🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bí Mật Đảo Lincoln
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
BÍ MẬT ĐẢO LINCOLN
Jules Verne
Making Ebook Project
BOOKAHOLIC CLUB
https://thuviensach.vn
Tên sách: BÍ MẬT ĐẢO LINCOLN
Tác giả: Jules Verne
Dịch giả: Phạm Hậu
Nguyên tác: L'ile mystérieuse
Nhà xuất bản: Trẻ
Năm xuất bản: 1988
Số trang: 383
Giá tiền: -- Đồng
Khổ: 13 x 19 cm
Đánh máy: Yến Chi, Thùy Trâm, Đỗ Quyên, Minh Nhật, Phương, Vân Anh
Kiểm tra: Thảo Đoàn
Chế bản ebook: Thảo Đoàn
Ngày thực hiện: 19/03/2011
Making Ebook Project #110– www.BookaholicClub.com
https://thuviensach.vn
Bạn đang đọc ebook BÍ MẬT ĐẢO LINCOLN của tác giả Jules Verne do Bookaholic Club chế bản theo Dự án chế bản Ebook (Making Ebook Project).
Mong rằng ebook này sẽ mang đến cho bạn một tác phẩm Văn học hay, giàu giá trị biểu cảm và nhân văn, với chất lượng cao. Chúng tôi luôn cố gắng mang đến những chế bản ebook tốt nhất, nếu trong quá trình chế bản có lỗi sai sót nào mong bạn góp ý và cho chúng tôi biết những ebook mà đang mong muốn.
Making Ebook Project của Bookaholic Club là một hoạt động phi lợi nhuận, nhằm mục đích mang đến những chế bản ebook hay, có giá trị với chất lượng tốt nhất mà chúng tôi có thể với Cộng đồng đọc - người Việt. Tuy nhiên, nếu bạn có khả năng xin hãy đọc tác phẩm này bằng sách trước hết vì lợi ích cho Nhà xuất bản, bản quyền tác giả và góp phần phát triển xây dựng nền Văn hóa đọc.
Hãy chỉ đọc chế bản này trong điều kiện bạn không thể tìm đến ấn phẩm sách.
https://thuviensach.vn
MỤC LỤC
GIỚI THIỆU TÁC GIẢ LỜI GIỚI THIỆU
PHẦN THỨ NHẤT TAI NẠN TRÊN KHÔNG CHƯƠNG MỘT
CHƯƠNG HAI
CHƯƠNG BA
CHƯƠNG BỐN
CHƯƠNG NĂM
CHƯƠNG SÁU
CHƯƠNG BẢY
CHƯƠNG TÁM
CHƯƠNG CHÍN
CHƯƠNG MƯỜI
CHƯƠNG MƯỜI MỘT CHƯƠNG MƯỜI HAI CHƯƠNG MƯỜI BA
CHƯƠNG MƯỜI BỐN CHƯƠNG MƯỜI LĂM PHẦN HAI
NGƯỜI BỊ TỪ BỎ
CHƯƠNG MỘT
CHƯƠNG HAI
CHƯƠNG BA
CHƯƠNG BỐN
CHƯƠNG NĂM
https://thuviensach.vn
CHƯƠNG SÁU
CHƯƠNG BẢY
CHƯƠNG TÁM
CHƯƠNG CHÍN
CHƯƠNG MƯỜI
CHƯƠNG MƯỜI MỘT CHƯƠNG MƯỜI HAI CHƯƠNG MƯỜI BA
CHƯƠNG MƯỜI BỐN CHƯƠNG MƯỜI LĂM CHƯƠNG MƯỜI SÁU PHẦN BA
BÍ MẬT CỦA ĐẢO CHƯƠNG MỘT
CHƯƠNG HAI
CHƯƠNG BA
CHƯƠNG BỐN
CHƯƠNG NĂM
CHƯƠNG SÁU
CHƯƠNG BẢY
CHƯƠNG TÁM
CHƯƠNG CHÍN
CHƯƠNG MƯỜI
CHƯƠNG MƯỜI MỘT CHƯƠNG MƯỜI HAI CHƯƠNG MƯỜI BA
CHƯƠNG MƯỜI BỐN CHƯƠNG MƯỜI LĂM CHƯƠNG MƯỜI SÁU
https://thuviensach.vn
CHƯƠNG MƯỜI BẢY
https://thuviensach.vn
GIỚI THIỆU TÁC GIẢ
Jules Gabriel Verne, thường được biết đến với tên Jules Verne, sinh ngày 8 tháng 2 năm 1828, mất ngày 24 tháng 3 năm 1905, là nhà văn Pháp nổi tiếng, người đi tiên phong trong thể loại văn học Khoa học viễn tưởng và được coi là một trong những “Cha đẻ” của thể loại này. Với những tác phẩm nổi tiếng như Chuyến đi vào tâm Trái Đất (1864), Hai vạn dặm dưới đáy biển (1870), Tám mươi ngày vòng quanh Thế giới (1873), Jules Verne đã đề cập đến những cuộc phiêu lưu bằng máy bay, tàu ngầm hay những chuyến du hành vào vũ trụ trước khi những phương tiện này được con người phát minh trong thực tế.
Theo tổ chức Index Translationum, ông là người có tác phẩm được dịch nhiều thứ ba trên thế giới, những tác phẩm của ông cũng được chuyển thể thành phim nhiều lần.
Một số tác phẩm tiêu biểu:
- Cinq semaines en ballon (Năm tuần trên khinh khí cầu)
- Paris au XXe siècle (Paris thế kỷ 20)
https://thuviensach.vn
- Les Aventures du capitaine Hatteras (Những cuộc phiêu lưu của thuyền trưởng Hatteras)
- Voyage au centre de la Terre (Chuyến đi vào tâm Trái đất) - De la Terre à la Lune (Từ Trái đất đến Mặt trăng)
- Les Enfants du capitaine Grant (Những đứa con của thuyền trưởng Grant)
- Vingt mille lieues sous les mers (Hai vạn dặm dưới biển) - Autour de la Lune (Bay quanh Mặt trăng)
- Le Tour du monde en quatre-vingts jours (Vòng quanh thế giới trong 80 ngày)
- L'Île mystérieuse (Hòa đảo bí mật)
Và nhiều tác phẩm khác
https://thuviensach.vn
LỜI GIỚI THIỆU
Sau khi các tiểu thuyết “Những đứa con của thuyền trưởng Grant” (1868) và “Hai vạn dặm dưới biển” (1870) ra đời, được bạn đọc gần xa nhiệt liệt tán thưởng, năm 1875, Jules Verne (1828 - 1905), nhà văn Pháp nổi tiếng, một trong những người sáng lập thể loại truyện khoa học viễn tưởng, đã cho xuất bản tiếp tiểu thuyết “Bí mật đảo Lincoln”[1]. Trong cuốn tiểu thuyết mới này, tác giả đã tiếp tục phát triển cốt truyện sinh động và hấp dẫn của hai tiểu thuyết trên, vì vậy nó đã liên kết các tác phẩm ấy thành bộ tiểu thuyết ba tập duy nhất và nổi tiếng nhất của Jules Verne: “Những đứa con của thuyền trưởng Grant”, “Hai vạn dặm dưới biển” và “Bí mật đảo Lincoln”.
Ta gặp trong “Bí mật đảo Lincoln” kỹ sư Cyrus Smith, nhà báo Gédéon Spilett, anh da đen Nab, thủy thủ Pencroff và chú thiếu niên Harbert. Họ là những người Mỹ lương thiện trốn khỏi trại tù binh bằng một quả khinh khí cầu, nhưng chẳng may bị bão cuốn, gặp tai nạn, rơi xuống một hòn đảo hoang ở Thái Bình Dương, cách rất xa đất liền, trở thành những người trần trụi giữa mảnh đất trần trụi. Họ thiếu thốn đủ mọi thứ cần thiết nhất cho cuộc sống của con người bình thường: không có cái ăn, không có lửa, không có một cái gì có thể gọi là công cụ… Thực tế đã buộc họ trở lại sống chẳng khác gì những người hoang sơ: ở hang, dùng đá, gậy, cung, tên để săn bắt muôn thú sống qua ngày. Song, là những người từng trải, mỗi người lại có những kiến thức và kinh nghiệm sống trong xã hội văn minh, họ không tỏ ra thất vọng, bi quan, không chịu khuất phục trước hoàn cảnh khắc nghiệt. Dưới sự hướng dẫn của kỹ sư Cyrus Smith, một người trí thức tài năng, rất cần cù, sáng tạo, đôn hậu và chân thành, linh hồn của cả toán, những người bị nạn ấy đã dần dần vận dụng những kiến thức khoa học kỹ thuật để chinh phục thiên nhiên, khai thác các tài nguyên tại chỗ,
https://thuviensach.vn
làm ra những thứ cần thiết cho cuộc sống của con người văn minh - lấy lửa, nung gạch, luyện sắt thép, chế thuốc súng, vũ khí, công cụ lao động, máy điện báo, đóng tàu, trồng lúa, nuôi gia súc, gia cầm… Từ những người bị nạn họ trở thành những người di dân chung sức chung lòng xây dựng hòn đảo hoang mà họ đã đặt tên là đảo “Lincoln” thành một vùng di dân trù phú, một công xã tiêu biểu cho lối sống mới - con người trong cộng đồng, trong tập thể đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ nhau, không phân biệt địa vị xã hội, màu da, cùng hòa mình trong lao động tận tụy vì sự nghiệp chung…
Cư dân thứ sáu trên đảo là Ayrton. Đó chính là tên tướng cướp Ben Joyce trong “Những đứa con của thuyền trưởng Grant” đã bị đày lên đảo Tabor (cách đảo Lincoln 150 hải lý) từ 12 năm trước đây để tự cải tạo, chuộc lại những tội lỗi của mình, trong một chuyến tàu đi thăm đảo Tabor, những người di dân trên đảo Lincoln đã tìm thấy anh ta trong trạng thái không còn là một con người, mà đã hoang hóa thành một con thú sau những năm tháng sống cô đơn và mất lý trí. Những người di dân đã đưa anh ta trở về sống trong xã hội nhỏ bé của mình. Và, trước niềm tin yêu con người mạnh mẽ cùng tấm lòng nhân đạo cao cả của những người bạn mới, Ayrton đã bị cảm hóa và tự thú tội lỗi, trút bỏ dần nỗi u sầu, mặc cảm về quá khứ đen tối của mình, trở thành một người lao động cần cù và trung thực. Chính anh ta đã tham gia chiến đấu dũng cảm, giáng trả quyết liệt bọn cướp biển đến xâm chiếm đảo, bảo vệ những thành quả lao động mà tập thể họ đã tạo dựng nên, đồng thời khẳng định sự trung thành của mình.
Bạn đọc cũng sẽ bất ngờ và thích thú được gặp lại nhân vật yêu thích của mình trong “Hai vạn dặm dưới biển” - thuyền trưởng Nemo bí ẩn cùng với con tàu ngầm kỳ diệu “Nautilus” của ông trú đậu ngay bên dưới hòn đảo “Lincoln”. Nhưng, bây giờ đây chúng ta sẽ gặp lại một thái tử Dakkar, một người Ấn Độ yêu nước, một Nemo đầy lòng căm ghét, nguyền rủa sự áp bức, bóc lột và sự thống trị tàn bạo của giai cấp tư sản và thực dân đế
https://thuviensach.vn
quốc đối với nhân dân lao động, song ông không còn xa lánh xã hội loài người nữa. Chính là do tấm lòng cao thượng, đức tính trung thực, lao động cần cù và tình thương yêu gắn bó lẫn nhau của những người di dân - những đại diện của xã hội loài người trên hòn đảo này - đã thuyết phục, cảm hóa ông. Và, vì vậy, ông đã bí mật gắn bó với họ và nhiều lần ra tay cứu giúp họ thoát khỏi hiểm họa.
Trên đảo “Lincoln” liên tiếp xảy ra những sự việc bí ẩn, bất ngờ liên quan đến cuộc sống của những người di dân, khiến người đọc hồi hộp theo dõi. Những hiện tượng ấy tưởng như siêu nhiên, nhưng thật ra, tất cả đều được giải thích rõ ràng bởi chính sức mạnh của khoa học kỹ thuật, đúng hơn là, bởi chính những con người được trang bị kiến thức khoa học kỹ thuật, bởi lòng nhân đạo và niềm tin vào con người.
… Hòn đảo “Lincoln”, khu di dân, thực chất là một công xã kiểu mẫu mà những con người lao động cần cù, dũng cảm đã xây dựng nên và gắn bố suốt bốn năm trời ấy cuối cùng đã bị nổ tung, chỉ còn lại một tảng đá ngầm.
Vì sao tác giả lại kết thúc cuốn truyện đầy hấp dẫn của mình bằng một sự bi đát như vậy?
Có lẽ ở đây sự kết thúc ấy không phải chỉ thể hiện diễn biến của cốt truyện, mà còn mang một ý nghĩa triết học.
Jules Verne là một người chịu ảnh hưởng sâu sắc của chủ nghĩa xã hội không tưởng và Công xã Paris. Ông muốn khi di dân, hay cái công xã kiểu mẫu ấy tồn tại không phải trên một hòn đảo chơi vơi, xa cách với loài người, mà ở ngay trên đất liền, giữa thế giới con người…
https://thuviensach.vn
Và, những người di dân ấy, kể cả con chó Top trung thành của họ, đều đã được con tàu “Duncan” tình nghĩa cứu thoát và đưa về Mỹ… Họ tiếp tục sống với nhau trong tình cảm cao đẹp như xưa, và đã dùng số châu báu của thuyền trưởng Nemo tặng để tái tạo một khu di dân, một công xã “Lincoln” mới ngay trong lòng nước Mỹ, thu nhận vào đây những người khốn khó, giúp họ lao động và xây dựng cuộc sống hạnh phúc trong một cộng đồng mới đầy tình yêu thương, tin tưởng vào con người, bình đẳng và không có chế độ người bóc lột người…
“Bí mật đảo Lincoln” là cuốn tiểu thuyết vừa mang tính chất phiêu lưu mạo hiểm, lại vừa mang tính chất khoa học viễn tưởng với nội dung phong phú và hấp dẫn. Tuy nhiên, để cho phù hợp với hoàn cảnh của ta hiện nay, trong khi dịch chúng tôi đã lược bớt một số đoạn để tập sách khỏi dày quá. Mặt khác, việc dịch thuật chắc không tránh khỏi những thiếu sót. Mong được bạn đọc thông cảm và đóng góp cho những ý kiến phê bình.
Người dịch
https://thuviensach.vn
PHẦN THỨ NHẤT TAI NẠN TRÊN KHÔNG
https://thuviensach.vn
CHƯƠNG MỘT
Trận cuồng phong năm 1865. - Khí cầu bị bão cuốn. - Năm người khách viễn du. - Chuyện gì đã xảy ra trên nôi khí cầu. - Mặt đất nơi chân trời. - Tấn bi kịch kết thúc.
- Ta đang lên?
- Đâu có! Đang xuống!
- Còn tệ hơn thế, thưa ngày Cyrus! Ta đang rơi!
- Trời ơi! Vứt bỏ trọng vật đi!
- Chúng tôi đã quẳng nốt bao cát cuối cùng.
- Bây giờ thế nào? Ta đang lên chứ?
- Không?
- Cái gì thế nhỉ? Hình như có tiếng sóng vỗ?
- Bên dưới chúng ta là biển!
- Gần lắm, cách độ năm trăm fut[2] thôi!
Một giọng nói đầy quyền uy vang lên át cả tiếng bão gầm:
https://thuviensach.vn
- Vứt bỏ hết những thứ nặng! Quẳng hết đi!
- Trời ơi! Cứu chúng con với!
Những tiếng ấy đã vang lên trên một vùng Thái Bình Dương mênh mông hoang vắng vào lúc gần bốn giờ chiều ngày 23 tháng ba năm 1865.
Hẳn mọi người còn nhớ cơn bão khủng khiếp đã nổi lên năm 1865, vào tiết Xuân phân, khi trận cuồng phong từ hướng đông - bắc ập tới và khí áp kế đã tụt xuống con số bảy trăm mười milimet. Trận cuồng phong đã hoành hành không ngớt từ ngày 18 đến ngày 26 tháng ba và gây ra sự tàn phá ghê gớm ở Châu Mỹ, Châu Âu và Châu Á, bao gồm cả một vùng rộng một ngàn tám trăm hải lí, kéo dài tới tận xích đạo, chếch từ vĩ tuyến 35 bắc vĩ tuyến 40 nam. Những thành phố bị tàn phá: những rừng cây bị tróc gốc; những vùng duyên hải bị sóng biển to như quả núi cuốn sạch trơn: hàng trăm tàu thủy bị quất lên bờ, những vùng đất nguyên lành bị biến thành hoang vắng dưới sức mạnh hủy diệt của những trận lốc xoáy đã tàn phá mọi thứ trên đường đi của chúng: hàng ngàn người bị chết trên cạn hoặc bị nhấn chìm dưới vực biển - đó là hậu quả của trận cuồng phong khủng khiếp ấy.
