🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook CIA và Các Tướng Lãnh Cộng Hòa - Thomas L. Ahern full prc pdf epub azw3 [Chiến Tranh] Ebooks Nhóm Zalo CIA và các tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa Thomas L. Ahern Chia sẻ ebook: http://www.downloadsach.com Follow us on Facebook: https://www.facebook.com/caphebuoitoi Table of Contents Tạo mục lục Hyperlink(2 chiều) mần eBook 4 Palm, PPC By ?? Tạo mục lục Hyperlink(2 chiều) mần eBook 4 Palm, PPC By ?? mần mục lục Hyperlink(2 chiều) xuất eBook 4 Palm, PPC… By Hungnhon 1- Đã đăng nhiều kỳ trên báo Sài Gòn Giải Phóng TP HCM. 2 - Đã đăng nhiều kỳ trên chính website của dịch giả. 3 - Một bản tin điểm sách của Nguyễn Kỳ Phong trên BBC online CIA và các Tướng Lĩnh Sài Gòn - Kỳ 1: Vai trò của CIA trong cuộc chiến Việt Nam - Kỳ 2: CIA sau đảo chính ông Diệm - Kỳ 3: “Ngôi sao” Thiệu - Kỳ xuất hiện - Kỳ 4: Xáo trộn và chia rẽ - Kỳ 5: Mỹ tìm đường rút lui - Kỳ 6: Nỗ lực chính trị hóa cuộc chiến Việt Nam - Kỳ 7: Phản chiến lan rộng, Mỹ bối rối - Kỳ 8: Hòa bình đã trong tầm tay - Kỳ 9: Tiên đoán về một cuộc tấn công định mệnh - Kỳ 10: Thời điểm sinh tử - Kỳ cuối: Người Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam CIA và các ông Tướng Lời giới thiệu: Chương 1: CIA sau đảo chánh ông Diệm Chương 2: Cabot Lodge đi, Taylor tới, Nguyễn Khánh đi & ngôi sao Thiệu Kỳ xuất hiện. Chương 3: Hoa Kỳ tìm đường rút lui Chương 4: Trận tấn công Mậu Thân và sự chính trị hóa cuộc chiến Việt Nam Chương 5: Sự bối rối và làm nản lòng Chương 6: Mỹ áp lực tổng thống Nguyễn Văn Thiệu Chương 7: Nỗ lực duy trì hiện trạng Chương 8: Thời điểm sinh tử Chương 9: Tìm lối đầu hàng và di tản Chương 10: Một quyết định quân sự KẾT: Cảm nghĩ - Ôn Cố Tri Tân (*) Tin Điểm Sách: Nguyễn Kỳ Phong điểm sách tại BBC vietnamese Chương 1: CIA sau đảo chánh ông Diệm: Chương 2: Cabot Lodge đi, Taylor tới, Nguyễn Khánh đi & ngôi sao Thiệu-Kỳ xuất hiện. Chương 3: Hoa Kỳ tìm đường rút lui Chương 4: Trận tấn công Mậu Thân và nỗ lực của Mỹ chính trị hóa cuộc chiến Việt Nam Chương 5: Sự bối rối và làm nản lòng Chương 6: Mỹ áp lực tổng thống Nguyễn Văn Thiệu Chương 8: Thời điểm sinh tử Chương 9: Tìm lối đầu hàng và di tản Chương 10: Một quyết định quân sự Kết: Cảm nghĩ - Ôn Cố Tri Tân Một số tiết lộ về cuộc chiến từ tài liệu CIA - Kỳ 1: Vai trò của CIA trong cuộc chiến Việt Nam SGGP online Thứ hai, 22/03/2010, 08:34 (GMT+7) LTS: Năm 2009, Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) đã cho giải mật tài liệu mang tên “CIA and the Generals: Covert Support to military government in South Vietnam”. Tài liệu này do ông Thomas L.Ahern, Jr., một nhân viên CIA từng làm việc tại Sài Gòn từ năm 1963 đến đầu năm 1965, đúc kết từ những tài liệu mật của CIA. Tài liệu dài 243 trang này vừa được ông Trần Bình Nam, một học giả người Việt ở nước ngoài, tóm tắt lại và phổ biến nhằm “ôn cố tri tân” về một giai đoạn lịch sử đã qua nhưng còn ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống của mỗi người Việt trong cũng như ngoài nước. Nhân dịp kỷ niệm 35 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, Báo SGGP xin trích lược và giới thiệu đến bạn đọc tài liệu này như một dạng thông tin tham khảo từ phía bên kia cuộc chiến, góp phần lý giải một kết cục tất yếu - sự sụp đổ của chế độ Sài Gòn. Người dân Việt Nam sống giữa 2 gọng thép Mỹ - ngụy. Ảnh: Tư liệu Một điều cần nói là không có một tài liệu nào, nhất là tài liệu liên quan đến hoạt động tình báo, là hoàn toàn trung thực. Giải mật một tài liệu mật tự nó cũng có thể là một phần của một chương trình tình báo khác. Tài liệu “CIA and the Generals: Covert Support to military government in South Vietnam” cũng không ra ngoài quy luật đó. (SGGP) Cái chết của ông Diệm Trong phần nhập đề, ông Thomas Ahern nhắc lại quan hệ Mỹ và Việt Nam Cộng hòa từ năm 1954 cho đến ngày 30-4-1975. Ông viết rằng sau khi người Pháp thất bại tại Điện Biên Phủ, người Mỹ thay thế dần người Pháp vì người Mỹ cho rằng nếu Việt Nam sụp đổ, toàn vùng Đông Nam Á cũng sụp đổ theo thuyết domino. Người Mỹ ủng hộ ông Ngô Đình Diệm củng cố miền Nam Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào, qua trung gian ông Ngô Đình Nhu, em ruột của ông Diệm. Cùng với các lực lượng vũ trang của ông Diệm, CIA phát động phong trào tự vệ để bảo vệ nông thôn. Đây là kinh nghiệm chống nổi dậy đầu tiên của CIA tại Việt Nam. Chương trình của ông Diệm là tiêu diệt các thành phần Cộng sản còn lại ở miền Nam trước khi rút ra Bắc theo Hiệp định Giơnevơ. Đến năm 1959, hầu hết tổ chức Cộng sản gài lại miền Nam đều bị tiêu diệt. Nhưng chương trình bài Cộng quá nặng tay và thi hành một cách bừa bãi đụng chạm đến các thành phần không Cộng sản trong quần chúng như thành phần thiểu số và tôn giáo khác và không có chương trình nâng cao đời sống nông thôn để thu phục lòng dân nên mất dần sự ủng hộ của quần chúng. Cuối năm 1959, Hà Nội đưa người vào Nam và làm cho sự kiểm soát của ông Diệm tại nông thôn ngày càng lỏng dần. Để cứu chế độ Diệm, Mỹ tăng cường viện trợ quân sự và kinh tế. Đầu năm 1963, khi cao trào chống chế độ ông Diệm của Phật giáo nổ ra tại miền Trung, Mỹ có 12.000 cố vấn quân sự tại miền Nam. Cung cách đàn áp phong trào Phật giáo của ông Diệm không phù hợp với quan niệm tự do tôn giáo của Mỹ làm cho Mỹ bất mãn, đồng thời sự kiểm soát nông thôn của ông Diệm ngày càng sa sút, nên vào tháng 8-1963, theo đề nghị của Đại sứ Henry Cabot Lodge, Mỹ quyết định hạ bệ ông Diệm. Sau khi quân đảo chính chiếm Bộ Tổng tham mưu và giết Đại tá Lê Quang Tung, người làm việc cận kề với CIA và là Chỉ huy trưởng lực lượng đặc biệt, các tướng đảo chính kêu gọi anh em ông Diệm đầu hàng. Ông Diệm và ông Nhu lợi dụng trời tối rời Dinh Độc Lập và sau đó bị bắt tại một nhà thờ Công giáo ở Chợ Lớn. Trước đó Đại sứ Cabot Lodge có hứa giúp hai anh em ông Diệm và ông Nhu an toàn rời khỏi Việt Nam, nhưng khi ông Diệm và ông Nhu bị bắt không thấy Mỹ nhắc lại. Các sĩ quan của tướng Dương Văn Minh, người lãnh đạo cuộc đảo chính đã bắn chết hai ông Diệm và Nhu trên một xe thiết giáp… “Hòa bình ló dạng” Tình hình chính trị tạm ổn định sau khi tướng Nguyễn Văn Thiệu đắc cử Tổng thống vào tháng 9- 1967 qua một bản Hiến pháp mới. Tháng 2-1968, Cộng sản tổng tấn công vào các đô thị miền Nam (cuộc tổng tấn công Mậu Thân). Cuộc tấn công không thành công nhưng làm cho chương trình bình định của ông Thiệu giậm chân tại chỗ, tạo một tâm lý bi quan đối với dân chúng Mỹ và báo giới Mỹ nên không khí chống chiến tranh tại Mỹ lên cao buộc Tổng thống Johnson vào cuối tháng 3- 1968 tuyên bố không ra ứng cử Tổng thống lần thứ hai và đề nghị thương thuyết với Hà Nội. Tháng 5-1968, khi các cuộc tiếp xúc chính thức giữa Mỹ và Hà Nội bắt đầu tại Paris, Cộng sản mở cuộc tấn công Mậu Thân 2 nhưng cũng không thành công, giúp quân đội Việt Nam Cộng hòa và Mỹ lấy lại thế tấn công và cuối năm 1968 xem như bình định và kiểm soát 73% dân chúng miền Nam. Tuy nhiên, tình hình này không giúp cho Hubert Humphrey (ứng cử viên đảng Dân chủ) đắc cử để có thể tiếp tục đường hướng của Johnson. Tổng thống Nixon đắc cử và bắt đầu chương trình Việt Nam hóa chiến tranh. Giữa năm 1969, Tổng thống Nixon tuyên bố đợt rút quân đầu tiên. Đặc điểm của tình hình chiến trường Việt Nam trong những năm 1969-1971 là trong khi Mỹ ra sức cải tiến và trang bị cho quân đội miền Nam thì Liên Xô và Trung Quốc cũng viện trợ dồi dào cho Bắc Việt. Hai bên Nam-Bắc cố giành đất và dân chuẩn bị cho một giải pháp chính trị từ cuộc hòa đàm Paris. Mùa xuân năm 1972, Cộng sản Bắc Việt mở cuộc đại tấn công miền Nam đe dọa các tỉnh cửa ngõ dẫn vào Sài Gòn, nhưng không được như ý muốn bởi quân đội Nam Việt Nam với sự yểm trợ của không lực Mỹ. Tháng 10-1972, Hà Nội tuyên bố đồng ý về một văn bản ngừng bắn và chấm dứt chiến tranh. Dựa vào đó, trước ngày bầu cử Tổng thống Mỹ, Cố vấn an ninh quốc gia Henry Kissinger tuyên bố “hòa bình ló dạng”. Hòa bình thật sự chưa ló dạng nhưng lời tuyên bố của Kissinger đã giúp Tổng thống Nixon đắc cử nhiệm kỳ 2 một cách áp đảo. Sau cuộc bầu cử, Mỹ đòi thay đổi vài điều khoản trong bản hiệp định dự thảo. Hà Nội phản ứng bằng cách rút ra khỏi cuộc hòa đàm nhưng sau đó đã trở lại bàn hội nghị và ký Hiệp định Paris vào tháng 1-1973. Bản hiệp định không buộc quân đội Bắc Việt rút khỏi miền Nam. Mỹ tìm cách thi hành hiệp định và giúp Nam Việt Nam tự lực. Nhưng sau đó Nixon dính vào vụ Watergate phải từ chức (tháng 8-1974), Phó Tổng thống Gerald Ford trở thành Tổng thống Mỹ. Vào thời điểm này, Tòa đại sứ Mỹ tại Sài Gòn được tin tình báo cho biết quân đội Bắc Việt chuẩn bị tổng tấn công vào năm 1975. Cuộc tấn công mở màn ngày 10-3-1975 tại cao nguyên miền Trung Việt Nam và kết thúc ngày 30-4-1975 khi xe tăng Bắc Việt tiến vào Sài Gòn và trực thăng của Đại sứ Mỹ rời mái nhà tòa đại sứ trước khi trời sáng. Quân số CIA tại Sài Gòn khi ông Diệm bị lật đổ gồm khoảng 200 người. Một bộ phận lo việc bình định và tình báo. Bộ phận khác lo việc tuyển mộ người làm việc cho CIA hay mở rộng sự liên hệ với các viên chức chính quyền và thành phần đối lập phi Cộng sản để thu lượm tin tức và thúc đẩy xây dựng dân chủ. Khi trận Mậu Thân xảy ra, quân số CIA đã lên đến 1.000 người, trong đó có 600 nhân viên làm việc tại 4 văn phòng CIA ở 4 vùng chiến thuật. Từ năm 1969 khi Mỹ bắt đầu kế hoạch giảm quân, nhân sự CIA giảm dần. Bốn vùng vẫn duy trì văn phòng nhưng mọi công tác quan trọng đều dồn về trung tâm