căn phòng thêm sáng sủa vào ban ngày. Vào ban đêm, tôi hay ngắm những con thằn lằn và côn trùng nhìn trộm vào phòng khách với ánh mắt van nài xin vào nhà. Hôm nay, một con bướm đêm lặng lẽ, một con gián cuống quýt và một con thằn lằn cổ lỗ sĩ nằm rình mò trên mặt kính cửa sổ. Tôi tiến thẳng tới cửa sổ. Từ nãy đến giờ, con thằn lằn quê mùa vợt một vài chú muỗi xấu số đang tán gẫu với nhau. Hay giải thích theo một cách khác, những con muỗi có thể đã được ăn trước khi chúng trút hơi thở cuối cùng. Con muỗi số 1 quăng ánh mắt xuống lũ còn lại và nói với một tông giọng trầm: “Tôi đã nghe rằng dì Sucky trúng một cú đập “bốp” vào hôm chủ nhật tuần trước, và đã chết ngay tức khắc”. Tất cả những con muỗi khác vây quanh con muỗi số 1 và bật khóc nức nở, “Ôi, không!” Cũng như tất cả các con muỗi khác, con thằn lằn cổ lỗ cũng muốn bày tỏ lời chia buồn, nó thè cái lưỡi của mình ra và tình cờ ăn phải con muỗi số 1 và một số con muỗi đang an ủi khác. Một con muỗi sợ hãi la hét với cái bụng phình to của nó: “Đó là số phận của người mang tin tức xấu”. Và cuộc sống vẫn tiếp diễn như những đốm đom đóm đang nhảy những vũ điệu tuyệt vời sau lưng bọn chúng. Tôi bước đến gần cửa sổ hơn nữa và nhìn thẳng vào bọn chúng qua lớp kính phân cách trong suốt. “Đi đi, một lũ ghê tởm. Chúng bay không được đón chào ở đây”, tôi nói. Tôi xé một mảnh giấy nhỏ từ cuốn sổ điện thoại ngay gần đó, làm thành một quả bóng và ném nó vào khung kính cửa sổ. Con thằn lằn vẫn đứng đó ăn thêm một vài con muỗi khác, chú bướm đêm vẫn nằm yên tại chỗ, và đàn đom đóm vẫn nhảy múa như chẳng hề có ai đang nhìn chúng. Tôi ném một quả bóng khác. Đám gián bay loạn xạ làm một vài vòng lộn nhào trên không. Con thằn lằn giờ mới nhận ra sự hiện diện của lũ gián, rời khỏi vị trí cũ và nhoài ra giống như một chàng ninja. “Urggh, thật là kinh tởm”, tôi tự nói với bản thân mình và bỏ cuộc. Bức tường của căn phòng được sơn màu trắng kem, cùng với đó màu sơn trắng sữa chạy dọc khắp căn nhà. Một bể cá, được khuyên bởi một thầy phong thủy, chứa những con cá vàng Nhật Bản nằm ở một góc của căn phòng. Một vài năm trước, mẹ tôi đã bắt đầu phàn nàn rằng sự may mắn của bà không được như những năm trước hay điều gì đó tương tự thế. Một khách hàng của bà đã khuyên nên mời một thầy phong thủy về xem. Thật là khó có thể tin được rằng một căn nhà, nơi mà mẹ tôi hiếm khi có mặt, lại có ảnh hưởng quá lớn đến cuộc sống của bà. Nhưng tuy vậy, một chuyên gia phong thủy đã được mời đến, ông ta được mời mọc một thứ trà tuyệt hảo, cùng với những chiếc bánh vatteyappams[21], - món bánh gạo huyền thoại của dì Rosamma. Ông ta nghiên cứu ngôi nhà, ghi chép gì đó trong cuốn sổ của mình và sau hai giờ đồng hồ, mẹ tôi đã đã ký vào một tấm séc có ghi kèm theo số tiền rất lớn để ông ta có thể giải thích cho chúng tôi những hình vẽ nguệch ngoạc trong sổ tay của ông ta là gì. Hầu hết, chúng đều mô tả chi tiết vị trí những thứ hỗn độn trong ngôi nhà của chúng tôi, và chỉ cho chúng tôi biết nên để chiếc điều khiển từ xa ở đâu, cái gạt tàn thuốc ở đâu. Ông ta còn mang theo cả một cây tre, và một bể cá với những chú cá Nhật Bản, những thứ mà được ông ta đặt lên chiếc bàn kính trong phòng ăn. “Sao con về muộn thế?”, dì Rosamma lên tiếng hỏi, cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi. Dì Rosamma nói chuyện với tôi bằng thứ tiếng vùng Malaylam. Dì mặc một chiếc đầm ngủ dài, hoặc dì hay gọi nó là chiếc áo choàng mặc nhà, chiếc váy được in vô số ký hiệu hình học trên đó. Những đường thẳng cắt ngang dọc theo đường viền áo và cắt vào những hình tam giác, hình tròn, hình lục giác. Dì tiến lại gần và nhặt bỏ chiếc lá vàng mắc trên chiếc áo kameez[22] màu xanh của tôi. Tôi có thể ngửi thấy mùi dầu dừa trên mái tóc dài của dì. Dì vừa gội đầu, và một vài giọt nước vẫn còn nhỏ giọt trên những đuôi tóc. Điều đầu tiên mà mọi người ấn tượng về Rosamma là cách dì nói chuyện. Dì luôn luôn vung tay khi nói chuyện, di chuyển chúng theo mọi hướng. Dì sử dụng giọng nói của mình chỉ để hỗ trợ cho đôi tay. Đạo Thiên chúa cấm kị điều này, nhưng nếu Rosamma bị mất giọng, đôi bàn tay của bà sẽ có thể giúp bà giao tiếp với thế giới một cách dễ dàng. Hôm nay chị của bà, bà Anniamma đang ở thăm chúng tôi. Anniamma đứng ở hành lang dẫn vào bếp, bà đang quét mạng nhện trên các góc trần nhà bằng một cây chổi. Anniamma trông như chị em sinh đôi với Rosamma và cũng khua tay khi nói chuyện. Khi họ nói chuyện cùng lúc, họ khiến tôi nhớ đến những con cá đong đưa vùng nhiệt đới trong bể cá của chúng tôi - chúng đang rượt bắt, cắn xé, bơi lội, ăn uống, phi như lao, và quẫy đạp như cái cách mà họ nói chuyện trong cái thế giới tự do của chúng. Những con cá và hai chị em này có rất nhiều chuyện hay để xem. Anniamma làm việc tại một nơi cách nhà chúng tôi khoảng một giờ đồng hồ đi xe. Thi thoảng Rosamma thăm Anniamma, nhưng không hơn một lần trong 4 tháng liên tiếp. Còn Anniamma lại ghé thăm nhà chúng tôi thường xuyên hơn. Rosamma và Anniamma cùng tự hào khoe với tôi những gì họ đã chuẩn bị cho bữa tối. Rasamma cho tất cả các ngón tay vào miệng và ra dấu trong khi nói chuyện: “Cô đã làm chor, mor, aval và cherupaya thoran”, Rosamma dừng lại để thở. Trong khi đó, Anniamma nói thêm: “Có cả varathu, ethakya và dosas và kalada còn lại từ sáng nay”. Chor là gạo, mor là bơ. Avial là một sự kết hợp rực rỡ giữa màu trắng và vàng của bí ngô, khoai tây, khoai lang chân voi, đậu đũa, đậu phá, đậu Hà lan, cà rốt, chuối xanh, và quả chùm ngây. Cherupayar thoran là một thứ hỗn hợp ngon tuyệt. “Con sẽ ăn trước hay tắm trước?” Rosamma hỏi tôi, trong khi tay ra hiệu như vờ đổ nước lên một chiếc cốc tưởng tượng trên đầu mình, và khoa tay múa chân để biểu thị phần tắm táp với câu hỏi của mình. “Con sẽ ăn sau khi tắm ạ.” Tôi trả lời. Tôi rất đói nhưng tôi có thể đợi. Tôi muốn mình sạch sẽ khi thưởng thức bữa tối ngon miệng này. Chương 5 Trò chơi Stair game Khi đang chuẩn bị leo lên những bậc thang dẫn lên phòng, chiếc thang đã thách thức tôi. Tôi đành chấp nhận thách thức và chơi một trò chơi được dẫn dắt bởi tòa án lương tâm, trò chơi tương tác với những bậc cầu thang có tên gọi “Stair game”. Quy tắc đầu tiên của trò chơi là tôi chỉ được nhảy từng bậc một. Quy tắc thứ hai, tôi phải bước lên từng bậc bằng cả hai chân và gọi tên một sự kiện hay một ý tưởng cần phải thực hiện để đưa tôi đến gần hơn với mong muốn tột cùng trong giấc mơ của mình: giấc mơ chạy trốn đến nước Mỹ. Tôi phải trải qua 16 năm ròng rã thê thảm trong sự cô đơn và không được thương yêu ở Ấn Độ. Khoảng thời gian này đối với tôi là để quên đi quá khứ và chiến đấu vì một tương lai mới, tốt đẹp hơn. Những điều kiện tôi cần có để đi đến Mỹ là gì? Thay vì chôn chân trên đất nước Ấn Độ này, cho phép số phận khuấy tung cuộc sống của tôi lên và vẽ ra một câu chuyện kinh dị, thì điều kiện cần có mà tôi cần phải tự tạo ra cho riêng mình là gì? Mỗi một nấc thang là một câu trả lời. Chân tôi đang khắc sâu câu trả lời trên mỗi bậc thang với một dấu tích xanh hay một gạch chéo màu đỏ. Điều này mang nghĩa là chấp nhận hay bác bỏ những gì tôi nói. Câu trả lời cho từng nấc thang đều được cân nhắc bởi tòa án lương tâm trong tôi. Vì vậy, vai trò của tôi là báo hiệu cho mỗi nấc thang phải phản ứng với những gì tôi cho là thích hợp. Tôi nghĩ, cầu thang là nơi hợp lý cho sự sắp xếp này. Nếu bất cứ một nấc thang nào từ chối việc tuân thủ những gì tôi đã quyết định sau khi suy nghĩ cẩn trọng và nghiêm túc, cuộc chơi sẽ kết thúc và tôi trở thành một kẻ phá đám. Tôi từ chối việc chơi theo kiểu khác và chạy thẳng lên phòng mình. Tôi cần phải làm vai trò thẩm phán cho chính câu trả lời của tôi. Liệu có ai khác có thể lèo lái cuộc sống của tôi và quyết định những việc gì nên làm hay không nên làm hộ tôi hay không? Liệu có ai khác có thể quyết định lương tâm của tôi không? Với tất cả sự tôn trọng với những nấc cầu thang, tôi cho rằng chúng không thể quyết định cho tòa án lương tâm thay tôi. Những bậc cầu thang, bên cạnh vai trò là nơi cất giữ những kỷ niệm tốt đẹp mà tôi chia sẻ, chúng còn là động lực thúc đẩy tôi đào sâu thêm nữa, và báo tôi tạm dừng lại trước khi chuyển sang bậc tiếp theo. Với mỗi dấu tích màu xanh tôi đánh giá, tôi nâng niu nó với tất cả những suy nghĩ bí mật, những khao khát, những thèm muốn và những hi vọng- nó là mục đích của tôi, cuộc sống nội tâm trong tôi và là nơi thầm kín nhất của tôi. Chỉ có mình tôi với từng nấc cầu thang, giọng nói của tôi trở nên có sức sống, nó ào ạt tuôn ra từ sâu thẳm trong tôi và buộc tôi phải tuyên bố một phán quyết. Tuy nhiên, một dấu tích đúng sai trong bất kỳ một bước chân nào đều chứa đựng sự cam kết của sự biến đổi và hi vọng - một dấu tích màu xanh không thể không được hoàn thành sau khi tôi quyết định chuyển sang bậc tiếp theo. Nếu tôi lưỡng lự trong sự ngây ngô hay đưa ra một phán quyết sai trái và bước sang bậc tiếp theo, tôi biết sai lầm đó sẽ đến với mặc cảm của tội lỗi, đủ để khiến tôi kiệt sức và kéo tôi xa dần khỏi những giấc mơ. Trò chơi này, cũng giống như mỗi trò chơi