Nhưng trong những ngày tháng ba năm 1865, khi trên đất liền và trên biển xảy ra những trận thiên tai như vậy thì một thảm kịch không kém phần khủng khiếp cũng xảy ra trên không do bão tố gây nên.
Thật vậy, trận cuồng phong đã cuốn phăng một quả khí cầu, nhồi nó lên tận đỉnh cột lốc như một quả bóng, rồi xoáy hút nó đi theo luồng không khí với tốc độ chín mươi dặm[3] một giờ.
Chiếc nôi đan treo dưới đai lưới khí cầu bị lắc lư. Trên nôi có năm người. Ta chỉ có thể loáng thoáng nhận ra họ trong làn sương dày đặc quyện lẫn bụi nước la đà sát mặt đại dương…
https://thuviensach.vn
Các khách viễn du vẫn đang ở trông nôi khí cầu không thể biết được họ đã vượt một chặng đường bao xa và khí cầu của họ bị cuốn đi đâu, - họ không có một cái mốc nào để xác định cả.
Mắt họ không phân biệt được gì qua những đám mây đang cuồn cuộn trôi dưới nôi khí cầu. Mọi thứ chung quang họ đều bị màn sương dày đặc bao phủ, đến mức họ không thể nói được là đang là ngày hay đêm. Không một ánh sáng phản chiếu nào của thiên thể, không một tiếng vọng nào của âm thanh dưới mặt đất, không một âm vang dù yếu ớt nào của đại dương đang gào thét vẳng đến được với họ giữa lúc tối tăm mù mịt, trong khi họ đang bay tít trên cao. Mãi đến khi khí cầu vùn vụt lao xuống họ mới hay mình đang bay trên những lớp sóng biển hung dữ, và hiểu ra mình đang bị nguy hiểm như thế nào.
Nhưng khi họ đã vứt bỏ hết những hàng có trong nôi - đạn dự trữ, vũ khí và lương thực thì khí cầu lại vọt lên và bay ở độ cao bốn ngàn năm trăm fut. Sau khi nghe biển ầm ì bên dưới nôi khí cầu, các nhà viễn du thấy ở trên cao ít nguy hiểm cho họ hơn, nên đã không chút do dự vứt bỏ cả những đồ vật cần thiết nhất.
Sang ngày 24, trời hửng sáng, xuất hiện những dấu hiệu bão yên. Nhưng đúng lúc ấy, các hành khách trên khí cầu lại nhận ra rằng họ đang hạ xuống một cách chậm chạp, nhưng liên tục. Vỏ khí cầu dần dần bị dúm lại, dài ra, đáng lẽ hình cầu, bây giờ nó lại thành hình bầu dục.
Đến trưa, khí cầu đã bay trên biển ở độ cao hai ngàn fut.
Để giảm bớt trọng lượng của nôi khí cầu, các khách viễn du đã quẳng đi cả những đồ vật cuối cùng, thậm chí tất cả những gì có trong túi, sau đó,
https://thuviensach.vn
một người khách đã leo lên vành đai dưới, chỗ gắn dây lưới bảo vệ vỏ khí cầu và cố thử buộc cái van dưới của khí cầu cho chặt hơn.
Rõ ràng là không còn thể nào giữ cho khí cầu ở trên cao được nữa, vì nó không còn đủ khí.
Thế là cái chết đã chờ đợi tất cả họ!
Bên dưới không phải là đất liền, không phải là đảo, mà là biển cả mênh mông, không thấy đâu có lấy một mảnh đất nổi, một dải đất cứng để có thể neo được khí cầu.
Phải bằng mọi cách ngăn chặn, không để cho khí cầu rơi xuống nữa, nếu không thì vực biển sẽ nuốt chửng nó! Những người ở trong nôi khí cầu đã hết sức cố gắng để mau chóng thực hiện được điều đó. Nhưng những cố gắng của họ đều trở nên vô ích - khí cầu hạ xuống mỗi lúc một thấp hơn, đồng thời nó lại bị gió cuốn đi với một tốc độ phi thường theo hướng từ đông bắc sang tây nam…
Sau khi bỏ hết mọi thứ có trong nôi khí cầu, các nhà viễn du đã giữ được ở trên không mấy giờ vô ích nữa. Nhưng, đó chỉ là sự trì hoãn một tai nạn không tránh khỏi mà thôi: nếu trước lúc đêm xuống mà không nhìn thấy mặt đất thì cả khí cầu lẫn nôi đều sẽ bị mất hút dưới vực thẳm đại dương.
Chỉ còn một cách - và các nhà viễn du đã dùng đến để chứng tỏ rằng họ là những người có nghị lực và dũng cảm, không phải mới một lần giáp mặt với cái chết. Họ không há miệng ca than nửa lời. Họ quyết định chiến đấu đến giây phút cuối cùng và bằng mọi cách làm cho khí cầu rơi chậm lại.
Đến hai giờ chiều, khí cầu chỉ còn cách mặt đại dương bốn trăm fut.
https://thuviensach.vn
Đúng lúc ấy, một tiếng nói quả cảm phát ra - tiếng nói của một con người can đảm với trái tim không biết sợ hãi. Đáp lại lời của ông ta là những giọng nói không kém phần kiên quyết.
- Vứt bỏ hết mọi thứ rồi chứ?
- Chưa! Còn lại vàng - mười ngàn đồng Franc!
Ngay tức khắc, chiếc bao tải nặng rơi vụt xuống đại dương. - Khí cầu bay lên rồi chứ?
- Tí chút thôi. Lại tuột xuống ngay bây giờ mất.
- Còn cái gì có thể quẳng đi được nữa không?
- Hết trơn rồi!
- Hết trơn rồi? Thế còn cái nôi?
- Mọi người hãy bíu lấy lưới… Còn cái nôi thì sẽ vứt bỏ xuống biển!
Thật vậy, chỉ còn có cách cuối cùng và duy nhất ấy để làm cho khí cầu nhẹ bớt mà thôi. Những sợi dây buộc nôi vào vành đai lưới đã bị cắt đứt, và đến khi chiếc nôi tách rời ra, khinh khí cầu mới bay lên độ cao hai ngàn fut.
Năm nhà du khách leo lên vành đai và bây giờ thì họ trụ trên các mắt lưới, bám chặt vào những sợi dây. Cả năm người đều nhìn xuống đại dương đang gầm thét.
https://thuviensach.vn
Các du khách đã làm tất cả những gì có thể làm được, và bây giờ thì không còn sức mạnh nào của con người có thể cứu được họ nữa. Chỉ còn hy vọng vào sự thần kỳ mà thôi.
Đến bốn giờ chiều, khí cầu chỉ còn cách mặt đại dương cả thảy năm trăm fut.
Bỗng có tiếng chó sủa vang. Các du khách mang theo một con chó và giờ đây nó cũng đang ở trên lưới khí cầu, bên cạnh chủ của nó.
- Con Top đã trông thấy cái gì rồi! - Một người trong số du khách kêu lên.
Và liền ngay sau đó có tiếng reo vang:
- Mặt đất! Mặt đất!
Quả thật, trước mặt các khách viễn du đã xuất hiện một bờ biển khá cao.
Nhưng mặt đấy ấy ở cách họ ba mươi hải lí. Muốn đến đó, khí cầu cần bay ít nhất một giờ, mà phải với điều kiện là gió không đổi hướng. Một giờ nữa!
Thế nếu khí bị rò ra hết trước thời hạn đó thì sao?
Thật là một câu hỏi khủng khiếp! Các du khách bất hạnh đã phân biệt rõ mặt đất. Họ không biết đó là đảo hay đất liền. Nhưng cho dù trước mặt họ kia không phải là vùng đất mến khách, mà là một hòn đảo hoang, thì cũng cần phải đến được đó bằng bất kỳ giá nào.
https://thuviensach.vn
Nửa giờ trôi qua, chỉ còn cách bờ không quá một hải lý nữa, nhưng hơi trong khí cầu hầu như đã kiệt, chỉ còn chút ít ở phần trên. Vỏ khí cầu đã bị lép xẹp và nhũn ra, rũ xuống thành những nếp gấp to tướng. Các du khách bíu chặt vào lưới và trở thành gánh nặng quá tải đối với khí cầu. Chẳng mấy chốc, khí cầu bị chìm lơ lửng dưới nước, mặc cho sóng điên cuồng quất lên.
Vỏ khí cầu bị uốn khúc, gió thổi trôi trên mặt nước như một cái thuyền buồm, tưởng như chút xíu nữa thôi là nó vào đến đất liền rồi.
Quả như thế thật, nó chỉ còn cách bờ hai cabeltov[4]nữa, thì bỗng bốn du khách bật lên tiếng kêu, và quả khí cầu dường như đã bị mất hết sức nâng ấy lại bất ngờ vọt lên độ cao một ngàn năm trăm fut, tựa hồ như nó đã loại bớt được một phần trọng tải bản thân. Đến đây thì nó lại sa vào một ổ gà không khí và bị gió cuốn đi không phải vào bờ, mà hầu như song song với bờ. Độ hai phút sau thì gió đổi hướng và cuối cùng đã hất quả khí cầu lên bờ cát.
Các du khách giúp nhau lách ra khỏi lớp lưới bao quanh họ. Quả khí cầu, sau khi thoát khỏi tình trạng quá tải, vụt bay lên ngay lúc gặp cơn gió đầu tiên, và biến mất trong bầu trời bao la.
Trên nôi khí cầu trước đó có năm du khách và một con chó, nhưng bây giờ rơi xuống bờ biển chỉ còn có bốn người.
Người thiếu ấy chắc là đã bị sóng cuốn mất. Nhờ vậy mà tải trọng của khí cầu nhẹ bớt đi khiến nó vọt lên được một lần cuối cùng và sau vài khoảnh khắc đã bay được vào bờ.
Nhưng, những người bị tai nạn trên không (hoàn toàn có thể gọi như thế được) vừa mới đặt chân xuống mặt đất - cả bốn người, khi không thấy
https://thuviensach.vn
người thứ năm đâu, đều thốt lên:
- Có lẽ ông ấy định bơi vào bờ đó… Ta phải cứu ông ấy! Phải cứu!
https://thuviensach.vn
CHƯƠNG HAI
Một cảnh nội chiến ở Mỹ. - Kỹ sư Cyrus Smith Gédéon Spilett. - Người da đen Nab. - Thủy thủ Pencroff. - Chú bé Harbert. - Kiến nghị bất ngờ. - Cuộc gặp mặt lúc mười giờ tối. - Bay vào bão táp.
Những người bị trận cuồng phong quẳng lên bờ biển xa xăm nào đó không phải là những nhà du hành chuyên nghiệp bằng khí cầu hay những người yêu thích du ngoạn trên không. Họ bị bắt làm tù binh và tinh thần dũng cảm chân chính đã thôi thúc họ chạy trốn trong những hoàn cảnh hết sức éo le.
Năm 1865, vào tháng hai. Trong một cuộc tấn công của tướng Uliss Grant[5]nhằm chiếm đoạt thành phố Richmond, có một số sĩ quan của quân đội liên bang bị sa vào tay địch và bị giam giữ ở đó. Một trong số những tù binh đáng chú ý nhất thuộc ban tham mưu của tướng Grant tên là Cyrus Smith.
Cyrus Smith, người gốc bang Massachusetts, nghề nghiệp kỹ sư, là một nhà bác học giỏi bậc nhất: trong thời gian chiến tranh, chính phủ Hợp chủng quốc giao cho ông điều hành những con đường sắt có ý nghĩa chiến lược quan trọng.
Khẳng khiu, xương xẩu, gầy gò, nhìn bề ngoài ông có thể được coi là người Bắc Mỹ chính thống. Mặc đầu ông chưa quá bốn mươi lăm tuổi, nhưng trong những mớ tóc cắt ngắn của ông đã ánh lên những sợi bạc. Cyrus Smith không để râu quai nón, chỉ để ria mép rậm thôi.
https://thuviensach.vn
Gương mặt của ông làm cho người ta sửng sốt về một vẻ đẹp nghiêm khắc và một hình trông nghiêng sắc nét - những gương mặt như thế dường như được tạo nên để cho người ta tạc vào những tấm huy chương: đôi mắt sáng ngời nghị lực, đôi môi nghiêm nghị ít khi mỉm cười, - tóm lại, Cyrus Smith là hình ảnh của một nhà bác học mang tâm hồn của một người lính. Ông thuộc số những kỹ sư mà khi bắt đầu con đường công danh của mình đã tự nguyện cầm búa và cuốc chim. Giống như các vị tướng đã bắt đầu binh nghiệp từ những người lính trơn. Bởi vậy, chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi thấy ông không những đầu óc cực kỳ sáng suốt và sắc sảo mà đôi tay cũng rất tháo vát, khéo léo. Hệ cơ bắt phát triển chứng tỏ ông rất khỏe mạnh. Đó là một con người hành động, đồng thời cũng là một nhà tư tưởng: ông hành động một cách tự giác, không bao giờ gò ép mình, là người năng động, tràn đầy nghị lực sống, đặc biệt kiên trì và không bao giờ sợ hãi những sự thất bại có thể xảy ra. Ở ông, những trí thức lớn đã được kết hợp với nếp tư duy thực tiễn và tài xoay xở - như những người lính thường nói - ông đã rèn được cho mình tính tự chủ tuyệt vời, trong bất kỳ tình huống nào cũng không bao giờ ông mất bình tĩnh. Tóm lại, ở ông đã phát triển cao độ ba đặc điểm vốn có của một con người mạnh mẽ: thể lực và tri lực, chí hướng và ý chí mạnh mẽ. Ông đã chọn lời của Guillaume d’Orange nói hồi thế kỷ 17 làm phương châm sống của mình:
“Khi bắt tay vào việc gì đó, tôi không cần hy vọng; khi kiên trì hành động tôi không cần thành công”.
Đồng thời, Cyrus Smith còn là tượng trưng của lòng dũng cảm. Ông đã tham dự tất cả các trận chiến đấu của cuộc nội chiến. Ông đã bắt đầu cuộc đời của người lính dưới quyền chỉ huy của Uliss Grant trong đội quân tình nguyện của bang Illinois, ông đã chiến đấu ở Paducah, Belmont, Pittsburg - Landing, trong trận bao vây Corinth, ở cảng Gibson, ở bên bờ Sông Đen, ở Chattanoga, ở Potamak - và ở đâu ông cũng đều chiến đấu chí cốt, như một người lính, hoàn toàn xứng đáng với tướng Grant, người mà khi trả lời câu
https://thuviensach.vn
hỏi về sự tổn thất đã nói: “Tôi không thống kê số quân lính của mình bị thiệt mạng”. Cyrus Smith đã hàng trăm lần có thể nằm trong số những người mà vị thống soái nghiêm khắc không thông kê, nhưng dẫu dù ông đã không tiếc thân mình trong những trận chiến đấu ấy thì ông vẫn còn gặp may cho đến ngày bị thương ở Richmond và bị bắt làm tù binh.
Cùng với Cyrus Smith bị sa vào tay quân đội phía nam hôm ấy còn có một người nổi tiếng nữa, đó không phải ai khác, mà chính là Gédéon Spilett, đặc phái viên của báo “New York Herald” (Người đưa tin Nữu Ước) được biệt phái vào quân đội của phía bắc để theo dõi những diễn biến của chiến tranh.
Gédéon Spilett thuộc loại những phóng viên khác thường, nhất là những người Anh và người Mỹ, theo gương Stenley và những người tương tự như ông, không chịu khuất phục trước một cái gì, chỉ cốt sao khai thác được những tin tức chính xác về một sự kiện nóng hổi và nhanh chóng báo về tòa soạn của mình. Ở Hợp chủng quốc, những tờ báo lớn như “New York Herald” đã trở thành một lực lượng thực sự, bởi vậy, đối với các đại điện của họ, những “đặc phái viên” phải coi trọng. Gédéon Spilett giữ một trong số những vị trí hàng đầu của các “đặc phái viên” ấy.
