🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cái Bóng của Bí Mật - Kim Jung Hyuk full prc pdf epub azw3 [Trinh thám]
Ebooks
Nhóm Zalo
CÁI BÓNG BÍ MẬT
Tác giả: Kim Jung Hyuk
Người dịch: Liên Hương
Phát hành: Nhã Nam
Nhà xuất bản Hà Nội 08/2017
—★—
Solo text: Bích Hạnh
Đóng gói: Mọt Kiu
ebook©vctvegroup
19/07/2019
Ebook này được thực hiện theo “Dự án Ebook cho Thư Viện” của nhóm VCTVE trên diễn đàn TVE-4U.ORG
0
Mùi ngấm vào mọi nơi trong tòa nhà Cá Sấu. Chỉ cần gí mũi vào bất cứ chỗ nào và đợi một chút, mùi sẽ tỏa ra ngay. Thứ mùi ấy là không khí của tòa nhà Cá Sấu, là dòng máu chảy giữa những bức tường bê tông, đường ống nước và cầu thang chật hẹp. Bởi không nhìn thấy nên không thể nắm bắt được hình dạng của nó, không thể miêu tả bằng lời nên sự tồn tại của nó lại càng thêm mơ hồ. Từ lòng đất hay các kẽ tường, từ tầng một hay tầng bốn, không ai biết nó bắt nguồn từ đâu. Cả nhà hàng dưới tầng hầm, cả cửa hàng sắt thép tầng một, cả võ đường Hapkido* tầng hai, cả quán game online tầng ba, cả văn phòng tầng bốn, cả trên sân thượng, đâu đâu cũng có mùi, nhưng tất cả mọi người đều vờ như không biết nó, vờ như nó không tồn tại. Ban đầu ngửi thì có chút khó chịu, nhưng lâu rồi cũng thành quen.
Có người từng thử lý giải thứ mùi này. Người ta nói đấy là mùi do đồ ăn hỏng, xác động vật, nấm mốc, mồ hôi người và những món đồ gỉ sét, tất cả được chôn chung dưới một cái hố sâu, ủ rữa trong suốt năm mươi năm mà ra. Người ở tòa nhà Cá Sấu không đáp lời, chỉ gật đầu.
Nơi có ít mùi nhất là trên tầng bốn. Ở đây, mỗi ngày đều diễn ra một cuộc chiến giữa mùi của tòa nhà Cá Sấu và không khí bên ngoài. Vào những ngày đẹp trời ánh nắng chan hòa, không khí bên ngoài sẽ chiến thắng, còn những ngày mưa dầm hay ẩm ướt thì thứ mùi đặc trung của tòa nhà Cá Sấu lại nắm quyền thống trị.
Tầng bốn được chia làm hai hộ, chủ nhân của nhà 4-B là Goo Dong Chi.
Trên cửa sắt nhà gã có treo một bảng hiệu nhỏ dài ghi dòng chữ “Văn phòng Goo Dong Chi”, ngay cả vị trí đặt tấm bảng hiệu này cũng thể hiện suy nghĩ sâu sắc của gã. Tấm bảng được treo ngang ngực, còn ở phía trên, ngang tầm mắt, được dán như kiểu danh ngôn mỗi ngày là một tấm biển nhỏ hơn với dòng chữ “Cốc! Cốc!”. Nếu theo tư duy thông thường đáng ra hai tấm đó phải đổi chỗ cho nhau, nhưng Goo Dong Chi thì nghĩ biển chỉ dẫn “Cốc! Cốc!” kia cần được ở phía trên bảng hiệu văn phòng. Gã cho rằng, đã lên đến tầng bốn thì đương nhiên là người ta tìm đến văn phòng gã rồi, vì vậy cái từ “Cốc!” kia nên nằm ở chỗ dể nhìn hơn mới phải. Goo Dong Chi không thể chấp nhận được việc người khác tự tiện vào văn phòng gã mà không gõ cửa. Nhưng ngay cả khi đã treo tấm biển “Cốc! Cốc!” ở trên, vẫn có rất nhiều người chẳng nói chẳng rằng cứ thế xoay nắm cửa đi vào. Văn phòng Goo Dong Chi hầu như luôn khóa của.
Toàn bộ đồ đạc trong văn phòng của Goo Dong Chi chỉ gồm có một bàn làm việc bằng sắt, một ghế cao cấp có thể ngả ra sau, một tủ đựng tài liệu cao ngang đầu người che kín một bên tường, một tủ quần áo nhựa vinyl rộng chưa đầy một mét, và một giường gấp đơn giản. Trong tủ quần áo là ba cái jacket đen cùng một kiểu, mười cái áo phông đen không họa tiết, và ba cái quần dài được gấp gọn gàng ngăn nắp. Trên bàn đặt một máy phát nhạc loại nhỏ có duy nhất một loa, Goo Dong Chi gọi nó là cái “máy nhạc Chột Mắt”. Trong phòng lúc nào cũng vang lên những ca khúc aria được thu âm kiểu mono của các ca sĩ Ý giọng nam cao những năm 1920. Không cần đến dàn âm thanh stereo. Được thu âm từ những năm 1920 nên nhạc có lẫn khá nhiều tạp âm rè rè, quá hoàn hảo để lấp đầy văn phòng trống trải. Thứ mùi khó chịu trong không khí cũng thật hợp với những tạp âm.
Goo Dong Chi thích nhất là những khi gác cả hai chân lên bàn, dựa vào
lưng ghế ngả ra phía sau, vừa đọc tài liệu bí mật của khách hàng vừa nghe những bài aria phát ra từ cái máy nhạc Chột Mắt. Mỗi khi một bài hát kết thúc, gã lại nhìn chằm chằm vào cái máy và đợi đến bài tiếp theo. Trong vài giây vắng lặng tạp âm, thế giới bỗng cô quạnh vô cùng. Đến khi tiếng nhạc bài hát tiếp theo cất lên cùng những tạp âm rè rè, Goo Dong Chi mới yên lòng đảo mắt nhìn tài liệu.
Goo Dong Chi cũng hát theo những ca khúc aria. Gã kết hợp giai điệu phát ra từ cái máy nhạc với những câu chữ trong tài liệu mình đang đọc. Gã lắng nghe những câu chuyện cấp bách của khách hàng vang lên một cách êm ái. Như thể tất cả mọi buồn khổ hay đau thương chẳng là gì. Mọi sự tình đều có thể được âm nhạc bao bọc trở nên đẹp đẽ. Ở văn phòng trống trải luôn khiến tâm trạng người ca hát vui vẻ ấy, Goo Dong Chi lúc nào cũng ngâm nga. Khi hát, ngay cả thứ mùi kia gã cũng chẳng bận tâm. Goo Dong Chi tưởng tượng ra cảnh bọn mùi lùa nhau dồn hết về một góc phòng, rồi như những thính giả opera, chúng ngoan ngoãn xếp hàng trong không trung để thưởng thức nghệ thuật. Gã rất hài lòng với giọng hát thì thầm của chính mình. Nàng đến tìm ta vào một ngày thứ Hai nhạt thếch. Hỡi người hiểu hết sự vô thường của thế gian, hãy nói bí mật của nàng cho ta. Cái bóng của bí mật vượt khỏi biên giới và băng qua biển cả. Chỉ tình yêu của chúng ta là có thể chiến thắng được sự vô thường của thế gian, hãy nói bí mật của nàng cho ta đi nào. Cái bóng của bí mật dài dằng dẳng như một ngày thứ Hai.
1
Tiếng gõ cửa vang lên chen ngang giọng hát cao vút. Cốc cốc cốc. Goo Dong Chi nghe thấy nhưng vẫn không nhúc nhích. Hai chân gác lên bàn, gã đã chìm vào đáy sâu giấc ngủ, nổi trên bề mặt chỉ còn mỗi cái miệng khó nhọc hớp hớp chút không khí mà thôi. Nếu gã không nghe thấy tiếng gõ cửa kia thì mọi thứ trên đời đã bị khóa kín dưới đáy sâu rồi. Tiếng náo loạn của lũ trẻ con lọt vào qua khung cửa sổ để mở. Nghe tiếng bọn ranh con khốn kiếp chạy loạn lên hò hét thế này thì hẳn đã hơn 3 giờ rồi. Goo Dong Chi không mở mắt, chờ tiếng gõ cửa lần hai. Tiếng hú hét của bọn trẻ và tiếng hát của ca sĩ giọng nam cao đang ra sức choảng nhau. Dù giọng nam cao có mạnh mẽ tuyệt vời đến mấy thì cũng không dễ gì thắng nổi bọn nhóc con đang chạy nhảy như lũ ngựa điên kia.
Tiếng gõ của lần thứ hai vừa vang lên, Goo Dong Chi liền lập tức nhỏm người dậy khỏi ghế. Gã vặn nhỏ tiếng cái máy nhạc Chột Mắt rồi đi ra cửa. Gã áp tai vào cánh cửa. Tiếng nô đùa của lũ trẻ tràn ngập khắp bốn phía nên gã chẳng nghe được gì ra hồn. Chết tiệt, ăn cái gì mà hét to thế không biết. Chỉ nghe thì không thể xác định được người đứng ngoài kia là ai. Goo Dong Chi vặn khóa và mở cửa.
“Đây là văn phòng Goo Dong Chi phải không ạ?”
Đàn ông, tầm năm mươi tuổi, cao 1 mét 70, kính gọng vàng mỏng, mắt kém, nhìn mũi thì có vẻ bị viêm xoang, trên mặt có hai nốt ruồi lớn, béo bụng dù cũng không đến mức nghiêm trọng. Đây là kiểu người mà có lẽ nội
tạng bên trong còn lắm vấn để hơn là cái bụng to vượt mặt bên ngoài. Áo jacket xanh thẫm kiểu bình thường, áo sơ mi trắng kiểu bình thường. Chưa rõ có thể trở thành khách hàng hay không nên chỉ “khám” sơ bộ đến đây thôi. Thay vì mở miệng, Goo Dong Chi giơ ngón tay chỉ vào tấm bảng “Văn phòng Goo Dong Chi”.
“Tôi vào được chứ?”
Người đàn ông lại hỏi.
“Anh đến đây có việc gì?”
Goo Dong Chi vẫn giữ nguyên tay ở nắm cửa, hỏi lại.
“Tôi đến vì muốn được quên đi.”
“Anh nói cái gì vậy? Ám hiệu à?”
“Người ta bảo tôi là nói vậy anh sẽ hiểu mà?”
“Mời anh vào trong trước đã.”
“Tôi tìm đến đúng chỗ rồi chứ?”
Goo Dong Chi mỉm cười thay cho lời đáp. Trong tất cả những nụ cười của gã, đó là nụ cười cấp thấp nhất, nụ cười thể hiện sự đồng ý đơn thuần. Goo Dong Chi lấy cái ghế gấp dựng trong góc phòng, mở ra và đặt trước bàn. Đối diện với chiếc ghế cao cấp của Goo Dong Chi ở phía bên kia bàn, cái ghế gấp đơn giản trông lại càng thêm nhỏ bé và thảm hại. Goo Dong Chi chẳng bao giờ để ý gì đến những chuyện như niềm nở tiếp đãi khách hàng. Người phải ngồi lâu thì cần dùng ghế tốt, người chỉ tới chốc lát thì dùng ghế giản tiện thôi là được. Đó là suy nghĩ của kẻ đơn giản và rạch ròi như gã. Người đàn ông loay hoay ngồi xuống ghế. Có lẽ vì cảm thấy nếu dồn sức thì cái ghế sẽ sập mất nên ông ta chỉ dám ngồi rón rén, đồng thời dồn bớt trọng lượng cơ thể xuống đôi chân.
Goo Dong Chi tắt hẳn cái máy nhạc Chột Mắt nãy giờ vẫn phát ra những âm thanh khe khẽ. Như chỉ đợi có thế, tiếng lũ trẻ nô đùa từ ngoài cửa sổ ùa vào. Gã ra đóng cả ba cái cửa sổ nhỏ lại. Văn phòng yên tĩnh hẳn, nhưng bởi không khí không thoát ra được nên mùi lại trở nên nồng nặc. Goo Dong Chi lôi từ trong ngăn kéo bàn làm việc ra một chai xịt phòng và bắt đầu xịt. Những tia nước nhỏ xíu tan vào hư không. Gã tưởng tượng ra cuộc chiến giữa những tia nước và bọn mùi khó chịu trong không khí. Những tia nước xịt phòng làm thế nào để xử lý được bọn mùi đây nhỉ? Một đấu một à? Hay phân chia địa bàn hoạt động? Hay như bọn khủng bố ôm bom cảm tử, bám chặt lấy mùi và tiêu diệt chúng? Không khí xung quanh bàn làm việc đã dễ thở hơn nhiều.
“Chà, chúng ta nói chuyện công việc thôi nhỉ?”
Goo Dong Chi nhét lại chai xịt phòng vào trong ngăn kéo, kéo ghế ra, ngồi xuống và nói.
“Tôi nghe nói anh có thể giúp xóa đi các thông tin trên mạng Internet.” “Anh nghe nói vậy thì là vậy đấy.”
“Tôi... thực ra... tôi đến để hỏi về deleting.”
Người đàn ông lí nhí, lập tức mắt Goo Dong Chi Sáng lên. “Anh đã nghe ai nói về deleting?”
“Tôi phải giữ bí mật về người giới thiệu mà, phải không?” “Deleting thì khác. Nguồn gốc thông tin phải rõ ràng. Đây không phải là chuyện có thể làm bừa được.”
“Tôi không biết nói ra có được không nữa.”
“Tùy anh thôi. Anh cứ giữ cho kỹ cái chìa khóa đang khóa miệng mình lại, rồi đứng lên và về luôn cũng được. Tôi sẽ tiễn anh ra tận cửa, nhé? Cũng
chẳng xa xôi gì cho lắm...”
“Người ấy cũng là khách của tiên sinh đây.”
“Đừng gọi tôi là tiên sinh. Người ấy là ai?”
“Vậy phải gọi anh như thế nào ạ?”
“Cứ gọi Goo Dong Chi là được.”
“Vừa mới nghe tôi đã cảm thấy đây là một cái tên rất đặc biệt.” “Chưa đặc biệt đến mức phải trợn tròn mắt lên như vậy đâu. Mà cũng chẳng hay tên quý khách đây thì bình thường đến mức nào. Chà, tên là gì vậy?”
“Là Lee Young Min. Cái tên rất phổ biến nhỉ. À, không phải tên cô ấy, Lee Young Min là tên tôi.”
“Anh có quan hệ như thế nào với cô Han Yoo Mi?”
“Sao anh biết tôi nói tới cô Han Yoo Mi?”
“Cô ấy là khách hàng nữ duy nhất của tôi. Hai người có quan hệ gì?” “Chúng tôi chỉ cũng tham gia một câu lạc bộ tennis thôi. Không phải quan hệ gì đặc biệt.”
Goo Dong Chi tạm thời ngừng lời. Nói chuyện với Lee Young Min thật mệt. Ông ta như tấm bảng trong trò bi đá trên băng* vậy. Quá trơn để nhắm trúng đích. Nếu không lau chùi cho tốt thì cuộc nói chuyện sẽ đứt đoạn, mà lau quá mức thì câu chuyện lại trượt đi tận đẩu tận đâu. Lee Young Min. Kiểu người thật khiến người ta mệt mỏi khi cùng trò chuyện. Hoặc là không có chút tinh ý nào trong giao tiếp, hoặc cũng có thể là quá khôn khéo và giỏi luồn lách. Goo Dong Chi thêm mấy dòng vào cái ngăn kéo chứa thông tin về Lee Young Min trong đầu mình.
Nơi Goo Dong Chi gặp Han Yoo Mi lần đầu tiên cũng là câu lạc bộ
tennis. Không chừng Goo Dong Chi từng đi ngang qua Lee Young Min ở câu lạc bộ rồi cũng nên. Có khi nào Lee Young Min lại biết đến Goo Dong Chi từ trước rồi. Nghĩ như vậy, Goo Dong Chi lạnh cả sống lưng, phía sau tai lấm tấm mồ hôi. Gã là người phải vừa giấu mình hết mức vừa ra sức bới móc điều tra đối phương. Gã lôi những đoạn băng dán nhãn “Câu lạc bộ tennis” nằm trong ngăn kéo tâm trí mình ra xem. Những gương mặt gã từng gặp tại câu lạc bộ lần lượt lướt qua. Không thấy mặt Lee Young Min đâu cả.
“Tên câu lạc bộ tennis?”
“Câu lạc bộ Noble, cũng mới thành lập chưa được bao lâu.” Lee Young Min trả lời, vẫn đang dồn sức xuống hai chân. Goo Dong Chi thở phào yên tâm, khẽ vừa đủ để Lee Young Min không nhận thấy. Đó không phải câu lạc bộ mà gã đã gặp Han Yoo Mi.
“Cô Han Yoo Mi nhắc đến chuyện gì mà lại giới thiệu anh tới đây?” “Hai chúng tôi tình cờ có dịp uống rượu cùng nhau. Sau khi trận đấu kết thúc, thế nào mà chỉ còn lại mỗi tôi và cô ấy, thế là chúng tôi đã đến quán bar gần đó. Cô Han Yoo Mi uống bia Nhật Bản, còn tôi uống một ly Whisky mạch nha đơn cất. Thường tôi vốn thích uống khan*, nhưng nghĩ nếu định nói chuyện từ từ thì bỏ đá vẫn hơn. Tiếng đá nứt nghe cũng rất hay. Nhiều khi tôi thấy tiếng đã nứt tách tách nghe như tiếng đồng hồ báo giờ ấy. Chỉ là thay tiếng chim cu gáy bằng tiếng đá nứt thôi. Nghe âm thanh đó thì không thể nói chuyện ào ào được. Theo tôi, việc cảm nhận được thời gian đang từ từ trôi đi khá là quan trọng.”
Lee Young Min hẳn là kiểu người chú ý đến các tiểu tiết vụn vặt một cách quá mức, Goo Dong Chi nghĩ. Thực ra thì Goo Dong Chi cũng rất coi trọng chi tiết, nhưng những chi tiết khiến gã để tâm luôn phải có lý do rõ ràng. Chúng hoặc phải là đầu mối quan trọng hoặc phải là hình ảnh ẩn dụ
hay biểu tượng gì đó. Còn những chi tiết nhỏ nhặt trong câu chuyện của Lee Young Min thì chẳng thấy có ý nghĩa gì đặc biệt. Trừ phi mục đích của ông ta là khiến câu chuyện trở nên chán chết... Goo Dong Chi khoanh tay lại. Có nhiều chuyện kể vắn tắt thôi vẫn rất có giá trị.
“Lúc đó chúng tôi nói đến chủ đề về các thông tin trên mạng Internet. Thế là cô Han Yoo Mi bật ra chuyện deleting. Đương nhiên lúc đầu cô ấy không dùng từ deleting.
Cô ấy tự dưng hỏi tôi như thế này, ‘Anh Young Min có việc gì nhất định muốn làm trước khi chết không?’”
“Đã tới chủ đề chính rồi đây.”
“Vâng, nhưng trước khi vào việc chính tôi có thể uống một cốc nước được không?”
“Anh thử nhìn quanh xem. Ở đây có chỗ nào chứa cái thứ đó không?” “Tiên sinh, à không, anh Goo Dong Chi không uống nước sao?” “Tôi uống ở dưới kia rồi lên đây. Đây là khu vực cấm mang đồ ăn thức uống vào.”
“Có lý do gì không ạ?”
“Đó là nguyên tắc. Trừ con người ra, không thứ gì được phép lọt vào đây. Dù là nước hay rượu, nếu muốn bước vào căn phòng này, đều sẽ phải cải trang thành người. Chà, nói chung là trong phòng này không có nước. Anh có thể vào chủ để chính được rồi.”
Lee Young Min liếm ướt môi rồi đưa tay lên chùi. Giữa thời tiết mùa thu mát mẻ, trên trán ông ta vẫn lấm tấm mồ hôi. Bởi mấy cái cửa sổ đều đóng kín nên trong văn phòng chẳng có chút gió nào. Lee Young Min có cảm giác như mình đang nói chuyện trong trạng thái chân không. Những lời nói lơ
lửng giữa không trung.
