🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bão Táp Cung Đình - Hoàng Quốc Hải full prc pdf epub azw3 [Tiểu thuyết]
Ebooks
Nhóm Zalo
LỜITÒASOẠN
Báo Bình Định đã từng giới thiệu và được bạn đọc nồng nhiệt chia sẻ tiểu thuyết lịch sử Huyền Trân công chúa. Hy vọng một lần nữa bạn đọc báo Bình Định sẽ có cảm giác thú vị tương tự với Bão táp cung đình.
TỰA
Tôi vốn không có ý định viết gì thêm ngoài những gì đã được trình bày trong sách. Bởi tất cả những ý đồ nghệ thuật, người viết đều bày xếp trong đó cả. Cho nên khi sách đã in rồi, nếu dở cũng không có cách gì biện bác để trở thành hay được. Nếu nó quả thực đã xuôi tai người đọc, hà tất phải dài dòng thêm nữa.
Thế nhưng cứ sau mỗi lần tái bản thì từ các bậc cao niên vào hàng túc nho, cũng nhưng các bậc thiện trí thức ưu thời mẫn thế, đều khích lệ tôi nên hé lộ cho độc giả biết, vì sao tôi viết tiểu thuyết lịch sử. Lại vì sao tôi chọn nhà Trần để viết. Và vì sao tôi không viết theo lối thông sử, lại cắt ngang lịch sử, chọn những thời điểm gay cấn nhất để làm nền cho cốt truyện. Và nữa, các độc giả ít tuổi thì hỏi tôi lấy tài liệu lịch sử ở đâu mà phong phú thế. Tại sao tôi có thể am hiểu đời sống chính trị xã hội cách đây tới bảy, tám trăm năm để có thể tạo dựng lên được gương mặt xã hội thời đó. Tại sao tôi lại biết được cả y phục, ngôn ngữ và phong tục, tập quán thời đó để mô tả… Với các độc giả trong quân đội, khi đọc “Thăng Long nổi giận” thì hỏi tôi dựa vào đâu để có thể dựng lại được cả một mặt trận quy mô như thế. Và với tất cả những mưu mô ác độc của quân thù cũng được phơi bày. Vân vân và v.v…
Vâng, những câu hỏi tưởng như đơn giản nhưng đó lại là một kho vốn liếng cho bất cứ một văn nghiệp nào. Trước khi tường giải, mong bạn đọc hiểu cho: Sức người có hạn, dù lao động chân tay hay trí óc cũng vậy thôi. Tôi vốn không phải người giỏi giang uyên bác gì. Chẳng qua chỉ chịu khó học và hỏi, rồi tích lũy những điều mình đã học đã hỏi được mà cảm thấy có ích vào một kho chứa, nhưng có thể lấy nó ra dùng bất cứ lúc nào. Vậy là vốn liếng tôi đều vay mượn của thiên hạ. Nhiều lúc tôi tự hỏi, phải chăng đây là một duyên nghiệp mà định mệnh đã ưu ái ban cho. Và những gì thuộc về huyền linh vô thức đều do định mệnh chi phối, chứ thực quả tôi cũng không có làm gì hơn một tên “phu chữ”.
Tôi xin được phép không đi vào giải đáp lần lượt từng câu hỏi một, mà chỉ xin bày tỏ đôi điều. Và tin chắc sẽ không làm hài lòng tất thảy quý vị độc giả.
Xin thưa, khi đã viết được văn in báo, in sách, thậm chí tới 5 - 6 đầu sách, tôi vẫn chưa dám nghĩ tới việc viết tiểu thuyết lịch sử. Mặt dù tuổi thơ tôi rất hiếu đọc, đặc biệt là các loại tiểu thuyết lịch sử của cả trong nước và ngoài nước. Các truyện nôm khuyết danh tôi không bỏ cuốn nào, và thuộc khá nhiều. Loại truyện danh nhân văn hóa, hoặc tiểu sử các nhà khoa học cũng nằm trong sưu tập của tôi.
Khi lớn lên, tôi tìm đến các bộ lịch sử như: “Đại Việt thông sử” của Lê Quý Đôn, “Việt sử tiêu án” của Ngô Thời Sỹ, “Lịch triều hiến chương” của Phan Huy Chú, “Việt Nam sử lược” của Trần Trọng Kim, “Đại Việt sử ký toàn thư” của Ngô Sỹ Liên v.v… Đọc chính sử đối chiếu với các tiểu thuyết lịch sử của các nhà từ “Hoàng Lê nhất thống chí” của văn phái họ Ngô, tiếp đến các nhà văn cận hiện đại như Nguyễn Triệu Luật, Ngô Tất Tố, Phan Trần Chúc, Lan Khai, Trúc Khê Ngô Vân Triện, Đào Trinh Nhất, Nguyễn Huy Tưởng, Trần Thanh Mại và sau này là Chu Thiên, Nguyên Hồng, Hoàng Yến, Quỳnh Cư, Thái Vũ, Hoài Anh… Dường như đây là tất cả các tác giả ít nhiều có viết truyện lịch sử của nước ta, kể từ “Hoàng Lê nhất thống chí” ra đời từ cuối thế kỷ 18 tới nay. Con số người viết thể loại này thật quá ít ỏi.
Khát vọng của tôi là muốn mở to đôi mắt nhìn vào quá khứ, thấy được những điều kỳ diệu, và cả những khổ đau xưa cha ông ta đã tạo dựng và nếm trải. Nhưng quá khứ luôn được phủ bởi một lớp sương khói khi thì dày đặc đến mịt mờ, khi thì bảng lảng khiến tôi có thể nhận diện được lịch sử. Và vì vậy, ước vọng của tôi cứ mãi mãi lùi xa.
Có một lần tôi thử làm một nhận xét sau khi đọc hầu như tất cả các tác phẩm tiểu thuyết lịch sử của các nhà. Tôi giật mình nhận thấy, tại sao trải qua các triều đại huy hoàng như Lý - Trần - Lê, mà vẫn chưa có được một bộ tiểu thuyết nào khả dĩ như “Tam quốc”, “Thủy hử”, “Pi-e đại đế”, “Ba chàng lính ngự lâm”, “Aivanhô” v.v… của các nước Trung Hoa, Nga, Pháp, Anh.
Và một điều khinh ngạc nữa là các triều đại với các bậc vua giỏi như Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành… Lý Thái tổ, Lý Thái tông, Lý Thánh tông… Lê Thái tổ, Lê Thánh tông v.v… mà dường như bóng dáng họ đều bặt vắng trên văn đàn, hoặc có được nhắc đến thì cũng đóng vai phụ làm nền cho các danh tướng như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Nguyễn Trãi… lừng lững nổi lên như những chủ thể duy nhất của các triều đại ấy.
Chính những điều đó làm tôi trăn trở, nghĩ suy. Thử hỏi không có Trần Thánh tông, Trần Nhân tông là các bậc vua anh hùng đức độ, giỏi về triết học, văn chương, tài năng quán thế về chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, đoàn kết hết thẩy mọi tầng lớp người trong nước để huy động vào việc chống ngoại xâm, thì dễ gì các bậc tể thần như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật … làm nên nghiệp lớn.
Lại như khi giặc Minh sang xâm lược, nhà trí thức lớn Nguyễn Trãi, sau khi tiễn cha tới ải Nam Quan trở về, còn nằm nghe ngóng tình hình tại một góc thành Đông Quan, thì Lê Lợi đã phất cờ tụ nghĩa trên đất Lam Sơn, nhiều phen làm cho quân thù điêu đứng. Và mãi tới lần thứ hai ra mắt Lê Lợi, Nguyễn Trãi mới dâng “Bình Ngô sách”, mới nhập cuộc.
Ấy thế mà các tác giả văn học và văn học sử, hầu như chỉ viết về trận mạc với vai trò của một số vị tướng. Lại những năm gần đây, khi đánh giá Nguyễn Trãi với thời đại của ông, các nhà sử học mải tôn vinh ông mà quên khuấy mất vai trò của Lê Lợi, người anh hùng số một trong công cuộc đánh giặc Minh tàn bạo - người làm ra lịch sử. Đành rằng như Trần Hưng Đạo là linh hồn, là trụ cột trong cuộc đánh thắng quân xâm lược Nguyên - Mông thế kỷ 13, Nguyễn Trãi là linh hồn của nghĩa quân Lam Sơn trong công cuộc bình định giặc Minh thế kỷ 15.
Ngay cả các bậc đại hùng đại trí ấy, cũng chưa phải là nhân vật duy nhất, là nhân tố duy nhất quyết định chiều hướng phát triển của lịch sử.
Một điều nữa làm tôi trăn trở, rằng dân tộc ta có một quá khứ dựng nước và giữ nước đầy nhọc nhằn và kiêu dũng, không thua kém một dân tộc nào, nhưng sao thế giới biết đến ta quá ít.
Cũng bởi bộ môn tiểu thuyết lịch sử của ta chậm phát triển. Đến nỗi thanh thiếu niên của chúng ta rất thông thạo sử Tầu, sử Ấn, sử Hy - La, sử Anh, sử Pháp v.v… Trong khi đó có sinh viên đại học trả lời phỏng vấn: “Trương Định là tướng Lương Sơn Bạc”, và một hoa hậu trả lời các vị nữ anh hùng dân tộc có: “Hai Bà Trưng và Trưng Trắc, Trưng Nhị”; một thanh niên có bằng tú tài sinh ra và lớn lên tại phố Lý Đạo Thành mà không biết nhân vật này là ai v.v…
Những sự thật đau lòng ấy cứ dần dần thôi thúc tôi phải viết một cái gì đây về lịch sử; để cho con cháu hiểu được cội nguồn, tiên tổ. Ấy vậy mà vẫn chưa dám viết. Bởi tôi thấy sự hiểu biết và đánh giá các thời kỳ lịch sử, cũng như vai trò của các nhân vật lịch sử
trong tôi chưa chín. Nói cho đúng, trình độ tôi chưa với được.
Mãi tới đầu thập niên tám mươi, tôi thường vào công tác phía Nam. Có năm tôi lang thang tại Sài Gòn và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long tới mười tháng. Thấy dân tình có vẻ ngao ngán. Nhiều người bỏ nước ra đi. Những ca, vè đặt ra để phỉ báng lịch sử nhiều hơn là khích lệ mọi người phải vượt lên, khiến tôi nhức nhối.
Các bạn tôi ở Sài Gòn, nhất là tôi có người bạn tâm huyết, học với nhau từ thuở thiếu thời, anh thúc giục tôi, bằng mọi giá phải trở về với cội nguồn văn hóa dân tộc; phải làm một cái gì đấy thật cụ thể … Anh bộc bạch với tôi mọi suy tư của anh về thời cuộc, về truyền thống văn hiến của tổ tiên. Phải nói, anh đã thức dậy trong tôi niềm say mê trở về với nền văn hóa dân tộc. Vì thế, khi “Bão táp cung đình” được in, ngay trong đầu tôi đã có lời đề tặng anh.
Tuy vậy, tôi mới chỉ ráo riết chuẩn bị viết thôi chứ chưa dám bắt tay vào việc.
Duyên may tôi được mời đi dự “Hội thảo về Trần Nhân tông với phái Thiền Trúc lâm”, tổ chức tại Yên Tử - nơi Trần Nhân tông xuất gia tu Phật.
Sau hội thảo này, tôi như được tiếp thêm sức mạnh. Tôi đã lờ mờ nhận ra vai trò của Trần Nhân tông trong lịch sử cũng như trong tôn giáo Việt Nam, nhất là phái Thiền Trúc Lâm.
Nghĩ về phương lược hòa bình của Trần Nhân tông đối với Champa, sau hai cuộc đại thắng giặc Nguyên - Mông 1284 - 1285; 1287 - 1288. Và mối nhân duyên giữa vua Champa Indrvarman III với công chúa Huyền Trân con gái út của ngài, sau gần một năm nhà vua qua thăm Chiêm Thành và điều đình tác hợp. Tôi liền làm một cuộc khảo sát văn hóa - phong tục Champa dọc theo ven biển miền Trung, bắt đầu từ Huế và kết thúc ở Bình Thuận. Qua khảo sát điền dã, kết hợp với các nguồn sử liệu, kể cả huyền thoại, cả những nơi thờ tự hai vị của hai dân tộc Việt - Chăm; lúc về, tôi viết Huyền Trân công chúa.
Nhà xuất bản Thuận Hóa đón nhận bản thảo rất hào hứng, và đưa ngay vào Sài Gòn in luôn 50.000 bản. Số lượng sách sau đó hai tháng đã bán hết. Nhà xuất bản Thuận Hóa đưa về Huế in nối bản 20.000 cuốn nữa mới có sách đưa ra phía Bắc. Chính sự tiếp nhận của bạn đọc đối với tiểu thuyết lịch sử, là sự khích lệ đáng trân trọng khiến tôi lao vào viết tiếp. Tức là viết cuốn “Bão táp cung đình”. Đây là thời kỳ chuyển chính quyền từ Lý sang Trần, và nhà Trần đi vào công cuộc hồi sinh đất nước,để chuẩn bị đối phó với quân Mông Cổ đang tràn sang xâm lược Trung Hoa, và chúng lâm le tiến vào Đại Việt. Tôi thường suy ngẫm về vai trò của nhà chiến lược thiên tài Trần Thủ Độ. Thế nhưng qua sử sách các đời, vẫn coi ông là kẻ tàn bạo, lộng hành và bất trung. Càng nghiền ngẫm, tôi càng thấy không thể đồng tình với các nhà sử gia trung đại. Mặt khác, tôi cũng chờ đợi các nhà lịch sử đương đại phán xét. Nhưng tuyệt nhiên không có một cuộc hội thảo nào, về vai trò của Trần Thủ Độ với vương nghiệp nhà Trần (cho tới trước 1993). Còn với các cuốn sử được viết lại thời nay, tuy không phê phán nặng hơn các sử gia thời trước, song cũng chưa có một đánh giá khả dĩ về nhân vật lịch sử này.
Tôi nghĩ, Trần Thủ Độ đối với nhà Lý tựa như Mạc Đăng Dung đối với nhà Lê. Bởi tới thời điểm lịch sử ấy, hai nhà Lý và Lê đều đã suy đồi tới cực điểm. Song với quan điểm cố chấp, nếu không nói là ngu trung của các sử gia phong kiến, nên đã coi hai nhân vật lịch sử tầm cỡ này như là giặc của nhà Lý và nhà Lê.
Với tấm lòng của kẻ hậu thế, nhìn vào quá khứ với thái độ khách quan, kính cẩn và thận trọng, tôi mạnh dạn viết giai đoạn đầu
của nhà Trần với vai trò chủ chốt của Trần Thủ Độ, mong trả lại sự công bằng cho nhân vật lịch sử cũng như giai đoạn lịch sử này. Tác phẩm viết xong từ năm 1988, nhưng mãi năm 1989 mới in được.
Sau khi tác phẩm ra đời, bạn đọc gần xa không những không phản ứng mà còn đồng tình cổ vũ. Thế là tôi lao vào viết tiếp hai tập “Thăng Long nổi giận”, nói về cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ II (1284-1285). Và “Vương Triều sụp đổ”, phản ánh 60 năm suy thoái rồi sụp đổ của cuối vương triều Trần.
Vậy là tôi đã hoàn thành bộ tiểu thuyết bốn tập về nhà Trần với 2.000 trang in. Đây không phải là bộ tiểu thuyết liên hoàn, bởi như phần trên đã nói, tôi cắt ngang lịch sử, chọn thời điểm gay cấn nhất để làm bối cảnh xã hội của truyện. Tuy nhiên, nếu độc giả đọc cả 4 tập theo thứ tự: “Bão táp cung đình” - “Thăng Long nổi giận” - “Huyền Trân công chúa” - “Vương triều sụp đổ”, sẽ hình dung một cách có hệ thống về triều đại này.
Và nếu như độc giả không có trọn bộ bốn tập, mà chỉ đọc riêng từng tập, vẫn nắm được trọn vẹn giai đoạn lịch sử mà tác phẩm phản ánh.
Cũng có bạn hỏi tôi chọn trường phái nào để viết.
Hiện trên thế giới đang tồn tại nhiều trường phái:
- Có trường phái tôn trọng các sự kiện lịch sử như nó đã xảy ra, trên cơ sở đó hư cấu, cấu trúc để tái tạo lịch sử, dựng lại gương mặt lịch sử như nó có. Và khi đọc, độc giả có cảm nhận: lịch sử là như thế. Điển hình cho trường phái này là Alexis Tolstoi nhà văn Nga, và tác phẩm nổi tiếng của ông là “Pi-e Đại đế”, “Con đường đau khổ”.
- Lại có trường phái không coi trọng sự thật lịch sử. Mà lịch sử chỉ là một cái cớ, để từ đó người nghệ sĩ biểu đạt cái mà mình cần phải biểu đạt. Điển hình cho trường phái này là Alexandre Dumas (cha) với tác phẩm “Les trois mousquetaires” (Ba chàng lính ngự lâm). Ông đã từng tuyên bố: “Qu’est ce que l’histoire? C’est un clou, auquel j’accroche mes tableaux” (Lịch sử là gì? Đó là một cái đinh, ở đó tôi treo móc những bức tranh của tôi).
- Và một trường phái khác cũng khá phổ biến, tức là dựa vào sự thật lịch sử, truyền thuyết lịch sử nhưng viết theo nhãn quan chính trị chính thống của thời đại tác giả. Tác phẩm được xem như có 40% sự thật và 60% hư cấu. Đó là trường hợp tiểu thuyết “Tam quốc chí” của La Quán Trung, được Mao Tôn Cương nhuận sắc theo cùng quan điểm.
- Một trường phái khác là dựa vào các sự thật lịch sử, sự kiện lịch sử rồi làm biến dạng nó đi một cách tự nhiên chủ nghĩa. Các nhân vật được đẩy lên hàng thần thánh hoặc tụt xuống hàng ma quái, yêu nghiệt. Và để cho hấp dẫn, các nhân vật được “chưởng hóa”. Loại tiểu thuyết này có tên là dã sử. Các tiểu thuyết đường rừng của nhà văn Lan Khai thuộc loại đó.
Ở Trung Quốc tiểu thuyết dã sử khá phát triển ví như “Phong Thần”, “Bí mật mả Tào Tháo”, “Mả Khổng Minh”, và hàng loạt tiểu thuyết “Chinh đông”, “Chinh tây” v.v…
- Còn một loại nữa, tuy không đủ sức trở thành trường phái nhưng đã thấy xuất hiện ở nước ta.
Đó là thể loại “Kể chuyện lịch sử”. Trong đó tác giả kể về các nhân vật và các chiến công của họ. Loại truyện này thường từ 30 trang tới 100 trang hoặc 200 trang, gồm nhiều mẩu ghép lại. Về dung lượng cũng như sức dựng truyện, dựng nhân vật chưa đạt tới trình độ tiểu thuyết. Và nó cũng không phát triển được.
Hiện nay loại hình hồi ký và tiểu thuyết lịch sử đang phát triển mạnh trên thế giới, nhất là phương Tây. Như nước Anh chẳng hạn, năm 1993 đã có hơn 1.200 đầu sách văn học viết về lịch sử được xuất bản. Riêng thi hào Byron có 300 đầu sách viết về ông. Nước láng giềng của ta như Trung Quốc, đang ào ạt dựng phim theo tiểu thuyết lịch sử, và hàng loạt các hồi ký của các nhân vật tai mắt của thời đại, đã ra mắt công chúng.
Nhân dân có quyền được thông tin, kể cả thông tin về lịch sử. Đáng tiếc, về mặt này chúng ta làm được quá ít. Còn một số câu hỏi mang tính bếp núc của nghề văn, như làm thế nào để biết phong tục, tập quán, y phục, ngôn ngữ… thời Trần. Đây là một vấn đề không nhỏ, mang tính nghề nghiệp khá lý thú. Tôi sẽ trình bày vào một dịp khác, mong bạn đọc lượng thứ. Nhân đây, xin được tỏ lòng biết ơn, nếu như được các bậc cao minh chỉ giáo cho tác giả những điều còn thiếu sót, hoặc lầm lẫn trong khi viết.
Tác giả chịu ơn độc giả nhiều lắm.
Song càng viết, càng cảm thấy thiếu. Vậy xin mượn lời của một nhà thơ trữ tình nổi tiếng để kết thúc bài tựa này: “Ai rằng vương nghiệp lung lay
Ta thành kính ngược thời gian hoài niệm”.
Hoàng Quốc Hải
Giảng Võ ngày Thân
Tháng Dần năm Đinh Sửu
(7-3-1997)
CHƯƠNG1
Cờ cắm la liệt khắp Hoàng Thành và phố xá. Những lá cờ ngũ hành và cờ phướn màu sắc rực rỡ, không có gió, cứ rũ xuống, nép vào thân cột như những hàng cờ tang. Thăng Long vào hội! Hội mừng đức vua đăng quang[1]. Một ngày hội buồn tẻ chưa từng thấy trong lịch sử hội hè của đất đế đô. Phường phố văng ngắt không một bóng người qua lại. Chỉ thỉnh thoảng có một toán lính tứ sương[2] vác dáo đi tuần lặng lẽ như những bóng ma. Rồi cứ chừng một khắc canh, lại có một đội kỵ binh phi nước đại vút qua đường, làm cuộn lên một lớp bụi mịt mờ, và ném vào cái không khí u tịch của kinh thành những tiếng vó ngựa khua đục đục đều đều, như có hàng trăm chiếc chày gõ nhịp trên sàn gỗ.
Trong hoàng thành, quân thánh dực[3] đứng ken dầy bốn cổng đông - tây -nam- bắc; gươmdáo tuốt trần. Nội điện đèn lồng, bạch lạp thi nhau tỏa sáng giữa ban ngày. Một tờ chiếu vẽ rồng và mây ngũ sắc trải rộng trên mặt án thư phía hữu ngai vàng, có đóng dấu ấn nhà vua.
Trống đăng văn vừa dứt. Quan hàn lâmphụng chỉ[4] cùng với quan hành khiển[5], mặc áo đại trào màu tía biếc kính cẩn nâng tờ chiếu lên. Và quan hàn lâm thị độc[6] bước lên bảy bước, nhìn vào tờ chiếu đọc. Đây là chiếu sách lập Chiêu Thánh, thứ nữ của nhà vua làm hoàng tử, và nhận ngôi báu cha truyền.
Giọng quan hàn lâmthị độc xướng lên với vẻ xúc động. Nhất là ở cái đoạn: “Ta vì đức bạc, không sinh đặng hoàng nam, lại chẳng may mang trọng bệnh. Mệnh ta sớmtối chưa biết thế nào. Nay ta trao ngôi báu cho Chiêu Thánh, mong các khanh hết lòng giúp rập…”. Bá quan nhìn lên chiếc ngai vàng bỏ trống, ai nấy lòng đau như cắt. Dứt lời tuyên đọc, một chiếc kiệu rồng tiến vào, hạ ngay xuống cạnh ngai vàng. Nữ hoàng xúng xính trong bộ triều phục dài rộng quá khổ. Các quan hộ giá tả hữu cúi xuống nâng phẩm phục cho vua nhỏ, và bế nhà vua đặt lên ngai vàng. Đúng lúc nhà vua lắc lắc cái đầu, kêu “Rặm quá!”. Chiếc mũ miện đảo nghiêng rồi rơi bịch xuống thềmđiện. Trời tháng mườise se lạnh mà trán nhà vua lấmtấmmồ hôi.
Yên vị xong, quan thừa chỉ[7] bèn dâng nhà vua tôn hiệu: “Thiên chương hữu đạo”. Triều đình im phăng phắc. Các đại thần đưa mắt rụt rè nhìn về phía điện tiền chỉ huy sứ[8] Trần Thủ Độ. Quan điện tiền vươn mình khỏi chiếc thái sư ỷ, đốc kiếm chạm vào tay ghế lạch cạch khiến các quan xanh cả mắt.
Chiêu Hoàng nhấp nhổm trên ngai vàng tỏ vẻ khó chịu, vì chiếc mũ đội đầu vừa nặng, vừa rộng trống trếnh, và bộ triều phục thùng thình, khiến nhà vua có cảmgiác như bị vướng bẫy. Bỗng có tiếng nói nhỏ từ bức trướng phía sau ngai: “Nữ chúa ngồi yên!” Hệt như một đứa trẻ không thuộc bài, sau khi được nhắc, Chiêu Hoàng ngồi lại ngay ngắn, hai chân co lên, đầu gối bằng bặn, cánh tay khuỳnh ra, hai bàn tay với các ngón tay đan khít vào nhau. Giữa lòng bàn tay kẹp một kim hốt. Chiếc hốt vàng mà nữ chúa kẹp trong lòng tay kia, thường là để nhà vua ghi vào đó, những việc cần bàn bạc hoặc phán quyết, mỗi khi thiết triều. Nhưng với Chiêu Hoàng, nó chỉ là một thứ đồ chơi xấu xí.
Quan điện tiền nhìn về phía quan thái phó Phùng Tá Chu. Phùng Tá Chu bèn đứng bật dậy, hướng về phía ngai vàng vái ba vái rồi phủ phục xuống thềmđiện:
- Muôn tâu thánh thượng, tôn hiệu quốc triều ta mà quan thừa chỉ vừa dâng, thần thấy rất hợp, chẳng hay tôn ý của bệ hạ thế nào? - Ngẩng nhìn nữ chúa, thấy nhà vua dường như không để ý gì đến việc triều thần đang bàn luận, Phùng Tá Chu nói tiếp: - Theo thiển ý của hạ thần, để tỏ lòng hiếu kính với thượng hoàng, triều đình ta cứ dùng tôn hiệu Kiến Gia của tiền triều cho hết năm.
Lui về chỗ ngồi, quan thái phó thầm nghĩ: “Quan thừa chỉ đúng là một người văn học thâm viễn. Chỉ riêng việc ông dâng tôn hiệu, cũng đủ nói lên cái tâmvà cái chí của ông: Thiên chương hữu đạo - Rõ là ông muốn chấn hưng nhà Lý. Muốn Chiêu Hoàng nữ chúa phải theo đúng con đường của vua mở nghiệp. Quả thật, nối tiếp mấy triều gần đây đã đi trệch con đường chính rồi. Cao tôn vô đạo sa vào mê lộ. Hamxây cất cung điện, đền đài, đình tạ, vắt kiệt sức dân. Thường nămmất mùa. Dân phiêu bạt đi kiếmăn, chết đói, chết rét chật đường chật quán. Nhà vua thì suốt đêm yến tiệc. Tai thích nghe nhạc Chàm ảo não. Mắt thích ngắm những lầu cao, cao mãi. Cung nữ từng bầy, vẫn không thôi tuyển lựa. Cha nào con nấy, hèn gì Huệ tôn chẳng đi vào con đường ngu tối. Triều chính đổ nát. Đời suy. Đạo mờ. Con giết cha. Bầy tôi lập bè lập đảng chống lại vua. Giặc giã nổi khắp nơi. Ra khỏi kinh thành mười dặm đã là đất giặc. Cơ nghiệp nhà Lý thập phần nghiêng ngả.
Khó lắm! Khó lắm!…”
Lá màn phía sau ngai vàng lại lay động. Nữ chúa Chiêu Hoàng như giật thột, đứng phắt lên ngai, cầmchiếc hốt huơ lên rồi phất tay áo thụng, miệng lắp bắp chưa nói được thành lời.
Triều thần đang còn ngơ ngác, thì quan điện súy đô áp nha thống chế[9] chạy xộc vào thềm điện, tay cầm tấm hỏa bài của tốp lính viễn thám, vừa chạy theo đường ngựa trạmbáo về. Quan điện súy xá Trần Thủ Độ một xá rồi dâng tấmhỏa bài. Quan điện chỉ huy sứ sức lực cường tráng, quắc mắt nhìn vào tấmhỏa bài, chữ viết to như quả trứng ngỗng. Ngài lẩmnhẩmđọc: TẶC ĐÁO BỒ ĐỀ[10].
Một vài vị tò mò liếc nhìn tấm hỏa bài. Trần Thủ Độ liền xoay mặt có chữ úp xuống rồi nói lớn: “Các quan không về phủ đệ còn ở đây làmgì?”. Bá quan vội tản ra. Còn nữ chúa được các quan cận thị thự lục cục[11]đỡ vào hậu điện.
Quan điện tiền chỉ huy sứ, sắc mặt không hề thay đổi, ông sai lấy ngựa và tự mình ra chỉ huy việc cản giặc.
(1) Đăng quang: Lễ lên ngôi vua.
(2) Tứ sương: Quân canh gác bốn cửa thành
(3) Quân thánh dực: Quân trực tiếp bảo vệ nhà vua mỗi khi xa giá ra ngoài cung.
(4) Phụng chỉ: chức quan văn chuyên thảo các văn bản cho vua như chiếu, chế, cáo, sắc…
(5) Hành khiển: chức quan văn đứng đầu hành khiển ty. Chức này đứng thứ hai sau tể tướng. Theo chế độ cũ của nhà Lý chỉ cho các trung gian (quan hoạn) giữ chức này.
(6) Hàn lâmthị độc: chứa quan văn phụ trách việc tuyên cáo các sắc chỉ, lệnh…của vua ban.
(7) Thừa chỉ: Chức quan văn ở Hàn lâmviện.
(8) Điện tiền chỉ huy sứ: Chức quan võ chỉ huy các sắc lính bảo vệ vua và kinh thành, cùng đội quân trực thuộc triều đình.
(9) Chức quan chỉ huy bảo vệ kinh thành đứng sau điện tiền chỉ huy sứ. (10) Chữ Hán có nghĩa là: Giặc đến Bồ Đề.
(11) Chức quan hầu cận nội điện.
CHƯƠNG2
Từ bữa Trần Thủ Độ ép phải kí vào chiếu nhường ngôi cho tới nay, Huệ tôn thấy trong người vẫn tỉnh. Chính vì tỉnh táo suy nghĩ, nên nhà vua càng không thể nào hiểu được tạisao người ta cứ bắt ngài phải nhường ngôi cho Chiêu Thánh? Tội nghiệp, con bé mới bảy, támtuổi, còn chưa biết hỉ mũi đã phải làmvua. Ngài đã nói tới bã bọt mép, rằng phải có truyền ngôi cho con gái, thà bắt con Thuận Thiên, trưởng nữ của nhà vua còn hơn. Nó vừa có sức vóc, vừa nhiều tuổi hơn; vả lại nó cũng võ vẽ đọc được dăm ba chữ, chứ con Chiêu Thánh đã học hành gì đâu. Hoặc giả ngài cũng tỏ ý muốn truyền ngôi cho một người cháu họ, không những người ta không thuận, mà nghe đâu họ đã đemthằng bé đi biệt tích. Chắc hẳn chúng nó trầmhà thằng bé mất rồi. Trời, thế là ta đã giết cháu ta! Cái mặt cảmu uất cứ bámriết lấy tâmtrí nhà vua, khiến ngài thấy đầu óc nặng nề quá. Để bớt phần bức bối, nhà vua cố gượng dậy đi dạo trong khuôn viên. Và cũng thử xem Trần Thủ Độ có phái tay chân đến rình mò? Nhìn khắp bốn bề đều vắng lặng, Huệ tôn liền ghé vào bụi tầm xuân, thổ lộ những điều mà bấy lâu ngài mang nặng như kết thành một khối ở trong ruột, trong gan. Nhà vua thì thầm: “Ôi cái bụi tầmxuân này. Ta chỉ có tin mày mới không phản ta thôi. Thân xác ta sao thống khổ thế này. Chẳng biết vận số cát hung ra sao mà cái năm Đinh sửu (1217), cái năm ta mới có hăm mươi ba tuổi đầu, đã mắc phải chứng loạn tâm. Mặc dù tới nay ta đã bình phục, nhưng chú cháu nhà Trần Lý nó cứ phao ngôn rằng ta đã mất trí. Ngay cả con mụ vợ ta nó cũng không tin rằng ta đã dứt bệnh. Cha con chú cháu nó giam hãm ta suốt ngày trong cung cấm. Cận thần tâm phúc của ta, nó đầy, nó đổi đi viễn sứ. Nô tì tin cẩn của ta, phần thì nó giết, phần nó bắt đi khẩn đất miền biên viễn. Chúng nó chặt hết chân tay, tai mắt của ta. Ta thật chẳng khác gì Hán Hiến đế bị Tào Tháo lộng hành, áp chế. Nhưng Hiến đế còn hơn ta nhiều lắm. Bởi ông ta còn có bầy tôi tâmphúc, nghĩsuy về sự nghiệp của nhà Hán, và cũng đôi ba lần khởisự, tuy việc chẳng thành … Còn nhà Lý ta, từ khi Thái tổ được quần thần khuông phò lên ngôi, kế tiếp nhiều đời đã làm cho dân giàu nước mạnh. Mặt Bắc, nhà Tống phải nể phục, không dám càn dỡ. Mặt Nam thì Chân Lạp, Chiêm Thành phải sợ oai nạp cống. Các quan trong triều ngoài nội, nối đời ăn lộc nhà Lý, mà sao không có được lấy một người tâm phúc với ta. Chẳng lẻ tất cả bọn họ đều là phường giá áo túi cơm, úy tử tham sinh? Chẳng lẽ tất cả đều về hùa với chú cháu thằng thuyền chài[1] để hãm hại cha con ta, mưu toan soán đoạt?…”. Huệ tôn xúc động, nước mắt chảy ròng ròng trên hai gò má hơi cao. Thân xác héo khô gầy guộc, mặt mũi hốc hác, râu tóc bơ phờ, nomHuệ tôn không ai có thể ngờ đó lại là một trang nam nhi ba chục tuổi. Chẳng bù với Trần Thủ Độ, ông ta chỉ hơn nhà vua có một tuổi, mà sao sinh lực tràn trề, uy dũng tỏ ra hơn đời nhiều lắm. Chính nhà vua cũng có ý như né tránh ông ta.