Là một con người rất đáng kính, có nghị lực, năng động và kiên quyết, một nhà báo từng đi khắp thế giới, một người lính và một họa sĩ, một trí tuệ hùng mạnh, có khả năng am hiểu mọi vấn đề, bản tính tháo vát, xông xáo, Spilett không sợ vất vả, mệt nhọc, nguy hiểm khi anh ta muốn “biết” một điều gì đó, - trước hết là cho bản thân mình, sau đó, cho tờ báo của mình. Đó là một nhân vật ham hiểu biết thực sự, một người săn tin tức không biết mệt mỏi - săn tất cả những tin tức chưa loan báo, không ai biết, không thể có và khó tin; là một trong những nhà quan sát dũng cảm có thể viết bài dưới tiếng đạn rít, sáng tác dưới tầm đại bác và coi bất kỳ sự mạo hiểm nào cũng là cuộc phiêu lưu hấp dẫn.
https://thuviensach.vn
Ông ta cũng đã có mặt trong tất cả những cuộc chiến đấu, bao giờ cũng đứng trên tuyến đầu, một tay cầm súng lục, một tay cầm sổ ghi chép, và dưới làn mưa đại bác có chứa bi, chiếc bút chì trong tay ông cũng không hề run. Khác với những phóng viên hùng hồn ngay cả những khi chả có gì đáng nói cả, ông không chiếm đường dây điện báo khẩn, những mỗi tin, bài của ông đều ngắn gọn, chính xác, rõ ràng, bao giờ cũng rọi ánh sáng vào một sự kiện quan trọng nào đó. Tiện thể xin nói thêm: ông ta không hề kém khôi hài đâu. Sau trận chiến đấu bên bờ Sông Đen, vì muốn tìm cách giữ chỗ ở trung tâm điện tín để chuyển về tờ báo của mình kết quả trận chiến đấu, chính ông đã dùng hai giờ liền để điện đi những chương đầu của kinh thánh. Cái mẹo ấy ngốn mất của “New York Herald” hai ngàn đô la, nhưng tờ báo lại nhận được tin tức trước nhất.
Gédéon Spilett vóc người cao và chưa già lắm - mới độ bốn mươi tuổi, không hơn. Hai bên tóc mai màu hung hung. Đôi mắt linh lợi, tinh anh nhìn bình tĩnh và tự tin. Những con mắt như vậy thường thấy ở những người quen thâu tóm được ngay mọi tình tiết của một bức tranh rộng lớn. Thân hình ông đã rắn chắc, lại được tôi luyện trong những chuyến du lịch ở các vĩ độ khác nhau, chẳng khác gì người ta tôi một thỏi thép nung đỏ trong nước lạnh.
Đã mười năm nay Gédéon Spilett là phóng viên thường trú của “New York Herald” và góp phần làm phong phú tờ báo bằng những bài, tin và những hình vẽ của mình. Ông sử dụng tốt như nhau ngòi bút của một nhà văn và cây bút chì của một họa sĩ. Khi bị bắt làm tù binh ông đã miêu tả diễn biến của trận đánh và phác họa. Những dòng ghi chép của ông trong cuốn sổ tay đã bị chấm dứt đột ngột bằng những lời như sau: “Kẻ thù đang nhằm bắn vào tôi và…”. Xạ thủ đã bắn trượt. Gédéon Spilett, vẫn như mọi khi, thoát khỏi trận chiến đấu ác liệt mà không mảy may bị sây sát.
https://thuviensach.vn
Cyrus Smith và Gédéon Spilett chỉ biết nhau qua lời người ta nói. Cả hai đều được phái đến Richmond. Viên kỹ sư mau chóng được chữa khỏi vết thương và trong thời gian bình phục ông đã làm quen với nhà báo. Họ cảm thấy quý nhau và kết bạn. Chẳng mấy chốc mục đích mà hai người luôn luôn đeo đuổi đã gắn bó họ lại với nhau. Cả hai người đều chỉ mong muốn một điều: chạy trốn, trở về với quân đội của tướng Grant, và tiếp tục chiến đấu cho sự thống nhất liên bang.
Đôi bạn đã quyết định tranh thủ mọi dịp thuận lợi để chạy trốn. Mặc dù ở Richmond họ được sống tự do, song thành phố được bảo vệ nghiêm ngặt, nên việc chạy trốn do đó không thể thực hiện được.
Giữa lúc ấy thì người đầy tớ rất mực trung thành của Smith đã khôn khéo luồn lách tìm được đến chỗ của ông ta. Con người dũng cảm đã được nhìn thấy ánh sáng tự do ở trang trại của cha mẹ viên kỹ sư ấy là một người da đen, con của những người nô lệ và bản thân anh ta cũng là nô lệ. Nhưng Cyrus Smith là người chống chế độ nô lệ, nên đã cho người da đen ấy được tự do. Người nô lệ, sau khi trở thành người tự do, đã không muốn từ giã ông chủ của mình. Anh yêu chủ nồng nàn và sẵn sàng chết vì chủ. Người da đen ấy đã ba mươi mốt tuổi, khỏe mạnh, nhanh nhẹn, tháo vát và sáng dạ, nhu mì và bình tĩnh, đôi lúc rất ngây thơ, luôn luôn tươi cười, hiền lành và hay giúp đỡ mọi người. Anh tên là Nabuchodonosor, nhưng lại không thích cái tên hoa mỹ ấy và ưa được gọi bằng cái tên thân quen từ bé là Nab.
Sau khi hay tin ông chủ bị bắt làm tù binh, Nab đã không do dự rời ngay Massachusetts, tìm đến Richmond và, bằng đủ mọi mưu kế, hai mươi lần liều mạng mới đột nhập được vào thành phố bị bao vây. Không lời nào có thể diễn đạt nỗi niềm sung sướng của Cyrus Smith khi ông trông thấy người hầu của mình, và niềm hạnh phúc của Nab khi anh liên lạc được với ông chủ yêu quí.
https://thuviensach.vn
Thế là Nab đã lọt được vào Richmond, nhưng thoát ra khỏi nơi đây thì lại khó hơn nhiều, vì số tù binh của quân đội liên bang bị giám sát rất ngặt nghèo. Muốn chạy trốn, mặc dù hy vọng trót lọt rất mỏng manh, thì phải đợi dịp hiếm hoi, nhưng những dịp như thế mãi vẫn chưa đến, mà tạo ra được dịp đâu phải dễ dàng.
Trong khi ấy, tướng Grant tiếp tục tiến hành những hành động quân sự có tính chất quyết định. Trong trận kịch chiến với quân phía nam ở Petersburg ông đã giành được thắng lợi. Nhưng liên quân của ông và của Butler vẫn chưa thể đạt được điều gì trong cuộc bao vây Richmond và chưa có gì báo hiệu sắp giải thoát được tù binh cả. Cuộc sống đơn điệu của người tù chẳng có gì để cho phóng viên viết được, vì vậy, ông đã không đủ sức chịu đựng nữa. Ý nghĩ chạy trốn khỏi Richmond, trốn bằng bất kỳ giá nào, cứ ám ảnh ông hoài. Đã mấy lần ông định thực hiện điều ấy mà không được: có nhiều trở ngại không thể khắc phục nổi.
Cuộc bao vây thành phố vẫn tiếp diễn, và nếu những người tù binh khao khát chạy trốn khỏi đó để trở lại quân đội của tướng Grant, thì lại có những người bị bao vây rất muốn rời khỏi Richmond để về với quân đội của phái phân lập; trong số những người lính ấy có cả Forster - một người rất mực trung thành với quân đội phương nam. Thật ra, nếu những tù binh của quân đội liên bang không thể thoát khỏi thành phố thì cả những người theo phái phân lập cũng không thể làm được điều đó, bởi vì quân đội phương bắc đã bao vây thành phố từ các phía. Thị trưởng Richmond đã từ lâu mất liên lạc với tướng Lee, mà điều cực kỳ quan trọng là làm sao thông báo được cho ông ta biết tình hình trong thành phố và yêu cầu nhanh chóng điều quân đến cứu viện những người bị bao vây. Thế là Jonathan Forster nảy ra ý định ngồi lên nôi của một khí cầu để bay khỏi Richmond, vượt qua tuyến quân đội bao vây để tìm đến bản doanh của quân đội phân lập.
https://thuviensach.vn
Viên thị trưởng cho phép thực hiện ý đồ ấy. Một quả khinh khí cầu đã được chuẩn bị và giao cho Jonathan Forster sử dụng để hoàn thành một cuộc hành trình trên không với năm người cùng đi. Các nhà du hành bằng khí cầu được trang bị vũ khí phòng khi đỗ xuống mặt đấy đụng độ với quân địch sẽ phải chiến đấu để tự vệ. Họ còn được dự trữ lương thực phòng khi phải bay quá lâu trong không trung.
Chuyến bay được ấn định vào ngày 18 tháng ba, lúc ban đêm, khi gió tây bắc bắt đầu thổi. Các nhà du hành dự tính sau vài giờ sẽ bay đến văn phòng bộ tham mưu của tướng Lee.
Nhưng gió tây nam hóa ra lại khác so với dự kiến. Ngày 18 tháng ba, ngay từ sáng đã thấy rõ một cơn bão đang đến. Và chẳng bao lâu một trận cuồng phong đã nổi lên, khiến chuyến bay của Forster phải hoãn lại, bởi vì thả một khinh khí cầu với năm nhà du hành trong lúc đang có thiên tai thế này rất nguy hiểm.
Quả khí cầu bơm đầy hơi được để tại quảng trường chính của Richmond, sẵn sàng bay lên ngay khi bão yên, và cả thành phố đều nóng lòng chờ đợi sự lắng yên ấy, vậy mà thời tiết vẫn không thấy khá hơn.
Ngày mười tám và mười chín tháng ba, bão nổi lên không lúc nào ngớt. Khó khăn lắm người ta mới giữ cho quả khí cầu được neo bằng những sợi dây cáp ấy khỏi bị những cơn bão giật đè xuống sát mặt đất.
Đã qua đêm mười chín rạng ngày hai mươi, nhưng sáng ra, bão lại càng mạnh hơn. Không thể nào bay được.
Ngày hôm ấy, có một người lạ nào đấy đi trên phố đã đến gặp kỹ sư Cyrus. Đó là một thủy thủ chừng ba mươi lăm hoặc bốn mươi, tên là Pencroff, cao lớn, rắn chắc và sạm nắng, đôi mắt linh lợi, gương mặt hiền
https://thuviensach.vn
hậu. Anh ta là người gốc quê Bắc Mỹ, đã từng chu du khắp các biển, chịu đựng đủ mọi cảnh cùng cực, từng trải nhiều cuộc phiêu lưu lạ thường mà một người ở trên cạn nào khác nằm mơ cũng không thấy. Khỏi cần nói, đó là một người tháo vát, một người gan dạ, không sợ bất cứ điều gì. Đầu năm 1865, Pencroff từ New Jersey có việc đến Richmond cùng chú bé mười lăm tuổi Harbert Brown, con trai người thuyền trưởng của anh ta: chú bé mồ côi cha. Pencroff yêu chú bé ấy như con đẻ. Trước khi thành phố bị bao vây, anh đã không kịp thoát ra khỏi đó, và thật là đau khổ, anh đã bị giam hãm ở Richmond. Bây giờ anh cũng có một nguyện vọng: chạy trốn trong bất kỳ trường hợp nào. Pencroff đã từng nghe nói về kỹ sư Cyrus Smith; anh biết rằng con người kiên quyết ấy đang khao khát được tự do. Và đây, đến ngày bão thứ ba, anh đã mạnh dạn đến gặp Smith và hỏi không cần rào trước đón sau gì hết:
- Thưa ngài Smith, ngài không ngán cái thành phố Richmond quỉ quái này sao?
Viên kỹ sư nhìn chằm chằm người lạ mặt vừa bắt chuyện với ông, còn Pencroff thì khẽ hỏi thêm:
- Thưa ngài Smith, ngài có muốn chạy trốn không?
- Bao giờ? - Viên kỹ sư lên tiếng ngay, và có thể nói chắc chắn rằng câu trả lời ấy đã bật ra từ lưỡi ông một cách vô tình, bởi vì, ông thậm chí cũng chưa kịp quan sát người lạ mặt vừa nói với ông lời đề nghị ấy.
Tuy nhiên, sau khi nhìn kỹ vào gương mặt cởi mở của người thủy thủ, ông không hề nghi ngờ rằng mình đang gặp một con người trung thực.
- Ông là ai? - Ông hỏi nhát gừng.
https://thuviensach.vn
Pencroff nói tóm tắt về mình.
- Tuyệt diệu! - Smith nói. - thế ông dự định chạy trốn bằng cách nào?
- Thế này nhé, quả khí cầu để đây vô tích sự, dường như cái đồ vô công rồi nghề ấy cố ý chờ đợi chúng ta đấy!
Pencroff không cần đi vào những chi tiết. Viên kỹ sư hiểu ý anh ngay. Ông ta khoác tay người thủy thủ dẫn luôn về nhà mình.
Pencroff đã kể lại cho Smith nghe kế hoạch của mình. Mọi việc rất đơn giản. Tất nhiên như vậy là mạo hiểm, nhưng biết làm sao được! Bão tố rõ ràng là đang hoành hành, gầm thét hết mức, nhưng một kỹ sư giỏi giang và dũng cảm như Cyrus Smith sẽ biết điều khiển thành thạo một con tàu khí cầu. Nếu như anh ta, Pencroff, biết điều khiển quả khí cầu này thì tất nhiên anh ta đã không do dự cho Harbert cùng bay đi rồi. Trong đời của thủy thủ của mình Pencroff đâu phải chưa lần nào gặp bão! Bão như thế này đâu có làm anh ngạc nhiên!
Cyrus Smith im lặng nghe, nhưng đôi mắt ông sáng lên. Tình huống thuận lợi là quả khí cầu này đây. Không lẽ lại bỏ qua. Kế hoạch rất mạo hiểm, nhưng chính vì vậy nó mới hoàn toàn có thể thực hiện được. Mặc dù có bảo vệ, nhưng về ban đêm vẫn có thể lẻn đến quả khí cầu, chui vào nôi, sau đó cắt đứt các sợi dây cáp neo! Dĩ nhiên, có thể mất mạng như chơi, nhưng cũng có thể là mọi việc sẽ trót lọt, nếu không có trận bão này. Mà đã không có trận bão này thì quả khí cầu đã bay đi từ lâu rồi, chứ đâu còn cơ hội thuận lợi như thế này nữa?
- Tôi không phải chỉ có một mình! - Kỹ sư vắn tắt kết thúc bằng lời những điều suy nghĩ của mình.
https://thuviensach.vn
- Ngài muốn mang theo bao nhiêu người? - Người thủy thủ hỏi. - Hai - anh bạn Spilett của tôi và người đầy tớ Nab.
- Vậy là ngài có ba người. - Pencroff nhận xét, - còn tôi và Harbert nữa. Cộng tất cả là năm người. Nhưng khí cầu được dự trù cho sáu người bay.
- Tuyệt lắm. Chúng tôi sẽ bay! - Cyrus Smith thốt lên.
Ông ta nói “chúng tôi” có nghĩa là hứa hẹn thay cho cả nhà báo. Thật vậy, Gédéon Spilett là một người gan dạ; khi được biết về kế hoạch dự định, anh ta hưởng ứng liền. Anh chỉ ngạc nhiên là tự bản thân anh đã không nghĩ ra được cái ý đơn giản như thế. Còn nói về Nab thì anh ta sẽ đi theo chủ đến khắp mọi nơi mà chủ muốn.
- Có thể là trước khi trời tối, - Pencroff nói - cả năm người chúng ta cùng la cà quanh quả khí cầu, làm bộ như tò mò đứng xem.
- Trước lúc trời tối, - Cyrus Smith khẳng định, - chúng ta sẽ gặp nhau vào lúc mười giờ. Cho dù đến lúc chúng ta bay bão vẫn chưa tan!
Pencroff tạm biệt kỹ sư và trở về phòng mình, ở đó chú thiếu niên Harbert Brown đang đợi anh. Chú bé dũng cảm đã biết những ý đồ của người thủy thủ và bình tĩnh chờ đợi kết quả câu chuyện của anh với viên kỹ sư.
Bão táp vẫn chưa ngớt, vì vậy cả Jonathan Forster lẫn những người bạn đường của ông ta đều đã không thể đến được cái nôi khí cầu mỏng manh. Thời tiết suốt ngày thật là khủng khiếp. Viên kỹ sư chỉ sợ một điều là: vỏ khinh khí cầu bị gió ép sát mặt đấy sẽ vỡ tung ra thành ngàn mảnh, Smith đã hàng giờ bách bộ trên quảng trường hầu như không một bóng người, vừa
https://thuviensach.vn
đi vừa quan sát quả khí cầu. Pencroff cũng làm như thế, hai tay đút túi quần, anh đi đi lại lại trên quảng trường, thỉnh thoảng ngáp vặt, làm như anh ta quá bộ đến đây vì chẳng biết làm gì và không biết làm sao để giết thời gian. Kỳ thực Pencroff cũng nơm nớp lo vỏ khí cầu sẽ vỡ tung hoặc giả những sợi dây cáp bị đứt và quả khí cầu sẽ bay vút lên trời mất.
Trời đã bắt đầu tối. Màn đêm buông xuống mịt mùng. Làn sương dày đặc là là trên mặt đất như những đám mây. Mưa rơi xen lẫn tuyết. Trời trở lạnh ngay. Richmond như có màn đêm ẩm ướt nào đấy trùm lên. Dường như cơn bão điên cuồng đã tạo nên cuộc ngưng chiến giữa những người bao vây và những người bị bao vây. Ngay cả trên quảng trường, nơi quả khí cầu bị gió quất tơi bời, cũng không một bóng người; người ta cho rằng không cần thiết phải bảo vệ nó trong lúc thời tiết hung dữ như thế này.