khác, có hậu quả và cả sự cáo buộc lẫn nhau. Chẳng có ai thắng hay thua, nó chỉ như trò chơi Broken Telephone. Các kết quả được cân nhắc với mỗi hành động của cặp tổ chức bộ nhớ - một nằm trong đầu tôi và một nằm trên mỗi bước chân. Nếu tôi bỏ qua một bước và quyết định cân nhắc tới nó sau, thì dấu tích màu xanh sẽ đồng nghĩa với một gạch chéo đỏ, tôi đang chất chứa cảm giác tội lỗi và hối hận, còn màu xanh lõa thể kia thì chìm đắm trong cảm giác tội lỗi. Vì các bậc thang không nói bất cứ một lời nào trong suốt trò chơi, vì vậy trò chơi này tận dụng sự rảnh rang của nó mà chế giễu, bôi nhọ về cái tích dấu xanh mà đáng ra tôi phải gạch chéo đỏ và đắc chí: “Thấy chưa, tôi đã nói rồi mà” vào bất cứ khi nào nó cảm thấy phấn khích. Động cơ hối thúc mỗi nấc thang là sự hồi hộp trước vẻ đắc chí “Tôi đã nói rồi mà”. Đây cũng chính là lý do tại sao các bậc cầu thang nhận lời chơi với tôi ngày hôm nay. Lời đề nghị này, như những gì bậc cầu thang đã biết, giống một món quà đặc biệt, được bọc trong tấm giấy màu nâu mộc mạc. Tôi vui mừng vì nó biết trong mảnh giấy bọc giản dị đó, là một món quà ý nghĩa. Đặc điểm hay nhất trong cuộc chơi này là nó giúp tôi cảm thấy ít bị mắc kẹt. Nó giúp tôi thay đổi tư duy, đưa ra một sự khởi đầu mới cho đến cuối ngày và nhắc nhở tôi về lý do tôi phải bước lên phía trước. Không có bất cứ một luật chơi nào khác cho trò chơi này, vì vậy khi tiến lên phía trước, tôi giống như nàng Alice lạc vào sứ sở Thần tiên và chui xuống một cái hang thỏ sáng tạo của suy nghĩ trong tôi. Còn 13 bậc thang nữa phía trước. 13 bậc thang nữa là bước tới vận mệnh của tôi. 13 bậc thang này có phải là sự may mắn hay không? Đối với người Ai Cập, con số 13 được cho là mang lại may mắn và mang lại sự bất tử. Họ tin rằng một cuộc sống trọn vẹn có 12 bước chân, vì vậy nếu bước thêm một bước nữa có nghĩa là bạn đã đi qua được cõi chết và bước tới một cuộc sống bất tử. Ngày nay, thay vì là nạn nhân của con số 13 kém may mắn, Tôi, là nữ hoàng Tiye, phu nhân đức vua Amenhotep đệ tam thời Ai Cấp cổ đại, tôi mặc một chiếc váy đính cườm và vứt bỏ bộ tóc giả của mình, thứ chỉ dùng cho những dịp đặc biệt. Khoảnh khắc này thật đặc biệt. Khi tôi đạt tới bậc thứ 13, tôi sẽ đến với cuộc sống vĩnh cửu và cũng là 13 bước tiến gần hơn với giấc mơ được giải thoát của Kamada. Bước một bước đầu tiên, tôi nói: “Dám nghĩ dám làm”. Bậc cầu thang phản hồi lại bằng một dấu tích màu xanh. Tôi dừng lại, đắn đo, cân nhắc dấu tích màu xanh đó bằng lương tâm của mình. Đúng, tôi rất nghiêm túc với giấc mơ của mình và đã làm việc rất vất vả để đạt được nó. Cả bộ nhớ và những nấc thang luôn luôn đưa ra một dấu tích màu xanh cho câu trả lời này. Tôi tiếp tục tiến bước thứ hai, khi đã đứng trụ cả hai chân trên nấc thang thứ hai, tôi nói: “Nghiên cứu 15 từ vựng GRE[23] tối qua”. Bậc thang này phản hồi lại một dấu tích màu xanh mập mờ, lúc ẩn lúc hiện trước khi tôi ấn định hình ảnh của nó là một dấu tích đúng nghĩa màu xanh, vì vậy một ngày nào đó tôi có thể gọi nó là một ký ức. Cơ thể tôi như được truyền một cảm giác của sự ngờ vực từ bước bậc thang thứ hai. Cảm giác này bám lấy tôi từ bậc thang lên đến chân và xâm chiếm toàn bộ cơ thể. Tôi thấy mình bị xâm phạm. Tôi thấy cần phải nhiếc móc và chỉ trích bậc thang thứ hai này. “Cuối cùng”, cái Tôi cao ngạo trong tôi cười đắc chí, “ngươi chẳng là cái gì ngoài một nấc thang cả, ngày ngày bị giẫm đạp lên và bị giới hạn như một tù nhân bất lực quẩn quanh trong ngôi nhà này, cũng giống như tôi mà thôi”. “Và giờ đây”, cái Tôi châm chọc, “ngươi không hề giống ta, ngươi thừa biết rằng ngươi sẽ không bao giờ có thể trốn thoát được khỏi nơi này. Đây chính là những điều mà sự giam hãm đã đối xử với cuộc sống - bóp méo nhận thức về thực tế và làm nó trở thành một điều chế nhạo. Khi ta đang tập trung vào sự không chắc chắn của dấu tích màu xanh mập mờ, ta đã rất bối rối. Khi ta đang trở nên rối trí, những nấc thang các ngươi chợt quên đi cuộc sống thảm hại của mình và cảm thấy một sức mạnh tuyệt vời trước sự bối rối của ta. Chính bậc thang các ngươi đã sử dụng một chiến thuật cổ điển, lôi cuốn và thông minh để cố kiểm soát một điều gì đó vì các ngươi hoàn toàn không có quyền quyết định cuộc sống của mình.” Một cách giận dữ, tôi thử lại “Nghiên cứu 15 từ vựng GRE tối qua, một trong những nấc thang này ta cho là đã có hành vi gây rối, điều này là một hành động bất hợp pháp, kích động, chống đối lại tòa án lương tâm và có mưu đồ phá vỡ hoặc lật đổ chính quyền”. Tôi tuyên bố bằng những lời nói hoa mỹ, đầy tự hào và có sự ngắt nghỉ nhịp nhàng để lấy hơi. Một giây sau, bậc thang phản hồi lại bằng một dấu tích màu xanh bắt mắt. Thậm chí khi tôi bước lên nấc thang tiếp theo, nó không hề biến mất. Trong trò chơi này, tôi đóng vai trò là cơ quan tòa án của lương tâm. Nếu nấc thang đó lựa chọn cách chống cự vì các hành vi gây rối của riêng mình và không đưa ra dấu tích đúng màu xanh, điều này đồng nghĩa với việc trò chơi sẽ có thể phải kết thúc. Đúng, trò chơi khuyến khích sự thăm dò, đào sâu của những bậc cầu thang nhưng nó không cho phép sự sỉ nhục, bối rối, và chế nhạo. Một dấu tích thoắt ẩn thoắt hiện là một ví dụ. Tôi chưa bao giờ phải đối mặt với một dấu tích có hành vi gây rối, vì vậy tôi lưu ý lại để thiết lập một quy tắc mới cho những dấu tích này. Trò chơi này cần nhiều quy tắc hơn vì khi luật lệ lỏng lẻo sẽ khiến tư cách người chơi sa vào những thú vui nhất thời. Tuy nhiên, tôi quyết thực hiện một cái bắt tay về mặt tinh thần kiên định với nấc thang thứ hai trước khi tôi tìm thấy điều cốt lõi tôi cần đạt được cho bước tiếp theo. Sau tất cả, tôi không muốn có thêm kẻ thù từ những người bạn cũ, tránh được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Nếu những nấc thang còn nuôi dưỡng sự oán hận, chúng có thể lừa tôi và gọi nó là một tai nạn đáng tiếc. À, phải rồi, nấc thang thứ hai và tôi luôn luôn duy trì một tình bạn muôn thuở. Ở nấc thang thứ ba, tôi nói: “Tôi sẽ chuẩn bị sẵn sàng các thủ tục giấy tờ”. Một dấu tích mặc một bộ vest màu xanh sáng, ngay cả cà vạt cũng màu xanh, xuất hiện. Phương tiện hợp pháp duy nhất giúp tôi có thể đến được với nước Mỹ chính là tấm visa sinh viên. Để có được chiếc visa này, tôi cần phải điền đủ các form từ 1-20, từ A-B. Khi lần đầu tiên nghe về thủ tục đăng ký này, tôi cảm giác nó như một người ngoài hành tinh và chẳng có vẻ gì là thân thiện. Và các mục từ A-B thì thật là ám muội. Thủ tục đăng ký này, những thứ vừa không thân thiện, vừa đáng nghi này lại là bạn của tôi. Nó có vai trò như một tấm giấy chứng nhận cho những sinh viên ngoại quốc đủ điều kiện. Ngôi trường tôi ứng tuyển sẽ cung cấp form này nếu họ quyết định nhận tôi vào học. Lời nói sáo rỗng “không bao giờ được đánh giá một quyển sách qua vẻ bề ngoài của nó” nảy ra trong tâm trí tôi khi tôi biết rằng form đăng ký đó sẽ giúp được gì cho tôi. Thêm vào đó, nếu ngôi trường đó quyết định sẽ trao học bổng cho tôi, form đăng ký 1-20 A-B này, giống như một người bạn chân chính, luôn mang đến những tin tốt và chia sẻ niềm vui và thành công nhỏ bé của tôi. Một form đăng ký khác có tên gọi DS-160 là một dạng đơn online yêu cầu đầy đủ tất cả thông tin của ứng viên. Form đăng ký này và một buổi phỏng vấn riêng sẽ giúp cho nhân viên lãnh sự quán quyết định liệu tôi có đủ điều kiện để rời bỏ mẹ mình, rời bỏ thành phố bốc mùi này hay không. Sau đó, tôi cần phải đưa ra chứng minh thu nhập để minh chứng cho việc có thể đủ chi trả cho toàn bộ chi phí học tập và sinh hoạt trong vòng 4 năm. Một điều cần thiết nữa là các khoản nộp thuế thu nhập cá nhân trong vòng 3 năm qua, sao kê giao dịch ngân hàng trong tài khoản, bảng lương, hợp đồng lao động, và báo cáo tài chính của người bảo lãnh. Nhân viên lãnh sự quán còn yêu cầu phiếu thành tích học tập bản gốc, điểm kiểm tra, hộ chiếu hợp lệ, và hai ảnh thẻ cỡ 2 inch của tôi với vẻ mặt nghiêm túc. Tôi phải xoay xở để hoàn thành hầu hết các thủ tục. Cha người bạn thân của tôi, Anjana, đã đồng ý bảo trợ giúp tôi và cung cấp tất cả các tài liệu mà tôi cần. Ở bậc thang thứ tư, tôi nói: “Tìm một người bảo trợ”. Kết quả là một dấu tích màu xanh. Nếu bố, mẹ hoặc người họ hàng thân thích chi trả cho việc học tập của tôi, nhân viên lãnh sự quán sẽ dễ dàng chấp nhận cấp visa hơn. Tuy nhiên, mẹ tôi không thể biết về việc này, và tôi cũng không có họ hàng thân thích nào cả, vì vậy, cha của Anjana là sự lựa chọn duy nhất. Ở nấc thang thứ năm, tôi nói: “Tôi sẽ viết một tấm séc, và rút tiền trong tài khoản của mẹ để chi trả cho tiền vé máy bay và các khoản chi tiêu khác”. Chẳng có gì lấy làm vui vẻ đối với khoảnh khắc ở bậc thứ năm này nếu tôi không thể rút được tiền. Nhưng tin tốt là, mẹ tôi đã ủy quyền cho tôi sử dụng tài khoản của bà. Tôi là người hưởng hoa lợi. Tôi có thể dùng toàn bộ số séc mà mẹ đã cho tôi vào những mục đích sáng suốt hơn thay vì để chúng sống một cuộc sống buồn tẻ trong ngăn kéo tủ. Mẹ đã dặn dò tôi phải dùng số tiền đó những khi cần thiết. Vâng, dấu tích ở bậc thứ năm này sẽ không bao giờ khoác lên mình