Lấy chéo áo lau khô khuôn mặt khắc khổ, hai tay chống gối toan đứng lên, bỗng từ phía bên kia bụi tầm xuân có tiếng sột soạt rồi có người từ đó bước ra, nhà vua hoa mắt, chân tay bủn rủn không thể nào lê nổi bước chân. Bỗng người đó tới trước nhà vua sụp lạy: - Muôn tâu bệ hạ, con đã nghe hết mọi điều mà bệ hạ nói với bụi tầmxuân.
Không nén được giận dữ, Huệ tôn thu toàn lực vụt đứng lên, ngài rút chiếc dép giơ thẳng cánh némvào giữa mặt ả thị tì, và mắng: - Đồ nghiệt súc! Ta căm ghét lũ ngươi. Ở đâu các người cũng rình rập, nghe ngóng. Ngươi cút xéo đi mà tâu với cha con chú cháu thằng thuyền chài!
Cũng may mà thị nữ đã né đầu tránh được. Nàng loay hoay tìmlại chiếc dép đưa cho nhà vua, và khép nép nói: - Tâu bệ hạ, kẻ tôi đòi này chỉ mong có dịp được bệ hạ sai khiến, chứ không có tâmđịa nào hại bệ hạ.
Nhà vua có phần bình tâm, ngài hỏi:
- Vậy chứ kẻ nào sai mi đến đây do thám?
- Trình bệ hạ, chẳng hay bệ hạ có nhớ quan thừa chỉ?
- A, lũ ngươi giảo quyệt. Thằng thuyền chàisai ngươi đến đây để dụ ta vào bẫy hả? - Nhà vua chồm dậy giơ bàn tay yếu ớt của mình lên định tát vào mặt thị nữ. Bàn tay ấy lại từ từ buông thõng xuống. Nhà vua thở dài ảo nảo, tuồng như tất cả ý chí và sức lực của ngài đều trút qua hơi thở.
Thị nữ không cầm được nước mắt. Nàng cũng bối rối, chỉ sợ có ai trông thấy cảnh này, thì vua tôi khó mà toàn vẹn. Chợt lóe trong óc nàng một điều gì đấy, khiến nàng hoạt bát hẳn lên. Nàng tiến lên nửa bước, ghé sát tai nhà vua nói:
- Quan thừa chỉ dặn con, nếu có cơ hội, bệ hạ nên sớm dứt bỏ chốn cung cấm thâm nghiêm này. Xin bệ hạ hãy tỏ ra thối chí, xuất gia tại một ngôi chùa nào đó trong kinh thành. Các bầy tôi trung thành với bệ hạ, vẫn đang chờ thánh chỉ để mưu việc lớn. Nói xong, thị nữ bèn dâng lên Lý Huệ tôn một chiếc quạt. Đó là chiếc quạt mà nhà vua đã ban cho quan thừa chỉ. Nhà vua nhận ra chiếc quạt của mình và nhớ lại tất cả. Ngài hỏi:
- Ngươi với quan thừa chỉ có thân thích gì không?
- Tâu bệ hạ, mẹ con là con nuôi của quan thừa chỉ. Mẹ con con chịu trọng ân của đức ngài. Dù việc con làm có phải gan nát óc lầy, cũng chưa dễ gì báo đền được ơn phúc đó.
- Ngươi có được hoàng hậu tin cẩn không?
- Bẩm hoàng thượng, hoàng hậu không nghi ngờ gì con. Nhưng chắc con không thuộc loại tâm phúc như những chị quê ở Long Hưng[2], ở Tức Mạc[3]
Nhà vua gật đầu. Một thoáng cân nhắc, ngài hỏi:
- Ngươi có thấy quan điện tiền hay ra vào cung hoàng hậu bàn tính gì không? - Nhà vua phải hạ mình đi hỏi một thị nữ, về chuyện riêng của hoàng gia, quả thật là đau lòng. Bởi mấy năm nay nhà vua không được điều hành việc triều chính. Tất cả công việc đều thâu tóm trong tay Trần Tự Khánh, anh ruột của hoàng hậu Trần Thị Dung. Từ năm ngoái, (Quí Mùi - 1223) Trần Tự Khánh chết, quyền hành ấy được chuyển sang Trần Thủ Độ, emhọ y - Anh emnhà nó ép ta phải ốm. Chúng bắt ta phải ký vào chiếu do chúng thảo sẵn, để chúng lừa bịp triều đình và sai khiến trămhọ.
Chúng giam hãm ta tại một căn nhà ẩn mãi phía sau nội điện, bốn mặt tường cao, hào sâu, lính canh nghiêm cẩn. Ngay việc ta đi lại thămhỏi các con ta, chúng cũng cản trở. Thật sự chúng biến ta thành một tên tù.
Ngẫmnghĩ giây lát, thị nữ bèn tâu:
- Trình bệ hạ, quả là quan điện tiền Trần Thủ Độ có năng lui tới cung hoàng hậu. Nhưng các bậc bề trên bàn tính chuyện gì thì kẻ hầu hạ chúng con không được biết. Lưỡng lự một thoáng, thị nữ lại tiếp:
- Tâu bệ hạ, người có nhắn bảo gì quan thừa chỉ, con sẽ thưa lại. Quan thừa chỉ có nhờ tâu cùng bệ hạ rằng: “Người gắng giữ gìn tấm thân muôn quí, để còn lo việc lớn cho thiên hạ. Bêï hạ nhất nhất không được tỏ lộ một điều gì khinh xuất, bởi gia nhân và tai mắt họ Trần
nhan nhản đầy triều”.
Nhìn về phía non Tản, mặt trời ánh lên một màu tímsẫm, thị nữ chắp tay vái nhà vua ba vái, rồi nói:
- Lạy trình bệ hạ, mặt trời đã gác núi phía tây, xin bệ hạ kíp trở về hậu điện kẻo quân canh nghi ngờ.
Nhà vua chợt hỏi:
- Vậy chớ bao giờ thì ngươi lại gặp ta?
- Tâu bệ hạ. Con không được phép vãng lai vào khu hậu điện. Xin cũng cứ vào giờ này thi thoảng bệ hạ dạo chơi quanh đây, nếu có tin tức gì con sẽ tìm cách bẩm báo để bệ hạ tỏ tường - Xin bái biệt. Nói xong thị nữ vái dài rồi vụt biến mất, khiến Huệ tôn ngơ ngác, vì chưa kịp hỏi tên nàng.
Trở lại căn nhà vắng lặng như chốn mồ hoang, Huệ tôn sắp phải dùng bữa cơm chiều đạm bạc, thường do một tên lính tốt đưa vào. Nhìn mâmcơm, nhà vua không nén nổi cơn giận, bèn gọi tên lính quát mắng:
- Kẻ kia, về nói với chủ mày tàn ác vừa vừa chứ, không thì chết cả ba họ chúng bay đấy. Tiếc thay ta không nghe lời mẫu hậu, để cho cái dòng họ khố rách áo ômnhà chúng mày lọt vào triều đình, để đến bây giờ chúng mày tác yêu, tác quái. Tên lính tốt nhìn lại mâm cơm vua, bây giờ nó mới nhận ra là sơ sài đạm bạc quá. Thật chẳng hơn gì bữa cơm lính. Nhưng biết làm thế nào, nó là lính chỉ biết tuân theo lệnh của người trên. Nó còn được quan đô áp dặn, nếu nhà vua có thét mắng hoặc hờn dỗi không ăn thì cứ việc trả lời: “Khắp nơi loạn lạc, triều đình không thu được thuế. Dân trong nước chết đói gần hết rồi. Nay mai quân giặc sắp ùa vào kinh thành. Đến gạo hẩm, cơm tấm cũng chẳng có mà ăn”. Tuy đã được quan đô áp căn dặn, tên lính tốt cũng không dám hé răng cãi lại nhà vua. Trái lại, nó còn thấy nhen lên một cái gì đó ở trong lòng, như là sự thương cảm ở tình người. Nó chỉ thương ông vua mất hết quyền bính, thân phận như một tên tù.
Đuổi tên lính và bắt nó bê cả mâm cơm đi rồi, nhà vua nằm thở. Bây giờ ngài mới thấy thấm mệt. Vừa đói, vừa mệt, nghĩ lại lời quan thừa chỉ dặn, nhà vua thấy hối hận: “Việc ta mắng nhiếc những kẻ họ Trần kia, quả là khinh xuất. Kẻ kia sẽ ra sức tìm cách ám hại những bầy tôi còn trung thành với nhà Lý”.
Đêm phủ lên kinh thành một màu huyền đục. Bốn bề im lặng. Tiếng chó sủa thưa dần. Tiếng dế, tiếng trùng bật lên rền rĩ như tiếng những oan hồn than khóc. Đĩa đèn của nhà vua ngọn bấc đang lập lòe, ông biết dầu đã cạn. Nhà vua nghiến răng như muốn nghiền nát kẻ nghịch thần bạo ngược. “Ykhông cho ta lấy một người thiếp hoặc một tên nô để sai khiến. Đến dầu thắp, y cũng chỉ phát cho ta từng đêm. Mà cũng chỉ đến giờ này là lụi bấc. Chao ôi, đạo vua tôi đến thế là cùng! Lại còn con mụ vợ ta nữa. Gần một nămnay mụ không còn đoái tưởng gì đến ta. Quyền bính trong hoàng gia một tay mụ thâu tóm. Quyền hành nơi triều chính do em mụ thống lĩnh. Ta ngu tối vì quá tin kẻ ngoại tộc, đến nỗi trở thành trò cười cho chúng nó. Chị em nhà mụ lúc nào cũng cặp kè với nhau. Bên ngoài, chúng che dấu dưới những điều to lớn như việc nước, việc nhà. Kỳ thự bên trong thì chúng tư thông với nhau. Nghĩ tới đây, nhà vua rùng mình ghê tởm, ngài vội nhắm mắt lại, miệng nam mô niệm Phật. Vì chính ngài không dám tin rằng, con người ta dám làm những điều luân thường bại lý như vậy. Ngọn bấc chợt bừng sáng lên rồi phụt tắt. Đúng lúc, ngoài chòi quan điểm ba tiếng trống sang canh. Tuy căm tức nhưng Huệ tôn thầmkhen cho tên rót dầu thật là tài, và tên lính đánh trống cũng thật đúng giờ. Vì đêmnào cũng vậy, cứ vào lúc ngọn bấc phụt tắt là trống sang canh ngoài hoàng thành lại điểm.”
Bình tâm, nhà vua nhớ lại cuộc gặp giữa ngài với quan điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ, không lâu trước ngày đức vua bị bức phải ký vào chiếu nhường ngôi.
Bữa đó trời nóng, nhà vua cởi trần, ngồi đánh cờ một mình. Vì gần một nămnay, Huệ tôn không được ló ra ngoài, không được tiếp xúc với ai, kể cả vợ con. Buồn đến nẫu ruột, tưởng như chứng loạn tâm lại tái phát, nhà vua phải bầy ra chuyện giải khuây, bằng cách đánh cờ. Cuộc cờ đã gần mãn, rút vào thế. Một bên là tốt nhập cung, chỉ cần thọc một nước xe nách là bên kia hết cờ. Một bên chịu nước xe lệch. Nhà vua đang mãi mê lo cho thế cuộc đôi bên, thì Trần Thủ Độ xộc vào. Ông bước đi hùng dũng, thanh trường kiếmđeo trễ một bên hông. Nhà vua chợt ngửng lên. Thủ Độ lướt nhanh trên bàn cờ, rồi nhìn thẳng vào khuôn mặt nhợt nhạt của Lý Huệ tôn, ông nói:
- Tâu bệ hạ, tàn cuộc rồi, đánh ván khác thôi!
Huệ tôn nén giận đáp lời qua giọng nói run run:
- Chẳng cần đánh thì nhà ngươi cũng thắng ta rồi.
- Vậy là bệ hạ đã nắmđược cái nhẽ mạnh, yếu ở đời. Tôi xin đi thẳng vào việc.
- Ngươi cứ nói.
Huệ tôn vẫn ngồi trên chiếc giường sơn then, mắt lơ đãng ngắmnhìn vài chiếc quân ngà lạc lõng, kỳ thực tâmtrí nhà vua đang rất lao lung, không biết Trần Thủ Độ sắp bày đặt chuyện gì đây.
Thủ Độ hết nhìn nhà vua lại nhìn ra ngoài vòmtrời chói chang nắng gắt. Ông đi đi lại lại quanh gian nhà hẹp, như đang bồn chồn chờ đón một điều gì. Đoạn ông đứng lại trước nhà vua, nói:
- Bệ hạ biết đấy. Vận nhà Lý hết rồi!
Huệ tôn giật bắn người, nhà vua tưởng như dứt lời nói ấy, Thủ Độ sẽ rút thanh trường kiếm chém bổ lên đầu ngài. Nhưng không, ông ta vẫn thảng nhiên đứng đó, tay khoanh trước ngực. Phút imlặng nặng nề đầy hămdọa hơn cả quãng đời tai biến mà nhà vua đã trải. Đức vua chợt nhìn nhanh ra dẻo sân rồi lại ngước lên vòmnhà, chợt thấy một con tò vò đang vo vo giẫy dụa trong chiếc mạng nhện. Huệ tôn thầmnghĩ đến cảnh ngộ mình.
Tự trấn tĩnh giây lát, Huệ tôn lên tiếng:
- Vậy chớ khanh muốn gì ở ta? Mà lúc này ngươi muốn gì chẳng được, kể cả cái đầu ta.
Trần Thủ Độ nhếch mép cười:
- Bệ hạ quá lời. Hẳn ngài đã biết từ cái thuở chạy loạn Quách Bốc[4] rồi từ ấy tới nay, cánh họ Trần chúng tôi đã vì nhà vua mà tiêu hao điền sản. Gia nhân chúng tôi và cả cha chú chúng tôi cũng hiến dâng tính mạng để giữ cho cái ngai vàng của bệ hạ được vững. - Điều ấy ta biết, nhưng tiếc thay các ngươi làm những việc ấy vì sự bành trướng thế lực của họ Trần chứ không phải vì ta, vì trăm họ. - Huệ tôn vừa nói vừa liếc nhìn thanh trường kiếmnơi hông Trần Thủ Độ.
- Cha con, bác cháu, anh em nhà chúng tôi dốc hết tài sản và sản nghiệp khuông phò bệ hạ, nhưng phải thừa nhận một điều rằng bệ hạ bất tài, nên không thâu tómđược triều đình, bệ hạ cũng mỏng đức nên không sai khiến được thiên hạ. Thay trời chăn dân, bệ hạ để cho trăm họ ta thán, nguyền rủa. Đất nước yên bình hàng trăm năm mà đi về phía nào cũng thấy cảnh
tiêu điều hoang phiếu. Ngả nào cũng có người chết đói, chết dịch bệnh. Từ đời Cao tông tới nay, dân chết đói quá nửa rồi. Bây giờ thì không chỉ đói, rét, bệnh tật, mà còn giặc cướp, loạn lạc nổi lên như muỗi, như ruồi. Bệ hạ thử đoái nhìn sớ tấu các nơi gửi về triều đình xem, có nơi nào không có giặc? Đông, tây, nam, bắc các nẻo đều nổi dậy chống lại bệ hạ. Không xa xôi gì, ngay cửa ngõ kinh thành đây, Nguyễn Nộn cũng hùng cứ, sớm tối đánh vào cửa khuyết lúc nào không hay. Mấy phen y đã đem quân tới Bồ Đề, nếu tôi không sớm ra tay, hẳn là thành tan, ngói vỡ, ngai vàng sụp đổ từ lâu rồi.
Trần Thủ Độ ngừng lời, chợt thấy mặt nhà vua xám ngoét, mồ hôi toát trắng cả ngực, cả lưng, chảy thành dòng, ướt đen cả vùng cạp quần. Chợt trong lòng viên tướng nảy ra một ý nghĩ mơ hồ, ái ngại. Trần Thủ Độ tự biết việc đối xử với nhà vua như vậy là bạo ngược. Giá Huệ tôn là một người thủ đoạn, sắc sảo mưu toan chống lại ông và diệt vây cánh của ông, cũng như thế lực của họ Trần thì lại đi một nhẽ. Đằng này ông ta nhu nhược, chấp thuận …Chợt Trần Thủ Độ ngửng phắt đầu lên, tay nắmchặt đốc kiếm. Dường như ông ta làmnhư thế là để dứt khoát với chính mình, chặn đứng cái lối nhân theo kiểu đàn bà. Thủ Độ tự nhủ: “Nếu lúc này còn chần chừ là mất hết cơ hội. Khi mà Đoàn Thượng, Nguyễn Nộn hai thế lực kình chống triều đình lớn nhất liên kết lại với nhau được, thì không những cơ đồ nhà Lý sụp đổ, mà vây cánh họ Trần cũng không có đất để chôn”.
Hành động của Trần Thủ Độ khiến Lý Huệ tôn không còn hồn vía. Nhà vua co rúmngười lại, miệng lắp bắp: - Ta muốn gặp lại các con. Ta chưa hề xử tệ với ông. Ta mong ông hãy gia ân. Dù sao…
Lời van vỉ của Huệ tôn khiến Trần Thủ Độ bừng tỉnh hẳn. Nhìn tấm thân gầy guộc, khuôn mặt sầu héo toát lên vẻ ươn hèn ngu tối của một đấng quân vương, lòng viên tướng dấy lên nỗi khinh ghét, tởmlợm. Một ý nghĩ thoáng nhanh trong óc ông: “Đứng đầu một dân tộc quật cường như Đại Việt mà là kẻ ngu hèn kia sao? Tiếc thay cả dòng họ nhà ta đi khuông phò một tên vô lại”. Đoạn ông nói, lời nói rành rõ như một lời khuyến cáo, lời huấn dụ mà cũng là lời tâmsự thốt lên từ đáy lòng ông:
- Đất nước ngàn cân treo sợi tóc. Bên ngoài người Tống ráo riết nhòmngó. Bên trong bè đảng nổi lên. Mỗi kẻ trấn trị một phương, cái họa nồi da xáo thịt chỉ là sớm tối. Dân tình đói khổ, rên xiết vì nạn sưu cao thuế nặng của triều đình. Nạn cướp bóc, nạn ức hiếp của giặc giã và bọn hào lý trùmlên đámcùng đinh. Phải lấy non sông xã tắc làmtrọng.
Nói tới đây, Trần Thủ Độ liếc nhìn Lý Huệ tôn, rồi ông nói tiếp: - Bệ hạ phải thoái vị!
Huệ tôn tuy đã lường trước được việc này, nhưng ông không ngờ nó lại xảy ra sớm thế, khiến ông bủn rủn cả tay chân, miệng há hốc, mặt trắng bệnh như sáp, nhưng không thốt ra được một lời, như kẻ chết không kịp ngáp.
-Vậy ý bệ hạ thế nào? - Trần Thủ Độ gặng hỏi.
-Ýông là ý ta. Việc phải làmthế nào thì ông cứ thế mà làm. Có điều ta muốn biết, aisẽ thay ta? Ông hay Nguyễn Nộn? - Nhà vua nghĩ quẩn! - Trần Thủ Độ giậm chân thét lớn. - Nguyễn Nộn là giặc của triều đình, bệ hạ coi tôi như một tên giặc hiếp vua? Quá đáng, quá đáng!
Lý Huệ tôn thật sự lúng túng, ông cũng không biết nói thế nào cho hợp ý quan điện tiền. Giây lâu, ông tiếp: - Hay ta bắt chước người xưa, nhường thiên hạ cho ông? - Huệ tôn ngừng lời để dò biết ý tứ Trần Thủ Độ. - Nhà vua chưa đủ tư cách của một người hiền để làm việc đó. Thiên hạ không phải của riêng bệ hạ mà muốn cho hay giữ thế nào cũng được. Ngày xưa nhà Lý thay thế nhà Lê là thuận lòng dân, hợp với ý trời. Lý Thái tổ là người mở nghiệp huy hoàng đã đưa non
sông Đại Việt lên đài vinh quang chói lọi. Công ấy, sử sách muôn đời cháu con ghi nhớ. Nhưng hiện tình nhà Lý rối rắm quá, còn nát hơn cả nhà Lê trước nữa. Trên khuôn tranh thảm đạm như vậy, bệ hạ định treo một tấm gương gì? Lịch sử là chân thực nhưng sòng phẳng, không thể chơi trò điêu sảo, mập mờ được đâu. Nói xong, Trần Thủ Độ cườisằng sặc, khiến Lý Huệ tôn càng hoang mang khiếp sợ. Với giọng bạc nhược, nhà vua nói:
- Ta thật sự không biết làmgì trong lúc này, mong ông hết lòng giúp ta.
Trần Thủ Độ bèn thò tay qua tấm áo tía đại trào, nơi thêu cái đầu hổ phù trước ngực, rút ra một tờ chiếu thảo sẵn. Đọc xong, nhà vua thất kinh hỏi:
- “Sách lập Chiêu Thánh làm hoàng thái tử”. Lạ quá! Lạ quá! Biến hoàng nữ thành hoàng nam, trong đời ta chưa từng thấy, mà lịch sử các đời cũng chưa từng có.
Trần Thủ Độ cười khẩy:
- Chúng ta là những người làm ra lịch sử, bệ hạ thử xét xem, trước bệ hạ đã có triều đại nào, chỉ hai cha con kế tiếp trị vì thiên hạ, đã biến đổi được một dân tộc hùng anh như Đại Việt này thành một lũ ăn mày. Cũng chỉ trong vòng mấy chục nămcha con bệ hạ đã tiêu diệt tới nửa số dân của mình bằng đói kém, dịch bệnh. Nếu bệ hạ tiếp tục nắm giữ ngôi trời, tôi tin với tài năng và trí tuệ của bệ hạ, chẳng bao lâu bệ hạ sẽ hoàn tất sứ mệnh diệt chủng!
- Sao khanh quá nặng lời. Chẳng qua chỉ tại tiên đế hammải các thú vui, còn ta thì bệnh tật dày vò…
Với lòng khinh bỉ, Trần Thủ Độ rút chiếc bút lông thỏ đã quết son gàisau búi tóc đưa cho nhà vua.
Lý Huệ tôn xăng xái rót vào chén trà vài giọt nước xấp xấp ngọn bút lông, ông xoay xoay tờ chiếu rồi nắn nót viết ba chữ tên mình. Đoạn ông đẩy tờ giấy ra xa rồi lẩm nhẩm đọc lại lời văn, và ông dừng lại rất lâu nơi ba chữ ký, tuồng như ông có vẻ mãn nguyện vì vừa làmđược một việc độc nhất có ích trong đời…
Vừa đói, vừa mệt, vừa chập chờn hãisợ, Huệ tôn chìmmình vào giấc ngủ muộn.
(1). Họ Trần xuất thân từ nghề đánh cá ở vùng biển NamĐịnh, Thái Bình, Huệ tôn gọi với ý khinh miệt.
(2), (3). hai miền đất khi nhà Trần dời từ Chí Linh về để lập nghiệp. Phủ Long Hưng thời Trần nay là huyện Hưng Hà - Thái Bình. Tức Mạc nay là đất ngoại thành NamĐịnh.
(4). Tháng 7 năm Kỷ tỵ (1209), Cao tôn giết Bỉnh Di vô tội. Bộ tướng của Bỉnh Di là Quách Bốc phá cửa Đại thành đánh thẳng vào cung, lập hoàng tử Thầm em ruột Huệ tôn lên làm vua. Huệ tôn phải chạy loạn về thôn Lưu Gia, phủ Long Hưng, gặp nhà Trần phò giúp từ đây.
CHƯƠNG3
Tới buổi thiết triều thứ ba thì Chiêu Hoàng không chịu nổi. Cô bé támtuổi bậmmôi ứa nước mắt bắt đền mẹ: - Mẫu hậu ơi, sao cữu cữu ác thế, cứ bắt con phải làm vua. Con đã bảo để chị Thuận Thiên chị ấy làm có được không? - Có phải chị thích làmvua không chị Thuận Thiên? Chiêu Hoàng ngoái về phía Thuận Thiên hỏi:
- Ai bảo với Chiêu Thánh chị thích làm vua? Chị ứ thèm làm vua. Chị chúa ghét mấy cái ông quan áo thụng, râu dài, răng rụng, mồm mómcứ quỳ mọp dưới chân emlảmnhảmcái gì như một lũ ma ấy.
Thái hậu băn khoăn không biết nói thế nào, cho đứa con yêu của bà, hiểu được những điều phức tạp trong triều đình, cũng như trong gia cảnh hiện nay. Con bé hóm hỉnh, thông tuệ, nhưng tính tình hay cáu gắt, hờn dỗi thất thường, chứ không được thuần phác như con chị.
Bà cũng không hiểu tại sao trọng trách quốc gia lại đem đặt lên vai một đứa bé. Vậy là từ nay, ngoài việc dỗ dành Chiêu Thánh ưng thuận với ngôi trời, bà còn phải uốn nắn đưa dần con vào khuôn phép học hành, để mai sau con còn đủ trí khôn và chữ nghĩa mà sai khiến triều đình, chăn dắt trămhọ.
Không thấy mẹ nói gì, Chiêu Hoàng níu sã một bên vai bà xuống nũng nịu:
- Từ mai con ứ đội cái thứ mũ miện ấy nữa đâu, nó như một cái thúng úp chụp xuống đầu, che kín cả mắt, chẳng nhìn thấy cái gì. Lại còn đôi hia nữa chứ, xỏ chân vào hia cứ như bị cùm ấy, đi thì không nhất nổi chân, ngồi thì nó chọc vào khoeo sứt cả da. Này, này mẫu hậu coi xem- Vừa nói Chiêu Hoàng vừa vén váy lên, hai vết đỏ bầmrớmmáu kéo dàisuốt hai bên khoeo chân Chiêu Thánh, làmbà xót xa.
Để con gái bé bỏng của bà quên đi cái công việc bó buộc nó phải làm, bà bầy trò chơi cho các con. Thoạt đầu là trò chơi ô ăn quan. Chỉ một lúc sau, các con bà đã biết cách chơi và hai chị em chúng vừa trò chuyện, vừa chơi với nhau rí ráu như hai con thỏ non. Hoàng thái hậu bèn gọi mấy thị nữ vào chơi hầu hai chị em Thuận Thiên. Cho đến lúc gần tàn ván chơi, tức là mỗi bên đã chiếm gần hết số “nhà”, và cuộc chơi đi đến chỗ tranh chấp được thua. Vào cái phút trót ấy Chiêu Hoàng nhất định không chịu chơi nữa. Mặc dù Thuận Thiên bằng lòng trả lại các ô đã chiếm được của Chiêu Thánh, mà không bắt Chiêu Thánh phải bỏ ra một ô nào đã chiếm được của mình. Nhưng Chiêu Thánh quyết bỏ cuộc. Thuận Thiên dỗ em:
- Hay là hai chị emmình chơi lại từ đầu, chị cho Chiêu Thánh đi trước.
- Em đã bảo em không thích chơi. Bắt đầu thì vui đấy. Nhưng tàn cuộc thì chán lắm. Eo ơi, em cứ nghĩ các ô kia kìa, nó y hệt như các ngôi nhà mình đang ở, nhưng nó tan hoang hết, có người đếùn chiếm hết, rồi của cải, quân hầu cũng bị người ta chiếm nốt. Mọi sự đều trống rỗng, vắng ngắt, buồn teo như lúc mặt trời lặn. Em sợ cái cảnh như thế lắm, chị Thuận Thiên ơi. Từ rày đừng bao giờ chị rủ em chơi ô ăn quan nữa. Này nhé, chị có thấy không, các nhà dân kẹp giữa hai nhà quan. Đi đầu nào cũng phải qua cửa quan, phải cống. Trời, lúc chị chưa hốt mất hai cái ô quan đầy chất đống ấy đi, sao mà em ghét thế chứ. Là vì em cứ nghĩ đến mấy ông quan ở triều đình, giả vờ giả vịt cúi đầu, quỳ gối, nhưng rồi cũng bắt chẹt dân phải cống như trò chị emmình chơi đấy.
Chiêu Hoàng vươn vai ngáp dài rồi nói bâng quơ:
- Sao mà buồn thế nhỉ?
Lại quay về phía Thuận Thiên, Chiêu Hoàng gặng hỏi:
- Chị làmvua hộ emnhá.
- Chịu thôi, đã bảo chị không thích, đừng có đùn cho chị.
- Hay là chị cứ nhận giúp em vài ngày cũng được, bao giờ khỏi chân, em lại làm. Eo ôi, chân em thế này, ngày mai lại phải mang hia thì chết mất. Nhìn vào mắt chị, Chiêu Hoàng thấy vẻ ngập ngừng, bèn nài nỉ - Thế chị có thương emkhông, chị Thuận Thiên? Bà Trần Thị Dung thấy các con đùn đẩy ngôi trời, coi ngai vàng không bằng mấy cái vỏ hến, lòng bà dấy lên bao nỗi xót đau. Trong khi con bà coi việc nắmgiữ ngôi báu như là một thứ tai họa, thì thiên hà đang chémgiết nhau tơi bời hầu mong chiếmđoạt. Ngay dòng họ Trần cũng đang chạy đua với họ Đoàn(1), họ Nguyễn(2) và hàng trămtên đầu mục khác. Có điều chính bà, một đương kimhoàng thái hậu cũng không tài nào hiểu nổi, rằng Trần Thủ Độ, cậu em họ bà lại gạt phắt cái ý của nhà vua muốn truyền ngôi cho thằng cháu họ. Hoặc nếu lập con gái làm hoàng nam để truyền ngôi, thì Huệ tôn cũng muốn truyền cho Thuận Thiên. Thế nhưng cậu ấy không nghe. Cứ nhất mực bắt nhà vua phải trao ngôi báu cho Chiêu Thánh. Gặng hỏi mãi, cậu ấy chỉ nói:
“Tôi làm việc này vì dân vì nước, vì mẹ con chị, vì cả dòng họ Trần nhà ta nữa. Tôi tuyệt nhiên không mưu lợi ích cho riêng mình. Nhưng nhiều người không hiểu, họ nguyền rủa tôi, trong đó có vợ chồng chị. Tôi biết, họ coi tôi như một kẻ lộng hành, bức bách nhà vua, soán đoạt ngôi trời. Ôi, tôi chán ngấy cái triều đình nhà chị lắm rồi …” Cậu ấy là một người kiệt hiệt, nhưng lại có tính hờn mát như đàn bà. Lòng bà ngổn ngang trăm mối. Gần một năm nay, cậu ấy không cho ba mẹ con lai vãng tới thăm nhà vua. Lấy cớ rằng nhà vua hoàn toàn mất trí. Mỗi khi lên cơn thường hành hung những kẻ hầu hạ, đàn bà trẻ con đến gần e mang họa. Nghe đâu cậu ấy mới gọi được một ông lang người Tống, hèo tay lắm. Mà bệnh tình nhà vua vài bữa nay có phần bơn bớt. Được cái ngày nào cậu ấy cũng ghé thămmấy mẹ con.