Như vậy là mọi việc đều thuận lợi cho việc chạy trốn của các tù binh nhưng còn cuộc du hành khủng khiếp thì sao đây? Làm sao có thể phó thác số phận cho những cơn thiên tai dữ dội được?
- Thời tiết chẳng can chi! - Pencroff lẩm bẩm, rồi nắm tay đập vào mũ cho nó sụp xuống chắc hơn.
- Không sao hết! Bằng các nào đấy ta sẽ liệu được tuốt thôi.
Lúc chín giờ rưỡi, Cyrus Smith và những người cùng đi từ các ngả lẻn đến quảng trường; trời tối đen như mực, vì gió đã thổi tắt hết mọi ngọn đèn thắp bằng hơi đốt. Cả đến hình dáng quả khí cầu to tướng bị gió thổi tạt sát đất cũng không nhìn thấy đâu. Ngoài các bao tải trọng vật được buộc vào lưới bảo hiểm ra, nôi khí cầu còn được giữa bằng một sợi cáp chắc chắn luồn qua một cái vòng sắt chôn xuống mặt đường, hai đầu dây cáp được buộc vào chiếc nôi đan.
https://thuviensach.vn
Năm người tù binh đã gặp nhau ở sát bên nôi khí cầu ấy. Không ai trông thấy họ cả - trời tối mịt đến nỗi chính họ cũng chẳng nhìn thấy nhau.
Cyrus Smith, Gédéon Spilett, Nab và Harbert, chẳng nói chẳng rằng, trèo lên nôi khí cầu, còn Pencroff trong khi đó thì lần lượt tháo từng bao tải trọng vật ra theo sự hướng dẫn của viên kỹ sư. Chỉ sau mấy giây đồng hồ người thủy thủ ấy đã nhập chung vào với những người bạn của mình.
Bây giờ quả khí cầu chỉ còn một sợi dây cáp giữ nữa thôi, và Cyrus Smith chỉ còn việc ra lệnh cho nó bay lên.
Bỗng lúc ấy có một con chó nhảy vào trong nôi khí cầu. Đấy là con Top, con chó cưng của viên kỹ sư. Nó đã giằng đứt xích và chạy theo chủ. Sợ con chó sẽ làm tăng thêm trọng tải vô ích, Cyrus Smith đã định đuổi nó xuống.
- Không sao cả, ta mang cả con chó theo! - Pencroff nói và quẳng bớt hai bao cát ở trong nôi ra.
Sau đó anh ta tháo dây cáp và quả khí cầu vụt bay chếch lên trời, đụng vào hai cột ống khói.
Trận bão đã hoành hành với mức độ dữ dội nhất của nó. Ban đêm, chẳng thể nào nghĩ đến chuyện hạ xuống đã đành, nhưng lúc ban ngày thì lại không nhìn thấy gì hết, vì màn sương mù bao phủ dày đặc. Mãi sang ngày thứ năm, qua một luồng ánh sáng rọi xuyên những lớp mây đen bên dưới khí cầu đang bị gió xô đẩy với tốc độ kinh khủng, những người chạy trốn mới nhìn thấy biển.
Như bạn đọc đã biết, trong số năm người ngày 20 tháng ba ngồi lên khí cầu để trốn đi thì bốn người ngày 24 tháng ba đã bị bão quẳng lên một vùng
https://thuviensach.vn
bờ biển hoang vắng, cách Richmond[6]sáu ngàn dặm, còn người bị mất tích mà trước hết những người sống sót lo tìm cứu thì không phải ai khác, đó chính là Cyrus Smith - người đã trở thành thủ lĩnh của họ một cách hoàn toàn tự nhiên.
https://thuviensach.vn
CHƯƠNG BA
Người bị mất tích. - Những cuộc tìm kiếm ở hướng bắc. - Đêm đau khổ và lo âu. - Bơi qua eo biển. - Những con sò. - Lán tạm. - Dự trữ củi.
Kỹ sư Smith bám vào các ô lưới bảo hiểm của khí cầu đã bị sóng cuốn đi lúc các sợi dây bị đứt tung. Cả con chó Top trung thành cũng tự nhảy xuống biển để cứu chủ.
- Tiến lên! - Nhà báo kêu to.
Thế là cả bốn người - Gédéon Spilett, Harbert, Pencroff và Nab - quên cả đói và mệt, lao vào những cuộc tìm kiếm người bạn của mình.
Chú Nab tội nghiệp đã khóc vì tức giận và thất vọng, cho rằng anh ta đã bị mất một con người quý nhất trên đời.
Từ lúc Cyrus Smith mất tích đến giờ chưa đầy hai phút: vì vậy, những người bạn cùng đi với ông ta, sau khi vào được bờ, vẫn còn có thể hy vọng kịp thời cứu kỹ sư.
- Phải tìm ông ấy - Tìm! - Nab kêu toáng lên.
- Đúng thế, Nab ạ - Gédéon Spilett trả lời. - Chúng ta sẽ tìm được ông ấy!
- Khi ông ấy còn sống chứ?
https://thuviensach.vn
- Còn sống!
- Ông ấy có biết bơi không? - Pencroff hỏi.
- Biết! - Nab trả lời. - Hơn nữa cùng với ông ta còn có con Top. Người thủy thủ lắng nghe tiếng gầm của đại dương và lắc đầu.
Viên kỹ sư đã bị mất tích ở vùng bờ biển phía bắc, cách nơi những người còn lại bị quẳng xuống mặt đất chừng nửa hải lí. Nếu ông ta kịp vào được bãi nông gần nhất thì có nghĩa ông đã phải đi được nhiều nhất là nửa hải lí.
Đã sắp sáu giờ chiều rồi. Sương mù dày đặc, trời trở nên tối mịt. Các nhà du hành bằng khí cầu bị tai nạn đi về phía bắc, dọc theo bờ phía đông mảnh đất mà số phận đã run rủi họ đến, vùng đất họ hoàn toàn không quen biết, không thể có dự đoán gì về vị trí địa lí của nó. Họ đi, cảm thấy dưới chân lúc là cát, lúc là đá, dường như đất ở đây hoàn toàn mất lớp thực vật. Tiến về phía trước rất khó khăn. Họ mò mẫm trong đêm tối trên mặt đất mấp mô, có những chỗ bị thụt xuống hố sâu, từ đó chốc chốc lại có những chú chim lớn không nhìn thấy trong đêm vụt bay lên, buồn bã vỗ cánh tỏa về các phía để tránh họ. Những con chim khác nhỏ hơn, lanh lẹn hơn thì bay từng đàn thành một đám mây sống lướt trên đầu các du khách. Chàng thủy thủ cảm thấy đó là những con cốc và hải âu, anh nhận ra chúng qua những tiếng kêu the thé, ai oán, át cả tiếng gầm dữ dội.
Thỉnh thoảng mấy du khách lại dừng lại, gào to lên gọi người bạn vừa mất tích, và chăm chú lắng nghe xem có tiếng của ông ta đáp lại từ phía đại dương không. Có thể là Cyrus Smith đã tự cứu thoát mình rồi, và họ đang ở cách nơi ông đã lên được bờ không bao xa. Còn nếu như tự Smith không đủ sức kêu cứu được nữa thì con chó của ông sẽ sủa, và tiếng sủa vang của con
https://thuviensach.vn
Top sẽ vẳng tới họ. Nhưng, họ đã không nghe thấy tiếng gì cả, ngoài tiếng réo nghiệt ngã của đại dương và tiếng đá sỏi bị sóng cuốn va đập vào nhau. Và toán quân nhỏ bé ấy lại đi tiếp, vừa đi vừa khảo sát từng chỗ bờ biển uốn khúc nhỏ nhất.
Chừng hai mươi phút sau, cả bốn người bỗng nhiên dừng lại, không còn biết đi đâu được nữa, trước mắt họ, những con sóng cao đang xô vào bờ, đập vào đá và tan ra. Họ đang ở chỗ đầu cùng của một mỏm đá nhọn, sóng biển sục sôi hung dữ.
- Ta đã đi ra một mũi biển, - chàng thủy thủ nói. - Phải quay lại thôi. Hãy lui về phía bên phải, xa bờ hơn nữa.
Lúc ấy toán du khách mới quanh qua đầu mũi biển và đi tiếp trên nền đất pha cát lởm chởm đá. Nhưng Pencroff nhận thấy bờ biển mỗi lúc một dốc đứng hơn, lên cao hơn… Họ đi chừng hai dặm, và thật là thất vọng, lại đến một mỏm khá cao, toàn những tảng đá trơn tuột.
- Chúng ta đã lạc vào một hòn đảo nhỏ nào rồi! - Pencroff nói - Và ta đã đi hết hòn đảo, từ đầu chí cuối rồi.
Ban đêm trời trở lạnh dữ. Những người chạy trốn rủi ro bị lạnh cứng, nhưng hầu như họ không để ý đến nỗi khốn khổ của mình. Họ thậm chí đã không nghĩ đến việc đặt lưng nằm nghỉ. Họ quên mình, chỉ nghĩ đến thủ lĩnh, đồng thời là người bạn của mình, hy vọng ông còn sống.
Đêm đã qua. Sang ngày 25 tháng ba, khoảng sáu giờ rưỡi, mặt trời mọc, sương mù mỗi lúc một thưa hơn. Chẳng mấy chốc đã hiện lên rõ nét toàn bộ hòn đảo nhỏ, sau đó, từ trong màn sương mù lại lộ ra một vùng biển hình bán nguyệt màu xanh thẫm, phía đông mênh mông, phía tây có bờ dốc đứng bằng đá hóa cương. Hy vọng bên ấy là vùng đất liền, là nơi cứu thoát,
https://thuviensach.vn
những người khách viễn du đã đợi thủy triều xuống, bơi qua eo biển sang đó. Nab và Spilett đi dọc theo bở biển, tiếp tục tìm kỹ sư Smith.
Harbert đã định đi cùng, nhưng Pencroff ngăn lại:
- Đừng đi, chú bạn nhỏ ạ! Anh và chú cần phải chuẩn bị chỗ trú ẩn và nếu được thì kiếm cái ăn. Khi các bạn của chúng ta trở về, họ cần phải được bồi dưỡng. Nghĩa là họ có việc của họ, chúng ta có việc của chúng ta.
- Em đồng ý, anh Pencroff - Harbert đáp.
- Thế thì tốt lắm. - chàng thủy thủ khen. - Chúng ta sẽ lần lượt thu xếp mọi việc. Chúng mình mệt rồi, bị đói, rét. Thành thử, mọi người cần có chỗ ở, lửa và cái ăn. Củi trong rừng chắc là vô thiên lủng, ở đó kiếm tổ chim cũng được thôi, nghĩa là ta sẽ lấy trứng. Chỉ còn việc kiếm chỗ ở nữa.
- Vậy thì, - Harbert hưởng ứng ngay - em sẽ tìm trong vách núi một cái hang. Chắc chắn em sẽ tìm được một cái hang nào đó và tất cả chúng ta sẽ vào đấy ở.
- Đúng đấy, - Pencroff nói - Ta đi thôi, em!
Rồi cả hai người bắt đầu đi học theo thành đá hoa cương khổng lồ, bước trên dải cát rộng lộ ra trong những giờ nước rút. Nhưng đáng lẽ phải đi về phía bắc như Gédéon Spilett và Nab thì họ lại đi về phía nam. Pencroff để ý thấy một cái khe nứt cắt ngang dãy núi thấp, cách chỗ họ bơi qua vài trăm bước và cho rằng đấy có lẽ là một dòng sông nhỏ hay con suối. Họ đi về hướng đó, bởi vì điều quan trọng là phải xây dựng chỗ ở gần nguồn nước ngọt; ngoài ra, không loại trừ khả năng là Cyrus Smith đã bị dòng nước cuốn về phía ấy.
https://thuviensach.vn
Nhưng bờ biển đựng đứng thành một bức vách liền cao chừng 300 fut, nên không có lấy một cái hang, một hẻm sâu nào có thể dùng làm nơi tạm trú cho các du khách… Chim ở đây thì nhiều vô kể. Cứ bắn hú họa vào những đàn chim bay lượn trên không trung là cũng có thể kiếm được “mồi ngon” rồi. Nhưng muốn bắn thì phải có súng, mà cả Pencroff lẫn Harbert đều không có.
Nhưng đây, Harbert đã để ý thấy mấy vách đá phủ đầy rong - có lẽ lúc thủy triều lên chúng bị ngập dưới biển. Trên những vách đá ấy, xen giữa những đám cỏ biển trơn trượt có rất nhiều sò bám vào đá; đó là những thứ có thể ăn được mà lúc đói bụng không nên bỏ qua. Harbert lên tiếng gọi Pencroff; anh ta chạy lại ngay.
- Ồ, hến đây rồi! - Chàng thủy thủ thốt lên - Trong lúc mình chưa kiếm được chim đã có cái này thay trứng chim được rồi.
- Đây hoàn toàn không phải hến - Harbert chăm chú quan sát những con sò, nhận xét - đây là những con sò.
- Thế thứ này có ăn được không? - Pencroff hỏi.
- Còn phải nói!
- Thế thì ta nếm thử con sò xem sao.
Chàng thủy thủ có thể hoàn toàn trông cậy vào Harbert. Cậu bé đã tỏ ra rất am hiểu về kiến thức tự nhiên và luôn luôn say mê môn ấy. Người cha quá cố đã hướng cậu đi vào con đường này và tạo điều kiện cho cậu được học với những giáo sư nghiên cứu tự nhiên học xuất sắc nhất của thành phố Boston. Cậu bé thông minh và cần mẫn ấy đã lập tức được các thầy yêu mến. Những năng khiếu và kiến thức của nhà tự nhiên học trẻ tuổi về sau
https://thuviensach.vn
đã nhiều lần giúp ích cho những người bạn lớn tuổi của chú, và ngay từ đầu chú đã xác định không lầm…
Pencroff và Harbert thả cửa ăn những con sò hé mở vỏ dưới ánh nắng. Ăn chúng cũng như ăn hàu vậy. Cả hai người đều thấy sò có vị rất đậm đà và vì vậy không đến nỗi phải tiếc về chuyện thiếu tiêu và các gia vị khác.
Thế là các khách bộ hành đã đỡ đói phần nào. Nhưng cái khát ở cả hai người lại càng tăng hơn sau khi họ đã ăn khá nhiều động vật nhuyễn thể thơm ngon. Bây giờ đây cần phải tìm ở đâu đó nguồn nước ngọt và, dường như khó tin được rằng ở một vùng bờ biển nhiều núi như thế này mà lại không tìm được lấy một nguồn nước nhỏ sao. Sau khi lấy dự trữ khá nhiều sò, nghĩa là nhét đầy tất cả các túi và gói chặt các khăn tay, Pencroff và Harbert quay trở lại chân vách núi đá hoa cương.
Trong khi đi về phía nam chừng hai trăm bước nữa họ đã thực sự nhìn thấy một khe núi, trong đó, đúng như Pencroff nghĩ, có một con sông nhỏ, hẹp, nhưng đầy nước đang chảy. Ở chỗ ấy, bức tường đá hoa cương dường như bị toác ra do chấn động mạnh của núi lửa. Nơi cửa khe tạo thành một cái vịnh nhỏ gần như hình tam giác. Chiều ngang của dòng sông ở chỗ ấy rộng đến một trăm fut, còn lòng sông thì chiếm gần như hết cả cửa khe. Hai bờ sông rộng không quá hai mươi fut. Dòng sông trôi gần như theo một hướng thẳng giữa hai bức tường đá hoa cương hạ thấp dần về thượng nguồn. Cách đó không xa lắm, dòng sông uốn khúc đột ngột và sau nửa dặm thì mất hút trong các khoảnh rừng.
- Đây có nước, còn đằng kia có củi! - Pencroff thốt lên - Harbert này. Thế là bây giờ ta chỉ còn thiếu cái nhà nữa thôi!
Con sông nhỏ nước trong vắt, Pencroff tin chắc rằng khi nước rút, sóng biển không dâng tới thì nước sông ngọt và hoàn toàn có thể dùng uống
https://thuviensach.vn
được. Chỉ khi giả thiết quan trọng ấy đã được khẳng định, Harbert mới bắt đầu đi tìm một cái hang nào đấy có thể ở được, nhưng uổng công. Chỗ nào vách đá hoa cương cũng dựng đứng như một bức tường bằng phẳng.
Tuy nhiên cách cửa sông không xa lắm, ở nơi cao hơn nước thủy triều lên, họ đã tìm thấy một đống đá tảng chồng lên nhau rất độc đáo. Những công trình thiên nhiên như thế hiếm khi nào thấy có trên những vùng đá hoa cương cao.