CIA tại Sài Gòn. Nỗ lực bất thành của CIA Tài liệu “CIA and the Generals: Covert Support to military government in South Vietnam” nói về hoạt động của CIA trong nỗ lực không cho Hà Nội chiếm miền Nam sau khi ông Diệm bị lật đổ. Thoạt tiên Đại sứ Cabot Lodge cấm CIA liên lạc mật thiết với các ông tướng để duy trì tính độc lập của chính quyền miền Nam trước dư luận quốc tế. Nhưng mấy tháng sau, khi thấy tình hình bất ổn (vì các ông tướng bất lực), Đại sứ Lodge cho phép CIA làm việc chặt chẽ với các ông tướng để theo dõi và điều chỉnh tình hình đảo chính. Quan hệ đặc biệt này của CIA đối với các ông tướng làm cho CIA đóng một vai trò quan trọng trong các biến chuyển chính trị tại Sài Gòn, chủ yếu là ổn định chính trị, không khác gì ảnh hưởng CIA đã có dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm. Vào năm 1966, CIA dùng ảnh hưởng của mình để thuyết phục các ông tướng hưởng ứng chính sách của chính quyền Johnson lúc đó đang tìm cách liên lạc với các thành phần ôn hòa của Mặt trận Giải phóng miền Nam. Trong cuộc bầu cử tổng thống tháng 9-1967, CIA nhận được chỉ thị của Washington ủng hộ liên danh tướng Thiệu và tướng Kỳ, nhưng cần tỏ vẻ trung lập và dùng ảnh hưởng tạo ra một cuộc bầu cử dân chủ. Sau khi thắng cử, ông Thiệu loại hết những người miền Bắc thân tướng Kỳ trong chính quyền, CIA lại phải một phen vận động và tuyển mộ người miền Nam (làm việc cho CIA). Sau cuộc tấn công Mậu Thân, CIA triển khai một kế hoạch thành lập những đảng chính trị có căn bản quần chúng theo mô thức của Mỹ, nhưng ông Thiệu chưa sẵn sàng xây dựng một nền tảng dân chủ cho miền Nam nên nỗ lực này không đưa đến kết quả nào. Tuy nhiên, Mỹ nghĩ rằng ông Thiệu cần thiết cho sự ổn định chính trị nên Mỹ không thúc bách ông Thiệu. Từ đầu năm 1970, CIA đã có kế hoạch giúp ông Thiệu tái đắc cử nhiệm kỳ 2 dự trù vào cuối năm 1971 nhưng vẫn với cách thức nhằm tạo một hình ảnh bầu cử dân chủ. Qua cuộc tấn công Mậu Thân, CIA nhận ra rằng chừng nào Nga và Trung Quốc còn ồ ạt giúp Hà Nội thì chừng đó Mỹ còn cần cố vấn và yểm trợ không lực cho Nam Việt Nam nếu muốn Nam Việt Nam còn tồn tại. Khi cuộc tấn công lắng xuống, hòa đàm Paris bắt đầu, công tác chính yếu của CIA là vận động để ông Thiệu chấp thuận hướng thương thuyết của Mỹ tại Paris. Trong công tác này CIA vận dụng nhân sự đã gài trong chính quyền ông Thiệu để gây áp lực với ông Thiệu một cách hữu hiệu. Sau khi ký Hiệp định Paris, nhiệm vụ của CIA là thúc đẩy ông Thiệu thi hành hiệp định. Vào cuối năm 1974, CIA biết Hà Nội sắp mở cuộc tổng tấn công vào đầu năm 1975, nhưng không có kế hoạch gì để ngăn chặn. Sau khi ông Thiệu ra lệnh rút quân khỏi cao nguyên miền Trung Việt Nam tạo ra sự hỗn loạn. Trước cảnh hỗn loạn tại Đà Nẵng, CIA biết rằng khó có đủ thì giờ di tản an toàn nhân viên Mỹ, quân nhân và viên chức Nam Việt Nam ra khỏi Việt Nam, CIA đã thi hành kế hoạch trì hoãn bằng cách vờ thương thuyết với Hà Nội để có thời gian rút lui. Đó là công tác cuối cùng của CIA trong cuộc chiến Việt Nam. **** - Kỳ 2: CIA sau đảo chính ông Diệm SGGP online Thứ ba, 23/03/2010, 12:01 (GMT+7) Theo CIA, mọi nỗ lực của Mỹ đối với ông Ngô Đình Diệm trong năm 1955, cũng như sau này đối với tướng Minh, tướng Khánh chỉ có kết quả kéo dài một tình trạng không tránh được là sụp đổ. Đại sứ Cabot Lodge và “ông tướng ngây thơ” Một ngày sau đảo chính, ông Bùi Diễm, một chính trị gia gốc đảng Đại Việt có nhiều quan hệ với CIA cho CIA biết các tướng đảo chính sẵn sàng nghe lời khuyến cáo của CIA trong việc xây dựng chế độ mới. Nhưng Đại sứ Cabot Lodge không muốn CIA quan hệ quá cận kề với các ông tướng. Thêm nữa, mới mấy ngày đầu, giữa tòa đại sứ Mỹ và tướng Minh đã có sự bất hòa. Tòa đại sứ Mỹ yêu cầu trả tự do cho ông Trần Quốc Bửu, một lãnh tụ Nghiệp đoàn Lao công nhưng ông Minh không đồng ý. Thủ tướng Nguyễn Ngọc Thơ, bạn của tướng Minh, can thiệp với ông Minh cũng không có kết quả. Ngày 4-11-1963, do sự khẩn khoản của tướng Trần Văn Đôn, Đại sứ Lodge cho phép CIA thuyết trình với tướng Minh về các chương trình “mật” mà CIA đang tiến hành và CIA muốn nhân cơ hội này cố vấn tướng Minh về một số vấn đề chính trị. Nhưng Đại sứ Lodge chỉ cho phép CIA cố vấn trong lĩnh vực tình báo và an ninh thôi. Trưởng cơ sở tạm thời của CIA ở Sài Gòn là David Smith sau này nhớ lại việc này cho rằng sự hạn chế của Đại sứ Lodge đã làm mất một cơ hội tốt cho CIA, giúp chính quyền quân nhân đặt một nền móng chính trị cho chế độ mới. Theo các báo cáo hàng ngày CIA gửi về Tổng hành dinh CIA ở Langley (bang Virginia gần thủ đô Washington D.C.) thì sau đảo chính không khí chính trị Sài Gòn rất bấp bênh vì thiếu lãnh đạo. Tướng Dương Văn Minh có uy tín hơn các tướng khác nhưng chỉ đủ để giữ các ông tướng đảo chính và các chính trị gia ngồi làm việc với nhau. CIA miêu tả tướng Minh như một quân nhân kín đáo và “đơn giản đến độ thơ ngây về chính trị” như ông Mohammad Naguib, Tổng thống đầu tiên của Ai Cập (6-1953 - 11-1954). CIA đặt một câu hỏi giả tưởng: “Nếu tướng Minh là Naguib thì ai sẽ là Nasser (người lật đổ ông Naguib và trở thành tổng thống thứ hai của Ai Cập) của ông Minh?”. Và câu hỏi đã trở thành sự thật. Ngoài tướng Minh, CIA còn nhức đầu với tướng Tôn Thất Đính. Tướng Đính yêu cầu CIA cho Đại tá Gilbert Layton về nước vì ông này là cố vấn của Đại tá Lê Quang Tung. Trong khi đó, Phó Giám đốc CIA Richard Helms ngỏ ý muốn Đại tá Lucien Conein, người liên lạc với hội đồng tướng lĩnh trong vụ đảo chính nên rời nước một thời gian nhưng David Smith cho rằng Conein còn cần trong nhiệm vụ liên lạc và kiềm chế các tướng lĩnh tại Sài Gòn. Ngày 5-11-1963, William Colby, người phụ trách Cục Viễn Đông tại Langley đến Sài Gòn và có nhiều cuộc tiếp xúc chính trị với các tướng lĩnh, một công việc mà Đại tá Conein không đủ kinh nghiệm để làm. Qua chuyến công tác, ông Colby báo cáo về Langley rằng Đại sứ Cabot Lodge muốn chỉ huy mọi chuyện ở Sài Gòn theo ý ông. Trước đây, Đại sứ Lodge đã thuyên chuyển John Richardson, trưởng cơ sở CIA ở Sài Gòn và nay muốn vận động để thay tướng Paul Karkins, người cầm đầu phái bộ hỗ trợ quân sự của Mỹ tại Việt Nam (MACV). Richardson và tướng Paul Harkins đều muốn được tự do hơn trong lĩnh vực chuyên môn của mình. Lúc này, tướng Khánh bất mãn với các tướng đảo chính. Tướng Khánh vốn là người đầu tiên yêu cầu CIA nên sẵn sàng cho một kế hoạch đảo chính ông Diệm, nhưng sau đó CIA chọn tướng Trần Văn Đôn làm người liên lạc chính. Đại sứ Cabot Lodge (bên phải) và tướng Dương Văn Minh. Ảnh: TƯ LIỆU Cuộc đảo chính thanh trừng phe trung lập Kể từ ngày Tổng thống Kennedy nhậm chức cho đến khi bị ám sát tại Dallas (22-11-1963), lực lượng quân sự Mỹ tại Việt Nam tăng từ 875 người lên đến 16.000 người. Nhân viên dân sự, kể cả nhân viên CIA, cũng tăng theo đà tăng quân số nhưng đã không làm cho tình hình miền Nam sáng sủa hơn. Tổng thống Johnson thay Kennedy cương quyết giải quyết tình trạng bế tắc. Cuối tháng 12-1963, ông gửi một phái đoàn gồm Bộ trưởng Quốc phòng McNamara và Giám đốc Trung ương tình báo John A.McCone đến Sài Gòn. Tổng thống Johnson yêu cầu John McCone bổ nhiệm một nhân vật đủ trọng lượng để thay trưởng cơ sở CIA tại Sài Gòn John Richardson (đã rời Sài Gòn và Phó cơ sở David Smith tạm thời thay thế). John McCone chọn Peer de Silva. Trước khi Peer de Silva rời Washington đi Sài Gòn nhậm chức, Tổng thống Johnson mời ông này đến Nhà Trắng vào phút chót dặn dò rằng đừng quên năm tới (1964) là năm bầu cử tổng thống Mỹ. Tổng thống Johnson không muốn thấy tòa đại sứ và cơ sở tình báo cứ chống lại nhau như giữa Lodge và Richardson. Ngày 7-12-1963, Tổng thống Johnson điện cho Đại sứ Lodge rằng ông muốn thấy một mối quan hệ làm việc tốt đẹp giữa đại sứ và tân trưởng cơ sở. Ngày 18-12-1963, phái đoàn McNamara đến Sài Gòn. CIA báo cáo Hội đồng quân nhân bất lực vì chia rẽ và tham nhũng và lực lượng Cộng sản mạnh hơn trước. McCone kết luận rằng tình hình sống còn của miền Nam rất mong manh và những gì được báo cáo về Washington những năm trước đây đều xa với sự thật. Trước tình hình đó, các tướng vẫn không ngừng chia rẽ và hất cẳng nhau. Giữa tháng 12-1963, tướng Dương Văn Minh thuyên chuyển tướng Nguyễn Khánh ra Vùng I chiến thuật ở Đà Nẵng. Đầu tháng 1- 1964 tướng Minh tự phong làm Tổng tư lệnh quân đội. Hai tuần sau, CIA nhận được một báo cáo của Chỉ huy trưởng Lực lượng đặc biệt (người thay Đại tá Lê Quang Tung) rằng tướng Trần Văn Đôn có thảo luận giải pháp trung lập hóa miền Nam Việt Nam với một giới chức người Pháp đang thăm viếng Sài Gòn. Trước tin này, CIA không có động tĩnh gì vì vắng hai nhân vật chính yếu là Al Spera, nhân viên CIA liên lạc với tướng Khánh (và đã được tướng Khánh cho biết dự định đảo chính) và Lucien Conein. Al Spera bị đổi về Mỹ vì tính tình nóng nảy khó làm việc với người khác. Còn Lucien Conein thì được bộ Ngoại giao triệu về Washington để tham khảo. Conein đề nghị nên phái cho mỗi vị tướng đảo chính một cố vấn Mỹ làm việc trực tiếp dưới quyền đại sứ Mỹ. Đại sứ Lodge bác bỏ ý kiến này. Khi Peer de Silva đến Sài Gòn, tướng Khánh muốn gặp để thông báo tin tức mà ông có về vụ các tướng âm mưu trung lập hóa miền Nam nhưng Peer de Silva chần chừ chưa muốn gặp. Tướng Khánh bèn chuyển tin cho một người quen cũ là Đại tá Jasper Wilson thuộc phái bộ MACV rằng Chính phủ Pháp đang vận động trung lập miền Nam qua tướng Mai Hữu Xuân, vốn là một nhân vật tình báo của Pháp. Cùng với các nguồn tin khác, Peer de Silva báo cáo