“Khi được hỏi mình muốn làm gì trước khi chết, đầu óc tôi gần như trống rỗng. Đó là một câu hỏi thường gặp mà nhỉ. Trong đời ai mà chẳng nhận được câu hỏi đó hàng chục hàng trăm lần. Thế mà kỳ lạ là hôm đó, câu hỏi ấy lại đâm thẳng vào tôi, khiến tôi không kịp trở tay. Cô Han Yoo Mi nói như thể cô ấy biết được khi nào tôi sẽ chết vậy. Lập tức tôi thấy một dòng điện chạy dọc từ sau ót xuống tận xương cụt. Có lẽ anh sẽ nghĩ đó là do men rượu, nhưng vốn tôi uống được lắm. Whisky mạch nha đơn cất cả một chai cũng không thành vấn đề. Vừa uống rượu tôi vừa bắt đầu suy nghĩ. Chà, nếu bây giờ chết thì tôi muốn để lại cái gì, muốn vứt cái gì đi nhỉ. Điều tôi thực sự muốn làm là gì nhỉ. Tôi liệt kê lần lượt trong tâm trí những thứ mình sở hữu. Những thứ tôi tuyệt đối không muốn người khác thấy, tôi đã băn khoăn liệu có thứ gì như thế không, nhưng hóa ra chúng nhiều ngoài sức tưởng tượng luôn. Những thứ mà nếu tôi chết ngay ngày mai nhất định sẽ gây ra rắc rối, những thứ có thể làm tổn thương người khác, những thứ có thể khiến người khác hiểu lầm, những thứ có thể vấy bẩn thanh danh tôi..., nhiều không đếm nổi.”
Cốc cốc, cốc cốc, Lee Young Min vừa ngừng lời thì tiếng gõ cửa vang lên. Lee Young Min liếc Goo Dong Chi thăm dò. Goo Dong Chi im lặng đợi tiếng gõ cửa lần hai. Mùi và âm thanh và mồ hôi đang tản mát khắp nơi trong căn phòng đều đột ngột khựng lại. Cốc cốc, cốc cốc, tiếng gõ cửa lần này còn đi kèm với tiếng người nói.
“Goo tiên sinh, tôi là Baek Ki Hyun ở cửa hàng sắt thép dưới tầng một đây ạ. Anh có nhà không?”
Goo Dong Chi mân mê vành tai, nhăn mặt.
“Goo tiên sinh, tôi có việc gấp lắm, anh đang ở trong phải không?”
Tiếng gõ cửa mạnh hơn nữa, giọng nói cũng lớn hơn. Goo Dong Chi vừa mở cửa ra, một luồng khí lạnh liền tràn vào.
“À, anh đây mà. Hóa ra là anh có khách.”
“Có việc gì vậy?”
“À không, không phải việc quá gấp đâu... Nếu nói gấp thì cũng gấp, nhưng anh đang có khách, lát nữa tôi quay lại vậy nhé?”
“Không sao đâu. Có gì chú cứ nói luôn đi.”
“Có việc này cần nhờ Goo tiên sinh phân xử giùm ạ... Thằng Cha ở võ đường Hapkido tầng hai ngang như cua ấy, tôi bây giờ cũng rã cả cổ họng rồi. Goo tiên sinh mà giúp giải quyết chuyện này thì nó chắc chắn sẽ phải phục thôi. Nhưng nếu anh bận thì thôi ạ.”
“Mười phút nữa tôi xuống được không?”
“A, được chứ, được chứ, sao lại không được. Chúng tôi sẽ dừng ngay câu chuyện lại, không hé miệng thêm tí nào nữa, chỉ cần Goo tiên sinh xuống xem xét và giải quyết hộ chúng tôi một phát là được ạ.”
Baek Ki Hyun cười toe toét nhăn tít cả mắt rồi đóng cửa lại. Ông ta thấp người và có phần thân trên vạm vỡ, nhìn từ xa trông như một vận động viên thể hình. Đó là thân hình rắn chắc có được nhờ rèn luyện qua đủ mọi công việc. Khuôn mặt ông ta trái lại có nét như một cậu thiếu niên, không hợp chút nào với dáng người. Baek Ki Hyun hơn Goo Dong Chi đúng hai mươi tuổi, nhưng vẫn có nhiều nét rất đáng yêu, nụ cười cũng tươi tắn.
Back Ki Hyun bắt đầu gọi Goo Dong Chi là Goo tiên sinh từ hai năm trước. Có một tên công chức trên văn phòng quận vì muốn moi ít tiền lẻ nên đã bới móc mấy lỗi vụn vặt kiểu như trang thiết bị này nọ, làm Back Ki Hyun sống dở chết dở, người giải quyết vụ đó giúp ông ta chính là Goo
Dong Chi. Chỉ trong vòng hai ngày, gã đã tìm ra điểm yếu của tên công chức và gửi một phong thư đơn giản đến nhà hắn ta. Người duy nhất biết nội dung phong thư đó chỉ có gã. Baek Ki Hyun rất tò mò về phong thư, nhưng cũng chưa từng gạn hỏi. Ban đầu Baek Ki Hyun gọi Goo Dong Chi là “tiên sinh Goo Dong Chi”, nhưng sau vài lần điều chỉnh thì cuối cùng ông ta gọi cố định gã là “Goo tiên sinh”. Cũng coi như chấp nhận được.
Baek Ki Hyun bước chân chữ bát, đi mà như chạy xuống cầu thang. Khi qua tầng hai, ông ta lén ngó vào võ đường Hapkido. Khoảng mười lăm đứa trẻ con đang vừa tán chuyện vừa chạy nhảy. Có đứa bám vào bao cát đu người chơi trò Tarzan, có đứa tập lộn nhào, có đứa tập đá chân, có đứa vừa la hét vừa bắt chước cái gì đó không rõ, tất cả đều loạn lên không có chút trật tự nào. Chỗ như thế này thì học võ cái quái gì cơ chứ, chẹp, đúng là thầy nào trò nấy. Baek Ki Hyun tặc lưỡi rồi đi xuống tầng một. Lần này ông ta không chạy nữa mà đi từ từ. Vẫn bước chân chữ bát không đổi.
Chủ nhân võ đường Hapkido, Cha Cheol Ho, vẫn mặc nguyên bộ võ phục, đang cố nén cơn giận ngồi trên tấm phản nhỏ trước cửa hàng sắt thép, vừa trông thấy Back Ki Hyun anh ta liền đứng bật dậy. Bờ vai rộng, chân mày rậm và đôi môi dày, cần cổ nhìn có vẻ dẻo dai, từ xa cũng có thể nhận ra đây là người chơi thể thao. Khắp cơ thể chẳng có điểm yếu nào cả. Kiểu người rắn chắc đến mức chẳng biết có cái lỗ nào cho mồ hôi rỉ ra không.
“Anh ấy bảo sẽ xuống chứ?”
Cha Cheol Ho hỏi, chống hai tay vào đai bộ võ phục thắt ngang hông. “Chờ chút đi. Giờ cậu ấy đang có khách nên khoảng mười phút nữa mới xuống được.”
Baek Ki Hyun vừa thở hổn hển vừa nói.
“Thế sao chú đi lâu thế? Chú nói chuyện riêng với Goo tiên sinh rồi phải
không? Kể lễ sự tình thế lọ thế chai rồi xin tiên sinh hãy đứng về phía chú chứ gì.”
“Cậu coi ai là cái loại đê hèn ấy hả? Này ranh con, ở cái tuổi chú mày đây đi như thế đã được coi là đi bom về đạn rồi đấy nhé.”
“Trên đời mà có cái loại bom đạn như thế thì ngoài chiến trường chắc chẳng ma nào chết nổi.”
“Gì cơ cái thằng ranh này.”
“Này chú, chú định cứ thằng ranh này thằng ranh kia đến bao giờ đây? Tôi cũng ba lăm tuổi rồi đấy. Tôn trọng nhau chút đi. Có câu ‘nhân giả vô địch’. Tức người nhân nghĩa thì không có địch thủ. Đấy chính là tinh thần võ sĩ đạo đấy.”
“Tinh thần võ sĩ đạo cũng gớm thật. Cái thằng đi nhặt nhạnh vài xu lẻ của bọn trẻ con ở cái võ đường Hapkido cấp khu phố thì võ sĩ đạo quái gì. Mà cậu không biết gì khác ngoài cái câu ‘nhân giả vô địch’ đấy hả?” “Chú đang nhục mạ tôi đấy.”
“Đúng, tôi đang nhục mạ cậu đấy. Thì làm sao, ranh con.” Baek Ki Hyun ngồi xuống phản, phớt lờ Cha Cheol Ho. Ông ta vạch cổ áo ra để gió lùa vào. Làn gió mùa thu quét một lượt khắp người ông ta rồi luồn ra ngoài. Mồ hôi chẳng mấy chốc đã khô bớt. Cha Cheol Ho nhìn Baek Ki Hyun chằm chằm, nhưng Baek Ki Hyun chỉ ngước lên nhìn bầu trời mùa thu cao vời vợi.
“Ây da, thời tiết dễ chịu ghê.”
Nghe Back Ki Hyun nói, Cha Cheol Ho cũng ngước lên nhìn trời. Khắp trời đầy những đám mây không biết đang trôi về đâu. Mây di chuyển rất nhanh. Gió cuốn mây về nơi vô định.
“Lắp CCTV không phải là xâm phạm đời sống riêng tư sao?” Cha Cheol Ho hơi hạ giọng nói.
“Tôi lắp ở nhà tôi thì có gì mà xâm phạm đời sống riêng tư. Tôi tự xâm phạm đời tư của tôi chắc?”
“Chú lắp ở ngay lối đi mà.”
“Đồ đạc của tôi đặt ở lối đi nên tôi phải lắp chứ. Dù gì đó cũng vẫn thuộc phạm vi sinh hoạt của tôi mà.”
“Thật tình, chú nói nghe chẳng lọt lỗ tai gì cả.”
Cha Cheol Ho ngồi xuống bên cạnh Baek Ki Hyun. Nếu đứng từ xa nhìn lại thì đó quả là một khung cảnh hài hòa. Trông họ cứ như hai người anh em thân thiết.
Mặt trước tòa nhà Cá Sấu rất lộng gió. Tòa nhà nằm ở góc một ngã ba nhỏ, mở ra con đường thông thẳng lên núi nên chẳng bị tòa nhà nào khác chắn gió cả. Nơi mát mẽ nhất trong khu này là con ngõ dài khoảng năm mươi mét bắt đầu từ mặt trước tòa nhà Cá Sấu. Vào mùa hè, người dân trong khu vẫn thường mang ghế ra ngoài ngồi. Hình ảnh các ông các bà ra ngõ ngồi mỗi buổi chiều hè đã trở thành một khung cảnh độc đáo. Thậm chí bức ảnh chụp tòa nhà Cá Sấu của một nhiếp ảnh gia nào đó còn được bình chọn là “Bức ảnh của ngày” trên một diễn đàn nọ. Cảnh tượng các ông bà già ngồi ngẩn ngơ trên ghế ngay giữa ngõ, thờ ơ phe phẩy quạt đã lọt vào ống kính máy ảnh. Nhưng đến mùa thu, chẳng ai ra ngoài ngõ nữa. Ngõ lộng gió quá nên rất lạnh.
Khoảng hai mươi phút sau, Goo Dong Chi đi xuống cầu thang. Lee Young Min theo sau gã. Lee Young Min gượng gạo chào Cha Cheol Ho và Baek Ki Hyun đang ngồi trên phản, rồi đi ra khỏi ngõ. Từ đây ra bãi đỗ xe
công cộng phải đi bộ tầm năm mươi mét nữa. Goo Dong Chi đứng nhìn theo Lee Young Min một lúc.
“Để hai người đợi lâu rồi. Có chuyện gì thế?”
Goo Dong Chi vừa mở lời, Baek Ki Hyun và Cha Cheol Ho liền cùng đứng bật dậy.
“Goo tiên sinh, chà, đây để tôi kể anh nghe. À mà từ từ đã, ban này lúc tôi lên đó, tôi có nói anh hãy đứng về phía tôi không? Tôi không nói phải không?”
“Chú không nói.”
“Ầy, chuyện đấy hai người cũng có thể thỏa thuận với nhau từ trước rồi chứ.”
“Ê cái thằng ranh con này, cậu nghĩ Goo tiên sinh là người như thế nào mà dám nói thế. Cậu coi Goo tiên sinh chính nghĩa ngời ngời là cái loại lừa đảo đấy hả?”
“Tôi biết rồi. Tôi tin rồi.”
“Cứ thử ăn nói kiểu đấy một lần nữa xem, tôi sẽ rút mỏ cậu ra mà treo lên dây phơi trên sân thượng đấy. Cậu biết cửa hàng nhà tôi có cái kẹp quần áo bằng sắt rồi chứ gì? Lấy cái đấy kẹp lưỡi là chết chắc đấy nghe chưa. Cậu biết ngộ độc sắt là cái gì không hả? Chà, chà, Goo tiên sinh, tôi giải thích sự việc cho anh nghe đây ạ. Chuyện là cách đây không lâu, cửa hàng nhà tôi cứ liên tục bị mất một hai món đồ. Nào là ống nhựa, chổi nhựa rồi cái chổi phất trần tôi để ở phía trước cửa cũng biến đi đâu không biết. Thế là một tháng trước, tôi mới lắp CCTV.”
“Goo tiên sinh, CCTV có phải lắp ở chỗ nào cũng được đâu? Chẳng phải chú ấy làm thế là xâm phạm đời tư cá nhân người khác sao?”
“Này, cậu không trật tự được hả, tôi đang nói cơ mà. Goo tiên sinh đừng nghe nó nói, chỉ nghe tôi thôi ạ. Cũng không phải tôi muốn bắt kẻ trộm hay gì, chỉ là tôi thắc mắc quá nên thử lắp CCTV thôi. Thế rồi sáng nay đã quay được mấy cảnh hết sảy luôn ạ.”
“Là gì vậy?”
“Có hai thằng nhóc con mặc võ phục cứ lởn vởn qua lại ở đấy, rồi đột nhiên chúng chạy ào đi, trên tay cầm cái gì đấy. Võ phục gì nào? Chính là Hapkido chứ sao nữa. Chuẩn không cần chỉnh luôn.”
“Này chú, chuyện đó cũng chưa chắc chắn cơ mà. Chú có nhìn thấy rõ ràng là bọn trẻ ăn trộm đồ đâu.”
“Ồ, máy quay không ghi được hình cụ thể sao?”
“Đấy là tại chất lượng cái CCTV không được tốt lắm. Nhìn không rõ mặt bọn trẻ con nhưng mà vẫn thấy chúng nó cầm đồ rồi bỏ chạy.” “Cả cái đó cũng đâu có chắc. Màn hình mờ quá nên chẳng thấy rõ gì cả.” Hai người tiếp tục tranh cãi trước mặt Goo Dong Chi. Cứ như công tố viên và luật sư đang luân phiên đưa ra quan điểm trước thẩm phán trên tòa án vậy. Goo Dong Chi thở dài.
“Goo tiên sinh, đừng đứng ở đây mãi thế này, anh vào trong xem thử đoạn clip cái CCTV ghi được đi. Xem rồi anh sẽ hiểu ý tôi thôi ạ.” Baek Ki Hyun kéo tay Goo Dong Chi. Gã đi theo ông ta vào trong cửa hàng sắt thép.
Goo Dong Chi cực kỳ ghét mùi bên trong cửa hàng sắt thép. Mùi tanh đặc biệt của kim loại quyện với mùi của tòa nhà Cá Sấu tạo nên một thứ mùi kinh tởm khó tả. Sống được giữa cái mùi kinh khủng ấy cũng thật là thần kỳ. Mỗi khi cần món đồ gì đó phải đi vào cửa hàng sắt thép, Goo Dong Chi đều
nín thở. Một phần cũng bởi gã đặc biệt nhạy cảm với mùi, nhưng thực sự cái mùi nồng nặc của cửa hàng sắt thép này hết sức khó chịu. Goo Dong Chi hít một hơi thật sâu rồi đi vào tít phía trong cửa hàng. Cha Cheol Ho bám gót gã.
Bên trong cửa hàng có một căn phòng nhỏ, rộng vừa đủ cho một người nằm, ở góc phòng đặt một màn hình. Baek Ki Hyun mở đoạn clip ghi hình, khung cảnh phía trước cửa hàng sắt thép lờ mờ hiện lên. Hình ảnh quá nhiều nên chẳng thấy rõ gì hết. Có hai đứa trẻ xuất hiện trên màn hình. Điều duy nhất có thể khẳng định chắc chắn là chúng mặc võ phục. Hai đứa trẻ vừa chạy vừa đùa nghịch trước cửa hàng. Đoạn clip liên tục bị ngắt quãng. Tốc độ khung hình quá thấp nên không thể nhìn rõ động tác của lũ trẻ. Rồi chúng vội vã chạy đi đâu đó.
“Tiên sinh thấy rồi chứ ạ?”
Baek Ki Hyun ngước lên nhìn Goo Dong Chi, hỏi.
“Nhìn không rõ lắm nhỉ.”
Goo Dong Chi trả lời.
“Dù thế nhưng rõ ràng chúng nó đột nhiên cầm cái gì đó rồi chạy đi mà” “Cũng chưa chắc. Không thể khẳng định điều gì bằng đoạn phim này được. Đồ đạc chú để trước cửa hàng có bị mất cái gì không?” “Nhiều đồ quá nên tôi cũng không rõ có mất gì không nữa, nhưng đây không phải là chuyện mới xảy ra một hai lần.”
“Ấy, không có chứng cứ mà ông chú.”
Goo Dong Chi quyết định ra ngoài trước đã rồi tính sau. Cái thứ mùi này khiến gã không thể tỉnh táo mà suy nghĩ được. Baek Ki Hyun và Cha Cheol Ho cũng theo gã ra ngoài.
“Ông chủ Baek, dựa vào đoạn phim ấy thì có lẽ hơi khó kết luận hành
động của lũ trẻ.”
Goo Dong Chi nói xong, Baek Ki Hyun liền nhăn nhó.
“Thấy chưa, ông chú này. Với chất lượng hình ảnh như thế thì làm sao coi đó là chứng cứ được.”
“Võ sư Cha cũng nói chuyện một chút với lũ trẻ đi. ‘Ở cửa hàng sắt thép đã quay được mấy cảnh kỳ lạ. Ở đấy có lắp CCTV nên tuyệt đối đừng nghĩ đến chuyện tới đó ăn trộm đồ’, anh bảo lũ trẻ như thế.”
“Goo tiên sinh, lũ trẻ chỗ chúng tôi tuyệt đối không phải loại hư đốn như vậy đâu. Ngày nào tôi cũng dạy tác phong võ sĩ với giáo dục nhân cách cho chúng mà.”
“Vâng, hẳn rồi. Nhưng dù sao đi nữa, phòng ngừa vẫn hơn là nghi ngờ.” Goo Dong Chi nói, Cha Cheol Ho gật gù.
“Quả nhiên là Goo tiên sinh. Anh nói hay quá. Phòng ngừa vẫn hơn là nghi ngờ. Khi nào dạy dỗ lũ trẻ về nhân cách tôi sẽ nói thêm cả câu này nữa. Tôi nhất định sẽ bảo chúng đây là lời Goo tiên sinh đã nói.” “Không, không cần đến mức đó đâu.”
“Nếu anh thấy áp lực thì để tôi chỉnh sửa lại một chút rồi bảo là mình nói được không ạ?”
“Anh định sửa thế nào?”
“Nhân giả vô địch, đề phòng là trên hết. Với những người tử tế thì không có ai là địch thủ, với những người luôn đề phòng công kích của địch thủ thì không có chuyện gì là bất ngờ.”
“Mở mồm ra là nhân giả vô địch. Đúng là đồ điên.”