Trong khi nghiên cứu “mê cung” ấy, Pencroff và Harbert đã đi khá sâu vào bên trong theo cái lối rải đầy cát, ánh sáng lọt vào đây qua những khe hở giữa các tảng đá được sắp xếp cân đối một cách kỳ diệu. Tuy nhiên, lọt qua các khe không chỉ có ánh sáng mà cả gió nữa - những cơn gió lùa thực sự thổi dọc theo các hành lang bằng đá mang theo cái rét thấu xương. Nhưng Pencroff đã quyết định nếu chặn vài lối, lấy đá bịt các lỗ thì “căn nhà ổ chuột”, như anh ta gọi, cũng có thể ở được.
- Chỗ ở dễ thương ghê! - Pencroff nói - Nếu khi nào ông Smith trở về với chúng ta, ông ấy sẽ biết sắp xếp trật tự trong cái “mê cung” này.
- Ông ấy nhất định trở về, anh Pencroff ạ! - Harbert thốt lên - Từ giờ đến lúc ông ấy về chúng mình phải lo liệu được ở đây một chỗ ở cho kha khá một chút. Trước tiên ta phải xây một cái lò ở hành lang bên trái và không bịt cái lỗ ở trên để cho khói thoát ra.
- Này chuyện lò thì xây có khó gì đâu, cậu bé thân mến ạ, - chàng thủy thủ nói - nhưng việc đầu tiên ta hãy đi kiếm củi dự trữ đã. Anh nghĩ củi cành hay củi gì cũng có ích, ta dùng để bịt các khe hở lại, kẻo chống chếnh quá.
https://thuviensach.vn
Harbert và Pencroff ra khỏi nhà ổ chuột và mười lăm phút sau, đã ra đến chỗ sông uốn khúc đột ngột về bên trái. Bắt đầu từ đây dòng sông chảy qua cánh rừng gồm toàn những cây to. Mặc dù đang mùa lạnh trong năm, nhưng cây cối vẫn xanh tươi - đó là những cây thuộc các loài lá kim khác nhau, mọc phổ biến ở tất cả các nơi thời tiết khác nhau của trái đất - từ các kinh tuyến bắc đến các nước vùng nhiệt đới. Nhà tự nhiên học trẻ tuổi nhận ra ở đây loài cây deodor thường gặp ở vùng núi Himalaya với rất nhiều dáng vẻ khác nhau. Những cây này tỏa ra chung quanh một mùi rất dễ chịu. Xen giữa những cây khổng lồ là những cây thông tỏa tán rậm rạp như chiếc ô lớn vậy. Bên dưới mặt đất là một lớp thảm cỏ, đi trên đó Pencroff thấy dưới chân mình những cành cây khô kêu răng rắc.
- Nào, ta hái củi! - Harbert đáp và bắt tay ngay vào việc.
Kiếm củi hóa ra rất dễ, thậm chí chẳng cần phải bẻ những cành khô - củi nằm đầy ra trên mặt đất. Vậy là cái đun không thiếu, nhưng ở đây đặt ra vấn đề là làm sao đưa được củi về chỗ ở. Củi khô cháy rất mau - do đó cần phải đưa về “căn nhà ổ chuột” một đống củi hết sức lớn, một gánh nặng quá sức đối với cả hai người. Harbert nói với Pencroff điều ấy.
- Ồ, cậu bé yêu quý ạ, cần phải nghĩ cách chuyên chở củi chứ. Một khi mình muốn là có thể làm được mọi chuyện! Giá chúng mình có một cái xe kéo thì khỏi phải nói gì nữa.
- Thì ta có sông đây rồi còn gì! - Harbert kêu lên.
- Đúng! - Pencroff khẳng định - Có sông, nghĩa là để cho củi tự trôi được. Người ta nghĩ ra chuyện chuyên chở gỗ bằng bè đâu phải vô ích.
- Chỉ rủi một điều là, - Harbert bác lại, - củi sẽ không trôi về hướng ta cần, bởi vì bây giờ thủy triều đang đẩy nước ngược dòng trôi.
https://thuviensach.vn
- Vậy thì ta đợi lúc nước rút - chàng thủy thủ đáp, - và thế là chất đốt của chúng ta sẽ trôi về đến tận nhà một cách rất tự nhiên. Nào ta tranh thủ làm bè.
Một giờ sau, họ hoàn thành công việc chất toàn bộ số củi lên đó và đẩy bè ra phía bờ sông, đợi khi nước xuống sẽ thả cho bè trôi.
Còn những vài giờ nữa nước mới bắt đầu xuống nên để giết thời gian, Pencroff và Harbert đã trèo lên các vách đá và tìm thêm nguồn thức ăn. Trong các hẻm, hốc ở đây có đến hàng trăm loại chim làm tổ. Trong khi nhảy từ tảng đá này sang tảng đá khác, Harbert đã làm cho bầy chim “cư dân” trên các vách núi hoảng sợ.
- Ồ! - Cậu bé thốt lên - Đây không phải là chim cốc, cũng không phải hải âu!
- Thế là chim gì? - Pencroff hỏi. - Quỉ quái thật, lại giống chim bồ câu.
- Đúng, đây chính là chim bồ câu, chỉ có điều là bồ câu hoang dã - bồ câu núi mà thôi, - Harbert đáp. - Em nhận ra chúng ngay. Anh hãy nhìn đây này, chúng có đường viền kép màu đen ở cánh, đuôi trắng, còn lại toàn bộ lông đều màu tro xanh da trời nhạt. Em đã đọc và biết rằng bồ câu núi là loài chim thịt ngon, và có lẽ trứng của chúng cũng rất ngon. Có thể là trong các tổ còn trứng đấy!...
- Vậy thì ta sẽ làm món trứng tráng nhé! - Pencroff vui vẻ hưởng ứng. - Thế lấy gì để tráng? Lấy mũ của anh nhé?
https://thuviensach.vn
- Không, cậu bạn nhỏ ạ, tiếc rằng anh không phải người có phép thần thông. Không sao, đừng buồn. Chúng ta sẽ nướng trứng. Em muốn chúng mình thi xem ai ăn được nhiều hơn không?
Pencroff và cậu bé bắt đầu xem xét thật cẩn thận tất cả các hẻm, hốc giữa các tảng đá hoa cương; đây đó có trứng thật. Họ nhặt vài chục trứng bồ câu, đem bọc vào khăn tay của người thủy thủ. Sau đó, cho rằng con nước đã lên hết rồi, họ theo sườn núi đi xuống sông, trở lại chỗ để củi, chuẩn bị thả bè.
Pencroff kiếm sợi dây leo khô bện thành một sợi dây dài vài sải. Sợi chão vừa bện xong được buộc vào phía sau bè, đầu kia người thủy thủ giữ trong tay, còn Harbert thì dùng một cái sào dài đẩy chiếc bè từ bờ ra lòng sông.
Phương pháp thả bè của họ tỏ ra rất thành công. Pencroff vừa đi trên bờ, vừa giữ sợi chão cho chiếc bè chở nặng lặng trôi theo dòng. Khoảng hai giờ sau chiếc bè đã trôi đến cửa sông ở gần lán tạm của họ.
https://thuviensach.vn
CHƯƠNG BỐN
Xây dựng tiện nghi trong lán tạm. - Nhà báo và Nab trở về. - Que diêm duy nhất. - Bữa tối. - Đêm đầu tiên trên cạn.
Vừa dỡ xong củi trên bè xuống, việc Pencroff quan tâm đầu tiên là làm cho cái lán tạm có thể ở được, che các hành lang khỏi bị những cơn gió lùa tung hoành, Pencroff và Harbert dùng cát, đá, những tấm đan bằng cành cây và đất sét nhão để bịt chặt các hành lang thông thống gió lạnh, chỉ chừa lại một hành lang hẹp, ngoằn ngoèn nối với hành lang bên cạnh để làm ống khói, tạo sức hút cho bếp lò. Bây giờ lán tạm đã có ba, bốn “phòng”, nếu có thể gọi như thế được đối với cái hang tối tăm mà ngay đến thú rừng cũng chưa chắc đã chịu ở. Nhưng ở đây khô ráo, và có thể đứng thẳng người, ít nhất là trong “phòng” lớn nhất ở chính giữa. Nền đất chỗ nào cũng được trải cát mịn.
Công việc sửa sang tiện nghi trong lán tạm đã mau chóng kết thúc, và Pencroff tuyên bố rằng anh ta hoàn toàn vừa lòng.
- Thế là bây giờ các bạn của chúng ta đã có thể về ở, - anh nói. - Nơi nương trú của chúng ta không tồi lắm.
Chỉ còn lại việc đắp bếp lò và chuẩn bị bữa trưa. Công việc thực chất là đơn giản, chẳng khó khăn gì. Họ đã xếp những viên đá thành một cái bếp lò bên cạnh lỗ “thông khói” ở sâu trong hành lang đầu tiên, phía bên trái. Dĩ nhiên là không phải tất cả nhiệt đều thoát ra bên ngoài theo khói, vì vậy các “căn phòng” đều được sưởi ấm. Họ đã biến một trong số các hành lang thành kho để củi. Chàng thủy thủ bắt đầu chất củi và các cành khô nhỏ vào
https://thuviensach.vn
bếp lò. Anh ta chưa xong việc thì đột nhiên Harbert hỏi xem anh ta có diêm không?
- Thì dĩ nhiên, - Pencroff đáp. - Chứ không có diêm, không có đá đánh lửa thì chết mất chứ còn gì.
- Hoàn toàn không đâu. Chúng ta vẫn có thể lấy được lửa bằng cách cọ xát như những người hoang sơ từng làm ấy. - Harbert không chịu. - Cọ xát hai thanh gỗ khô vào với nhau là có lửa thôi à!
- Thôi được, hãy thử xem, chú bạn nhỏ. Chú sẽ thấy, chả được tích sự gì đâu, chỉ tổ thêm đau tay thôi.
- Nhưng thực ra đây chỉ là cách đơn giản, và cho đến nay người ta vẫn áp dụng nó trên nhiều hòn đảo ở Thái Bình Dương.
- Anh không nói rằng không thể lấy lửa bằng cách ấy. - Pencroff trả lời. - nhưng, chắc chắn là những người hoang sơ biết làm công việc ấy thạo hơn chúng ta, cũng có thể là họ biết cần phải chọn loại gỗ gì kia. Như anh đây chẳng hạn, đã từng đâu phải một lần định lấy lửa bằng cách đó rồi, nhưng có được gì đâu. Không, tốt hơn hết là anh sẽ nhóm lửa bằng diêm thôi. Ủa, anh để diêm đâu mất rồi?
Pencroff lục tìm trong các túi ái bludông hộp diêm mà theo thói thường của người nghiện thuốc lá, không khi nào anh rời ra được. Chẳng thấy cái hộp đâu cả. Anh sờ nắn các túi quần, nhưng cả ở đấy nữa cũng không tìm thấy cái hộp nhỏ bé quí giá ấy đâu.
- Bậy quá đi mất!... Tai họa thật rồi! - Pencroff nói, bối rối nhìn Harbert. - Chắc là nó đã rơi khỏi túi rồi - Anh đã đánh mất cái hộp diêm. Còn em,
https://thuviensach.vn
không có gì ư, Harbert? Một cái bật lửa nào đó cũng được để nhóm cái bếp của ta chứ?
- Không, anh Pencroff, không có gì cả.
Chàng thủy thủ, và theo sau anh là Harbert, ra khỏi Lán tạm, Pencroff bực tức lau trán.
Cả hai người bắt đầu cần mẫn tìm kiếm trên cát và giữa các vách đá trên bờ sông, nhưng những cuộc tìm kiếm của họ đều trở nên vô ích. Cái hộp con bằng đồng mà Pencroff đựng diêm trong đó có lẽ đã mất thật rồi.
- Anh Pencroff này, - Harbert hỏi, - thế khi ở trên nôi khí cầu, anh có quẳng nó đi không đấy?
- Có lẽ nào anh lại quẳng nó đi! - Chàng thủy thủ tức giận. - Chỉ có thể tự nó rơi mất thôi. Vì chúng mình lúc ấy bị xóc quá mà. Nhưng cái vật bé nhỏ ấy rơi mất lâu chưa không biết? Đã vậy, cái tẩu của anh cũng bị mất rồi. Cái hộp con chết tiệt! Tìm nó ở đâu được nhỉ?
- Vậy thì thế này, - Harbert nói, - bây giờ đúng lúc nước rút, ta đi ra bờ biển, chỗ chúng ta bị quẳng xuống ấy. Có thể là ta sẽ tìm được nó đấy.
Ít hy vọng, tuy nhiên, cứ thử tìm xem, may ra thì thấy, vì vậy mà Harbert cùng với Pencroff đã vội vàng đi ra đúng chỗ đuôi doi đất mà hôm trước họ đã bị rơi xuống. Chỗ này cách lán tạm hai trăm mét. Tại đây họ đã xem xét kỹ toàn bộ chỗ bờ biển phủ đá sỏi, từng hủm trũng giữa các viên đá. Mọi cố gắng đều không có kết quả!
Pencroff không thể giấu nỗi nổi cay đắng của mình. Trên trán anh hằn lên những nếp nhăn. Harbert rất muốn an ủi chàng thủy thủ, nên đã nói
https://thuviensach.vn
rằng, có lẽ những que diêm đã bị ướt và đằng nào chúng cũng chẳng có ích lợi gì nữa.
- Không đâu, chú bạn nhỏ ạ, chàng thủy thủ đáp - Anh đã để chúng trong một cái hộp con bằng đồng và cái nắp ấy được đậy kỹ lắm! Chúng ta biết làm sao bây giờ?
- Thế nào ta cũng tìm ra được cách lấy lửa, - Harbert nói. - Em nghĩ, ông Smith và ông Spilett sẽ không chịu bí như em với anh đâu!
- Cũng có thể như thế, - Pencroff chán nản nói.
- Nhưng bây giờ đây chúng ta không nhóm được lửa và thế là sẽ chẳng có gì cho các bạn của chúng ta ăn khi họ trở về.
- Anh đừng buồn, - Harbert nói với vẻ hoạt bát. - Không thể nào họ lại không có diêm hoặc đá đánh lửa.
- Anh ngờ lắm! - Chàng thủy thủ lắc đầu - Thứ nhất là Nab và ông Cyrus Smith không hút thuốc, còn ông Spilett, anh nghĩ, ông ta cố lo cứu lấy cuốn sổ ghi chép của mình hơn là cái hộp diêm con!
Harbert im lặng. Việc mất hộp diêm tất nhiên là một sự kiện đau lòng, nhưng cậu bé hy vọng rằng bằng cách này cách khác rồi cũng lấy được lửa. Mặc dù tính kiên quyết và là người có kinh nghiệm hơn, nhưng Pencroff không tán đồng niềm tin của chú bé mà anh nuôi dưỡng. Nhưng dẫu thế nào thì cũng chỉ còn một cách là đợi Nab và nhà báo trở về. Thế là đành phải từ bỏ ý định đãi họ món trứng luộc, còn triển vọng đãi họ món sò sống thì chắc gì đã được họ thích, cũng như Pencroff đã chẳng mê gì.
https://thuviensach.vn
Đề phòng trường hợp không thể nhóm lửa được, chàng thủy thủ và Harbert đã bổ sung thêm số sò dự trữ, và sau đó im lặng đi về chỗ ở của mình.
Gần sáu giờ, khi mặt trời đã khuất sau đỉnh núi nhô cao ở phía tây, Harbert đi lững thững bên bờ biển, bỗng reo lên báo tin Nab và Gédéon Spilett đã về. Nhưng họ chỉ về có mình thôi!... Tim cậu bé thắt lại, vì nỗi buồn khôn xiết. Có nghĩa là những linh cảm của Pencroff đúng thật! Không tìm thấy Cyrus Smith rồi!
Nhà báo tiến lại gần Harbert, lặng lẽ ngồi lên một hòn đá. Anh ta trở về trong tình trạng kiệt sức vì mệt và đói, không đủ sức nói lên lời.
Mắt Nab đỏ ngầu, anh ta đã khóc quá nhiều, và những giọt nước mắt mà giờ đây anh không ngăn nổi, đã nói lên rõ ràng nỗi thất vọng của anh.
Sau khi nghỉ lấy sức, nhà báo đã kể lại những cuộc tìm kiếm Cyrus Smith không đem lại kết quả. Cùng với Nab, anh đã đi dọc bờ biển hơn tám dặm, như vậy là họ đã đi cách rất xa nơi mà kỹ sư và con chó Top của ông đã bị mất tích. Bờ cát hoàn toàn hoang vắng, không thấy mảy may một dấu hiệu nào, một vết tích nào về ông cả.
- Ôi, tôi kiệt sức rồi, - Nab khẽ nói.
Harbert chạy đến chỗ anh.