một chiếc áo mang cảm giác tội lỗi, nó sẽ luôn nằm trong bộ nhớ của tôi như một dấu tích màu xanh trần trụi như người thời tiền sử. Ở bậc thứ sáu, tôi nói: “Tìm trường”. Một dấu tích màu xanh. Bậc thứ bảy: “Chuẩn bị bài tiểu luận chủ quan SOP[24]”. Một dấu tích màu xanh với vẻ mặt nghiêm trọng xuất hiện. Trông như thể là một thành viên trong gia đình nó vừa qua đời. Tất cả các trường dành cho học sinh đã tốt nghiệp tại Mỹ đều cần một bài tiểu luận chủ quan SOP. Còn tôi, tôi sẽ viết một bài luận chân thực và sâu sắc dành cho các giáo sư mô tả về việc tôi không chỉ hưởng lợi từ họ, từ nhà trường mà còn có sự đóng góp và cống hiến cho sự phát triển cộng đồng. Tôi phải trình bày rõ trong bài tiểu luận rằng tôi có một mục đích nghiêm túc và rõ ràng. Bài tiệu luận SOP này là mục đích của cuộc sống, của sự tồn tại của tôi. Và tôi cũng muốn được cống hiến và tạo ra sự đột phá. Ngoài việc lấy cắp một vài thứ từ mẹ, tôi có một động cơ rõ ràng và nghiêm túc. Tiến tới bậc thang thứ tám, tôi nói: “Tôi sẽ lấy trộm chiếc túi VIP của mẹ, chiếc túi mà mẹ hay mang theo trong mỗi lần ra nước ngoài”. Một dấu tích màu xanh dài nổi lên ở bậc thang tiếp theo. Ở Ở bậc thang thứ chín, tôi nói: “Lấy trộm cả bộ trang điểm của mẹ”. Một dấu tích màu xanh đang nhướn mày xuất hiện. “À phải rồi, tôi cũng thế, tôi cũng không chắc rằng bộ trang điểm của mẹ có thể giúp gì được cho tôi trong việc chạy trốn khỏi Bombay, nhưng tôi quyết định, thế nào thì tôi cũng cần nó. Tôi không hay trang điểm, nhưng tôi sẽ làm việc đó khi tôi rời khỏi đất nước này, cũng là một cách để đánh dấu cho cuộc đời mới”. Dấu tích màu xanh ở bậc thang thứ chín vẫn giữ đôi mày cau có của mình, nhưng đồng thời nó cũng nhoẻn miệng cười. Trông nó như một chú hề trong rạp xiếc, chỉ khác là nó không có chiếc mũi đỏ và trang điểm lòe loẹt. Tôi leo lên bậc thang thứ mười và nói: “Tôi đã có hộ chiếu mới vào năm ngoái”. Tôi cần có hộ chiếu hợp lệ nếu tôi có ý định rời khỏi đất nước này. Một dấu tích màu xanh với nụ cười tươi tỏa sáng trên nấc thang thứ mười. Trông nó giống như một biểu tượng cảm xúc, biểu tượng mà trong một chốc luôn luôn khoe đủ 32 chiếc răng sáng bóng cùng nụ cười rạng rỡ. Còn ba bậc thang nữa là đến một cuộc sống mới. Tôi tiếp tục bước lên bậc tiếp theo. Tôi đang ở nấc thang thứ mười một và nói: “Làm hai đề kiểm tra GRE”. Bài thi thử giúp tôi chuẩn bị cho cuộc thi GRE chính thức. Một dấu tích màu xanh xuất hiện. Trông nó có vẻ buồn ngủ và giận dữ vì bị đánh thức sau một giấc ngủ sâu. Như thể nó vẫn có ý định muốn ở lại, vì vậy tôi tha thứ cho sự cáu bẳn và phong cách thiếu chuyên nghiệp của nó. Ở bậc thang thứ mười hai, tôi nói: “Kể cho mẹ biết về kế hoạch của mình”. Một dấu gạch chéo màu đỏ và một loài sinh vật có đôi mắt rực lửa xuất hiện. Có những con dòi chui ra từ một vài lỗ nhỏ trên cơ thể nó, như thể toàn bộ phía bên trong cơ thể nó chẳng có gì khác ngoài những con dòi. Tôi cảm thấy vui mừng khi giữ được cân bằng hoặc tôi đã không bị sợ hãi mà ngã ngửa ra phía sau. “Đúng, tôi không thể kể chuyện này cho mẹ biết được”, tôi đồng ý với bậc thang đó và cố gắng nghĩ ra một ý tưởng hay suy nghĩ khác. Trong khi tôi chia sẻ với nấc thang thứ mười hai bằng một giọng nói nhẹ nhàng nhất, thứ sinh vật đó biến mất. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Tôi đã có được giọng nói nhẹ nhàng nhất của mình. Tôi sử dụng nó để nói chuyện với bậc thứ mười hai, “Một chuyến đi tới Goa”. Một dấu tích xanh nhạt xuất hiện giống như một cái bóng mập mờ của một dấu tích màu xanh thực thụ. Nó thấp thoáng trong một khoảng thời gian nhưng lại biến mất ngay sau đó, tôi không chắc rằng tôi có thể tiến tới bậc tiếp theo hay không. “Ồ, thôi nào”, tôi giục nấc thang thứ mười hai. Mỗi lần nghĩ về Goa, tôi lại nhìn thấy một bức vẽ với những con người Goans cởi trần vui vẻ đang nhấm nháp rượu feni, một hỗn hợp giữa táo vào đào lộn hột, và nhảy múa trên bãi biển đẹp như tranh vẽ trong tiếng nhạc của bài hát Konkani: “Một chiếc vòng vàng trên cổ của cô ấy, cô gái đó là của ai?”. Nếu tôi có thể vui đùa trong làn nước trong xanh, lấp lánh của Goa và cảm nhận bờ cát trắng giữa những ngón chân trần chỉ một lần trước khi trở về với bài kiểm tra GRE chính thức ở thực tại, thì tôi nghĩ nó sẽ giúp tôi cảm thấy khá hơn. Thức ăn sẽ là liều thuốc giải độc tâm hồn tôi. Người Bồ Đào Nha cai trị Goa suốt 500 năm, và trong ẩm thực của vùng đất này, Goa vẫn giữ được những tinh túy của truyền thống. Một số món ăn bản địa và rượu vang đỏ cũng làm tôi cảm thấy phấn chấn hơn. Tôi có thể ngửi thấy mùi bánh bibic - một loại bánh truyền thống của người Goa, được làm từ bột mì, đường, lòng đỏ trứng gà, bơ, sữa dừa - và món sorpotel - một loại thịt lợn thái hạt lựu hun khói và ngâm giấm - và tưởng tượng ra các vị thần và các vị vua đang ngồi thưởng thức bữa tối của họ trong không khí không thể thiêng liêng hơn. Trên thực tế, nếu nữ hoàng Tiye Ai Cập được sinh ra ở Goa, thay vì phải leo đến 13 bậc thang để đạt được đến cuộc sống bất tử, một ngụm feni, và một miếng bánh bibic sẽ là tất cả những gì bà ấy cần để cho phép linh hồn mình bay nhảy. Cái cách mà tôi tưởng tượng luôn luôn có mùi vị và cảm nhận chân thực, một ngụm feni thậm chí có thể là liều thuốc trường sinh, là sức sống dồi dào của tuổi trẻ. Tôi đã từng mơ ước được trốn thoát đến Goa, nhưng cái suy nghĩ rằng nơi đó vẫn còn rất gần với mẹ làm tôi cảm thấy không an tâm. Tôi muốn thực sự rời xa bà, đến một nơi rất xa. Tôi cố gắng thêm một lần nữa: “Một chuyến du lịch tới Goa”. Một dấu tích màu xanh dương khoác thêm đôi cánh thiên thần xuất hiện. Chưa bao giờ tôi bắt gặp một dấu tích màu xanh dương trong trò chơi này. Tôi đào bới trong kho lưu trữ bộ nhớ của mình, lục lọi mọi ngõ ngách, lật tung các ga trải giường, và sau tất cả những tấm rèm trong kho trí nhớ về Star games, vẫn chẳng tìm thấy một dấu tích màu xanh dương nào. Tôi tìm thấy những dấu tích màu xanh lá mang hình thù và kích cỡ khác nhau, mỗi lúc chúng lại thay đổi chiếc áo đang mặc hay biểu hiện cảm xúc trên gương mặt, nhưng cũng chẳng có dấu tích nào màu xanh dương cả. Tôi tìm thấy những gạch chéo màu đỏ và những sinh vật quái đản, tuyệt nhiên không có dấu tích xanh dương nào. Nhưng, vì sao lại là màu xanh dương? Trái tim tôi bắt đầu đập dồn. Việc thả trái tim mình vào một câu chuyện saga khiến dấu tích màu xanh dương kia trở thành một ký hiệu rõ ràng được vẽ nên bởi một thiên sứ đang mỉm cười. Tôi định thần lại để tìm kiếm đôi cánh thiên thần ấy sau khi đã hoàn thành trò chơi vì chúng là biểu tượng của sự ủng hộ từ các thiên thần. Hôm nay, một luật chơi mới cho trò chơi này được hình thành, một dấu tích màu xanh dương với ý nghĩa “đồng ý”, trở thành một dấu hiệu cần phải được lưu tâm. Một ký hiệu không cần phải đưa ra cân nhắc thêm một lần nữa với tòa án lương tâm, và một dấu tích màu xanh dương sẽ được lưu trữ trong bộ nhớ của cả tôi và những bậc thang kia mãi mãi như một dấu hiệu của sự chúc phúc từ một thiên thần đáng yêu. Phải, ngay trước kỳ thi GRE chính thức, tôi sẽ có một chuyến du ngoạn tớ Goa. Ở bậc thang thứ mười ba, tôi nói: “Koki Shah nói, “Những khởi đầu mới, những nỗ lực không ngừng nghỉ, và may mắn sẽ sớm đến với hành trình của bạn”!” Koki Shah là một chú vẹt chiêm tinh của bác Shah. Thuật chiêm tinh vẹt là một hoạt động mê tín phổ biến ở Bombay và nhiều nơi trên đất nước Ấn Độ. Bác Shah ngồi dưới một gốc đa đằng sau Narendra Ratansi - một cửa hiệu nhỏ, với cỗ bài 78 lá và chú vẹt Koki Shah, mà ông ấy gọi là con trai mình. Khuôn mặt bác Shah toát lên vẻ khô khan với mái tóc dày màu bạc lượn sóng dài quá vai thể hiện một phong cách sống đam mê của riêng mình. Có một lần, trong khi chú vẹt Koki Shah đang chọn cho tôi một lá bài, tôi đã hỏi ông ấy bí quyết để có mái tóc bóng như vậy, và ông đã cho tôi biết đó là nhờ dầu dừa tinh khiết. Tôi tự hỏi với sự ngưỡng mộ châm biếm rằng sao ông ấy không dùng nó cho da mặt khô khan của mình. Tôi đã phải tự véo mình một cái để thoát khỏi dòng suy nghĩ đó. Thay vào đó, tôi tập trung vào những điểm tích cực và như một sự hối lỗi, tôi lý tưởng hóa công việc của bác Shah như một nghề hấp dẫn. Nếu bác Shah có đủ nỗ lực và lòng đam mê trong việc đưa mái tóc của mình lên một tầm cao mới, ông ấy có thể làm người mẫu tóc cho quảng cáo dầu gội Sunsilk hay dầu dừa Parachute. Nếu nội dung quảng cáo chỉ mở đầu bằng những khuôn mặt xinh đẹp của những cô gái trẻ, bác Shah sẽ nhuộm mái tóc của mình thành màu đen và ngồi trên một chiếc ghế xoay. Đoạn quảng cáo sẽ xuất hiện đầu tiên với hình ảnh mái tóc bồng bềnh của ông ấy. Sau đó, khi mái tóc mượt mà đó đã nhận được sự tán thưởng nhiệt liệt một cách xứng đáng, chiếc ghế sẽ xoay quanh trong một cảnh quay chậm và hé lộ khuôn mặt của bác Shah. Tại thời điểm này, một hiệu ứng đặc biệt sẽ khiến khuôn mặt ông ấy trở thành khuôn mặt của một cô gái xinh đẹp. Nếu bác Shah cảm thấy ổn với sự biến đổi này, thì ông ấy nên suy nghĩ cho kỹ. Mái tóc như vậy nên được thể hiện với một phong cách khác biệt. Koki Shah, người con hiếu