Baek Ki Hyun lớn tiếng. Cha Cheol Ho liền đốp chát hỏi lại cái gì cơ. Goo Dong Chi không thể nghe nổi hai người bọn họ đang nói gì. Điện thoại
di động trong túi quần trước của gã rung lên. Không có mấy người biết số di động của Goo Dong Chi. Gọi điện cho gã thế này hẳn là có việc rất gấp. Goo Dong Chi rời khỏi chỗ Baek Ki Hyun và Cha Cheol Ho đang đoi co để nhận điện thoại. Nhận thấy gương mặt Goo Dong Chi biến sắc, hai người họ liền ngừng cãi cọ. Goo Dong Chi chỉ đáp mấy câu ngắn ngủn, còn lại đều là nghe người bên kia đầu dây nói.
“Chắc là tôi phải đi một lát.”
Goo Dong Chi vừa nhét điện thoại vào túi vừa nói.
“Vâng, Goo tiên sinh. Hẳn là có việc gấp lắm ạ.”
Baek Ki Hyun gật đầu đáp.
“Vâng, hai người có thể tự giải quyết với nhau được chứ?” “Ôi dào, đương nhiên rồi, anh đừng lo.”
Goo Dong Chi chưa nghe hết câu trả lời đã quay người chạy. Tiếng đế giày thể thao nện xuống nền đất nghe rất êm. Một ngày nắng đẹp, từ trên sân thượng vang lên tiếng gậy đập vào đồ giặt. Gã chạy về hướng bãi đỗ xe công cộng. Hầu hết người dân trong khu đều đỗ xe ở đây, Goo Dong Chi cũng vậy. Người của khu nhà có thể gửi xe rẻ hơn một nửa so với giá niêm yết.
“Có vẻ vừa xảy ra một vụ án mạng.”
Baek Ki Hyun lẩm bẩm như nói chuyện một mình.
“Goo tiên sinh từng là cảnh sát ạ?”
Cha Cheol Ho hỏi.
“Ừ, đã từng. Nghe nói cậu ấy từng là một tay cảnh sát rất máu mặt đấy, nhưng bây giờ, gọi là gì nhỉ, thám tử tư được chính phủ cấp phép à. Nhìn thoáng qua cũng thấy dáng dấp nhanh nhẹn giỏi đánh đấm còn gì.” “Chuẩn rồi. Tuy không phải võ sĩ nhưng trông anh ấy cũng thuộc dạng
đằng đằng sát khí đấy.”
“Võ sĩ nhìn phát là biết hả?”
“Biết chứ sao. Cao thủ có thể nhận ra cao thủ mà.”
“Nực cười, đúng là thần kinh. Chú mày mà là cao thủ hả?” “Hôm nào chú thử lên võ đường mà xem. Tôi sẽ cho chú trăm nghe không bằng một thấy luôn. Không thì chú cứ gửi quý tử nhà chú tới chỗ tôi đi.”
“Sao tôi phải gửi con trai quý hóa nhà tôi tới chỗ cậu chứ?” “Chú cứ lên mà xem, một lần thôi. Chú sẽ biết thế nào là võ thuật đích thực.”
“Tôi phải ở đây bắt mấy thằng ranh mặc võ phục nên không đi được đâu.”
“A, chú lại thế nữa rồi. Thôi được rồi, cứ coi như là bọn trẻ đã lấy trộm đồ của chú đi, nhưng từ nay về sau tôi tuyệt đối sẽ không để chuyện đó xảy ra nữa. Mà, tối nay tôi mời chú một chén nhé.”
“Thật á?”
“Đương nhiên. Võ sĩ không nói dối.”
“Võ sĩ mê rượu quá nhỉ.”
Từ bãi đỗ công cộng, một chiếc xe lao ra. Chiếc xe nhỏ màu đen vừa phát tiếng rên rỉ vừa chạy ra đường lớn.
2
“Tôi nói bao lần rồi hả? Tôi đã bảo tôi chỉ lên đó hút thuốc thôi mà.” Lee Kang Hyuk tì cả hai bàn tay lên bàn nói. Trông mặt hắn như muốn đập bàn rầm rầm, nhưng cơ thể rụt rè e sợ của hắn lại không nhức nhích nổi theo ý muốn.
“Nghe này, cậu Lee Kang Hyuk, tôi cũng y như cậu thôi. Không biết mình đã nói đi nói lại chuyện này bao nhiêu lần rồi. Vâng, phải rồi. Tôi biết là cậu lên đó hút thuốc rồi, cậu có hút thuốc hay đốt lửa, hay mở tiệc nướng BBQ ở trên đấy tôi cũng không quan tâm, mẹ kiếp, nhưng tại làm sao cái cúc áo của cậu lại rơi ở hiện trường vụ án hả?”
Kim In Cheon vừa đập bàn vừa quát. Giật mình trước đòn tấn công bất ngờ, Lee Kang Hyuk ngả người ra phía sau. Kim In Cheon ép sát người vào bàn hét lên, còn Lee Kang Hyuk lùi hẳn ra xa trả lời.
“Hẳn là rơi từ trước rồi. Một ngày tôi lên đấy hút thuốc đến mấy lần mà.” “Vừa hút thuốc cậu vừa bứt cúc ở ống tay áo phụt phụt như thế này à, hay cậu vừa sờ soạng khắp người mình vừa tự sướng kiểu khà, thuốc ngon thật, khà, khói thuốc bay ra tiếc quá, hay cậu hút thuốc cái kiểu xôi thịt hự, hà, hự, hà, hả? Mẹ kiếp, cậu nói thế mà nghe được à? Hút thuốc tại sao lại rơi cúc áo được.”
“Đến lúc rơi thì nó rơi chứ sao nữa.”
“À, nói dễ nghe quá nhỉ. Đến lúc rơi thì rơi à? Vậy cớ sao nhất định phải
là chỗ đó? Nghĩ mà xem, cậu Lee Kang Hyuk. Dù là ngẫu nhiên thì cũng phải có lý do chứ.”
“Không có chứng cứ gì cả mà, anh cảnh sát. Tôi còn chẳng biết người chết là ai. Sao tôi lại phải đẩy người không quen biết xuống chứ? Hả? Tôi điên rồi chắc? Hay hóa rồ rồi?”
“Cậu bị điên hay hóa rồ thì tôi biết thế quái nào được. Từ từ điều tra rồi khắc biết.”
“Ôi, phát rồ lên mất.”
“Chà, cậu Lee Kang Hyuk, tôi hỏi lại cậu lần nữa. Theo lời của nhân chứng, vào lúc 6 giờ 28 phút chiều, nạn nhân Bae Dong Hoon đã rơi xuống từ sân thượng tầng mười lăm của tòa nhà. Đương nhiên, mất mạng. Sau khi nhận được tin báo, cảnh sát đã xuất phát và có mặt tại hiện trường lúc 6 giờ 35 phút. À, mẹ kiếp, đến sớm vãi linh hồn nhỉ. Tốc độ đạn bay luôn nhỉ, đạn bay. Ai nói cảnh sát chúng tôi đến hiện trường chậm trễ nào? Dù sao thì, cậu Lee Kang Hyuk cho biết lúc đó cậu đang ở văn phòng tầng mười một, nhưng kiểm tra qua CCTV thì rõ ràng là cậu đã không ở đó.”
“Đi hút thuốc thì ai mà nhìn giờ chứ?”
“Một ngày cậu hút thuốc mấy lần?”
“Khoảng ba bốn lần gì đấy.”
“Những người hút thuốc thường hút vào những khoảng thời gian nhất định. Sau bữa trưa một điếu, buổi chiều một điếu, trước khi tan làm một điếu chẳng hạn.”
“Tôi thì không như thế.”
“Ai lại đi lên sân thượng hút thuốc lúc những người khác tan ca bao giờ.” “Hôm nay còn nhiều việc dở dang nên tôi định ở lại làm muộn.”
“Còn bữa tối?”
“Cố xong việc cho nhanh rồi ăn chứ sao.”
“Ngay sau khi sự việc xảy ra, CCTV tại thang máy tầng mười lăm đã ghi được hình ảnh của cậu. Thời gian hoàn toàn trùng khớp.”
“A, thực sự là không phải mà.”
“Cậu thực sự không quen biết Bae Dong Hoon? Toàn bộ cuộc thẩm vấn này đang được ghi âm lại, cậu Lee Kang Hyuk mà nói dối thì sẽ to chuyện hơn đấy. Cậu biết chứ?”
“Cùng một tòa nhà nên chắc cũng đã có lần chạm mặt, nhưng chúng tôi chưa từng chuyện trò gì với nhau cả. Thật đấy.”
Tiếng chuông điện thoại từ túi quần sau của Kim In Cheon vang lên. Là bài hát mới đang thịnh hành của một nhóm nhạc nữ nổi tiếng. Bài hát mượn nhịp nhanh của nhạc trot*, giai điệu bắt tai chỉ cần nghe một lần là khó mà quên được, cùng với giọng hát được xử lý qua nhiều khâu kỹ thuật phòng thu, đã khuấy động bầu không khí căng thẳng giữa hai người.
“A lô... Ờ... Chuyện ổn cả chứ?”
Kim In Cheon đi ra một góc phòng hỏi cung nghe điện thoại. Ý không muốn để kẻ bị tình nghi thấy dáng vẻ đó của mình.
“Không biết cái máy tính bảng thế nào nhỉ. Ừ... ừ... không phải. Chắc hắn không để nó ở nhà đâu. Phải rồi... Mẹ kiếp, để đâu được nhỉ?” Hình như có nhiều điều phải suy nghĩ nên Kim In Cheon vừa nói chuyện vừa nhìn lên trần nhà, trông như đang gắng sức nhớ lại điều gì. Anh ta nhìn chằm chằm vào đường giao nhau giữa tường và trần nhà, thi thoảng lại văng tục.
“Được rồi, trước hết thì cái đó không có ở văn phòng, nhất định phải tìm
cho ra nó.”
Kim In Cheon ngắt điện thoại và trở lại chỗ ngồi. Anh ta lộc cộc kéo ghế ra. Lee Kang Hyuk cảnh giác. Suốt thời gian Kim In Cheon đi nghe điện thoại, hắn chăm chăm nhìn vào tấm ảnh đặt trên bàn.
“Anh cảnh sát, người này, tôi nhớ ra anh ta rồi.”
“Nhớ gì? Chà, phải đến bây giờ ký ức về vụ giết người kịch tính ấy mới tái hiện trong tâm trí cậu hả?”
“Không phải thế, đã bảo là tôi không giết anh ta mà. Tôi nhớ ra chuyện trước kia từng gặp anh ta trên sân thượng.”
“Khi nào?”
“Tầm một tuần trước. Chắc khoảng 4 giờ chiều, hôm ấy trời mưa. Bởi vì mưa nên tôi không ra được chỗ mình vẫn thường đứng hút thuốc. Thế là tôi đứng dưới mái hiên, đang hút thì tôi nhìn thấy ở dưới tấm biển quảng cáo lớn bên trái mình có ai đó đang nhìn xuống phía dưới. Trông cứ như thể anh ta sẽ nhào thẳng xuống luôn vậy. Không hiểu sao trong tôi lại dấy lên suy nghĩ kỳ lạ. Kiểu như nếu càng nghĩ nhiều về việc đó thì có khi anh ta sẽ làm thế thật ấy... Tôi cứ đứng một mình tưởng tượng linh tinh. Ầy, bố khỉ, anh ta mà nhảy xuống thật thì tính sao? Nếu anh ta tỏ ý làm liều thì liệu có phải chạy hộc tốc đến mà giữ anh ta lại không nhỉ. Tôi đã nghĩ như thế đấy.”
Kim In Cheon móc từ trong túi áo sơ mi ra một bao thuốc lá. Anh ta rút một điếu, cho lên miệng ngậm rồi đút bao thuốc trở lại túi, đoạn lại lôi nó ra. Anh ta đẩy một điếu thuốc nhỏ ra khỏi bao rồi chìa cho Lee Kang Hyuk. Lee Kang Hyuk ngập ngừng nhận lấy điếu thuốc.
“Tôi được hút ạ?”
“Sao thể? Cậu thich thuốc lá lắm cơ mà.”
“Không phải chỗ này cấm hút thuốc sao?”
“Mẹ kiếp, cậu coi cảnh sát là cái giống gì thế hả? Chẳng lẽ tôi sẽ bị cảnh sát tóm rồi bắt nộp phạt vì tội hút thuốc ở đây chắc?”
“Anh cảnh sát thì không sao nhưng mà...”
“Thế hút hay không hút?”
Kim In Cheon quát, Lee Kang Hyuk liền ngậm lấy điếu thuốc và đưa mặt lại gần. Ánh lửa từ cái bật lửa bỏ túi soi sáng hai người họ rất ấm áp. Khói lập tức tỏa lên. Kim In Cheon lôi gạt tàn nhựa trong ngăn kéo ra, Lee Kang Hyuk điều chỉnh nhịp thở và bắt đầu hút thuốc một cách thận trọng. Hắn cố gắng để khói nhả ra không làm phật ý Kim In Cheon, để làn khói khiêm tốn tan biến thật nhanh mà không làm phiền bất kỳ ai.
“Cậu có biết ở đây lắp camera không hả? Mẹ kiếp, tóm được ngay tại trận nhé. Tội hút thuốc trong phòng thẩm vấn phải nộp phạt một triệu won.” “Gì vậy? Anh bảo không sao mà.”
“Chưa gì đã sợ, giỡn chơi chút thôi mà. Nhanh kể tiếp chuyện đi.” Lee Kang Hyuk băn khoăn không biết nên hút tiếp hay dập thuốc đi. Hắn đặt điếu thuốc lên rảnh gạt tàn.
“Hình như lúc đó anh ta đang khóc. Mưa rơi khá nặng hạt, anh ta vừa đứng dưới mưa vừa khóc.”
“Khóc á?”
“Vâng, người anh ta run lên bần bật.”
“Cậu chắc chắn chứ?”
“Tôi không dám chắc nhưng giống thế lắm. Gương mặt anh ta cũng hơi nhăn nhúm nữa. Mưa to nên tôi nhìn không rõ nhưng chắc đúng là người này đấy.”
“Đừng có ‘chắc’.”
“Anh cảnh sát nãy giờ cũng cứ khăng khăng tôi chắc hẳn chính là hung thủ giết người đấy còn gì.”
“Mẹ kiếp, mồm mép ghê nhỉ. Còn biết vặn lại lời cảnh sát nữa.” “Anh ta cứ như thế tầm năm phút rồi đi xuống theo lối thoát hiểm. Tôi tắt thuốc rồi cũng vu vơ đi ra phía đấy, đứng dưới tấm biển quảng cáo thử nhìn xuống dưới.”
“Rồi sao?”
“Cao chứ sao nữa.”
“Thế thôi hả?”
“Từ chỗ cao thế này mà rơi xuống chắc chắn chết ngay lập tức, tôi đã nghĩ thế.”
“Chả khác mẹ gì diễn hài nhảm... Cậu sáng tạo ra thể loại mới luôn đi. Thể loại nhân chứng nhảm.”
Nói vậy nhưng Kim In Cheon vẫn hì hụi viết chi chít gì đó vào sổ tay của mình. Trông có vẻ như không phải anh ta đang viết chữ mà là đang vẽ tranh. Đầu bút bi chúi xuống, giật giật di chuyển xuống dưới. Lee Kang Hyuk nhặt điếu thuốc đang gác trên gạt tàn lên rít một hơi. Hắn nhìn Kim In Cheon đang vùi mặt vào cuốn sổ tay rồi nhả ra một ngụm khói dài. Kim In Cheon vẫn tiếp tục viết gì đó vào sổ, không thèm ngẩng đầu lên.
Lee Kang Hyuk xoay cổ tay đang cầm thuốc lá và nhìn đồng hồ. Kim đồng hồ chỉ 10 giờ 30 phút. Khi mắt hắn nhận thức được thời gian, cơn mệt mỏi mới ùa tới. Hắn quẹo cổ sang trái rồi sang phải, rồi lại gật cổ xuống dưới và ngửa ra sau.
3
Park Chan II, ông chủ kiêm bếp trưởng của nhà hàng Mùi hương Sicilia ở dưới tầng hầm tòa nhà Cá Sấu, mỗi ngày sau khi kết thúc công việc đều lên quán game online trên tầng ba. Anh ta cắn điếu thuốc, ngả người vào lưng ghế rồi vừa chửi bới đám khách hàng khốn nạn mình đã gặp trong ngày vừa chơi game, phải làm thế thì ngày hôm đó của anh ta mới kết thúc êm xuôi được. Những game yêu thích của anh ta hầu hết đều là mấy trò đơn giản. Park Chan II không cần những trò có cốt truyện dài lê thê. Thời gian đâu mà theo mấy cái trò có lớp có lang đó. Phải là trò gì kết thúc nhanh nhanh như kiểu game thể thao hay quyền Anh chẳng hạn. Nói chung, dù thế nào cũng không thể thiếu màn choảng nhau. Park Chan Il nhớ lại lần lượt mặt từng khách đã đến nhà hàng từ bữa trưa cho tới bữa tối. Rặt một lũ khốn nạn. Mấy thằng ranh con ăn nói trống không, mấy con mẹ đã ăn tống ăn táng còn nhai chóp chép, mấy lão xin thêm bánh mì tới chục lần, mấy cha sĩ diện gọi rượu vang rẻ tiền cho gái rồi lải nhải kiến thức sai bét về rượu vang, Park Chan Il nhớ đến từng kẻ một. Anh ta ngồi bàn số 1 trong phòng hút thuốc ngập tràn khói thuốc lá, hướng về quả bóng chày đang bay tới, bấm phím Enter liên hồi, tung nắm đấm rồi vung chân vào những kẻ địch trong máy tính. Nếu không làm vậy thì chưa biết chừng anh ta sẽ hành động như thế trong đời thực luôn mất. Park Chan Il thường xuyên hình dung ra cảnh vung gậy bóng chày hay tung chân đạp những vị khách đến nhà hàng. Anh ta tưởng tượng hình ảnh máu đỏ ròng ròng chảy trên tấm khăn trải bản trắng. Chưa biết
chừng một ngày nào đó cảnh tượng ấy sẽ trở thành hiện thực. Hơn 11 giờ, quán game vắng dần. Lũ trẻ ranh đã về nhà hết, còn lại chỉ toàn là người lớn. Nói “người lớn” nhưng thực ra đa phần đều là bọn dạt vòm hoặc mấy gã lười chảy thây ngại cả về nhà hay mấy thằng cha to đầu mà miệng còn hôi sữa không phân biệt nổi thời gian trong game với thời gian ngoài đời thực. Bọn họ một tay gõ bàn phím, một tay cầm điếu thuốc, ăn mì cốc hoặc giúi tay vào gói quà vặt, quên hết chuyện thế gian. “Ê Bin Il, làm cho anh cốc mì.”
Park Chan Il hét vọng ra quầy thu ngân. Từ 7 giờ tối hôm trước tới 7 giờ sáng hôm sau, nhân viên làm thêm Lee Bin Il vừa trông quán vừa làm chân chạy vặt giải quyết đủ thứ chuyện ở đây. Không có game gì là cậu ta không chơi được, mấy vấn đề cơ bản liên quan tới máy tính cậu ta đều có thể giải quyết dễ dàng. Mơ ước làm diễn viên nên ban ngày cậu ta đến đoàn kịch tập luyện, nhưng hơn ai hết, cậu ta biết rõ mình chẳng có chút tài năng diễn xuất nào. Trừ đôi lông mày rậm và khuôn mặt nhỏ, ngoại hình của cậu ta cũng hoàn toàn bình thường, không mấy nổi bật.
“Đầu bếp kiểu gì mà ngày nào cũng ăn mì cốc thế?”
Vừa đặt cốc mì đã đổ đầy nước nóng xuống cạnh bàn phím, Lee Bin Il vừa nói. Cậu ta biết rất rõ sở thích của Park Chan Il. Nhất định phải là mì hải sản thập cẩm cay, thả thêm một quả trứng sống và ít kim chi xào đóng hộp lên trên nữa.
“Chú mày không biết đấy thôi, nhóc ạ. Chỉ có mì cốc mới là thứ thực phẩm hoàn hảo.”
“Đâu, hoàn hảo chỗ nào cơ?”