Chiêu Hoàng vẫn ngồi rầu rĩ với vẻ mặt cầu khẩn Thuận Thiên, thái hậu bèn dỗ:
- Nếu con đau chân chưa đi được, ta sẽ xin với quan điện tiền cho con nghỉ thiết triều ít ngày. Việc triều đình sẽ nhờ cậu con cáng đáng.
- Nếu khỏi chân rồi, con không ra thiết triều nữa có được không, mẫu hậu?
Thái hậu nghiêmmặt nói:
- Đây là việc lớn của quốc gia. Phụ hoàng con chẳng may lâm bệnh, ta lại không sinh đặng hoàng nam, con phải thay phụ hoàng giữ gìn ngôi báu, sao cho dòng họ Lý nhà ta muôn năm trường trị. Nay con còn nhỏ chưa hiểu được nhẽ lý ở đời, chưa tự mình quyết được việc gì. Cho nên các việc bên trong hoàng gia và hoàng tộc, từ nay sẽ tự ta quyết định lấy. Còn các việc bên ngoài, ta phó mặc cho quốc cữu điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ trông coi. Vì quốc cữu, vừa là quan đầu triều, lại vừa là người thân tín trong nhà.
Mặc dù thái hậu có coi Chiêu Hoàng như một người thông tuệ, một đấng quân chủ, mà giáo huấn những điều trọng yếu nhất, có quan hệ đến sự mất còn của nhà Lý, và sự thịnh suy của nước nhà, cũng không vì thế mà vị vua trẻ này có thể hiểu được, và khuây lãng được nỗi ấm ức thường ngày của một đứa bé tám tuổi. Nét mặt con bà vẫn nhăn nhó, rầu héo như một cái cây có sâu. Bà âu yếm kéo Chiêu Thánh vào lòng, dỗ dành, trò chuyện. Mãi một lúc lâu sau, khi thấy thái hậu sai lũ nô tì đi kiếm bộ que chuyền về, để bà dạy vua
nhỏ chơi cái trò chơi của lũ trẻ con dân dã, Chiêu Thánh mới he hé cười. Khi lũ thị nữ lấy về một bó que trúc đằng ngà, chúng cắt cắt xén xén cho các que thật bằng bặn, và chọn lấy mười que đẹp nhất cùng một viên đất rắn gọt tròn, to bằng trái chanh dâng lên thái hậu, Chiêu Hoàng ngơ ngác không biết đó là trò chơi gì.
Để con gái ngồi đối diện với mình, xung quanh là bọn thị nữ quây quần, thái hậu bắt đầu chơi chuyền. Khi bàn tay với những ngón tay búp măng thon dài, trắng đẹp của bà rải que chuyền vàng óng, que nọ cách que kia đều tăm tắp, mắt Chiêu Thánh vụt sáng, tròng mắt mở to ra như chờ đón một điều gì vui lắmsắp đến gần. Thật ra không phải chỉ có Chiêu Thánh vui mừng, mà khi quả cầu đất tung lên, chính thái hậu cũng thấy lòng mình reo vui. Hình ảnh cô gái làng Ngừ(3) cái thuở mười lăm mười sáu tuổi, chiều chiều thường tha thẩn chơi với đám trẻ chăn trâu cùng tuổi đánh chắt đánh chuyền trên những gò, bãi xanh ngắt vụt thức dậy trong bà. Mặt thái hậu hơi ửng hồng, thoắt bà đã leo qua từ bàn một đến bàn mười và đang chuyền. Quả cầu tung lên, bó que chuyền nằm gọn trong tay, đôi mắt sáng như hai viên ngọc long lanh, bà vừa xoay trở hai đầu bó que vừa bắt lại quả cầu và lại tung, lại xoay, lại đập đập hai đầu bó que xuống đất nhịp với lời hát:
Đập xuống đất.
Cất tay lên.
Xoay ống nhổ.
Đổ tay chuyền.
Chuyền chuyền một
Đủ một đôi.
Chuyền chuyền….
Lời hát như không bao giờ ngừng. Trò chơi thu hút Chiêu Thánh ngay lập tức. Vua sà vào lòng mẹ, bắt lấy quả cầu đất, vơ lấy bó que chuyền và rải ra một cách vụng về. Bà thái hậu đỡ lấy bó que, dạy con chơi từ từ. Chiêu Thánh lúc đầu còn lóng ngóng, tới khi vừa tung cầu vừa bắt được một que, liền thích thú tung cả bó và quả cầu lên rồi reo hò ầmĩ. Bó que tản mác tung tóe, riêng hòn cái vỡ tan vụn như ai cầm chiếc chén sành ném thật mạnh vào bức tường đá. Cặp má Chiêu Thánh đỏ nhừ, mắt anh ánh chớp. Đám thị nữ tranh nhau đi làm hòn cái khác. Một loáng đã có hai ba hòn đất mài gọt nhẵn nhụi. Mặt Chiêu Thánh lại tươi tỉnh mỉm cười. Chẳng mấy chốc Chiêu Thánh đã đánh xong bàn một, và đang lõm bõm tập bàn hai. Nắm tay nhỏ nhắn rải bó que còn lộn xộn, ríu lại vào nhau, nên chỉ chọn được một, hai que là đã bắt cặp nhíp tới ba, bốn que. Trò chơi hấp dẫn đã tạo cho Chiêu Thánh một đức kiên nhẫn đến lạ lùng. Bà Thái hậu nhìn con chơi mà lòng vui chấp chới. Nhớ cái thuở cách đây chừng mười ba, mười bốn năm, bọn con gái cũng túm tụm chơi với nhau ngoài bãi thả trâu như thế này. Ngày ấy, nhà vua còn là hoàng thái tử Sảm, lánh giặc về vùng Long Hưng. Một bữa thái tử rình xem bọn con gái làng Ngừ đánh chuyền. Rồi thái tử nhất quyết chọn cô Trần Thị Dung con nhà Trần Lý, phú hào của vùng đất anh kiệt này để đưa về triều hầu thái tử. Thái hậu đưa hai bàn tay lên che mặt, khẽ rùng mình. Như nỗisợ hãi từ cái thuở tiến kinh vẫn còn ámảnh bà. Thái hậu vui hẳn lên khi thấy các con bà túmtụmchơi với bọn tì nữ. Chiêu Thánh mải miết tập đánh chuyền. Bà nghe rõ con gái bà đếm…
Que mốt.
Que mai.
Con trai.
Con hến.
Con nhện.
Giăng tơ.
Quả mơ.
Quả táo.
Cái gáo.
Lên đôi …
=====
1. Đoàn Thượng chiếmgiữ vùng châu Hồng (mạn Hưng Yên, Hải Dương ngày nay) chống lại triều đình. 2. Nguyễn Nộn chiếmcứ vùng Bắc Giang (gồmcả Bắc Ninh - Bắc Giang ngày nay) kình chống nhà Lý.
1. Làng Ngừ có tên chữ là Phù Ngừ, thời Trần nằm trong tổng Tống Sinh huyện Ngự Thiên, phủ Long Hưng. Phù Ngừ xưa, nay thuộc đất các làng Ngừ, Lại (thuộc xã Liên Hiệp) và làng Tề (nay thuộc xã Phúc Khánh) huyện Hưng Hà, Thái Bình.
CHƯƠNG4
Vào một buổi sớm tháng Chạp, Thăng Long còn uể oải như người ốm lâu ngày chưa hồi sức, lại bị dìm trong bể mù dày đặc, khiến nó có bộ mặt hư ảo. Trần Thủ Độ xúng xính trong bộ áo thụng ngồi trước nhà bái đường trong dinh phủ của ông, chờ Hoàng tiên sinh thức giấc. Thủ Độ là một quan võ. Uy ông trùm lên cả triều đình. Nhưng ông là người biết giữ lễ với kẻ sĩ. Khó khăn lắm ông mới mời được Hoàng tiên sinh về làmmôn khách nhà ông. Ông trọng tiên sinh như một bậc quốc sĩ, bậc thầy, một vị quân sư tin cậy.
Tiên sinh không phải là người xuất thân từ khoa bảng. Nhưng sức học của ông đến các bậc tôn trưởng, bậc tăng thống cũng phải ngưỡng mộ. Sinh ra và lớn lên vào thời buổi nhố nhăng, ông quyết giữ mình, giữ đạo cho trong sạch. Thương dân, ông đã đôi lần dâng sớ hạch tội bọn dối vua hại nước, và cả kế sách chấn hưng quốc gia dân tộc, nhưng không được nhà vua đáp ứng. Cao tôn vô đạo, ngày càng dấn sâu vào các thú vui đọa lạc. Cuộc sống của nhà vua cực kỳ xa phí. Trong khi liền mấy năm mất mùa, dân đói chết ngợp đường, nhưng mức thuế, sưu không hề khoan giảm. Giận bởi bậc quân trưởng ngu dốt, tham bẩn, và cũng biết vận số nhà Lý đã hết, ông lên núi dựng lều đọc sách. Sống chung lẫn với lâm tuyền, thảo mộc và muông thú, ông thấy yên tâm hơn là sống giữa cái xã hội nhầy nhụa với bầy thú đội lớp người.
Bữa nọ, Trần Thủ Độ cải dạng làmmột người đi hái thuốc, đột ngột ra mắt ông. Sau một hồi quanh co về những phương thuốc trường sinh, và những kiến thức kém cỏi về Đạo đức kinh của Lão Tử, mà ông không mấy hiểu biết. Hoàng tiên sinh nhìn thẳng vào mắt Trần Thủ Độ hỏi:
- Có phải ông đang có một âmmưu lớn? Ông đang cần một vị quân sư?
Trần Thủ Độ lặng lẽ sụp lễ tiên sinh hai lễ, thú nhận:
- Quả là tiên sinh có con mắt xét đời của các bậc thánh. Từ ngày lệnh huynh tôi: Thái úy phụ chính Trần Tự Khánh mất đi, nhà vua liền đặt trọng trách đó lên vai tôi. Tự thấy bất tài, kém đức mà ngồi trên thiên hạ có khác nào ngồi trên tổ kiến lửa. Sớm tối chưa biết ra sao. Mà trong nước giặc giã, trộm cướp, đói kém làm cho người dân trăm bề điêu háo, không biết làm thế nào để ổn cố được tình hình. Phạm vào chốn rừng sâu, làm kinh động đến cuộc sống yên bình của tiên sinh, kẻ phàm tục này vô cùng đắc tội. Xin tiên sinh rộng lòng tha thứ. Mà nếu tiên sinh không chê kẻ này là hèn kém, bỉ lậu xin tiên sinh xuống núi giúp đời, trị nước, chỉ bảo cho lũ chúng tôi thấy đường sáng, bỏ đường tối.
Khách vừa dứt lời, chủ cười khanh khách mà rằng:
- Thì ra núi thái sơn ở trước mặt mà tôi không biết. Ông chính là quan điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ? Chắc quan ông đang đi tìm một cao sĩ nào lạc bước tới chốn lều tranh của kẻ tiều phu này, dámxin quan ông tha tội.
Lời qua tiếng lại, chủ khách đều tỏ ra khiêmnhường.
Trần Thủ Độ hết lòng cung kính, nài gạn mãi, Hoàng tiên sinh mới chịu nói:
- Tôi trộm được ít kiến thức của thiên hạ, sao dám lạm dụng vào việc lớn quốc gia. Vả lại trước quan ông, Đoàn Thượng, Nguyễn Nộn cũng có qua đây mời gọi. (Nghe nói cả Thượng và Nộn tới cầu trước mình, Trần Thủ Độ hơi biến sắc mặt). Tiên sinh lại chậm rãi tiếp lời: -
Cũng may các ông ấy đã sớm nhận ra tôi là kẻ bất tài, yếm thế nên bỏ đi ngay. Gia dĩ tôi đã tự hẹn với mình, thà cùng mục nát với cỏ cây còn hơn là thờ một đức vua điên. Huệ tôn vô học, lại mất trí từ năm hăm ba tuổi tới nay, vì thế ngài đã biến cả quốc gia này thành một lũ ăn mày, một lũ ma đói, nay mai hẳn Đại Việt ta sẽ trở thành một quốc gia điên. Ha ha ha…!
Cuộc hội kiến lần đầu giữa Trần Thủ Độ với Hoàng tiên sinh không dẫn đến một kết cục nào. Nhưng tiên sinh cũng chỉ dẫn cho quan điện tiền vài đối sách, mà Trần Thủ Độ cho là những lời chỉ giáo sâu sắc. Ông vẫn giữ tấm lòng ái mộ tiên sinh, và đi lại tới non nửa năm trời, tiên sinh mới chịu xuống núi về làm môn khách của họ Trần. Tiên sinh khảng khái từ chối mọi chức tước của triều đình mà Trần Thủ Độ có đôi lần ngỏ ý.
Trần Thủ Độ, từ khi được Hoàng tiên sinh như hổ mọc thêm cánh, nên càng kính trọng tiên sinh và thờ ông như một bậc thầy. Thường thì tiên sinh nghiên cứu về y lý, dược lý. Có khi tiên sinh đi chữa bệnh, hái thuốc dăm ba ngày với một tên tiểu đồng. Các công việc mà Trần Thủ Độ nhờ ông giúp chỉ là những việc gay cấn ở trong triều, ngoài các trấn, lỵ, sở và vùng biên ải. Khi không quyết được, hoặc đã quyết như thế nào, ông điều hỏi ý tiên sinh.
Sương mù nhạt dần rồi loãng ra, đã trông rõ cả hàng cột và mái ngói dãy xuyên đường. Trong nhà, tiên sinh vẫn còn ngon giấc. Cả tiểu đồng cũng chưa dậy quạt lò pha trà sớmcho tiên sinh. Chừng sốt ruột, Trần Thủ Độ dấn thêmvài bước nữa vào phía nhà hậu đường. Ngay trước cửa ra vào, đôi câu đối giấy mà tiên sinh treo còn khi ở lều tranh, nay được treo vào hai cột bức bàn của gian giữa. Quan điện tiền đã đôi ba lần ngỏ ý xin tiên sinh cho khảmđôi câu đối ấy, đều bị từ chối. Tiên sinh nói:
- Tôi như cánh chim trời, nay đây mai đó, không thích tính chuyện lâu bền. Vả lại cứ để thế cho tiện. Lỡ khi tôi không còn ưa nữa, lật mặt sau viết được đôi khác, thích hơn, lại đỡ tốn phí.
Trần Thủ Độ lẩmnhẩmđọc một vế:
CHU ĐẠI NHO MỖI TẦM KHỔNG, NHAN LẠC XỨ
Và vế bên kia:
ĐÀO XỬ SĨ TẠI VỊ HY- HOÀNGTHƯỢNGNHÂN (1)
Thật ra thì quan điện tiền không hiểu nghĩa câu đối này. Nhưng ông cảmnhận được nó là một biểu hiện cao thượng, nếu không nói là khinh bạc của bậc cư sĩ (2).
Mãi tới lúc trời sáng rõ, Trần Thủ Độ mới nhận ra nơi cửa ngách đã mở. Ở đây có lối thông ra vườn thuốc. Đúng lúc có tiếng thầy trò Hoàng tiên sinh í ới phía ngoài vườn. Quan điện tiền vừa định đi ra lối vườn thuốc, đã thấy tiên sinh đi về phía cầu ao, ngài còn ngoái lại dặn tiểu đồng: “Con nhớ múc nước tới rửa hết sương cho mấy luống tamthất”.
Rửa chân tay xong, ông vào nhà thay áo, rồi ra mở cửa chính. Chợt trông thấy Trần Thủ Độ ngồi chờ trên kỷ phía nhà bái đường, ông giật mình lên tiếng:
- Chẳng hay có điều gì mà quan ông ghé chơisớmthế?
Tiến lại phía nhà hậu đường, Thủ Độ nghiêng mình xá Hoàng tiên sinh rồi hai người cùng vào nhà. Hoàng tiên sinh vừa gọi tiểu đồng pha trà vừa nói:
- Có mấy luống tam thất, tôi đã dặn thằng nhỏ từ mấy bữa trước trời sắp có sương muối, phải che chắn. Nó che sơ sài quá. Đêm qua sương xuống nặng. Sớmnay thầy trò phải che lại, rồi tưới để rửa lá, không thì hỏng hết.
- Thưa tiên sinh, chẳng hay loài thuốc này công dụng thế nào mà tiên sinh phải nhọc sức làmvậy?
- Đây là một loại thuốc cực quí. Tôi trồng thử không chắc đã được. Loài cây này khó tính lắm. Nó ưa ẩm thoáng nhưng phải râm mát. Vả lại cũng lâu được thu hoạch lắm.
- Liệu có tới một vài nămkhông, thưa tiên sinh?
- Một vài năm là thế nào. Bảy năm đấy, quan ông ạ. Tam thất, tức là tam chi thất diệp. Nghĩa là mỗi cây đều có ba nhánh. Mỗi nhánh một nămrụng một lá. Bảy lần rụng lá được một lứa.
- Kỳ công quá, thưa tiên sinh. Vậy chứ ở nước ta vùng nào sản được loại cây này?
- Nhiều nhất vẫn là vùng Quảng Nguyên. Trước đây khi còn ở trong rừng, tôi đã trồng thử. Củ cũng to, đanh. Phẩm lượng tốt không kémtamthất Quảng Nguyên. Dạ tốt hơn của Trung Quốc nhiều chứ ạ. Chỉ tiếc rằng người mình không chịu trồng. Thấy nói bảy năm mới thu hoạch một lứa, Trần Thủ Độ đã khấp khởi mừng thầm. Vậy là ít nhất tiên sinh cũng dừng chân tại soái phủ của ông qua một vụ tam thất. Và như vậy, ông sẽ cậy nhờ nơi tiên sinh biết bao công việc. Ông biết, kẻ sĩ không gì có thể kìm giữ họ được. Uy vũ ư, không bao giờ khuất phục nổi họ. Danh vọng, phú quí chăng, họ coi không bằng chiếc dép cỏ. Điều bọn người này khả dĩ chấp nhận, ấy là lòng chân thực và sự tôn kính đối với họ. Trần Thủ Độ rất biết chỗ mạnh yếu của kẻ sĩ, cũng như ông biết khá rõ sự lố bịch của những kẻ nắm quyền lực trong tay. Cho nên mối quan hệ của ông với Hoàng tiên sinh, là mối quan hệ trong sáng như một tòa lâu đài dựng thuần bằng kính. Phải giữ gìn cẩn trọng lắm mới được, nếu không sẽ tan vỡ như chơi. Mà những mảnh kính khi vỡ không phải không gây chết người.
Ông đến gặp tiên sinh hôm nay không có chuyện gì gấp gáp. Nhưng thật khó nói. Vì đã hai mươi tháng chạp rồi, ông muốn biện một cái lễ để đưa về gia hương của tiên sinh, gọi là chút ơn tri ngộ.
Cầm chén nước nóng trong tay, do đích thân Hoàng tiên sinh đưa mời, Trần Thủ Độ thoáng thấy mùi thơm của kim cúc vương trong hương trà. Ông từ tốn hụm từng hụm nhỏ, trong chiếc chén vốn đã nhỏ như cái hạt mít. Ngay cả việc nhỏ ấy, ông cũng phải tự kiềm chế để tiên sinh khỏi phật ý. Xuất thân từ nghề chài lưới, sông nước, quen ăn sóng nói gió thô cằn. Học hành ít. Vốn liếng chữ nghĩa không đủ để được bài văn khấn. Nay lại nghiễm nhiên giữ chức quan đầu triều, Trần Thủ Độ biết mình chỉ có sở trường cầm quân đánh dẹp, còn mưu lược trị nước, sai khiến thiên hạ, thu phục kẻ sĩ ông lại rất lơ mơ, giống như một kẻ mù lòa nghênh ngang đi giữa chợ. Vừa toan cất tiếng nói với tiên sinh một điều gì đấy, quan điện tiền chợt dừng cặp mắt của mình nơi đôi liễn viết chữ rất chân phương, treo trên cột áp tường ngay phía sau chiếc tủ chè. Quan ông lẩmnhẩmđọc từng chữ:
TRI TÚC TÂM THƯỜNGLẠC
VÔ CẦU TỰ PHẨM CAO(3)
Trần Thủ Độ hiểu được nội dung của các chữ trên. Ông có cảm giác như mỗi chữ kia đều là một cái khóa, khóa miệng ông lại. Nhưng con người quyết đoán của ông, không dễ chùn bước. Ông nói liền một thôi, Hoàng tiên sinh cười đáp lễ: - Quan ông chu đáo quá, tôi vốn quen sống trong thanh bạch. Vả lại hai thân tôi đều khuất núi. Nội tướng tôi cũng là người cần kiệm
lại giữ nếp nhà, nên tư biện cũng sơ sài, không dámphiền đến quan ông.
Trần Thủ Độ cứ gặng đi gặng lại mãi, cuối cùng Hoàng tiên sinh miễn cưỡng chấp thuận, nhưng ông đòi xemnhững thứ mà quan điện tiền có nhã ý biếu tặng ông, nhân sắp đón tân niên. Trần Thủ Độ bèn mời tiên sinh sang “Cung Thủy tĩnh”, nơi chỉ dành riêng cho ông nghỉ ngơi, sau những giờ phút làmviệc căng thẳng ở triều đình. Trước cửa cung đã chực sẵn nămcỗ xe song mã và một tốp lính áp tải.
Trần Thủ Độ mở những vuông nhiều điều phủ kín các mâm lễ. Thoạt đầu là mâm bánh dầy, bánh cốm. Mâm thứ hai gồm có năm tấm vóc, năm tấm gấm. Mâm thứ ba có năm tấm vải, năm tấn lụa sồi. Mâm thứ tư, chất đầy tiền đồng. Mâm thứ năm gồm một trăm đĩnh bạc, hai chục nén vàng.
Sau khi xem xong lễ vật, Hoàng tiên sinh không hề lộ nét vui buồn trên sắc mặt. Ông quay lại vái Trần Thủ Độ hai vái, gọi là đáp lễ. Trần Thủ Độ toan cho gia nhân bê ra xe, chở đi. Nhưng tiên sinh đã kịp ngăn lại.
- Quan ông đối với tôi thật là ưu hậu. Một kẻ sĩ như tôi, không bằng cấp, không chức tước, mà được một người thay mặt triều đình cư xử như một bậc quốc sĩ. Tôi dù có lấy da ngựa bọc thây, cũng không trả được cái ơn tri ngộ này. Lễ vật, coi như tôi đã nhận đủ, chỉ xin gửi lại quan ông số tiền cùng vàng bạc kia vào kho của nhà nước, để chi dùng các việc khác. Tôi biết, của cải đây là của riêng quan ông, nhưng tôi muốn được góp phần mình vào công quỹ quốc gia, trong lúc ngân khố nhà nước đang cạn kiệt. Cả cái mâm gấm vóc kia, cũng xin gởi lại quan ông. Không, tôi không dám chê gấm vóc. Ở đời có ai không thích ăn ngon, mặc đẹp. Nhưng như người xưa đã dạy: “Y phục xứng kỳ đức”. Có nghĩa rằng quần áo phải tương xứng với đức độ mà con người đó có được. Quan ông đừng ép tôi phải nhận, cái thứ mà tôi cũng như gia nhân tôi không có quyền được hưởng. Tôi hiểu, luật pháp đều do nơi tay quan ông quyết định. Nhưng nên nhớ rằng, ta còn đang sống dưới triều đại nhà Lý, phải tuân theo luật pháp nhà Lý. Từ năm Canh thìn (1040), Lý Thái tôn đã ban hành luật: các quan từ ngũ phẩm trở lên mới được mặc gấm, còn vóc từ tứ phẩm trở lên mới được mặc. Lại cái màu tía kia, phải là các bậc từ tước hầu trở lên mới được mặc.
Nhìn gương mặt Trần Thủ Độ đanh lại, rõ ràng trong bụng ông ta đang suy nghĩ một điều gì gay cấn. Tiên sinh lựa lời nói thêm: - Trong buổi nhiễu nhương giao thời này, luật pháp cần phải nghiêm từ người đứng đầu nhà nước trở đi, ngõ hầu mới khôi phục lại được kỷ cương, lễ luật.
Đành phải nhượng bộ tiên sinh, nhưng Trần Thủ Độ hậm hực cho rằng “bọn sĩ phu thuần là một lũ ngốc, đói rách mặc kệ, cứ khư khư giữ lấy cái thứ đạo lý ương gàn”.
Dường như nhìn thấu cả gan ruột Trần Thủ Độ, một con người độc đoán đến tàn bạo mà phải nhất nhất nhượng bộ, Hoàng tiên sinh ôn tồn nói:
- Nếu sớm nay, quan ông không có việc gì cần kíp lắm, tôi muốn được hầu chuyện. Cũng là dịp ta gặp nhau cuối năm, trước khi tôi về cúng gia tiên.
Một cơ may nằm ngoài ý muốn của Trần Thủ Độ, vì chính ông cũng đang có đôi điều muốn bày tỏ với tiên sinh. Tuy hai người cùng ở trong một dinh phủ, nhưng không lẽ chốc chốc lại gặp nhau, lại hỏi han bộc bạch. Tiên sinh vừa là người cao tuổi, học rộng, lại nhất định không chịu nhận một chức tước gì của triều đình, làmsao có thể sai khiến được. Cho nên tiên sinh chỉ ưng thuận làmmôn khách chứ không làmchính khách. Đã gọi là khách thì khi ở khi đi, lấy gì ràng buộc được người ta?
======
(1) Đại ý cao sĩ tự ví mình như bậc đại nho đời nhà Chu đi tìm Khổng Tử, Nhan Uyên lạc tới xứ này. Lại ví mình như Đào Tiềm đời Tấn từ quan đi ở ẩn và tự coi mình như người của thời Phục Hy, Hoàng Đế.
(2) Cư sĩ: người có học thức không ra làmquan.
(3) Tự lấy làmđầy đủ thì trong lòng được yên vui.
Không cầu cạnh ai điều gì, tự nhiên phẩmgiá mình đã là cao trọng.
CHƯƠNG5
Quan Điện Tiền liền sai dọn dẹp cung Thủy Tĩnh bầy hương án, đốt lò trầm, hâm rượu thạch xương bồ. Rồi ông đi thay mũ áo đại thần. Bữa nay ông đội mũ tiến hiền, áo thụng dài màu tía biếc. Với khổ người cao lớn, thân hình vạm vỡ, chân tay thô cứng, vụng về, chỉ quen đường cung kiếm, nhưng được phủ lên người bằng thứ mũ áo đó, nomông lại có dáng một văn nhân hơn là một võ tướng.
Trần Thủ Độ cung kính mời Hoàng tiên sinh an tọa trên bộ ván sơn then, có vẽ hình chim phượng múa. Hoàng tiên sinh mặc áo đạo sĩ, búi tóc, quấn khăn vành dây màu huyết dụ. Tiên sinh có khuôn mặt xương xương, vầng trán cao, ấn đường rộng, tròng mắt trắng đen phân biệt, lóng lánh như có thần nhãn, lông mi rậm dài hơi xếch, mũi thẳng, hai cánh mũi và chuẩn đầu đầy đặn. Miệng rộng, hai khóe miệng hơi cong lên, cặp môi dày vừa phải, màu sắc tươi nhuần, lại được chiếc cằm vuông vức, nước da sáng sủa hồng hào và bộ râu dài rậmbạc trắng như cước, tiên sinh có vẻ ung dung siêu thoát như một nhà tu đắc đạo.
Vừa phân ngôi chủ khách xong thì lão bộc dâng hầu một tuần rượu. Rượu hâm nóng rót vào hai chiếc chén có nắp đậy tỏa hương thơm. Chén dâng rượu là một loại gốm cực quí men độc sắc màu tiết dê, trong lòng láng men trắng ngả xanh. Rượu được ba tuần, Trần Thủ Độ mới nhập đề bằng câu chuyện vừa bắt được một thị nữ, đem chiếu của Huệ tôn sai khiến Đoàn Thượng, Nguyễn Nộn mang quân về kinh diệt trừ gian đảng, khôi phục lại kỷ cương của nhà Lý.
Việc tầy trời thế mà Trần Thủ Độ nói như chuyện chơi, khiến tiên sinh hơi ngạc nhiên. Ông thầm nghĩ: “Vậy là viên tướng này đã rèn được bản lĩnh”. Tiên sinh không khỏi mừng thầm về những lời khuyên nhủ của ông, đã được Trần Thủ Độ tiêu hóa một cách ngoạn mục đến thế. Hoàng tiên sinh bèn hỏi:
- Vậy chớ quan ông đã xử như thế nào rồi?
- Bẩm tiên sinh, chưa có xét xử gì cả. Tôi chỉ thu giữ tờ chiếu, còn con thị tì lại cho về cung thái hậu, ngầm sai người giám sát, vẫn coi như không có chuyện gì.
- Trong việc này quan ông có nghi cho ai không? Đây chỉ là một hai người vì lòng tức giận nhất thời, hay họ đã hợp nhau thành bè, đảng? Quan ông đã cứu xét đến những điều tôi vừa nói chưa?
Trần Thủ Độ bậmmôi nén giấu một điều gì bực bội, thoắt ông đã lại bình thản đáp:
- Thưa tiên sinh, cứ theo như sự suy ngẫm của tôi, thì việc công chúa Chiêu Thánh lên ngôi có làm cho một số người an tâm, nhưng một số khác lại nghi ngại. Trong số những người khắc khoải lo âu về vận mệnh nhà Lý, tôi thấy có quan thừa chỉ là người đáng lưu tâm hơn cả. Dạ bẩm tiên sinh, quan thừa chỉ là người trung hậu, nghĩa khí, dám xả thân vì nước. Cứ như lời văn trong tờ chiếu, tôi ngờ rằng quan thừa chỉ là người thủ bút. Kẻ úy tử thamsinh, ngu hèn, bần tiện không thể viết ra được lời văn hào sảng như thế. Thưa tiên sinh, tôi đồ rằng quan thừa chỉ bất bình vì thế lực họ Trần quá lớn, nên muốn nhờ sức Đoàn Thượng, Nguyễn Nộn chặt bớt vây cánh. Việc này quan thừa chỉ có dự mưu, nhưng không cố kết với ai. Vì xét ra, còn ai là người có nhân cách lớn để mà cố kết. Dạ không, không có chuyện đích thân nhà vua thảo được. Bao nhiêu năm chầu chực bên ngai vàng tôi biết, nhà vua mỗi khi cầm bút chỉ viết không qua ba chữ tên mình. Nói xong quan điện tiền buông một tiếng thở dài.