thảo, sống trong một chiếc lồng nhỏ bằng kim loại. Một dải băng màu đỏ được buộc vào một chiếc lồng với vai trò là chiếc nơ trang trí. Tôi đã từng đến gặp bác Shah vì tương lai mập mờ của mình. Tôi đã muốn Koki Shah, chú vẹt có chế độ ăn uống gồm hoa quả, các loại hạt, ớt, hạt giống và các loại sâu, nói cho tôi biết liệu tôi có thể sang Mỹ được không. Để tìm được lời giải đáp cho câu hỏi này, bác Shah yêu cầu tôi đặt 5 rupee lên một miếng vải màu nghệ tây đặt trước lồng. Khi tôi đã làm theo lời hướng dẫn, Koki Shah bước ra với thái độ “tôi biết rõ chuyên môn của tôi là gì - tránh ra để tôi xem”. Thân hình của nó bao phủ một màu xanh lá đậm tươi rói mà không có một dấu tích đúng nào của tôi có thể sánh bằng, thậm chí là kể cả khi dì Rosamma đổ đầy một bồn nước và tắm sạch sẽ cho chúng. Cái mỏ của nó đỏ đến nỗi mà màu đỏ của các dấu tích chéo của tôi sẽ bắt tay với những giọt máu quý giá của thánh Christ. Sau đó, chúng cùng làm một hành động là cúi rạp đầu xuống sàn, cúi chào kiểu Nhật Bản với một góc 180 độ, giống như những cú đánh của võ sĩ Samurai. Bác Shah hỏi Koki Shah, “Koki Shah, hãy nói cho cô gái tuyệt vời này biết, liệu cô ấy có thể đến nước Mỹ không?” Đầu tiên, Koki Shah chuyển động cái đầu của mình từ bên nọ sang bên kia như thể nó muốn nói không. Sau đó, bác Shah huyền bí, có vẻ như hơi bối rối và xấu hổ, nhìn vào bầu trời qua những lỗ hổng của tán lá đa. Đôi mắt của ông nhắm lại khi ông yêu cầu Koki chọn một lá bài. Koki Shah chọn một tấm và quay trở lại chiếc lồng của mình sau khi được trả công bằng một hạt ngũ cốc và một vài hạt cây khác. Bác Shah bắt đầu đeo kính và giải mã lá bài của tôi. Sau những lần dừng lại và những cái hắng giọng, hậu quả của những cơn ho dai dẳng, bác Shah bắt đầu phán. “Thần linh phù hộ con. Một khởi đầu mới, những nỗ lực phi thường và may mắn sẽ đến với con. Để tránh xui xẻo, con hãy đeo lên người chuỗi hạt nau-muskhi rudraksha này và cầu nguyện với chúa Ganpati để xóa bỏ mọi trở ngại”. Bác Shah lấy lần lượt chuỗi hạt nau-mukhi rudraksha từ đống bài của mình, rồi đến những hạt rudraksha và liều thuốc tình yêu. Rudra, như bác Shah đã giải thích, nghĩa là thần Shiva và aksha nghĩa là đôi mắt. Vì vậy, những chuỗi hạt tượng trưng cho đôi mắt của thần Shiva. “Mỗi hạt rudra này đều đến từ Trung Quốc, chúng được tinh chế, chứa đầy năng lượng và rất linh thiêng. Nếu con đeo chúng lên người, con sẽ tiến được những bước rất xa, cô bé. Rất xa và rộng”. “Con sẽ đến nước Mỹ phải không?” Câu hỏi được đặt ra với những đôi mắt trông như những hạt ngô trong chiếc chảo nóng, sẵn sàng bung ra khi có thời điểm thích hợp. “Đúng, cả Mỹ, Hồng Kông, Gujarat, và bất cứ đâu mà con muốn. Con sẽ đi thật xa trên khắp thế giới. Chuỗi hạt nau-mukhi rudraksha là tất cả những gì con cần”. Mukhi liên quan đến số rãnh trên mỗi hạt mukhi. Có khoảng từ 1-14 hạt mukhi rudraksha; mỗi chuỗi hạt có một ý nghĩa và mục đích khác nhau. Chuỗi hạt naumukhi rudraksha nghe có vẻ rất lôi cuốn và đáng lẽ tôi đã mua nó, nếu không phải vì hành động gãi soàn soạt những “bộ phận thầm kín” trên cơ thể mình của bác Shah tại thời điểm đó. Tôi đã hoàn toàn bị cự tuyệt khi chứng kiến vùng thân dưới của ông ấy cũng yêu cầu một ân huệ như thế. Tôi nhìn quanh xem có ai phải dừng lại trong sự hốt hoảng trước hành động ghê tởm này của ông ấy không. Gương mặt tôi chắc hẳn là trắng bệch như vừa nhìn thấy một con ma. Khi tôi nhận ra tất cả mọi người vẫn hối hả với sự bận rộn của mình mà không mảy may lấy một cái chớp mắt, tôi đi đến cái cảm giác mình đã bị lừa. Tôi nhớ cái cảm giác đen đủi khi phải chứng kiến những thói quen cá nhân kinh tởm của Shah. Tôi còn nhớ cái cảm giác lấy làm tiếc cho con vẹt Koki Shah - con trai bác Shah, khi phải chứng kiến những cảnh tượng khó chịu này. Tôi tin rằng, cho đến ngày hôm nay, ông ấy đã trở nên đãng trí và không nhận thức được việc mình đã làm, ông ấy không có bất cứ một ý thức xã hội nào. Nhưng hành động và trò lừa bịp ấy là lý do ngăn cản tôi mua chiếc tràng hạt rudraksha đến từ Trung Quốc. Trong thời khắc đó, tôi quẳng một cái nhìn nghi ngờ vào đám dược liệu tình yêu. Ai đã làm ra chúng, và chúng chứa những gì? Nếu Shah đã làm chúng, liệu ông ấy có rửa tay trước khi tiến hành pha chế? Và nếu tôi mua một lọ, liệu tôi có phải uống nó như uống thuốc hay bôi nó như một loại thuốc mỡ? Chúng trông giống như một thứ dầu cà phê đen bóng. Bao phủ cả một vùng xung quanh tôi là một mùi chuối ngột ngạt hòa với mùi nước hàng và dầu dừa. Nếu tôi nán lại thêm chút nữa, tôi sẽ phải mua toàn bộ thứ dược liệu này và cả chiếc tràng hạt nau-mukhi rudraksha để có thể biến ước mơ của mình trở thành sự thật. Mặc dù tôi không mua bất kể một thứ gì, tôi vẫn cảm thấy thích thú với lời nói của ông ấy và thấy mình bị ép buộc khi phải cho phép những món đồ này rời khỏi niềm khao khát cháy bỏng muốn bỏ chạy đang ngày một lớn dần lên trong tôi. Tôi luôn tự hỏi tại sao bác Shah không tự đeo cho mình một trong những tràng hạt mukhi rudrakshas và du ngoạn thế giới thay vì ngồi chôn chân dưới gốc cây đa này và miệng thì liên tiếp thổi bong bóng như vậy. Và vì sao ông ấy không uống một trong những lọ thuốc tình yêu này để thu hút một người bạn tình và có một đứa con trai đích thực thay vì Koki Shah, một con chim không thể đáp lại được tình yêu của ông ấy? Có lẽ, ông ấy sẽ phải thay đổi cách cư xử thiếu tế nhị nếu ông ấy muốn thu hút một người phụ nữ và có lẽ đó là một phần thưởng lớn dành cho ông ấy. Hoặc có thể, ông ấy giống như một vị thầy tu, người muốn du ngoạn trong thế giới tâm trí của đôi mắt và đã đến được đích. Ông ấy đã ở nơi mà ông ấy muốn và tại bến bờ hạnh phúc của riêng mình - nơi đó là vị trí dưới một gốc đa, nuôi nấng chú vẹt Koki Shah, làm những trò vớ vẩn với nó vào mọi lúc có thể và sống trong những mùi hương tuyệt vời vây quanh. Sau khi đã tìm tới sự giúp đỡ của bác Shah để tìm kiếm giấc mơ đặt chân tới nước Mỹ, tôi lại lo sợ rằng ông ấy biết được bí mật của mình. Tôi băn khoăn liệu có bao giờ ông ấy gặp mẹ tôi và kể mọi chuyện cho bà nghe không. Nhưng cũng giống như những gì mà tôi biết về bí mật thực sự đằng sau mái tóc bồng bềnh của ông ấy, không có gì khác ngoài dầu dừa, thì tôi dám chắc ông ấy sẽ không bao giờ trở thành một vị khách của mẹ. Tôi không nghĩ là ông ấy có đủ tiền để trả cho mẹ. Ông ấy kiếm 5 rupee từ mỗi vị khách. Còn mẹ kiếm được ít nhất 50,000 rupee từ khách hàng của mình. Và thậm chí nếu ông ấy có thể chi trả cho bà và thậm chí đó là mong muốn tột độ của ông ấy, thì người mẹ băng giá của tôi cũng sẽ khước từ ông ấy. Mẹ tôi chỉ thích những doanh nhân giàu có và thành đạt hay các anh chàng muốn có bạn đi cùng cho những chuyến du lịch nước ngoài. Và thậm chí, nếu Shah có đeo lên mình chuỗi tràng hạt mukhis và thay đổi số phận hoặc kiếm một món tiền lớn từ việc quảng cáo chỉ nhờ bộ tóc đặc trưng của mình, không phải cùng với gương mặt của ông ấy, thêm vào đó là sự đồng ý của mẹ tôi, tôi nghi ngờ rằng ông ấy cũng sẽ không nói cho mẹ tôi kế hoạch chạy trốn này. Tôi nghĩ ông ấy sẽ hứng thú hơn với dịch vụ mà mẹ tôi cung cấp. Nhưng nếu, vì một lý do nào đó, ông ấy trở thành một kẻ phản bội và kể cho mẹ biết về ý định chạy trốn của tôi, tôi sẽ sử dụng khả năng ngoại cảm của mình để trao đổi với sinh vật có đôi mắt rực lửa mà tôi gặp phải ở bậc thang thứ mười hai và ôn tồn đề nghị nó hành hạ Shah cho những ngày còn lại của cuộc đời ông ấy, và sẽ lấy làm cảm kích trước những con dòi. Khi chờ đợi nấc thang thứ mười ba để kiểm nghiệm những lời nói trên lá bài số mệnh mà Shah đã đọc cho tôi nghe, tôi nhìn thấy một dấu tích màu xanh lá cây đậm và rõ nét xuất hiện. Nó đi vào phòng tôi và quay vòng tròn xung quanh những bức tường và lại quay xung quanh chiếc quạt trần. Khi tôi bước vào phòng, dấu tích màu xanh ngồi xuống trông như một cuộn mì ống khổng lồ trong món Pasta màu xanh lá; sự kết thúc mệt mỏi khiến người nó gục xuống lòng thòng sau một cuộc hành trình vừa trải qua. Ơn trời vì tôi không cảm thấy thất vọng hoặc tôi đã không phải kết thúc cuộc hành trình này với một chiếc thòng lọng êm ái và treo mình lên ngay sau đó, chính tại căn phòng này. Trọng tải của dấu tích mì ống xanh lá kia có thể chịu được sức nặng của tôi một cách dễ dàng. Tích những dấu tích xanh lá xung quanh căn phòng của tôi, buộc thắt chúng lại quanh chiếc quạt trần, và chúng sẽ mời chào tôi như một vị chủ nhà mến khách tới với ngôi nhà của cái chết, thật là một công việc phù hợp cho chúng. Nữ hoàng Tiye Ai Cập đã chết. Bà đã chơi trò chơi Stair game, vì vậy bà ấy đã có thể được một lần nếm trải niềm vui ngọt ngào của cuộc sống bất diệt. Tôi không thể để bà ấy chết, tôi sẽ không chỉ bảo vệ bà ấy, mà còn bảo vệ cả chính bản thân tôi. Càng chán ghét cuộc sống kìm kẹp của mình bao nhiêu, tôi lại càng cảm thấy sự hối thúc của cuộc sống bấy nhiêu. Có thể nấc thang thứ hai, nấc thang duy nhất tranh cãi với tôi, có tính cách giống như người chị của mình - nấc thang thứ mười ba, và đã nghĩ ra trò đùa độc ác này. Nhưng tôi lựa chọn tập trung vào những mặt tích