“Nhìn mà không biết à? Từ cái vẻ ngoài mỡ màng này đã quá hoàn hảo rồi còn gì.”
“Trong mắt em thì chả hoàn hảo gì hết.”
“Chú mày không nấu ăn bao giờ nên không biết đấy. Ôi giời, mẹ kiếp, thằng chết tiệt này sao nhanh thế?”
“Muốn bắt thằng đấy anh phải đánh liên tục cơ.”
“Đấm hả?”
“Anh đấm dồn nó về một góc rồi xoay người đá.”
“Trò này xoay tròn tấn công không ăn thua gì à?”
“Tại ông anh chậm quá đấy thôi.”
“Ranh con, ăn nói thế à. Bảo anh mày chậm là sao? Mà Major League Baseball chưa ra phiên bản mới hả?”
“Chưa đâu.”
“Ờ, thanh kiu. Tí nữa có gì không biết anh lại gọi chú mày.” “Thực phẩm hoàn hảo, mời anh xơi hoàn toàn nhá.”
Lee Bin Il vừa ngồi xuống quầy thu ngân thì nghe thấy tiếng ai đó đi lên cầu thang. Giữa những ồn ào của quán game, cậu ta vẫn nhận ra được âm thanh đó rất rõ ràng. Lee Bin Il nghe ra ngay tiếng bước chân nhờ những rung động khẽ khảng truyền tới khi có người lên cầu thang. À không, cậu ta nghĩ, cũng không hẳn là “rung động khẽ khàng”. Dù gì thì mỗi khi có người đi lên, cậu ta đều cảm nhận được những rung động rất đặc trưng. Lee Bin Il nhìn lên đồng hồ treo tường. 12 giờ 15 phút.
Người đẩy cánh cửa kính bước vào quán game là Goo Dong Chi. Lee Bin Il gập sách và đứng bật dậy theo phản xạ.
“Anh đến đấy ạ?”
“Ừ, bếp trưởng Park có đây không?”
“Hôm nay cũng thế, từ 11 giờ là anh ấy đã ở đây đấm đá tơi bời rồi ạ.
Vừa đánh vừa ăn thực phẩm hoàn hảo nữa chứ.”
“Thực phẩm hoàn hảo là cái gì?”
“Anh vào đi ạ.”
Goo Dong Chi mở của phòng hút thuốc tiến vào trong. Khói thuốc lá trong phòng nồng nặc đến nỗi khiến người ta nghi ngờ có khi lại tìm thấy được cả xác động vật ở mấy chỗ ngóc ngách. Có người sống được ở cái chỗ này cũng thật là quá thần kỳ.
“Bếp trưởng Park.”
“Đến rồi à?”
“Này, ở nơi như thế này anh vẫn hít thở khỏe quá nhỉ?”
“Đang chơi game với tinh thần xông pha chiến trường mà lị. Sống Chết giũa bom đạn luôn.”
“Nói chuyện chút được không? Tôi có việc muốn hỏi anh.” “Ờ, hỏi đi.”
“Ở đây tôi không nói nổi câu nào đâu.”
“Thám tử cái kiểu gì mà thuốc cũng không hút thế. Nghĩ mà xem, trong số các thám từ đỉnh cao có ai lại không hút thuốc không.”
“Nhiều ấy chứ.”
“Ha ha, thế hả? Ra ngoài đợi tôi chút đi. Tôi quét nốt bọn nhải nhép ở bàn này rồi ra ngay.”
Goo Dong Chi đóng cửa và đi ra ngoài. Không khí ở phòng cấm thuốc cũng không thoải mái gì, nhưng so với phòng hút thuốc thì vẫn thuộc loại tương đối dễ chịu. Đến mức có thể cảm thấy cái mùi đặc trưng của tòa nhà Cá Sấu cũng thật là thơm tho.
Goo Dong Chi ngồi ở bàn gần quầy thu ngân nhất. Đó là chỗ dành riêng
cho gã. Văn phòng gã không có máy tính nên khi cần gã thường xuống quán game và lúc nào cũng chỉ ngồi đúng vị trí này.
“Có việc gì thế?”
Tầm mười lăm phút sau, Park Chan Il đi tới đặt tay lên vai Goo Dong Chi. Bàn tay anh ta khá to và dày. Đầy những vết dao cắt rất ra dáng tay của đầu bếp, đồng thời cũng không thiếu những vết chai ở các khép ngón tay chẳng giống tay của đầu bếp chút nào.
“Anh có biết con dao này không? Anh biết ai thường dùng loại dao này chứ?”
Goo Dong Chi xoay màn hình sang để Park Chan Il nhìn cho rõ. Trên màn hình là một con dao trông rất kỳ quái. Cán và độ dày của lưỡi dao khá giống loại dao làm cá nhưng phần mũi dao lại không nhọn mà hơi tròn. Một con dao không thể dùng để mổ và lóc thịt cá.
“Dài phết nhỉ. Tầm 40 xen ti mét đấy nhỉ?”
“Ừ, 43 xen tì mét.”
“Đây chắc chắn là loại đã được cải tiến rồi. Dao làm cá có hai loại. Dao sashimi và dao deba. Cậu biết dao sashimi chứ? Nó là dao để xẻ cá, còn deba la dao tách xương. So với dao sashimi thì lưỡi dao deba rộng hơn hẳn. Dùng lẫn cũng được thôi nhưng theo nguyên tắc thì là như vậy, con dao này trông khá giống hai loại dao kia, nhưng lưỡi vừa rộng lại hơi dẹt, phần đầu lưỡi cũng tù nữa. Hiếm đấy Dao là cái gì chú, là thứ để mổ xẻ mà, đúng không? Con dao này thì ai dùng chứ.”
“Vậy ý anh đây là loại dao không ai dùng sao?”
“Đấy mới là chỗ để anh đây bộc lộ giá trị chân chính chứ, phải không nào? Đương nhiên là có người dùng rồi.”
“Anh đừng đùa nữa, nói mau đi.”
“Vào nhũng năm 1970, có một võ đường tên là Nguyên Thủ đạo. Nguyên Thủ đạo nghĩa là gì? Là đao đầu tròn* chứ còn gì nữa. Võ đường Nguyên Thủ dùng dao làm vũ khí chủ đạo nhưng hoàn toàn không luyện và sử dụng kỹ thuật đâm. Bởi vì việc ấy đi ngược lại nguyên tắc và các động tác võ thuật của họ, họ có thể dùng kiếm để chém hay cắt hay đánh nhưng tuyệt đối không được đâm. Con dao này giống loại dao của võ đường Nguyên Thủ đấy. Xét về chiều dài thì có vẻ hơi ngắn, nhưng hình dáng gần như giống hệt. Dao của võ đường Nguyên Thủ chắc phải dài tầm 60 xen ti mét.”
“Cái quái gì anh cũng biết nhỉ.”
“Nói đến dao phải gọi Park Chan Il mà nói đến Park Chan Il phải nhắc tới dao mà lị. Cậu hỏi tôi là chuẩn rồi đấy.”
“Võ đường Nguyên Thủ bây giờ vẫn còn chứ?”
“Đã biến mất từ lâu lắm rồi. Thời buổi này ai còn cầm dao luyện võ nữa. Nhưng mà, cậu thấy con dao này ở đâu đấy?”
“Phát hiện được ở hiện trường một vụ giết người.”
“Thật á? Thằng này đúng là dở người.”
“Sao anh lại nói thế?”
“Nghĩ mà xem. Muốn giết người thì phải chọn con dao nào đâm chọc được chứ. Phực, phực, mấy loại dao có thể bới tung cả nội tạng lên dạo này nhiều lắm. Chứ dùng con dao này mà giết người thì không phải quá tốn sức à.”
“Hẳn là thế rồi. Cám ơn anh nhé.”
“Dạo này cậu làm thêm đấy hả? Bình thường cậu có làm mấy vụ giết người đâu?”
“À, có ông anh trong đội chuyên án nhờ hỏi hộ ấy mà.”
“Có dao đi thì cũng phải có dao đến chứ nhỉ.”
“Hả?”
“Mời tôi uống đi chứ sao nữa.”
“À... Hôm nay tôi có việc hơi gấp cần giải quyết.”
“Thế hả. Tôi biết mấy giai thoại hơi bị hay liên quan đến sự suy tàn của võ đường Nguyên Thủ đấy... Mấy chuyện này có tìm trên mạng cũng không thấy đâu... Nhưng cậu bận thì chịu rồi.”
“Anh đang thả thính đấy à?”
“Thì cứ thử giăng lưới thôi ấy mà.”
“Thôi anh đừng có nấu nướng nữa, kinh doanh đi. Dễ thành công đấy.” “Nhà hàng cũng là kinh doanh đấy chứ. Sắp toi đến nơi rồi đây này.” “Đồ ăn dở nên chả thế.”
“Bố khỉ, trên đời sao lại có thằng khốn lúc nào cũng thành thật quá mức thế này nhỉ.”
“Đi thôi. Tôi mời anh một chén vậy.”
Hai người rời khỏi chỗ và đi ra quầy thu ngân. Lee Bin Il vừa đứng dậy vừa kéo hình vua hài Sác-lô nhăn nhúm trên ngực áo ra cho thẳng thớm. “Ê Bin Il, tối mai trước khi đi làm qua chỗ anh ăn đê. Anh sẽ làm mấy món hết sảy cho chú.”
“Thực phẩm hoàn hảo ấy hả?”
“Thằng nhóc này coi thường đầu bếp đấy à. Khà khà, anh đãi chú những món còn hoàn hảo hơn cả thực phẩm hoàn hảo nhá.”
Quán rượu mà Goo Dong Chi và Park Chan Il thường hay ghé là một
quán rượu gạo cách tòa nhà Cá Sấu hai tòa nhà, nhưng khi hai người tới nơi thì quán đã đóng cửa. Họ đang đi loanh quanh thử tìm quán khác thì bắt gặp hai gương mặt quen thuộc đang ngồi ở bàn ngoài vỉa hè uống rượu. Là Baek Ki Hyun và Cha Cheol Ho.
“Ô, chú Baek kìa.”
Park Chan Il hào hứng nói.
“Sao? Định uống cùng họ luôn hả?”
Goo Dong Chi bước ra phía sát lòng đường và hỏi.
“Ờ, rủ họ uống cùng đi. Hôm nay thành ra buổi họp tổ dân phố tòa nhà Cá Sấu rồi đây.”
“Muốn uống cùng thì anh qua đó uống đi. Tôi lên trước có chút việc.” “Này, thân thiết với hàng xóm láng giềng chút đi. Ngày nào cũng ở trên đỉnh làm gì đấy hả?”
“Bếp trưởng Park cứ làm thân với mọi người đi. Ngày hôm nay tôi cũng nói chuyện với họ nhiều rồi.”
“Chuyện gì hả?”
“Có vài chuyện. Mà ban nãy anh bảo kể cho tôi lịch sử suy tàn của võ đường Nguyên Thủ cơ mà.”
“Ù nhỉ, định nói chuyện đó mà nhỉ. Trưa mai xuống chỗ tôi ăn đi. Lúc đấy tôi kể cho. Giờ tâm trạng tôi bết lắm, phải ực một chén mới được.” “Có ngày nào tâm trạng anh không bết hả?”
“Trong các cấp độ bết thì hôm nay là cực bết. Bết như kẹo mạch nha dính chặt vào răng không rút ra nổi ấy.”
“Rồi, tôi biết rồi. Tôi lên trước đây.”
“Này, thám tử Goo.”
“Ừ, sao?”
“Đồ ăn của tôi dở lắm hả?”
“Không, ngon mà. Nãy tôi đùa đấy, chỉ là ngon kiểu không hợp với khu này lắm thôi.”
“Thật hả?”
“Thật mà.”
“Cảm ơn nhé. Mai gặp lại.”
Park Chan Il đút tay vào túi quần đi về phía quán rượu. Cha Cheol Ho nhận ra Park Chan Il liên vẫy tay gọi. Park Chan Il kêu lớn: “Ấy, chú!” Không muốn để hai người kia nhìn thấy, Goo Dong Chi nhanh chóng quay lại tòa nhà Cá Sấu. Chỉ còn duy nhất quán game online sáng đèn.
Mùi của tòa nhà Cá Sấu đón chào Goo Dong Chi. Gã thưởng thức thứ mùi ấy trong lúc bước lên cầu thang. Đoạn cầu thang từ tầng một lên tầng hai đầy những miếng dán nhỏ giới thiệu võ đường Hapkido và quán game online. Nhân giả vô dịch, học Hapkido không còn kẻ địch. Dàn máy khủng, dịch vụ đỉnh cao, 1500 won một tiếng. Goo Dong Chi vừa đọc mấy câu quảng cáo vừa đi lên tầng. Khi đi qua quán game và lên cầu thang về văn phòng mình, gã nhận ra những dấu vết cho thấy sự có mặt người lạ. Mùi đã khác. Ở tòa nhà Cá Sấu, dù có giấu mình đi chăng nữa cũng không giấu được mùi. Người ta nói, đồng tiền xấu đuổi đồng tiền tốt, dù đôi khi đồng tiền tốt cũng đuổi đồng tiền xấu. Giữa những mùi tồi tệ, thứ mùi khá hơn sẽ bị bật ra. Goo Dong Chi tiến vào trong bóng tối. Đèn cầu thang sắp tự động bật sáng ngay đây.
“Anh Dong Chi đấy à?”
Giọng nói của một người đàn ông biết tên gã. Giọng nói không hề có ý
công kích. Người định tấn công sẽ không lên tiếng trước. Goo Dong Chi thả lỏng bàn tay. Gã tiến thêm một bước nữa, đèn bật sáng, khung cảnh xung quanh hiện ra trong giây lát. Trước của văn phòng, Lee Young Min đang ngồi thu lu. Ông ta vẫn mặc nguyên bộ quần áo ban sáng. Áo khoác xanh, áo sơ mi trắng. Người ông ta run lên. Trông như thể chỉ cần run mạnh thêm một chút thôi, nước mắt đang đọng ứ sẽ bắn ra ngoài. Bộ dạng ấy giống hệt một cái bàn chải đánh răng điện ướt nhẹp quên không tắt máy.
4
Trái với nguyên tắc của mình, Goo Dong Chi đi ra cửa hàng tiện ích mua một lon cà phê nóng. Gã cũng mua hai lon bia cho bản thân. Không mua đồ nhắm. Gã đã chần chừ mất một lúc xem có nên mua hạnh nhân hay không, nhưng rốt cuộc không mua. So với đậu phộng và hạt hồ trăn, Goo Dong Chi thích hạnh nhân hơn. Lý do chỉ có một, bởi vì nó không để lại vỏ. Goo Dong Chi đi lên cầu thang, gã chính nhịp bước chân cho đều với tiếng lon cà phê nóng và hai lon bia lạnh va vào nhau trong túi ni lông đen.
Lee Young Min ngồi trên ghế gấp dành cho khách, run từ đầu đến chân. Goo Dong Chi quan sát ông ta từ phía sau, tuy hơi chạnh lòng nhưng gã cũng không nhường ghế của mình cho ông ta. Phá vỡ nguyên tắc một lần là quá đủ. Goo Dong Chi đặt cà phê và bia lên bàn. Lee Young Min nắm lấy lon cà phê nóng như đang tóm cổ ai.
“Ch... Chết rồi, anh biết chưa?”
Lee Young Min lắp bắp nói.
“Chết?”
“Giám đốc Bae ấy.”
“Anh quen anh Bae Dong Hoon sao?”
“Vâng, quen chứ.”
“Hai người quen biết như thế nào?”
“Giám đốc Bae là thành viên câu lạc bộ tennis.”
“Câu lạc bộ Noble?”
“Vâng, Noble. Anh không biết ạ?”
“Chuyện đó làm sao tôi biết được. Trước tiên anh cứ uống cà phê đi đã.” Goo Dong Chi mở lon bia. Vừa uống một ngụm, mùi lúa mạch đã xộc lên tận chóp mũi. Gã lấy ngón tay lau những giọt nước đọng trên lon bia. Bề mặt lon nhôm láng bóng đến sắc lạnh. Hơi lạnh từ đầu ngón tay gã truyền qua bắp tay, qua vai, tới tận tim.
“Nghe tin giám đốc Bae qua đời, tôi đột nhiên thấy sợ hãi tất cả mọi thứ.”
“Sợ hãi?”
“Mới vừa hôm kia chúng tôi còn ăn tối cùng nhau. Tôi không ngờ anh ấy lại ra đi dễ dàng như vậy.”
“Vâng, đúng là chuyện đáng tiếc. Nhưng mà, anh đến tận đây giữa đêm khuya như thế này là để nói chuyện về cái chết của anh Bae Dong Hoon?” “Nhớ tới lời thám tử Goo nói ban sáng đầu óc tôi trở nên rất hỗn loạn, cứ nghĩ đến giám đốc Bae tôi lại thấy sợ.”
“Ban sáng... tôi đã nói gì nhỉ?”
“Anh nói, việc chết đi một cách tươm tất không dễ như tưởng tượng. Lời nói của thám tử Goo cứ liên tục hiện lên trong tâm trí tôi. Con ngưòi, dù bằng cách nào đi chăng nữa cũng để lại vết tích, xét cho cùng chính những vết tích ấy mới là bản chất thực sự của họ. Tôi không muốn bị nhớ đến như một kẻ tồi tệ.”
“Ai cũng vậy thôi.”
“Thám tử Goo đã đảm nhận việc deleting cho giám đốc Bae phải không ạ?”
“Chuyện đó tôi không thể trả lời anh được.”
“Tôi đã nghe cô Han Yoo Mi kể lại như vậy.”
“Dù anh Lee Young Min có biết chuyện gì thì tôi cũng không thể trả lời anh.”
“Điều đó nằm trong quy ước bảo vệ bí mật của khách hàng ư?” “Bí mật gì tôi không biết, đó chỉ là nền tảng cơ bản của nghề thám tử thôi.”
“Anh đã từng thất bại trong việc deleting chưa?”
“Tôi không thể nói cho anh được.”
“Anh không nói thì hẳn là anh từng thất bại rồi. Nếu chưa thất bại bao giờ anh đã khoe tỷ lệ thành công của mình là một trăm phần trăm.” “Anh Lee Young Min, tôi không rõ anh muốn tìm hiểu chuyện gì, nhưng hiện anh đang vô cũng bất lịch sự với tôi. Tôi không phải loại thám tử rẻ tiền thổi phồng năng lực của mình rồi đi nhặt nhạnh mấy mảnh vụn vãi xung quanh để kiếm ăn. Tôi đương nhiên cũng không phải người chỉ chuyên đi xóa mấy lời bẩn thỉu trên mạng Internet. Nếu anh có ý định thuê tôi, tôi sẽ cố gắng chịu đựng thêm một chút. Đó là quy ước bảo vệ tính mạng khách hàng. Nhưng nếu không thì, tôi khuyên anh tốt hơn hết nên nhanh nhanh quay đầu và chạy thục mạng xuống cầu thang luôn đi. Bị ăn đấm thì mắt sẽ sưng húp không nhìn thấy đường đâu.”
Nói dứt lời, Goo Dong Chi liền nốc cạn lon bia. Tiếng bia trôi xuống cổ họng gã vang vọng khắp căn phòng yên tĩnh. Uống xong, Goo Dong Chi đặt vỏ lon lên bệ cửa sổ. Rồi gã nhấn nút bật cái máy nhạc Chột Mắt ở trên bàn, không buồn liếc nhìn Lee Young Min. Tiếng hát của ca sĩ giọng nam cao lập tức phát ra từ loa.
“Tôi chỉ muốn hỏi nốt một câu cuối cùng.”
“Nếu lại là một câu hỏi bất lịch sự nữa, tôi sẽ đuổi thẳng anh ra khỏi đây đấy.”
“Vâng, tôi biết rồi. Tôi cũng không biết đây có phải là một câu hỏi lịch sự hay không nữa. Giả sử việc deleting thất bại, tôi sẽ nhận được bồi thường như thế nào? Tôi chết rồi thì nhận bồi thường bằng cái gì được? Con trai hay con gái tôi nhận bồi thường thì có ý nghĩa gì chứ? Với cá nhân tôi thì tất cả mọi loại bồi thường đều đâu có ý nghĩa gì, phải không? Không ai có thể truy cứu trách nhiệm về thất bại của thám tử Goo được.”