Càng gần trưa, trời càng buốt giá, lão bộc gầy thêm một chiếc hỏa lò, đặt gần nơi chủ khách hội kiến. Hoàng tiên sinh không thể nén
giấu nụ cười vui. Vì cách xét đoán bình tĩnh và sáng suốt của Trần Thủ Độ, khiến tiên sinh tin ông ta có thể làm được nhiều việc lớn có ích cho quốc gia. Tiên sinh vuốt chòm râu dài tới hai ba lần, dấu hiệu chứng tỏ trong lòng tiên sinh vui lắm. Nhìn thẳng vào khuôn mặt dạn dày sương gió của vị quan lớn đầu triều mới ngoài ba chục tuổi, tiên sinh lại hỏi:
- Quan ông liệu định việc này ra sao?
- Bẩmtiên sinh, lòng tôi thật phân vân. Nếu ở vào vị thế của quan thừa chỉ, hẳn tôi cũng không thể làmkhác được. - Nhưng còn đốisách của quan ông với quan thừa chỉ?
Như nhìn thấu cả gan ruột Trần Thủ Độ, Hoàng tiên sinh vuốt nhẹ chòm râu rồi một tay che miệng, một tay cầm cả chén rượu đã nguội ngắt ngửa cổ uống một hơi cạn. Khẽ dằn chiếc chén xuống lòng khay, tiên sinh nói:
- Người hiền là tài sản vô giá của quốc gia. Nước không có người hiền để treo gương đạo hạnh là nước suy. Biết chùn tay trước khi đụng đến người hiền, ấy là dấu hiệu tốt của lương tri. Thu phục được nhiều người hiền quy tụ, ấy là khả năng trì quốc đã ló rạng. - Trị quốc, Trần Thủ Độ khẽ mấp máy miệng như có ý nhắc nhở Hoàng tiên sinh. Tiên sinh dừng lời tắp lự, ông nhìn thẳng vào khuôn mặt đầy phách lực của Trần Thủ Độ, với giọng trầmhẳn xuống, như có ý răn dặn:
- Tôi nói trì quốc. Vẫn biết tình hình nước sôi lửa bỏng như bây giờ, kỷ cương mục nát, rương mối rối rắm, cương thường đảo lộn, sự hung bạo tràn lan, con giết cha, tôi giết vua, cái ác nghiễm nhiên ở ngôi thì phải lấy việc trị quốc làm đầu. Ngay việc con giết cha, tôi giết vua không phải một sớm một chiều đã xảy ra. Nó giống như cái ung, cái nhọt đã tích tụ các khí chất độc từ lâu rồi. Bởi những kẻ lèo lái con thuyền quốc gia không những không lo phòng bị những việc ấy mà không tự biết. Nhưng nước yên rồi thì phải chuyển từ “trị” sang “trì”, nếu không sẽ thay thế cái ác cũ bằng cái ác mới. Hiện nay nói đến “trì” là hơi sớm. Song vì đã chớm thấy cái mầm thiện trong quan ông ló ra, tôi phải kịp khơi lên để cho nó tỏ sáng. Thấy tiện, tôi nói luôn để quan ông có dự liệu về sau.
Quan ông làmnhững việc như thế này là một sự nghiệp chính trị lớn. Việc làmchính trị là cốt ở dùng người hiền tài. - Làmthế nào để dùng được người hiền tài, thưa tiên sinh? Trần Thủ Độ vội vã chen lời.
- Sửa mình. Có sửa mình thì mới dùng được người hiền tài.
- Lấy gì để sửa mình vậy?
- Lấy đạo mà sửa mình.
- Đạo là thế nào?
- Đạo là cái vừa cao minh vừa thiết thực. Người trí thì nhìn thấy được, kẻ ngu thì sờ thấy được. Đạo là cái mà người ta tâm cảm và trực cảmđược. Người hành đạo phải hội đủ các đức nhân, nghĩa, lễ, trí tín.
- Thưa tiên sinh, trong nămđiều ấy có thể bỏ được điều nào không ạ? Trần Thủ Độ hỏi, vì ông chợt nghĩ trong lúc nhiễu nhương như vậy, làmsao mà giữ được đủ các thứ tín điều kia.
- Không. Không thể bỏ được điều nào, Hoàng tiên sinh nghiêmgiọng trả lời.
Trần Thủ Độ lại hỏi:
- Vậy chớ trong nămđiều ấy, thì điều nào là quan yếu hơn cả.
- Năm điều đó hợp lại mới thành cái đức của người hành đạo. Cho nên điều nào cũng quan yếu. Nhưng suy cho cùng, thì nhân là gốc của đạo, cũng là gốc của việc chính trị. Người thức giả sửa mình cho đến bậc nhân, rồi mới đem đạo của mình ra thi hành khắp thiên hạ. Có sửa được mình cho ngay chính, thì người hiền tài mới theo mà giúp mình. Nhiều người hiền tài giúp mình thì việc chính trị mới có cơ thành tựu. Ở đời, mọi hành động của con người, không gì bằng việc chính trị. Vì chính trị quan hệ đến sự hay dở của nhân quần, sự trị loạn của thiên hạ.
- Thưa tiên sinh, kẻ thô lậu quê mùa như tôi có làmchính trị được không? Vì chính trị là phải có đức qui tụ được người hiền. Hoàng tiên sinh cười khà khà. Giọng ông trở nên khoan hòa:
- Các việc quan ông đang làm, chẳng phải làm chính trịsao? Quan ông có phong độ của một nhà chính trị lớn. Công nghiệp của quan ông có thể lưu dấu cho đờisau. Nhưng đúng là quan ông còn phảisửa mình nhiều lắm, nếu không, việc lớn sẽ hỏng từ những tiểu tiết. - Thưa tiên sinh, từ khi tiên sinh nhận lời xuống núi, nghe chỉ dẫn của tiên sinh, anh em họ Trần nhà chúng tôi điều hành công việc trong triều, đã làm cho đường lối ngày một tỏ sáng thêm. Đi đến đâu dân chúng cũng theo về, hào kiệt bốn phương lác đác đã tìm đến. Song có một điều tôi vẫn cứ băn khoăn. Trong khi thế lực của họ Trần lớn, thì thế lực của Nguyễn Nộn, Đoàn Thượng cũng lớn. Lại còn châu Đại Hoàng, các vùng Quảng Oai cùng mấy động, sách người Man đánh dẹp mãi không xong. Tôi luôn luôn lo sợ, tự răn mình không được làm điều gì xằng bậy. Nhưng đối với các bậc hiền giả, các bậc thức giả, nho sĩ, tôi không biết cư xử thế nào cho phải đạo. Vì rằng tôi xuất thân quê mùa, lại dốt nát, chữ nghĩa hầu như chẳng biết được là bao. Dám xin tiên sinh vì sự nghiệp lớn của Đại Việt ta, hết lòng chỉ bảo. Tôi hứa sớmtốisửa mình để làmviệc nghĩa cho thiên hạ, quyết không phụ lòng dạy bảo của tiên sinh. Hoàng tiên sinh gật đầu, như một sự hài lòng về các lời nói khiêmnhường của quan điện tiền chỉ huy sứ. Tiên sinh chậmrãi nói: - Quan ông danh thì là điện tiền chỉ huy sứ, thâu tómhết thảy quân cấmvệ, nhưng thực ra, quan ông nắmgiữ trọn quyền lực của triều đình để sai khiến thiên hạ. Phàm người đã ở ngôi cao, quyền lớn là những người dễ tự mãn. Tưởng mình ngồi trên thiên hạ, là mình giỏi hơn thiên hạ. Nên không chịu nghe, hoặc không thể nghe được những lời chỉ trích mình. Chừng nào quan ông còn muốn nghe lời chỉ trích không chỉ ở miệng bọn học giả, mà ngay từ miệng đám lê dân, chừng ấy quan ông còn sáng suốt. Vừa đây, tôi mới nghe Đoàn Thượng giết một viên tướng giỏi. Chỉ vì viên tướng kia không chịu tiến binh theo ý Thượng. Trước tôi còn ngờ Thượng có thể đối địch được với quan ông. Là vì y chiếm giữ suốt một dải châu Hồng giàu có, đất rộng, dân đông, y lại có sức khỏe hơn đời như Lã Bố, Trương Phi. Nay thì rõ rồi. Ychỉ là giặc cỏ, với lũ quân ô hợp, sớmtối tự tan. Tôi nói thế là vì, các việc làmcủa Đoàn Thượng, bộc lộ kiến thức của y, không hơn gì lũ thất phu. Bởi chưng, mở rộng đất đai là nghiệp lớn, là thuộc về kế sách lâu dài của một vị chủ soái. Nhưng chiếm được thành kia, lấy được đất nọ vào lúc nào, việc ấy lại do ở các viên tướng. Trong lúc còn đang tranh đoạt với bên ngoài, mà giết tướng giỏi của mình, thế có khác gì tự chặt tay chân mình. Đoàn Thượng là kẻ tự tiêu diệt mình gấp trăm lần các thế lực của triều đình, và phe phái khác đánh dẹp hoặc tranh đoạt với y. Quan ông cứ ngẫm lời tôi nói, xem có đúng vậy không. Đoàn Thượng đã treo một tấm gương xấu rực sáng của kẻ thất phu, quan ông không thể xemđó là bài học quí, để tự sửa mình.
Được, được, để tôi sẽ nói những điều mạnh, yếu nhất trong nhân cách của quan ông, là những điều quyết định thành bại của một sự nghiệp chính trị, sự nghiệp của một tể thần, chứ không phảisự nghiệp của một anh ngư phủ.
Sắp nói ra những điều hệ trọng trong sự nghiệp của một quan lớn đầu triều. Sự nghiệp ấy sẽ dẫn dắt cả quốc gia Đại Việt này tới đâu,
không phải là chuyện vui trong tiệc rượu. Hoàng tiên sinh đưa hai tay lên sửa nắn lại vành khăn, vuốt lại nếp áo, rồi dùng mười đầu ngón tay chải lại chòmrâu rậm.
Trần Thủ Độ vẫn ngồi nghiêm chỉnh lắng nghe. Lúc này, ông như cũng ý thức được các điều hệ trọng từ người mà ông tôn làm thầy sắp nói về mình. Tự nhiên, ông cũng làmtheo tiên sinh; sửa lại mũ áo, và nếp ngồi cho ngay chính.
Lão bộc, lặng lẽ tiếp thêm trầm vào lò, rồi khẽ đặt bình rượu vừa hâm và xế góc quan điện tiền đang ngồi. Xong đâu đó, lão bước ra ngoài nhà như một cái bóng.
Hoàng tiên sinh nhận chén rượu nóng từ tay Trần Thủ Độ, nhẹ nhàng đặt về phía mình, rồi ông nói:
- Từ bấy lâu ăn ở với quan ông, xét các việc quan ông đã thi hành ở trong nhà cũng như ngoài cung đình, hoặc trong dân chúng, xét những việc hiển nhiên cũng như những suy tư và các chủ trương mai hậu của quan ông, tôi tạm qui quan ông có bảy cái mạnh đáng được giữ gìn để làmgương sáng cho đời:
Cái mạnh thứ nhất của quan ông là tính quyết đoán. Người có tính quyết đoán là người dám chịu trách nhiệm về công việc mình làm, và cũng là người có khả năng đón định được thời cơ làm việc lớn. Việc đáng quyết mà chần chừ không quyết, tức là bỏ mất thời cơ, và đã chuyển từ cái nhân chiến thắng thành cái quả thất bại. Vì như việc sách lập Chiêu Thánh kế vị. Việc ấy, biết bao người đã xui quan ông phế truất Lý Huệ tôn để lên ngôi hoàng đế, nhưng quan ông nhất quyết gạt đi. Cái khôn ngoan là ở chỗ đó. Một đứa bé tám tuổi thì biết gì mà chấp chính, thành ra quyền hành vẫn thuộc về quan ông. Làm việc này quan ông có hai cái lợi. Lợi thứ nhất là quan ông giữ được tiếng tôi trung, trước sau vẫn khuông phò nhà Lý. Cái lợi thứ hai là trên danh nghĩa nhà Lý, quan ông sai khiến thiên hạ. Triều đình không bắt bẻ vào đâu được, các thế lực kình chống với quan ông cũng không lấy cớ gì để tiến binh. Nói đâu xa, dạo Chiêu Thánh kế nghiệp, Nguyễn Nộn tưởng quan ông tức vị(1) đem quân về kinh hỏi tội. Nhưng quân đến Bồ Đề, y thấy bố cáo của triều đình, bèn tự ý lui quân. Vì rằng y không còn danh nghĩa gì để đemquân về kinh sư nữa.
- Thưa tiên sinh, Trần Thủ Độ nói xen vào - Việc sách lập Chiêu Thánh làm hoàng thái tử để nhường ngôi, là ý của tiên sinh chứ đâu phải ý của tôi. Tôi chỉ biết nghe lời tiên sinh.
Hoàng tiên sinh cười rạng rỡ. Ông quơ lấy chén rượu uống một hơi can sạch, như để tự thưởng cho cái mưu của ông đã được người học trò dũng lược đemra thi thố thập phần hoàn hảo. Tiên sinh nói, giọng hồ hởi:
- Một bên là “tôi xui” quan ông, một bên là cả “triều đình xui” quan ông. Nếu quan ông không có bản lĩnh chắc là phải nghe triều đình chứ. Tôi nói thì dễ, chứ quan ông làm khó lắm. Sự phản trắc đầy triều. Lúc nào cũng có kẻ rình rập. Không phải là tay trí dũng hơn đời, không thể làm nổi các mưu sâu chước lạ. Vả lại nếu không dẹp bỏ được lòng tham vô lối, tức là coi ngai vàng hơn xã tắc(2) để hướng về cái cao đẹp hơn, dễ gì quan ông đã nghe tôi. Tôi chỉ lý giải một trong bảy đức tính quí báu đó của quan ông, để tự xét mình mà thôi.
- Dạ được, tôisẽ lần lượt nói cho đủ bảy đức tốt của quan ông:
- Một là quyết đoán.
- Hai là không thiên kiến.
- Ba là trọng người hiền.
- Bốn là không thamlợi nhỏ.
- Nămlà không nghe lời gièm.
- Sáu là dũng lược.
- Bảy là biết đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết thảy.
Có bảy đức tính đó, lo gì việc kiêmtính thiên hạ.
Thấy Hoàng tiên sinh nói đến việc kiêm tính thiên hạ, Trần Thủ Độ giật mình lạnh toát cả sống lưng. Ông phải lấy việc gọi lão bộc vào pha trà để tự trấn tĩnh. Giây lâu, ông mới cất tiếng hỏi:
- Bẩmtiên sinh, quả là tiên sinh quá yêu, nên tiên sinh đã cho kẻ quê mùa này nhiều thiện đức của các bậc kỳ tài trong thiên hạ. - Quan ông điện tiền chỉ huy sứ, xin hãy cứ bình tâm. Không phải quan ông chỉ có thiện đức cao quí, mà quan ông cũng có nhiều điều bất thiện, còn ẩn náu kỹ càng dưới chiếc mũ tiến hiền và trong bộ tử phục(3) hầu kia.
- Dạ, thưa tiên sinh, nếu tiên sinh dạy cho kẻ hậu sinh này biết được những điều bất tiếu, còn tiềm ẩn trong nhân cách, để sớm tối lo việc sửa mình, ngõ hầu mới có thể gần gũi được các bậc tài đức trong thiên hạ, cùng lo việc nước.
Tiên sinh chậmrãi:
- Nói về những đức tốt của người là điều cực dễ. Nhưng nói về những điều xấu, những điều ác độc còn chất chứa trong họ mới thực là khó. Khó hơn nữa, người nghe lại là người quyền cao chức trọng, kẻ nói mất đầu như chơi. Song, tôi vì đại nghĩa, còn vì tình tri kỷ với quan ông, nên tôi nói mà không sợ quan ông đổi dạ.
Trên kia tôi đã nói về bảy điều thiện đức của quan ông, bây giờ tôi nói về bảy điều bất thiện trong quan ông: - Một là nhỡn quan hẹp.
- Hai là tri thức hẹp.
- Ba là chưa có lòng bao dung.
- Bốn là chưa thật bụng tin người.
- Nămlà nặng bè đảng, nhẹ hợp quần.
- Sáu là tàn bạo.
- Bảy là chưa hết lòng thương dân. Nhiều vùng qui phụ triều đình lâu rồi mà vẫn để dân lưu tán, đói khổ. Cứ sau mỗi điều, Hoàng tiên sinh lại khéo để ý xem quan điện tiền chỉ huy sứ có còn muốn nghe nữa không. Tiên sinh thấy dù Trần Thủ Độ có là bậc thánh, cũng không thể không gai người khi nghe đủ bảy điều xấu hoàn hảo của mình. Cho nên mặt quan ông cứ tái dần, tái dần cho tới lúc sạmđen như ngườisay xỉn. Và bỗng nhiên, mồ hôi trán vã ra như người bị trúng độc.
Hoàng tiên sinh trầmhẳn giọng xuống gặng hỏi:
- Thưa quan ông, liệu tôi có quá lời chăng?
Trần Thủ Độ vụt đã tươi tỉnh hẳn lên. Ông sụp lễ Hoàng tiên sinh hai lễ. Hoàng tiên sinh vội vàng nâng quan điện tiền dậy: - Quan ông làmthế, tôi khó nghĩ quá. Tôi đâu dámnhận lễ của quan ông.
- Bẩm tiên sinh, quả là tiên sinh vừa cho tôi uống một liều thuốc tróc độc. Mà đã tróc được đôïc, thì cơ thể không khỏi mỏi mệt. Tôi toát hết cả mồ hôi, lạnh buốt cả xương sống sau mỗi điều tiên sinh nói. Nếu không có tiên sinh là người sáng suốt và thẳng thắn vạch cho, tôi vẫn cứ ngỡ rằng mình thập phần hoàn hảo. Bẩm tiên sinh, về bảy điều thiện đức mà tiên sinh chỉ ra, tôi cũng lờ mờ cảm thấy như mình có cả. Còn như bảy điều bất thiện, thì lần đầu tiên nhờ có tiên sinh tôi mới nhận thấy. Và xét các việc đã làm, quả tôi còn nhiều điều dở quá. Dở quá. Từ nay tiên sinh không những là thầy tôi, mà tôi còn thờ tiên sinh như một bậc quốc phụ. Xin cam kết với tiên sinh, tôi quyết đổi lỗi chứ không đổi dạ thờ tiên sinh. Mong tiên sinh chỉ giáo, nếu chẳng may có một điều nào trong bảy điều trên, nó trở thành cố tật rồi thì có hại gì cho sự nghiệp không?
- Những điều bất thiện kia ai mà chẳng có. Nhưng ở người thường, nó không tác hại nhiều lắm. Còn như ở người cầm cân nảy mực quốc gia, chỉ cần một trong bảy điều trên được bành trướng ra như một thế lực, cũng đủ tiêu tan cả nghiệp lớn. - Nhỡn quan hẹp ư? Nhìn sao thấu được thiên hạ. Biết trong nước thế nào, ngoài nước thế nào để sắp đặt then máy quốc gia? - Tri thức hẹp ư? Sao có thể ngồi trên được kẻ sĩ?
- Hẹp lượng bao dung ư? Sao có thể ômtrùmđược thiên hạ.
- Chưa thật bụng tin người ư? Còn ai dámtận tâmlàmviệc lớn?
- Nặng bè đảng ư? Làmsao mà cố kết được toàn dân?
- Tàn bạo ư? Kẻ sĩ quay mặt, người hiền bỏ đi.
- Không thương dân sao? Dân sẽ rủ nhau làmloạn.
Nghe Hoàng tiên sinh nói, Trần Thủ Độ như người ngủ mê chợt tỉnh. Oâng tiếp lời:
- Bẩm tiên sinh, nhờ tiên sinh tận tâm chỉ bảo, tôi như người mù vừa thấy lại mặt trời. Mong tiên sinh từ nay đừng coi tôi như một bậc tể thần, mà hãy coi tôi như một lũ “ấu ấu tu tri” để dạy dỗ.
Hoàng tiên sinh gật gật, ông lại đưa tay lên vuốt nhẹ chòmrâu. Ông vuốt như thế mãi một lúc lâu, cứ như là ông đang kéo dài, dài mãi những sợi râu để biến nó thành những sợi tơ trời. Bất chợt ông lại nói:
- Cái khó không phải là con người ta còn làmđiều bất thiện, mà khó là ở chỗ, con người có tận tâmđổi lỗi để đạt tới cõi thiện? Mới nửa chiều, sương đã giăng trắng cả kinh thành. Giá buốt lùa vào đại sảnh. Lò than đã tàn. Chỉ có hương trầm như còn đọng lại, còn đông kết lại cùng với những lời nói tâm huyết của hai vĩ nhân trong một chiều sương giá. Phải chăng đây là khởi đầu buổi bình minh của một triều đại mới?
=================
(1) Tức vị: lên ngôi vua.
(2) Theo sách Chu lễ: Xã: là nơi thờ thần Thổ địa. Tắc: là nơi thờ thần Bách cốc. Dân trong một nước cần thiết nhất là ruộng đất và thóc lúa, nên đời xưa dùng chữ Xã tắc để tượng trưng cho quốc gia.
(3) Tử phục: quần áo màu tía. Theo chế độ các nhà Lý - Trần, các quan có tước vương, tước hầu mới được mặc áo màu tía.
CHƯƠNG6
Để hưng thịnh triều đại mới của Lý Chiêu Hoàng, một bà vua tám tuổi, quan phụ quốc thái úy(1) Trần Thừa bèn hoạch định một số chính sách. Trước hết, lấy danh nghĩa của đấng quân vương, xuống chiếu chọn con emcủa quan viên trong ngoài, sung vào các sắc dịch ở nội cung. Tức là các chức như chi hậu(2), nội nhân(3), thị nội(4). Mở đầu cho công cuộc cải cách này, quan điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ được thăng làm tri thành nội cung chư quân sự. Nghĩa là trước kia, quan ông chỉ thống lĩnh quân cấm vệ trong kinh thành, nay thâu tóm hết thảy cả quân tứ sương và quân các lộ, các đạo, các trấn trong toàn quốc. Và các người cháu gọi Trần Thủ Độ bằng chú, bác như Trần Bất Cập được bổ làm cận thị thực lục cục chi hậu(5). Trần Thiêm làm chi hậu cục(6). Trần Cảnh (con nhỏ của thái uý Trần Thừa mới támtuổi) cũng được bổ làmchánh thủ(7).
Từ ngày Trần Cảnh vào cung, nhà vua có bạn, cảmthấy đỡ buồn hơn. Trần Cảnh cũng bằng tuổi với vua. Cảnh có dáng người phổng phao. Mặt mũi khôi ngô. Đôi mắt sáng như sao. Da trắng hồng, cặp môi đỏ mọng như môi Phật. Cảnh tính nết thuần hậu, ít nói. Tư chất thông tuệ, nhân cách đàng hoàng. Thường chơi với đám trẻ con các nhà dân dã. Chơi trò gì Cảnh cũng chóng bắt chước được chúng, rồi chẳng mấy chốc lại vượt lên bọn chúng. Khi thắng, Cảnh bắt chúng vòng tay làmkiệu rước. Một hômChiêu Hoàng đi qua, thấy thế thích lắm, sà vào chơi. Đám trẻ có đứa biết Chiêu Hoàng là vua. Chúng hét lên: “Vua đấy! - Vua đấy!”. Lũ trẻ sợ quá, chạy tán loạn. Chỉ còn trơ lại Trần Cảnh đứng một mình. Chiêu Hoàng bèn nắmlấy chéo áo Trần Cảnh:
- Tạisao thấy ta, chúng nó bỏ chạy?
- Tâu, bệ hạ là vua. Chúng nó sợ.
- Ta có làmgì đâu mà chúng nó sợ?
- Phép nước là thế. Dân chúng không được nhìn mặt thiên tử, nói gì chơi.
- Thế sao ngươi không chạy, ngươi không sợ ta chứ gì?
- Tâu, thần còn chạy đi đâu được nữa. Ngày nào bệ hạ cũng bắt vào chầu. Bây giờ lại đang nắmáo.
Chiêu Hoàng lại túm chặt vạt áo Trần Cảnh hơn nữa lôi xềnh xệch vào tận phía trong tiện điện(8). Nhà vua vừa buông áo Trần Cảnh, liền chạy vòng về phía sau bức bình phong lấy ra một chiếc hộp. Chiêu Hoàng mở hộp tung lên một nắm que chuyền bằng ngà, và hòn cái bọc gấmcó nhồi bông, độn sỏi. Nhà vua ra hiệu cho Trần Cảnh ngồi xuống cạnh mình, mặt tươi hớn hở hỏi: - Chơi nhá. Ngươi có biết chơi không?
Cảnh lắc đầu. Và nói lí nhí trong cổ họng:
- Trò chơi con gái.
- Sao, ngươi không biết chơi à? Ta dạy. Người xuống. Trông đây này.
Chiêu Hoàng thoăn thoắt rải que, tung hòn cái, đánh một mạch từ bàn một đến bàn ba mới hỏng. Chợt dừng, thấy Trần Cảnh lơ đãng nhìn ra ngoàisân. Nữ chúa bực lắm, hỏi:
- Vậy chớ ngươi biết chơi những trò gì?
- Tâu bệ hạ, thần biết đánh đáo, đá cầu, đi kheo, kéo co, bơi trải, chèo thuyền, đánh cờ, chơi ô ăn quan… Nhiều trò chơi lắm. Nhưng phải ở ngoài hoàng thành mới có người biết chơi.
- Vậy chớ có trò gì chơi một mình được, ngươi chơi thử, ta coi.
- Dạ, tâu bệ hạ, chỉ có chèo thuyền, đi kheo thì chơi một mình được. Nhưng phải ở ngoàisông, hồ hoặc bãi cát cơ. - Còn trò gì khác nữa, ngươi chơi một mình được?
Ngẫmnghĩ một lát, bỗng mặt Trần Cảnh bừng sáng lên như chợt nhớ ra. Cảnh thưa:
- Tâu bệ hạ, thần có thể đá cầu một mình được.
- Vậy ngươi đá cầu, ta coi.
Lần trong túi có đồng tiền đồng, lại có cả mảnh giấy bản, tập viết bẩn quá. Cảnh xé đi, tiện tay đút luôn vào túi. Trần Cảnh hý hoáy gói một lát được quả cầu be bé, xinh xinh. Cảnh bèn đá với cả hai bàn chân, nom dẻo quẹo. Hai bàn chân cứ nhịp nhàng đưa lên đặt xuống. Quả cầu cứ nảy lên theo nhịp đá của chân, nom nó như mọc lên từ giữa hai bàn chân của Trần Cảnh. Chiêu Hoàng thích quá reo to:
- Ôi, giỏi quá! Ngươi giỏi quá!
Trần Cảnh giật mình ngoái nhìn Chiêu Hoàng, quả cầu rơi nhẹ xuống thềm nhà. Chiêu Hoàng nhặt quả cầu lên xem, rồi đá thử. Nữ chúa vừa buông quả cầu ra khỏi tay, chưa kịp giơ chân lên, nó đã rơi xuống đất. Làm lại tới cả chục lần, lần nào cũng dúi dụi suýt ngã, không sao bắt chước Trần Cảnh để chân có thể đón được cầu.
Thấy nữ chúa chơi với Trần Cảnh, đám nội nhân không dám vào, chỉ đứng từ xa ngó lại. Nhờ có những trò chơi đó mà Chiêu Hoàng đâm quyến luyến Trần Cảnh. Chiêu Hoàng tính tinh nghịch, có khi Trần Cảnh bưng chậu nước đứng hầu cho nữ chúa rửa tay. Với các nội nhân khác, nữ chúa rửa tay mà không thèm nhìn mặt. Nhưng với Trần Cảnh thì Chiêu Hoàng vừa rửa tay vừa trêu chọc. Hai tay nữ chúa cứ ngâm chìm vào chậu, có khi còn ấn xuống, làm Trần Cảnh phải đỏ mặt tía tai, gắng gượng lắm mới giữ cho chậu nước khỏi đổ vào người Chiêu Hoàng. Có khi Chiêu Hoàng còn té cả nước vào mặt quan chánh thủ. Trần Cảnh vẫn cứ ngậm tăm không dám nói năng gì. Được thể, Chiêu Hoàng càng trêu. Có lần Cảnh bê khăn trầu, Chiêu Hoàng lấy cả khăn némcho Cảnh. Cảnh sợ quá bèn lạy: “Bệ hạ tha tội cho thần”. Chiêu Hoàng cườisằng sặc: “Tha tội cho ngươi!”.
Ở mãi trong chốn cung cấm tẻ buồn, nay được Trần Cảnh chầu hầu, cũng như là chuyện có bầu có bạn. Vì thế Chiêu Hoàng cũng bớt được cái tính cáu gắt, đăm chiêu. Nhưng Cảnh chỉ hầu cận ban ngày. Tối đến không có người chơi, nữ chúa lại càng buồn. Thuận Thiên lớn tuổi hơn, lại ham mải các việc dung công ngôn hạnh, nên không còn hợp với Chiêu Hoàng nữa. Bởi vậy, có khi tối đêm còn cho gọi Trần Cảnh vào hầu. Trần Cảnh tuy gần gũi đức vua, song vẫn còn bẽn lẽn lắm, thường bị đức vua bắt nạt. Có lần đi chơi đêm, Cảnh giả vờ trốn đứng vào bóng tối, Chiêu Hoàng tìm được, nắm lấy tóc Cảnh kéo ra chỗ sáng. Trần Cảnh đứng ngoài sáng, Chiêu Hoàng lại giẫm vào bóng Cảnh. Cứ chơi mãi cái trò ấy có khi tới khuya, nội nhân phải ra mời tới hai ba lần, nữ chúa mới chịu về nghỉ.
Đôi trẻ quyến luyến nhau như thế, không qua được mắt bà thái hậu Trần Thị Dung, và đức ông Trần Thủ Độ. 1.Thái uý: Chức quan trong hàng tamcông - quan lớn nhất trong triều: Thái uý - Tư Đồ - Tư Không. Trước nhà Tống thường gọi: Thái
sư, thái bảo. Sau này nhà Lê gọi: Thiếu sư - Thiếu phó - Thiếu bảo. Đại khái đều rập theo nhà Tống hoặc nhà Minh. 2. Chi hậu: chức quan hầu bên vua, giữ việc truyền lệnh và dẫn người vào, ra.
3. Nội nhân: chức quan để sai bảo ở trong cung.
4. Thị nội: chức quan chầu hầu trong cung.
5. Cận thị thự lục cục chi hậu: chức chi hậu ở sáu cục của Cận thị thự là giữ việc hầu gần bên vua. 6. Chi hậu cục: Cục phụ trách truyền lệnh và dẫn người ra, vào cung vua.