cực. Thêm một lần nữa, tôi đã hoàn thành trò chơi này với phẩm cách và một lương tâm ngay thẳng. Những ký ức về trò chơi này sẽ hình thành trong trí nhớ của tôi - từng bước một, hướng vào từng chi tiết - một lối cầu thang của cuốn hồi ký giúp tôi chạy trốn, lặp đi lặp lại hết ngày này qua ngày khác. Cho tới giờ, lối cầu thang của ký ức này sẽ làm nhiệm vụ của một người thôi miên với những mánh khóe, giúp tôi chuẩn bị cho cuộc chạy trốn về mặt tinh thần. “Hãy bắt lấy nó, nấc cầu thang thứ hai”, tôi nghĩ. Bản thân tôi giờ đây đang bị tác động mạnh mẽ bởi khả năng độc thoại và cảm thấy tràn đầy năng lượng, tôi chạy tới bên giường của mình và nhảy tưng tưng hết theo chiều ngang, chiều kim đồng hồ rồi quay ngược lại. Tôi ngồi xuống rồi lại nhảy lên không khác gì chú hề Jack trong chiếc hộp ma thuật của mình. Tôi lặp lại hành động này khoảng mười lần và dừng lại khi nghe thấy tiếng dì Rosamma vọng lên từ dưới chân cầu thang. “Này con, dừng ngay trò đó lại”. Sau đó, khi tôi đang định chợp mắt một lúc, tôi lại nghe thấy tiếng dì vọng lên: “Mẹ con đã về rồi. Đi tắm đi. Những món ăn ngon đang đợi con đây này”. Tôi băn khoăn, liệu một lần nữa nếu dì ấy có đổ một ca nước giả lên người mình và nói dối về điều đó không. Tôi giả sử dì ấy có thể làm như vậy. Cái suy nghĩ phải đối mặt với khuôn mặt xinh đẹp của bà mẹ cáu kỉnh của mình làm cho tôi chỉ muốn nằm thêm chút nữa. Mặc dù vậy, tiếng gọi của thức ăn làm tôi nhớ đến những món ăn mà dì Rosamma và chị của dì ấy Anniamma đã miêu tả vài phút trước. Tôi chảy nước miếng. Ngoan cố, tôi vẫn cố thêm vài phút nữa, nằm dài thượt trên chiếc giường và thư giãn cái lưng đau mỏi của mình. Khi đang nằm ở đó, tôi phớt lờ chiếc dây thòng lọng bằng mì sợi treo lơ lửng trên chiếc quạt trần. Nhưng một vài phút sau, nó lại xuất hiện. Tôi nhìn quanh với đôi mắt đầy sự mệt mỏi. Điều đầu tiên tôi để ý đến là những bức tranh treo tường từ Rajathan, nơi được biết đến như vùng đất của các vị vua. Các hình vẽ ở mọi nơi. Những đàn ngựa, voi, những cô gái trong những chiếc váy dài và những người đàn ông với chiếc khăn turban[25] đang sinh sản trên tường phòng tôi. Những em bé chính là sản phẩm nhân bản của họ; họ chung sống cùng với nhau như một đại gia đình nhân bản vô tính hạnh phúc và kể cho nhau nghe sử ca anh hùng ngày này qua tháng khác, năm này qua năm khác. Tủ quần áo, chiếc giường, tủ ngăn kéo của tôi đứng xếp hàng như ba người lính đứng nghiêm trang, hàng nối hàng, quay lưng lại với bức tường. Chiếc giá sách cao đứng cô đơn một góc, đối diện với tủ ngăn kéo. Một vũ công búp bê cổ, tôi mang về từ một chuyến tham quan với trường tới Meghalaya nằm trên tầng thứ hai của giá sách. Hai vị mục sư đang trông coi chúa Jesus bé bỏng ngay bên cạnh nàng búp bê. Cô nàng nhảy múa trong khi những cơn gió thổi vào phòng tôi ngang qua cửa sổ phòng ngủ, Jesus bé bỏng thích thú với một nụ cười và những tiếng ríu rít khe khẽ thi thoảng vang lên. Phía bên trái tôi là một tấm gương gắn những viên đá màu hồng. Đó là một món quà từ dì Pastsie, một phụ nữ xuất thân từ vùng Goa. Dì sống ở tầng hai trong khu căn hộ ngay cạnh nhà tôi. Dì tặng tôi món quà này và một hộp bánh thịt croquettes. Đó là loại bánh hình trụ với sự kết hợp của khoai tây nghiền, thịt, được bao phủ bởi một lớp bột bánh mì và chiên ngập dầu, thêm một bộ dabba[26], và được đóng gói cẩn thận cho ngày sinh nhật của tôi. Bên cạnh chiếc gương là một chiếc bàn học bằng gỗ với chiếc ghế kiểu truyền thống. Cuốn kinh Koran với trang sách mở hờ trông như một chú chim sải đôi cánh ngay trên chiếc bàn học. Tôi bắt đầu thấy nóng và quyết định bật quạt thay vì mở điều hòa nhiệt độ. Tôi biết cuốn sách về đạo Hồi này sẽ xổ những chiếc lông của mình ra và rung đôi cánh khi tôi bật quạt trần lên, vì vậy tôi gập nó lại và tặng nó một nụ hôn của lòng tôn trọng như tôi sẽ làm với bất kỳ một cuốn sách kinh thánh nào khác. Tôi tiến tới chiếc giá sách đơn độc và tìm kiếm một nơi nào đó giúp cuốn sách có thể nghỉ ngơi với đôi cánh mệt mỏi của mình. Tôi phát hiện ra một khoảng trống nhỏ giữa hai cuốn sách khác và nhét nó vào đó, giống như tôi đang cưng nựng một đứa trẻ nhỏ và nói rằng: “Hãy ngủ đi, em bé của tôi, hãy khép đôi cánh mỏi mệt kia lại”. Tiếp theo, tôi bước đến chiếc tủ quần áo đang trong tư thế đứng nghiêm trang kia, lấy ra một chiếc khăn tắm thơm ngọt ngào, xà phòng tắm, một bộ pyjamas thoải mái, và một chiếc áo phông rộng rãi kiểu dáng oversize. Đây là nhà tôi, vì vậy tôi sẽ mặc những bộ quần áo rộng rãi. Đối với tôi, rộng rãi nghĩa là sự thoải mái và nhẹ nhõm. Bằng cách nào đó, những bộ quần áo rộng rãi này giải phóng tôi khỏi những căng thẳng và khắt khe của xã hội. Tôi ôm thật chặt tất cả những món đồ vừa lấy được vào ngực. Khi bước từ từ bước vào phòng tắm, trông tôi như Đức Mẹ Mary ôm những đứa con sơ sinh quấn tã của mình. Như thường lệ, dì Rosamma đã lau chùi phòng tắm của tôi. Nó trở nên sáng bóng và có hương chanh man mát. Trong truyện “Elves và người thợ đóng giày” thuộc truyện cổ Grimm, Rosamma là một trong những nhân vật tí hon. Bà được tái sinh trong cuộc sống này với vai trò là một vú em. Cũng giống như những gì bà đã từng làm ở cõi trước, bà làm việc vất vả trong khi tôi ngủ. Tôi đã nghe rất nhiều chuyện không mấy hay ho về những vú em, và tôi phải thấy mình là một người may mắn khi không phải phàn nàn bất cứ một điều gì về bà. Giống như kiếp trước, - một nhân vật tí hon chăm chỉ và tỉ mỉ - bà giữ cho ngôi nhà của chúng tôi luôn được sạch sẽ và ngăn nắp. Nguyên tắc làm việc của bà còn mạnh mẽ hơn cả những người cha mạnh mẽ nhất trong chương trình quảng cáo dầu ăn truyền thống Dhara trên truyền hình ở Doorrdarshan. Một cô bé trên chương trình quảng cáo nói: “Cha tôi là người mạnh mẽ nhất”. “Tinh thần làm việc của dì Rosamma mới là mạnh mẽ nhất “, tôi tuyên bố và nhìn quanh phòng tắm không chút tì vết của mình. Tôi trút bỏ hết quần áo trên người, cơ thể tôi dính, ướt đầm mồ hôi và bốc mùi. Đây là lúc để tôi gột sạch những bụi bẩn, mồ hôi, thứ “nọc độc” bẩn thỉu của gã đàn ông, nước mưa, lời nguyền rủa hijra và bộ ria mép giả kia nữa. Chương 6 Đứa con hoang Tôi bật đèn phòng tắm và giảm cường độ sáng bằng nút công tắc. Tôi thích một phòng tắm với ánh sáng lờ mờ để giúp thư giãn đôi mắt khi tắm. Quần áo và khăn tắm được móc trên một giá treo. Tôi tháo dần mớ tóc được bện theo kiểu Pháp, mỗi lọn tóc dường như đang nhảy theo một vũ điệu của riêng mình. Mớ tóc xoăn của tôi là người anh em họ với trái tim không giỏi việc tề gia nội trợ của tôi. Nhìn vào thân hình trơ trụi của mình qua tấm gương, tôi nhận thấy mình gầy hơn so với trước. Tôi có thể đếm gần như tất cả 24 chiếc xương sườn đang uốn cong bảo vệ cho trái tim vụng về của mình. Tôi bước chân vào bồn tắm, đứng và bật vòi nước massage, nước ấm tuôn ra như những giọt mưa xối thẳng vào mặt tôi. Tôi cảm thấy sự ấm áp và dịu dàng của làn da mình và sự tỉnh táo trong tâm trí sau một ngày đầy rẫy những sự kiện. Tôi bỏ ngoài tai những mẹo làm đẹp mà đã từng một lần được nghe qua tivi. “Làn da của bạn sẽ có nhiều nếp nhăn hơn nếu bạn đứng hướng mặt trực tiếp dưới vòi sen”, người dẫn chương trình nói trong khi cô ta bĩu chiếc môi dưới của mình ra. Bôi một lượng nhỏ dầu gội lên tóc, tôi massage và xoa bóp da đầu mình bằng những ngón tay theo một chuyển động vòng tròn, giống như cái cách mà dì Rosamma đã dạy tôi. “Kamada”, dì Rosamma thường nói, “Khi con xoa bóp da đầu theo hình tròn sẽ làm tăng lưu thông máu lên đầu, việc này giúp thúc đẩy tóc mọc nhanh”. Tôi tận hưởng những giây phút tự massage, rồi gội sạch dầu gội dính trên tóc và gội lại một lần nữa. Trong khi vẫn còn đứng dưới vòi sen, tôi lấy ra một chút dầu xả và bôi chúng lên tóc. Giờ đây, tôi đang tắm mình trong dòng nước và hơi ấm. Tôi lại bỏ ngoài tai những mẹo làm đẹp khác mình đã nghe được ở một chương trình truyền hình tương tự. “Đừng tắm trong nước quá nóng. Điều này không có lợi cho làn da và mái tóc của bạn, chúng sẽ bị khô”. Hôm nay, tôi cần một bánh xà phòng mới để gột sạch bụi bẩn. Bánh xà phòng cũ của tôi đã biến dạng thành một mẩu giống như bã kẹo cao su. Tôi với tay lấy bánh xà phòng Lux mới mà dì Rosamma đã chuẩn bị sẵn trong phòng tắm. Trên chiếc vỏ hộp là Madhuri Dixit, một diễn viên nữ người Hindi đang múa điệu múa “Dhak Dhak”. Slogan của bánh xà phòng là “Xà phòng làm đẹp dành cho các ngôi sao”. Tôi nhớ mình đã tết tóc kiểu Pháp, giống nữ diễn viên Dimple Kapadia, vì vậy tôi cũng có quyền sử dụng loại xà phòng này. Lấy bánh xà phòng ra khỏi lớp vỏ, thoa chúng lên làn da, mùi đường nâu, vanilla và gỗ đàn hương vây lấy tôi. Phòng tắm của tôi tràn ngập một mùi hương tương tự như thứ mùi dược liệu tình yêu của bác Shah. Những bọt xà phòng xa xỉ này đã gột sạch mỗi trải nghiệm khó chịu trong tôi. Như mọi khi, căn phòng tắm tôn vinh tâm trí tôi với những hồi tưởng. Đôi khi, những ý nghĩ không mong muốn lại ùa về qua những khe cửa. Và hôm nay, những ký ức bị dồn nén được thổi vào như một đám mây đen. Ngày hôm đó, tôi vừa trở về nhà sau một giờ học toán