“Anh Lee Young Min sẽ không nhận được khoản bồi thường nào cả.” “Thế là bảo vệ khách hàng kiểu gì vậy?”
“Anh Lee Young Min trả tiền để mua sự tín nhiệm của tôi. Một khi đã trở thành khách hàng của tôi, tôi sẽ xử lý mọi việc đến cùng. Dù thành công hay thất bại, tôi cũng sẽ cố hết sức mình để theo đuổi tới tận cùng, không buông tay. Đương nhiên, cũng có thể tôi sẽ không xóa sạch được hoàn toàn vết tích của khách hàng. Cũng có thể sẽ nảy sinh những chuyện mà tôi không cáng đáng nổi. Nhưng dù thế nào chăng nữa, tôi cũng sẽ làm hết sức mình. Tôi có thể hứa chắc chắn như vậy. Bởi vì, chữ tín chính là sinh mệnh của công việc tôi đang làm. Chỉ khi tôi lo chu toàn hậu sự cho người chết thì những người còn sống mới nhìn vào đó và tiếp tục phó thác việc của họ cho tôi. Nếu việc deleting của tôi thất bại, tôi sẽ không có gì bồi thường cho anh Lee Young Min, nhưng tôi cũng sẽ bị thiệt hại nhiều tương đương như vậy. Tên tôi sẽ dính vết nhơ. Việc ấy với tôi là chuyện sống còn. Lý do anh Lee Young Min tìm đến tôi là gì, anh nhớ chứ?”
“Hẳn rồi.”
“Là bởi vì tôi có giá trị. Bởi vì tôi có giá trị, nên người khác mới giới
thiệu tôi với anh.”
“Tôi hiểu rồi. Tôi tin thám tử Goo. Chúng ta ký hợp đồng đi.” Goo Dong Chi nhìn vào mắt Lee Young Min. Sâu trong mắt ông ta ẩn chứa sự bất an. Đó là kiểu bất an gì, gã không quan tâm. Nỗi bất an nằm trong đáy mắt cũng giống như con chim non chưa mổ vỏ chui ra. Nỗi bất an lớn dần có thể trở thành sự sợ hãi, có thể hóa thành bạo lực, và đôi khi cũng có thể teo nhỏ và tan biến mất. Goo Dong Chi yêu sự bất an của loài người. Nếu không bất an, sẽ chẳng ai tìm đến các thám tử. Gã là người kiếm ăn và sống nhờ sự bất an của kẻ khác.
Goo Dong Chi vặn nhỏ loa cái máy nhạc Chột Mắt, rồi lôi từ ngăn kéo thứ hai bên phải ra một bản hợp đồng deleting. Hợp đồng có tổng cộng bốn trang. Trang đầu tiên là các khoản mục chi tiết, trang thứ hai là tất cả các mã số bí mật, trang thứ ba là danh sách những món đồ cần được tiêu hủy sau khi khách hàng chết đi và vị trí của những món đồ đó. Với mức giá cơ bản, có thể yêu cầu dịch vụ deleting với tối đa ba món đồ, nhưng tùy thuộc vào vị trí cất giữ món đồ đó mà giá cả cũng có thể chênh lệch. Đồ cất trong két sắt ngân hàng thì thực hiện deleting khá dễ, nhưng hô biến món đồ nào đó trong ngăn kéo nhà riêng thì tương đối phức tạp. Việc này cần đột nhập gia cư, xác suất bị phát hiện cũng rất cao. Đối với những món đồ lúc nào cũng mang theo bên người như điện thoại di động hay sổ tay, mức giá cao tới không ngờ. Đó là do việc ăn trộm hoặc tráo đổi di vật của người chết trong bệnh viện không hề dễ dàng. Dưới chỗ viết danh mục đồ cần tiêu hủy là dòng chữ: “Kỳ hạn cho việc deleting là năm ngày”. Deleter trong vòng năm ngày phải hủy hết tất cả những món đồ được ghi trong hợp đồng. Dưới đó nữa là phần xác nhận của người làm chứng. Khách hàng có thể chọn cho mình một người làm chứng, người này sẽ kiểm tra xem việc deleting đã được thực hiện hay
chưa, và chính là người cuối cùng xác nhận hiệu lực của bản hợp đồng. Cũng có nhiều khách hàng không chọn người làm chứng.
Trang cuối cùng của bản hợp đồng là thông báo miễn trừ trách nhiệm của deleter. Trên đó có viết một dòng chữ cỡ lớn: “Trong trường hợp khách hàng bị sát hại, deleter sẽ không thực hiện deleting, đồng thời hoàn toàn không chịu bất kỳ trách nhiệm nào liên quan tới cái chết của khách hàng”. Bởi nếu đụng tay vào những món đồ liên quan tới án mạng, rất có thể sẽ phạm tội tiêu hủy vật chứng. Ngoài ra, bên dưới còn viết chi chít những điều khoản lắt nhắt khác về miễn trừ trách nhiệm, chẳng hạn như nếu món đồ của khách hàng bị rơi xuống nước thì deleter không có nghĩa vụ tìm vớt lên, vân vân.
Sau khi điền kín những khoảng trống trong hợp đồng và đọc tỉ mỉ những lưu ý miễn trừ trách nhiệm của deleter, Lee Young Min ngẩng đầu lên. “Tôi không hiểu chỗ này lắm.”
“Mục nào?”
“Trường hợp bị sát hại ấy.”
“Anh có nguy cơ bị sát hại à?”
“Đời người ai mà biết được.”
“Nếu anh bị giết, phí deleting sẽ tăng gấp ba lần.”
“Phí tăng bao nhiêu không quan trọng. Giám đốc Bae hẳn cũng đã chọn mục này phải không?”
“Anh có vẻ quan tâm nhiều đến hợp đồng của người khác nhỉ. Anh nghĩ là anh Bae Dong Hoon bị sát hại à?”
“Thám tử Goo nghĩ sao?”
“Tôi không có phán đoán gì hết. Phán đoán là chuyện của cảnh sát.” “Nhưng để quyết định có deleting hay không thì anh phải biết đấy là chết
do tai nạn hay bị giết chứ, không phải sao? Tuy nhiên, nếu chọn mục này thì anh sẽ tiến hành deleting vô điều kiện. Vậy chắc hẳn giám đốc Bae đã chọn mục này rồi. Có thể lắm. Anh ta nhiều tiền mà.”
“Tôi không thể trả lời câu hỏi đó của anh được. Tôi chỉ có thể nói với anh thế này. Việc lựa chọn hay không lựa chọn hạng mục deleting sau khi bị sát hại hoàn toàn là quyền tự do của anh Lee Young Min. Thế nhưng, nếu thực sự có ai đó đang nhắm đến mạng sống của anh, thì anh phải nói trước với tôi. Ai, tại sao, người đó đang nhắm tới món đồ nào của anh, anh cần nói hết cho tôi. Tôi tuyệt đối không thực hiện deleting những món đồ bất minh. Làm nghề thám tử lâu dài, tự khắc sẽ đưa ra được quyết định việc gì phải làm, việc gì không được làm thôi.”
“Hẳn là thế rồi. Đây là vấn đề sống chết mà.”
Lee Young Min đã không còn run nữa. Lee Young Min run rẩy ngồi ở góc cầu thang đã biến đi đâu mất, để Lee Young Min thích chú trọng tiểu tiết và huyên thuyên không ngừng lại xuất hiện. Cứ như thể trong lúc Goo Dong Chi không để ý, ông ta đã lột lớp vỏ ngoài và ném ra ngoài cửa.
“Anh Goo Dong Chí, làm thám tử anh kiếm được bao nhiêu?” “Vừa đủ sống.”
“Anh nghĩ tôi một tháng kiếm được bao nhiêu tiền?”
“Hẳn là cũng đủ sống.”
“So với suy nghĩ của anh Goo Dong Chi thì nhiều hơn hẳn đấy. Không phải tôi đang khoe khoang đâu. Kiếm được ngần ấy tiền thì thế nào cũng sẽ có rất nhiều kẻ thù. Kẻ thù ở đây không phải người nào cụ thể mà là do hoàn cảnh tạo ra. Tôi cứ bước đường của tôi, nhưng những người bị tôi giẫm chân qua sẽ nghĩ tôi là thù. Tôi mua những thứ tôi thích, nhưng những người không mua được thứ đồ đó cũng sẽ coi tôi là thù. Ý tôi nói gì anh hiểu chứ?”
“Anh nói dài như vậy cũng nên tóm lại điểm cốt lõi luôn giùm tôi đi chứ. Tôi nghe phát chán lên rồi.”
“Anh hỏi tôi người nào và tại sao người đó lại muốn nhắm tới những món đồ của tôi ư? Nếu tôi mà biết hết được những chuyện đó thì tôi đã có thể kiếm được nhiều tiền hơn nữa rồi.”
“Tôi hiểu rồi. Đầu tiên chúng ta cứ ký hợp đồng đã. Sau khi nhận được tiền đặt cọc tôi sẽ bắt đầu tiến hành điều tra những thông tin cơ bản về anh Lee Young Min. Khi đó thì mọi chuyện sẽ rõ ràng cả thôi.” “Nếu không rõ ràng thì sao? Thì sẽ hủy hợp đồng à?”
“Đời người ai mà biết được. Ban nãy chính anh nói vậy mà.” “Vậy anh đã điều tra cơ bản về giám đốc Bae rồi chứ?”
“Mời anh ký vào đây.”
Lee Young Min viết tên mình và ký vào dòng cuối cùng trong hợp đồng. Không phải chữ ký gì đặc biệt, đơn thuần chỉ như viết tên mình một cách nguệch ngoạc. Goo Dong Chi chăm chú quan sát bộ dạng Lee Young Min khi ký tên. Sau khi ký xong cả hai bản hợp đồng, Lee Young Min uống nốt chỗ cà phê còn lại.
“Anh không cần người làm chứng sao?”
Goo Dong Chi sắp xếp lại giấy tờ và hỏi.
“Anh Goo Dong Chi, thám tử Goo Dong Chi sắt đá của chúng ta, tôi thử tin anh một lần vậy.”
“Vậy thì giờ tôi sẽ chính thức bàn với anh về thỏa thuận xóa bỏ những dấu vết và thông tin trên mạng Internet. Đó là việc xóa sạch những vết chân của anh trên mạng. Tôi sẽ giúp xóa hết những chuyện anh Lee Young Min đã thực hiện và cũng sẽ khiến cho anh hoàn toàn được lãng quên ở thế giới ảo.
Tôi chưa từng thực hiện một hợp đồng bất hợp pháp nào hết, anh Lee Young Min cũng chưa từng ủy thác cho tôi công việc nào kiểu như deleting hết, chúng ta là những người đối diện nhau trong giới hạn cho phép của pháp luật. Tôi nói gì anh hiểu chứ?”
“A, dĩ nhiên rồi. Xin nhờ cả vào anh.”
Lee Young Min chìa tay ra. Goo Dong Chi bắt tay ông ta một cách miễn cưỡng. So với tay Lee Young Min, bàn tay Goo Dong Chi dày gấp đôi. “Quả là cứ như vừa đóng bảo hiểm xong vậy, thấy trong lòng thoải mái hẳn. Hóa ra sức hấp dẫn của mấy cái thể loại ‘bảo hiểm’ chính là thế này đấy nhỉ?”
Lee Young Min đứng dậy và nói lớn. Goo Dong Chi cũng đứng dậy theo mà không đáp lời. Gã chỉ chờ tiễn ông ta ra khỏi cửa cho nhanh. Gã muốn dành thời gian ngồi im lặng một mình, sắp xếp lại những việc đã xảy ra trong ngày hôm nay và chuẩn bị kế hoạch cho ngày mai. Lee Young Min đang đi ra phía cửa thì liếc mắt nhìn tủ đựng tài liệu kê sát tường.
“Anh cất cái gì trong này vậy?”
Lee Young Min hỏi đầy tò mò.
“Chỉ là mấy đồ tạp nham thôi.”
Goo Dong Chi trả lời cộc lốc, gã không muốn nói chuyện gì thêm nữa. “Trông có vẻ như được sắp xếp rất cẩn thận. Mỗi ngăn tủ cũng có chìa khóa riêng nữa nhỉ.”
“Anh Lee Young Min, anh bớt quan tâm tới chuyện thiên hạ đi một chút thì nguy cơ bị sát hại cũng sẽ giảm đấy.”
Nghe thấy hai từ “sát hại”, ông ta giật bắn mình. Goo Dong Chi đứng thẳng người và nhìn Lee Young Min chằm chằm. Gã cao hơn ông ta khoảng
10 xen ti mét nhưng nhìn qua thì cứ như hơn hẳn 20 xen ti mét vậy. Trước dáng đứng uy hiếp của Goo Dong Chi, Lee Young Min không dám ho he thêm. Nhưng ông ta không run.
“Có vẻ tôi lại hỏi mấy chuyện không đâu rồi. Thám tử thì phải có nhiều bí mật chứ. Tôi xin lỗi.”
Lee Young Min đi thẳng ra của. Ông ta vừa ra ngoài, Goo Dong Chi lập tức khóa cửa lại. Khoảng thời gian của riêng mình đã trở lại với gã. Gã chỉnh tiếng cái máy nhạc Chột Mắt to lên rồi cởi áo khoác và treo vào tủ quần áo. Chỉ cần treo áo lên thôi cũng khiến gã có cảm giác như đã thu xếp gọn ghẽ một điều gì đó.
Goo Dong Chi lấy tài liệu của Bae Dong Hoon từ trong túi xách ra. Ngay sau khi nghe tin, gã đã tới văn phòng Bae Dong Hoon trộm về những thứ này. Trong số bốn món đồ được Bae Dong Hoon yêu cầu deleting, có ba thứ gã chắc chắn đã nắm trong tay. Một quyển sổ tay nhỏ cất trong ngăn tủ văn phòng công ty, một cái USB nằm trong hộc bí mật bên dưới bàn làm việc, và quyển nhật ký ở thư phòng tại nhà của ông ta. Suốt cả ngày, gã đã bám sát đuôi Bae Dong Hoon - một người đã chết. Vấn đề duy nhất là cái máy tính bảng. Nó đã biến đi đâu mất mà gã không có cách nào tìm ra.
Goo Dong Chi gác hai chân lên bàn, ngả người ra phía sau và mở quyển nhật ký của Bae Dong Hoon. Goo Dong Chi không thích những người viết nhật ký. Người viết nhật ký thường là người luôn tự kiểm điểm mình một cách quá mức, mà những người như thế sẽ lại lấy việc tự kiểm điểm đó ra làm cái cớ để gây ra những chuyện còn tồi tệ hơn, Goo Dong Chi nghĩ vậy. Gã không viết nhật ký, nhưng lại thích đọc nhật ký của người khác. Vì trong nhật ký, xét theo khía cạnh nào đi nữa, cũng có sự chân thực, và những điểm dẫu nhỏ nhặt cũng chứa đựng ít nhiều thông tin. Đôi khi, dù không được
khách hàng yêu cầu Goo Dong Chi vẫn lấy trộm nhật ký của họ. Xem xét tỉ mỉ những khoảng trống trong nhật ký hoặc sổ tay mà khách hàng thường viết cũng giúp gã lần ra đầu mối dẫn đến những món đồ cần tìm.
Những khi không có việc gì làm, sở thích của Goo Dong Chi chính là đọc nhật ký của khách hàng. Những quyển nhật ký của những người đã chết. Ngay cả trong việc đọc nhật ký, gã cũng có nguyên tắc riêng. Những quyển nhật ký có thể gây thị phi nếu bị công khai trước thế gian, gã sẽ không giữ lại. Những quyển nhật ký có thể gây nguy hiểm tới tính mạng hoặc làm vấy bẩn thanh danh của người khác, gã sẽ thiêu hủy không để lại chút dấu vết. Những quyển nhật ký như vậy, nếu không may bị lộ ra ngoài, có thể gây ra hậu quả khủng khiếp. Goo Dong Chi chỉ thích đọc giải khuây những quyển nhật ký không có bí mật gì đặc biệt. Gã vừa đọc nhật ký vừa tìm hiểu về con ngưòi. Vào những lúc cấp bách, người ta sẽ suy nghĩ ra sao; khi rơi vào cảnh nguy hiểm cận kề, người ta sẽ giải quyết vấn đề thế nào; thảy đều được ghi chép lại trong nhật ký. Những quyển nhật ký của khách hàng, so với tiểu thuyết, còn chứa đựng nhiều cuộc đời và sự kiện thú vị hơn hẳn.
Thực ra làm vậy là có lỗi với người đã chết. Nếu biết quyển nhật ký họ đã ký hợp đồng deleting lại bị lấy ra đọc tiêu khiển, hẳn sẽ có không ít người đội mồ mả lao ra mất.
Thế nhưng Goo Dong Chi nghĩ, gã sẽ không công khai những thông tin này với ai cũng sẽ không kể nội dung này tới bất kỳ nơi nào, như vậy là có thể chấp nhận được. Gã coi việc này cũng như một loại phí dịch vụ đặc biệt.
Tuy nhiên, Goo Dong Chi đọc nhật ký của Bae Dong Hoon không phải để giết thời gian. Gã cần tìm ra tung tích cái máy tính bảng thông qua nội dung quyển nhật ký và sổ tay của ông ta. Goo Dong Chi mở nốt lon bia còn lại. Khí lạnh để lại vật chứng là rất nhiều những giọt nước đọng trên vỏ lon.
Có thể cảm nhận được sự biến đổi nhiệt độ bằng những giọt nước này. Qua cửa sổ để mở, gã nghe thấy tiếng động cơ ô tô. Thằng cha này, giờ mới chịu đi à? Goo Dong Chi nhớ tới gương mặt Lee Young Min. Bộ dạng không gây thiện cảm chút nào. Goo Dong Chi vừa uống bia vừa chậm rãi lật quyển nhật ký và sổ tay. Hầu hết đều là chuyện công việc. Ông ta ghi chép toàn những thứ kiểu như lịch trình dựng clip, thông tin liên lạc của các diễn viên quần chúng, hay những ý tưởng mới nảy ra. Trong nhật ký chỉ toàn mấy cụm từ vắn tắt, chẳng có câu cú hoàn chỉnh. Goo Dong Chi gom những từ ngữ ấy lại. Gã cảm giác như đang ngồi ghép dán mảnh giấy đã bị xé rách.
Lúc gã vươn vai, bài hát yêu thích của Goo Dong Chi vang lên. Gã không nhớ chính xác toàn bộ lời bài hát, nhưng đại để đó là một bài aria nói về việc con người luôn phải chiến đấu không ngừng, tới tận khi cái chết cho chúng ta được yên nghỉ. Goo Dong Chi thích giai điệu bi thương của ca khúc này.
Giữa đêm dài mệt mỏi, ánh trăng vuốt ve mái tóc của tòa nhà Cá Sấu, ngày mai có lẽ trời sẽ rất nhiều mây, chẳng ai biết trước được định mệnh. Goo Dong Chi nhặt những cụm từ ngắn trong tập tài liệu mà ngân lên theo nhạc. Không thể biết chắc chắn được thời tiết hay những việc sẽ xảy ra, nhưng gã có cảm giác mai sẽ là một ngày cực kỳ bận rộn. Goo Dong Chi ngả hẳn lưng ghế ra sau, nằm yên và nhắm nghiền mắt lại.