7. Chánh thủ: chức quan hầu cận để sai bảo.
8. Tiện điện: nhà riêng để nghỉ ngơi của vua.
CHƯƠNG7
TỪ KHI KÝ VÀO CHIẾU CẦU HIỀN VÀ SAI Nguyễn Nộn, Đoàn Thượng hội quân ở kinh sư trừ gian đảng, thượng hoàng Lý Huệ tôn không có hồi âmgì của quan thừa chỉ, ruột ngài nóng như đang ủ một lò lửa. Ngài linh cảmnhư có một tai hoạ gì lớn sắp xảy ra. Chiều chiều, ngài thường đi dạo trên quãng đường quen thuộc trong khuôn viên xem có thấy tên thị nữ, người của quan thừa chỉ, thường hay lui tới, báo tin. Nhưng tuyệt vô âm tín. Ngài cũng không được biết tí gì về công việc ở trong triều, mà con gái ngài được người ta đặt vào ngôi quân trưởng, đang làm cái trò trống gì. Ngài muốn gặp vợ con quá chừng, nhưng không thể nào vượt qua được khu cấm địa này. Ngay cả Trần Thủ Độ, ngài cũng mong ông ta đến. Bây giờ ngài không sợ nữa. Người ta đã tước hết thảy quyền bính của ngài rồi, còn gì nữa để mà mất. Ngài ao ước gặp Trần Thủ Độ để xỉ mắng ông ta một trận, cho bõ sự căm hờn chất chứa trong lòng ngài từ bấy lâu nay. Nhưng nghĩ lại, Huệ tôn tự nhủ: “Có lẽ mình phải cầu xin ông ta, để có cơ may còn được gặp con cái. Nếu không, chết thối rữa ra ở chốn lãnh cung này cũng không ai biết”. Ngài lại nghĩ: “Trămđiều chỉ tại con mụ vợ ta thôi. Nó thông đồng với anh emchú cháu nhà nó để hại ta. Nếu không có nó làm nội ứng, ngày đêm năn nỉ với ta, thì làm sao ta ưng thuận để cho Trần Tự Khánh rước xa giá về cung, từ mùa xuân nămBính tí (1216) ở Cứu Liên(1). Cũng từ đấy, quyền hành ta lại trao vào tay thằng anh ruột nó. Trần Tự Khánh được ta cho làmthái uý phụ chính. Lão anh cả Trần Thừa cũng được giao làm nội thị phán thủ. Thế là công việc trong ngoài triều chính đã lọt vào tay anh em nhà nó. Vây cánh nhà nó càng ngày càng lớn, lấn át cả ta để sai khiến thiên hạ”.
Lý Huệ tôn cứ dằn vặt mình tại sao bỏ đường sáng, nhảy vào đường tối. Ông tiếc, cái năm Quí Dậu (1213), rồi lại năm Giáp Tuất (1214), hai lần Trần Tự Khánh đến cửa khuyết tạ tội xin đón xa giá, ông đều chối từ. Lần thứ nhất ông đã giáng Trần Thị Dung từ nguyên phi xuống hàng ngự nữ. “Lúc ấy ta đã thấy có điều đáng ngờ: xa giá đi về nẻo nào rồi bọn Trần Tự Khánh cũng tìm ra. Vậy thời chỉ có Ngự nữ - người vợ yêu của ta vẫn lén lút thông tin cho cánh họ Trần, nên chúng mới biết”. Nhà vua chép miệng “Tiếc thay, hồi ấy nếu ta cứ nghe thái hậu, dụ cho Trần Tự Khánh đến, rồi giết đi thì đâu còn tai hoạ lớn cho ngày nay”. Càng nghĩ, máu trong người càng uất lên. Huệ tôn tự thấy mình có tội với các tiên đế. “Vậy là ta đã đem cả cơ nghiệp của tổ tông xây đắp nên, trao vào tay một lũ quyền gian. Mà kẻ môi giới lại chính là mụ vợ ta. Chao ôi, lịch sử khéo lặp lại. Sự nghiêng đổ thành trì, ai ngờ lại chính do tay một mụ đàn bà. Nhà Đinh mất nghiệp cũng chỉ một tay Dương thị tư thông với Lê Hoàn. Xa nữa, nhà Hán, nhà Đường bên Trung Quốc, suýt mất nghiệp lớn, cũng chỉ do mấy con mụ Lữ Hậu, Võ Tắc Thiên gây nên. “Bây giờ lại đến lượt ta!”.
Huệ tôn cứ ngày đêmnguyền rủa mình mãi không thôi. Cuối cùng, nhà vua nghĩ, phải làmthế nào thoát ra khỏi cảnh sống dở chết dở này. Nhà vua chợt nhớ tới lời dặn của quan thừa chỉ qua con thị tì bữa trước: “ Bệ hạ nên sớm dứt bỏ chốn cung cấm thâm nghiêm. Bệ hạ hãy tỏ ra thối chí…”
Nghĩ vậy, nhà vua bèn viết mấy chữ gửi cho Trần Thủ Độ. Sau vài dòng thămhỏi chiếu lệ, Huệ tôn viết:
“Ta vốn chuộng cảnh nhàn, lại không đủ sức đi đó đây. Nghĩ mãi, chỉ có gửi thân nơi cửa Phật là hợp với sở nguyện của ta. Vậy ta mong nhà ngươi nghĩ đến chút tình ưu nghĩa xưa ta đối với thái hậu Trần thị, cũng như mấy anh em khanh được cất nhắc chầu hầu. Hãy gia ân yới ngày đại cát này, cho ta vào làm lễ tế cáo trong điện chí kính(2), trong nhà thái miếu(3), rồi vĩnh biệt các con ta. Sau đó ta cũng xin trụ trì tại chùa KimLiên, là ngôi chùa mà các tiên đế đã tạo dựng”.
Viết xong, Lý Huệ tôn ômmặy khóc hu hu.
Mơ về một ngôi chùa sắp tới, nhà vua sẽ trụ trì với các đấng thiền sư mà trước đây nhà vua đã đôi lần lui tới viếng thăm. Bỗng Huệ tôn nhớ lại gần chục nămtrước, thấy tình cảnh đất nước bê bối, ngổn ngang, nhà vua muốn chấn hưng, đã toan mời một vị thiền sư lỗi lạc, thông hiểu cả tam giáo(4), về triều làm quốc sư. Nghe danh Hiện Quang thiền sư, năm mười tuổi một đã xuất gia, ở chùa Lục Tổ, được ngài Thường Chiếu thu nạp làmđệ tử, nay nổi tiếng khắp nước. Huệ tôn phái người đemlễ vật tới cầu hai ba lần, nhà sư đều lánh mặt, không tiếp. Tới lần thứ năm, ngàisai thị giả trả lời:
“Xin sứ giả về tâu lại với nhà vua, bần đạo hiện nay sinh trưởng ở đất nhà vua, ăn lộc của nhà vua, ở trong núi làm chùa thờ Phật trong bao năm rồi, công đức còn chưa được bao nhiêu, rất đỗi thẹn thùng. Nếu nay về hầu cận đức vua, không những chẳng được ích gì, lại sao nhãng trong việc tu hành, như thế chỉ để mọi người chê bai mà thôi. Phương chi hiện nay Phật pháp có bề hưng thịnh, các bậc Sư, Tượng đầy dẫy đang hành hoá tại nơi điện các, cớ chi đức vua lại cứ đoái đến một kẻ thô lậu, bần hàn, mặc manh áo vá đi kiếm ăn trong núisâu này làmchi?”.
Nhớ lại, Huệ tôn càng buồn. Ngài cho rằng vận số nhà Lý đã hết, nên chẳng cầu được người hiền. Âu cũng là do tiên đế để lại. Ngay thời tiên đế đã có việc bắt các nhà sư phải hoàn tục(5). Hẳn rằng các thuyền sư vẫn chưa nguôi oán giận? Nghe nói, Tăng phó Nguyễn Thường đã từng can phụ vương: “Chúa thượng chơi bời không điều độ, chính sự của triều đình thì rối loạn, lòng dân trái lìa, đó là triệu bại vong”. Tiếc thay, phụ hoàng đã chẳng nghe. Tăng phó liền bỏ đi. Còn ta, cầu mãi chẳng được người tài. Cho đến bây giờ, sự sụp đổ sờ sờ ra trước mắt. Biết đấy, mà khoanh tay thúc thủ.
Nhận được thư của Lý Huệ tôn, Trần Thủ Độ mừng lắm. Chính ông cũng băn khoăn không biết phế Huệ tôn bằng cách nào. Giam lỏng mãi như thế cũng không được. Lỡ đang thiết triều, Chiêu Hoàng đòi đi thămphụ vương thìsao? Ăn nói thế nào với các bậc đại thần. Nay Huệ tôn lại tự khơi đúng ý ta. Vậy là trời giúp ta. Ta tránh được tiếng ác. Nhưng tại sao ông ta lại cứ khăng khăng muốn ở chùa Kim Liên? Chùa nào mà chẳng do các tiên đế nhà Lý xây cất. Nói cho đúng, không có nhà Lý thì làm gì có chuyện chùa chiền, thờ tự sùng thịnh như ngày nay.
Dù Huệ tôn đòi hỏi không có gì quá đáng, Trần Thủ Độ vẫn cứ còn phải cân nhắc. Ông ngờ trong việc này, còn dính dáng tới một vị đại thần nào chăng? Về phần quan thừa chỉ, ông đã dùng kế điệu hổ ly sơn, sai giữ chức an phủ sứ Nghệ An. Ông cũng ngầm gài người theo dõi các hành vi của quan thừa chỉ.
Rồi cái ngày đại cát mà Lý Huệ tôn mong mỏi cũng đã đến. Ông chỉ được tới điện chí kính, chứ không được tới nhà thái miếu. Trần Thủ Độ lấy cớ rằng, nhà thái miếu chỉ mở cửa khi làm lễ Hiến phù(6), cùng các ngày lễ tế Giao(7), ngày tết Nguyên đán, ngày vua mới đăng quang(8).
Ngôi chùa mà Huệ tôn tự chọn cũng không được. Thay vì chùa Kim Liên nằm mãi ven bờ hồ Dâm Đàm(9), Huệ tôn được nhận vào chùa Chân Giáo - ngôi chùa nằm ngay trong hoàng thành. Trần Thủ Độ viện rằng, sức nhà vua yếu, không nên đi xa kinh thành, ngự y khó bề săn sóc. Vả lại Chân Giáo là ngôi chùa do Thái tổ nhà Lý lập ra từ năm Giáp tí (1024) để nhà vua tiện ra vào lễ Phật. Nay Huệ tôn vào tu ở đó là hợp hơn cả. Chẳng biết Huệ tôn có kịp nghĩ ra, chứ việc Trần Thủ Độ ngăn không cho ông viếng nhà thái miếu, xét về lý, quả là như vậy. Nhưng ẩn ý Trần Thủ Độ không muốn nhân dịp này, các đại thần lại lũ lượt theo hầu vua cũ. Biết đâu chẳng có người bầy
cho Huệ tôn nhân đó mà tập hợp bè đảng, chiêu nhóm những người có lòng hướng về nhà Lý. Còn như lễ tế trong điện chí kính, đó là việc riêng của hoàng gia, triều đình không can dự. Huệ tôn chẳng còn kiếm được cớ gì để gặp các đại thần. Ngay cả việc giữ nhà vua trong ngôi chùa Chân Giáo, cũng không ngoài ngụ ý quản thúc. Thủ Độ hiểu rằng từ chùa Kim Liên, có thể xuống thuyền ra sông Cái rồi đi các ngả; Huệ tôn dễ dàng rơi vào tay các thế lực khác đang kình chống với ông.
Buổi lễ tế cáo ở điện chí kính diễn ra thật buồn tẻ. Mãi xế chiều mới có kiệu đến rước nhà vua. Trước đấy, người ta bàn đến nát nước, dùng lễ nghi gì đối với Huệ tôn. Cuối cùng, người ta phải chấp nhận, coi Huệ tôn như một đấng đương kim hoàng thượng. Phẩm phục của Huệ tôn vẫn không có gì thay đổi.
Nom nhà vua mặt buồn thiu. Tới lúc này, ngài không còn hy vọng gặp lại các con. Bởi từ tảng sáng, ngài đã dậy chờ người ta đến rước đi. Hoặc nói cho đúng là chờ người ta mở cửa cho đi. Suốt một đêmdài thức trắng, ngài nghĩ về các con. Ngài ao ước thấy mặt Chiêu Thánh, Thuận Thiên hai nàng công chúa yêu mà gần trọn một năm ngài không được gặp. Thật tình, đôi lúc nhà vua cũng có ý muốn gặp cả “người kia” nữa. Nhưng cứ nghĩ đến cách xử bạc của bà ta, nhà vua lại nổi uất lên.
Sai quan nội hầu dẫn kiệu tới rước Huệ tôn, còn Trần Thủ Độ đón xa giá của Lý Chiêu Hoàng từ phía điện Thiên An. Kiệu của Chiêu Hoàng tới trước cung Ngoạn Thiềm, thì gặp kiệu của Huệ tôn cũng vừa tới. Chiêu Hoàng xuống kiệu, lon ton chạy tới trước kiệu vua cha, vừa thét gọi lạc cả giọng, vừa phủ phục xuống lễ thượng hoàng. Kiệu của bà thái hậu Trần Thị Dung và công chúa Thuận Thiên cũng vừa tới.
Nhìn nét mặt sầu khổ cùng tấmthân héo úa của vua cha, Chiêu Hoàng bật khóc nức nở. Thuận Thiên cũng níu lấy vua cha mà khóc. Bà thái hậu chợt thấy chồng, đã giọt ngắn giọt dài. Bà vội lấy chéo khăn lau nước mắt, rồi nhón một khẩu trầu bỏ vào miệng nhai cho đỡ xúc động.
Huệ tôn cố ngăn, dù chỉ một lần, không để cho tình cảm lấn át, ông khuyên các con hãy bình tâm. Ông biết cái bóng lờ mờ đứng phía sau kia là ai rồi. Nhưng ông không hề ngoảnh lại phía đó. Đỡ Chiêu Thánh dậy, ông vỗ về khuyên bảo hai chị em phải gắng gỏi lên, rồi ông dẫn các con đi bộ vào điện chí kính.
Thượng hoàng và nhà vua đã dẫn bộ, nên Trần Thủ Độ và bà thái hậu cùng các quan nội hầu, cũng phải xuống kiệu đi theo. Trần Thủ Độ tỏ ra bực bội trước sự mềmyếu của mẹ con bà thái hậu, và vẻ cứng cỏi chưa từng thấy ở Huệ tôn. Đèn nhang và các vật hiếu kính, đã bầy sẵn trên các mâm thờ trong điện. Mấy đỉnh trầm cũng vừa nhen đốt toả hương thơm ngào ngạt. Lý Huệ tôn tự tay thỉnh một hồi ba tiếng chuông, ông lầmrầmkhấn vái. Chiêu Hoàng, Thuận Thiên bámriết hai bên tả hữu vua cha. Bà thái hậu vẫn giữ một khoảng cách ở phía sau. Nếu như lúc này Huệ tôn ngoảnh lại, nhìn thấu tâm can bà qua khuôn mặt đau đớn kia, chắc những nỗi oán giận chất chứa bấy lâu trong lòng ngài, cũng sẽ vơi nguôi ngay. Nhưng ông đã không ngoảnh lại. Huệ tôn khấn lễ khá lâu. Khi tới trước bàn thờ vua cha và mẫu hậu, Huệ tôn nấc lên. Ông nói giọng đẫm đầy nước mắt: “Trăm lạy mẫu hậu, ngàn lạy mẫu hậu hãy tha thứ cho con. Con đã không nghe mẫu hậu, để con yêu nghiệt nó dẫn cả dòng họ nhà nó vào áp chế triều đình. Cơ đồ nhà Lý hầu tan nát, tội lớn tại con. Con xin vua cha, mẫu hậu cùng tiên tổ hãy cáo cấp trước hoàng thiên hậu thổ, về tội soán đoạt của anh em chú cháu nhà nó. Hãy vì trămhọ mà tru diệt hết cả cánh họ Trần nhà chúng nó, thì dù thân con có vùi nơi chín suối cũng được hả hê lòng dạ…”.
Chiêu Hoàng, Thuận Thiên ngơ ngác không hiểu vua cha nguyền rủa ai. Nhưng lọt tai thái hậu từng lời; từng lời như những mũi tên thuốc độc bắn vào trái timtan nát của bà. Người bà như hụt hẫng. Trước mắt bà như có trăm ngàn ngọn bạch lạp lung linh, bay nhảy hỗn loạn. Mắt hoa lên, bà lịmđi rồi khuỵu xuống. Trước khi ngã, bà còn kêu được mấy lời: “Bệ hạ! Bệ hạ, oan cho thiếp!”
Biết có thái hậu ở phía sau, nghe rõ cả lời kêu than của bà, Huệ tôn vẫn không thèm ngoảnh lại. Trong khi đó, Thuận Thiên, Chiêu Thánh vẫn chăm chú theo dõi vua cha, không hề biết ở phía sau, mẫu hậu vừa lịm ngất, Huệ tôn ghé tai nói nhỏ với Chiêu Hoàng: “Nếu Trời - Phật độ trì, lớn lên con khôi phục được kỷ cương sáng rõ. Con nhớ trừ hết phe đảng họ Trần”. Xong, ông trút bỏ lớp áo ngự, để lộ ra tấm áo hoà thượng và nếp mũ nhà sư. Huệ tôn giơ một bàn tay lên đặt trước ngực, tay kia ông xoa đầu vĩnh biệt các con. Rồi ông đi thẳng về chùa Chân Giáo. Từ nay ông mang pháp hiệu: Huệ quang thuyền sư.
============
1. Khoảng phía namsông Thiên Đức, nay thuộc huyện Văn Giang, Hưng Yên.
2. Điện chí kính: Nơi thờ phụng tổ tiên của nhà vua từ nămđời trở lại.
3. Nhà thái miếu: Nơi thờ phụng từ khởi tổ họ nhà vua trở đi.
4. Tamgiáo gồm: Nho giáo, Lão giáo, Phật giáo.
5. Nghe lời tâu của Thái phó Đàm Dĩ Mộng, năm Mậu ngọ (1198), Cao tôn xuống chiếu thải bớt nhà sư, bắt phải hoàn tục, hạn chế việc cấp độ tiệp cho những kẻ muốn xuất gia.
6. Hiến phù: lễ thắng trận, đemtù binh về dâng trước nhà thái miếu.
7. Lễ tế trời đất thường vào dịp đầu năm.
8. Đăng quang: Ngày lễ vua mới lên nối ngôi.
9. DâmĐàm: tên cũ của Hồ Tây.
CHƯƠNG8
Việc Chiêu Hoàng, Trần Cảnh quyến luyến nhau không qua mắt được Trần Thủ Độ và bà thái hậu Trần Thị Dung, mà còn không qua được mắt đám nội nhân. Vì thế tiếng tăm bay đi khắp kinh thành. Chuyện đến tai một số vị đại thần. Nhiều bậc lão thần đã xì xào bàn tán. Ngay chuyện ấy cũng đã đến tai Trần Thủ Độ.
Trần Thủ Độ mừng vì cháu ông được vua nhỏ mến yêu. Nhưng lo, nếu có người đàn hặc giữa chốn triều chính, không phải không có tội. Mà tội khi quân, tội quân thần điên đảo vẫn được xếp hàng đầu trong tội ngũ nghịch. Quan tri thành nội ngoại chư quân sự bèn thỉnh quan anh là thái uý phụ quốc, và bà chị là thái hậu tới cung Thuỷ Tịnh để hội kiến.
Hai anh emruột cũng là hai bên cha mẹ của đôi trẻ đều vui mừng vì anh emchúng quí mến nhau. Tính con trẻ, ưa có bầu có bạn, đó là lẽ thường. Nhưng đây lại là nghĩa vua tôi mới khó xử.
Theo Trần Thủ Độ “Việc này cực kỳ hệ trọng. Trong lúc thế sự phiền hà, kỷ cương chao đảo, người cầm quyền phải giữ nghiêm phép nước. Coi chừng có kẻ cáo giác thì chết cả họ chứ không phải chuyện chơi”.
Bà thái hậu còn chưa hết xúc động sau buổi lễ tế cáo trong điện chí kính, nay lại đến việc này. Ruột bà rối như một búi tơ giũ rối. Bà ân hận vì gần trọn một năm, bà bỏ mặc Huệ tôn cho Trần Thủ Độ chămsóc. Tin ở quan điện tiền nói về sức khoẻ, tật bệnh và thuốc thang chạy chữa cho nhà vua, nên bà chỉ chú trọng công việc trong hoàng gia. Ai ngờ, thời gian đã dày xéo lên đức vua, với bao nỗi xót đau còn hằn ghi nơi khuôn mặt ngài. Bà biết đức vua căm giận bà ghê gớm. Vốn là một người nông nổi yếu đuối, mà đức vua đã găm sâu sự hờn oán như vậy, chắc là người bị đoạ đầy cực nhọc lắm. Hẳn là trong thời gian ấy, nhà vua vẫn tỉnh táo, chứ không phải là chứng điên lại kịch phát như Trần Thủ Độ đã dối bà. Cứ nom cái mắt nhà vua với cách khu xử, đủ biết là hành động của người trí chứ không phải của kẻ khờ. Tiếc thay, ta đã quá tin Thủ Độ, bỏ mặc đức vua đằng đẵng gần một nămròng. Nhớ những ngày còn long đong, mấy anh emTrần Tự Khánh, Trần Thủ Độ, Trần Thừa xông pha đánh dẹp, tranh giành với các thế lực khác, lắm phen điêu đứng, không nơi tá túc. Cũng không được nhà vua coi cánh họ Trần như một lực lượng cần vương. Thậmchí còn bị thái hậu coi như một lũ giặc cỏ. Ngay bà, đã được nhà vua đưa về ở trong nội điện, thái hậu vẫn nghi ngờ muốn giết. Nhiều phen thái hậu sai bỏ thuốc độc vào thức ăn. Nhà vua phải chia sẻ bữa ăn của mình. Đúng là cơm chan nước mắt. Ngày đêm bồn chồn lo lắng. Nếu không có nhà vua đứng ra che chắn, đùm bọc, thì tính mệnh cũng khó toàn, nói chi đến ngày nay. Cả mấy anh em họ Trần cũng thế, nếu không có ta sớm khuya bầy tỏ, sao nhà vua có thể tin dùng và trao quyền bính. Bữa trước, nhà vua nguyền rủa ta. Sự thật quả là như vậy. Nhưng ta vì vô tình làm các việc đó. Phần bởi vì thương tôn tộc. Phần nghe lời chỉ dẫn của các bậc cha anh. Chao ôi, ai ngờ các việc ta làm đó, lại là làm hại cơ nghiệp nhà Lý. Mà rồi chẳng biết họ Trần có nên cơm cháo gì không. Phận ta từ nay, chồng còn cũng coi như thân goá. Nhà vua đã xuất gia, với lòng căm giận ta và phe cánh nhà ta, chẳng bao giờ còn đoái tưởng nữa. Ta biết trông cậy vào ai. Cưỡng lại anh em nhà mình ư? Không được. Các con ta còn quá nhỏ. Ngôi quân trưởng giữ hờ, nếu không có người phụ chính cứng cỏi, mẹ con ta mất mạng như chơi. Ôi, nếu như ta cứ yên phận là một cô gái quê thì đâu đến nông nỗi! Đời thật đắng cay, trớ trêu. Ta thiết gì ngôi cao lộc trọng mà tranh giành. Con ta bắt buộc ở ngôi, ngày đêmkhóc lóc, nó cứ đùn đẩy mãi cho con Thuận Thiên mà không được…
Sực nhớ đến lời khuyến cáo của Trần Thủ Độ, bà thái hậu liền hỏi:
- Nguy cấp lắm sao? Chỉ có hai đứa trẻ là anh em họ chơi thân với nhau, cũng làm cho cả triều đình xôn xao sợ hãi. Cả ông nữa, ông thống soái. Bà thái hậu nhìn thẳng vào mắt Trần Thủ Độ với giọng giễu cợt gặng hỏi:
- Ông cũng lo lắng lắm sao? Rồi bà nhìn về phía Trần Thừa: - Còn anh cả, ý anh thế nào? Cùng lắm thì cho chúng nó lấy nhau. Nhẽ đời phải thế thì ta cứ thế mà làm. Tôi không thấy có gì đáng phải hãisợ trong câu chuyện này.
Nói rồi bà thở nhẹ, như vừa trút đi một gánh nặng. Bà mở vuông khăn, lấy ra một khẩu trầu.
Quan phụ quốc thái uý Trần Thừa với vẻ băn khoăn nhìn emgái, nói:
- Việc tầy trời mà cô nói cứ như trò chơi con trẻ. Phép nước chứ đâu phải chuyện chơi. Ý chú Thủ Độ thế nào. Tôi chắc chú đã có kế sách rồi. Ít lâu nay tôi thấy trong công việc, chú sáng ra nhiều lắm. Chú sai khiến cắt đặt mọi điều đều khuôn theo ý chú, cơ mưu như thần. Nghiệp họ Trần dấy lên tự đây chăng?
Trần Thủ Độ không phải không lo phòng bị. Mối lo lớn nhất trong lúc này là các đại thần chống lại ông. Tối kỵ là việc để cho họ, dù công khai hay ngấm ngầm liên kết được với Nguyễn Nộn, Đoàn Thượng. Nhưng khi chợt thấy thái độ coi thường của bà thái hậu với câu nói khùng: “Cùng lắm thì cho chúng nó lấy nhau”, tự nhiên trong đầu ông nảy ra một kế. Lại tiếp đến ý của ông anh: “Việc tày trời mà cô nói cứ như trò chơi con trẻ”. Trần Thủ Độ như vồ lấy cái ý nhát sợ ấy của ông anh. Thế là xong. Tương kế tựu kế. Ông nghĩ: “Xưa nay, mọi việc thế gian đều như trò chơi con trẻ. Cái khéo là ở sự bầy đặt cuộc chơi”. Kế sách coi như đã quyết ở trong đầu. Nhưng ông vẫn còn băn khoăn, nếu như có Hoàng tiên sinh ở nhà để vấn kế thì yên tâmbiết mấy. Phải gấp gấp ra tay. Không thể nấn ná đợi chờ. Thời cơ mấy khi tạo được. Ýđã quyết, Trần Thủ Độ liền nói thẳng với ông anh, bà chị về mọi nhẽ tồn vong, rồi ông chốt câu chuyện lại: “Nếu anh cả và chị tin tôi. Nội trong ba ngày nữa mọi việc sẽ xong. Kẻ nào chống lại, tôi diệt. Tôi cũng nói trước, việc này thành, tức là trời đem nghiệp lớn quốc gia trao vào tay họ Trần ta. Chẳng may việc bại, thì chết cả họ, đừng có oán tôi. Nhớ rằng các việc tôi làm đều không phải để cho tôi”.
CHƯƠNG9
Vào một đem cuối tháng mười một năm Ất dậu (1225), trời tối mịt mù, gió rét căm căm, Trần Thủ Độ đem hết gia thuộc vào trong cung cấm rồi sai đóng chặt cửa thành lại. Quân tứ sương(1) chẹn đứng bốn cửa đông - tây - nam - bắc hoàng thành. Quân thánh dực, quân hổ bôn émdầy đặc trong tử cấmthành. Trên các trục đường từ các lộ Hồng, Khoái, Bắc Giang, Quốc Oai, Trường Yên đổ về kinh đều tăng số quân kỵ, quân bộ đóng giữ, canh phòng, tuần tra cẩn mật, tưởng đến một cánh chim cũng khó lọt qua được. Lệnh truyền: “Nội bất xuất, ngoại bất nhập”(2).
Vào một đêm như thế, quan thái phó Phùng Tá Chu được triệu vào cung. Quan thất kinh vì nhận thấy giọng nói thì thầm và bước đi êm nhẹ như những bóng ma của bọn lính trong đêm tối, ông linh cảm như có một tai họa gì khủng khiếp sắp giáng xuống đất Thăng Long. Vừa hoang mang, vừa tò mò, quan thái phó đoán già đoán non các việc có thể xảy ra. Nhưng ông không hình dung được một việc gì rõ ràng, mà nó chỉ mông lung mờ ảo như đámsương mù tháng chạp. Gần đây, việc quan thừa chỉ đang trấn trị châu Nghệ An được triều hồi về kinh, rồi lại hấp tấp đi nhiệm sở tại Trường Yên, khiến một số sủng thần cũng phải ngơ ngác, còn các quan khác hết đỗi hoang mang.
Vào tới nội điện, ông được diện kiến trước hết là quan tri thành nội ngoại chư quân sự Trần Thủ Độ. Bạch lạp sáng choang, soi rõ khuôn mặt quan ngài đằng đằng sát khí. Nhưng rất lạ, ông niềm nở mời quan thái phó vào cửa, cứ như là sắp có yến tiệc gì đây. Tiếp đó, lại thấy lấp ló có quan thái úy phụ quốc Trần Thừa, và cả bà thái hậu Trần Thị Dung cũng có mặt. Đọc những nét hiện trên khuôn mặt của ba người này, ông đủ biết triều chính đang có chuyện gì lớn lắm, nghiêm trọng lắm. Đến nỗi ông không dám cắt lời hỏi, mà chỉ rút nhẹ tờ hỏa lệnh gài trong khuôn mũ, kính cẩn đưa trả cho Trần Thừa, và khép nép nhìn bà thái hậu như muốn nói: “Thần xin phụng mạng”.
Phùng Tá Chu chưa kịp ngồi thì Trần Thủ Độ từ cửa tò vò đi vào, tay vẫn đặt hờ trên đốc kiếmnói: “Việc đã gấp lắmrồi. Anh cả và chị nói luôn để cho ông Chu thảo chiếu ngay!”. Nói xong, ông đi liền. Chỉ nghe tiếng vọng chân ông ở mãi phía ngoài thềm. Qua giờ Tý thì quan thái phó đã thảo xong chiếu, đọc thử cho bà thái hậu và anh em Trần Thủ Độ nghe. Trần Thừa gật gù hỏi: “Chú Đôï thấy thế nào?”.
Trần Thủ Độ bảo: “Được” rồi quay ra. Đêmấy Phùng Tá Chu phải ngủ lại trong cung.
Tin tức các nơi báo về đều không có động tĩnh gì. Sáng hôm sau đến giờ thiết triều, các quan văn võ tới chầu, nhưng cửa điện vẫn đóng im ỉm không được vào, Trần Thủ Độ uy nghi trong bộ võ phục đứng trên lầu Vọng Nguyệt nói xuống: “Nhà vua đã có chồng rồi”. Các quan đều nói: “Được! Xin cho vào lạy mừng”.
Nữ chúa Chiêu Hoàng trang điểm lộng lẫy ngồi lọt thỏm trong ngai vàng. Xế phía bên tả ngai vàng, Trần Cảnh đứng cạnh quan thái úy phụ quốc Trần Thừa. Bà thái hậu ngồi trước ngai. Các quan từ nhất phẩm trở xuống đều quì lạy. Nữ chúa ban tờ chiếu cho quan hàn lâmthị độc. Ông vái nhà vua ba vái rồi quì đọc.
Giọng quan thị độc sang sảng. Ông đọc thong thả từng lời, từng lời như thấu tận tim óc mọi người. Đọc xong, triều nội vẫn im phăng phắc. Các quan, ai nấy đều cảm thấy đây là việc làm không bình thường của hoàng gia, nhưng không có gì trái đạo. Bà thái hậu đứng lên nói vài lời:
- Xưa nay, việc hôn nhân là đạo thường trong thiên hạ. Nhà vua tuy tuổi còn nhỏ, nhưng đã sớm phải gánh vác việc lớn quốc gia. Thượng hoàng bệnh trọng, đã xuất gia. Ta lại là đàn bà không biết thế nào mà lo liệu. Nay bệ hạ ưng thuận quan chánh thủ Trần Cảnh để có bầu có bạn sớmhômhọc hành, mai đây còn lo việc lớn cho trămhọ. Mong các quan gắng sức khuông phò…” Thái hậu vừa dứt lời, các quan đồng thanh chúc cuộc trămnămcủa vua nhỏ:
“Thiên tuế! Thiên tuế!”