âm mưu trung lập về Washington. Ngày 29-1, tướng Khánh cho Đại tá Wilson biết thêm rằng ngoài tướng Mai Hữu Xuân, hai tướng Trần Văn Đôn và Lê Văn Kim cũng theo phe trung lập và tướng Khánh cho biết sẽ dùng vũ lực để bẻ gãy âm mưu này. Đại sứ Lodge (khi được Đại tá Wilson báo cáo) điện tin này về Washington và thông báo ngay cho tướng Harkins. Riêng Peer de Silva chỉ được thông báo sau khi CIA vặn hỏi tòa đại sứ mục đích của tướng Khánh khi gặp đại tá Wilson. Vào lúc 3 giờ 15 sáng 30-1-1964, Đại tá Wilson từ bộ chỉ huy Lữ đoàn Dù thông báo với tòa đại sứ rằng tướng Khánh cùng tướng Trần Thiện Khiêm sẽ làm đảo chính trong vòng vài giờ nữa để loại các tướng trung lập ra khỏi thành phần chính phủ, và rằng tướng Minh đã được thông báo và đồng ý. Cuộc đảo chính (gọi là chỉnh lý) đã diễn ra như dự tính (của tướng Khánh và CIA). Năm tướng trung lập Xuân, Kim, Đôn, Đính và Nguyễn Văn Vỹ bị bắt và được quản thúc tại gia ở Đà Lạt. Tướng Minh tạm thời được giữ lại ở chức vụ tổng thống. Thất vọng Sau chỉnh lý không lâu, CIA nhận ra rằng tướng Khánh không có khả năng huy động quân đội và quần chúng đoàn kết lại để ngăn chặn Cộng sản, do đó CIA chuyển nỗ lực qua việc tuyển mộ và làm quen với các sĩ quan hay nhân viên dân sự cấp dưới - những người không tuyệt đối trung thành với Khánh để chuẩn bị thế hành động về sau. Một trong những sĩ quan đó là Đại tá Không quân Nguyễn Cao Kỳ, vừa mới nhận chức Tư lệnh Không quân. CIA miêu tả Kỳ là một sĩ quan thích “bề ngoài” nhưng có khả năng lôi cuốn quần chúng. Tháng 2-1964, Kỳ nói với Russ Miller - một nhân vật CIA đang ở thăm Sài Gòn rằng các sĩ quan trẻ cần được giao các chức vụ chỉ huy xứng đáng, nếu không chế độ của tướng Khánh cũng sẽ có cùng số phận như chế độ Dương Văn Minh! Người khác là tướng Nguyễn Văn Thiệu, Tổng Tham mưu trưởng liên quân. Thiệu là người kín đáo, âm thầm bổ nhiệm các sĩ quan gốc Đại Việt vào các chức vụ quan trọng và giải thích với David Smith rằng các sĩ quan này có kinh nghiệm và khả năng phá hủy tổ chức của Cộng sản. Nhưng CIA biết rằng tướng Thiệu muốn dùng các sĩ quan Đại Việt để âm mưu lật ông Khánh. Như từng làm đối với tướng Minh, Peer de Silva thuyết trình cho tướng Khánh các chương trình của CIA về bình định và tình báo. Khánh đồng ý với chương trình bình định và ủy nhiệm Phó Thủ tướng Nguyễn Tôn Hoàn (Đại Việt) làm việc với CIA về chương trình bình định. Ông Nguyễn Tôn Hoàn có những quan hệ đặc biệt với CIA từ giữa thập niên 50. Peer de Silva cho Khánh biết CIA cũng đang làm việc với các chính trị gia đối lập không Cộng sản và khuyên tướng Khánh không nên lo ngại gì vì mục đích của CIA là nắm bắt không khí chính trị tại Sài Gòn. Cũng do yêu cầu của tướng Khánh, CIA huấn luyện toán vệ sĩ bảo vệ tướng Khánh. Theo đánh giá của CIA, tướng Khánh thông minh, năng động và có tài tổ chức, nhưng ông không làm được việc gì vì một phần do không khí chia rẽ tại Sài Gòn, một phần vì “cái tôi” của ông quá lớn. Trong bối cảnh đó, tướng Khánh - cũng như ông Diệm và ông Minh - chỉ biết trông cậy vào sự ủng hộ của người Mỹ… Câu hỏi đối với CIA là: Giúp tướng Minh, rồi giúp tướng Khánh, Mỹ có làm cho các tướng đoàn kết với nhau và có huy động được sự ủng hộ của quần chúng miền Nam trong công cuộc chống Cộng không? Câu trả lời hình như là “không”. Theo CIA, mọi nỗ lực của Mỹ đối với ông Ngô Đình Diệm trong năm 1955, cũng như sau này đối với tướng Minh, tướng Khánh chỉ có kết quả kéo dài một tình trạng không tránh được là sụp đổ. **** - Kỳ 3: “Ngôi sao” Thiệu - Kỳ xuất hiện SGGP online Thứ tư, 24/03/2010, 10:29 (GMT+7) Nguyễn Khánh, sau một thời gian lên nắm quyền, tỏ ra không mấy hiệu quả, trong khi nội bộ lại chia rẽ. CIA chán Khánh và bắt đầu cho một cuộc lật đổ… Thành lập “tam đầu chế” Tháng 6-1964, đại sứ Cabot Lodge về Mỹ tham gia cuộc vận động tranh cử tổng thống cho ứng cử viên Barry Goldwater. Tổng thống Johnson bổ nhiệm Đại tướng Maxwell Taylor thay thế. Maxwell Taylor nổi tiếng là một viên tướng tài, từng chiến đấu trong Thế chiến 2, từng là Tham mưu trưởng liên quân và cố vấn quân sự của cố Tổng thống Kennedy. Đến Sài Gòn, tướng Maxwell mở cuộc tiếp xúc với thành phần quân - dân - chính nhưng với tác phong huynh trưởng tự cao tự đại ông đã làm mất lòng các tướng lĩnh Việt Nam, buộc CIA phải làm trung gian hòa giải - một điều cần thiết nhưng đại sứ Maxwell Taylor không muốn CIA làm. Cuộc tranh cử tại Mỹ làm cho quan hệ giữa tướng Khánh và Maxwell Taylor trở nên nặng nề hơn. Vào tháng 5-1964, Khánh thuyết phục McNamara oanh tạc miền Bắc để gỡ áp lực Cộng sản đang đè nặng các tỉnh địa đầu Nam Việt Nam. Các chiến lược gia Mỹ cũng có tính toán như vậy nhưng chưa quyết định dứt khoát nên Washington khuyên tướng Khánh không nên tuyên bố gì vì Đảng Dân chủ đang tố cáo ông Barry Goldwater muốn mở rộng chiến tranh. Nhưng ngày 19-7-1964, Khánh kêu gọi “Bắc tiến”, và sau đó Kỳ nói đã đến lúc dội bom Bắc Việt. Maxwell Taylor nổi giận thì Khánh bảo đó là ý của Mỹ chứ không phải ý kiến cá nhân của ông. Số phận của tướng Minh là một nguồn bất hòa khác giữa tòa đại sứ Mỹ và Khánh. Ngoại trưởng Mỹ Dean Rusk muốn Khánh dùng uy tín của Minh và khối Phật giáo đang ủng hộ tướng Minh cho nỗ lực chiến tranh, trong khi các sĩ quan Công giáo trong quân đội muốn đẩy Minh ra khỏi chức vụ quốc trưởng dù chỉ là một chức hờ. Tháng 8-1964, do tình hình xấu đi và (có thể) do nhu cầu tranh cử…, Tổng thống Johnson ra lệnh oanh tạc các căn cứ tàu chiến nhỏ của Bắc Việt. Ngày 7-8, Quốc hội thông qua quyết nghị vịnh Bắc bộ cho phép Tổng thống Johnson rộng tay sử dụng sức mạnh quân sự. Lợi dụng tình hình, ngày 16-8, các tướng họp mặt tại Vũng Tàu (không có tướng Minh tham dự) và do đề nghị của Kỳ, biểu quyết cách chức Dương Văn Minh, cử Khánh làm Quốc trưởng, và công bố Hiến chương Vũng Tàu. Các thành phần Phật giáo và Công giáo đều xuống đường phản đối (CIA nghi có bàn tay bên trong của tướng Trần Thiện Khiêm) buộc Khánh hủy bỏ Hiến chương, thành lập “tam đầu chế” gồm Khánh – Minh - Khiêm do Khánh cầm đầu để lãnh đạo Nam Việt Nam và hứa sẽ thành lập chính phủ dân sự trong vòng 60 ngày. Tướng Nguyễn Cao Kỳ (bên trái) và Nguyễn Văn Thiệu (đứng)trong một buổi họp báo.(TL) Chia rẽ Thời gian này, trong quân đội có hai tụ điểm quyền lực chống nhau quyết liệt, một do đa số người gốc miền Bắc và một do các thành phần thuộc Đảng Đại Việt. Tướng Khánh ở trong nhóm thứ nhất ra sức đẩy các thành phần Đại Việt ra khỏi chính phủ; trong khi nhóm Đại Việt tính toán đảo chính Khánh. CIA bắt đầu chán Khánh vì quân đội chia rẽ và sự bất hòa gia tăng giữa tướng Khánh và đại sứ Maxwell Taylor. Một hôm Khánh mời Lucien Conein lên Đà Lạt để than phiền về đại sứ Taylor và yêu cầu Conein trình lại cho đại sứ Taylor. Conein bàn với Peer de Silva và Silva đồng ý nên cho đại sứ Taylor biết. Sau khi nghe Conein thuật lại, đại sứ Taylor nén giận và hỏi Conein “có hiểu tiếng Pháp không?” (Tướng Khánh và Conein dùng tiếng Pháp). Mấy hôm sau vào ngày 2-9, đại sứ Taylor nói với Peer de Silva rằng ông nghĩ Conein không có việc gì phải làm ở Sài Gòn nữa. Ngày 11-9, tướng Khánh cho Peer de Silva biết, ông có nhận được một lá thư của Thượng tọa Thích Trí Quang, lãnh tụ khối Phật giáo Ấn Quang hứa ủng hộ, nhưng Khánh nói ông không tin vào lời hứa này. Trong khi đó có nguồn tin cho CIA hay các sĩ quan Đại Việt sắp hành động chống tướng Khánh. Trong khi đó, tướng Khánh đang cùng Tướng Kỳ và Phạm Ngọc Thảo tính toán kế hoạch thanh trừng nhóm Đại Việt. Ngày 13-9, một nhóm sĩ quan Công giáo miền Nam và Đại Việt cùng Chuẩn tướng Nguyễn Văn Thiệu chuyển quân về Sài Gòn định đảo chính tướng Khánh nhưng bất thành do sự can thiệp của Tướng Kỳ - Tư lệnh Không quân. Tướng Khánh nhân cơ hội này loại trừ các sĩ quan Đại Việt ra khỏi các chức vụ quan trọng. Ỷ vào công trạng, Kỳ tuyên bố tùy tiện làm CIA rất lo âu. Mặc dù Kỳ là người chủ trương dội bom miền Bắc, đường dây của CIA báo cáo rằng Kỳ có thể bỏ trốn ra Hà Nội. Tổng hành dinh CIA ở Langley yêu cầu CIA Sài Gòn tích cực điều tra xem thật sự Kỳ đang suy tính gì. CIA Sài Gòn đánh giá Kỳ là một người tầm thường, không có tham vọng chính trị. Ông ta chỉ là người ưa nổi tiếng và cho rằng mình có vị thế tạo ra người lãnh đạo. Cũng theo CIA, ông Kỳ đôi khi hành động bốc đồng vô trách nhiệm, thiếu thông minh và không làm người khác kính nể. CIA suy tính nên cho Russ Miller (một nhân viên CIA thân thiết với Kỳ và Khánh)trở lại Sài Gòn làm việc với Kỳ. Cuối tháng 9-1964 Miller đến Sài Gòn công tác. Gặp Kỳ (lúc này tự coi mình như đại diện cho nhóm tướng trẻ) và tướng Cao Văn Viên, Tham mưu trưởng Liên quân, Kỳ xác nhận vẫn ủng hộ Khánh. Riêng Tướng Viên nhận xét với Miller rằng “cuộc chiến này chỉ có thể thắng nếu các tướng miền Nam có thêm uy tín chính trị”. Ngày 3-10, William Colby, Giám đốc Vụ Viễn Đông của Langley đến Sài Gòn tìm hiểu tình hình. Khánh than phiền CIA đã thuyên chuyển những người thân tín của ông như Spera và Conein ra khỏi Sài Gòn trước cuộc binh biến 13-9 là có hậu ý. Ông Colby giải thích rằng Spera và Conein đã “hết công tác” tại Việt Nam và hứa sẽ chuyển người thân tín khác với Khánh là Miller đến Sài Gòn. Ông Colby báo cáo về Langley rằng cần phục hồi quan hệ giữa hai chính phủ Việt Nam Cộng hòa và Mỹ vì sự bất hòa giữa đại sứ Taylor với Khánh vào cuối tháng 9-1964 quá căng thẳng và “không phải không có lý do”, ám chỉ thái độ kênh kiệu của đại sứ Maxwell Taylor cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng này. Tình hình xáo trộn nội bộ phía các tướng Việt Nam làm cho CIA thiếu cảnh giác đối với tướng Trần Thiện Khiêm. Khiêm là người liên lạc chính yếu của Miller và có một vai trò quan trọng và khó hiểu trong Chính quyền Khánh. Khiêm là Bộ trưởng Quốc phòng của Khánh nhưng người ta nghi ông này đã xúi giục cuộc biểu tình chống Khánh hồi mùa hè 1964. Tháng 8- 1964, Khiêm trở thành một trong “tam đầu chế”. Tháng 10-1964, Khánh sắp xếp thành công việc gửi Khiêm đi công tác Tây Đức. Trong buổi làm việc cuối cùng với Russ Miller, Khiêm than phiền Khánh quá nhượng bộ phe Phật giáo và vì chưa có bằng chứng gì rõ ràng cho thấy phe Phật giáo đang chủ trương trung lập và chống Mỹ nên ông ta chưa đảo chính ông Khánh. Nguyễn Khánh hết vai trò Như đã hứa về việc thành lập chính phủ dân sự, tháng 10-1964, Khánh mời ông Trần Văn Hương làm thủ tướng. Riêng Khánh vẫn giữ chức tư lệnh quân đội, đồng thời “nói ra nói vào” để làm suy giảm uy tín của Tướng Minh đối với Mỹ. Trong khi đó, Russ Miller theo sát sự chuyển biến động thái của Kỳ. Kỳ bắt đầu ý thức về các vấn đề chính trị và nói với Miller là ông ngại rằng sau cuộc bầu cử tổng thống, Mỹ sẽ không giúp Nam Việt Nam nữa. Lúc này Kỳ nghiễm nhiên là lãnh tụ của nhóm tướng trẻ và CIA đánh giá là người có quyền lực nhất tại Sài Gòn. Rạng sáng ngày 20-12-1964, Khánh gọi Miller và thông báo ông sắp công bố quyết định giải tán Hội đồng Quốc gia Tối cao (thành lập hai tháng trước để khoác một chiếc áo dân sự lên chính quyền quân nhân) vì hội đồng này không đồng ý với các tướng trẻ về việc cho các tướng già - trong đó có Dương Văn Minh – nghỉ hưu. Trước đây đại sứ Taylor đã khuyên Khánh không nên ép tướng Minh nghỉ hưu, nên Taylor hết sức bất bình. Taylor mời 4 tướng trẻ có liên quan trong nội vụ (gồm Khánh, Khiêm, Thiệu, Kỳ) đến tòa đại sứ than phiền các tướng làm hỏng nỗ lực giúp đỡ Việt Nam của Mỹ. Khánh không tới và Maxwell Taylor đích thân đến Bộ Tổng Tham mưu gặp Khánh và tuyên bố thẳng thừng rằng Khánh không còn nhận được sự ủng hộ của Mỹ nữa. Khánh nói (nếu vậy) ông sẽ từ chức và đại sứ Taylor nói ông không thấy có vấn đề gì. Nhưng mãi không thấy Khánh từ chức. Ngày 22- 12, đại sứ Taylor phái Miller xuống Vũng Tàu gặp Khánh để hỏi Khánh tính sao. Khánh nói Khánh sẽ từ chức để duy trì nỗ lực chiến tranh và yêu cầu Miller nên sắp xếp để Bộ trưởng McNamara và Giám đốc CIA McCone đến thăm Việt Nam cho biết tình hình. Khánh nói rằng ông ta hay các tướng trẻ có thể sẽ họp báo tố cáo đại sứ Taylor can thiệp vào công việc nội bộ và dọa rằng cuộc họp báo có thể đưa đến các cuộc biểu tình chống Mỹ tại Sài Gòn. Cuộc họp báo không xảy ra, nhưng các tướng trẻ bắt đầu vận động Washington thuyên chuyển đại sứ Maxwell Taylor, đồng thời cũng gây áp lực đẩy Khánh đi để duy trì sự viện trợ quân sự và kinh tế của Mỹ. Tháng 1-1965, Khánh lập chính phủ dân sự với ông Phan Huy Quát (Đảng Đại Việt) làm thủ tướng. Đa số các bộ do các chuyên viên dân sự nắm giữ, ngoại trừ tướng Thiệu giữ chức Bộ trưởng Quân lực kiêm Phó Thủ tướng sau khi được thăng Thiếu tướng, và Kỳ giữ Bộ Thanh niên - Thể thao kiêm Tư lệnh Không quân. Ngày 3-2-1965, Kỳ nói với Miller rằng các tướng trẻ không còn ủng hộ Khánh và đã đến lúc Khánh phải ra đi. Ngày 5-2-1965, khi Cố vấn An ninh Quốc gia McGeorge Bundy đến Sài Gòn chuẩn bị một đợt tăng quân thì Cộng sản cho đánh bom một căn cứ không quân Mỹ tại Pleiku làm 8 quân nhân thiệt mạng. Mỹ trả đũa bằng một đợt dội bom Bắc Việt. Hai tuần sau, ngày 19-2, một cuộc đảo chính để lật Khánh xảy ra nhưng không bắt được Khánh. Vụ đảo chính này do các sĩ quan Đại Việt và Công giáo trong đó có tướng Lâm Văn Phát (giống như thành phần chủ chốt cuộc đảo chính tháng 9-1964) tiến hành. Cuộc đảo chính bất thành vì không được các tướng trẻ ủng hộ. Ngày 21-2, Kỳ nói với Miller rằng cần để cho Khánh tự nguyện từ chức hơn là lật ông ta. **** - Kỳ 4: Xáo trộn và chia rẽ SGGP online Thứ năm, 25/03/2010, 11:07 (GMT+7) Như trong kỳ trước đã đề cập, sau cuộc đảo chính (ngày 19-2-1965) để lật đổ Nguyễn Khánh bất thành vì không được các tướng trẻ ủng hộ, Nguyễn Cao Kỳ đã nói với Miller rằng cần để cho tướng Khánh tự nguyện từ chức hơn là lật ông ta. Nhưng Khánh đã không từ chức một cách dễ dàng, tiếp tục dẫn đến một loạt xáo trộn và chia rẽ… Di sản của tướng Khánh: Một chính phủ bất lực Ngày 22-2-1965, Đại sứ Taylor họp ban tham mưu để tìm cách giải quyết bế tắc. Tướng Westmoreland (người thay tướng Harkins) tự nguyện đi Vũng Tàu thuyết phục Khánh, nhưng Đại sứ Taylor thấy cương vị của Westmoreland không đáng làm việc đó và cử Miller đi thay. Kết quả Khánh từ chức ngày 24-2-1965 và được cử đi làm đại sứ lưu vong. Đại tá Lê Văn Nhiều, Giám đốc Trung ương Tình báo của Khánh cũng xin đi lưu vong với Khánh. Tướng Trần Văn Minh nắm tư lệnh quân đội thay tướng Thiệu để Thiệu nắm chức Chủ tịch Hội đồng Quân lực thay Khánh. Chính phủ dân sự Khánh để lại hoàn toàn bất lực. Tình hình nông thôn bi đát hơn trong khi tướng Trần Văn Minh cũng không tỏ ra khá hơn gì so với mấy ông tướng khác. Trước tình trạng này, giới chức cao cấp của Mỹ có ý tổ chức liên quân Mỹ - Việt để thống nhất lãnh đạo và các đơn vị quân đội Việt Nam sẽ hành quân chung với quân đội Mỹ. Chương trình này không được thực hiện. Trả đũa vụ oanh tạc Bắc Việt sau vụ đánh căn cứ Không quân Pleiku, Cộng sản đánh bom một căn cứ Mỹ tại Quy Nhơn giết 23 lính Mỹ. Ngày 2-3-1965, Mỹ quyết định oanh tạc thường xuyên Bắc Việt trong một chiến dịch mang tên Chiến dịch Sấm Rền, và ngày 8- 3-1965, các đơn vị Thủy quân Lục chiến Mỹ đổ bộ lên Đà Nẵng. Quân đội Mỹ gia tăng quân số tại Việt Nam làm giảm gánh nặng cho quân đội Việt Nam Cộng hòa và CIA bắt đầu dùng các đường dây dân sự để thẩm định khả năng của Trần Văn Minh và Lê Nguyên Khang, Tư lệnh Thủy quân Lục chiến và 8 tướng khác. Nhân vật chính trong đường dây này là Thủ tướng Phan Huy Quát. Lúc này Việt cộng đẩy mạnh chiến dịch tấn công. Ngày 29-3-1965, một xe bom nổ cạnh Tòa đại sứ Mỹ làm thiệt mạng một thư ký và Trưởng cơ sở CIA Sài Gòn Peer de Silva bị thương. Peer de Silva được đưa về Mỹ điều trị. Phó trưởng phòng là Gordon Jorgensen thay. Jorgensen sinh ở Nhật Bản khi bố mẹ đi truyền giáo ở đó. Ông gia nhập ngành tình báo quân đội trong Thế chiến 2 và gia nhập CIA năm 1953 ở cấp bậc trung tá. Năm 1960, Jorgensen làm trưởng phòng CIA ở Lào. Sau đó trở về Langley phụ trách tổ chức các lực lượng bán quân sự trước khi được thuyên chuyển đến Việt Nam cuối năm 1963. Thời gian trước khi tướng Khánh đi lưu vong, CIA biết Khánh có tiếp xúc với Hà Nội và Mặt trận Giải phóng (MTGP). Tháng 4-1965, Lucien Conein đến gặp Khánh ở New York và hỏi Khánh về các quan hệ này. Khánh nhận có những tiếp xúc qua đại tá Lê Văn Nhiều. Khánh nói, nếu Washington định tiếp xúc với Hà Nội và xâm nhập MTGP, Khánh có thể nối lại đường dây. CIA cũng cử Al Spera gặp đại tá Nhiều tại Mỹ vào mùa hè 1965 để lấy thêm tin tức. Nhưng không thấy CIA đả động gì đến vụ này nữa. Nguyễn Văn Thiệu (trái) và Nguyễn Cao Kỳ trong một chuyến bay thị sát. (Ảnh TL) Liên danh Thiệu - Kỳ Tháng 6-1965, các tướng trẻ giải tán chính phủ dân sự và thành lập Hội đồng Lãnh đạo quốc gia do tướng Nguyễn Văn Thiệu làm chủ tịch (tương đương với tổng thống) và tướng Kỳ giữ chức chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương (tức Thủ tướng). Theo CIA, rất khó phán đoán Thiệu vì ông ta kín đáo và trong thành phần phụ tá cận kề của ông, ít có người giao tiếp với CIA. Nhận định chung của CIA, Thiệu là người thận trọng, đa nghi quá mức cần thiết. Trái lại, Kỳ rất dễ biết vì có nhiều nhân sự thân cận Kỳ có quan hệ với CIA. Theo CIA, Kỳ là một phi công giỏi, có khả năng lôi kéo người khác, nhưng không có kinh nghiệm hành chính và thích làm chuyện giật gân nguy hiểm. Kỳ thích uống rượu, đánh bạc và phụ nữ. Một nguồn tin nói rằng sau khi bị ông Diệm tạm giữ một thời gian do vụ hai phi công thuộc Không quân ném bom Dinh Độc Lập ngày 2-1-1962, ông Kỳ nói ông thích những vụ ném bom như vậy vì tính gay cấn của nó chứ không phải vì chính trị. Ông Kỳ đưa ra một chương trình chiến tranh 26 điểm, nhưng tình hình chiến tranh không thấy xoay chuyển. Lúc này Mỹ có 50.000 quân tại Việt Nam và từ tháng 5-1965, Tổng thống Johnson cho phép quân đội Mỹ đánh trực diện với quân đội Bắc Việt. Ngày 21-6, Jorgensen gặp Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ thuyết trình cho Kỳ biết chương trình tình báo và sự tiến triển của chương trình bình định. Nhân dịp này, Kỳ yêu cầu CIA thông báo kịp thời cho ông nếu có âm mưu đảo chính. Sau khi Chính phủ Phan Huy Quát sụp đổ, CIA rất lo ngại phản ứng của khối Phật giáo Ấn Quang. Mặt khác, Thượng tọa Thích Trí Quang vốn không tin ông Thiệu và ông Kỳ, nay thấy Mỹ ủng hộ Chính phủ Thiệu-Kỳ nên quan hệ giữa Phật giáo và Tòa đại sứ Mỹ trở nên lạnh nhạt. Lúc này nhiệm kỳ Đại sứ Maxwell Taylor vừa tròn 1 năm và ông ta - do căng thẳng giữa ông với các tướng lĩnh ở Sài Gòn, và sự phản đối của ông đối với chính sách dùng quân đội Mỹ tác chiến tại Việt Nam - không được Tổng thống Johnson mời ở lại. Ngày 8-7- 1965, ông từ chức đại sứ và cựu Đại sứ Henry Cabot Lodge trở lại Sài Gòn thay thế. Sự trở lại của ông Lodge không cải thiện quan hệ với khối Ấn Quang. Một bất đồng ý kiến khác: khối Ấn Quang đòi hỏi tổ chức bầu cử để hợp pháp hóa chính quyền miền Nam trong khi Đại sứ Lodge cho rằng tình hình chiến tranh không cho phép tổ chức bầu cử. Để tranh