5
Từ phía bên kia bức tường vang lên tiếng gió vỡ. Đừng tách gió ra, phải đập nát gió. Hiểu chưa? Khao khát đập nát gió. Mỗi khi nghe thấy tiếng bóng va vào vợt tennis, Goo Dong Chi lại có cảm giác bên tai văng vẳng tiếng huấn luyện viên tennis thời trung học. Goo Dong Chi yêu thích sân tennis hơn bất kỳ ai. Ở nhà gã có rất nhiều chuyện nhức đầu, nhưng chỉ cần chơi thể thao là gã liền cảm thấy nhẹ nhỏm hơn hẳn. Việc dồn tất cả dây thần kinh xuống đầu ngón tay rồi quất thật mạnh vào quả bóng tennis cho gã cảm giác như được đập vỡ một bức tường chắn ngang trước mặt. Hễ có chút thời gian rảnh là gã chạy đến sân bóng luyện tập, mỗi khi có dịp gã đều chăm chỉ luyện rèn cơ tay. Khoảng năm lớp Mười một, gã bị chấn thương khuỷu tay cũng là bởi đã vắt kiệt sức mình như vậy. Nếu biết luyện tập hợp lý hơn thì chưa biết chừng bây giờ mình đã trở thành một vận động viên kha khá rồi, Goo Dong Chi nghĩ.
Cuộc sống của một vận động viên tennis là như thế nào nhỉ. Hẳn ngày ngày đều vừa nghe tiếng gió vỡ nát vừa vung vợt đánh quả bóng màu xanh chuối, lau mồ hôi, rồi lại tiếp tục đổ mồ hôi sôi nước mắt cùng quả bóng xanh chuối ấy. Điều chỉnh tư thế với huấn luyện viên, rồi đi thi đấu, có lúc thắng có khi thua, rồi lại chỉnh tư thế với huấn luyện viên, sửa chữa khiếm khuyết, cứ thế mà sống. Goo Dong Chi thèm muốn cuộc sống ấy. Điểm khiến gã thích nhất khi học tennis là, chỉ cần điều chỉnh bản thân là có thể thắng được đối phương. Không cần đánh hay cắn hay chỉ trích đối thủ mà
vẫn có thể giành thắng lợi, chỉ cần duy trì được trạng thái cân bằng của chính mình. Đương nhiên khi thi đấu phải biết bám rịt lấy điểm yếu của đối thủ mà liên tục tấn công, nhưng không gì quan trọng hơn sự cân bằng của bản thân mình. Goo Dong Chi bị chấn thương là do không thể giữ được sự cân bằng ấy, vì quá yêu thích thứ gì đó mà để vuột mất tất cả, gã vô cũng hổ thẹn. Mỗi khi thấy thích cái gì, Goo Dong Chi lại lập đi lặp lại một suy nghĩ. Thay vì quá yêu thích thà ngay từ đầu đã không thích còn hơn. Kể cả đối với con người cũng vậy.
Câu lạc bộ Noble nằm giữa một khu rừng ở vùng ngoại ô, rộng mênh mông với sân gôn chín lỗ, năm sân tennis, trường bắn, hồ bơi... Đi qua cổng chính và tiến vào khu quản lý ngự ngay trung tâm câu lạc bộ, Goo Dong Chi tỉ mỉ quan sát xung quanh. Tất cả những thiết bị xếp nối nhau bên lề đường đều sáng choang. Cỏ được cắt tỉa gọn gàng, trên vạch trắng của sân tennis không có lấy một vết chân. Tấm lưới căng giữa sân không một bóng người duy trì cảm giác căng thẳng bức bối. Chà, đánh ở chỗ này thì chuẩn vị tennis đấy. Goo Dong Chi vừa gõ ngón tay lên vô lăng theo nhạc vừa lẩm bẩm.
Han Yoo Mi đứng trước khu quản lý đợi Goo Dong Chi. Cô ta mặc áo phông và váy tennis màu trắng, từng nếp áo váy phẳng phiu như vừa mang ra khỏi tiệm giặt là. Nếu không nhìn kỹ mặt mà chỉ đoán qua cách ăn mặc cùng dáng người, rất có thể sẽ nghĩ cô ta mới hai mươi mấy tuổi.
“A, anh Dong Chi, anh đến rồi đấy à?”
Han Yoo Mi vẫy nhẹ tay phải và cất tiếng chào.
“Cô đang cosplay nữ y tá đấy à? Tôi muốn mau mau giơ mông ra để được tiêm một phát quá.”
Goo Dong Chi vừa đóng cửa ô tô vừa đùa.
“Ôi chao, anh đang coi thường trang phục tennis truyền thống đấy ư?”
“Đâu có, tôi chỉ đang bộc lộ sở thích sinh lý của mình thôi mà.” “Tôi không ngờ anh lại có sở thích này đấy.”
“Tôi đã mơ ước làm vận động viên tennis sau khi nhìn thấy hình ảnh tà váy tennis tung bay trong gió mà.”
“Thật sao?”
“Cô thích nghĩ sao thì nghĩ.”
“Gì vậy, anh Dong Chi, anh làm người ta bối rối quá đi.”
“Nguời cô muốn giới thiệu cho tôi đâu? Cô bảo sẽ giới thiệu một nhân vật khủng lắm nên tôi cứ tưởng từ xa đã phải trông thấy rồi cơ đấy.” “Thật không đỡ được anh mà. Mời anh đi theo tôi.”
Han Yoo Mi dẫn Goo Dong Chi lên xe và đi về phía sân bóng số 3. Chiếc xe chạy bằng điện, khi di chuyển hầu như không phát ra tiếng động. Tựa như một viên đá trơn trượt trên nền băng giá. Những rung động nhỏ của chiếc xe cũng chính là âm thanh làm nên câu lạc bộ Nobie. Thứ âm thanh nghe lúc được lúc chăng bình thản lắng xuống bên dưới tất cả, thứ âm thanh mà như thể dưới lòng đất có hỗn loạn đến đâu thì mọi thứ trên bề mặt cũng luôn lặng yên không xê dịch. Goo Dong Chi cảm thấy tiếng động nhỏ xíu của chiếc xe điện này rất chướng tai.
Đến gần sân bóng, gã lại nghe thấy tiếng gió vỡ. Gã nghe thấy tiếng không khí bên trong quả bóng tennis căng tròn bị méo đi. Những âm thanh ấy làm sống lại ký ức của Goo Dong Chi. Chỉ cần nghe thấy tiếng bóng tennis là mùi đất, mùi mồ hôi, màu nắng gắt chói chang của thời trung học đều dậy lên trong gã. Gã nhớ cái cảm giác tay nắm vợt hơi vặn đi khi đánh bóng, và cả đám bụi đất bay lên khi trượt chân vì đỡ trả bóng. Bây giờ gã vẫn tới câu lạc bộ chơi tennis, nhưng những cảm giác thời đó không còn nữa. Giờ
gã chỉ còn thấy mình cầm vợt và thảnh thơi đánh bóng qua lưới mà thôi. “Vị kia là Chủ tịch Cheon Il Soo.”
Han Yoo Mi đỗ xe điện ở chỗ có thể trông xuống sân bóng và chỉ về phía một người. Trên sân có bốn người đang chơi đánh đôi, người Han Yoo Mi chỉ là một người đàn ông tóc ngắn và bạc trắng. Dù tóc đã bạc, nhưng vóc dáng ông ta trông vẫn cường tráng. Ông ta cao khoảng hơn 1 mét 80, vai nở nang, bắp chân nổi cơ tròn lẳn nhìn khá đẹp mắt. Sức tập trung khi đánh bóng của ông ta cũng rất tốt. Mỗi khi ông ta vung vợt quất bóng, có một tiếng rên ngắn thoát ra.
Người chơi cặp với Cheon Il Soo là thư ký riêng của ông ta, Song Mi Young, còn phía đối thủ là một cặp nam nữ trẻ tuổi mặc bộ đồ tennis khá kiểu cách. Trông họ cứ như vừa đi tham dự một buổi trình diễn thời trang về rồi nổi hứng rủ nhau vào chơi ván tennis vậy. Thay vì gắng sức đánh bóng, dường như họ đang cố hết mình để tạo dáng cho thật hoàn hảo thì đúng hơn.
“Trận đấu thú vị thật đấy.”
Geo Dong Chi khoanh tay, nhìn xuống sân bóng và nói.
“Thú vị ở chỗ nào?”
Han Yoo Mi tiến đến sát Goo Dong Chi, hỏi.
“Một phía thì đang thi đấu, còn một phía thì đang dâng bóng lên bàn thờ còn gì.”
“Bàn thờ á?”
“Hai người kia kìa. Cô không thấy sao? Họ đang cống bóng cho Chủ tịch Cheon Il Soo đập nhiệt tình đấy thôi.”
“Ấy, lẽ nào lại thế, chắc năng lực kém nên vậy thôi.”
“Cô biết bọn họ à?”
“Cũng biết, họ gia nhập câu lạc bộ Noble chưa lâu nên tôi không biết chính xác, nhưng nghe nói họ làm gì đó về nhập khẩu rượu vang Pháp.” “Nói vậy là cô không biết rồi.”
“Thì tôi không biết rõ mà.”
Sau khi nghe Goo Dong Chi nhận xét, Han Yoo Mi bắt đầu chăm chú quan sát trận đấu. Có lẽ cô ta đã hiểu vì sao gã lại nói vậy. Bóng do hai người kia đánh hầu như đều rơi xuống vị trí thuận lợi cho Chủ tịch Cheon Il Soo đỡ trả. Theo Han Yoo Mi thì họ làm vậy không phải có ý đồ gì cả. Han Yoo Mi cũng là một người chơi tennis không giỏi cho lắm, nên cô ta hiểu tâm trạng của hai người kia. Nỗi khổ tâm khi rất muốn đánh những cú quyết định thật đẹp mắt vào góc hiểm để đối thủ phải bó tay nhưng khốn nỗi lúc nào cũng chỉ có thể dâng bóng ngay trước mũi đối thủ, Han Yoo Mi có thể hiểu rất rõ tâm trạng ấy.
Trận đấu mau chóng kết thúc, cả bốn người tiến đến gần lưới và chuyện trò qua lại. Đôi nam nữ trẻ cúi đầu trước Cheon Il Soo mấy lần liên, Cheon Il Soo vừa cười vừa vỗ vỗ vai cậu trai. Han Yoo Mi và Goo Dong Chi nhanh chóng bước xuống sân bóng.
“A, tôi đã nghe nói nhiều về cậu. Nghe nói cậu là thám tử tư.” Cheon Il Soo chìa tay ra và bắt tay Goo Dong Chi. Goo Dong Chi có thói quen vừa bắt tay người khác vừa tìm hiểu tính cách và khuynh hướng hành động của người đó. Tay đổ mồ hôi nhiều hay ít, thô ráp ra sao, chai sần chỗ nào, lực nắm tay mạnh đến đâu, gã tin rằng dựa vào những điều đó có thể phán đoán sơ phần nào về cuộc đời của một người. Nhưng với Cheon Il Soo thì không như thế. Vừa chơi tennis xong nên tay ông ta ướt đẫm mồ hôi, ông ta bắt tay Goo Dong Chi mạnh như một người sắp sửa gây chiến khiến gã mải phòng ngự không kịp suy đoán gì. Goo Dong Chi cũng vận hết sức bóp
vào tay Cheon Il Soo.
“Thám tử gì đâu ạ, chỉ là lông bông chỗ nọ chỗ kia và giải quyết mấy việc vặt vảnh không đâu thôi ấy mà.”
“Nghe nói trước kia cậu cũng là vận động viên tennis...”
“Cũng chưa tới mức vận động viên, chỉ đủ để đánh bóng không rúc lưới thôi ạ.”
“Cô Han Yoo Mi có nói cậu là người khiêm tốn thế này đâu nhỉ.” “Tôi không khiêm tốn đâu ạ. Chỉ là hôm nay tôi không có tâm trạng khoe khoang thôi.”
“Có chuyện gì khiến cậu không vui sao?”
“Có vẻ như sắp có chuyện không hay xảy ra, nên tôi đang cố gắng sống khiêm tốn trước từ ngay hôm nay.”
“Hy vọng cậu tránh được mấy chuyện đó. Hôm nào chúng ta chơi một trận nhé.”
“Vâng, tôi thì thích quá đi chứ. Sẽ không dễ dàng như trận đấu với hai vị ban nãy đâu ạ. Tôi có thể hứa chắc với Chủ tịch điều đó.”
“Ai da, tôi rất mong chờ đấy.”
“Chưa biết chừng tay chân ngài Chủ tịch sẽ phồng rộp hết lên đấy.” “Lần sau nhé. Hôm nay tôi có chút việc bận nên xin cáo từ trước.” “Vâng, vậy hẹn gặp lại ngài.”
Goo Dong Chi chăm chú nhìn Cheon Il Soo từ phía sau. Mồ hôi khiến chiếc áo thun dính chặt vào người ông ta. Nhìn thoáng qua cũng có thể biết ngay đấy là tấm lưng của người chơi thể thao.
“Chủ tịch có vẻ thích anh Dong Chi đấy.”
Han Yoo Mi chọc nhẹ vào sườn Goo Dong Chi và nói.
“Thích tôi mà lại bỏ chạy như vậy à?”
Goo Dong Chi nhún vai trả lời.
“Thích mà. Ngài ấy còn rủ anh chơi tennis còn gì.”
“Ôi chao, đúng là vinh dự tuyệt vời. Hẳn là tôi cũng sẽ phải dâng bóng đến trước mũi Chủ tịch mất thôi.”
“Anh Dong Chi, không phải như vậy mà. Ngài ấy rất bận rộn nên mới thế.”
“Người bận rộn như vậy mà lại ở đây chơi tennis sao?”
“Không có ngày nào ngài ấy bỏ chơi tennis đâu.”
“Mỗi ngày lại có một người đến chơi tennis cùng ngài Chủ tịch rồi bị ngài ta khinh bỉ hả?”
“Anh Dong Chi, đừng nói nữa, hôm nay đi ăn tối với tôi đi. Tôi mới vớ được một khoản tiền lóa mắt đây.”
“Hôm nay tôi bận nên chắc không được đâu.”
“Ngày nào mà anh chả bận. Thế thì bao giờ đây?”
“Để xem nào, khoảng ngày kia chắc là được?”
“Gặp được anh đúng là vất vả quá đi. Anh còn bận hơn cả Chủ tịch nữa.” “Vì Chủ tịch có cần kiếm mấy khoản tiền lóa mắt như tôi đâu.” “Hôm nay gặp được Chủ tịch cũng coi như hai người đã quen mặt nhau rồi, sau hãy gặp ngài ấy một lần tử tế nhé.”
“Đương nhiên rồi, phải thế chứ. Khách hàng siêu cao cấp nên tùy tiện sao được.”
“Quen được ông ấy chưa biết chừng sẽ có ngày nhờ cậy được đấy” “Sống lâu ở đời rồi ai cũng đến lúc nhờ cậy được thôi.”
“Anh Goo Dong Chi đúng là giỏi nói kháy thật đấy.”
“Người lúc nãy chơi cặp với ông ấy là thư ký riêng à?”
“Cô Mi Young á? Sao thế? Anh để ý đến cô ấy à?”
“Hình như tôi đã gặp cô ấy ở đâu đó rồi.”
“Đàn ông các anh, để ý đến cô nào cũng nói là hình như đã gặp ở đâu đó rồi.”
Goo Dong Chi phớt lờ lời nói của Han Yoo Mi và leo lên xe điện. Trên đường quay lại khu quản lý, gã nhìn lại sân tennis khi nãy. Trận đấu vừa kết thúc là ngay lập tức có ba nhân viên chạy vào san phẳng lại mặt sân và vẽ về phía các đường kẻ vạch. Cái kiểu ám ảnh với việc sắp xếp lại mọi thứ cho đúng trật tự của họ đầy vẻ gượng ép. Sự gượng ép ấy lây lan khắp câu lạc bộ Noble như một căn bệnh truyền nhiễm. Cảm giác như nếu tuyết rơi, họ sẽ bắt lấy tất cả các bông tuyết và làm chúng tan chảy, hay nếu trời âm u, họ sẽ lấy quạt khổng lồ mà thổi bay những đám mây đen. Goo Dong Chi ghét cái dáng vẻ ấy, nhung dù vậy, ở một góc sâu thẳm nào đó trong lòng, gã lại nảy ra suy nghĩ muốn được sống ở đây. Một thế giới mà mọi thứ đều được sắp xếp một cách hoàn hảo và bị khống chế một cách triệt để, một thế giới mà mọi vật đều ở đúng nơi nó phải ở, và chỉ tồn tại những người cần tồn tại. Goo Dong Chi biết thế giới đó là không tưởng. Ở một thế giới hoàn hảo như thế, gã sẽ chẳng còn việc gì để làm. Những đám mây trên bầu trời xanh ngắt cũng như thể đang chuyển động theo sự điều khiển của câu lạc bộ Noble, lơ lửng trôi trên sân bóng xanh lá.
6
Kim In Cheon nhìn chằm chằm vào lớp da bọc ngoài chiếc ghế xô pha suốt hai mươi phút. Anh ta đang tu luyện kỹ năng hóa thành lớp da nâu của chiếc ghế bằng cách tưởng tượng mình rạch một rãnh nhỏ trên bề mặt da và chui vào trong. Cả sinh mạng lẫn linh hồn đều biến mất, chỉ còn suy nghĩ và lớp da sót lại. Nhập vào làm một với da, anh ta nghĩ về mông của những người ngồi xuống ghế. Mấy tháng trước, Kim In Cheon đã xem một chương trình về thiền trên ti vi, người ta nói khi bản ngã mất đi thì đau đớn và thống khổ cũng đều tan biến hết, nhưng vấn đề là đến tận bây giờ anh ta vẫn chưa tìm thấy bản ngã của mình. Phải tìm ra bản ngã thì mới xóa bỏ được nó chứ, nhưng nào có thấy nó ở đâu. Suy nghĩ có vẻ cũng không phải là bản ngã. Nhìn thật kỹ một đồ vật nào đó rồi hợp nhất chính bản thân mình với món đồ ấy là phép thiền Kim In Cheon đã học được từ chương trình đó. Anh ta nghĩ phép thiền ấy hợp với nghề cảnh sát, và chưa gì đã bắt đầu thực hành rồi. Suốt hai mươi phút đồng hồ, Kim In Cheon cố gắng hết sức xóa bỏ ranh giới giữa cái ghế xô pha và bản thân mình, nhưng kết quả là đến phút cuối cùng anh ta vẫn không thể gạt bỏ một ý nghĩ duy nhất, đó là không biết cái ghế này bao nhiêu tiền. Trông có vẻ phải hơn mấy triệu won.
“Cái ghế xô pha này giá bao nhiêu vậy?”
Giọng Kim In Cheon không tỏ vẻ gì là thực sự bận tâm, như thể anh ta chỉ vu vơ hỏi để bắt chuyện vậy thôi. Kim In Cheon không cao, khuôn mặt nhỏ, duy chỉ có cái mũi là to, nên từ bé đã thường xuyên bị trêu đùa. Sau khi
trở thành cảnh sát, anh ta còn có thêm thói quen khịt mũi. Mỗi khi đặt câu hỏi, anh ta cứ vô thức đẩy môi trên lên khiến lỗ mũi nở ra thật to, bộ dạng ấy nhiều khi cũng khiến cho người đối diện mất hết nhuệ khí. Kim In Cheon không hề có ý định sửa thói quen đó của mình.
“Dạ?”
Đang ngồi trước màn hình máy tính xử lý tài liệu, Song Mi Young, thư ký riêng của Cheon Il Soo, giật mình hỏi lại.
“Cái xô pha ấy. Loại xô pha này hẳn là đắt lắm phải không?” “Vâng, hẳn là thế.”
“Có vẻ cô không phải trực tiếp đi mua cái xô pha này nhỉ.” “Vâng, đương nhiên rồi. Có những người khác phụ trách việc đó mà.” “Công việc được phân chia tỉ mỉ thật đấy. Mấy công ty xịn đều thể cả, nhỉ.”
“Vâng.”
“Cái nghề cảnh sát ấy mà, cứt đái nhất là gì, à xin lỗi, bực mình nhất là gì cô biết không? Là một khi đã phụ trách một vụ thì cô phải nhúng tay vào mọi thứ. Cô phải điều tra tài liệu, phải bắt giữ kẻ tình nghi, mẹ kiếp, phải tô vẽ ra cả cái biên bản báo cáo nữa, à xin lỗi. Cứ thế đấy, mấy câu nói tục dính chặt vào mồm tôi mất rồi, nói chung là việc gì cũng phải làm hết.”