đẫm mồ hôi, và mong mỏi được tắm dưới vòi sen. Dì Rosamma đã chuẩn bị bữa tối tuyệt vời như thường lệ. Tôi chạy vội lên lầu, không để ý đến đống quần áo nằm vương vãi trên giường không phải là của mình và những dấu vết dẫn đến buồng tắm. Khi tôi va vào cửa, nó mở ra như thể nó đang chờ đợi để cho tôi xem tận mắt những gì nó đang giấu giếm bên trong. Một cảnh tượng mát mẻ chào đón tôi. Mẹ tôi đang đứng trước gương trong một chiếc áo lót nâng ngực, và đang tô son. Đứng ngay cạnh bà là một người đàn ông khỏa thân đang ôm ấp mẹ. Mẹ tôi thì thầm vào tai người đàn ông kia bằng một giọng khàn khàn mà gần như tôi không thể nghe rõ: “Em sẽ gặp lại anh sớm”. Khi ông ta đặt một nụ hôn lên vai mẹ, và rồi ông ta nhìn thấy tôi qua gương. Mặt ông ta trắng nhợt, ông ta hét lên như một phụ nữ. Tôi cũng hét lên sau đó vì sự trần truồng mà tôi nhìn thấy, và cả vì ông ta cũng đang hét. Mẹ tôi sau đó cũng hét lên vì cả hai chúng tôi đều hét và cũng vì bà muốn gia nhập hội với chúng tôi. Tôi vùi khuôn mặt mình sau đôi bàn tay, nhưng những hình ảnh vừa rồi cứ khắc sâu trong tâm trí. Qua những khe hở của đôi bàn tay, tôi trông thấy mẹ túm lấy một chiếc khăn tắm và quấn nó xung quanh thân thể của mình. Người đàn ông kia cố trấn tĩnh lại đến mức có thể. “Xin lỗi, làm ơn…”, ông ta nói với tông giọng trầm và đầy sự tôn trọng. “Cháu đang đứng chắn lối đi”. Tôi nhảy sang một bên và để ông ấy đi qua, qua những kẽ tay, tôi thấy xương hàm ông ta nghiến chặt trông thật mạnh mẽ. Mái tóc đen và lượn sóng gọn gàng. Tôi bỏ tay khỏi gương mặt của mình và ánh nhìn của tôi bị lôi cuốn giống như một thỏi nam châm bám chặt lấy lưng người đàn ông lạ. Ông ta di chuyển một cách duyên dáng, giống một chú ngựa đang phi nước đại được xăm trổ phía sau lưng ông ta. Một người có thể là anh em sinh đôi của người đàn ông này đang cưỡi ngựa với một quý bà trông giống mẹ tôi. Cả hai người trên yên ngựa đều trong trạng thái ở trần. Tôi tự hỏi, “liệu có phải tôi đang nhìn thấy một em bé giữa hai người trên yên ngựa kia không? Liệu tôi có thể nhìn kỹ cha tôi không?”. Tôi dừng ngay suy nghĩ đó lại, vì ý nghĩ nhìn chằm chằm vào lưng cha mình đã cự tuyệt tôi. Mẹ tôi quay trở lại với chiếc gương, lau son môi dính trên răng với một mẩu giấy. Khi lần đầu tiên nhìn thấy tôi, cả hai người bọn họ đều phản ứng như vừa nhìn thấy một con gián khổng lồ. Khi họ đã chắc chắn rằng con gián vô hại, họ lại quay trở lại vẻ bình thản trước sự lõa lồ của mình. Tôi chạy ra khỏi phòng, xuống lầu và hướng thẳng tới cửa trước. Khi tôi đã ra ngoài cửa, dì Rosamma gọi tôi. Khi tôi quay trở lại, tay phải của bà đang bịt lấy cái miệng đang há hốc của mình. Khuôn mặt bà trông như những bát chhole trong nhà hàng kia - nó biểu thị một sự kinh ngạc. Tôi tiếp tục chạy. Bác Shah mở cánh cổng cho tôi mà không hỏi một câu nào. Tôi nhanh chóng tới nhà người bạn thân nhất Anjana, chỉ cách ngôi nhà gỗ của chúng tôi có vài tòa nhà. Khi tôi kể về những điều mình vừa chứng kiến với Anjana, cô ấy trông lại có vẻ rất hào hứng. Đôi mắt cô ấy trố ra như một chú ếch vừa nhìn thấy một con ruồi bay qua khi cô ấy giục: “Kể thêm cho mình nghe đi, kể nữa đi”. Anjana, người đã dâng hiến mái tóc mình cho các vị thần linh, người sở hữu mái đầu trọc lóc đã trở thành một tiêu điểm thời trang trong khu xóm của tôi, đang hào hứng hóng chuyện. Tôi kể chi tiết cho cô ấy nghe và cố gắng bỏ rơi hình ảnh của họ cho cô ấy. Nhưng người đàn ông khỏa thân vẫn đang đứng giữa phòng tắm của tôi. Tôi vẫn nghe thấy tiếng la hét của ông ta hòa lẫn với tiếng của mẹ. Những thứ tôi nghĩ đến đầu tiên sau những lần đi tắm thật là một cơn ác mộng. Tôi luôn băn khoăn tại sao mẹ tôi lại dùng căn phòng của tôi từ một vài tháng trước. Mẹ cười lớn khi bà cố gắng để giải thích những gì đã diễn ra vào ngày hôm đó. Rằng điều hòa không khí trong phòng mẹ đã không hoạt động. Mẹ đã nghĩ trong khi tôi đang đến trường học, bà và khách hàng có thể sử dụng phòng của tôi. Bà không nghĩ rằng việc này sẽ trở nên nghiêm trọng như vậy nhưng bà thành thực xin lỗi tôi. Lời xin lỗi của bà làm tôi muốn mở một chai sâm panh ra ăn mừng. Lời xin lỗi từ mẹ thật sự là một sự thoả thuận lớn. Giờ tôi đã hoàn toàn sạch sẽ và thơm tho. Tôi không muốn rời bỏ cái kén ấm áp, đầy hơi nước và thơm nức của mình để bước chân ra khoảng không lạnh giá ngoài kia. Tuy nhiên, sau một phút, tôi bước chân ra ngoài, lau cơ thể đã sạch sẽ của mình bằng một chiếc khăn tắm thơm tho, tôi vuốt nước từ mái tóc mình và dùng khăn tắm lau khô chúng. Tôi xịt một chút dầu dưỡng tóc Detangling một lượng bằng đồng xu rồi thoa lên mái tóc ẩm. Tôi mặc chiếc quần pyjama kết hợp với một chiếc áo phông và đi xuống cầu thang hướng thẳng tới nơi có bữa tối tuyệt hảo, thơm nức. Không khí ở tầng dưới được bao trùm bởi những giai điệu nhẹ nhàng. Hầu hết trong số chúng là những bài hát tiếng Hindi do Kishore Kumar, Mohammed Rafi, Mukesh, và RD Burman thể hiện. Hôm nay, “Mere Saamne Waali Khidki Mein” chơi nhạc một cách êm ái thông qua hệ thống âm nhạc đắt tiền. Bàn ăn sáu chỗ ngồi được đặt phía bên trái cầu thang. Mẹ tôi ngồi phía đầu bàn trong bộ đồ màu đen. Có thể bà sẽ hộ tống một khách hàng kinh doanh trong ngày hôm nay, vì tôi ngửi thấy mùi nước hoa nhài. Khi mẹ nhìn thấy tôi, bà quay mặt hướng tới những món ăn mà Rosamma và Anniamma đã bày trí trên chiếc bàn xinh đẹp. Tôi và mẹ không bao giờ chào nhau, chúng tôi cũng không bao giờ ôm ấp, hay trao nhau những nụ hôn lên má, và cũng không bao giờ hỏi han nhau lấy một câu. Tôi ngắm khuôn mặt mẹ, dưới hàng mi giả, đôi mắt vỏ ốc xà cừ ánh lên một màu đỏ, sự giận dữ, hơi sưng lên như thể bà đã khóc. Bà châm một điếu thuốc và thổi ra những vòng khói hình tròn vào chỗ cơm đang bốc hơi nghi ngút của dì Rosamma. Hơi nước từ nồi cơm hòa vào với khói thuốc. Mẹ tôi lên tiếng: “Cái trò chơi nhảy cầu thang của con là gì vậy? Lúc đó con đang nói chuyện với ai thế?” Trái tim tôi dường như vừa bị lỡ mất một nhịp. Làm sao mà bà lại biết về trò chơi Stair game của mình? Bà đáng lẽ phải không bao giờ được biết về nó. Hay nấc thang thứ hai đã nói cho mẹ tôi biết, hay lời nguyền của Balarama đã bám chặt lấy tôi? Không nói một lời, tôi kéo ghế và ngồi xuống. Tôi chọn một vị trí ở cuối bàn phía đối diện, cách xa chỗ mẹ ngồi. Mặc dù chiếc ghế mà tôi chọn cách xa vị trí của mẹ, nhưng nó cũng khiến tôi phải đối diện với bà. Những móng tay dài màu đỏ, trông cũng giả tạo như bờ mi, gõ nhẹ vào điếu thuốc rũ bớt tàn thuốc. Bà thổi ra thêm một vòng tròn khói khác. Tôi bắt đầu ho. “GRE là cái gì? Con định rời khỏi Ấn Độ sao?” Những vòng tròn khói mẹ thổi ra tạo thành một đám mây mỏng vây lấy bà. Nó không muốn bị tan biến. Đôi mắt đỏ ngầu , những móng tay đỏ chót, cùng bộ đồ màu đen và những vòng tròn khói xung quanh, trông bà giống một trong những hình thức tinh khiết của cái ác. “Vâng, con muốn rời khỏi Ấn Độ. Con ghét nơi này”. Khi những lời nói đó được phát ra, tôi muốn nhét chúng lại vào miệng mình. Tôi cảm thấy shock trước sự táo bạo của mình. Một bí mật mà tôi không bao giờ có ý định tiết lộ. Tôi cảm thấy một cơn sốt của sự phấn khích, nhưng vượt ra khỏi cảm giác ấy, tôi thấy mình được bình an. Mẹ đứng dậy khỏi ghế. Khi tiến lại phía tôi, tiếng gót giày gõ lộp cộp vào mặt đá cẩm thạch. Tôi ngồi lặng yên, đếm từng bước. Khi đã tới chỗ tôi, bà chuyển điếu thuốc từ tay phải qua tay trái, rồi tát tôi một cái rất mạnh. Mẹ đã từng tát tôi một vài lần trước đó, nhưng sức mạnh của cái tát này làm tôi choáng váng. Tôi nghĩ mình đã bị điếc một bên tai. Dì Rosamma và Annianmma chạy tới giải cứu cho tôi. Rosamma bật khóc. Bà ấy khóc thút thít như một chú cún con trong khi lau máu trên miệng tôi. Tôi thấy môi trên của mình sưng lên. “Tránh xa nó ra”. Mẹ tôi giậm mạnh bước về phía cửa trước. Bà cởi bỏ đôi giày cao gót và quẳng nó vào cửa kính lớn. Tiếng cửa kính vỡ toang dội lại một rung chấn qua cơ thể tôi như tôi chưa từng trải qua trước đây. Một con gián hoảng loạn bay vào. Tôi đang suy nghĩ điều gì xảy ra với những con côn trùng đang nô đùa khác? Giấc mơ lẻn được vào nhà tôi của chúng cuối cùng cũng được thực hiện. Tôi chưa từng thấy mẹ giận dữ như vậy bao giờ. Giọng của bà không còn sâu và khàn như bình thường. Thay vào đó là một giọng điệu chói tai: “Để nó một mình, có được không, hai mụ đàn bà cặn bã vô giá trị kia? Nó không còn là một đứa trẻ. Nó đã 16 tuổi rồi. Khi tôi đang ở tuổi của nó, tôi đã tự mua được cho mình bánh mì và bơ”. Rosamma và Anniamma lút cút quay vào bếp như những chú chuột sợ hãi. “Nào, giờ thì nhìn vào tao, con chó cái bé, nói cho tao biết mày đang định làm gì?”, bà hét vào đôi tai nhức nhối của tôi: “GRE là cái gì? Vì sao mày muốn rời khỏi Ấn Độ, và mày định đi đâu?”