thủ ve vãn khối Ấn Quang, CIA liên lạc với thầy Trí Quang hứa giúp tài chính để Ấn Quang thực hiện chương trình đào tạo tăng ni nếu Ấn Quang không dùng số tiền này vào công việc chống chính phủ. Trao đổi qua lại đến tháng 8-1965 Ấn Quang đồng ý nhận sự trợ giúp của CIA. Sự trợ giúp này từ tháng 5 đến tháng 12-1965 tổng cộng gồm 2 triệu đồng (tương đương với thời giá 12.500 USD). Chiến dịch ném bom Bắc Việt và sự tham chiến của quân đội Mỹ giúp tình hình quân sự của miền Nam trở nên sáng sủa. Lợi dụng tình hình này, CIA đẩy mạnh chương trình bình định. Trên danh nghĩa Mỹ chỉ cố vấn các giới chức Việt Nam, nhưng trên thực tế CIA điều hành trực tiếp chương trình bình định từ cấp tỉnh trở xuống. Lính Mỹ tại miền Nam Việt Nam. Ảnh: T.L. Tấn công trong chia rẽ Tháng 3-1965, khi Trung đoàn 3 Thủy quân Lục chiến Mỹ đổ bộ lên Đà Nẵng, quân số Mỹ tại Việt Nam là 27.000 người. Ngày 6-4-1965, quân Mỹ bắt đầu tiến hành đánh quân Bắc Việt. Tháng 5-1965, Lữ đoàn dù 173 tới. Và vào tháng 6-1966, quân số Mỹ tại Việt Nam lên đến 285.000 người. Mùa hè năm 1965, trước khi Tổng thống Johnson cho đưa quân đến Việt Nam, Bộ Ngoại giao Mỹ yêu cầu CIA tìm hiểu xem có sự bất hòa nào giữa MTGP miền Nam với Hà Nội không để mở đường thương thuyết nhưng Phó Giám đốc CIA Richard Helm cho rằng đó là một ý kiến thiếu thực tế, vì thăm dò qua một nước thứ ba không thể giữ kín và sẽ làm cho Hà Nội cũng như Sài Gòn nghĩ rằng nỗ lực bảo vệ miền Nam của Mỹ đã suy mòn. Mãi một năm sau, CIA mới thực sự mở đường dò tìm. Trong khi đó, lực lượng Phật giáo tại Huế mở màn cuộc tranh đấu phản đối chính phủ Nguyễn Cao Kỳ khi Kỳ định bổ nhiệm một Hội đồng nghiên cứu Hiến pháp thay vì tổ chức bầu cử một Quốc hội Lập hiến thiết lập Hiến pháp đặt căn bản cho sự thành hình một chính phủ dân sự. Thời gian này, nội bộ quân đội VNCH chia rẽ nhau. Nhóm sĩ quan Công giáo và trung thành với cựu Tổng thống Ngô Đình Diệm chống nhóm ghét Diệm và Đại Việt, và hai nhóm này cùng chống lại nhóm sĩ quan thân Phật giáo chủ trương trung lập. Tướng tư lệnh Vùng I chiến thuật có khuynh hướng thiên phe Phật giáo chống Kỳ. Lo ngại sự bất hòa nội bộ quân đội làm tổn thất nỗ lực chiến tranh, CIA và các tướng Westmoreland, Tư lệnh quân đội Mỹ và tướng Lewis W.Walt chỉ huy Thủy quân lục chiến Mỹ tại vùng địa đầu phải đứng ra hóa giải. Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ thay tư lệnh này đến tư lệnh khác tại Vùng I vẫn không làm yên được tình hình chống đối chính quyền trung ương của Phật giáo. Ngày 19-5-1965, Thiệu và Kỳ đưa quân ra Đà Nẵng nhanh chóng chiếm các chùa và doanh trại quân sự do phe chống đối chiếm. Tuy nhiên phong trào chống chính quyền vẫn chưa bị dập tắt, và Tòa đại sứ Mỹ lo ngại dư luận quần chúng Mỹ sẽ bất lợi cho cuộc chiến tranh vì lúc này quân đội Mỹ đang hành quân. Tại Huế, cuộc tranh đấu có màu sắc chống Mỹ. Các phật tử biểu tình trước Tòa lãnh sự Mỹ và đốt phòng thông tin Mỹ. Đại sứ Lodge hốt hoảng trước biến chuyển này và ông đánh điện báo cáo cho Tổng thống Johnson rằng có những dấu hiệu “hiển nhiên” cho thấy Cộng sản đã xâm nhập Phật giáo. Trong hồi ký của Peer de Silva, ông ta cũng dùng những danh từ nặng nề kết án Thượng tọa Trí Quang và William Colby cũng vậy. Tuy nhiên theo CIA, về mặt tình báo không có thông tin nào vững chắc chứng tỏ rằng phong trào tranh đấu của Phật giáo do Cộng sản chủ mưu. Cuối tháng 6-1965, Kỳ dẹp tan nhóm quân nhân chống đối ở miền Trung và ổn định tình hình. CIA cũng chấm dứt chương trình trợ cấp cho thầy Trí Quang. **** - Kỳ 5: Mỹ tìm đường rút lui SGGP online Thứ sáu, 26/03/2010, 10:09 (GMT+7) Giữa năm 1966, khi Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ tổ chức bầu cử quốc hội lập hiến, CIA lại liên hệ với các ông tướng trong việc hỗ trợ vận động. Qua yêu cầu của Tướng Nguyễn Ngọc Loan - Giám đốc Cảnh sát quốc gia và An ninh quân đội, với sự đồng ý của Đại sứ Lodge, ngày 25-8, CIA cấp cho Loan 10 triệu đồng (tương đương 85.000 USD) để bù vào ngân khoản của cảnh sát mà Loan đã dùng để hỗ trợ cuộc vận động tranh cử của các ứng cử viên thân Kỳ. Sau đó, John Hart đến Sài Gòn thay cho Gordon Jorgensen làm Trưởng cơ sở CIA Sài Gòn. Vai trò của Nguyễn Ngọc Loan John Hart muốn làm việc chặt chẽ hơn với các ông tướng và giữa tháng 11-1966 đã yêu cầu Langley cấp 14 triệu đồng cho Nguyễn Ngọc Loan để củng cố vị trí của Kỳ. Loan nói Kỳ cần số tiền này để tránh sự chỉ trích của các tướng trong Hội đồng lãnh đạo quốc gia rằng Kỳ đã dùng quỹ đen của văn phòng thủ tướng cho mục tiêu chính trị, và sự chỉ trích này đang đe dọa vị trí của Kỳ. Langley không chấp thuận đề nghị của John Hart vì nghi ngờ Loan và đề nghị thay thế Loan. Số tiền 10 triệu đồng đã giúp Loan chỉ làm cho Kỳ bớt lúng túng (trước sự nhòm ngó của Hội đồng Lãnh đạo) nhưng đã không giúp ích gì vào kết quả cuộc bầu cử. Hai ứng cử viên thân Kỳ tại Đà Nẵng đều thất cử. Tướng Nguyễn Ngọc Loan là một sĩ quan quyền biến và tuyệt đối trung thành với Kỳ nhưng Loan có tính độc lập và đôi khi có tác phong rất “hề” như đi làm mặc đồ ra trận, chân đi dép cao su và không bao giờ đúng hẹn. Đặc biệt là coi thường quyền cá nhân của người khác và xem thường các chương trình của chính phủ để thu phục lòng dân. Khi Langley tính thay thế Loan, CIA và tòa đại sứ Mỹ đứng trước một vấn đề nan giải là ai có khả năng thay Loan. Hart nói rằng nếu Mỹ muốn ủng hộ Kỳ thì không thể thay thế Loan. Loan đã chứng tỏ rất hữu ích trong hai nỗ lực của CIA năm 1967 là: Phát triển một đường dây tiếp xúc với thành phần Mặt trận giải phóng (MTGP) có khả năng độc lập với Hà Nội và duy trì sự ổn định của chính phủ Kỳ. Mỹ có ý tìm một giải pháp chính trị cho cuộc chiến Việt Nam từ mùa xuân năm 1966 khi John Hart đến Sài Gòn thay thế Peer de Silva. Hart cho mở một phòng (gọi là VietCong Branch) chuyên lo việc tìm đường dây tiếp xúc với MTGP không qua các thông tin từ phía Việt Nam Cộng hòa. Đến cuối năm 1966, văn phòng này đã mở được vài đường dây. Tại Washington, từ đầu năm 1966, Bộ trưởng Quốc phòng McNamara đã nghĩ đến việc cuộc chiến không thể thắng bằng quân sự và Tổng thống Johnson đã có khuynh hướng tìm một giải pháp chính trị khi bổ nhiệm Đại sứ W.Arerell Harriman làm đại sứ hòa bình. Ngày 1-4-1967, Quốc hội Lập hiến thông qua bản hiến pháp và dự trù bầu tổng thống vào mùa thu. Ngày 1-5-1967, Đại sứ Ellworth Bunker đến Sài Gòn thay Lodge. Ông Bunker tích cực can thiệp vào cuộc bầu cử mà CIA đã chuẩn bị sân chơi từ tháng 2-1967 khi yêu cầu Kỳ thành lập một mặt trận đoàn kết quốc gia để chuẩn bị ra ứng cử tổng thống. Tướng Westmoreland và Đại sứ Bunker có ý ủng hộ Thiệu. Trong khi đó, Washington muốn Mỹ giữ thái độ trung lập giữa Thiệu và Kỳ. Tháng 3-1967, một nhà xuất bản Mỹ đề nghị xuất bản một cuốn sách cho Kỳ. CIA muốn nhân dịp này yêu cầu Kỳ công khai xác định lập trường hợp tác với Mỹ, đồng thời (để tăng uy tín của Kỳ) đề nghị Kỳ tuyên bố tặng tiền bán sách cho các cơ sở từ thiện. Dự tính này bị rơi vào quên lãng. Ngày 12-5, Kỳ tuyên bố ra ứng cử tổng thống. Tháng 5-1967 Loan đi Mỹ và công khai nói rằng tại sao Kỳ không thể dùng bộ máy chính quyền trong tay để vận động tranh cử. Phó Giám đốc CIA Richard Helm và Giám đốc Cục Viễn Đông của CIA William Colby lạnh nhạt trước ý kiến này và lưu ý Loan nên để tâm đến việc tiếp xúc với MTGP miền Nam Việt Nam. Loan không phản đối và đề nghị CIA cứ làm việc đó với đường dây riêng của mình. Việc Loan muốn dùng uy thế chính phủ để vận động cho Kỳ, trong khi tòa đại sứ Mỹ muốn giữ thế trung lập giữa Thiệu và Kỳ buộc Đại sứ Bunker tìm cách vận động cách chức Loan. Nhưng Bộ Ngoại giao Mỹ chỉ muốn dùng Kỳ bảo Loan không nên làm quá trớn. Miller gặp Kỳ ngày 21-6 để gây áp lực. Kỳ hứa sẽ nói với Loan và sẽ chuyển chức vụ Giám đốc An ninh quân đội (của Loan) cho người khác. Trước đó, Miller đã dùng hai đàn em thân tín của Kỳ (làm việc cho CIA) đề nghị Kỳ nên triệu tập các tỉnh trưởng và quận trưởng toàn quốc về họp và chỉ thị không được dùng uy thế chính quyền để ủng hộ Kỳ. Việc này nhằm chứng tỏ Kỳ không lạm dụng quyền lực. Trong buổi gặp này, Kỳ nói với Miller rằng Kỳ có sáng kiến sẽ triệu tập các tỉnh, quận trưởng cũng với mục đích như vậy. Miller biết “sáng kiến” này đến từ đâu! Đại sứ Bunker hài lòng với cách thức gián tiếp “thuyết phục Kỳ” như vậy để thực hiện bề ngoài trung lập theo chỉ thị của Bộ Ngoại giao. Nội các Thiệu - Kỳ ra mắt. Thiệu - Kỳ đắc cử Nhưng một chuyển biến bất ngờ xảy ra. Hội đồng Tướng lĩnh Sài Gòn ngày 30-8-1967 tuyên bố đã ép Kỳ đứng phó cho liên danh Thiệu - Kỳ để tránh chia rẽ trong quân đội. Kỳ giải thích quyết định này một cách riêng tư rằng ông làm vậy vì “quyền lợi quốc gia” và ông Thiệu đồng ý sau khi đắc cử, mọi quyền hành đều giao cho Kỳ (như Kỳ là tổng thống) và Thiệu chỉ là tổng thống bù nhìn. Ngoài liên danh Thiệu - Kỳ còn có nhiều liên danh dân sự trong đó có liên danh của ông Trần Văn Hương là nổi bật nhất. Mỹ không muốn thấy một tổng thống dân sự nhưng vẫn tỏ ra trung lập giữa hai ứng cử viên Thiệu và Hương. Ngày 21-6, Kỳ gặp Miller và đề nghị cử Nguyễn Xuân Phong, một nhân vật thân CIA và là một viên chức trong bộ máy tranh cử của liên danh Thiệu - Kỳ làm trung gian giữa liên danh Thiệu - Kỳ với CIA. Phong có nhiệm vụ thông báo cho Miller mọi kế hoạch tranh cử của liên danh và nhận đề nghị của Miller. Ngày 20-7, Phong báo cáo với Miller rằng Thiệu sẵn sàng đóng vai trò phụ sau khi đắc cử như Kỳ đã nói trước đây. Qua Phong, trong