“Vâng, chắc là các anh vất vả lắm.”
“Cô thì làm gì vậy?”
“Sao cơ?”
“Việc cô đảm nhận ấy. Giữa một đống công việc được băm nhỏ ra như thế thì cô phụ trách cái gì?”
“Anh cứ như đang hỏi cung ấy nhỉ?”
“Đâu có, bệnh nghề nghiệp ấy mà, cứ dính mông nguyên một chỗ là chuyện gì tôi cũng thấy tò mò cả.”
“Tôi là thư ký riêng của ngài Chủ tịch.”
“Thư ký riêng, chà, công việc cũng không khác tôi mấy nhỉ.” “Dạ?”
“Thì cô phải đảm đương tất cả mọi việc liên quan đến ngài Chủ tịch còn gì. Không phải sao?”
“Vâng, cũng có thể nói là như vậy. Quả là cũng tương tự nhau.” Cách trả lời cộc lốc của Song Mi Young khiến Kim In Cheon ngừng lời. Thay vì nhìn cái xô pha anh ta chuyển sang quan sát Song Mi Young. Thân hình mảnh khảnh, mặc áo cánh màu xanh lam, quấn một chiếc khăn trắng hai vòng quanh cổ. Tóc cột gọn ra phía sau. Ngón tay thon dài, đôi môi đầy đặn là điểm nhấn đáng chú ý nhất trên khuôn mặt. Khóe miệng hơi nhếch sang một bên, chỉ vì một biến hóa nhỏ về góc độ ấy mà nhìn tổng thể gương mặt cô ta trông có vẻ hơi cáu kỉnh. Khi đối diện với người khác cô ta luôn tươi cười nhưng khi một mình tập trung làm việc, cô ta chẳng để lộ ra chút cảm xúc nào. Hơi quay đầu đi là trông cô ta lại khác. Vầng trán hơi nhô ra tương đối ăn ý với đôi môi dày, khiến nhìn nghiêng cô ta lại trở nên khá dễ thương. Đôi khuyên tai có hình thù hơi đặc biệt.
“Cái cô đang đeo trên tai là cái gì vậy?”
“Khuyên tai chứ gì nữa ạ.”
“Tôi biết là khuyên tai rồi. Nhưng tại trông hơi lạ.”
Song Mi Young đưa tay lên sờ đôi khuyên tai. Cô ta không nhớ sau khi chơi tennis mình đã đeo đôi khuyên nào nữa.
“Là khuyên tai hình quả bóng tennis.”
“À thảo nào... Tôi thấy màu xanh chuối nên đã nghĩ vậy.”
“Không phải là màu vàng sao a?”
“Có thể nói là màu ‘xanh vàng’. Màu vàng kết hợp với màu xanh, nhung gốc cơ bản là màu xanh nên trông màu xanh nổi hơn. Cô chắc muốn hỏi thế liệu có màu ‘vàng xanh’ không, phải không? Nhưng mà màu đó thì lại được gọi là màu vàng nhạt rồi.”
“Vâng, cũng có thể coi như thế.”
“Cô có vẻ thích tennis nhỉ?”
“Vâng.”
Song Mi Young lại im lặng. Không thể moi thêm lời nào từ miệng cô ta nữa. Kim In Cheon lại đưa mắt nhìn cái xô pha bọc da. Điện thoại của Song Mi Young vang lên tiếng chuông khe khẽ. Sau bốn mươi phút để Kim In Cheon ngồi đợi trong phòng tiếp khách, Cheon Il Soo xuất hiện. Song Mi Young theo Cheon Il Soo vào phòng Chủ tịch, thấp giọng báo cáo ngắn gọn với ông ta một vài việc. Giọng cô ta nhỏ ở mức độ hoàn hảo, đủ để không lọt đến tai Kim In Cheon. Sau khi hai người họ vào phòng Chủ tịch một lúc, Song Mi Young quay lại.
“Ngài Chủ tịch mời anh vào ạ.”
Song Mi Young gật đầu với Kim In Cheon.
“Vô cùng cảm ơn cô.”
Kim In Cheon nhại theo giọng điệu của Song Mi Young giễu cô ta. Phòng Chủ tịch rộng thênh thang và trống trải đến độ bất kỳ vị khách nào bước vào cũng dễ có cảm giác bị áp đảo. Rộng ngang một cái sân tennis. Đồ đạc gồm một cái ti vi to đùng đặt ở bậu cửa sổ, một bộ bàn ghế Cheon Il Soo đang ngồi, và một cái ghế cho khách, tất cả chỉ có vậy. Một bên tường dán
ảnh các nghệ sĩ mà công ty Noble Entertainment đang quản lý, ở tường bên kia vẽ một tấm lưới tennis có kích cỡ đúng bằng lưới thật. Người ở trong căn phòng này làm công việc gì, những bức tường và đồ đạc cùng màu sơn có thể trả lời hộ cho câu hỏi đó. Kim In Cheon ngồi xuống chiếc ghế đã đặt sẵn trước bàn.
“Anh là cảnh sát?”
“Tôi tới để hỏi chút việc liên quan đến vụ của anh Bae Dong Hoon. Cảm ơn ngài Chủ tịch đã dành thời gian.”
“Vâng, nhất định là phải hợp tác hết mình rồi. Tôi không có nhiều thời gian nên mong anh hỏi nhanh giúp cho. Anh dùng trà nhé?” “Thôi ạ. Không có thời gian nên tôi sẽ hỏi nhanh thôi. Chủ tịch và anh Bae Dong Hoon có quan hệ như thế nào?”
“Cũng không gọi là có quan hệ được. Anh ấy chỉ là một trong những doanh nghiệp mà chúng tôi đặt hàng bên ngoài. Tôi có giao anh ấy thực hiện vài cái clip ca nhạc. Nếu anh cần biết nội dung cụ thể thì để tôi hỏi giúp.”
Cheon Il Soo ấn nút điện thoại kết nối với đường dây nội bộ của công ty và yêu cầu mang đến những tài liệu chi tiết liên quan đến việc công tác cùng Bae Dong Hoon. Giọng điệu ông ta lạnh nhạt và súc tích.
“Theo lịch sử cuộc gọi trong điện thoại của anh Bae Dong Hoon, vài tiếng trước khi chết anh, ấy và Chủ tịch có nói chuyện với nhau.” “Tôi định nhờ anh ấy phụ trách một công việc mới.”
“Ồ, ngài Chủ tịch cũng trực tiếp yêu cầu đối tác như vậy ư?” “Những việc quan trọng thì như vậy.”
“Đó là việc gì vậy?”
“Nội dung công việc có liên quan đến thông tin cơ mật của công ty, tôi
nhất thiết phải nói ư?”
“Nếu đó là chuyện quan trọng tới mức có thể cân luôn cả việc bị tình nghi giết người, thì Chủ tịch không nói cũng được.”
“Anh vừa nói gì?”
“Dạ? Ý tôi là Chủ tịch không nói cũng được.”
“Trước đó cơ. Anh nói tôi đang bị tình nghi giết người sao?” “Vâng, đúng là như thế.”
“Vậy tức là tôi bị coi là nghi phạm đã giết chết anh Bae Dong Hoon?” “À, ngài Chủ tịch không cần phản ứng thái quá như vậy đâu. Trên đời này ai cũng đáng nghi hết. Chủ tịch cũng là nghi phạm, cô thư ký riêng của Chủ tịch ở ngoài kia cũng là nghi phạm, cả tôi cũng là nghi phạm. Chỉ khác nhau ở chỗ ai là nghi phạm của vụ án nào mà thôi. Kiểu như, chúng ta mỗi người cầm một cái túi ni lông đen ấy, không ai biết trong túi của người khác có gì cả. Chúng ta chỉ biết túi của chính mình thôi.”
“Bây giờ anh đang giảng đạo cho tôi đấy à?”
“Ôi không, hoàn toàn không. Loại như tôi thì biết gì mà giảng đạo. Tôi chỉ muốn nói một điều thế này. Nếu Chủ tịch che giấu thứ gì đó, thì thứ đó sẽ chỉ làm giàu thêm cho trí tưởng tượng của những kẻ làm nghề cảnh sát như chúng tôi thôi. Chủ tịch chỉ cần hé cái túi ni lông cho chúng tôi ngó xem bên trong có gì là xong, nhưng nếu ngài không làm vậy thì mấy thằng hay lo nghĩ như chúng tôi sẽ lại tưởng trong đó hẳn có thứ gì kinh khủng khiếp lắm. Là dao à, hay là súng, hoặc cũng có thể là tiền, chúng tôi sẽ cứ tưởng tượng không ngừng như vậy đấy. Cứ thế mãi thì chúng tôi vì quá tò mò mà không dừng được, sẽ chỉ muốn xé toạc cái túi ấy ra luôn.”
“Tôi định nhờ anh ấy thực hiện clip ca nhạc cho một nhóm nhạc nữ
mới.”
“Ồ, ra là sắp có một nhóm nữ mới ra mắt. Tên nhóm là gì nhỉ?” “Vẫn chưa được quyết định. Nhưng cũng đã có vài lựa chọn.” “Tò mò thật đấy. Chuyện này hẳn là cơ mật của công ty ngài đấy nhỉ?” “Cảm ơn anh đã hiểu cho.”
“Trong lúc nói chuyện với anh Bae Dong Hoon, Chủ tịch không để ý thấy điểm gì bất thường ư? Anh ấy tỏ ra bi quan quá mức với cuộc sống, hay nói lung tung khác với ngày thường chẳng hạn...”
“Không, giống hệt như lúc bình thường thôi.”
“Binh thường anh Bae Dong Hoon là người như thế nào?” “Anh ấy bi quan hay lạc quan, tôi không đủ thân thiết tới mức biết được những điều đó, nhưng những lúc làm việc thì anh ấy là kiểu người khá nhạy cảm. Khả năng cảm nhận nhịp điệu để làm clip của anh ấy cực kỳ xuất sắc.” “Vậy nên Chủ tịch mới hợp tác cùng anh ấy.”
“Hắn là vậy rồi.”
“Vâng, hẳn là vậy rồi.”
Kim In Cheon nhìn quanh phòng. Chẳng có gì để quan sát cả. Trong phòng hầu như không có gì thể hiện được tính cách của chủ nhân. Thứ duy nhất gây chú ý là hình vẽ tấm lưới tennis trải dài dọc một bên tường. Kim In Cheon đứng dậy và tiến tới gần tường. Anh ta chạm vào tấm lưới. Nước sơn trên tường có cảm giác sần sần như tranh sơn dầu. Kim In Cheon phát hiện ra một chiếc vợt tennis dựng ở góc.
“Chắc Chủ tịch thường luyện chơi tennis với cái tường này nhỉ?” Kim In Cheon quay lại hỏi Cheon Il Soo.
“Thi thoảng vận động chút ấy mà.”
Cheon Il Soo trả lời.
“Tôi thử một lần được chú? Hồi xưa tôi cũng có chơi thể thao...” “Anh cảnh sát từng chơi tennis sao?”
“À không, tôi chơi cầu lông...”
“Anh đánh thử đi.”
Kim In Cheon cầm vợt đứng trước bức tường. Có cảm giác như đang đứng giữa một sân bóng thực thụ. Kim In Cheon đập quả bóng xuống sàn rồi dùng hết sức vung vợt. Một tiếng “bụp” vang lên, cùng lúc quả bóng bay đi. Bóng đập vào bức tường trắng rồi bật trở lại với tốc độ cực nhanh. Kim In Cheon nắm chặt cây vợt và nhìn quả bóng chằm chằm.
7
Trong sổ tay và nhật ký của Bae Dong Hoon không có manh mối nào hé lộ vị trí cái máy tính bảng. Liệu trong nhật ký có câu nào ám chỉ điều gì đặc biệt không, liệu có mấy thứ như ám hiệu bí mặt hay phép ẩn dụ gì không, Goo Dong Chi đã vò đầu bứt tai nghĩ nát óc mà vẫn chẳng thu thập được gì. Những ghi chép này quá đơn giản khó có thể ẩn ý về một điều gì đó. Mấy giờ gặp ai, làm việc gì, trong nhật ký chỉ ghi toàn những thứ như vậy. Quyển sổ tay cũng thế, chẳng có gì khác ngoài ghi chú về công việc.
Tất cả những clip được lưu trong USB thì đều là phim khiêu dâm dài khoảng trên dưới mười phút. Có tầm một trăm đoạn phim ngắn như vậy. Có lẽ ông ta thường xem những thứ này tại công ty khi buồn chán, và giấu nó ở một nơi bí mật không ai hay biết. Kể cả sau khi chết rồi, việc ông ta đã xem những đoạn phim đó mà bị phát hiện cũng có thể gây ra kha khá rắc rối. Goo Dong Chi rất hiểu tâm tư đó. Chính bởi những lý do như vậy nên người ta mới cần đến deleting. Cái thứ gọi là thanh danh, con người ai cũng đều coi trọng nó.
Người khiến Goo Dong Chi bắt đầu công việc deleting là một nhà văn. Khoảng hai năm trước, một ngày nọ, có người đàn ông tầm sáu mươi tuổi tìm đến văn phòng gã. Người đàn ông giao cho gã một nhiệm vụ khó khăn, đó là nhờ gã tìm những bức thư ông đã gửi cho hai người nọ và hủy bỏ chúng. Việc này cần đột nhập gia cư và trộm cắp nên ban đầu Goo Dong Chi đã từ chối, nhưng quả thực hoàn cảnh của gã khi ấy không cho phép gã từ
chối bất cứ việc gì dù khó khăn đến mấy. Hồi ấy gã đã bỏ nghề cảnh sát và chuyển sang làm thám tử tư, nhưng chẳng có mấy việc để làm. Chỉ toàn những việc chán ngắt như tìm người mất tích, đòi tiền bị quỵt, hay bí mật điều tra ai đó. Mà kể cả những việc như vậy cũng chẳng nhiều. Thế nên công việc đầu tay của gã là giúp người ta xóa dấu vết hoạt động và thông tin cá nhân trên mạng Internet. Đây là công việc nằm ở ranh giới mơ hồ giữa hợp pháp và bất hợp pháp, nhưng tình thế khi ấy buộc gã phải làm bất cứ việc gì, chỉ cần không phải là giết người. Goo Dong Chi không thể quên được ánh mắt của ông nhà văn ấy. Và cả những lời ông ấy nói, gã vẫn còn nhớ y nguyên.
“Những bức thư đó mà lộ ra thì không khác gì tôi bị chết hai lần.” “Thư có nội dung gì vậy?”
“Trong thư tôi gửi cho một người có các tiểu luận và truyện ngắn tôi đã viết thời còn trẻ, còn thư gửi người còn lại thì rặt những lời yêu đương ấu trĩ.”
“Chú muốn tôi hủy hết những thứ đó sao?”
“Phải, nếu cậu có thể tìm ra và hủy tất cả những thứ đó, tôi sẽ cảm tạ cậu xứng đáng.”
“Nhưng tại sao chú lại muốn hủy chúng đi?”
“Vì tôi thấy xấu hổ và nhục nhã.”
“Những thư từ ấy nhục nhã tới mức đáng để tôi liều mạng đột nhập vào nhà người khác ư?”
“Nếu cậu không muốn liều mạng thì tôi đành đi hỏi người khác vậy.” “Không phải, không phải tôi không muốn làm mà là tôi cần biết việc đó nghiêm trọng tới mức độ nào. Chú đã thử nói chuyện với những người đó rồi
chứ? ‘Vì nhiều lý do nên tôi mong được nhận lại những bức thư đó.’ Chú nói thế biết đâu họ lại trả chú luôn.”
“Không, sẽ không có chuyện đó đâu.”
“Chú nói là không thể, hay họ nói với chú là không thể?”
“Cả hai. Một trong hai người đó lúc nào cũng chỉ đợi đến ngày tôi chết. Chỉ cần tôi chết đi, hắn sẽ lập tức công khai những bức thư đó. Hắn sẽ chưng ra bộ mặt đau buồn, như thể hắn làm thế là vì những học giả muốn nghiên cứu tác phẩm của tôi, vì lớp đàn em đi sau. Tất cả những thứ ấy đều là rác rưởi. Cả tôi và hắn đều biết những thứ ấy là rác rưởi. Chính vì vậy hắn sẽ công khai chúng.”
“Còn người kia thì sao?”
“Người kia có lẽ không có ý định công khai những bức thư đó đâu. Thế nhưng đám linh cẩu kia sẽ nhằng nhằng bám theo cô ấy, và đến một ngày nào đó chúng cũng sẽ tìm ra thôi. Tất cả mọi người đều biết hai chúng tôi đã từng yêu nhau.”
“Có vẻ là một việc rất phức tạp và gian nan đây.”
“Khó lắm sao?”
“Không, không phải là khó. Tìm kiếm những món đồ như thế vốn là nghề của tôi mà...”
“Thế thì có vấn đề gì?”
“Vấn đề là theo tôi, thư từ ấy mà, quyền sở hữu chúng không được rõ ràng cho lắm. Tù giây phút chú gửi thư cho người khác, thì bức thư đó đã trở thành vật sở hữu chung của cả hai người rồi, tôi nghĩ như vậy đấy. Chú muốn hủy những bức thư đó đi nhưng có thể người nhận lại muốn giữ gìn chúng cẩn thận thì sao.”
“Người viết ra những câu chữ ấy chính là tôi.”
“Vâng, phải rồi. Đương nhiên là như thế. Nhưng chú đã gửi chúng đi rồi. Không phải chính chú đã trực tiếp dán tem lên phong bì rồi thả vào thùng thư sao. Không phải do bị ai ép buộc, mà là chú tự nguyện.”
“Cậu suy nghĩ phức tạp quá rồi.”
“Tôi luôn cẩn thận với tất cả những việc mình làm.”
“Vậy thì cậu định thể nào. Cậu sẽ làm chứ?”
“Chú hãy cho tôi chút thời gian suy nghĩ.”
“Tôi chỉ muốn nói thêm với cậu một điều. Hủy bỏ một thứ gì đó, thực ra không phải việc gì ghê gớm như ta tưởng tượng đâu. Mỗi ngày, tôi đều hủy đi hàng chục, hàng trăm câu văn. Viết rồi lại xóa, viết rồi lại xóa. Phải xóa đi thì mới có thể viết ra những thứ mới. Để viết được những thứ mới thì phải tiếp tục xóa. Cứ xóa rồi lại xóa như vậy, còn sót lại đến cuối cùng mới là những thứ có giá trị tồn tại. Có người nói đừng xóa đi, hãy giữ lại cho hậu bối và các thế hệ học trò sau học hỏi. Nhưng suy nghĩ của tôi thì khác. Thứ gọi là văn chương, vốn không có con đường nào cả. Mọi con đường đều khác nhau. Những câu chữ tôi xóa, thực ra chỉ là những cành lá tôi cắt tỉa trên con đường của chính tôi mà thôi. Nhìn vào những thứ đó thì học được cái gì cơ chứ. Chúng chỉ giúp tạo ra những con đường vụng về, không hơn. Ngày nào tôi cũng viết nhật ký. Từ ngày bắt đầu làm nhà văn tới giờ, tôi chưa từng bỏ sót một ngày nào cả. Những người gần gũi với tôi khuyên tôi lấy nội dung những quyển nhật ký ấy để ra sách, nhưng tôi thấy đó thật là một suy nghĩ ngu xuẩn. Muốn mở đường xuyên qua bụi cây thì phải chặt bớt đám cành lá đâm ngang chứ. Cứ lấy dao mà chặt. Nhật ký chính là thứ như thế. Là hàng đống cành cây bị chặt chất chồng lên nhau. Chúng phải được gom về một chỗ và thiêu hủy. Mỗi năm tôi đều đốt nhật ký một lần. Nếu
không làm vậy, tôi không thể tiến về phía trước. Cậu thám tử có lẽ sẽ nghĩ tôi lo lắng cho danh tiếng của mình nên mới muốn hủy những bức thư đó. Đương nhiên đó cũng là một lý do. Tôi không dám nói là tôi hoàn toàn không nghĩ thế. Nhưng lý do lớn nhất vẫn là tôi muốn các tác phẩm mình đã cho ra đời được tôn lên hơn nửa. Nhiều cành cây đâm ngang dọc sẽ che khuất tầm nhìn. Chỉ cần nhìn vào thành quả và thưởng thức thôi là được rồi, tại sao còn phải lần mò từng dấu chân nữa làm gì? Không phải vậy sao, cậu thám tử?”