Vậy là cuộc hôn nhân được sắp đặt do cơ mưu và cũng do sức ép của Trần Thủ Độ đã êmxuôi. Những ngày sau đó, Trần Thủ Độ cho người đi tung tin khắp các châu, quận, trấn, lộ rằng Chiêu Hoàng nữ chúa đã lấy chồng, xem các đầu mục, nhất là hai viên tướng phản loạn đang trấn giữ hai vùng phía đông, phía bắc kinh thành có phản bác gì không. Tịnh không có gì xảy ra. Cũng không có chuyện vì nữ chúa lấy chồng mà các tướng phản loạn dấy binh. Phải chăng việc lấy vợ lấy chồng là đạo thường trong thiên hạ như lời bà thái hậu. Nếu vậy, quả là ông đã đi một nước cờ liều, nhưng lại thắng to. Điều ông sợ nhất vẫn là các quan đại thần ra mặt chống đối, hoặc ngấm ngầm kết liên với các thế lực của Đoàn Thượng, Nguyễn Nộn. Nếu hai người ấy hòa hợp với nhau, lại thêmcó chiếu cần vương của Huệ tôn, thì dù ông có đởmlược như Lý Thường Kiệt, Lý Đạo Thành cũng phải tự trói tay mà chịu chết. May thay, họ lại án binh bất động.
Lại nói về thầy trò Hoàng tiên sinh bữa nọ đang hái thuốc trong rừng sâu, chợt có người khách thương đem muối từ đồng bằng lên đổi lấy trầm hương, tùng hương, họ nói lại sự việc mới xảy ra ở kinh kỳ. Nghe xong, tiên sinh mỉm cười sung sướng, thầm khen: “Thủ Độ quả là một tay anh hùng, một tay gian hùng. Giỏi! Ycực giỏi. Đế nghiệp chắc chắn về tay họ Trần”.
Mười ngày sau vụ nhân duyên của Chiêu Hoàng - Trần Cảnh. Hoàng tiên sinh về tới kinh.
Vừa trông thấy Trần Thủ Độ, Hoàng tiên sinh đã kính cẩn vái chào. Hành vi đó khiến Thủ Độ phát hoảng lên. Vì từ khi mời được Hoàng tiên sinh hạ sơn, Trần Thủ Độ vẫn thờ ông như một bậc sư phụ. Còn ông, tuy giữ lễ với người quyền lực nhất triều, nhưng vẫn bảo tồn được cái phần kiêu hãnh của một bậc quốc sĩ, theo đúng đạo trung dung. Không kính quá, cũng không thường quá. Song bữa nay, có gì như trái với lệ thường, khiến Trần Thủ Độ phải cúi rạp mình xuống vái ba vái để đáp lễ tiên sinh. Thủ Độ tuy đã là một tay có tài tế thế, song vẫn không hiểu được thâmý của họ Hoàng. Điều đó có nghĩa rằng, Hoàng tiên sinh muốn khen người học trò của ông thuộc loại: “hậu sinh khả uý”. Tiên sinh thầm nghĩ: “Trong lúc thế cuộc rối ren, ta gợi cho ông ấy phải sắp lại cuộc cờ. Phải loại bỏ vai trò của đức vua điên. Chỉ nên lợi dụng cái danh của ông ta để điều hành việc triều chính, và sai khiến thiên hạ. Chính tiên sinh đã gợi cho Trần Thủ Độ một vài việc cần làm. Ví như việc sách lập Chiêu Thánh làm hoàng thái tử, rồi đưa “Hoàng thái tử” lên kế nghiệp. Tiếp đó ông ta lại nghĩ ra chuyện đưa luôn thằng bé tám tuổi, cháu ông ta vào chầu hầu vua nhỏ, với chức chánh thủ. Vậy thời thằng bé ấy, kết duyên với con bé kia, là chuyện đương nhiên. Vì cha chú chúng đã có chủ ý”.
Sực nhớ đang trò chuyện với Trần Thủ Độ, Hoàng tiên sinh nói như người vừa mới chợt nghĩ ra:
- Thế tất còn một việc trọng yếu sau cuộc hôn nhân này, tới lúc nào mới được thực thi? Thưa quan ông.
Trần Thủ Độ giật nảy mình như người dẫm phải gai. Ông tự hỏi: “Ông già này như biết hết ruột gan ta. Thật không có việc gì có thể qua được mắt tiên sinh”. Thay vì trả lời, Trần Thủ Độ mỉmcười và hỏi lại:
- Xin tiên sinh dạy cho, nên làmvào lúc nào là tốt nhất?
Hoàng tiên sinh lại nghĩ: “Con người này tuy ít học, nhưng sáng ý lạ thường. Chỉ gợi cho ông ta một bước, là ông ta bước tiếp cả một
chặng dài. Thuần những bước đi chắc nịch. Ông ta thuộc loại người đa mưu túc trí, nếu được dẫn dắt vào con đường lương thiện, hẳn nhiên sẽ trở thành con người đức độ, làm rường cột cho quốc gia. Ông ta thuộc loại người có thể chia sẻ quyền lợi chứ không chia nhường quyền lực. Gặp lúc hiểm nghèo có thể nhún chứ không lui. Trong lúc thế nước ngàn cân treo sợi tóc, hoạ nồi da xáo thịt đang hăm doạ muôn dân; phải có những người đại hùng, đại trí như thế này mới mong gỡ được thế cuộc. Ở ông ta cái thiếu không phải là trí hoặc dũng, mà là nhân. Nếu ông ta tu chính để thành người nhân nghĩa nữa, chắc chắn ông ta sẽ trở nên một bậc thánh”. Giây lâu, tiên sinh mới lại hỏi:
- Việc này quan ông làmcàng sớmcàng tốt. Bởi có chính danh vị mới định được danh phận.
Hoàng tiên sinh thấy trong lòng êm nhẹ, bởi thế nước có cơ an thịnh. Tiên sinh cũng tin nơi Trần Thủ Độ, có thể lèo lái được con thuyền quốc gia, tới bến bờ đắc thắng. Vả lại, trong triều cũng còn nhiều bậc lỗi lạc, có thể giúp rập thêm vào. Tiên sinh đang có ý muốn trở lại chốn sơn lâm, hoặc chu du thiên hạ làm thuốc, cứu nhân độ thế. Cũng muốn nhân dịp này bày tỏ với Trần Thủ Độ đôi điều, ngõ hầu mới có thể khai triển trong việc an dân hưng quốc. Trần Thủ Độ khiêmnhã chắp hai tay nói:
- Xin lĩnh ý tiên sinh. Rồi ông tiếp: - Bẩm tiên sinh, từ ngày được tiên sinh chỉ giáo, tôi cũng làm được đôi điều khả dĩ thành tựu. Song le, việc học hành chữ nghĩa kémcỏi, thành thử làmviệc trước chưa lường được việc sau. Nhiều điều còn mù mờ rối rắm, như người lạc vào rừng giữa đêmtối. Chỉ mong có dịp gần, sớmchiều được tiên sinh chỉ bảo, họa may mới có thể tránh được sự bại vong. Có nhẽ Trần Thủ Độ đã gợi trúng điều Hoàng tiên sinh đang suy ngẫm, ông hồ hởi đáp:
- Quan ông đối với ta ưu hậu quá, khiêm nhường quá. Chẳng hay cuộc tiếp kiến dạo trước, những lời nói thẳng của ta có làm quan ông phật ý? Ta cứ áy náy mãi, là bởi: “Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy”(3).
- Bẩm tiên sinh, nhờ có tiên sinh sáng suốt vạch ra những điều bất thiện ẩn náu trong con người tôi, tôi lấy đó làm bài học răn mình, lúc nào cũng sợ hãi như người cầmroi mục giong cương ngựa thiên lý.
Hoàng tiên sinh cười ha hả, vuốt chòmrâu bạc, vẻ đắc ý, ông nói:
- Ta với quan ông, tình là bầu bạn, nghĩa là thầy trò. Quan ông đối với ta, tình là chỗ quan dân, nghĩa là sự trên dưới. Trần Thủ Độ xua tay:
- Không dám! Không dám! Tiên sinh dạy quá lời.
Hoàng tiên sinh lại nói:
- Tựu trung, cả nghĩa lẫn tình giữa quan ông với ta có thể qui về mấy chữ sau đây:
TƯƠNGTHỨC MÃN THIÊN HẠ
TRI ÂM NĂNGKỶNHÂN(4).
Ta nói để quan ông rõ. Kẻ sĩ chết vì người tri kỷ.
- Xin đa tạ tiên sinh!
Hoàng tiên sinh với giọng trầmấm, rủ rỉ nói với Trần Thủ Độ những điều tâmhuyết mà bấy lâu ông hằng ấp ủ. - Sớm muộn gì thì thiên hạ cũng về tay họ Trần. Sự nổi loạn của các sắc mục miền xuôi, của các người Man miền ngược, quan ông ra
tay bình định một sớm một chiều là qui phục hết. Điều đáng lo ngại của quan ông là hai thế lực to lớn của Nguyễn Nộn ở phía Bắc, Đoàn Thượng ở phía Đông. Đoàn Thượng như bữa trước ta đã nói. Ysẽ tự tan. Còn Nguyễn Nộn hết thời cơ rồi. Vả lại ông ta không phải là địch thủ của quan ông. Cứ dùng chính lệnh của triều đình mà sai khiến. Hai người này không thể liên kết với nhau để thành một đại lực lượng, chống lại quan ông. Ví rằng cả hai người đó đều là những kẻ vị kỷ chứ không vị nhân. Nghiệp lớn không thể rơi vào tay họ được.
Hoàng tiên sinh ngừng lời, như vẫn còn muốn kiểm xét xem những điều gì thật cần thiết, thật có ích cho việc hưng quốc an dân, ông sẽ hết lòng bầy tỏ với Trần Thủ Độ.
Giây lâu tiên sinh lại nói:
- Mai đây khi đã kiêmtính được thiên hạ, tiên sinh nói tiếp - Có mấy việc lớn quan ông phải lưu ý làmngay. Việc đầu tiên là phải lo chấn chỉnh lại bộ máy hành chính quốc gia. Trước hết, phải dùng được người tốt, người tài giỏi. Dùng được người tốt, người tài giỏi thì trị an, dùng phải kẻ xấu thì nguy loạn. Một nước trị hay loạn là do ở vua và quan giỏi hay dở. Vì thế, việc dùng người là khâu then chốt nhất của một triều đại. Việc hình luật mà quan ông đang sửa sang, phải gấp gáp. Một nước văn hiến không thể không có luật pháp. Luật pháp có rồi lại phải nghiêm. Ngay đến đức vua cũng không được đứng trên luật pháp. Quan ông cũng nên xét lại các chính lệnh của nhà Lý để mà di phong dịch tục. Điều gì hay phải giữ. Đại Việt từ khi lập quốc, chỉ đến nhà Lý mới được xemlà một triều đại có văn hiến. Về chiến công thì oanh liệt, về chính trị thì nhân từ.
Các chính sách như ngụ binh ư nông và tổ chức quân đội, là một chính sách lỗi lạc. Giữ binh lính ở việc làm ruộng việc, là phục việc nguy hiểmvào nơi thuận tiện. Nhất là việc tổ chức quân đội, đến nhà Tống còn phải học(5).
Việc an dân và việc binh bị, quan ông đã có nhiều chủ kiến hay, ta không bàn tới nữa. Ngừng một lát tiên sinh lại tiếp: Mấy chục năm gần đây, nhiều người bài xích đạo Phật, bắt sư hoàn tục. Không nên quên rằng nhà Lý gốc ở Phật, mà dựng được một quốc gia hùng cường, thuần ái. Không những thế, nhà Lý còn kiêm dùng được cả ba đạo: Nho - Lão - Thích. Ngay nhân tài cũng từ cửa đó mà ra. Các khoa thi tam giáo đã lựa được biết bao tài năng cho đất nước. Ngày nay có nhiều người cho rằng, Phật giáo nặng về mê tín dị đoan. Đâu phải thế. Dị đoan là bọn đồng cốt. Còn Phật, chủ về cả thế tục lẫn tâm linh. Căn cốt của Phật là giác ngộ và giải thoát. Nên nhớ rằng nếu khờ dại mà tước đi của con người phần tâm linh, thì họ sẽ bơ vơ không nơi an trụ thân tâm, sẽ cô đơn hoang dã như loài thú. Nói cho đúng thì Phật liên kết chúng sinh lại, cũng như nỗi đau trần thế liên kết mọi con người. Hoặc giả không có Phật Thích-ca mâu-ni, thì con người cũng tạo ra Phật để mà tin thờ, để mà gởi gắm cho vơi vợi nỗi đơn côi. Phần tâm linh đã vậy, còn phần dân trí thì sao? Phải lo mở mang việc học để khai phóng dân trí. Dân trí mở mang rồi, thì lo đến việc trì quốc, chứ đừng khư khư mãi chính sách trị quốc. Giữ nước là công việc của trăm họ, của muôn dân, còn trị nước chỉ là công việc của một dúm người trong bộ máy quan liêu. Chính sách gì của triều đình, quan ông cũng phải chú trọng trước hết đến việc dùng kẻ sĩ, trọng người hiền. Với loại người này chỉ có dùng đức để thuyết phục, dùng lễ để sai khiến, chứ dùng quyền uy, phú quí họ coi khinh không bằng cọng cỏ. Chung qui, kẻ sĩ thì dễ thờ mà khó làm cho họ đẹp lòng. Còn bọn tham bẩn thì khó thờ mà dễ làm cho chúng đẹp lòng. Một nước muốn cất mình lên, chỉ có thể trông cậy ở lớp người hiền tài.
Hoàng tiên sinh nói như giãi bày hết cả gan ruột mình, như muốn truyền thụ tất cả những gì ông thu nhận được qua chữ nghĩa thánh hiền, cũng như những gì ông đã suy nghiệm gần mãn cuộc đời, hoặc nếm trải qua cuộc sống đắng cay của đám cùng đinh dân dã, vẫn
chưa có cơ may thi thố.
Trần Thủ Độ rất đỗi cảmkích tấmlòng ưu nghĩa của tiên sinh. Mỗi lời nói của tiên sinh đều giản dị dễ hiểu, dễ nghe nhưng lại ẩn chứa những đạo lý sâu sắc mà tiên sinh iu ấp suốt đời. Phương chi những điều ấy lại được thi thố đầy đủ thì dân nào chẳng giàu, nước nào chẳng mạnh.
Thấy Hoàng tiên sinh ngưng lời, và sắc diện tiên sinh hơi mỏi mệt, Trần Thủ Độ lựa hỏi:
- Bẩm tiên sinh, tiên sinh đi khắp trong dân chúng cũng như trong đám quan quân, chẳng hay có dư luận gì về kẻ ngu dại này đang nắmtrọng trách quốc gia, xin tiên sinh cho biết để hoạ may còn đổi lỗi?
- Hễ đã có làm bất cứ một điều gì là đều có dư luận. Huống chi quan ông là bậc tể thần, mỗi việc làm của quan ông là đụng đến cả rường mối quốc gia. Sao lại không có dư luận?
Mọi người đều ưa quan ông cả ư?
Mọi người đều ghét quan ông cả ư?
Sự ưa ghét ấy đều không thật. Vì ở đời có người thiện, kẻ ác. Nếu người thiện ưa mà kẻ ác không ghét, là không thật. Hoặc kẻ ác ghét mà người thiện không ưa cũng không thật. Cho nên làm việc gì mà người thiện ưa, kẻ ác ghét, ấy là thật. Biện biệt như thế mới thấy rõ người hay kẻ dở ở đời.
Trần Thủ Độ vẫn còn một điều áy náy, với vẻ khoái hoạt, ông hỏi:
- Thưa tiên sinh, vừa rồi tiên sinh có dạy phải sửa sang hình luật. Chẳng hay làm thế nào để hình luật ban ra cho hợp lý, từ người trí đến kẻ ngu đều chấp nhân được.
Suy nghĩ giây lâu, Hoàng tiên sinh đáp:
- Hãy xem xã hội như một ngôi nhà chung, mỗi người đều phải có trách phận giữ gìn. Qui ước chung để giữ gìn “ngôi nhà xã hội” đó, là luật pháp. Pháp luật hay luật lệ gì cũng đều do con người làm ra. Cho nên nó phải phù hợp trước hết với cuộc sống của con người và không trái với lương tâm. Ấy là hợp đạo lý. Việc tối kỵ là chỉ san định những điều có lợi riêng cho các người cầm quyền, mà thiệt hại cho dân chúng, thì đấy sẽ là đầu mối của sự loạn.
Thoáng gợn một nét buồn, Hoàng tiên sinh cáo từ.
Trần Thủ Độ xúc động tới mức chưa kịp nói lời cảmtạ, Hoàng tiên sinh đã khuất sau dãy xuyên đường.
===
1.Quân tứ sương: quân canh gác bốn cửa thành.
2. Đây là lệnh giới nghiêm, cấmngười ở trong thành không được đi ra, ở ngoài thành không được vào, ai ở yên vị trí đó. 3. Nghĩa là: Một lời đã nói ra, bốn ngựa đuổi khó kịp. Nghĩa bóng: Phát ngôn phải thận trọng. Lời nói ra khó thu về. 4. Có nghĩa: Bạn bè biết nhau đầy rẫy trong thiên hạ. Nhưng thực ra tri âmđược mấy người
5. Tống sử nói về “ An Namhành binh quân pháp” (“Phép dùng bình của người An Nam”) có đoạn viết: “Thái Diên Khánh là tri châu ở đất Hoạt thường học được phép tổ chức quân đội của An Nam, xin bắt chước qui chế chia ra từng bộ phận. Dâng lên vua Thần tông
(1068 - 1084) được vua khen”.
Trong “Vân đài loại ngữ”, Lê Quý Đôn có thuật lại về “Thái Diên Khánh truyện” rằng: “Diên Khánh thường theo phép hành binh của An Nam. Bộ đội chia làmcác hạng: Chính binh và Phiên binh... Diên Khánh ghi chép tất cả rồi dang thư lên vua Thần tông bên Tầu, được vua khen”.
Theo tác giả Pierre Pasquier trong “Annam d’autrefois” đã viết: “L’Annam a connu le soldat laboureur avant la Rome antique” - “Nước Nambiết dùng binh làmruộng trước cả nước La Mã cổ xưa”.
CHƯƠNG10
Sau những lời tâm phúc cao diệu mà thiết thực của Hoàng tiên sinh, đêm ấy Trần Thủ Độ trằn trọc mãi không ngủ được. Ông có cảm giác như tiên sinh đã đemhết ruột gan ra để truyền dạy cho. Và ông cũng mơ hồ cảmnhận như là tiên sinh sắp rời bỏ ông. Để khoả lấp sự trống trải cô đơn mà ông cứ triền miên vẽ ra trong đầu óc; Trần Thủ Độ vùng dậy đốt hương đứng giữa trời khấn vái:
“Tôi vốn xuất thân con nhà chài lưới, làm ruộng. Chẳng may gặp lúc nước nhà loạn lạc, đã giốc hết sản nghiệp ra tiêu dùng vào việc cứu khốn phò nguy. Những mong dân cư an lạc, đất nước thanh bình. Nếu vận số nhà Lý đã hết. Lòng Trời muốn trao nghiệp lớn thiên hạ vào tay họ Trần, xin hoàng thiên hậu thổ linh phù cho sự nghiệp mau thành; để bốn phương dứt nạn đao binh. Tôi không có tham vọng chiếmđoạt ngôi cao, chỉ xin khuông phò vua nhỏ, cốt hưng vận nước, để phúc cho đời. Xin Trời phù hộ…”
Sớm ra, ông sai lão bộc gây đốt lò trầm, đun nước pha trà để đích thân ông sang mời Hoàng tiên sinh. Trần Thủ Độ chụp lên đầu chiếc mũ tiến hiền, khoác áo thụng tía, chân dận giầy thêu chim loan phượng, đến chực sẵn trước nhà bái đường. Ông cứ tha thẩn đi lại nơi hàng hiên, xem tiên sinh đã thức dậy chưa, ông muốn mời tiên sinh trước khi tiểu đồng kịp pha nước. Đã nom rõ mặt người, Trần Thủ Độ kiễng nhìn qua hàng con tiện phía trên cửa bức bàn, không thấy động tĩnh gì. Lại để ý không thấy đôi câu đối vẫn treo ở hàng cột gian giữa. Lòng hồi hộp, quan ông đẩy nhẹ khuôn cửa bức bàn. Cả hai cánh hé mở. Thì ra cửa chỉ khép hờ. Trần Thủ Độ lên tiếng gọi:
- Bẩmtiên sinh! Ông nhắc lại, giọng nhấn to hơn, nhưng âmsắc đã có phần hơi lạc:
- Bẩmtiên sinh!
Vẫn không có dấu hiệu gì, Trần Thủ Độ bước vào nhà trong. Cảnh tượng như một mũi dao đâm thấu tim ông: màn trướng, chăn gối xếp đặt gọn gàng. Cây sáo trúc, chiếc đàn tranh vẫn treo trên vách. Sách trên giá đâu vào đấy. Tất cả các đồ văn phòng tứ bảo lau chùi sạch sẽ, bầy đặt thứ tự, y hệt ngày đầu Hoàng tiên sinh mới đến. Giữa án đặt một phong thư. Trần Thủ Độ run run mở ra đọc. Đọc xong ông thở dài ảo não:
- Thế là hết! Tiên sinh không trở lại nữa. Cũng không cho ta kiếm tìm. Mong muốn đôïc nhất của tiên sinh là:…Thấy đám lê dân tận nơi thôn cùng xóm vắng được sống đủ đầy, hiếu thiện…Ôi, cái ơn tri ngộ này ta quyết phải đền đáp, để thoả lòng mong ước của tiên sinh.
Trần Thủ Độ cho gọi đám lính canh. Họ nói thầy trò tiên sinh đi từ lúc nửa đêm. Thủ Độ im lặng không nói gì nữa. Vì rằng ông đã có lệnh cho đám lính, cứ để tiên sinh tự ý đi về bất kỳ lúc nào, không được hỏi han quấy quả. Vậy là tiên sinh đã đi mà không để lại dấu vết. Trần Thủ Độ đi quanh quẩn trong nhà và nhớ lại tất cả những kỷ niệmvề tiên sinh. Chợt thấy đôi liễn vẫn còn treo ở chổ cũ. Hai vế, mười chữ(1) tiên sinh viết chân phương như một lời răn dạy mà người để lại. Chắc có hàm ý khuyên bảo. Ngay việc viết câu đối liễn, thường người ta viết lối thảo thư(2) thật là bay bướm. Có người viết theo lối cuồng thảo, kẻ ít học không sao đoáùn được.
Tiên sinh như một cánh hạc trời, biết đâu mà tìmkiếmnữa. Vả lại những điều gì cần thiết, tiên sinh đã nói hết cùng ta. Chỉ tiếc là người hiền tài thế mà không chịu ra giúp đời. Nửa năm trời đi lại khẩn cầu, tiên sinh mới chịu xuống núi. Tiên sinh ở đúng nửa năm nữa rồi lại bỏ ra đi. Tiên sinh có phong độ của các bậc tiên thánh, ta ô trọc thế này sao có thể níu được chân người. Trần Thủ Độ hết tiếc nuối lại tự dày vò. Mãi lâu sau ông mới tĩnh tâm lại được. Ông sai đám gia nhân thường ngày phải quét dọn nhà cửa và giữ nguyên mọi thứ, như tiên
sinh vẫn còn lưu trú tại đây. Ngay cả khu vườn thuốc, cũng phải chămnomtưới tắmcho chu tất.
Mãi ba ngày sau khi Hoàng tiên sinh đi rồi, Trần Thủ Độ mới lần hồi nhớ lại được các công việc tiếp nối cần làm. Nhớ lời khuyên bóng gió của tiên sinh như còn vẳng bên tai: “ Thế tất còn một việc trọng yếu nhất sau cuộc hôn nhân này, bao giờ mới được thực thi?”. Hỏi vậy, nhưng rồi tiên sinh lại chỉ ra: “Việc này làm càng sớm càng tốt. Bởi vì có chính danh vị mới định được danh phận”.
Trần Thủ Độ hiểu ngay nghĩa bóng Hoàng tiên sinh muốn nói, là quyền lực phải thu về một mối. Thu về một mối ở đây cũng có nghĩa là phải triệt bỏ nhà Lý. Nhưng triệt bỏ bằng cách nào để cho trong ngoài đều êmthuận? Đó là việc làm cực khó. Trần Thủ Độ đã tính đếm lại các việc lớn đã làm trong thế cờ chuyển tiếp. Tháng mười năm ngoái - năm Giáp thân (1224) sách phong Chiêu Thánh làm Hoàng thái tử, Huệ tôn truyền ngôi. Rồi đúng một năm sau, tức là mới ngày hăm mốt tháng trước, Chiêu Hoàng - Trần Cảnh kết đôi. Cả hai việc đó đều lo đến són máu. Nhưng rồi thiên hạ cũng cho qua. Chắc các việc ta làm đều hợp lòng dân, thuận ý trời. Song thuận hay nghịch mà tránh được cho nước cái hoạ nồi da xáo thịt, thì thật là phúc lớn cho trăm họ. Ta thề sả thân. Cho dù các việc ta làm có bị bọn người thiển cận cản phá, bọn nho sĩ cổ hủ chửi rủa, bọn ngu trung chống đối, ta sẽ quét sạch mọi trở ngại để tiến lên vì nghĩa lớn. Dự liệu sẵn một kế sách ở trong đầu, Trần Thủ Độ liền bàn kín với với anh lớn là Trần Thừa và bà thái hậu Trần Thị Dung. Phải nói, không việc gì Trần Thủ Độ không bàn tính với Trần Thị. Vì từ khi phế truất thượng hoàng nhà Lý, cho ra ở chùa Chân Giáo, thì việc đi lại giữa Trần Thủ Độ với thái hậu là việc ngang nhiên. Trần Thị là một người có nhan sắc, tính tình kín đáo, chỉn chu. Bà không thuộc loại người dâm đãng ưa sự bướm ong. Gặp lúc thế nước nghiêng ngả, Huệ tôn lại bệnh hoạn điên khùng từ năm hăm ba tuổi. Vậy là ròng rã tám năm trời, bà phải sống với một phu quân điên loạn. Có chồng cũng như không. Trong khi đó Trần Thủ Độ hay gần gũi bàn việc cơ mật của hoàng gia. Tình là chị em, nghĩa là vua tôi. Trần Thủ Độ là một người khí chất cường tráng, việc làm dứt khoát, cao thượng hơn đời, tỏ ra là một đấng trượng phu, khiến cho Trần Thị không thể không yêu trọng. Lại điều sớm hôm gần gũi, đầu mày cuối mắt. Vả lại lửa gần rơm lâu ngày rồi phải bén, cũng là chuyện thường tình chứ đâu phải điều hy hữu.
Nhân cuộc ái ân thầm lén vào một đêm khuya khoắt trước khi xẩy ra chuyện nhường ngôi, Trần Thủ Độ khéo lựa lời nói với bà thái hậu Trần Thị Dung:
- Có một việc trọng yếu, ta muốn bàn kỹ với bà đêmnay, chẳng biết ý bà thế nào?
Bà Dung mỉmcười, hỏi lại:
- Còn việc trọng yếu hơn là việc ông dámđột nhập vào cấmcung?
- Ta nói nghiêmtúc, sao bà lại có ý giỡn ta?
- Ô hay, ông tưởng điều ta nói là cợt đùa sao? Nếu quân thị vệ bắt được ông đang ở trong cung này, liệu ông có tránh khỏi hoạ chu di không?
Vẻ khôi hài Trần Thủ Độ trêu lại:
- Vậy tội của ta là ở chỗ đã để cho quân cấmvệ bắt được, còn ta đi lại với bà đâu có phạmvào các điều cấmkỵ. Nhưng thôi, bà cứ yên lòng, chính chúng nó đang canh cho ta vào đây bàn việc cơ mật với bà đấy.
- Bấy lâu nay tôi vẫn coi ông là một bậc chính nhân quân tử, không ngờ ông lại tối tăm thế. Đem việc quốc sự vào chốn buồng the,
ông định hù doạ tôi điều gì chăng?
Bà thái hậu nói cứng vậy thôi, nhưng lòng đã thấy run run. Bà biết người tình của mình lắm. Ông ta là người mà bà không thể nào hiểu nổi. Cười nói đấy, đùa cợt đấy, nhưng vẫn kín bưng như một chiếc vò đậy nắp. Từ sau bữa được mục kích cảnh ông ta giam giữ Huệ tôn, rồi bức nhà vua phải xuất gia, thái hậu càng thấy ghê sợ con người âm mưu, quyền biến và ác độc này. Đôi phen lương tâm thức tỉnh, bà toan chặt đứt mọi mối dây ràng buộc giữa bà với Trần Thủ Độ, khôi phục kỷ cương cho nhà Lý, rồi mời lại Huệ tôn về chấp chính. Mới nghĩ vậy thôi, bà đã vội che mặt, nhắmmắt để không còn hình dung ra cái cảnh đầu rơi máu chảy. Bà dựa vào ai, và lấy cái gì để chống lại ông ta. Chao ôi, chỉ cần trái ý ông ta cũng đủ làmcho giông tố nổi lên rồi, nói chi đến chuyện chống trả.
- Vậy chớ bà có ưng nói chuyện cơ mật ở đây không? Trần Thủ Độ nhắc lại và nhấn thêm: - Không ở đâu thuận tiện hơn chiếc bảo sàng của bà đây. Bà có nhớ, chính nơi đây bà đã sản sinh ra hai nàng công chúa. Và một trong hai đứa đang trị vì thiên hạ. Vừa nghe đến chuyện “Trị vì thiên hạ”, thái hậu bật cười khanh khách. Tiếng cười nghe man dại như có hồn ma bóng quỷ hiện hình. Ánh đèn lấp ló phía sau rèm hắt lên khuôn mặt bà những đốm sáng loang lổ, nom bà như thực, như mơ. Chính tiếng cười của bà làm cho Trần Thủ Độ giật mình, lạnh gáy. Ông ngồi dậy nhìn thẳng vào khuôn mặt bà, hai tay đặt lên bờ vai bà lắc lắc, và khẽ gọi: - Bà! Bà! Bà thái hậu!
Một thoáng mơ màng, thái hậu khẽ rùng mình, rồi từ đôi khoé mắt bà lấp lánh nước. Đúng là bà mới trải qua một ảo giác khủng khiếp. Khi bà cất lên tiếng cười, chỉ với ngụ ý giễu lời tháisư nói về đứa con gái út của bà, mới támtuổi “đang trị vì thiên hạ”. Nhưng cũng chính lúc đó, bà không tự chủ được nữa, không thể hé miệng nói được câu gì nữa. Và bà thấy bóng Huệ tôn vừa ló ra, thì có một người to lớn giấu đầu sau tấm mặt nạ, huơ thanh trường kiếm lên hớt vào sau gáy nhà vua. Chiếc đầu bay lên trời, va dòng huyết từ cổ nhà vua phụt lên như một cây bông máu. Tới lúc Trần Thủ Độ lay gọi, bà mới định thần, và lả người đi, buông tấm thân mềm nhũn vào lòng quan thái sư.
Giây lâu, Thủ Độ vuốt ve bà rồi lại thủ thỉ:
- Ta chắc hậu đang lo cho số phận con Chiêu Thánh với chiếc ngai vàng của nó.
Thái hậu không trả lời, bà đặt bàn tay mềm yếu của mình lên bộ ngực trần đồ sộ như một tấm phản của thái sư. Đáp lại cử chỉ tin cậy của bà, Trần Thủ Độ đưa bàn tay thô nhám của ông thoa nhẹ lên má bà. Thái hậu có cảm giác như đức ông đang cầm chiếc chổi rễ tre chải lên mặt bà. Và ông ta lại nói:
- Bà phải nhớ, tôi với bà nghĩa là chỗ trong nội tộc, tình là sự chung thân. Cho nên, nỗi lo của bà, là nỗi lo của chính tôi. Muốn nói gì thì nói, muốn lo gì thì lo, trước hết tôi phải tính đến sự hưng vong của đất nước, sự trường tồn của dòng họ Trần ta, và sự tồn tại của mẹ con bà và cả của tôi nữa. Vừa nãy, chắc bà cười giễu tôi về chuyện con Chiêu Thánh ở ngôi chứ gì?