tháng 7-1967, Kỳ nhận của Mỹ 5 triệu đồng để tổ chức một mặt trận tôn giáo và chính trị ủng hộ liên danh quân nhân. Dù hỗ trợ như vậy, CIA vẫn lo ngại liên danh Thiệu - Kỳ có thể thất cử nên đồng ý với đề nghị của Phong để cho Loan dùng cảnh sát công an “vận động” phiếu cho Thiệu - Kỳ trong những vùng Thiệu - Kỳ có khả năng không có phiếu. Ngày 26-7, Miller chuyển cho Phong một cương lĩnh vận động tranh cử (sau khi Đại sứ Bunker đã duyệt) gồm hứa tăng lương cho quân nhân và công chức, chống tham nhũng và phát triển đời sống vùng nông thôn. Kỳ đồng ý và hình như không thông báo gì cho Thiệu. Kỳ yêu cầu Mỹ hỗ trợ thêm tiền và dọa rằng nếu Mỹ không giúp, Kỳ phải dùng Loan “mượn tiền” một số người. Dù vậy, Mỹ vẫn không giúp thêm và vài ngày sau Phong cho Miller biết Kỳ đã giải tỏa 8 triệu đồng cho bộ máy tranh cử trong vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tiền đâu ra? CIA thắc mắc thì Phong cho biết tiền do Loan xoay. Đại sứ Bunker còn một đề nghị sau cùng là Kỳ từ chức thủ tướng 2 tuần trước ngày bầu cử nhưng Kỳ thẳng thừng gạt bỏ ý kiến của Bunker. Giữa tháng 8-1967, liên danh Trần Văn Hương yêu cầu Mỹ hỗ trợ tài chính tranh cử. Đã giúp liên danh Thiệu - Kỳ, Đại sứ Bunker muốn giúp Hương để giữ thế trung lập nhưng Washington không thuận. Một điều đáng ghi nhận là trong cuộc tranh cử, Thiệu âm thầm để Kỳ và Loan tự do làm việc với tòa đại sứ Mỹ qua trung gian Nguyễn Xuân Phong. Ngày 3-9-1967, Thiệu - Kỳ thắng cử với 35% số phiếu bầu, một kết quả quá khiêm nhường so với ưu thế của liên danh quân đội. CIA cho rằng có lẽ nhân viên các cấp bỏ tiền vận động vào túi thay vì dùng để vận động. Sau cuộc bầu cử, người ta thấy Thiệu không im lặng như trước bầu cử và không đóng vai trò phụ cho Kỳ như mọi người tưởng. Mỹ lo ngại sự thể này có thể làm Kỳ từ chức Phó Tổng thống hay tệ hơn là công khai cạnh tranh với Thiệu gây tổn hại đến tinh thần quân đội và nỗ lực chiến tranh. Đụng chạm đầu tiên: Đài truyền hình NBC muốn phỏng vấn Thiệu và Kỳ trong chương trình “Meet The Press”. Thiệu nói với NBC chỉ cần phỏng vấn tổng thống là đủ. Kỳ nổi giận và Miller phải tìm cách khuyên Kỳ kiềm chế. Trong khi đó, Hart lo việc vận động Quốc hội Lập hiến hợp thức hóa kết quả bầu cử và dọn đường làm việc với Thiệu. Mười ngày sau Miller gặp Thiệu và Thiệu đồng ý nhận Miller làm trung gian giữa phủ tổng thống với tòa đại sứ. Ngày 2-10, Quốc hội Lập hiến hợp thức hóa sự đắc cử của liên danh Thiệu - Kỳ và ngày 31-10, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ tuyên thệ nhậm chức. CIA cũng bắt đầu bận rộn chuẩn bị cuộc bầu cử quốc hội dự trù tổ chức vào tháng 12-1967. Bộ Ngoại giao Mỹ đồng ý chi 3.000 USD cho mỗi đối tượng dân biểu thân Mỹ (Bunker chỉ đề nghị 1.500 USD). **** - Kỳ 6: Nỗ lực chính trị hóa cuộc chiến Việt Nam SGGP online Thứ bảy, 27/03/2010, 09:49 (GMT+7) CIA thừa nhận: Sự thể tình báo Mỹ không nắm được tin tức chính xác trước cuộc tấn công (Tết Mậu Thân 1968) rộng lớn như vậy làm cho CIA rất lúng túng. Cuộc tổng tấn công tuy không lật đổ được chính phủ Việt Nam Cộng hòa (VNCH) nhưng đã làm trì trệ chương trình bình định nông thôn, khiến Mỹ phải nỗ lực thực hiện con đường chính trị hóa cuộc chiến Việt Nam. Phóng viên ngoại trên đường phố Sài Gòn. – TT VNCH Nguyễn Văn Thiệu & TT Mỹ Johnson. Ảnh: T.L. Cú sốc Mậu Thân Tháng 12-1967 tình báo Mỹ đoán biết Cộng sản sắp mở một cuộc tấn công. Và cuộc tấn công đã diễn ra tại Sài Gòn ngày 31-1-1968 vào lúc ngừng bắn nhân dịp Tết Mậu Thân. Dù không lật đổ được chính phủ VNCH như dự tính nhưng đã làm trì trệ chương trình bình định nông thôn. Tướng Westmoreland xin thêm quân số mặc dù lúc đó Mỹ đã có 495.000 binh sĩ tại Việt Nam. Sự thể tình báo Mỹ không nắm được tin tức chính xác trước một cuộc tấn công rộng lớn toàn quốc như vậy làm cho CIA rất lúng túng. CIA chỉ biết một vài tin tức và không đủ để có được một bức tranh tổng quát. Theo nguồn tin tình báo từ tỉnh Long An, CIA biết Cộng sản định dùng cuộc tấn công để gây áp lực buộc Sài Gòn phải thành lập chính phủ liên hiệp với sự tham dự của Mặt trận Giải phóng dân tộc miền Nam Việt Nam (MTGP). Theo tin tức từ Nha Trang, CIA biết Cộng sản dự tính chiếm Pleiku và Kon Tum. Hai ngày trước cuộc tấn công, CIA biết thêm tin Cộng sản cho thành lập 6 phân khu quanh Sài Gòn nhưng không đoán ra đó là sự chuẩn bị của Cộng sản để đánh vào Sài Gòn. Trước các tin tình báo này, Westmoreland cho chuyển một số tiểu đoàn quân Mỹ về Sài Gòn và ra lệnh quân đội đặt trong tình trạng báo động. Ngày 29-1 tình báo VNCH biết rõ rằng Cộng sản sẽ tấn công vào dịp tết nhưng đã quá trễ để ban hành thêm những biện pháp đối phó. Một số quân nhân đã đi nghỉ phép nhân dịp ngừng bắn. Và Hà Nội đã có lợi thế “bất ngờ chiến thuật”. Khi quân đội VNCH và quân đội Mỹ đã chặn đứng được cuộc tấn công của Cộng sản, George Carver thuộc trung ương CIA phụ trách Việt Nam và ban tham mưu của ông bắt đầu bắt tay vào việc phân tích sự mạnh yếu quân sự và chính trị của Hà Nội và VNCH qua cuộc tấn công và phản công. Sau khi đúc kết, George Carver đưa ra một kế hoạch chấn chỉnh rộng lớn mang tên “Operation shock”. CIA nhận định rằng quân đội VNCH thắng về mặt quân sự vì đã gây tổn thất lớn cho quân đội Cộng sản và tiêu diệt được hạ tầng. Nhưng việc Cộng sản có thể giữ kín chi tiết một cuộc tấn công như vậy cho thấy VNCH chưa tranh thủ được sự ủng hộ của quần chúng nông thôn. Và trận tấn công Tết Mậu Thân đã tạo một cú sốc lớn đối với chính quyền, báo chí và dư luận Mỹ. Phúc trình của George Carver kết luận rằng tâm lý của tướng lĩnh Việt Nam là ỷ lại vào Mỹ nên VNCH không có chương trình vận động và tranh thủ quần chúng nên các tướng chỉ đánh cầm chừng. CIA nhận định cần thay đổi tức khắc tâm lý nguy hiểm này và cần chọn người có khả năng để giao trách nhiệm. Mỹ đề nghị Tổng thống Thiệu giao các Bộ Quốc phòng, Nội vụ và Phát triển nông thôn cho tướng Nguyễn Đức Thắng và giao cho Kỳ thực hiện một chương trình thanh lọc sĩ quan và công chức cấp cao tham nhũng và bất tài. Mỹ dự tính yêu cầu Thiệu hoàn tất chương trình trong 100 ngày với sự giúp đỡ vật chất của Mỹ ngoài các chương trình viện trợ hiện hữu. Mỹ tính rằng sau 100 ngày nếu Thiệu không làm được thì Mỹ sẽ gây áp lực buộc Thiệu từ chức để thay thế bằng một nhân vật có khả năng, có thể oanh tạc Bắc Việt và mở đường thương thuyết với Hà Nội để chuẩn bị rút quân, và coi MTGP là một thực thể chính trị để tiến đến sự thành lập một chính phủ liên hiệp. Phó Giám đốc CIA Richard Helm gửi bản phúc trình đến các cơ sở có trách nhiệm hoạch định chính sách về Việt Nam nhưng không thấy cơ sở nào chính thức trả lời. Ngoại trừ những nhân vật “bồ câu” như trợ lý Ngoại trưởng Nicolas Katzenback và Thứ trưởng Quốc phòng Paul Nitze khen bản phúc trình, trong khi những nhân vật “diều hâu” như Walt Rostow ở Bộ Ngoại giao và tướng Earl Wheeler, Tham mưu trưởng Liên quân thì phê phán, cho rằng thiếu thực tế. Bản phúc trình của George Carver rơi vào quên lãng. Tuy nhiên bản điều tra nghiên cứu này của trung ương CIA thể hiện sự thấu triệt và dứt khoát nhất của Mỹ đối với cuộc chiến Việt Nam sau trận Mậu Thân. Nó ảnh hưởng lớn đến quyết định của Tổng thống Johnson ngày 31-3-1968 khi ông tuyên bố ngừng ném bom một phần Bắc Việt, đề nghị với Hà Nội mở cuộc thương thuyết và không ra ứng cử tổng thống nhiệm kỳ 1968-1972 nữa. Nhược điểm trầm kha của miền Nam là không có nhân sự đủ khả năng để giúp người lãnh đạo. Người có chút uy tín lúc đó là Thượng nghị sĩ Trần Văn Đôn, cựu tướng lĩnh, có khả năng thu hút và còn được dân chúng mến chuộng. Đặng Đức Khôi, một người thân tín của Kỳ và có nhiều quan hệ với CIA đã giúp Đôn thành lập Mặt trận Cứu nguy dân tộc ra mắt ngày 18- 2-1968 với sự hỗ trợ tiền bạc của CIA. Khôi, dù trung thành với Kỳ cũng nghĩ rằng việc kèn cựa giữa Thiệu và Kỳ cần chấm dứt và Mỹ hy vọng Mặt trận Cứu nguy sẽ làm việc với Thiệu. Nhưng Tổng thống Thiệu không có ảo vọng Mặt trận Cứu nguy (vốn do người của Kỳ kiểm soát) sẽ ủng hộ mình nên ông xúc tiến thành lập một phong trào quần chúng khác lấy tên là Lực lượng Tự do Dân chủ ra mắt tại Sài Gòn vào tháng 3-1968. Trong bối cảnh chính trị chia rẽ này, theo CIA, thật không phù hợp với quyết định của Mỹ xuống thang chiến tranh và bỏ ý định đánh bại Hà Nội bằng quân sự qua tuyên bố của Tổng thống Johnson ngày 31-3. Bắt đầu chính trị hóa cuộc chiến Việt Nam Nhân vật mới cầm đầu cơ sở CIA Sài Gòn là Ralp Katrosh sang thay thế Russ Miller (Miller đã tạm thay John Hart trước đó). Katrosh làm việc như con thoi với cả Thiệu và Kỳ nên Thiệu và Kỳ đều tưởng rằng CIA chỉ ủng hộ mình. Trong khi đó, Mặt trận Cứu nguy của Kỳ và Lực lượng Tự do Dân chủ của Thiệu đều thất bại trong việc đoàn kết quần chúng hậu thuẫn cho chính phủ. Qua Katrosh, Bunker thuyết phục Thiệu và Kỳ lập một liên minh chung do hai người cùng yểm trợ gồm mọi đảng phái. Liên minh ra mắt ngày 4-7-1968 với sự đồng hiện diện của Thiệu và Kỳ (do áp lực của Tòa Đại sứ) và gồm mặt trận của Kỳ, lực lượng của Thiệu, Nghiệp đoàn Công nông của Trần Quốc Bửu và 25 nhóm chính trị nhỏ khác. Thiệu không có thiện cảm và cũng không có thì giờ dành cho liên minh nhưng ông tham gia chỉ vì áp lực của Mỹ. Tổng thống Thiệu thường nói bóng gió với Katrosh (để Katrosh báo cáo lại cho Đại sứ Bunker) rằng trò chơi mặt trận quần chúng kiểu phương Tây không có hiệu quả tại Việt Nam, nơi mà trong chiến tranh tại nông thôn, quân sự là chính. Để làm việc với Thiệu và Kỳ, Katrosh