“Tôi đã hiểu ý chú rồi.”
“Vậy cậu sẽ làm chứ?”
“Vâng, hẳn rồi. Tôi sẽ nhận vụ này.”
Goo Dong Chi không hoàn toàn đồng ý với suy nghĩ của ông nhà văn. Nhưng thực sự gã có chút cảm động vì những suy nghĩ ấy. Cái gì đáng bị xóa bỏ thì nên xóa bỏ, không có lý do gì để khăng khăng giữ lại những thứ chắn ngang tầm nhìn cả, gã nghĩ.
Goo Dong Chi đã hoàn thành công việc ấy trong vòng hai tháng. Lấy trộm thư từ chỗ người phụ nữ là việc khá đơn giản. Chẳng ai ngày ngày đều lôi thư tình thuở thanh xuân ra đọc cả, cũng không nhiều người cảm thấy bất ngờ nếu chúng tự dưng biến mất. Bởi ai cũng nghĩ rằng những bức thư dù được giữ gìn cẩn thận, đến một ngày, hiển nhiên cũng sẽ không còn nữa. Giống như da dẻ con người mỗi ngày lại nứt nẻ thêm một chút, ký ức sẽ dần vỡ vụn, càng nhiều tuổi con người ta càng dễ dàng chấp nhận chuyện ấy. Người ta sẽ không còn mãi thu lượm những mảnh vụn vỡ và gắng sức phục hồi nguyên dạng ký ức nữa.
Lấy trộm những bức thư của người đàn ông tốn thời gian hơn một chút. Gã đã lẻn vào phòng làm việc của ông ta, tìm nơi cất giữ thư và làm thư giả.
Người đàn ông đã rút tất cả thư ra khỏi phong bì và xếp vào tệp tài liệu theo thứ tự thời gian một cách tỉ mỉ nên gã nghĩ có lẽ tốt nhất là tráo đổi toàn bộ tệp tài liệu này. Gã lấy trộm một trang thư, rồi dùng kỹ thuật đồ họa làm giả thêm nhiều trang nữa. Sau khi xáo trộn chữ và sắp xếp lại vị trí câu, nhìn lướt qua có thể tưởng đấy là một bức thư dài nhiều trang, nhưng nhìn kỹ mới nhận ra tất cả đều chỉ cùng một câu. Gã in ra mấy chục trang thư như vậy rồi xếp kín vào tệp tài liệu.
Goo Dong Chi lừa người đàn ông, nhưng thực ra gã cũng lừa cả ông nhà văn. Hôm gã mang những bức thư lấy trộm về, ông nhà văn đã ngay lập tức đốt trụi toàn bộ. Ông ấy hoàn toàn không có ý muốn đọc lại xem mình đã sáng tác nên những truyện gì hay đã viết ra những câu như thế nào. Goo Dong Chi đã tráo đổi tệp tài liệu vào phút cuối cùng. Chỉ có ba trang trên cùng là thư gốc, phần còn lại đều là bản sao. Đến tận bây giờ gã cũng không hiểu vì sao mình lại làm thế, nhưng lúc đó gã có linh cảm mình nhất định phải trì hoãn việc hủy những bức thư. Không biết liệu có phải bởi cảm giác chân thực trong nét mực được trực tiếp viết ra từ cây bút máy của ông nhà văn ấy hay không. Goo Dong Chi cảm nhận được sự cao quý của tập văn bản gốc mà bản sao chép không thể sánh bằng. Câu chữ đang cất lên tiếng nói như sinh mệnh. Nhận được tệp tài liệu từ tay Goo Dong Chi, ông nhà văn lập tức đốt sạch. Còn gã, gã nhận ra vận mệnh của mình đã được quyết định ngay trong khoảnh khắc ngắn ngủi đó. Nếu giả như vào giây phút cuối cùng, ông nhà văn xem lại kỹ càng những bức thư trong tệp tài liệu và nhận ra đó chỉ là bản sao chép thì có lẽ Goo Dong Chi đã không bắt đầu công việc deleting. Hễ nghĩ lại giây phút đó, Geo Dong Chi lại thấy sởn gai ốc khắp người. Gã không nhớ nổi mình đã nghĩ gì mà lao đầu vào canh bạc ấy nữa.
Ông nhà văn chết vì ung thư dạ dày một năm sau đó. Goo Dong Chi đọc
được tin về cái chết của ông trên báo. Có lẽ sau khi ông nhà văn qua đời, người đàn ông kia cũng mới nhận ra việc mình bị mất trộm. Chỉ cần tưởng tượng đến vẻ mặt ông ta khi mở tệp tài liệu với ý định công khai những bức thư kia, Goo Dong Chi đã thấy tê cứng cả đầu ngón tay.
Kể từ đó Goo Dong Chi chính thức bắt đầu công việc deleting. Gã tìm và hủy điện thoại di động của người chết, gã làm hỏng máy tính cá nhân của người chết, gã tìm quyển nhật ký của người chết và xé thành từng mảnh rồi đốt sạch. Từ sau khi biết được sự thật rằng trên đời có những người khác dù rất ít nhưng vẫn có làm công việc deleting giống mình, gã cũng cảm thấy bớt tội lỗi phần nào khi phải xóa bỏ một thứ gì đó khỏi thế gian. Con người muốn xóa bỏ rất nhiều thứ. Vì danh tiếng của bản thân, vì nỗi sợ hãi bị lộ ra bí mật, để bảo vệ một ai đó, có vô vàn lý do khiến người ta nảy sinh mong muốn xóa bỏ vô vàn thứ như vậy.
“Thứ gì có thể cứu sống thì hãy để cho nó sống”, đó là suy nghĩ của Goo Dong Chi.
Những thứ không cần thực hiện deleting tuyệt đối, gã quyết tâm sẽ tự mình bảo quản chúng. Thư từ của ông nhà văn nằm trong hộp bảo vệ số 1 của Goo Dong Chi. Từ sau đó, gã đã giả vờ deleting và giữ lại rất nhiều nhật ký, tài liệu và đồ đạc. Ở thế giới quanh các khách hàng của Goo Dong Chi những vật này đã biến mất vĩnh viễn nên không thể nói là gã không thực hiện deleting, nhưng như vậy cũng không có nghĩa chúng đã biến mất trong thế giới của gã. Thế giới mà chúng ta đang sống không chỉ có một, mà có hai. Đó là thế giới xung quanh chúng ta, và thế giới mà chúng ta không biết đến. Chúng ta càng mở rộng thế giới quanh mình thì thế giới mà chúng ta không biết sẽ càng thu hẹp lại. Vậy nhưng, dù có cố gắng cỡ nào cái thế giới mà chúng ta không hay biết, bằng cách nào đó, vẫn luôn tồn tại. Goo Dong Chi
nghĩ, thay vì xóa bỏ món đồ nào đó một cách tuyệt đối, đổi vị trí của nó có lẽ sẽ tốt hơn cả. Việc xóa bỏ một món đồ nào đó ở cả hai thế giới, gã gọi là full deleting, còn việc chuyển một món đồ từ thế giới của khách hàng sang một thế giới mà họ không bao giờ biết tới, gã gọi là half deleting. Chỉ riêng việc di chuyển đồ vật như vậy cũng có thể coi là deleting rồi. Đứng trên lập trường của khách hàng, full deleting hay half deleting cũng không thành vấn đề.
Ông nhà văn chuyển vào tài khoản của Goo Dong Chi một số tiền lớn. Goo Dong Chi nhìn những con số trong tài khoản của mình một lúc lâu. Một khoản tiền khó lòng tin nổi. Bằng số tiền ông nhà văn gửi, Goo Dong Chi đã có được văn phòng hiện tại, và làm một tủ tài liệu đồ sộ che kín cả một bên tường. Chiếc tủ tài liệu ấy, đối với Goo Dong Chi, là một đồ vật có tính biểu tượng. Nó là thứ được trộm về từ một thế giới khác và là thứ tuyệt đối không thể công khai. Nói cách khác, nó cũng như chiếc hộp Pandora có thể mang đến tai ương cho những thế giới khác. Nghe thật trớ trêu nhưng chính Goo Dong Chi cũng đã ủy thác cho một thám tử khác làm việc deleting tủ tài liệu này của gã. Nếu có bất kỳ chuyện gì xảy ra với Goo Dong Chi, ngay tức khắc, thám tử kia sẽ hủy tủ đựng tài liệu ở văn phòng gã không để lại bất cứ dấu vết gì.
Chẳng có thám tử nào lại đi giữ gìn những món đồ đã thực hiện deleting cả. Giữ lại chúng nào có lợi ích gì. Trong trường hợp sự thật này bị lộ ra gã sẽ chỉ còn cách bỏ nghề thám tử, tức không có lý do gì khiến Goo Dong Chi liều lĩnh bất chấp tất cả để đọc trộm nhật ký của người khác. Việc gã giữ lại đồ đạc chịu ảnh hưởng lớn từ ông nhà văn kia. Những bức thư được giữ lại từ hồi ấy, đến tận bây giờ thi thoảng gã vẫn đem ra đọc. Goo Dong Chi không hiểu biết nhiều về văn chương, nhưng theo gã, tất cả câu từ trong
những bức thư ấy đều vô cùng tuyệt vời.
Gã không hiểu nổi vì sao ông nhà văn lại muốn hủy chúng đến thế. Những món đồ mà người khác muốn xóa bỏ chưa biết chừng cũng chẳng phải thứ đáng bị xóa bỏ, Goo Dong Chi thường nghĩ vậy.
Goo Dong Chi cất USB của Bae Dong Hoon vào tủ tài liệu, rồi chăm chú đọc cuốn nhật ký. Hai ngày trước khi chết, ông ta có tới hai nơi. Một phòng thu âm có tên ANE, và một cửa hàng tên V2U nằm trong tòa nhà Wide Vision, nơi tập trung một loạt những cửa hàng chuyên thiết bị điện tử nghe nhìn ở khu Yongsan. Gã quyết định sẽ bắt đầu từ đó.
8
Nơi có mùi đặc biệt nhất ở tòa nhà Cá Sấu là nhà hàng Mùi hương Sicilia dưới tầng hầm. Mùi ẩm thấp của tầng hầm và mùi của đủ các loại thức ăn quyện với mùi đặc trưng của tòa nhà tạo nên một thứ mùi mà dù đứng ở đâu cũng không thể ngửi nổi. Park Chan Il thường khoác lác đó là “mùi hương Sicilia”, “mùi của nước Ý”, nhưng chẳng ai tin. Suốt ba mươi phút sau khi mở cửa hàng, Park Chan Il thường phải dùng tất cả các loại thảo mộc và chất khử mùi để thanh lọc không khí. Nếu không để ý cứ mặc kệ nó thì không biết cái mùi còn kinh khủng đến mức nào.
Mùi hương Sicilia là nhà hàng do một mình Park Chan Il quản lý. Cả nhà hàng chỉ có bốn bàn ăn, nên cũng không cần thuê thêm người làm. Anh ta tự chuẩn bị tất cả các loại nguyên liệu, nấu nướng và mang đồ ra phục vụ khách, nhưng cũng chẳng lấy gì làm bận rộn lắm. Mỗi tháng cứ chăm chỉ nấu nướng thì cũng đủ để đóng thuế cửa hàng, trả tiền thuê căn hộ đơn và trang trải tiền sinh hoạt phí. Park Chan Il hài lòng với cuộc sống hiện tại. Tuy cũng có lúc thấy ở một mình thật cô đơn và nảy ra suy nghĩ muốn sống cùng người khác, nhưng rốt cuộc anh ta vẫn không muốn từ bỏ tự do.
Park Chan II có yêu đơn phương một người. Đó là có trợ lý biên kịch phim truyền hình sống trên tầng bốn của tòa nhà Cá Sấu, tên Oh Yoon Jeong. Park Chan Il đã phải lòng Oh Yoon Jeong ngay ngày đầu cô chuyển tới đây. Hôm đó anh ta cứ lảng vảng mãi ở tầng một dõi theo bóng dáng Oh Yoon Jeong tất bật chuyển nhà, rồi còn bê hộ cô vài thùng đồ đạc. Thỉnh thoảng
Oh Yoon Jeong có xuống Mùi hương Sicilia dùng bữa, mỗi lần như thế Park Chan Il lại phạm sai sót rất nhiều. Làm vỡ bát, nêm đường thay vì muối, luống cuống cầm dao cắt nhầm vào móng tay. Không muốn để lộ ra tình cảm của mình với Oh Yoon Jeong, Park Chan Il thường cố tình hành động rất thô lỗ, và luôn nhấn mạnh rằng đồ ăn của mình rất “cứng”. Oh Yoon Jeong thì không nghĩ nhiều về Park Chan II cho lắm.
Lúc Lee Bin Il xuống Mùi hương Sicilia để ăn tối, Park Chan Il đang ngồi ở bàn ăn số 1, vừa đọc báo vừa hút thuốc lá. Đã 5 giờ chiều, chuẩn bị tới giờ làm ăn rồi.
“Anh giai, không cho em ăn à?”
Lee Bin Il ngồi xuống đối diện Park Chan Il.
“Tự lấy mà ăn, thằng ranh.”
Park Chan Il dụi tắt điếu thuốc.
“Hôm qua anh vừa bảo sẽ cho em thưởng thức đồ ăn hoàn hảo hơn cả thực phẩm hoàn hảo cơ mà.”
“Anh mày điêu đấy, nhóc ạ.”
“Người gì mà không đáng tin chút nào vậy.”
“Bảo đến là đến thật đấy à? Hôm nay rảnh thế?”
“Bận lắm, bận tối mắt tối mũi lên được, nhưng vì muốn ăn thực phẩm hoàn hảo của anh nên em mới đến đấy.”
“Xem nó xạo kìa, chủ máy thì bận quái gì.”
“Dạo này em nhiều việc lắm. Thật đấy.”
“Làm giúp cho thám tử Goo đó hả?”
“Vâng, cũng chẳng được mấy đồng mà việc thì lắm. Xóa bỏ hết tất cả thông tin về một người cơ mà...”
“Thám tử Goo chia cho chủ mày bao nhiêu phần trăm?”
“50-50 ạ.”
“Chú máy cũng ăn dày gớm nhỉ.”
“Hầu hết việc đều là em làm, nhưng em cũng không có gì bất mãn cả. Với em thì như vừa làm vừa chơi ấy mà.”
“Đương nhiên còn gì để mà bất mãn nữa. Được chia tận một nữa cơ mà.” “Anh giai, anh tưởng tìm tất cả thông tin với cả nội dung một người nào đấy đăng lên mạng Internet rồi xóa hết là đơn giản lắm hả?” “Thì có gì là khó. Cứ xóa hết sạch là được mà.”
“Ôi thật là, cái anh giai này, anh sống cũng dễ dàng quá đi.” “Chú mày đang dạy đời anh đấy hả?”
“Đừng mắng em nữa, cho em ăn đi.”
“Ăn gì? Ăn chửi nhé? Khè khè.”
Park Chan Il đứng dậy và đi vào bếp. Tiếng loảng xoảng vang lên khắp nhà hàng vắng vẻ. Lee Bin Il rất thích tiếng bát đĩa xoong nồi va đập vào nhau. Vừa inh tai lại vừa nghe như tiếng thứ gì đó đã được chuẩn bị xong xuôi, cậu ta rất thích. Nhà hàng vắng càng làm tiếng loảng xoảng vang vọng hơn. Lee Bin Il thích xuống Mùi hương Sicilia để nghe những tiếng động này còn hơn cả để ăn uống. Đó là những âm thanh cậu ta đã không được nghe suốt quãng thời gian trưởng thành, đó là những âm thanh cậu ta chưa từng được nghe từ người mẹ của mình.
“Anh giai, anh từng đến Sicilia bao giờ chưa?”
Lee Bin Il vừa lật giở tờ báo vừa lớn tiếng hỏi.
“Gì cơ?”
Park Chan Il từ trong bếp hét vọng ra.
“Em hỏi anh đến Sicilia bao giờ chưa?”
Lee Bin Il hỏi to hơn nữa.
“Nhìn anh mày có vẻ đến rồi chắc.”
Park Chan Il đáp trả bằng giọng còn to hơn.
“Chưa đến bao giờ mà sao lại đặt tên nhà hàng thế này?”
“Vì nghe chất chứ sao nữa, ranh con ạ.”
Park Chan Il vừa dứt lời, như được báo hiệu cánh cửa nhà hàng liền mở ra. Oh Yoon Jeong mở he hé cửa, ngập ngừng.
“Ô, chị ạ”
“Bin Il đấy à. Nhà hàng mở cửa chưa thế?”
“Rồi ạ. Chị chờ chút nhé.”
Lee Bin Il đi vào bếp và lập tức trở ra cùng Park Chan Il. Khuôn mặt Park Chan II đã trở nên cứng đơ. Anh ta xoa xoa đôi tay ướt vào mông, khó khăn cất lời.
“Cô Yoon Jeong đến đấy ạ?”
“Cả ngày nay tôi chưa ăn nổi bữa nào. Bây giờ chắc chưa có mì Ý đâu nhỉ? Tôi đến sớm quá phải không? Tôi phải ăn nhanh rồi còn đi làm nữa.” “Thằng ranh Bin Il này đòi ăn nên tôi đang nấu nướng rồi đây, cô Yoon Jeong ăn cùng nhé.”
“Thôi ạ, tôi sẽ gửi tiền mà.”
“A, cô định biến tôi thành kẻ keo kiệt đấy à. Xong ngay đây. Thả thêm chút mì vào nước sôi nữa thôi là xong. Đặc trung các món của tôi là gì cơ chứ. Chính là đơn giản và ‘cứng’. Cô chờ một chút nhé.”
Park Chan Il đang chạy vào nhà bếp thì bị vấp suýt ngã sấp mặt, phải vất
vả lắm mới lấy lại được thăng bằng. Tiếng loảng xoảng trong bếp vang còn to hơn trước.
Oh Yoon Jeong ngồi xuống chỗ Park Chan Il vừa ngồi khi này. Oh Yoon Jeong có khuôn mặt tròn, đôi mắt hơi lồi ra ngoài, vì khuôn mặt này mà thỉnh thoảng cô lại bị người khác hiểu nhầm hỏi là có phải mặt bị sưng không. Vậy nhưng cũng nhờ khuôn mặt tròn trịa phúng phính này mà trông cô trẻ hơn tuổi rất nhiều. Cô chỉ kém Park Chan Il hai tuổi thôi mà trông hai người như cách nhau tới mười tuổi.
“Chị, dạo này chị đang làm phim gì thế?”
“Ừm, phim sáng Chủ nhật ấy.”
“Phim nói về cái gì thế ạ?”
“Thì lại mấy cái chuyện đấy thôi, yêu đương này nọ.”
“Hay không ạ?”
“Biên kịch chính là một con mụ cực gớm, nên chắc tỷ lệ người xem cũng tốt thôi.”
“Biên kịch mà cứ gớm thì sẽ nhiều người xem ạ?”
“Ở cái giới này là vậy mà. Mấy kẻ điên khùng thì thường lại làm được việc. Mà này, cậu biết cái anh ở tầng bốn chứ?”
“Anh Dong Chi ấy ạ? Biết chứ. Em làm việc cùng anh ấy mà.” “Thế hả? Cậu làm việc cùng anh ta á?”
“Anh giai ấy vốn xuất thân là cảnh sát, nhưng nghỉ việc rồi, giờ làm thám tử. Cơ mà cũng chẳng có mấy việc nên thực ra anh ấy còn bận làm những việc linh tinh khác hơn cả việc thám tử...”
“Thám tử á? Ôi trời, ông anh đấy làm thám tử á?”
“Thám tử tư được chính phủ cấp phép thì phải? Đại loại thế ạ.”