. Khi nhìn lên, tôi thấy một khuôn mặt quỷ dữ. Đây là lần đầu tiên trong đời, tôi cảm nhận được sự xấu xa của mẹ đến nhường nào. Tôi thấy mình có thể so sánh bà với Vị thần Tiền Bạc kia, người cũng đã giận dữ vào chiều nay. Vị thần Tiền Bạc ấy có mái tóc ngang ngạnh và sử dụng đồ trang điểm một cách rẻ tiền. Còn mái tóc mẹ tôi như dải lụa óng ả, và bà chỉ phủ lên khuôn mặt mình đồ trang điểm hàng hiệu. Vị thần Tiền Bạc có một giọng nói và cá tính như đàn ông. Còn mẹ lại tinh tế và nữ tính. Vị thần Tiền Bạc đáng lẽ phải giận dữ hơn mẹ, tuy nhiên, đối với tôi, cách cư xử của vị thần Tiền Bạc như một kẻ quê mùa mất trí, hoàn toàn không mang tính đe dọa. Cô ta đứng ở một ví trí hoàn toàn không dễ gây hại cho tôi như mẹ đang đứng. Thậm chí với cách cư xử màu mè và hoàn mĩ của mình, mẹ tôi trông còn nguy hiểm và tàn độc trong cơn giận dữ hơn so với vị nữ thần kia. “Đừng nhìn chằm chằm vào tao nữa, mà hãy trả lời câu hỏi của tao đi”, mẹ tôi gầm rú. Tôi vẫn khóc nức nở và canh chừng những con gián đang bay vào. Tôi không muốn nó bay gần lại tôi. Tôi nhìn thấy một con ở gần cây thánh giá cao, cây thánh giá mà bố Anjana đã mang về từ chuyến thăm thành Rome và tặng cho mẹ tôi như một món quà. Con gián bay lại gần tôi thêm chút nữa. Tôi hét lên. Mẹ tiến lại gần và túm lấy tóc tôi. Bà giật mớ tóc trong tay mình và kéo đầu tôi nhìn thẳng vào bà. Một lần nữa, tôi lại nhìn thấy quỷ. “Mày sẽ không rời khỏi căn nhà này, hiểu chưa? Không có thứ gì mà tao không thể cung cấp cho mày. Ai trong số hai người bạn của mày kia sẽ sống trong căn nhà này và làm việc như đầy tớ?”, mẹ tôi chỉ vào Rosamma và Anniamma, họ đang đứng trong bếp sau tấm rèm cửa. “Con không muốn gì hết”, tôi nức nở. “Con chỉ muốn sống trong yên bình. Con không thể sống ở đây thêm nữa”. Con gián kia được đà tiến tới chúng tôi. Nó bay gần mớ tóc của mẹ và tôi bắt đầu la hét như một kẻ điên. “Tao phải làm gì để xứng đáng với một đứa con gái vô ơn như mày?”. Bà hỏi trong khi nhìn vào con gián đang bay như thể chờ đợi một câu trả lời từ nó. Con gián gật chiếc râu của mình và bắt đầu hát. Tôi phải bắt đầu từ đâu? Tôi phải bắt đầu từ đâu? Hãy bắt đầu bằng câu nói, Bạn đừng bao giờ để tôi vào đây. Tôi đã từng sống ở khung cửa kính nhà bạn, Qua bao năm ròng rã Bây giờ tôi đã ở đây, trong ngôi nhà này Với thân thể của chính tôi, Liệu ta có thể thỏa thuê trên những món ăn kia không? Hay liệu tôi có thể chơi với những con cá sặc sỡ kia không? Con gián làm một vòng lộn nhào trên đĩa cơm tráng rồi nhìn lén vào bể cá Nhật Bản. Mẹ tôi nhìn vào con gián và ra lệnh cho dì Rosamma một cách nghiêm khắc: “Giết nó đi”. Dì Rosamma lao về phía giỏ đựng tạp chí. Bà cuộn một cuốn tạp chí và bắt đầu khua khoắng nó vào không khí. Con gián bay vòng tròn, dừng lại giữa không trung và không biết nên bay về đâu. Dì Rosamma đi theo chuyển động của con gián. Tôi nhìn thấy những con côn trùng bay lên và cùng đậu vào một góc trần nhà. Một trong những con yêu quái với đôi cánh mỏng mảnh bay lại gần chúng và chúng cùng bắt tay nhau. Đôi mắt mệt mỏi của dì Rosamma dừng lại ở khung cửa kính bị vỡ, bà lắc đầu trong sự hoài nghi và thất vọng. Bà bịt tay lên miệng nhưng vẫn để những lời nói tuôn ra: “Chị, chị vừa làm gì thế này? Chị vừa làm vỡ của kính sao?”. Mặc dù nhiều tuổi hơn mẹ tôi, dì Rosamma vẫn gọi mẹ tôi là chị cả. “Chẳng phải là tôi đã nói cô câm miệng đi rồi hay sao?”, mẹ tôi la lớn. “Tôi trả tiền cho cô để làm việc chứ không phải để vặn vẹo tôi”. Sau đó, trước nỗi khiếp sợ của tôi, mẹ tôi lại chuyển sự chú ý của bà về phía tôi một lần nữa. “Dừng ngay trò vô nghĩa này lại. Mày cứ chọn bất cứ nghề nghiệp nào mà mày muốn, nhưng không được rời xa đất nước này”. Chưa từng có chuyện mẹ để cho tôi ra quyết định cho chính mình. Tôi băn khoăn tự hỏi vì sao hôm nay mẹ lại cho phép tôi làm điều này. Mẹ và tôi - chúng tôi không hề hiểu nhau. Điều duy nhất tôi biết về mẹ, tôi nghĩ, đó là sự giả tạo. Giả sử bà tôi là một phù thủy, đội một chiếc mũ đen chóp nhọn. Mẹ tôi có lẽ là kết quả của một liều thuốc pha chế hay một câu thần chú xấu xa. Tuy nhiên, tôi nghĩ tôi thực sự có thể biết một nguyên nhân dẫn đến việc mẹ tôi phải cư xử tàn nhẫn đến vậy. Một vài năm trước đây, dì Rosamma đã kể cho tôi một bí mật. Bà kể mẹ tôi đã từng có người yêu, một người muốn kết hôn với bà. Trước khi họ có thể lên kế hoạch cho một đám cưới hoành tráng, bà đã mang thai. Tôi chính là đứa con đã đến đúng vào thời điểm thuận lợi nhất. Tôi thường hỏi tại sao tôi không phải là đứa con của người yêu bà. Tôi muốn có trách nhiệm với những quyết định của mình, không phải đổ lỗi cho bất cứ ai. Và tôi tin rằng, tôi chính là người tự lựa chọn làm con gái của mẹ. Bất kể vì lý do gì, mẹ tôi vẫn chọn cách giữ tôi lại. Bà đã từ bỏ khát vọng tình yêu của mình và bỏ cuộc. Với niềm hi vọng bị dập tắt, chẳng còn gì lưu lại với bà ngoài những nỗi đau. Bà có thể lựa chọn làm lại cuộc đời và sống cuộc sống của riêng mình và tôi thì có thể đến nước Mỹ. Điều này sẽ tốt cho cả hai chúng tôi. Tại sao mẹ lại không nhìn thấy sự đẹp đẽ và kỳ diệu của điều này? “Mẹ, làm ơn đi”, tôi yếu ớt phản đối, “con có thể đến Mỹ được không? Đó là giấc mơ của con”. “Ôi, nhìn vào mình xem. Ai sẽ cho mày tiền?”, bà đáp. Trong giây lát, tôi nghĩ thực tế mẹ có thể nói chuyện với tôi với tình thương yêu: “Con có biết một tấm vé trị giá bao nhiêu tiền không? Con có đang đi làm không? Ai sẽ chi trả cho con khi con đến đó? Ba của con sao?” Vì sao tôi cứ mãi mong muốn bà trở thành một người mẹ mà tôi hằng mơ ước? Tôi thấy mình nghẹn lại những giọt nước mắt bướng bỉnh. Bây giờ, tôi sẽ nói ra một điều khủng khiếp. “Mẹ chưa bao giờ làm bất cứ một điều gì cho con, trong suốt cuộc đời của mẹ, điều duy nhất mẹ làm cho con đó là đã ngủ với cha, cho dù ông ta là ai”. Trước sự ngạc nhiên của tôi, bà cười lớn. “Cha mày ư? Cha của một đứa con hoang như mày ư?” “Và mày muốn biết người cha của mày là ai ư, đứa con hoang bé bỏng này?”. Bà tiếp tục gọi tôi là đứa con hoang. Mẹ tôi thường gọi tôi như thế. Trong quá khứ, tôi không biết nó có nghĩa là gì. Tôi đã hỏi Anjana, và cô ấy trả lời rằng đó là “điều cấm kỵ” trong tiếng A Rập. Tôi, Kamada, được sinh ra như một đứa con hoang - một đứa trẻ không mong muốn, một đứa trẻ bị ngăn cấm - nhưng tôi vẫn có quyền được biết. “Vâng”, tôi nói với mẹ với đôi mắt thể hiện sự tự chủ. Bà đáp lại tôi bằng một nụ cười giả tạo của sự thương hại đối với tôi, một đứa con hoang đang khóc thút thít. “Mày sẽ không tin người đó là ai đâu”, bà đùa giỡn với cảm xúc của tôi. “Thực ra, mày có thể đoán đấy, vì đó là người mà mày thừa hưởng ánh mắt buồn bã. Mày thử đoán xem?” Khi tôi không trả lời, bà nói tiếp: “Mày rất muốn biết phải không? Thế thì đây là câu trả lời - Tao không biết!” “Mẹ biết ông ta là ai”, tôi lẩm bẩm. “Mẹ luôn luôn có câu trả lời”. “Đừng có rên rỉ nữa, ranh con. Có lẽ đây là lúc mày phải biết.” “Đừng có gọi con là ranh con nữa. Con đã 16 tuổi rồi”. Tôi đáp trả. Bà cười lớn và lắc đầu. “Ông ta là cha người bạn thân nhất của mày - Anjana”. Bà cười và nói thêm, “Chỉ có vậy thôi, một gã đàn ông hói đầu xấu xí, người đã muốn li dị vợ và cưới tao”. Tất nhiên, bà đang nói dối, chỉ để gây sự chú ý với tôi. Như thể đọc được suy nghĩ của tôi, bà nói: “Sao mày lại nghĩ ông ta sẽ cung cấp cho mày những thứ giấy tờ kia, hả đồ ngu? Và sao mày không nghĩ rằng vì sao Anjana là người bạn duy nhất mà mày có?” “Giấy tờ nào cơ?”, tôi giả vờ bối rối trong tiếng nức nở và sụt sịt. Tôi không tin vào những điều đang xảy ra. “GRE và tất cả những giấy tờ mà mày cần để đến Mỹ. Ông ta là người bảo lãnh hay là một cái gì đó tương tự như vậy, đúng không?” Tôi quyết định nói cho mẹ sự thật. Có vẻ như Anjana hay bố của cô ấy đã phản bội lại lòng tin của tôi. “Vâng”. Tôi đáp. “Con không thể yêu cầu mẹ những giấy tờ này, vì con biết mẹ sẽ không bao giờ chấp nhận làm người bảo trợ cho con”. “Và mày đã tìm đến bố mình. Ông ta sẽ giúp mày đến nước Mỹ ư? Ra khỏi nhà tao và cuộc sống của tao ngay”. Giọng bà run lên. Vẫn khóc thút thít, đứng dậy khỏi ghế, tôi chạy thẳng lên phòng mình. “Con nhãi, mày đang đi đâu vậy? Đây là nhà của tao. Tao mua nó bằng những đồng tiền xương máu. Nếu màu đang định trở lại để gói ghém đồ đạc thì đi đi. Còn nếu mày chỉ định lên phòng rồi ngủ trên chiếc giường tao mua cho mày 16 năm trước, thì quay lại, đi đôi giày chết tiệt của mày vào và cút khỏi đây”. “Chị, con bé sẽ đi đâu cơ chứ? Nó còn chưa ăn gì kia mà?”. Dì Rosamma can thiệp vào chuyện này với một giọng điệu không chút sợ hãi. Như mọi khi, bà đặt ngón tay lên miệng để thể hiện cử chỉ ăn uống minh họa cho những lời nói của mình. Khoảng thời gian này, mẹ tôi không hề ra lệnh cho dì Rosamma dừng lại và thôi không đặt ra những câu hỏi. “Nói nó hãy đi sang nhà Anjana. Bố của nó sẽ trông nom nó từ bây giờ”, bà hét lên. Anjana, người bạn thân nhất và cũng là duy nhất của tôi, lại chính là chị em cùng cha khác mẹ. Tôi phải chấp nhận chuyện này như thế nào đây? Không nói một lời, tôi đi giày và đi thẳng tới cửa chính. “Dì Rosamma”, tôi nói trước khi bỏ đi, “Con sẽ đến nhà Anjana để tìm ra sự thật”. “Này con, con chưa ăn gì cả”, bà nói và nhấn mạnh lại một lần nữa rằng tôi chưa ăn gì cả. Bà tỏ ra rất lo lắng nhưng lại chẳng làm gì để ngăn tôi lại. “Con không đói”, tôi trả lời, nhưng điều này hoàn toàn không đúng, tôi rất muốn được ăn. Bài hát của Kishore Kumar vang lên: “Zindagi Ke Safar Mein Guzar Jaate Hain Jo Makam, Woh Phir Nahin Aate’, giờ chúng đang được chơi bởi một hệ thống dàn nhạc. Cái bụng của tôi càu nhàu, “Chuyện gì xảy ra thế này, Kamada? Bạn nói là bạn sẽ giúp làm dịu những âm thanh này xuống sau khi bạn tắm xong kia mà?” “Tôi xin lỗi, dạ dày bé bỏng”, tôi chạm vào bụng mình để làm nó cảm thấy dễ chịu hơn. “Bạn không biết là tôi muốn làm dịu những âm thanh này xuống đến nhường nào đâu. Và tôi sẽ làm như đã hứa. Bạn có muốn món sev puri[27] không?”