dùng Nguyễn Xuân Phong và Tướng Khiêm (do Tổng thống Thiệu đưa về từ Washington và đang giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ). Tháng 5-1968 Đại tá Trần Văn Hai thay tướng Loan sau khi Loan bị thương khi đánh nhau với Cộng sản tại Chợ Lớn trong cuộc tấn công Mậu Thân đợt 2. Đại tá Hai cũng là một nhân vật cận kề với CIA. Tháng 6-1968, Thiệu hoàn tất chương trình cô lập Kỳ. Các nhân vật thân cận Kỳ và đa số làm việc với CIA đều bị gạt ra khỏi các chức vụ then chốt và CIA lúng túng vì thiếu người trung thành hợp tác làm việc. Thành phần CIA đã móc nối còn làm việc cạnh ông Thiệu đều là người không đáng tin, trong đó có một nhân vật làm việc gần gũi và có ảnh hưởng giới hạn nào đó đối với quan điểm của Thiệu về mặt nỗ lực vận động quần chúng. CIA không biết sự việc này do Cộng sản giật giây hay chỉ vì quyền lợi cá nhân và hiểu biết giới hạn. Thiệu biết nhân vật này làm việc với CIA và đôi khi dùng sự quan hệ giữa y với Russ Miller (và sau này với Katrosh) để gián tiếp chuyển quan điểm của mình đến Đại sứ Bunker. Trong tháng 9 và tháng 10-1968, trước áp lực của Mỹ yêu cầu Thiệu đồng ý với đường lối thương thuyết của Mỹ tại Paris, Thiệu hai lần báo động có đảo chính, nhằm gián tiếp cho Mỹ biết Kỳ muốn đảo chính. Để trấn an, CIA báo cho các đàn em của Kỳ biết Mỹ không chấp thuận bất cứ âm mưu nào chống Thiệu. Do nhu cầu bầu cử tổng thống Mỹ vào ngày 5-11- 1968 nên ngày 31-10-1968, Tổng thống Johnson ra lệnh ngừng oanh tạc trên toàn Bắc Việt và trước đó Tổng thống Johnson gửi một tối hậu thư cho Tổng thống Thiệu cho biết Mỹ sẽ đẩy mạnh cuộc thương thuyết với Hà Nội dù Thiệu có đồng ý hay không. Đáp lại, ngày 2-11, Tổng thống Thiệu đọc diễn văn phản đối Mỹ, cho rằng việc ngưng ném bom và tiến hành thương thuyết với Hà Nội với mọi giá là chủ bại. Ngày 5-11, Richard Nixon đánh bại ứng cử viên đảng Dân chủ Hubert Humphrey và đắc cử tổng thống. Đảng Dân chủ và dư luận cho rằng thái độ chống thương thuyết của Thiệu đã giúp Nixon đắc cử. Ngày 19-11, Katrosh giúp Liên minh Thiệu – Đôn 4 triệu đồng và cho Thiệu biết tổng thống mới đắc cử Nixon vẫn ủng hộ Thiệu. Nixon duy trì Đại sứ Bunker tại Sài Gòn và thay trưởng cơ sở CIA Lapham bởi Ted Shackley. Nhiệm vụ của Shackley là chuẩn bị cuộc đấu tranh chính trị khi hòa đàm Paris có kết quả. Lúc này Tổng thống Thiệu dùng Tướng Đặng Văn Quang và Hoàng Đức Nhã để liên lạc với CIA và quan hệ Mỹ - Việt (chính quyền Sài Gòn)trở nên ấm áp dần. Tháng 1-1969, Thiệu đuổi khéo Kỳ khỏi Sài Gòn bằng cách cử Kỳ sang Paris quan sát cuộc thương thuyết. Tại đây Russ Miller, bạn thân của Kỳ bay từ Mỹ sang để hy vọng nhờ Kỳ đẩy nhanh cuộc hòa đàm. Ngày 7-2-1969 sau khi gặp Kỳ, Miller báo cáo với Cyrus Vance, Trưởng đoàn thương thuyết Mỹ rằng Kỳ chấp nhận đường lối thương thuyết với Hà Nội và MTGP một cách dễ dàng, khác hẳn với quan điểm cứng rắn của Tổng thống Thiệu. Con đường chính trị hóa cuộc chiến Việt Nam bắt đầu. **** - Kỳ 7: Phản chiến lan rộng, Mỹ bối rối SGGP online Thứ hai, 29/03/2010, 09:11 (GMT+7) Vụ quân nhân Mỹ bắn chết thường dân ở Mỹ Lai vừa bị phanh phui thì giữa năm 1969, CIA dính líu vào một vụ tai tiếng vì bị nghi ngờ có nhúng tay vào vụ thủ tiêu một điệp viên Cộng sản tại Nha Trang, đã làm dấy lên phong trào phản chiến... Phản chiến tăng cao, Mỹ bỏ rơi liên minh Giữa năm 1969, một đơn vị lực lượng đặc biệt Mỹ nghi một thanh niên Việt Nam làm việc cho lực lượng là tay trong của Cộng sản, nhưng không muốn giao cho cơ quan an ninh Việt Nam Cộng hòa (VNCH) xử lý vì sợ lộ bí mật tình báo nên ngỏ ý nhờ CIA xử lý giúp. CIA không nhận nhưng không trả lời rõ ràng nên lực lượng đặc biệt tự xử lý bằng cách đem đương sự ra bắn rồi thả trôi ngoài biển Nha Trang. Shackley báo cáo nội vụ lên Đại sứ Bunker và tướng Abrams và vụ giết người trái phép bị báo chí phanh phui càng làm gia tăng phong trào chống chiến tranh tại Mỹ. Hai sự việc khác là vụ dân biểu Trần Ngọc Châu và Huỳnh Văn Trọng cũng làm cho quan hệ giữa Tổng thống Thiệu với tòa Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn giữa năm 1969 trở nên căng thẳng, giữa lúc chương trình bình định và phát triển nông thôn đang tiến hành khả quan. Trần Ngọc Châu là nhân vật từng làm việc với CIA. Châu là người vạch ra chương trình bình định nông thôn sau khi ông Diệm bị lật đổ tại tỉnh Kiến Hòa nơi ông làm tỉnh trưởng. Ông Châu lập chương trình cho phép dân khiếu kiện chính quyền để qua đó tiếp cận lấy tin tức tình báo về nhân sự và cơ sở của Cộng sản. Châu còn giúp CIA thí nghiệm một chương trình săn lùng các đảng viên lãnh đạo của Cộng sản trong tỉnh Kiến Hòa. Cuối năm 1965, CIA xin Châu về chỉ huy một trung tâm huấn luyện tại Vũng Tàu. Nhưng “cái tôi” của Châu quá lớn làm mất lòng các giới chức cao cấp VNCH khác nên vào năm 1967, Châu bỏ công tác bình định, ra ứng cử dân biểu Hạ viện. Sau đó, Châu đắc cử và giải ngũ. Tại Quốc hội, Châu chủ trương tiếp xúc với các thành phần không Cộng sản trong Mặt trận Giải phóng miền Nam (MTGP) và đầu năm 1969, Châu yêu cầu CIA giúp tạo thanh thế để Châu có thể thực hiện kế hoạch của mình. CIA không nhiệt tình đáp ứng yêu cầu của Châu. Tại Quốc hội, Châu chứng tỏ với mọi người là được Mỹ ủng hộ. Đến giữa năm 1969, ông Thiệu không chịu nổi cuộc vận động chính trị của Châu và quyết định truy tố Châu về tội tiếp xúc với Cộng sản. Trước khi ra tay, Thiệu kiểm chứng với CIA và Shackley nói CIA thấy không trở ngại gì nếu mọi sự tiến hành theo luật pháp. Bộ Ngoại giao Mỹ chỉ hơi e ngại việc truy tố một dân biểu có thể tạo dư luận bất lợi tại Mỹ nên yêu cầu Bunker khuyên Thiệu thận trọng. Thiệu thông qua Hạ viện áp dụng quy định bỏ phiếu tước quyền miễn truy tố của Châu và đưa Châu ra tòa án quân sự xử 20 năm tù vào đầu năm 1970. Dù Shackley xác nhận Châu không liên hệ gì với CIA nhưng Thiệu vẫn nghi Châu là người của CIA vì sau khi Châu bị truy tố, John Paul Vann, một cố vấn cao cấp Mỹ và Chính phủ Mỹ đã mạnh mẽ can thiệp cho Châu. Ngày 3-11-1969, qua một diễn văn, Nixon xác định chính sách Mỹ cam kết bảo vệ miền Nam Việt Nam. Ba tuần sau George Carver đến Sài Gòn. Tổng thống Thiệu nghĩ sự yểm trợ của Mỹ cần hơn là liên minh này, lực lượng nọ. Vận động quần chúng là ưu tiên thứ tư của Thiệu, sau các ưu tiên quân sự, bình định và kinh tế. Ngày 4-12-1969, tòa Đại sứ và CIA đi đến nhận định đã đến lúc bỏ rơi các lực lượng và liên minh, ủng hộ khối Liên đoàn Công nông của ông Trần Quốc Bửu và khối quần chúng theo Phật giáo Ấn Quang. Vào tháng 3-1970, Washington chi 225.000 USD giúp Thiệu vận động các đối tượng trên. Shackley sang thay Katrosh và dùng phương pháp gián tiếp để tiếp cận với Thiệu qua trung gian các nhân vật quanh Thiệu thân với CIA. Áp lực của CIA qua khối nhân sự này (trong đó có Khiêm) đến độ làm Khiêm nghi ngờ thiện chí của Mỹ. Khiêm nghi có bàn tay của CIA trong các cuộc biểu tình của thương binh và sinh viên chống Thiệu để thành lập một chính phủ liên hiệp tại Sài Gòn giúp Mỹ có điều kiện kết thúc chiến tranh. Để có thời gian cho Mỹ rút quân, cuối tháng 4- 1970, Nixon ra lệnh quân đội Mỹ đánh sang Campuchia để phá hủy cơ sở hậu cần của Cộng sản và truy bắt các cấp lãnh đạo của Cục R (Trung ương Cục miền Nam) và tháng 5-1970 tái oanh tạc Bắc Việt. Cuộc tấn công vào Campuchia sinh ra nhiều cuộc biểu tình tại Mỹ và trong một cuộc xô xát, lực lượng an ninh bang Kansas đã bắn chết 6 sinh viên thuộc Đại học Kent State University và Jackson State College làm cho không khí chính trị tại Mỹ vô cùng căng thẳng. Tháng 6-1970, Mỹ rút quân ra khỏi Campuchia và Nixon ra lệnh rút thêm quân tại Nam Việt Nam. Cuộc tấn công của Mỹ vào Campuchia làm cho tinh thần quân đội VNCH lên cao. Nixon muốn nhân cơ hội dùng Khiêm thúc bách Thiệu thi hành chương trình chống tham nhũng, giảm bớt sự lạm dụng quyền hành của các giới chức chính quyền và tôn trọng Tòa án tối cao. Đẩy mạnh “Việt Nam hóa chiến tranh” Tình hình biểu tình trên đường phố Sài Gòn trong giai đoạn này giống như những cuộc biểu tình trước khi ông Diệm bị lật đổ và CIA muốn dùng cuộc bầu cử bán phần Thượng viện (năm 1970) để đưa các đảng phái chính trị, Công giáo, Phật giáo vào sinh hoạt chính trị. Một liên danh Phật giáo của luật sư Vũ Văn Mẫu đắc cử làm cho phong trào chống đối của Phật giáo Ấn Quang lắng xuống. Sau cuộc bầu cử bán phần Thượng viện, CIA bắt tay vào chương trình chuẩn bị cuộc bầu cử Hạ viện và cuộc bầu cử tổng thống năm sau. Mỹ muốn Tổng thống Thiệu tái đắc cử nhưng Mỹ cần có một cuộc tranh cử với hai ba ứng cử viên để bảo đảm uy tín chính trị của Thiệu. Lúc này, chưa biết Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ có ra tranh cử không, do đó Mỹ vận động tướng Dương Văn Minh ra tranh cử, mặc dù Đại sứ Bunker đánh giá khả năng của Minh thấp và cho rằng Minh tính tình bất nhất. Biểu tình phản đối chiến tranh Việt Nam tại Mỹ. Ảnh: T.L. Đối với Hạ viện lúc này CIA đã có trong tay 10 dân biểu “thân hữu” nhưng Mỹ muốn qua cuộc bầu cử có thêm 10 dân biểu nữa để nắm chắc sự thông qua các bộ luật cần thiết sau này. Mỹ cũng có kế hoạch hỗ trợ tài chính cho các ứng cử viên Hạ viện thân với Thiệu, dự trù tổng chi phí 252.000 USD. Chương trình chính của CIA là kiếm thật nhiều phiếu cho Thiệu. Qua tướng Quang, CIA thúc Tổng thống Thiệu tranh thủ khối Công giáo, người Việt gốc Hoa và khối người Thượng. Tại Paris, cuộc đàm phán không có tiến triển, trong khi tại Việt Nam, Mỹ tiếp tục đẩy mạnh chương trình Việt Nam hóa chiến tranh và giảm