- Anh Nab, - cậu bé nói. - Đừng thất vọng. Thượng đế sẽ trả ông ấy về với chúng ta! Còn bây giờ anh hãy bình tình lại, hãy nghỉ đã. Anh bị đói rồi. Hãy bồi dưỡng một chút đi. Em mời anh ăn đi này.
https://thuviensach.vn
Và, vừa nói những điều ấy, cậu bé vừa để trước mặt Nab tội nghiệp mấy vốc sò. Một món ăn nghèo nàn và hoàn toàn không đủ no.
Nab đã nhiều giờ qua không ăn gì, bây giờ lại từ chối ăn. Bị mất chủ, anh không thể và không muốn sống nữa!
Còn nói về Gédéon Spilett thì anh đã ăn không ít những con sò rồi nằm lên cát bên dưới một tảng đá. Anh cũng bị kiệt sức lắm rồi, nhưng bình tĩnh. Harbert bước lại chỗ anh, cầm tay anh, nói:
- Thưa ông Spilett, cháu và anh Pencroff đã tìm được một nơi nương trú, ông về đó nghỉ sẽ tốt hơn ở đây nhiều. Đêm đã bắt đầu xuống rồi. Ta đi nào. Ông cần nghỉ ngơi đã! Còn ngày mai ta sẽ tính xem cần làm gì.
Nhà báo đứng dậy và Harbert dẫn anh về Lán tạm.
Lúc ấy Pencroff mới lại chỗ Spilett và, bằng một giọng rất tự nhiên, hỏi xem anh ta tình cờ có giữ được que diêm nào không.
Nhà báo dừng lại, sờ nắn các túi; nhưng không tìm thấy gì cả, anh đáp: - Diêm thì tôi có đấy. Nhưng chắc là tôi vứt đi mất rồi…
Khi ấy Pencroff mới kêu Nab hỏi, và cũng được trả lời y như vậy. - Ồ, khỉ thật! - chàng thủy thủ không kiềm chế nổi, kêu lên. Nghe thấy lời than ấy, nhà báo đến gần Pencroff.
- Không có lấy một que diêm nào à? - Anh ta hỏi.
https://thuviensach.vn
- Không mảy may, và thế là chẳng có gì nhóm lửa cả.
- Chẳng có gì, - Nab đau khổ nhắc lại. - Giá ông chủ tôi ở đây thì ông ấy đã biết cách lấy lửa rồi đấy.
Cả bốn người lặng đi, lo lắng nhìn nhau. Harbert đầu tiên lên tiếng phá vỡ sự im lặng nặng nề.
- Thưa ông Spilett, ông hút thuốc kia mà, nên lúc nào cũng mang diêm theo người chứ ạ! Có thể là ông chưa tìm kỹ chăng? Xin ông hãy tìm kỹ cho! Chúng ta chỉ cần một que diêm thôi cũng đủ.
Nhà báo lục tìm trong các túi áo gilê, túi quần, túi áo măng tô và cuối cùng, đã nắn thấy một que diêm mảnh mai ở dưới lớp lót áo gilê. Anh cảm nhận que diêm qua lớp vải, dùng mấy ngón tay giữ chặt lấy, nhưng không rút ra được. Chắc chắn đó là que diêm, que diêm duy nhất, và nhiệm vụ bây giờ là làm sao lấy nó ra được mà không làm ảnh hưởng đến đầu có phốt pho.
- Ông để cháu lấy ra nhé? - Harbert nói.
Và cậu bé đã rút được que diêm ra khỏi lớp vải lót áo gilê một cách rất nhanh chóng và nguyên vẹn. Que diêm chẳng đáng gì, nhưng quý giá, vì bây giờ đây nó có ý nghĩa rất quan trọng. Đầu diêm không bị sây sát gì hết.
- Que diêm! - Pencroff kêu lên. - Tôi mừng tưởng như chúng ta có nguyên cả một xe diêm vậy!
Anh ta thận trọng đỡ que diêm trong tay Harbert và đi theo các bạn của mình về lán tạm.
https://thuviensach.vn
Những que diêm ở các vùng dân cư ít có giá trị, người ta xài một cách thờ ơ và hoang phí, nhưng ở đây lại quý như vàng, do vậy họ hết sức nâng niu que diêm duy nhất ấy.
Điều trước tiên chàng thủy thủ khẳng định là que diêm hoàn toàn khô. Đoạn anh nói:
- Cần có giấy nữa.
- Đây, anh cầm lấy. - Gédéon Spilett xúc động xé một tờ giấy nhỏ trong cuốn sổ ghi chép của mình ra.
Pencroff cầm lấy tờ giấy của anh nhà báo đưa cho và ngồi xổm trước bếp lò. Trong lò, củi đã chất rất khéo, giữa các thanh đều có khe hở cho không khí lưu thông, bên dưới để lá khô, cỏ khô và rêu khô làm cho lửa bén ngay và củi mau cháy.
Pencroff cuốn tờ giấy thành hình cái ống loa kèn nhỏ như những người hút thuốc thường làm khi châm tẩu ngoài gió, và để cái ống giấy ấy vào giữa mớ rêu. Đoạn anh nhặt một viên sỏi nhám, lau chùi thật cẩn thận và, hồi hộp, nón thở, khẽ quẹt que diêm vào hòn đá.
Thử lần thứ nhất không đem lại kết quả: Pencroff sợ lớp phốt pho bị vụn ra nên quẹt yếu quá.
- Không, tôi không thể quẹt được, - anh nói, - tay run quá… Tôi làm hỏng que diêm mất thôi… Tôi sẽ không quẹt nữa! - Và, Pencroff ngẩng lên, yêu cầu Harbert làm thay mình.
https://thuviensach.vn
Cậu bé chưa khi nào hồi hộp đến như vậy. Trống ngực cậu đập thình thịch. Có lẽ thần Promêtê khi quyết định đánh cắp lửa của trời cũng không hồi hộp đến thế! Tuy nhiên, cậu bé không nghĩ ngợi nhiều, lẹ làng quẹt diêm vào đá. Một tiếng xẹt nhẹ phát ra, thế là ở đầu diêm đã thấy thấp thoáng một ngọn lửa xanh da trời nhạt và mùi khói hăng hắc tỏa ra. Harbert khẽ khàng chúc đầu diêm xuống dưới cho ngọn lửa cháy mạnh hơn, rồi cẩn thận châm que diêm vào ống giấy cuộn. Tờ giấy cháy bùng lên, và rêu cũng bén lửa ngay lập tức.
Vài giây sau đã nghe thấy tiếng củi cháy kêu lách tách, và trong bóng đêm ánh lửa reo vui vẻ, bõ công chàng thủy thủ ra sức thổi cho đống lửa cháy to lên.
- Có thế chứ! - Pencroff kêu lên và đứng dậy. - Tôi kiệt sức mất rồi! Chưa bao giờ tôi lại hồi hộp đến như thế.
Thật là vui sướng khi nhìn thấy ngọn lửa cháy rực trong bếp lò làm bằng mấy viên đá phẳng xếp lại. Khói thoát ra thoải mái qua một đường hẹp, sức hút tốt và chẳng bao lâu không khí ấm áp dễ chịu đã lan tỏa khắp lán tạm. Chuyện lửa tất nhiên cần phải chú ý trông nom; để khỏi bị tắt ngấm, bao giờ cũng phải vùi vài hòn than hồng dưới một lớp tro - việc ấy chẳng khó gì.
Pencroff quyết định trước hết dùng bếp lò để chuẩn bị bữa ăn tối no hơn món sò sống. Harbert mang đến độ ba chục quả trứng chim bồ câu. Nhà báo ngồi vào một góc và hững hờ nhìn các công việc chuẩn bị ấy. Anh cố gắng giải đáp ba câu hỏi đang giày vò mọi người: Cyrus Smith còn sống không? Nếu còn sống thì bây giờ ông ấy đang ở đâu? Nếu ông ấy còn nguyên vẹn sau khi rơi xuống biển thì vì sao lại không thấy tăm hơi đâu cả? Còn Nab trong khi đó lại dằn vặt mình trên bờ biển, thẫn thờ như một cái bóng không hồn.
https://thuviensach.vn
Pencroff biết đến năm mươi hai cách làm món trứng, nhưng ở đây anh không được lựa chọn, nên đành chỉ đem trứng vùi vào tro nóng nướng lên mà thôi.
Vài phút sau, trứng nướng đã chín, chàng thủy thủ mời Gédéon Spilett cùng ăn bữa tối. Đây là bữa ăn đầu tiên của những người đi khinh khí cầu bị nạn trên vùng bờ biển xa lạ. Những quả trứng nướng hóa ra rất ngon, và do trứng chứa nhiều chất bổ cần thiết cho con người, nên các vị khách viễn du không may đã được bồi dưỡng tốt và chẳng bao lâu đã cảm thấy khỏe khoắn hơn.
Ôi, giá như người vắng mặt trong bữa ăn này sẽ trở về nhỉ! Giá như cả năm người tù binh chạy trốn khỏi Richmond bây giờ đều có mặt cùng nhau ở nơi nương trú giữa vách đá này, bên ngọn lửa cháy rực này, trên nền cát khô này, thì họ đã phải hết lòng tạ ơn trời rồi. Nhưng, than ôi! Đã thiếu mất ông Cyrus Smith, một nhà phát minh tuyệt vời, một nhà bác học tuyệt vời mà họ đã tôn làm người cầm đầu - ông ấy đã chết mà thậm chí họ đã không mai tang được cho ông.
Thế là ngày 25 tháng ba đã trôi qua. Đêm đã đến. Từ bên ngoài vẳng lại tiếng gió ù ù và tiếng sóng biển dội vào bờ đều đều. Sóng cuốn xô đá và sỏi kêu rào rào.
Sau khi ghi vội vào cuốn sổ tay những sự kiện của một ngày xuất hiện trên vùng biển không quen biết, nhà báo nằm vào một góc hành lang tối và thiếp đi.
Harbert ngủ được ngay. Chàng thủy thủ thì, như người ta nói, “ngủ nửa mắt” bên bếp lò, vì anh không quên chất củi vào bếp.
https://thuviensach.vn
Còn Nab thì suốt đêm vẫn cứ lang thang trên bờ biển và gọi ông chủ của mình, mặc dù các bạn hết lời khuyên anh nằm ngủ đôi chút.
https://thuviensach.vn
CHƯƠNG NĂM
Tài sản của những người bị nạn. - Chẳng còn gì hết. - Ném chim zhakamar. - Bẫy tetrar.
Tài sản của các nhà du hành bằng khinh khí cầu bị nạn có thể thống kê chẳng khó khăn gì; họ chẳng còn gì hết ngoài bộ quần áo mặc trên mình. Tuy vậy, có lẽ vì một sự hết sức tình cờ nên Gédéon Spilett còn giữ được nguyên vẹn chiếc đồng hồ và cuốn sổ ghi chép, nhưng không ai giữ được vũ khí, dụng cụ, thậm chí một con dao nhíp nào. Các du khách đã vứt bỏ hết mọi thứ ra khỏi nôi để giảm bớt trọng tải của khí cầu.
Các nhân vật tưởng tượng của Daniel de Foé và Wyss, tất cả những Selkirk và Raynal bị nạn ở quần đảo Juan Fernandez hoặc ở quần đảo Auckland đều không khi nào bị lâm vào tình trạng như thế này. Tất cả những gì cần thiết cho họ đều tìm được trên chiếc tàu bị vỡ - nào hạt giống, gia cầm, nào dụng cụ, vũ khí, nào dự trữ thuốc súng và đạn, - hoặc đã được biển quẳng lên bờ những mảnh tàu vỡ và một phần hàng chở trên tàu, tạo điều kiện cho họ đáp ứng được mọi như cầu thiết yếu nhất của mình. Họ không hề bị thiếu vũ khí để giáp mặt với thiên nhiên. Nhưng các lữ khách của chúng ta chẳng có lấy một thứ công cụ nào, một đồ dùng nào. Từ chỗ không có gì phải tạo ra tất cả!
Nếu như định mệnh còn trả Cyrus Smith về cho họ, nếu như ông ta mang kiến thức và đầu óc thực tiễn của mình giúp cho bạn bè trong lúc hoạn nạn thì vẫn có thể chưa mất hy vọng. Nhưng than ôi! Chẳng còn hy vọng ông ta trở về nữa. Những người bị nạn đành phải trông cậy vào chính mình và sự cứu giúp của mệnh trời mà thôi.
https://thuviensach.vn
Nhưng trước khi định cư trên bờ biển này, lẽ nào các du khách lại không cần biết họ đã bị rơi xuống đâu? Họ đang ở đâu? Trên lục địa nào đó hay trên đảo? Ở những vùng ấy có người sinh sống không, hay đây là bờ của một vùng đất không dân?
Một vấn đề quan trọng như thế cần phải được làm sáng tỏ càng sớm càng tốt. Bởi vì tất cả những phương sách mà sau đó các vị lữ khách của chúng ta có thể thực hiện đều tùy thuộc vào điều ấy. Song, theo lời khuyên của Pencroff, họ đã quyết định chờ đợi thêm vài ngày nữa rồi hãy đi khảo sát. Đầu tiên cần phải kiếm ra lương thực và dự trữ thức ăn đi đường không phải bằng trứng bồ câu và sò, ốc, mà bằng loại thức ăn no hơn. Chắc chắn sẽ có những chặng đường vượt vất vả, ở những chỗ dừng chân sẽ phải gối đất nằm sương, trong những điều kiện như vậy thì con người trước hết cần phải có chất để bồi dưỡng sức lực cho mình.
Để ở vài bữa thì có lán tạm được rồi. Lửa đã nhóm được, giữ lửa bằng cách ủ than hồng dưới lớp tro cũng không khó lắm. Tạm thời còn có đủ sò trên bờ biển và trứng bồ câu rừng trên các vách núi. Bồ câu lượn hàng trăm con trên bầu trời cao nguyên, vì vậy chắc chắn sẽ tìm được cách nào đấy dùng gậy đập hoặc đá ném chết vài con. Có thể ở khu rừng bên cạnh có những loại cây ăn quả được. Và, cuối cùng, ngay sát bên có sông chảy qua - đó sẽ là nguồn nước ngọt. Nói tóm lại, họ đã quyết định ở lại lán tạm thêm ít ngày nữa và lo việc chuẩn bị cho cuộc thám hiểm nghiên cứu bở biển và các vùng lân cận.
Nab nhiệt liệt tán thành ý định ấy. Anh ta vẫn một mực theo đuổi hy vọng của mình và không muốn rời khỏi nơi bờ biển đã xảy ra tai nạn. Anh ta không tin rằng Cyrus Smith không còn sống nữa….
https://thuviensach.vn
Sáng 26 tháng ba, sau khi điểm tâm cũng vẫn chỉ với trứng chim bồ câu, sò, và thêm ít muối mà Harbert tìm được trong một hủm đá. Nab lại ra bờ biển, nhà báo ở nhà trông lửa, còn cậu bé và chàng thủy thủ vào rừng săn bắt muông thú.
Suốt ngày rình rập trong các bụi rậm, Harbert đã ném được một số con chim Zhakamar[7]và Pencroff đã câu bẫy được những con chim tetras[8]. Hai anh em hài lòng thấy mình đi săn không đến nỗi trắng tay nên đi nhanh chân trở về nơi ở.
https://thuviensach.vn
CHƯƠNG SÁU
Nab vẫn chưa về. - Một đêm lo âu. - Những cuộc tìm kiếm ban đêm. - Cách nơi trú ẩn đầu tiên tám hải lí.
Bảy giờ tối vẫn chưa thấy Nab về. Việc vắng mặt anh làm cho Pencroff rất lo lắng. Chàng thủy thủ sợ có tai họa gì đấy xảy ra với Nab trên vùng biển không quen biết này chăng. Nhỡ ra Nab tội nghiệp trong khi thất vọng đã bị kẹt chuyện gì đó thì sao? Nhưng Harbert lại có những kết luận hoàn toàn khác về sự vắng mặt lâu của Nab. Cậu tin rằng nếu Nab không trở về nghĩa là có điều gì đó đã thôi thúc anh ấy tiếp tục cuộc tìm kiếm, nghĩa là đã xuất hiện những tình huống nào đó tất nhiên là thuận lợi cho Cyrus Smith. Tại sao Nab không trở về? Không còn nghi ngờ gì nữa, là vì niềm hy vọng của anh đã được củng cố thêm. Có thể là, anh đã phát hiện thấy trên bờ biển những dấu chân của Cyrus Smith, mảnh vỏ khí cầu và tiếp tục những cuộc truy tìm của mình. Có thể là anh đã gặp được một dấu vết chính xác. Thậm chí có thể anh đã tìm thấy chủ của mình.
Harbert đã suy nghĩ và nói như vậy. Các bạn đồng hành không phản đối cậu bé. Thậm chí nhà báo đã gật đầu tỏ ý tán thành. Nhưng Pencroff nghĩ khác. Anh cho rằng trong lúc tìm kiếm Nab đã đi xa hơn hôm qua, vì vậy không kịp trở về lúc trời còn sáng.