Bà thái hậu khẽ gật đầu. Thủ Độ nói tiếp:
- Trong chuyện Chiêu Thánh lên ngôi, chẳng qua chỉ là bước mở màn của một tích trò. Không thể để như thế mãi được, trơ quá. Thái hậu hốt hoảng ngồi nhổmdậy, nói chẳng ra lời:
- Vậy ông lại định phế truất con tôi. Lại giamnó vào lãnh cung như ông đã giamcha nó?
Trần Thủ Độ đỡ nhẹ tấmthân bà thái hậu, rồi chải bàn tay xù xì lên mái tóc bà. Ông nói, giọng đều đều xa thẳm: - Một khi nó đã là con bà, thì nó cũng như con tôi. Bà phải biết, dữ như hùm sói, nó cũng không ăn thịt con nữa là người. Sở dĩ hôm nay tôi phải bàn bạc kỹ lưỡng với bà, cũng do chuyện con cháu nhà mình cả. Chắc bà không lạ gì, ngoài thì các thế lực đang kình chống ta, đang lăm le thôn tính. Trong thì các đại thần chưa phục. Cái chuyện dang dở hiện nay, người ta chưa biết rồi quyền nhiếp thống thiên hạ sẽ thuộc về ai. Lý hay Trần? Dòng đích họ Lý tuyệt tự rồi. Mà với họ Trần, thiên hạ đang ngờ răng tôi sẽ chiếm đoạt ngôi cao. Vì thế, tôi định bàn với bà, để con Chiêu Thánh nhường ngôi cho chồng nó.
- Nhường ngôi! Thái hậu nhắc lại, lạc cả giọng. Bà thầm nghĩ: “Lại dở thêm cái trò gì nữa đây. Hoá ra không phải họ phò Chiêu Thánh như ta tưởng. Mà họ đang tìmcách diệt con ta”. - Vậy là ông toan tính chuyện cướp ngôi một lần nữa?
- Không. Không phải chuyện soán đoạt gì mà bà phải hốt hoảng lên thế. Tôi chỉ muốn chúng nó nhường ngôi cho nhau. Thái hậu nài nỉ:
- Cứ cho rằng chúng nó nhường nhau cái ngôi vị quân trưởng hờ kia. Ông thật khéo bầy đặt. Hai đứa cùng bằng tuổi nhau. Chúng nó đã biết gì đâu. Thằng chồng hay con vợ làmvua thì cũng có khác gì. Hãy cứ để cho chúng lớn khôn lên đã. Trần Thủ Độ chớm thấy mầm phản kháng nhen lên trong lòng bà thái hậu. Ông thầm nhủ: “Vậy là việc phải hoàn tất càng sớm càng tốt. Ngay người trong nhà còn khó bảo nhau nữa là người ngoài”. Ông thủ thỉ khuyên bà thái hậu:
Tình thế không thể kéo dài mãi được đâu bà ơi. Ngoài biên thuỳ giặc Mông - Thát ráo riết nhòm ngó. Trong nước thì năm bè bảy mối. Nếu cứ để lắt lay dòng họ Lý nắm quyền đại thống, thiên hạ sẽ còn đua nhau giành giật. Bởi thế, ngôi quân trưởng phải đưa về cho Trần Cảnh. Đằng nào thì chúng cũng là con bà.
Vốn là người mẫn nhuệ, bà Trần Thị Dung hiểu rằng tình thế không thể cưỡng lại được nữa rồi. Bà rùng mình kinh sợ về những cuộc thay bậc đổi ngôi. Mới chỉ cách đây hơn một năm, ngôi báu truyền từ Huệ tôn sang con gái bà, thì nhà vua chuyển từ cung đình vào lãnh cung. Đến lượt Chiêu Thánh phải nhường ngôi, liệu nó có phải chiếm chỗ của cha nó trong lãnh cung? Và bà từ một hoàng hậu nhảy vọt lên ngôi thái hậu, rồi lại tụt hẫng xuông hàng thê thiếp hay nô tỳ nữa chăng? Ác nghiệt lắm sao, người tình của bà làm lung lay chao đảo tất cả mọi ngôi thứ trong triều, mà không một kẻ nào dám động đến ông ta. Rồi mai đây số phận các bà, và cả chính bà nữa sẽ xô đẩy về đâu? Câu hỏi như một chiếc dây thòng lọng đang chờn vờn nhảy múa trước mặt bà, khiến bà hốt hoảng hét lên:
- Không. Không thể như thế được!
Con người mưu lược như Trần Thủ Độ, làmgì mà không nhìn thấu suốt nỗi băn khoăn lo sợ về danh vị của bà, của con bà. Ông cúi xuống đặt nhẹ lên trán bà một cái quệt môi. Rồi bàn tay thô nháp của ông lại vuốt vuốt trên bờ vai bà. Ông thủ thỉ nói, giọng đầmấmnhư mơn trớn vỗ về, như khuyên bảo, răn đe:
- Tôi định sắp xếp thế này, bà thấy có nên chăng. Chiêu Thánh làm hoàng hậu. Như thế nghe thuận hơn. Cảnh sẽ phong bà làm quốc mẫu. Vậy có khác gì ngôi thái hậu. Quyền bính vẫn nằmtrong tay tôi. Tôi phải khuông phò chúng nó cho tới lúc đủ lông đủ cánh. Nếu bà có bụng yêu thương tôi, nay mai Hụê Quang viên tịch, tôi với bà kết nghĩa. Thử hỏi, thế thì bà và chúng nó chỉ có được thôi chứù mất gì đâu?
Nghe những lời bàn bạc sắt đanh như lời của định mệnh phán truyền, thái hậu he hé làn mi nhìn Trần Thủ Độ, như là một sự miễn
cưỡng nghe theo. Nhưng trong lòng bà giông bão đang cuồn cuộn nổi lên. Không biết mối dây oan nghiệt nào lại dẫn dắt bà đến với hai người đàn ông kỳ dị này. Có đúng bà ý thức được các việc cần làm và phải làm, hay bà cũng chỉ là con rối trong tay ông thái sư thống quốc. Chao ôi, cuối cùng rồi bà vẫn không thoát ra khỏi vòng tay khắc bạc của ông ta. Thôi thì mặc cho số phận. Bà đã tính đến chuyện liều.
Một lát, Trần Thủ Độ lại ghé sát vành tai bà hỏi lại:
- Vậy chớ ý bà thế nào?
Bà khẽ thở dài, như trút đi nỗi bất lực đang dồn nén trong lòng ngực, và uể oải đáp lời:
- Quyền bính trong tay, thấy thế nào là thuận, ông cứ theo đó mà làm.
Bàn tính trong ngoài xong, Trần Thủ Độ sắp đặt mọi việc kín như bưng. Đúng ngày đại cát, nhằm ngày Mậu dần, mười một tháng chạp năm Ất dậu (1225), Chiêu Hoàng đặt đại hội ở điện Thiên An. Cả kinh thành vào hội. Đèn, hoa, cờ, phướn giăng mắc khắp nơi. Dân chúng nô nức kéo nhau đi xemđủ các trò.
Trong nội điện, Lý Chiêu Hoàng ban tờ chiếu cho quan hàn lâm thị độc. Lời văn thống thiết, lại được quan thị độc tốt giọng, đọc như rót vào tai các đại thần, khiến mọi người đều xúc động. Tới đoạn: “… Nay trẫm suy đi tính lại một mình, duy có Trần Cảnh là người văn chất vẹn tuyền, thực là thể cách hiền nhân quân tử, uy nghi chễm chệ, có tư chất thánh thần văn võ, dù đến Hán Cao tổ, Đường Thái tôn cũng không hơn được. Sớmtối nghĩ kỹ, xét nghiệmtừ lâu, nên nhường ngôi báu, để thuận lòng trời, để phu lòng trẫm…”
Trần Thủ Độ dõi theo sắc mặt từng người, xem các quan có đồng lòng với chiếu nhường ngôi. Ông thấy mọi người bình thản. Biết rằng việc lớn sẽ êm.
Dứt lời chiếu, các quan đều phủ phục dưới sân rồng. Chiêu Hoàng bước ra khỏi ngai, trút bỏ áo ngự và mũ miện khoác vào cho Trần Cảnh, khuyên mời chàng lên ngôi hoàng đế.
Bá quan tung hô vạn tuế!
Các quan dâng niên hiệu mới là Kiến trung. Liền theo đó triều đình tôn xưng Trần Thủ Độ làm quốc thượng phụ để coi việc thiên hạ. Thủ Độ cũng trần tình việc nước trước vua mới cùng bá quan văn võ. Triều hội đồng thanh tôn thánh phụ Trần Thừa làm thượng hoàng nhiếp chính, tạmtrông coi việc nước để cho Thủ Độ rảnh tay dẹp giặc.
Tan chầu, các quan được mời sang điện Nghênh Xuân để vua ban yến. Rồi tất cả đều trở về Long Trì dự hội. Ở đấy đã dựng lên một nhà tròn có bánh xe đẩy. Trong nhà đèn đốt sáng choang. Xung quanh trang trí những hình người cưỡi ngựa bắn cung, những tướng lĩnh đấu võ; voi, hổ chạy đùa, chim công múa nhảy, hạc đậu ngọn tùng…Cứ như thế chia làm bốn tầng. Mỗi tầng là một vòng tròn. Trong đó cứ hai vòng một quay ngược chiều nhau, nom vừa đẹp đẽ vừa vui mắt, vừa hoành tráng lộng lẫy. Chiếc nhà tròn tự đẩy về phía nhà vua và hoàng hậu. Chiêu Hoàng tròn xoe mắt kinh ngạc kéo tay Trần Cảnh. Từ nhỏ chưa được thấy trò này, Trần Cảnh nhìn không chán mắt. Bỗng ngôi nhà tròn dừng lại ngay nơi nhà vua và hoàng hậu ngự. Chiếc cửa cuốn bật ra, để lộ một bày vũ nữ xiêm y rực rỡ như tiên đang múa hát. Quan cận thị thự lục cục chi hầu Trần Bất Cập tiến lên vái nhà vua và hoàng hậu ba vái, rồi dẫn hai người bước vào nhà múa. Bọn vũ nữ dạt ra để nhà vua và hoàng hậu vào tới giữa nhà, rồi họ lại tiếp tục vừa múa vừa dâng rượu hầu vua. Khi ở ngoài, nhìn các hình người và súc vật chạy nhảy vòng tròn nom sống động như người thật, vật thật. Nay vào trong, nhìn tận mắt thấy toàn khung tre
phất giấy màu, được ánh sáng dọi chiếu huyền ảo, đánh lừa con mắt người xem.
Nhà vua và hoàng hậu đưa mắt kiếmtìmbốn phía không thấy có người điều khiển, bèn hất hàmhỏi tên trưởng trò: - Các người làmthế nào cho nó chạy?
Người trưởng trò liền tra một chiếc lẫy giống hình chiếc lẫy nỏ vào góc cột. Lập tức cả ngôi nhà di chuyển trên các bánh xe. Hoàng hậu Chiêu Thánh vẫy tay lắc đầu:
- Ta hỏi ngươi làmthế nào cho các vòng tròn kia nó quay?
Người trưởng trò lại rút chiếc then ngay dưới mặt sàn, thế là tất cả các vòng quay xuôi ngược đều từ từ dừng lại. Khi nhà vua và hoàng hậu đều mỉmcười gật đầu, người kia đặt chiếc then máy xuống. Tất cả đều chuyển động như cũ.
Vua khen mãi không thôi.
Hết trò nhà múa, lại đến trò pháo bông. Cây pháo bông đặt trên một giá lớn có bốn bánh xe dẩy. Cây pháo cao mười hai tầng khuôn theo hình bảo tháp Đại thắng tư thiên ở chùa Sùng Khánh báo thiên(3). Một phát pháo hiệu thăng thiên, nổ tung trên nền trời sáng nhạt dưới ánh trăng mờ ảo. Pháo nổ bung ra hàng ngàn mảng sáng lấp lánh đủ sắc màu. Trống phách nổi lên, lập tức đội múa lân xuất hiện ngay dưới chân cây pháo. Người dũng sĩ đánh song đao, nhảy bổ vào đầu con kỳ lân. Kỳ lân khẽ rùng mình lùi lại ba bước, rồi nhảy chồm lên vồ tráng sĩ. Tráng sĩ luồn qua bụng kỳ lân. Kỳ lân uốn mình quay ngược lại toan dùng chiếc sừng nhọn hoắt đâm đối thủ. Bỗng “choang” một tiếng cực mạnh, con kỳ lân đã dùng sừng hất bay cả hai thanh đao của dũng sĩ. Dũng sĩ nhảy tót lên mình con kỳ lân. Cuộc đua tài giữa tráng sĩ trong đội quân thánh dực với con mãnh thú, khiến khách xemhò reo không ngớt.
Một ông già áo quần đỏ, lưng thắt dải khăn xanh, đầu chít khăn vàng, quay về phía nhà vua và hoàng hậu vái ba vái. Đoạn ông quay lại cầm ba nén hương châm vào ngòi pháo nơi tầng một. Ngòi cháy loé ra màu sáng xanh ánh lửa diêm sinh. Một lát sau cháy tới tích trò. Lập tức hiện ra hai chữ Kiến trung. Đó là niên hiệu đầu tiên của triều đại nhà Trần, các quan mới dâng vào buổi thiết triều sớm nay. Vành sáng cháy mãi, khiến hai chữ đó rực hồng trên nền trời đêm. Các quan đều vỗ tay khen ngợi, và ai nấy đều thầm đoán: “Từ đây sẽ mở ra một thời kỳ sáng sủa”. Khi hai chữ Kiến trung sắp tàn, lại bùng lên một tích trò mới vẫn ở tầng thứ nhất. Một cuộc rước đèn kỳ lạ. Dẫn đầu là một chú rồng xanh miệng ngậmngọc minh châu, thỉnh thoảng lại phun toé ra một ngụmlửa. Tiếp theo là voi, hổ, báo, gấu, ngựa, sư tử, đại bàng, công, trĩ…. mỗi con mang một kiểu đèn khác nhau. Mỗi đèn một màu khác nhau. Rồng treo chiếc đèn đỏ chói dưới chòm râu rậm. Voi đung đưa chiếc đèn xếp màu hổ phách nơi đầu vòi. Hổ ngậm quai chiếc đèn cá chép màu sáng bạc lung linh… Cứ mỗi con vật xuất hiện lại có tiếng gầm, rống, réo, hót y hệt như tiếng của loài muông, thú đó phát ra.
Các trò chơi đang ngoạn mục thì tích trò tầng hai chợt xuất hiện. Đây là một cảnh quen thuộc trong đời sống xã hội thường ngày. Thoạt tiên là cảnh “Vua cày ruộng tịch điền”. Tiếp theo là chiếc thuyền đánh cá với ngư ông quăng chài. Rồi bác tiều phu đang ngồi nghỉ bên gánh củi vừa đốn xong. Lại bác nông dân đang cày ruộng với con trâu béo mập. Và cuối cùng là một nho sinh, đang nằm đọc sách dưới cây mai già, cạnh mái nhà tranh bên vách núi.
Cứ như thế tầng nọ tiếp tầng kia, mỗi tầng là một tích trò lấy cảnh sinh hoạt trong dân dã. Cảnh chăn tằm, se tơ, dệt lụa. Cảnh quan quân đánh giặc. Cảnh hội làng với đủ các thứ trò chơi: vật, võ, chọi gà, đi kheo, thổi cơm thi…. Cuối cùng trên chóp đỉnh cao của tầng mười hai, có một bánh luân xa quay tròn, toé tung ra những chấm sáng loá đủ màu, như người vãi từng chùm hạt cải lân tinh. Rồi cũng từ
bánh xe ấy, toả dần ra từng chữ một. Kết thúc là cả một dòng chữ khiến người ta đọc được: “Khải thiên lập cực chí nhân chương hiếu hoàng đế”. Đó là tôn hiệu triều đình dâng mừng vua mới - triều Trần Thái tôn.
Xem các cảnh hội hè nô nức từ triều đình cho tới chúng dân, Trần Thủ Độ cảm động ứa nước mắt. Ông thầm nhủ: “Thế là trời trao nghiệp lớn cho họ Trần. Thuận lòng trời, hợp ý dân. Ta còn phải băn khoăn gì nữa”. Trần Thủ Độ chợt nhớ đến Hoàng tiên sinh. Lòng chạnh buồn: “Không biết thầy tàng ẩn nơi đâu?”
Trên đây mới là vài cảnh hộisơ sài trong cung đình. Không thể so sánh với cảnh dân gian vui tấp nập diễn ra khắp kinh thành. =============
(1)Xemchú thích đôi câu đối tại chương IV.
(2) Thảo thư: Chữ thảo có nhiều loại: Triện thảo, lệ thảo, chương thảo, kimthảo, cuồng thảo.
Triện thảo, lệ thảo xuất xứ từ thời Tần, để thích ứng với nhu cầu công vụ khẩn cấp trong chiến tranh. Chương thảo thuộc đời Hán nguyên đế, do Sử Vu viết. Đây là lối chữ viết trong các tấu chương khẩn cấp. Ba loại thảo này tuy viết nhanh, nhưng các chữ đều phân biệt chứ không dính với nhau như loại kimthảo do Trương Trí đời Đông Hán viết. Loại cuồng thảo là do kimthảo biến hình đến độ không thể đọc được do Trương Húc, Hoài Tố đời Đường viết.
(3) Đây là một ngôi chùa lớn do Lý Thánh tôn xuất của kho nhà nước ra xây dựng năm Bính thân (1056), đến năm Đinh dậu (1057) lại xây thêmtháp cao vài chục trượng, có 12 tầng. Riêng quả chuông đã xuất kho 1 vạn hai ngàn cân đồng để đúc. Dân gian chỉ gọi chùa này là chùa Sùng và tháp Báo thiên
CHƯƠNG11
Nguyễn Nộn được tin Trần Thủ Độ đuổi Lý Huệ tôn ra chùa Chân Giáo, ép Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh. Nhà Lý mất. Nhà Trần bỗng dưng được thiên hạ. Nộn tức lắm, bèn họp tả hữu lại, Nộn nói:
- Nhà Lý suy yếu. Đất nước chia năm sẻ bảy. Noi nơi đều dựng cờ nghĩa. Mạnh ai nấy được. Nay Trần Thủ Độ hiếp vua, làm nhiều điều càn rỡ, cướp lấy thiên hạ. Ta với các ông tụ nghĩa, dựng cờ, cốt để níu lại cơ đồ cho nhà Lý. Chẳng may Huệ tôn mắc chứng kinh phong, suốt ngày ở tít trong cung. Công việc triều chính lọt vào tay phe cánh họ Trần. Trần Thủ Độ núp dưới mệnh vua, khống chế triều đình, sai khiến thiên hạ, giương đông kích tây, chứ thực lực chẳng có gì. Ta hỏi các ông, tính liệu sao đây? Quy phục hay đem quân về hỏi tội bè đảng họ Trần?
Tả hữu imphăng phắc.
Nộn nghĩ: “Trần Thủ Độ là một tên táo tợn. Anh nó, Trần Tự Khánh ngày trước còn phải kiềng mặt ta. Vua sai nó đến hạch ta ở chùa Phù Đổng này tám năm về trước, vì có kẻ sàm tâu ta đào được vàng, không chịu nộp về triều. Chuyện chẳng đi đến đâu. Tự Khánh phải thay mặt triều đình dàn hoà với ta. Suốt tám năm nay ta hùng cứ một phương, thế lực ngày một mạnh. Ta đang mài nanh vuốt, nuôi chí lớn, chờ thời. Bỗng dưng mấy anh em tên thuyền chài phỗng tay trên. Ta thề không đội trời chung, không thể không băm vằm Trần Thủ Độ làmmuôn mảnh”.
Sực nhớ đang bàn việc lớn, Nguyễn Nộn ngẩng nhìn tả hữu, nói tiếp:
- Ngày xưa Đinh Bộ Lĩnh, một mình cờ lau tập trận, mà bình được thiên hạ. Lý Thái tổ từ một chú tiểu, gặp thời cũng dựng nên nghiệp lớn. Ta với các ông so với các bậc tiền nhân thế nào? Chúng ta hơn hẳn. Quân đông, lương nhiều, tướng giỏi. Đoàn Thượng là thế lực lớn nhất ở phía đông, phải kiềng sợ… Triều đình cũng phải tôn trọng ranh giới ta đã vạch ra. Nếu bây giờ ta trương ngọn cờ “Phù Lý diệt Trần”, hẳn thiên hạ theo về ta như châu chấu gặp đèn. Thời cơ có một. Ýcác ông thế nào, xin bày tỏ cho nhau được biết.
Phó tướng Đào Dữu nói:
- Tôi xuất thân là một người áo vải chân đất, theo tướng quan từ ngày đầu mở nghiệp. Xét thấy thiên hạ trong lúc đại loạn, tình thế nước Nam ta trong cả chục năm qua chẳng khác gì thời Chiến quốc bên Trung Hoa. Kẻ nào cũng nhân danh nhà Chu để tranh dành ngôi bá chủ, kỳ thực là tranh dành thiên hạ, thôn tính nhà Chu. Trần Thủ Độ có khác gì Tề Hoàn công. Ấy là tôi nói về thủ đoạn xảo trá, chứ nhân nghĩa thì sao sánh được với Hoàn công. Cho nên, trong khi kẻ kia ngồi chưa ấm chỗ, ta nên cất quân hỏi tội, chớ để lâu ngày dầy kén, thiên hạ khuất phục hết, thì ta còn làm gì được hắn. Nhìn thế chân vạc giữa ba nhà Nguyễn - Trần - Đoàn, chỉ có tướng quân là hơn cả. Trần Thủ Độ tuy là nhà hào phú, lắm của, nhiều quân, được xem là loại vũ dũng. Nhưng y xuất thân từ đám dân chài, lại vô học, hắn chỉ hùng hục như con trâu mộng húc bừa, không có gì đáng sợ. Đám võ biền ấy chỉ có được lợi thế, là chúng núp dưới danh nghĩa chính thống của nhà Lý. Còn như Đoàn Thượng, tuy xuất thân từ chốn quan trường, nhưng là đứa thất phu, hẹp lượng. Thượng so thế nào được với tướng quân. Cho nên bây giờ đánh Trần trước, hay đánh Đoàn trước để cướp lấy thiên hạ, là tuỳ ý tướng quân. Việc kíp lắm rồi. Nếu chần chừ là mất thời cơ, hai kẻ kia liên kết được với nhau, ta khó mà xoay trở.
Phó tướng Đào Dữu vừa dứt lời, thì tiền quân hiệu uý Lê Bá Thạch tiếp luôn:
- Nay kỷ cương đã rối. Bầy tôi hiếp vua. Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh, tình thì thuận mà lý không xuôi. Hai đứa bé tám tuổi biết gì đến chuyện vợ chồng, ngôi báu. Đây là sự sắp đặt của Trần Thủ Độ. Cho nên việc ở ngôi của Trần Cảnh, phải khép Trần Thủ Độ vào tội soán đoạt. Tướng quân cất quân chuyến này, là chủ ở sự nhân nghĩa, sẽ qui tụ được thiên hạ. Tôi chỉ e một điều, Đoàn Thượng thiển cận thừa cơ đánh úp ta. Chi bằng ta hợp lực với y, hẹn cùng tiến về kinh. Tôi tuy bất tài, cũng xin đi dụ Đoàn Thượng, nói cho y rõ cái nhẽ chắc ăn sờ sờ ngay trước mắt.
Nguyễn Nộn cười ha hả:
- Các ông nói hợp ý ta lắm. Nhưng xin hỏi. Khi diệt xong đảng ác họ Trần rồi, ta làm thế nào? Chia đôi thiên hạ với Đoàn Thượng chăng? Nộn chưa dứt lời thì tướng tiên phong Quách Cự đã nói ngay:
- Tâu chủ tướng. Quốc vô nhị vương(1). Diệt xong bè đảng họ Trần, ta diệt luôn cả thế lực họ Đoàn để trừ hậu họa. Thiên hạ không còn ai tranh đoạt với chủ tướng nữa, ngôi trời chẳng thuộc về chủ tướng còn thuộc về ai?
Nộn bằng lòng lắm, bèn thét quân hầu dâng rượu. Rượu mới được một tuần, quân thám mã về báo có sứ giả của triều đình tới. Nộn hẹn các tướng cứ ăn uống bàn bạc, để mình ra tiếp sứ.
Té ra sứ giả lại là quan thừa chỉ, bạn đồng môn với tướng quân Nguyễn Nộn.
Gặp nhau tay bắt mặt mừng, Nộn hỏi:
- Tôi nghe nói ông được bổ đi an phủ sứ châu Nghệ An, sau lại triệu về trấn trị Trường Yên. Vậy thời, như thế là ông được tin dùng, hay bị đầy ải?
Quan thừa chỉ mỉmcười nhìn thẳng vào người bạn cũ của mình, đáp:
- Hai điều ông hỏi đều có cả.
- Thế là thế nào?
- Số là thế này, tôi nói để ông nghe, tình bằng hữu giấu nhau làmgì. Vả lại các việc cũng đã qua rồi.
Nguyễn Nộn sốt ruột giục:
- Ông nói đi, tôi vốn trọng ông là người có tài năng, có nhân cách vào bậc nhất thời nay.
- Quan anh quá khen. Quan thừa chỉ chậmrãi đáp.
Chắc quan anh biết tính tôi. Ngoài điều nhân nghĩa ra, trên đời không gì khuất phục nổi. Quan anh có nhớ dạo Trần Thủ Độ ép nhà vua phải sách lập Chiêu Thánh làm hoàng thái tử, rồi nhường ngôi cho Chiêu Thánh. Đúng bữa đó, quan anh đem quân tới Bồ Đềø rồi quay lại?
- Đúng! Nguyễn Nộn vỗ đùi xác nhận - Tôi nghe nói cánh họ Trần soán đoạt ngôi trời, tức tốc đemquân về kinh. Tới Bồ Đề, đọc được tờ chiếu của vua, tôi bèn lui quân. Nghĩ rằng, Huệ tôn không có con trai mà cha truyền ngôi lại cho con, ấy là lẽ thường trong thiên hạ. Ai ngờ đấy lại là mưu ma kế quỷ của chúng nó.
Quan thừa chỉ thở dài:
- Bữa đó, tôi mong quan anh kéo quân qua sông Cái quá chừng!
- Sao ông không nhắn cho tôi một lời? - Nguyễn Nộn hàmý trách móc.
- Có. Tôi có mật bàn với nhà vua. Đức vua cũng đã ưng thuận. Tôi bèn thảo chiếu Cần vương, mật ước với ông và Đoàn Thượng cùng đembinh về kinh, chúng tôi nội ứng.
Mặt Nộn đỏ bừng bừng, đôi tròng mắt rực sáng lên, gặng hỏi:
- Chiếu đâu?
- Tiếc thay, quan thừa chỉ thở dài - chiếu đó lọt vào tay Trần Thủ Độ.
- Việc lớn, sao các ông lại làmăn hồ đồ thế?
- Không phải tôi hồ đồ, mà Trần Thủ Độ mưu cao. Ông ta đoán định được mọi điều có thể xảy ra.
- Tiếc quá! Tiếc quá! Nguyễn Nộn tỏ vẻ xót xa - Nếu việc đó không bại lộ, tôi cùng Thượng đem quân về, mọi sự xong cả rồi. Xong cả rồi!
- Chưa chắc đâu ông bạn ạ. Quan thừa chỉ lắc đầu - Tôi là người thấy viêïc nghĩa thì xả thân làm, chứ mình tính chưa cặn nhẽ. - Thế là thế nào? Nộn hỏi. - Trần Thủ Độ có biết là ông thủ mưu không?
- Biết! Ông ta biết quá đi chứ.
- Sao y không giết ông?
- Thế mới bực. Khi bắt được tang vật, ông ta lờ đi như không. Chỉ có điều giám sát nghiêm mật. Ba tháng sau, ông ta cho tôi ra coi châu Ngệ An. Trước khi đi, ông ta cầm tay tôi nói vài lời “Tôi giết ông thì dễ quá. Nhưng ích gì. Lập tức có cả trăm người dám vì ông mà dấy nghĩa. Tôi giết ông, mang tội giết người hiền. Đời nguyền rủa tôi. Người hiền bỏ tôi đi hết. Nhưng ông nghĩ mà xem, việc tôi, việc ông làmcó gì khác? Giữa nhà Lý mà đứng đầu là một ông vua mất trí, và một bên là sinh linh trămhọ, ông coi bên nào trọng hơn? Tôi thà chịu tiếng bất trung còn hơn mang tiếng ngu trung. Tôi vì trăm họ chứ không vì đức vua. Tôi quyết sả thân để giang sơn đất nước không rơi vào cái hoạ tranh chiến thập nhị sứ quân, nồi da xáo thịt. Việc này tuỳ ông xử. Ra Nghệ An, ông có thể trương cờ nghĩa theo chiếu Cần vương, cùng với tướng quân Nguyễn Nộn, Đoàn Thượng, ba mặt úp về kinh. Nếu việc các ông làmnhân nghĩa hơn tôi, tôi xin tự trói mình chịu chết, cho đất nước được thái bình”.
- Thế ra tới Nghệ An ông đã làmnhững gì? Nộn hỏi.
- Tôi làmtất cả mọi việc, ngoại trừ việc chống lại Trần Thủ Độ.
- Nhưng ông chống lại đức vua. Nộn vặn.
Quan thừa chỉ ung dung đáp:
- Bởi đức vua chống lại trăm họ. Tướng quân cứ bình tâm, tôi có dẫn chứng đầy đủ. Tướng quân có biết vì sao tướng quân chống lại mệnh vua, hùng cứ một phương, xưng vương xưng bá không?
- Vì vua vô đạo. Nộp đáp.
- Vua vô đạo. Tức là tướng quân “tòng đạo bất tòng quân” (2). Đúng quá. Quan thừa chỉ xác nhận - Thế thì tại sao chỉ có tướng quân làm thế được, còn người khác lại không làm thế được? Việc làm của Trần Thủ Độ có khác gì tướng quân đã làm. Có điều rằng ông ta trên
tài tướng quân, nên đạt được thành tựu cao hơn.
Nguyễn Nộn sầmmặt lại, nói lớn:
- Thằng thuyền chàisai ông đến đây làmgì? Nộn đứng dậy toan bỏ đi.
Quan thừa chỉ vẫn ung dung, nói vừa đủ nghe:
- Không có thằng thuyền chài nào sai khiến được tôi. Tôi đem chiếu phong vương của đức vua đến với ông. Ông nên nhớ rằng, cái người mà ông tôn thờ đó, đã mấy lần ông dâng biểu về xin phong vương không được. Nay vua mới, xét công đức của ông, không những phong vương mà còn cắt đất cho ông. Ông bầy nhang án, sửa sang áo mũ, để tôi đặt chiếu lên cho mà lạy tạ. Nguyễn Nộn không còn biết nóisao nữa, bèn hấp tấp đi làmcác việc theo ý quan thừa chỉ.
Nguyễn Nộn được phong làm Hoài đạo vương, lại được triều đình cắt cho đất huyện Đông ngàn và các vùng Bắc Giang thượng hạ. Nộn thích lắm, sai may sắmáo, mũ, tàn lọng, xe kiệu. Ba ngày sau, Nộn lại đọc được thư của Trần Thủ Độ mật sai đi đánh Đoàn Thượng. Nguyễn Nộn họp tả hữu bàn kế tiến binh đánh Đoàn Thượng.