quân. Tháng 2-1971, để thử nghiệm hiệu quả của chương trình Việt Nam hóa, Mỹ và VNCH đánh qua biên giới Lào với chiến dịch Lam Sơn 719. Cuộc hành quân hoàn toàn do quân đội VNCH đảm trách, Mỹ chỉ yểm trợ không lực. Quân đội VNCH bị tổn thất nặng trong chiến dịch này nhưng tinh thần chung của quân đội không đến nỗi nào và tướng Abrams nhận định rằng sau cuộc tấn công, Nam Việt Nam vẫn có khả năng tồn tại. Tuy nhiên, nhận xét của CIA tại vùng 3 khá bi quan. Don Gregg, phụ trách cơ sở CIA vùng 3 cho biết quân đội VNCH không lấp kịp khoảng trống khi quân đội Mỹ rút đi. Gregg cho rằng tình trạng này do chính sách của Thiệu không muốn thấy thêm tổn thất (sau tổn thất trong chiến dịch Lam Sơn)trong năm bầu cử. Đầu tháng 7-1971, Hoàng Đức Nhã, tùy viên báo chí của Thiệu, yêu cầu Shackley vận động mở một văn phòng để thông tin về cuộc bầu cử tổng thống tại Nam Việt Nam ở Washington nhưng không thành công. Ngày 24-7, 26-7 và 4-8, Tổng thống Thiệu, tướng Minh và Phó Tổng thống Kỳ lần lượt nộp đơn ra tranh cử. Tòa án tối cao, cơ quan xét đơn tranh cử đã bác đơn của Kỳ vì các chữ ký giới thiệu (theo luật bầu cử do Quốc hội thân Thiệu đã thông qua nhằm gạt Kỳ) không có giá trị. Sau khi đơn Kỳ bị bác, Minh dọa sẽ rút đơn. Lo ngại Thiệu độc diễn, Bunker gặp Minh yêu cầu ở lại và có tin Bunker hứa chi 3 triệu USD cho Minh làm chi phí tranh cử (CIA nói tin này không đúng), nhưng không có kết quả. Ngày 19-8, Minh rút đơn. Ngày 20- 8, Tòa án tối cao chấp nhận một số chữ ký giới thiệu Kỳ và hợp thức hóa đơn tranh cử của Kỳ. Nhưng ngày 23-8, Kỳ lại rút đơn. Kỳ rút đơn nhưng vẫn chuẩn bị nộp lại nếu có điều kiện tranh cử thuận lợi. Kỳ lén gửi phụ tá thân tín Đặng Đức Khôi qua Phnôm Pênh, từ đó Khôi đi Mỹ. Tại Washington, Khôi móc nối các nhân vật CIA quen biết ngỏ ý muốn cố vấn an ninh quốc gia Henry Kissinger và Trợ lý Ngoại trưởng William Sullivan yêu cầu Mỹ hứa bảo đảm một cuộc tranh cử sòng phẳng giữa Thiệu và Kỳ. Mỹ không đáp ứng lời yêu cầu của Kỳ và cuộc tranh cử độc diễn đã trở thành một thực tế. Trước viễn cảnh này, ngày 7-9, Shackley yêu cầu Thiệu cho phép cử tri bỏ phiếu bầu hay bác Thiệu để ghi nhận tỷ số đối lập và đề nghị Thiệu tuyên bố được bao nhiêu phần trăm bầu cho mình. Thiệu bác cả hai đề nghị. Ngày 3-10, Thiệu đắc cử với 91,5% phiếu bầu, tính trong khoảng 90% cử tri có ghi danh. Sau khi Thiệu tuyên thệ nhậm chức, Sài Gòn bắt đầu nghĩ đến hoạt động của Cộng sản nhân dịp tết sắp đến, nhất là lúc này rơi vào thời gian Tổng thống Nixon thăm viếng Bắc Kinh. Một bận tâm khác là Mỹ được Khiêm báo cáo Thiệu sắp thành lập Đảng Dân chủ theo mô thức Đảng Cần Lao của ông Nhu, tổ chức nửa kín nửa hở và đảng viên được tuyển mộ trong khối sĩ quan và công chức với mục đích dùng đảng để kiểm soát quân đội và bộ máy hành chính. Các đảng viên Đảng Dân chủ thuộc toàn quyền sử dụng và sai phái của Thiệu. **** - Kỳ 8: Hòa bình đã trong tầm tay SGGPonline Thứ ba, 30/03/2010, 10:54 (GMT+7) Tháng 1-1972, Thomas Polgar được Langley cử đến thay Shackley. Polgar gốc Hungary, gia nhập CIA từ năm 1947. Richard Helms nói với Polgar nhiệm vụ mới của CIA tại Sài Gòn là thiết lập quan hệ tốt với Tòa đại sứ, MACV, với giới truyền thông và các phái đoàn Quốc hội, ý rằng chiến tranh sắp kết thúc và quan hệ với Chính phủ Sài Gòn không còn là công tác chính. Mỹ lúng túng về chính sách Các cuộc tấn công năm trước qua Campuchia và Lào làm giảm tiềm năng chiến tranh của Bắc Việt và cho quân đội Việt Nam Cộng hòa (VNCH) một thời gian xả hơi. Đến Sài Gòn, Polgar lạc quan nói với Nguyễn Khắc Bình, Giám đốc Cảnh sát quốc gia rằng “Chúng ta sẽ thắng không phải bằng sức mạnh quân sự mà bằng tình báo và cảnh sát”. Về quan hệ với Phủ tổng thống, Polgar được Khiêm tường trình cho biết tính tình Thiệu cũng như tính đa nghi của Thiệu. Mấy tháng đầu năm 1972, quân đội Mỹ tại Việt Nam chỉ còn 180.000 người và mọi việc trôi qua lặng lẽ. Không có cuộc tấn công nào đáng kể của Cộng sản trong dịp tết và dịp Nixon thăm viếng Bắc Kinh. Ngày 30-3-1972 quân đội chính quy Bắc Việt ồ ạt đánh qua khu phi quân sự, vùng Kon Tum, Pleiku và Lộc Ninh phía Bắc Sài Gòn. CIA tiên đoán sẽ có cuộc tấn công vào cao nguyên nhưng không tiên đoán Cộng sản sẽ đánh qua biên giới phân chia Nam Bắc. Qua một tuần lễ quan sát chiến cuộc, Polgar nhận ra rằng chiến tranh chưa chấm dứt và tương lai của miền Nam Việt Nam hoàn toàn lệ thuộc vào sự viện trợ của Mỹ chừng nào Bắc Việt còn được Liên Xô và Trung Quốc viện trợ. Polgar tin tưởng quân đội VNCH sẽ đứng vững trước cuộc tấn công này dù bị tổn thất nặng. Trong khi cuộc tấn công đang diễn ra tại vùng giới tuyến, trên cao nguyên và Vùng 3 chiến thuật, CIA được báo cáo viên Vùng 3 cho biết đã để cho Cộng sản thu mua lương thực, thuốc men và quân dụng tại địa phương để tiếp tế cho quân đội Bắc Việt. CIA yêu cầu Tòa đại sứ can thiệp để chận đứng sự việc này nhưng Polgar không có một đáp ứng nào tích cực. Ngoài vụ “Vùng 3”, Polgar còn nhức đầu về việc tướng Nguyễn Khắc Bình, Giám đốc Đặc ủy Trung ương Tình báo kiêm Tổng Giám đốc Cảnh sát quốc gia than phiền Bộ Tư lệnh cảnh sát có quá nhiều sĩ quan thời Pháp để lại và Tổng thống Thiệu không chấp thuận biệt phái sĩ quan giỏi bên quân đội sang tăng cường. Cũng như trận Mậu Thân, các giới chức Mỹ nhận định về trận tấn công xuân 1972 khác nhau. Khi Cộng sản còn đang bao vây An Lộc, Đại sứ Bunker và tướng Abrams vẫn lạc quan cho rằng sau cuộc tấn công này, Hà Nội đuối sức vì chẳng còn gì nữa. Trong khi Polgar cho rằng nếu Liên Xô và Trung Quốc còn viện trợ và Hà Nội còn dùng được đất Lào và Campuchia thì Cộng sản vẫn còn khả năng đánh. Phần Việt Nam, Polgar nhận xét khả năng chịu trận của quân đội VNCH vẫn còn cao và có thể cao hơn nửa triệu quân Mỹ mấy năm trước nếu vẫn được không lực Mỹ yểm trợ. Abrams đánh giá quân đội VNCH thấp hơn và cho rằng các tướng lĩnh quanh ông Thiệu không đánh giá đúng mức các sĩ quan cấp tá đang cầm quân và riêng Thiệu có nhiều quyết định sai vì không biết nghe các báo cáo của các sĩ quan ngoài chiến trường. Tuy nhiên, quan điểm của Polgar thay đổi theo tin tức ông thu thập được. Sau 2 tháng đánh giá, Polgar gửi Bunker một báo cáo phê bình rằng đa số các tướng chỉ huy chiến trường thiếu khả năng và được bổ nhiệm do trung thành với Thiệu. Bản báo cáo bi quan đến nỗi Bunker và Abrams không muốn gửi cho Thiệu mặc dù khi tiếp xúc trực tiếp, Abrams đã nói thẳng những điều tương tự như vậy với Thiệu. MACV có thông lệ ít khi phê bình quân đội VNCH trong các báo cáo chính thức. Cuộc trao đổi giữa William Colby (lúc đó là giám đốc CIA) và Polgar vào tháng 9-1972 cho thấy đến lúc đó Mỹ vẫn chưa có một mục tiêu chính trị chính xác tại Việt Nam. Colby yêu cầu Polgar do có nhiều quan hệ đặc biệt với giới chức lãnh đạo Nam Việt Nam nên giúp Thiệu hình thành các cơ cấu và định chế chính trị lâu dài để chuẩn bị cho Nam Việt Nam đấu tranh chính trị với Cộng sản sau khi hòa đàm tại Paris kết thúc. Trái lại, Polgar nghĩ rằng Mỹ đã tiêu tốn hàng tỷ USD vẫn chưa giúp VNCH đặt được một căn bản dân chủ kiểu phương Tây, vậy cách tốt nhất là Mỹ thành thật hỗ trợ ông Thiệu về vật chất và tinh thần để ông ta tự định liệu lấy, miễn là con đường của ông ta không làm thiệt hại quyền lợi của Mỹ. Polgar nói, chính sách này có thể dẫn đến một chính phủ độc tài thiếu dân chủ nhưng có an ninh và có thể được dân ủng hộ. Polgar kết luận con đường dân chủ hóa Nam Việt Nam mà Mỹ đang theo đuổi có thể không giúp cho Nam Việt Nam tồn tại. Colby đồng ý với Polgar rằng trong chiến tranh thì không thể có dân chủ, nhưng độc tài cũng không có nghĩa là một chính quyền không đàng hoàng và không lo cho dân. Cuộc tranh luận giữa Colby và Polgar cho thấy 18 năm sau khi Mỹ can thiệp vào Việt Nam, Mỹ vẫn còn lúng túng về chính sách. Tổng thống Mỹ Nixon và Ngoại trưởng H.Kissinger. Gây sức ép với Nguyễn Văn Thiệu Hiệp định Paris ký tháng 1-1973. Từ tháng 8-1972 đến tháng 6-1973, công tác chính của CIA là thuyết phục, nói đúng hơn là gây áp lực với Thiệu, theo đường hướng của Mỹ về nội dung văn bản Hiệp định Paris cũng như cung cách thi hành hiệp định. CIA vận dụng nhân sự đã bố trí quanh Thiệu để làm yếu sự phản đối của Thiệu về một điểm chính yếu trong bản hiệp định là để cho quân đội Cộng sản Bắc Việt ở lại miền Nam sau khi ngừng bắn. Ngày 17-8-1972, lần đầu tiên Kissinger đến Sài Gòn để đích thân thuyết phục Thiệu. Polgar và Kissinger từng quen biết nhau từ năm 1958 và việc này giúp công tác của hai người bớt tạo nên căng thẳng trong quan hệ cá nhân. Một câu chuyện cho thấy sự căng thẳng: Tối 17-8, Polgar được mời đến Tòa đại sứ. Polgar thấy Kissinger mặc pyjama. Kissinger than phiền sự cứng rắn của Tổng thống Thiệu và “chỉ thị” Polgar dùng các đường dây quanh Thiệu để áp lực buộc Thiệu phải thay đổi lập trường. Polgar nói ông không thể gây áp lực lộ liễu như vậy. Kissinger bảo Polgar đó là “lệnh”, rồi lạnh lùng quay sang Đại sứ Bunker hỏi ông xử lý thế nào nếu nhân viên không tuân lệnh cấp trên. Bunker cũng lạnh lùng trả lời ông đồng ý với Polgar! Dù vậy, Kissinger và Polgar vẫn giữ được hòa khí. Kissinger biết rằng nhờ các đường dây Polgar gài trong giới đầu não tại Hà Nội mà ông có lợi thế khi trao đổi với đại điện của Hà Nội tại cuộc hội đàm. Sau khi Kissinger trở về Mỹ, Tổng thống Thiệu không tiếp ai trong gần 1 tháng. Ngày 15-9, Khiêm báo cáo với Polgar rằng Thiệu lo ngại vì nhu cầu tranh cử, có thể Nixon sẽ nhượng bộ những đòi hỏi phi lý của Hà Nội.