Có những linh tính mơ hồ nào đấy làm cho Harbert hồi hộp và đã mấy lần cậu cố đi đón Nab. Nhưng Pencroff đã thuyết phục cậu bé rằng điều đó hoàn toàn vô ích: trời tối, thời tiết lại xấu nữa, không thể tìm được Nab, và tốt hơn hết cứ đợi anh ta ở nơi trú ẩn thôi. Nếu như sáng ngày mai anh da đen không trở về thì dẫu thế nào Pencroff cũng sẽ cùng Harbert đi tìm Nab.
https://thuviensach.vn
Gédéon Spilett ủng hộ chàng thủy thủ và nói rằng họ không được chia ly nhau. Harbert đành phải từ bỏ ý định của mình, nhưng cậu đau khổ ứa ra nước mắt. Nhà báo không kiềm chế nổi và đã hôn cậu bé có tấm lòng độ lượng…
Vừa lúc ấy bão táp bùng lên…
Sau bữa ăn tối, mỗi người lại vào góc tối hôm qua nằm ngủ. Tất nhiên cậu bé Harbert ngủ trước tiên. Cậu ngả lưng ngay cạnh chàng thủy thủ. Còn chàng thủy thủ thì nằm bên đống lửa…
https://thuviensach.vn
Duy có Gédéon Spilett là không thể chợp mắt được. Anh trách mình tại sao đã không đi cùng với Nab. Nhưng linh tính làm cho Harbert lo âu, giờ đây cũng làm cho anh thắc thỏm. Anh nghĩ hoài đến Nab vì sao không trở về? Và trong nỗi lo lắng, nhà báo cứ trằn trọc mãi trên khoảnh cát của mình. Thỉnh thoảng không chống đỡ nổi cái mệt mỏi anh díp mắt lại trong giây lát, nhưng lập tức, một ý nghĩ nào đấy thoáng nảy ra trong đầu đã thức tỉnh anh.
Thời gian cứ trôi đi. Lúc ấy chắc đã hai giờ sáng, Pencroff đang ngủ say bỗng có ai đó lắc vai anh.
- Gì thế? Ai đấy? - Pencroff thét lên và choàng ngay dậy… Nhà báo cúi xuống khẽ nói với anh:
- Hãy lắng nghe, Pencroff, hãy lắng nghe!
Chàng thủy thủ chăm chú lắng nghe, nhưng không thấy gì cả, ngoài tiếng gió ù ù.
- Gió rít, - anh nói.
- Không, - Spilett gạt đi, lắng nghe một cách căng thẳng. - Hình như tôi đã nghe thấy…
- Anh nghe thấy cái gì?
- Tiếng chó sủa.
- Tiếng chó sủa à? - Pencroff thốt lên và đứng phắt dậy.
https://thuviensach.vn
- Đúng, đúng… Tiếng chó sủa.
- Không, đâu phải!... Bão giật đó thôi….
- Im đã. Nó lại sủa đấy! Anh hãy lắng nghe đã. - Nhà báo nói nhanh.
Pencroff để tai lắng nghe và quả thực trong khoảnh khắc lặng gió, hình như anh đã nghe thấy tiếng chó sủa từ xa vọng lại thật.
- Thế nào? - Nhà báo thì thào, siết chặt tay Pencroff.
- Đúng, đúng! - Pencroff trả lời. - Đó là con Top sủa đấy!
- Con Top! - Harbert vừa thức dậy kêu lên, và cả ba người cùng từ trong lán tạm lao ra cửa.
Chung quanh, trời tối như bưng. Trong bóng đêm đen kịt ấy không còn phân biệt được biển, trời và đất nữa. Dường như trên trần gian không có lấy một tia sáng cỏn con nào vậy…
Mấy phút qua, Gédéon và hai bạn đồng hành của anh không thể bước nổi một bước - gió giật như muốn dán chặt họ vào vách núi, cả ba người đều ướt sũng, cát bụi mù mắt. Bỗng trong khoảnh khắc gió lặng họ lại nghe rõ ràng tiếng chó sủa đàng xa.
Chỉ có con Top mới sủa như vậy thôi! Nhưng con chó trung thành chạy đến đây một mình hay có ai đi cùng với nó nữa. Chắc chỉ có mình nó thôi - bởi vì nếu có Nab thì nhất định anh đã vội vàng trở về lán tạm rồi còn gì.
Trong lúc cơn gió ào qua không thể nào nói với nhau được điều gì, nên chàng thủy thủ chỉ biết nắm chặt lấy tay Gédéon Spilett như muốn nói với
https://thuviensach.vn
anh ta: “Hãy đợi nhé”, rồi biến mất trong hành lang đá.
Thoáng sau, anh bước ra, tay cầm một bó củi đang cháy huơ vù vù trong đêm tối.
Con chó hình như chỉ đợi có tín hiệu ấy: tiếng sủa của nó nghe đã gần hơn, và chẳng bao lâu nó đã chạy xộc vào lối đi trong hang. Pencroff, Harbert và Gédéon Spilett vội vã đi theo nói…
- Top! - Đúng là con Top đây rồi! - Harbert kêu to…
Quả đấy là con Top, giống chó săn Anh - Normandie, được lai từ hai giống nên nó có những đặc tính của loài chó săn là rất thính và chạy nhanh.
Nhưng con Top chạy về đây có một mình. Cả chủ nó lẫn Nab đều không về theo nó.
Vậy bằng cách nào linh cảm đã có thể dẫn nó về đây, nơi lán tạm mà nó chưa hề đến lần nào, vả lại trong lúc đêm tối, bão táp?! Thật là một hiện tượng không tài nào hiểu nổi! Và càng lạ lùng hơn nữa là con chó không tỏ ra mệt mỏi, kiệt sức và thậm chí không bị lấm đất cát gì.
Harbert gọi con Top lại, hai tay nắm lấy mõm nó. Có lẽ được vuốt ve, con chó mừng lắm, nó vươn cổ lên, giụi đầu vào tay cậu bé.
- Một khi đã tìm thấy con chó thì cũng sẽ tìm thấy chủ của nó thôi! - Gédéon nói.
- Cầu trời phù hộ cho! - Harbert hưởng ứng - Ta đi mau lên! Con Top sẽ dẫn đường cho chúng ta.
https://thuviensach.vn
Pencroff không phản đối cậu bé điều gì. Anh cảm thấy sự xuất hiện của con Top có lẽ sẽ bác bỏ điều phỏng đoán mơ hồ của anh.
- Lên đường! - Anh hô to…
Đêm ấy đã có trăng non: trăng non như cái lưỡi liềm nhỏ đã hé rạng trên trời, nhưng ánh sáng mờ nhạt của nó không thể xuyên qua những đám mây đen. Đi mỗi lúc một khó khăn hơn. Tốt nhất là dựa vào linh cảm của con Top. Mấy người bộ hành cũng đã làm như vậy. Gédéon Spilett bám theo sau con chó, chàng thủy thủ đi khóa đuôi. Họ không nói được với nhau lời nào.
Trong lúc đi đường, khi Harbert nhắc đến tên của Cyrus Smith, con Top lại sủa gâu gâu, dường như muốn nói rằng chủ của nó còn sống.
- Ông ấy còn sống! Đúng như vậy mà, phải không Top? Đúng hả? - Harbert khẳng định với một vẻ xúc động. - Ông ấy thoát nạn rồi!
Con chó khẽ rít lên, như khẳng định những điều cậu bé nói. Họ đi tiếp qua những vách đá và dãy núi thấp…
Sáu giờ, trời sáng hẳn. Trên trời cao, mây bay vội vã, Pencroff và các bạn đồng hành đã đi được gần sáu dặm biển[9]. Giờ đây họ đang đi trên bờ cát phẳng. Cách đó không xa, dưới biển có dãy đá ngầm thoáng nhô trên đầu sóng một chút, vì nước triều đã dâng đầy…
Bỗng con chó chạy rối rít: lúc phóng lên trước, lúc quay trở lại, đến chỗ Pencroff, như muốn khấn nài anh hãy nhanh chân. Đoạn nó từ bờ biển rẽ ngoặt sang một bình nguyên. Và, bằng sự nhạy cảm tuyệt vời, không chút do dự nào hết, nó chạy đi giữa các đụn cát.
https://thuviensach.vn
Những người bộ hành đi theo nó... Sau khi từ bờ rẽ vào được chừng năm phút, nhà báo và các bạn đồng hành của anh đã đến trước một cái hang không sâu lắm... Con Top dừng lại và sủa inh lên. Spilett, Harbert và Pencroff chui vào trong hang.
Ở đó, Nab đang quì, cúi mình trên một cái xác người bất động nằm sóng soài trên một vạt cỏ.
Mọi người nhận ra người nằm bất động ấy là Cyrus Smith.
https://thuviensach.vn
CHƯƠNG BẢY
Cyrus Smith còn sống không? - Câu chuyện của Nab. - Những dấu vết trên cát. - Điều bí ẩn không giải đáp được. - Những lời nói đầu tiên của Cyrus Smith. - Nghiên cứu các dấu chân. - Trở lại Lán tạm. - Nỗi khiếp sợ của Pencroff.
Nab không động đậy. Chàng thủy thủ chỉ hỏi anh một lời: - Sống?
Nab không đáp lại điều gì. Gédéon Spilett và Pencroff tái nhợt đi. Harbert đứng lặng người, hai tay nắm chặt. Rõ ràng anh da đen tội nghiệp đã bị nỗi đau khổ chi phối đến nỗi không nhận thấy những người bạn của mình, không nghe thấy câu hỏi của Pencroff.
Nhà báo quì xuống bên cái xác nằm sóng sượt, phanh quần áo trên người Cyrus Smith ra và áp tai vào ngực ông. Một phút sau - mà tưởng như lâu lắm - anh mới nghe thấy tiếng tim ông đập yếu ớt.
Nab ngẩng đầu lên và ngơ ngác nhìn quanh. Mặt anh mất hết thần sắc - anh trở nên tiều tụy vì đau khổ quá đỗi. Thân thể phờ phạc, tâm can giằng xé, anh đã thay đổi đến nỗi không thể nhận ra được. Bởi vì anh tưởng Cyrus Smith đã chết.
Gédéon Spilett chăm chú nhìn Cyrus Smith hồi lâu, rồi đứng lên nói:
https://thuviensach.vn
- Sống!
Khi ấy Pencroff quì xuống, áp tai vào ngực Cyrus Smith và cũng nghe thấy tiếng tim ông đập yếu ớt, thậm chí còn cảm thấy hơi thở rất nhẹ của ông nữa.
- Nước! - Nhà báo nói ngắn gọn, và Harbert lao đi tìm nước. Cách hang chừng trăm bước cậu bé đã tìm thấy một dòng nước nhỏ trong veo tuôn chảy trên bãi cát. Nhưng lấy gì mà múc nước? Trong các cồn cát không có lấy một con sò! Lúc ấy cậu bé bèn lấy khăn tay nhúng nước và phóng ngay về hang.
May sao, chiếc khăn tay ướt cũng đủ nước để Gédéon thấm môi cho Cyrus Smith. Vài giọt nước lạnh đã tỏ rõ tác dụng kỳ lạ. Cyrus Smith đã hít thở sâu được và thậm chí định nói điều gì đó.
- Chúng ta sẽ cứu được ông ấy! - Nhà báo kêu lên.
Những lời đó lại khơi dậy trong trái tim của Nab niềm hy vọng.
Anh cởi hết quần áo của chủ, xem trên người ông có bị thương không. Nhưng không thấy chỗ nào bị sây sát, bầm dập, khiến mọi người hết sức ngạc nhiên, bởi vì chắc chắn là sông đã phải cuốn ông ta qua những dải đá ngầm kia mà. Thậm chí trên tay cũng không thấy có những vết trầy xước. Thật không thể hiểu nổi làm sao mà trên mình nạn nhân lại không thấy có dấu vết gì về cuộc vật lộn của ông với thiên tai hung dữ, về những cố gắng của ông vượt qua cả một dãy đá ngầm.
Nhưng, những lời giải thích về một hoàn cảnh kỳ diệu như thế đành phải đợi đến khi nào Cyrus Smith có thể nói được và kể hết những gì đã xảy ra với ông. Còn bây giờ phải làm cho ông sống lại đã. Có lẽ, muốn vậy, cần
https://thuviensach.vn
xoa bóp chăng? Chàng thủy thủ cởi chiếc áo bludông của mình ra và dùng áo lấy hết sức chà mạnh lên cơ thể lạnh cóng của Cyrus Smith. Sau khi xoa bóp mạnh, làm cho người nạn nhân ấm lên, ông ta đã khẽ động đậy được hai tay, hơi thở trở nên đều hơn. Ông bị ngất đi vì kiệt sức, và giá như Gédéon Spilett và các bạn của anh không đến kịp thì chắc là kỹ sư Cyrus Smith đã qua đời rồi.
- Vậy là anh tưởng ông chủ của anh đã chết rồi phải không? - Chàng thủy thủ hỏi Nab.
- Vâng, - Nab đáp, - Và nếu như con Top không tìm thấy các ông và các ông không kịp đến đây thì tôi đã chôn cất ông Cyrus Smith và chính tôi cũng đã chết bên cạnh nấm mồ của ông ấy! Các ông thấy đó, tính mạng của Cyrus Smith treo trên sợi tóc!
Đến đây Nab đã kể lại việc tìm thấy chủ như thế nào. Hôm qua, lúc trời tảng sáng, anh ra khỏi lán tạm và lại đi tìm kiếm dọc theo bờ biển về hướng bắc, đến nơi mà hôm trước anh đã đến... Anh ghé nhìn vào từng hủm giữa các vách đá, chăm chú nhìn trên mặt bãi cát xem có dấu vết nào có thể giúp cho việc tìm kiếm của anh không. Anh xem xét chủ yếu là phần bờ biển không bị ngập nước, bởi vì ở nơi mép nước thủy triều thường lên xuống, nhất định sẽ xóa mất mọi dấu vết. Nab không còn tin rằng sẽ tìm thấy chủ mình con sống. Anh đi tìm xác Cyrus Smith để được tự tay chôn cất ông ta!
Nab cứ tìm mãi. Mọi cố gắng của anh đều không có kết quả. Dường như trên bờ biển hoang vắng này chưa bao giờ có người đặt chân đến cả. Chỗ dải đất gần bờ, nơi thủy triều lên xuống thường xuyên, đầy rẫy hàng triệu vỏ sò, vỏ hến, nhưng không một cái vỏ nào bị giẫm nát...
Thế rồi bỗng nhiên hôm qua, lúc gần năm giờ chiều tôi để ý thấy trên cát có những dấu chân người.
https://thuviensach.vn
- Những dấu chân người? - Pencroff kêu lên.
- Vâng? - Nab khẳng định.
- Thế những dấu chân ấy từ đâu đi tới? Từ những dải đá ngầm lên à? - Nhà báo hỏi.
- Không, chỉ từ mép nước triều trở lên thôi, còn giữa đó và các dải đá ngầm thì chắc là bị nước biển xóa mất rồi.
- Kể tiếp đi, Nab, - Gédéon Spilett nói.
- Khi trông thấy những dấu vết ấy, tôi như phát điên lên. Những dấu vết ấy in hình rất rõ và đi về hướng các đụn cát. Tôi chạy về phía đó; chạy độ một phần tư dặm, cứ bám theo các dấu chân, nhưng cố không giẫm lên chúng. Độ năm phút sau, khi hoàng hôn bắt đầu xuống thì tôi nghe thấy tiếng chó sủa. Đấy là tiếng của con Top. Và chính nó đã dẫn tôi đến đây với ông chủ của tôi.
Rồi Nab kể anh đã đau khổ như thế nào khi nhìn thấy cái xác vô tri vô giác của Cyrus Smith. Anh đã uổng công thử phát hiện những dấu hiệu của sự sống trong cái xác ấy. Anh đã đi tìm cái xác chết, nhưng bây giờ đây, khi tìm thấy rồi, anh lại khao khát đem lại sự sống cho cái xác ấy! Mọi cố gắng của anh đều vô ích. Chỉ còn cách thực hiện nghĩa vụ cuối cùng đối với người mà anh hết lòng yêu quí.
Và khi ấy Nab đã nghĩ đến những người bạn của mình. Có lẽ, họ cũng muốn từ giã người quá cố. Bên cạnh anh có con Top. Lẽ nào lại không trông cậy vào sự sáng trí của một con chó khôn, một người bạn trung thành như thế? Nab đã mấy lần nhắc đến tên của nhà báo: trong số những người
https://thuviensach.vn
bạn đồng hành của chủ, con Top biết rõ Gédéon Spilett hơn cả. Sau đó, Nab chỉ tay về phía nam, thế là con chó phóng đi theo dọc bờ biển về hướng ấy...