. “Có chứ!”, chiếc dạ dày hào hứng. Tôi thấy ngượng khi phải đi ra phố với chiếc quần pyjama thùng thình và chiếc áo phông, nhưng lòng tự trọng của tôi bị tổn thương. Tôi sẽ không trở lại căn nhà đó và cầu xin mẹ tôi cho tôi ở lại. Bà đã sỉ nhục và làm tổn thương tôi như vậy là quá đủ. Không khí thật ẩm ướt. Tôi quyết định đi đến cuối đường và mua một chiếc sev puri. Đó là một loại bánh dẹt, với những miếng puris giòn phủ trên mặt bánh với một chút khoai tây luộc, hành tây, me, bạc hà, tương ớt và tỏi. Sau đó chúng được rắc một chút nước sốt masala. Người bán bánh sev puri đã biết tôi từ khi tóc tôi còn tết bím. Tôi nghĩ ông ấy sẽ không lấy làm phiền khi tôi đề nghị gửi tiền cho ông ấy sau. Tôi không thể tin rằng mẹ tôi lại đá đít tôi ra khỏi cửa… và trong bộ quần áo như thế này. Tôi cũng không thể tưởng tượng được có vô số những gã Brazilian wandering spiderat, Snakepig và Chimpigog đang rình mò trong lúc trời đang mưa và tối đen như thế này. Tôi mỉm cười với bác Shah trên đường đi ra ngoài. Tôi hỏi mượn ông ấy chiếc ô. Mưa ở thành phố Bombay này thường đến không báo trước. Chúng giống như những vị khách không mời. Tôi ước mình có thể quay lưng bỏ đi nhưng cuối cùng lại trở thành một vị chủ nhà mất hết can đảm. “Ồ tất nhiên rồi, cô bé”, ông trả lời và đưa tôi một chiếc ô đen với tay cầm hình móc câu. “Cháu vừa mới về và giờ cháu lại đi luôn à? Dưới trời mưa thế này sao? Mọi thứ ổn cả chứ?” Tôi mỉm cười nhưng không trả lời. Ông ấy đi lại cánh cổng phía sau lưng tôi. Tập trung suy nghĩ, trở ngại tôi phải đối mặt bây giờ tồi tệ hơn nhiều so với những gì tôi trải qua ba tiếng trước. Tôi bước ra lối vào của khu dân cư, hướng thẳng tới người đàn ông bán bánh sev puri và sandwich nướng. Tôi nói bác bán bánh làm cho tôi một chiếc. Trong khi ông ấy chuẩn bị bữa ăn nhẹ phức tạp này một cách cẩn thận, tôi băn khoăn về cha của Anjana. Liệu ông ấy có thực sự là cha tôi? Khi tôi và Anjana còn nhỏ, ông thường mua cho mỗi chúng tôi một chiếc chocolate Cadbury khi chúng tôi đang chơi với nhau. Ông cũng hay chở tôi và Anjana tới trường trên chiếc xe máy nhỏ của ông. Tôi luôn luôn ngồi giữa họ; tôi ôm bố của Anjana và Anjana ôm tôi. Bác bán bánh sev puri cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi. “Được rồi đó, cô bé, hãy cầm lấy, đừng bận tâm đến chuyện tiền bạc.” “Cám ơn bác”, tôi đáp. Tôi bắt đầu ăn chiếc bánh trong khi đi bộ tới nơi Anjana sống. Tôi kẹp chiếc ô dưới cánh tay mặc dù một cơn mưa phùn nhẹ vẫn đang táp vào mặt. Giàn giáo bằng tre vây xung quanh tòa nhà Anjana ở. Bây giờ đã muộn lắm rồi, nhưng những người công nhân vẫn trát xi măng thạch cao dưới những ánh nến cho tòa nhà này. Khi tôi nhìn lên và trông thấy một người công nhân đang ngồi trên một thanh tre và nhấm nháp thứ gì đó trông có vẻ như là món trai ngọt ngào và nóng hổi, thì một chiếc xe kéo tăng tốc động cơ và chạy qua một vũng nước. Nước bắn tung tóe lên khắp chiếc quần pyjama của tôi và vấy đầy lên người tôi. Tôi hét lên, “Bị mù à!”. Cùng lúc đó, có thứ gì đó rơi tõm xuống vai phải của tôi. Tôi cảm giác đó là xi măng, nhưng tôi không chắc lắm. Tôi cẩn thận để không giẫm phải đụn xi măng trước mặt và đống dùi đục, dao, thuổng, và những cái xô trộn nguyên vật liệu đang nằm ngủ im lìm. Tôi tưởng tượng ra một đống xi và bùn đất được trộn lên và được mang đi, trên cái đầu bú xù của tôi trong suốt cả một ngày. Tôi tưởng tượng ra những chiếc khoan đang rung lên ầm ĩ, những chiếc xẻng đang đào bới, và những tiếng búa đập liên hồi. Tôi còn hai chiếc sev puris nữa. Cái bụng của tôi đã thôi không còn gầm gừ. ẳ Tôi tiến thẳng về phía cầu thang trước tòa nhà. Như những gì tôi nhớ thì nó rất hẹp. Mỗi bậc cầu thang đều có dấu vết của những bước chân dính đầy xi măng. Lối cầu thang rất tối, và tôi bị hắt hơi vì bụi bay tứ tung. Dường như nếu trời mưa sẽ ảnh hưởng đến điện của tòa nhà này. Tôi nắm chắc lấy tay nắm cầu thang và dò từng bước một trước khi đặt chân lên mỗi bậc. Có một đôi mắt đỏ ngầu đang dõi theo tôi. Một người phụ nữ mặc một chiếc áo choàng màu trắng đứng ở những nhịp cầu thang đầu tiên. Ánh sáng phát ra từ chiếc áo choàng của cô ta cung cấp cho tôi đủ ánh sáng để leo lên lầu. Người phụ nữ đứng lùi sang một bên nhường chỗ cho tôi lên. Có một hương hoa hồng rất đặc biệt trong không khí. Khi tôi quay lại, người phụ nữ mỉm cười với tôi và biến mất. Người phụ nữ đó đã dẫn đường cho tôi lên tiếp những nhịp cầu thang tiếp theo, mỉm cười rồi lại biến mất. Tôi đã đến nhà của Anjana nằm ở tầng 3, cũng là tầng cuối cùng của tòa nhà này. Khi tôi đã lên tới nơi, người phụ nữ trong chiếc áo choàng trắng lại biến mất. Không khí vẫn thoảng mùi hoa hồng. Khi đang nhấn chuông cửa, tôi nhận ra rằng mình cảm thấy sợ hãi nhường nào khi biết được sự thật. Tim tôi bắt đầu đập rộn rã. Đây liệu có phải là nhà của cha tôi không? Liệu tôi có phải là chị em cùng cha khác mẹ của Anjana không? Tôi rung chuông cửa thêm một lần nữa trước khi nhận ra nó không hoạt động vì tòa nhà bị mất điện, tôi bắt đầu gõ cửa. Trong khi tôi đợi ai đó lên tiếng trả lời, mắt tôi bắt đầu định vị lại trong bóng tối. Tôi nhìn chòng chọc vào tấm biển tên phòng hình chữ nhật trên cửa. Tôi đã nhìn thấy nó rất nhiều lần trước đây. Mặc dù, hôm nay tôi không thể nhìn thấy rõ nó, nhưng tôi biết nó ghi gì: “MR. DESHMUKH”. Không ai lên tiếng. Tôi bắt đầu gọi “Anjana”. Tôi nghe thấy tiếng bước chân nhanh chóng tiến gần lại phía cửa. Một giọng nói vang lên: “Tới đây, tới đây”. Tiếng cánh cửa cót két như thể có ai đó đang bắt nó phải mở ra. Nó chắc hẳn cần phải được tra thêm dầu. Ánh sáng ấm áp từ một ngọn nến chiếu sáng khuôn mặt nhỏ bé của một người phụ nữ. Đó là mẹ của Anjana. Những chuỗi xích cửa được mở ra. “Con chào dì”, tôi chào dì với khuôn mặt sáng lên trong bóng tối. “Xin chào, nhưng ai vậy?” “Là con đây, Kamada ạ”. Tôi ngó vào nhà và hi vọng ánh nến cũng có thể tỏa sáng cho gương mặt của tôi. Bà ấy nâng cao ngọn nến lên: “À, Kamada, vào đây, vào đây con gái. Nhà chúng ta đã bị mất điện từ đêm qua”. Tôi thấm thía và khắc sâu vào lòng mình hai tiếng “con gái”. Mẹ của Anjana đã gọi tôi như vậy. Trong khi mở cửa cho tôi vào nhà, tôi thầm nói chuyện với bà ấy trong đầu mình, “Có thể, cháu là con ghẻ của dì, dì thân mến. Một đứa con ghẻ mà dì không bao giờ có ý định để nó sinh ra trong cuộc đời này”. Sau đó, một hồ nước của những ý nghĩ chảy vào tất cả những ngõ ngách còn trống trong con người tôi. Trong cuộc sống này, tôi có quá nhiều những vai trò ngoài ý muốn phải thể hiện: một đứa con gái ngoài ý muốn của mẹ tôi, một người chị em cùng cha khác mẹ ngoài ý muốn của Anjana, và là một đứa con gái ngoài ý muốn của cha cô ấy. Tôi biết một thực tế là mẹ tôi không bao giờ muốn có tôi, và mẹ của Anjana cũng sẽ không bao giờ muốn có tôi. Nhưng cha tôi thì sao? Liệu điều này có thể không, qua một vài thoái thác của số phận, liệu rằng ông ấy muốn có tôi không? Chương 7 Cá cầu vồng Tại nhà Anjana, họ nghĩ ra việc tháo giày ở lối vào là một bài thể dục tuyệt vời để rèn luyện sức khỏe. Tôi cởi chúng ra, trải bàn chân mình và đặt chúng xuống nền đá lạnh. Tôi đi theo dì ngang qua lối hành lang tối lờ mờ đến chỗ tấm rèm được làm từ những sợi dây kết vỏ sò. Một cây nến cao khác đang cháy bập bùng trên một chiếc bàn, nằm ở góc lối đi. Mùi rượu Whiskey Scotch và mùi hôi nách lởn vởn xung quanh như một đám mây đen ẩm ướt và bâng quơ. Tôi bước qua chúng. Mẹ Anjana vén một vài sợi dây vỏ sò của tấm mành sang một bên rồi quay lại nhìn tôi một lần nữa: “Vào trong đi, con gái”. Bà ấy gọi tôi là con gái một lần nữa. Có thể đây là cách mà bà ấy gọi tôi, liệu bà ấy có thể nghe thấy những suy nghĩ của tôi và chấp nhận tôi không? Tôi cúi xuống chạm vào chân bà và đưa ngón tay mình lên mắt. Tôi chưa bao giờ được dạy cách chào người lớn kiểu này, nhưng tôi đã từng nhìn thấy Anjana làm, vì vậy tôi cũng làm theo. “Ôi con gái, con sẽ bị vấp đấy, trong này tối lắm, con không cần phải làm thế đâu”. Nhưng bà ấy vẫn cầu chúc cho tôi sẽ sống lâu “Chúc con có một cuộc sống dài lâu”. Sau đó bà ấy đưa cây nến lại gần mặt tôi và thốt lên: “Ôi thần linh ơi, có chuyện gì xảy ra với bờ môi của con vậy?” “Ồ, cái này ư? Một người nào đó ở nhà ga đã vô tình va phải con với chiếc túi của cô ấy”. Tôi nói. Mẹ Anjana dẫn tôi tới phòng khách. Ba cây nến được đặt ở ba khu vực khác nhau trong căn phòng, tỏa ra một thứ ánh sáng êm ái, dễ chịu, làm cho dấu bindi[28] to, đỏ trên trán bà trở nên nổi bật hơn. Các dấu bindi này được tin rằng sẽ giúp đuổi tà ma và quỷ dữ.