Các bạn của Nab đã nhe anh kể với một sự chăm chú căng thẳng. Tuy nhiên, có một điều không thể giải thích được là tại sao trên mình Cyrus Smith lại không bị một vết trầy xước nào, mặc dù ông ấy phải vất vả cật lực mới có thể thoát khỏi những con sóng bạc đầu sôi sục quanh các dải đá ngầm. Và một điều khó hiểu nữa là Cyrus Smith trong tình trạng dở sống dở chết như vậy đã làm thế nào để có thể đi được trên một dặm từ bờ biển đến cái hang ẩn hút giữa các đụn cát?
- Nab này, - nhà báo nói, - thế có nghĩa là không phải cậu đã đưa ông chủ của câu lên đây à?
- Không, không phải tôi, - Nab trả lời.
- Như vậy là ông Cyrus Smith đã tự đến đây - rõ ràng là như vậy, - Pencroff nói.
- Rõ thì rõ rồi, nhưng mà khó tin! - Spilett nhận xét.
Điều khó hiểu này chỉ có riêng Cyrus Smith mới giải đáp được. Cần phải đợi khi nào ông ta nói được hãy hay. May sao, sự sống đã trở lại với ông, ông đã lại ngúc ngắc được hai tay, rồi quay đầu và nói được vài tiếng rời rạc nào đó.
Nab cúi xuống gọi ông, nhưng Cyrus Smith hình như không nghe thấy và, vẫn như cũ, không mở mắt ra. Sự sống đã thức dậy trong ông, ông động đậy được hai tay, nhưng đó là những cử động vô tình, không có ý thức.
https://thuviensach.vn
Pencroff rất tiếc là trong hang không có lửa mà cũng không thể nhóm được lửa, bởi vì khi ra khỏi lán tạm, anh đã quên không mang theo cái mồi lửa làm bằng giẻ, thay nòm, dễ bốc cháy khi đánh lửa bằng hai viên đá lửa. Hóa ra kỹ sư cũng không có diêm, các túi của ông đều rỗng, duy trong túi áo gilê còn nguyên vẹn một chiếc đồng hồ. Sau khi trao đổi với nhau, các bạn của Cyrus Smith đã đi đến nhất trí là phải mau chóng đưa ông về lán tạm.
Nhờ sự săn sóc ân cần của các bạn, Cyrus Smith đã tỉnh lại sớm hơn dự tính. Những giọt nước thấm vào đôi môi khô rang của ông đã có tác dụng tốt. Pencroff đã nảy ra một ý hay là pha thêm vào nước một ít nước thịt ép từ chỗ thức ăn nướng mà anh mang theo đi đường. Harbert chạy ra bờ biển và mang ngoài đó về hai con sò to. Sau khi chế một thứ tựa như hợp dịch, chàng thủy thủ thận trọng rót vào miệng Cyrus Smith vài giọt, và ông ta đã nuốt lấy nuốt để.
Cuối cùng, ông đã mở mắt ra.
- Ngài Smith! Ngài Smith! - Nab gọi.
Cyrus Smith đã nghe thấy. Ông nhìn Nab và Spilett, rồi hai người bạn đồng hành khác của mình - Harbert và chàng thủy thủ, và bắt tay từng người một cách yếu ớt.
Ông lại nói những tiếng rời rạc gì đó, dường như là những tiếng mà ông đã bật ra trong lúc bị ngất xỉu và diễn đạt một ý mà thậm chí lúc ấy cũng đã làm ông không yên tâm. Nhưng bây giờ, những tiếng ấy đã có thể hiểu được:
- Đảo hay đất liền? - Ông khẽ hỏi.
https://thuviensach.vn
- Quan tâm đến chuyện ấy làm gì! - Không kiềm chế nổi, Pencroff kêu lên. - Cốt sao ngài còn sống là được rồi, thưa ngài Smith! Đảo hay đất liền! Rồi ta sẽ biết.
Kỹ sư khẽ gật đầu, đồng ý với anh ta, rồi như thiếp đi.
Gédéon Spilett ở lại trong hang để trông cho Cyrus Smith ngủ, còn ba người kia, theo lời khuyên của nhà báo, đi làm một chiếc cáng để khiêng bệnh nhân về. Chàng thủy thủ cứ nhắc hoài với một vẻ kinh ngạc:
- Đảo hay đất liền? Ông ấy nghĩ như vậy đó, còn bản thân thì thở thoi thóp! Đúng là một con người!
Sau khi leo lên đỉnh cồn, Pencroff và hai người bạn của anh, chẳng có công cụ gì khác hơn ngoài tay mình ra, đã bẻ cành cây làm một cái cáng, lót lá và cỏ lên để Cyrus Smith dễ nằm hơn.
Toàn bộ công việc ấy họ làm mất bốn mươi phút, đến khi chàng thủy thủ, Nab và Harbert quay lại hang với Cyrus Smith mà Spilett không rời một bước thì đã mười giờ sáng.
Cuối cùng, kỹ sư đã tỉnh lại sau một thời gian dài ngất lịm mê man. Trên gương mặt ông trước đó nhợt nhạt như sáp, bây giờ đã thấy ửng hồng. Ông chống khuỷu tay nhổm dậy và nhìn quanh ngơ ngác, như muốn hỏi ông ta đang ở đâu đây.
- Ngài có thể nghe tôi nói được không? - Spilett hỏi - Hay là như vậy sẽ làm ngài mệt quá?
- Anh nói đi, - kỹ sư đáp.
https://thuviensach.vn
- Nhưng theo tôi, nếu ngài Smith được nếm thử món thịt tetras đông thì ngài sẽ nghe ông nói tốt hơn. - Chàng thủy thủ nói. - Mời ngài nếm thử đi, ngài Cyrus Smith. Đây là món thịt tetras đích thực đó. - anh nói thêm và đưa cho Cyrus Smith món thịt đông của mình.
Cyrus Smith ăn mấy miếng nhỏ; còn lại các bạn ông bụng đã đói chia nhau ăn nốt và cảm thấy bữa ăn sáng khá là đạm bạc.
- Không sao - Chàng thủy thủ nói. - Về lán tạm chúng ta sẽ ăn khá hơn... Xin nói để ngài Smith biết là ở phía nam đàng ấy chúng ta có một căn nhà riêng bà phòng, có đệm và bếp lò, còn trong kho thì chúng ta có vài chục chú chim mà Harbert bắt được. Càng đã làm xong, để ngài lại sức một chút, chúng tôi sẽ đưa ngài về phòng ở của chúng ta.
- Cảm ơn, bạn của tôi, - kỹ sư đáp. - Tôi nằm đây một tiếng nữa thôi là có thể lên đường được rồi. Còn bây giờ anh hãy kể đi nào, Spilett.
Nhà báo đã kể lại tất cả những gì đã xảy ra mà Cyrus Smith không thể biết, chuyện khí cầu bị ném lên bờ, có lẽ đây là nơi không có dân, mặc dù vẫn chưa hình dung được nó là đảo hay đất liền; họ đã tạo dựng được một nơi nương trú và bắt đầu đi tìm Cyrus Smith như thế nào; cuối cùng nhờ sự sáng trí của con chó Top trung thành mà họ đã đến được đây...
- Như vậy có nghĩ là không phải các bạn đã tìm thấy tôi ở trên bờ. - Cyrus Smith hỏi bằng một giọng yếu ớt.
- Không, - Gédéon Spilett đáp.
- Và, có nghĩa là không phải các bạn đã đưa tôi vào hang? - Không.
https://thuviensach.vn
- Thế từ dải đá ngầm đến đây có xa không?
- Độ nửa dặm biển, - Pencroff trả lời. - Thưa ngài Smith, ngài lấy làm lạ không biết ngài đã lên được đây bằng cách nào, còn chúng tôi thì lại thấy càng lạ hơn về chuyện ấy!
- Quả thực, lạ quá vậy! - Kỹ sư nhận xét.
Dần dần tươi tỉnh lên, mỗi lúc ông càng thêm hứng thú nghe các bạn mình kể chuyện.
- Vâng, lạ thật đấy, - Pencroff đồng ý. - Thế bây giờ ngài có thể kể lại chuyện gì đã xảy ra với ngài từ sau lúc ngài bị nước cuốn, được không?
Cyrus Smith cố tập trung tư tưởng. Nhưng ông nhớ lại được chẳng bao nhiêu. Ông đã bị hất khỏi lướt khí cầu và chìm sâu dưới nước đến mấy sải. Rồi ông ngoi được lên mặt biển. Trong lúc tranh tối tranh sáng ông nhận thấy bên cạnh mình có một sinh vật nào đó đang vật lộn với sóng. Đấy là con Top đã nhảy xuống để cứu chủ. Khi ngước mắt nhìn lên, Cyrus Smith không thấy khí cầu đâu nữa. Và thế là Cyrus Smith chơi vơi giữa những con sóng sục sôi ở cách bờ nửa dặm biển, ông định lấy hết sức bơi lên. Con Top hỗ trợ chủ bằng cách lấy răng túm vào quần áo chủ dìu đi. Nhưng bỗng một dòng chảy xiết đã cuốn ông về hướng bắc, ở đây một con sóng đã chồm tới và sau nửa giờ vật lộn với sóng ông bị chìm xuống đáy biển theo cả con Top.
Từ khoảnh khắc ấy cho đến giây phút tỉnh lại trong tay những người bạn của mình, ông không còn nhớ gì nữa.
https://thuviensach.vn
- Vậy đúng là sóng biển đã ném ngài lên bờ, - Pencroff nói, - và ngài đã có đủ sức để lên được đây, bởi vì Nab đã tìm thấy những dấu chân của ngài trên cát mà.
- Phải... Đúng là phải như thế... - kỹ sư nói, vẻ tư lự. - Còn các dấu khác trên bờ anh có thấy không?
- Không có lấy một dấu nào khác cả, - nhà báo đáp. - Mà nếu như bỗng nhiên có vị cứu sinh bí ẩn nào đấy đã xuất hiện trong cái giây phút khủng khiếp ấy thì tại sao ông ta lại bỏ mặc kỹ sư sau khi đã cứu kỹ sư thoát khỏi vực thẳm của đại dương?
- Spilett thân mến, anh nói đúng. Nab, nghe đây, - kỹ sư nói thêm, nhìn chằm chặp người hầu của mình. - Có thể là do đau buồn mà đầu óc chú ta lúc ấy bị choáng váng, và chú đã quên mất... Ừ mà không, thật là một ý nghĩ vô lý... Thế những dấu vết ấy vẫn còn nguyên vẹn chứ? - Cyrus Smith hỏi.
- Vâng, một số dấu còn nguyên, - Nab trả lời, - kia, ở bên sườn cồn cát này những dấu vết ấy vẫn còn nguyên, tránh được gió mưa. Còn tất cả những dấu khác thì bão xóa mất rồi.
- Pencroff. - Cyrus Smith nói, - anh lấy giùm đôi giày của tôi thử xem chúng có khớp với những dấu in trên cát không?
Chàng thủy thủ làm theo yêu cầu của kỹ sư; anh cùng với Harbert đi theo Nab đến chỗ những dấu chân còn giữ nguyên trên cát.
Còn lại một mình với ký giả, Cyrus Smith nói:
- Ở đây đã xảy ra điều gì đó không thể cắt nghĩa nổi!
https://thuviensach.vn
- Hoàn toàn không thể giải thích nổi! - Gédéon Spilett thừa nhận.
- Tạm thời ta sẽ không đi sâu vào bất kỳ điều bí ẩn nào, Spilett thân mến. Ta sẽ nói đến chuyện này sau.
Một phút sau Nab và Harbert đã quay lại. Không thể có điều gì nghi ngờ cả: đế giày của Cyrus Smith hoàn toàn khớp với những dấu in còn nguyên vẹn. Vậy là, những dấu vết trên cát là của ngài Cyrus Smith.
- Thế thì tốt lắm, - kỹ sư nói. - Nghĩa là chính tôi kém trí nhớ, mà tôi lại nghi ngờ Nab. Tôi đã đi như một người mộng du, hoàn toàn không ý thức được mình đi đâu. Còn con Top đã đưa tôi đến đây, thì nó đi theo linh cảm của nó. Và chính nó đã cứu tôi thoát khỏi sóng biển đấy. Nào lại đây, Top, lại đây, con chó khôn của ta!
Chàng “điển cẩu” mừng rít lên, chạy bổ đến với chủ. Và, dĩ nhiên, nó đã tha hồ được vuốt ve âu yếm, để thưởng cho sự trung thành của nó.
Bạn đọc hẳn cũng đồng ý rằng không thể giải thích việc cứu Cyrus Smith bằng cách nào khác được và điều vinh dự ấy hoàn toàn thuộc về con chó Top.
Đến gần trưa, Pencroff hỏi kỹ sư xem bây giờ đã có thể đưa ông về nơi nương trú được chưa. Thay vì trả lời, Cyrus Smith lấy nghị lực buộc mình đứng dậy, nhưng lập tức chân ông khuỵu xuống và để khỏi bị ngã ông đã bíu vào vai Pencroff.
- Được rồi, được rồi đấy! - Pencroff nói. - Đưa “xe” lại đây cho ngài kỹ sư!
https://thuviensach.vn
Họ mang chiếc cáng đã được lót bằng rêu và cỏ đến, đặt Cyrus Smith lên và khiêng ông ra bờ biển. Pencroff chịu đầu cáng trước, còn Nab chịu đầu sau.
Từ đây đến lán tạm phải đi mất tám dặm, nhưng vì khiêng bệnh nhân cần đi chậm, không vội vã, và chắc chắn là phải dừng nghỉ thường xuyên, nên họ tính phải sau sáu tiếng đồng hồ mới về đến nơi.
Gió vẫn thổi mạnh như trước, nhưng mưa đã tạnh. Nằm trên cáng, kỹ sư chống khuỷu tay nhổm dậy và nhìn bao quát bờ biển, nhất là thềm đất trên. Ông không thốt ra lời nào, nhưng nhìn một cách chăm chú và, chắc chắn là những đường nét của bờ biển này, cát, vách đá và rừng của nó đã in sâu vào
https://thuviensach.vn
trí nhớ của kỹ sư. Tuy nhiên, chừng hai tiếng sau, bị thấm mệt, ông nằm duỗi người trên cáng và thiếp đi.
Đến năm giờ rưỡi chiều toán cáng thương đã về đến lán tạm.
Mọi người dừng lại, hạ cáng xuống đất. Cyrus Smith không thức giấc - ông ngủ rất say.
Thật là hết sức ngạc nhiên, Pencroff thấy trận bão hoành hành đêm qua đã biến đổi hẳn quang cảnh quen thuộc. Những vụ sụt lở lớn đã xảy ra: trên cát ngổn ngang những tảng đá lớn bị lăn xuống, khắp bờ biển phủ đầy lớp rong biển. Rõ ràng là sóng đã tràn qua hòn đảo nhỏ đập vào tận chân núi đá hoa cương.
Mặt đất ở trước lối vào chỗ ở của họ bị đào xới nát - chắc chắn là những cơn sóng biển mạnh như trời giáng cũng đã ập lên các tảng đá này.
Một điều phỏng đoán khủng khiếp thoáng nảy ra trong đầu Pencroff, và anh đã lao vụt đến lối vào hang. Rồi từ trong đó anh đã chạy ngay ra và đứng lặng đi bên cửa hang, hốt hoảng nhìn các bạn...
Lửa đã bị tắt. Mặt đất ẩm ướt đã biến thành bùn. Miếng giẻ để làm mồi lửa đã biến mất. Biển đã tràn vào tận sâu trong hành lang, mọi thứ trong đó bị đảo lộn hết, bị hư hại hết!
https://thuviensach.vn
CHƯƠNG TÁM
Cyrus Smith lại về với các bạn. - Những ý định của kỹ sư Cyrus Smith. - Săn heo biển. - Làn khói nhiều hứa hẹn.
Chàng thủy thủ thông báo vắn tắt cho Gédéon Spilett, Harbert và Nab biết về tai họa rủi ro đã xảy ra. Vậy nhưng điều rủi ro, mà theo Pencroff, đầy những hậu quả đáng buồn, đã gây cho mọi người những ấn tượng không giống nhau.
Nhà báo chẳng hạn sau khi nghe những lời than vãn của Pencroff, đã trả lời một cách đơn giản:
- Pencroff, anh cứ tin rằng điều ấy ít làm tôi quan tâm nhất. - Nhưng tôi nói với anh rằng chúng ta không còn lửa nữa. - Hừ!
- Và bây giờ không làm sao kiếm được lửa nữa đâu.
- Chuyện vặt vãnh!
- Sao lại nói thế, ông Spilett!...
- Chẳng phải chúng ta đang có Cyrus Smith đó sao? - Nhà báo nói, - Kỹ sư của chúng ta bình yên vô sự mà. Ổng sẽ nghĩ được cách lấy lửa.
https://thuviensach.vn