========
1. Quốc vô nhị vương. Chữ Hán có nghĩa là nước không thể có hai vua.
2. Lời của Mạnh Tử có nghĩa: Theo lẽ phải chứ không theo vua.
CHƯƠNG12
Nguyễn Nộn từ khi được Trần Thái Tôn phong cho làm Hoài đạo vương thì giương giương tự đắc. Đi một bước cũng dùng xa kiệu nghi vệ như một bậc đế vương, chỉ có điều là chưa xưng “trẫm” với tả hữu. Nộn cũng cho quân đi cướp bóc của dân về xây thêm cung thất. Bắt con gái đẹp nhà lương dân về làmtì, thiếp, tú nữ(1) khá nhiều. Ngày ngày yến tiệc. Hát múa thâu đêm.
Nguyễn Nộn tuy là một kẻ khát khao quyền lực và ưa hưởng lạc, nhưng không phải là một đứa ngu khờ, nhận mật chiếu của triều đình sai đánh Đoàn Thượng, Nộn trước hết cho quân đi thám sát bên châu Hồng - nơi có lực lượng của Thượng đồn trú. Nộn cũng cho người về Thăng Long xemxét động tĩnh trong triều, cách thức bố phòng quân cơ của Trần Thủ Độ.
Quân thám sát về báo tin: Huệ Quang thuyền sư, tức thượng hoàng nhà Lý, đã bị Trần Thủ Độ giết tại chùa Chân Giáo. Huệ hậu Trần Thị Dung bị giáng làm Thiên cực công chúa, gả cho Trần Thủ Độ. Trần Thủ Độ vinh thăng thái sư thống quốc. Thăng Phùng Tá Chu, quan cũ của triều Lý làm phụ quốc thái uý. Thăng Long canh phòng nghiêm mật, nhưng quân sĩ Trần Thủ Độ giấu ở đâu chưa lần tìm ra được. Cứ như nhời đồn đại trong dân chúng, thì lực lượng có tới hơn chục vạn quân. Đấy mới chỉ kể số nội binh(2) còn ngoại binh(3) thì cứ điểmmục các châu lộ, quy phụ triều đình, tính ra cũng còn tới cả hơn chục vạn quân nữa.
Phía Đoàn Thượng thì sao? Quân Đoàn Thượng đông nhan nhản, nhưng không nghiêm. Ở đâu có quân lính của Thượng đóng, dân bỏ đi hết. Thượng vơ vét lúa gạo của dân về chất đầy kho. Xem chỗ đóng quân của Thượng đủ thấy Thượng không biết dùng binh. Các trại quân không nương tựa vào nhau. Nếu chặt từng khúc mà đánh, quân rối loạn đầu đuôi không cứu được nhau. Các nguồn nước, canh giữ sơ sài. Các mạch giao thông thuỷ bộ, không chẹn giữ kiên cố. Các kho lương để lộ. Cách ba dặm đã biết quân doanh đóng ở đâu rồi. Là vì cờ xí cắm rợp trời. Đàn địch vang mọi phía. Lính viễn thám, tuần thám đứa nào cũng mặt đỏ phừng phừng, say bí tỉ, vừa đi vừa chửi bới tục tĩu.
Nghe xong, Nguyễn Nộn nói cùng các bộ tướng:
- Thế mạnh yếu giữa quân triều đình với ta cùng Đoàn Thượng đã rõ. Trần Thủ Độ là một tướng giỏi. Vì thế mà giữa kinh kỳ ông ta ém được cả chục vạn quân. Nhưng kinh thành lại rất nghiêm cẩn. Đây là một nơi gai góc, chưa dễ gì lấn được. Hãy để đó, thẩm định sau. Vả lại, ta vừa chịu mệnh xong. Còn như Đoàn Thượng, nếu quả như lời quân thám báo tâu trình, ta ngờ rằng khí vận của ông ta đã đến ngày tận diệt. Ta lại nghe gần đây ông ta mới giết viên phó tướng. Nếu như trước kia, ta ngần ngại chưa muốn tiến binh sang phía đông, là vì còn nghĩ tới viên phó tướng của Thượng. Tình hình là vậy. Theo ý các ông nên như thế nào?
Phó tướng Đào Dữu tiếp lời:
- Vậy là trời đem đất châu Hồng trao cho chủ tướng rồi đó. Không đánh bây giờ còn đánh vào lúc nào nữa? Chuyến này ta nên giốc toàn bộ binh mã, hất Đoàn Thượng xuống biển. Chiếm lấy kho người, kho của suốt một dải châu Hồng để tăng thêm thế lực. Diệt xong Thượng, chắc là chủ tướng có dư lực nói chuyện với họ Trần.
- Việc gì phải kéo cả đại đội binh mã đi cho nhọc sức quân. Tôi dù bất tài, cũng chỉ xin chủ tướng cho ba ngàn quân. Một nửa đi đốt kho lương. Một nửa đánh vào trung quân, bắt sống Đoàn Thượng đem về dưới trướng. Mọi người nhìn xem ai, thì ra đô trưởng đô viễn thámTrương Thế Tòng.
- Hoá ra việc diệt Đoàn Thượng dễ hơn việc thò tay vào túi lấy đồ vật, như lời đô trưởng Trương Thế Tòng chăng? Nếu đúng như thế thì phải làmtờ camkết. Đấy là lời của viên tì tướng Nguyễn Tộ.
- Thiết nghĩ việc đánh Đoàn Thượng là sự nghiệp của chủ tướng. Nhưng theo tôi không dễ như các ông nói. Trong vòng hơn chục nămlại đây, các đầu đảng nổi dậy phải có hàng trăm. Nhưng tựu trung còn lại chỉ có ba nhà, hình thành thế chân vạc. Ấy là chủ tướng ta, Trần Thủ Độ và Đoàn Thượng. Nếu Thượng bất tài, trì độn, sao y đứng được tới ngày nay? Trong phép dùng binh hư hư thực thực là chuyện thường. Thượng không phải tay kémcỏi, hắn thường đi cướp lương của người khác, cớ chi để kho lương như vậy? Hắn ngu dại gì mà đặt quân doanh như thế, để lính canh phòng tuần thám như thế? Giả như, đấy là quỷ kế của Thượng thì sao? Xin chủ tướng cân nhăc cho kỹ. Đó là lời tướng tiên phong Quách Cư.
Nghe Quách Cư phản bác, khiến bầu không khí đang ồn ào, bỗng dưng xẹp xuống.
Nguyễn Nộn đưa mắt nhìn hết tả hữu, bỗng ông dừng lại nơi Ma Lôi.
Ma Lôi là một tì tướng được Nguyễn Nộn yêu trọng vào bậc nhất. Thực chất, Ma Lôi là bộ óc, là linh hồn của cả bồ đoàn Nguyễn Nộn. Ma Lôi là ai vậy? Yở đâu đến? Ma Lôi vốn là người xứ Champa. Thưở nhỏ y có được học hành, lại theo đòi nghiệp binh, hầu hạ dưới trướng của một viên đô đốc, tổng quản lực lượng hải binh Champa. Trong một trận cướp tàu buôn của Tây - ban - nha, đi qua vùng biển khơi Chiêm thành, tàu của y bị súng lớn của đối phương bắn chìm. Ylênh đênh năm ngày trên biển. Chẳng biết giời đất dun dủi thế nào, dân đánh cá lại vớt được y. Thoát chết, y lẩn biến vào rừng. Rồi xuyên rừng, hắn đi miết. Cứ vừa đi vừa kiếm ăn bằng quả cây và củ rừng. Đêmngủ trên cây. Hơn một nămtrời; y lần mò thế nào lại tới đất Ai Lao. Hắn làmăn buôn bán tại xứ này. Gặp quân của Nộn sang Ai Lao mua bán nhựa độc về tẩm tên, rủ y về Đại Việt. Rồi được Nguyễn Nộn thu vào hầu tại trung quân. Đôi ba phen y tham góp ý kiến. Thấy y có nhiều kiến giải sâu sắc, Nộn giao cho y một vài việc, đều thành tựu cả. Nộn yêu lắm. Thực tình trong quân doanh, Ma Lôi là quân sư của Nộn. Ma Lôi dụng binh như thần. Chuyển bại thành thắng như chơi. Sở trường của y là đánh thuỷ hoặc đánh tập kích trên bộ. Ycó tài dụ địch, lừa địch, khiến hễ cứ ra quân là chiến thắng.
Thấy chủ tướng nhìn mình như muốn vấn kế. Ma Lôi bèn nói:
- Trần Thủ Độ là danh tướng thời nay. Thủ đoạn biến hoá không biết đâu mà lường hết được. Nếu như lời các tướng nói, ta khởi hết cả quân mã sang sông đánh châu Hồng, ông ta đem quân đánh tập hậu, chặn lối về thì sao? Mặt trước, quân Đoàn Thượng, mặt sau quân triều đình, ta cự sao nổi? Xin chủ tướng cùng các chư huynh cứu xét.
Nộn hỏi ngay:
- Vậy theo ý ngươi, đánh thế nào cho chắc thắng?
- Bẩm chủ tướng, Ma Lôi nói - Chí của chủ tướng là ông trùm thiên hạ. Nên chi không phải chỉ có việc diệt xong Đoàn Thượng là xong. Bởi thế tôi xin dâng một kế nhỏ. Đoàn Thượng chiếmmột vùng đất rộng, người đông, kho người, kho của. Nhưng Thượng đã tự làm hỏng ông ta bằng các chính sách tàn bạo, khiến ông ta đi tới đâu, dân chúng đều bỏ chạy, ruộng vườn hoang hoá. Hiện nay tiềm lực của Thương chẳng đáng là bao. Vì dân trong vùng đang đói, lại sợ làm ra bị Thượng cướp mất, nên chẳng ai muốn cấy trồng. Dân đã nghèo đói, Thượng dựa vào đâu để giàu mạnh? Vẫn biết rằng các kho của Thượng còn nhan nhản. Nhưng thử hỏi hàng chục vạn miệng ăn, vừa ăn vừa phá như lính của Thượng, kho đụn ấy đủ dùng được mấy nả? Không nên đốt lương. Vì làm ra một hạt lúa khó lắm. Mà sắp tới,
chúng ta cần rất nhiều lương. Diệt Thượng, chỉ cần một đạo tinh binh, đột kích hẳn vào trung quân. Phải diệt cho bằng được Thượng và tả hữu của ông ta. Hiện thời tôi biết trung quân do Đoàn Thượng đóng giữ, có một con đường hẻm, xe đi không lọt. Con đường ấy bắt nguồn từ bãisông. Hai bên lau sậy mọc cao quá đầu. Nếu ta dùng thuyền nhỏ đổ quân lên bãi, rồi đi theo đường này chắc là mọi chuyện sẽ êm. Nhưng chếch phía tả của trung quân lại là trại của Văn, con lớn Đoàn Thượng. Hai trại này cách nhau non mười dặm, đóng liên tiếp có thể ứng cứu cho nhau. Cho nên ta tập trung binh lực đánh vào trại của Văn. Trại của Văn gần đường lớn, gần bến sông, nên y bố trí binh lực dầy đặc, chưa dễ phá được. Nhưng ta hư trương thanh thế, khiến kẻ kia tưởng ta quyết hạ chúng. Ta không tiến lên được, kẻ kia cũng không đẩy ta ra được. Cứ thế kéo dài độ mười ngày ở thế giằng co. Địch tưởng ta nản, sinh lòng trễ nải. Để vào nửa đêm hăm mốt tới, may sẽ có mưa lớn. Ta dùng khinh binh, đánh vào trung quân của Thượng. Còn bên trại của Văn, ta đánh gấp. Thế là hai trại trên dưới, cha con Thượng không ứng cứu được cho nhau. Về các kho lương, cũng trong đêm đó, phải đánh sao cho kẻ kia không kịp đốt. Diệt được Thượng rồi, quân kia như rắn mất đầu, tự tan. Ta dùng lương chiếmđược để chiêu thảo dân tứ tán, cho họ an cư lạc nghiệp. Chỉ một nămsau, châu Hồng lo không có chỗ mà chứa lúa gạo.
Nguyễn Nộn dùng kế của Ma Lôi, thắng lớn. Đoàn Thượng chết trong đám loạn quân. Con của Thượng là Văn đem gia thuộc đến hàng. Duy có một điều Nộn không nghe Ma Lôi, thay vì đem lương thực cướp được để chiêu thảo dân tứ tán. Nộn cho quân đi vơ vét, cướp bốc của cải khắp châu Hồng. Bắt con trai xung vào lính, con gái đẹp đưa về dinh. Nhân nghĩa Nộn, không hơn gì Thượng. Lòng dân hướng về nhà Trần.
Diệt Thượng rồi, lại kiêmtính được cả số quân của Thượng, thanh thế của Nộn lớn lắm. Nộn càng càn rỡ, ăn chơi xa xỉ, mặc sức cho ba quân hưởng lạc. Dân chúng ngày càng oán vọng, xa lánh Nộn.
Thông quốc thái sư Trần Thủ Độ giật mình vì Nộn diệt Thượng quá nhanh, lại không bị hao tổn binh lực. Quân đi xem xét cách tiến binh của Nộn về tâu lại, Trần Thủ Độ kinh hãi nhủ thầm: “Nộn dùng binh như thần”. Ông băn khoăn tự hỏi: “Chẳng nhẽ Hoàng tiên sinh xét đoán nhầm chăng? Tiên sinh nói: “Đoàn Thượng là một đứa thất phu. Binh lực nhiều đấy, nhưng ô hợp, tự tan. Nguyễn Nộn trí đoản, không phải là địch thủ của quan ông…”. Trần Thủ Độ không dám không tin lời Hoàng tiên sinh. Song cứ xem cách dùng binh của Nguyễn Nộn, thì không thể coi thường y được. Nếu vậy, tình thế tranh chấp sẽ còn kéo dài, dân lành còn điêu háo.
Trần Thủ Độ lạisai người tâmphúc đi dò la trong quân của Nguyễn Nộn. Sau đó mới vỡ lẽ: Nguyễn Nộn thường dùng kế của Mã Lôi, người Chăm.
Để cho kẻ kia lên mặt coi thường thiên hạ, mà sinh kiêu bạc, tự gây biến trong quân, Trần Thủ Độ dùng kế nhún, sai sứ đem sắc thư đến mừng Nguyễn Nộn, gia phong cho làm Hoài đạo hiếu vũ vương. Lại đem công chúa Ngoạn Thiềm gả cho. Bề ngoài là cầu thân, nhưng ngầm để dò la. Nguyễn Nộn không bằng lòng với tước trật của triều đình, không lạy chiếu, tạ ơn mà xưng là Đại thắng vương. Tự cho mình là nhất trong thiên hạ, từ đó trễ nải việc quân, không còn biết nghe lời nói phải, hễ ai làm trái ý mình là Nộn giết quách. Đắm mình trong cuộc hoan lạc thâu đêmtối ngày. Tướng Ma Lôi kịp nhận ra Nộn không phải là bậc lương đống gì, hoạ đến nơi, liền bỏ Nộn đi mất. Ít lâu sau Nộn ốmchết. Quân Nộn về với triều đình. Thiên hạ thống nhất.
(1) Tì nữ: Con gái dùng để sai phái trong các nhà quyền quí.
Thiếp: con gái đẹp dùng để giải trí cho các bậc quyền cao chức trọng.
Tú nữ: loại gái đẹp dùng vào việc hầu hạ xoa bóp cho các quan lớn…
(2) Chế độ nhà Lý, nhà Trần chia quân đội làm nội binh ngoại binh. Nội binh gồm có quân cấm vệ và quân thường trực chiến đấu của triều đình dưới quyền điều khiển của Điện tiền chỉ huy sứ.
(3) Ngoại binh là binh lính thuộc các châu, lộ dưới quyền điều khiển của các quản giáp
CHƯƠNG13
Đêm đầu hạ mà trời nóng khácthường. Thái sư Trần Thủ Độ với tay châm ngọn bấc nhỏ, trong cái đĩa đèn dầu lạc, rồi khẽ thổi tắt ngọn bạch lạp, đang toả ra sức nóng nung đốt thêm bầu không khí oi nồng. Trong gian phòng rộng rãi ở cung Thuỷ Tĩnh này, ông đã cho dẹp bỏ bớt các đồ trần thiết, đắt tiền mà rườm rà, gây ra sự vướng víu cho tầm nhìn thoáng đạt của ông. Như các loại hoành phi, câu đối, đại tự, bình phong cùng các đôn sứ, độc bình của Trung Hoa. Và chỉ giữ lại vài bức tranh phong cảnh treo loáng thoáng đó đây.
Đối mặt với ông là bộ Hình thư(1) đóng dồn vào làm bốn cuốn, bìa bồi phất cậy màu nâu cháy(2). Ông đang đọc thiên tội đồ. Trước đó, ông cũng đọc kỹ thiên tô thuế.
Ông thầm khen: “Chính lệnh nhà Lý khoan mà nghiêm. Nhất loạt tô thuế đều khoan giảm. Mọi việc qui định chặt chẽ, rõ ràng. Ví như việc thu thuế khoá thường năm. Luật cho phép phần phụ thu bằng một phần mười chính tang, để nôïp cho nhà nước. Phần phụ thu đó các quan được dùng vào việc hoành đầu(3), và chi dụng cho những người trực tiếp làm trong vụ thuế. Kẻ nào lấy quyền thế lạm thu, thì ghép vào tội ăn trộmmà xử. Luật còn khuyến khích dân gian giámsát quan lại cho chặt chẽ. Ví như người nào biết mà cáo giác việc hà lạm đó lên quan trên, thì tha phú dịch cho cả nhà trong ba năm. Nếu người ở kinh thành biết mà cáo giác, thì thưởng cho toàn bộ số vật đã cáo giác ra ấy…”.
Trần Thủ Độ đọc đi đọc lại mãi thấy thiên căn bản, rồi ông lại tự hỏi: “Pháp luật nhân chính thế này, mà sao mấy đời gần đây nhà Lý để cho kỷ cương rối loạn?”. Suy ngẫm giây lâu ông tự đáp: “Luật lệ gì cũng đều do nơi con người làm ra, và cũng lại do con người thi hành. Sự rối rắmgốc ở những người cầmcân nảy mực không nghiêm. Cứ xemcách ăn chơi phóng đãng của cha con Huệ tôn đủ rõ sự mục nát khơi nguồn từ đâu”.
Oi quá! Nhìn qua khuôn cửa sổ ngỏ, ông thấy mảnh trời bàng bạc, cây cối đứng im phăng phắc. Thi thoảng có mùi hương sen ở đâu đó. Trần Thủ Độ buông sách đi ra phía hồ sen. Mảnh trăng muộn treo chếch trên nền trờisáng nhạt. Những đọt lá sen đầu hạ đội bùn lấp ló trên mặt nước, nom từa tựa những bàn tay cum cúp đang ve vẫy. Không khí mát lành. Thái sư lấy hai tay vọc nước hồ, vã lên đầu, lên mặt. Nước mát lạnh vừa có vị ngòn ngọt của một thứ nước mưa ngấu, vừa có hương thơm của mầm sen đan quyện. Trần Thủ Độ thấy trong người khoan khoái. Ông đi dạo quanh hồ. Chợt đâu đó có một tiếng gà gáy vang lên xé tan bức màn đêm tĩnh lặng. Rồi như một sự lây lan, khắp kinh thành tiếng gà gáy râmran, kéo dài một lúc có dễ gần nhai tàn miếng trầu vẫn còn eo óc. Tiếng gà gáy làmTrần Thủ Độ giật mình, vì ông sực nhớ tới đêm đã khuya. Ông bước rảo về thư phòng, đã thấy công chúa(4) khêu to đĩa đèn, đứng tựa bên án với vẻ băn khoăn. Ông bèn lên tiếng:
- Ơ hay, sao giờ này bà còn chưa đi nghỉ?
- Tôi đã ngủ được một giấc dài. Nghe tiếng gà gáy giật mình tưởng trời đã sáng. Cửa để ngỏ. Biết ông vẫn chưa về nghỉ, tôi liền chạy sang đây. Không thấy ông, đang phân vân, thì ông đã tới.
- Hoá ra lũ gà trống nó làm bà mất giấc ngủ. Để mai tôi nói quan đại an phủ sứ, cấm các nhà trong kinh thành, không được nuôi gà trống.
Phu nhân kinh ngạc, mắt trợn tròn, miệng há ra, miếng bã trầu rơi nhẹ xuống thềm. Bà nói:
- Tháisư ơi, tôi mong rằng đây chỉ một lời nói vui trong đêmtối không có ai biết, ngoài tôi với ông ra.
Trần Thủ Độ nhếch miệng cười, khẽ đặt bàn tay lên bờ vai phu nhân, ông nói:
- Vì bà, tôi có thể làmđược mọi việc.
Phu nhân quay lại nhìn thẳng vào mắt tháisư, nói với vẻ hơi dằn dỗi:
- Nếu vì tôi, quan tháisư “có thể làmđược mọi việc”, xin tháisư gia ân cho tôi thêmmột chữ “thiện” nữa ở cuối có được không? - Vậy là bà cho tôi ra lệnh cấmnuôi gà trống, là một việc ác. Bà không thể chấp nhận.
- Vâng, thưa tháisư, đó là việc đại ác.
Trần Thủ Độ khẽ vuốt vuốt hai bờ vai phu nhân, lại hỏi:
- Nếu tôi có ra lệnh cấm nuôi gà trống là cốt giữ cho mọi người, trong đó có bà được giấc ngủ yên lành, can chi bà lại bảo đó là việc đại ác?
Phu nhân khẽ gỡ hai tay chồng ra, bà nói giọng nghiêmtrang:
- Từ ngày họ Trần dấy nghiệp, một tay ông nắm giữ binh quyền, đã làm nên bao sự tích lẫy lừng, anh kiệt, có thể sánh ngang các bậc tiên thánh. Duy có những việc quái kiệt, ông chưa từng làm, phải chăng là việc đầu tiên?
Trần Thủ Độ nắmlấy tay phu nhân, cảmđộng nói:
- Ta thử lòng bà đó. May thay bà là một người có cái tâm tốt. Ta trăm công ngàn việc, có thể có những điều ta làm là gây được mầm thiện cho thiên hạ. Lại có những điều nhen nhóm cái ác mà ta không tự thấy. Vậy từ nay, nếu có điều gì từ trong nhà tới triều đình, bà thấy nó trái với đạo thường, bà cứ nói ta hay. Vẫn biết nơi triều chính, phải dựa vào bá quan, lại có cả gián quan, nhưng mấy ai dám nói trái ý bề trên. Thành thử mọi việc ta cứ phảiso đo cân nhắc mãi, đôi khi thành chậmtrễ.
- Ông ạ, phu nhân nói giọng ngậm ngùi, trong những năm chiến tranh, ngay cả hoàng gia, hoàng tộc ta, cũng lắm phen lao đao. Không những của nả bị hao tổn, mà tính mạng đôi khi cũng khó toàn. Ấy là trong tay ta còn có kho tiền, kho của, có kẻ hầu người hạ, có quân canh bảo vệ. Suy ra số phận của người dân xiết bao cực nhục. Bây giờ, thái bình rồi, ông lo sao cho dân có bát ăn, không còn nạn trộm cướp, hào dịch áp chế họ nữa. Muốn thế, chính lệnh phải nghiêm, tô thuế khoan giảm. Phải làm thế nào cho từ kẻ sĩ đến bọn ngư, tiều, canh, mục(5) đều được ơn mưa móc của họ Trần, thì người ta mới không nghĩ về vua cũ nữa. Nhưng thôi, phu nhân sực nhớ, khuya lắmrồi, ông cũng nên đi nghỉ thôi.
Trần Thủ Độ lắc đầu:
- Không được, có lẽ đêmnay tôi phải thức trắng. Công việc bề bộn lắm.
- Ô hay, cả những năm tranh chiến cam go, Đoàn Thượng, Nguyễn Nộn luôn uy hiếp triều đình, chưa bao giờ tôi thấy ông phải thức trắng đêmliền như dạo này. An hoà rồi, ông cũng phải nghỉ ngơi chứ?
- Để làm được cái việc thường tình như bà nói: lo cho người dân có bát ăn, rồi từ kẻ sĩ đến bọn ngư, tiều, canh, mục đều được đội ơn mưa móc… Chao ôi, đó là việc cực khó bà ơi. Từ bữa giang sơn thu về một mối tới nay, tôi lo lắm. Nhiều lúc tưởng như mình không đủ sức. Bọn nho sĩ cao đạo, còn viện lý này lý nọ để biện minh với họ được. Chứ với người dân thì mọi việc đều đơn giản lắm. Họ chỉ biết
nhà Lý hơn, hay nhà Trần hơn, là ở nơi bữa ăn thường ngày của họ. Cái gốc của sự lo của tôi là ở đấy.
- Nhưng lo thì ông phải đốc thúc người ta làm. Chứ đêm nào ông cũng thức trắng với dăm ba cuốn sách kia, phỏng có ích gì. Vả chăng chữ nghĩa ông có được là bao.
Trần Thủ Độ cười hì hì, nomông dễ thương quá. Nắmlấy hai tay phu nhân khẽ lắc lắc, ông nói:
- Vậy là bà lại chê tôi ít học chứ gì?
- Tôi đâu dámchê ông. Chẳng qua thấy ông đêmnào cũng đánh vật với cuốn sách. Có phải ông đang tìmphép lạ? - Từ nay tôi còn phải đánh vật mãi với cái đám sách ấy đấy. Bà bảo tôi phải đốc thúc cho họ làm, biết làm mà còn phải biết lo nữa, bà ạ. Việc làmăn khác với việc đánh giặc nhiều lắm. Mỗi việc đều có cái dễ, cái khó của nó. Nếu dân làmnhiều mà không có luật pháp bảo vệ cho họ, dẫu có thoát khỏi bọn trộmcướp, cũng lại rơi vào bọn quan lại thamnhũng hết. Phép lạ tôi đang tìmlà ở chỗ đó. Làmgì cũng phải xem trước ngắm sau. Tôi đang cho Ngự sử đài san định một bộ hình luật. Tôi nghĩ luật triều ta làm, phải phù hợp với triều đại ta đang sống. Nhưng nó phải thuận tiện cho dân. Bởi thế, phải xem xét, các triều trước có điều gì hay mình phải giữ, phải học. Điều gì dở thì bỏ. Cái gì trước kia chưa có, bây giờ phải thêmvào.
- Ôi, đó là việc của triều đình. Tôi là đàn bà không can dự vào chính lệnh.
Như chợt nhớ ra điều gì, Trần Thủ Độ vội hỏi:
- Mấy bữa nay bấn quá, tôi không ghé chỗ nhà học đường nữa, bà thấy thằng bé nó có chịu học không? - Vậy chớ ông hỏi thằng bé nào?
- Thì chẳng phải thằng Cảnh còn ai. Cả con vợ nó nữa, có chịu học không?
- Giời đất ơi, ai lại gọi vua như thế bao giờ.
Trần Thủ Độ cười vui, nói lấp:
- Vua chúa gì thì nó cũng là con, là cháu mình, nó còn nhỏ dại, phải nghiêmkhắc răn đe.
Phu nhân cười rung cả hai vai:
- Chịu khó lắm. Ông thầy khen cả hai đứa cùng sáng dạ. Nhưng con Chiêu Thánh mảnh sức, cứ hay kêu mệt. - Chúng nó có hoà thuận với nhau không?
- Trẻ nhỏ nó đã biết cái gì mà chẳng hoà thuận. Vậy thôi ông về nghỉ cái đã. Phu nhân lại giục.
- Sắp sáng rồi. Bà biết tính tôi đấy. Đã ngủ là ngủ như chết. Hôm nay thiết triều có nhiều việc lớn phải bàn. Bà cứ về nghỉ đi. Nói rồi Trần Thủ Độ nắmtay vợ tiễn ra khỏi bậc tamcấp.
Trở lại thư phòng, ông dẹp mấy cuốn sách lại, thổi tắt đĩa đèn. Ông ngồi đó suy nghĩ về mấy việc cần làm sắp tới. Đại loại như việc nhất loạt giảm tô thuế cho cả nước. Những vùng chiến tranh tàn phá nặng nề thì xá hẳn tô, thuế trong ba năm. Những ruộng hoang, hoá, dân tự khai phá cấy trồng, cho làm chủ đất ấy, lại cũng được xá thuế năm năm. Nhưng trước hết, phải làm một tuần cầu siêu cực lớn trong cả nước. Chiêu minh cho những ai bỏ mình vì nghĩa lớn, và cả những linh hồn chết oan, chết uổng. Những chiến trận ông đã trải, những cảnh chết chóc đẫm máu như hiển hiện trong óc não ông. Rồi những người ông sai giết. Những làng mạc, những nơi quân địch đồn trú,
ông ra lệnh đốt phá. Ngọn lửa như còn bừng cháy trong mắt ông. Biết bao nhiêu tội ác, ông có phần trách nhiệm. Có một cái gì đấy nhói đau nơi lồng ngực ông. Chợt dâng trong ông lòng thương xót, và cả sự hối hận. Dường như lương tâmông đang thức tỉnh. Phương đông đã ửng hồng.
==================.
1. Hình thư là bộ luật ban hành từ nămNhâmNgọ (1042) đời Lý Thái tôn, xemnhư là bộ luật sớmnhất trong lịch sử luật hình của nước ta. Nhờ có luật này mà xử mọi việc kiện tụng, tranh chấp được rõ ràng, công minh, dân lấy làm tiện. Vì thế mới đổi niên hiệu là Minh đạo (con đường sáng).
2. Ngày xưa để giữ sách được lâu bền, người ta bồi bìa bằng giấy bản nhiều lớp, rồi quét nước bằng quả cậy xanh giã nhỏ lấy chất nhựa phơi tẩmnhiều lần. Bìa đó để cả trămnămvẫn tốt.
3. Hoành đầu: tiền chi dùng việc giấy, mực.
4. Ámchỉ Huệ hậu Trần Thị Dung, sau khi Lý Huệ tôn chết, bị giáng xuống làmThiên cực công chúa, rồi gả cho Trần Thủ Độ. 5. Bốn lớp dân và cũng là bốn nghề căn bản của xã hội nông nghiệp cổ xưa: người làm nghề sông nước, người làm nghề rừng, người làmruộng, người chăn nuôi.
CHƯƠNG14
Thấm thoắt Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng đã được năm năm. Trần Cảnh tỏ ra là người khoan nhân, khiến Chiêu Thánh cảm thấy vui vầy, vì có được người bầu bạn. Nhưng càng ngày Trần Cảnh càng hammải học hành, thành thử ít có dịp gần gũi nhau cùng chơi một trò chơi như ngày còn bé. Cũng là sự học, song mỗi người theo một thầy. Mỗi người học theo một lối. Chiêu Thánh tuy có học cả thi, thư, lễ, nhạc, nhưng chủ yếu là để bồi đắp cho dung, công, ngôn, hạnh. Còn Trần cảnh lại học khác. Cảnh cũng học tứ thư(1), ngũ kinh(2), lại tham bác cả lục thao(3), tam lược(4). Thành thử cái học của Cảnh vừa sâu, vừa rộng. Vì Cảnh đang ở ngôi quân trưởng, ngồi trên cả kẻ sĩ và tứ dân, không thể không thông hiểu mọi điều, mọi nhẽ.
Quan sư phó là người thấm nhuần lời dặn của thống quốc thái sư Trần Thủ Độ. Nên ông nhồi nhét cho đức vua nhỏ cái học theo lối hình danh(5) của phái Pháp gia(6). Trần Cảnh là người có cái tâm đôn hậu, nên thường không nhập được lắm với những điều khắc bạc mà quan sư phó hầu giảng. Có lần đức vua đã hỏi thầy học của mình:
“Tự mình tu đức để giáo hoá dân thìsâu hơn mệnh lệnh, dân bắt chước người trên thì nhanh hơn pháp luật”. - Câu đó là ở đâu?
Quan sư phó vòng tay đáp:
- Tâu bệ hạ, lời đó được chép trong Kinh thi. Sách do đức Khổng phu tử soạn.
Nhà vua vẫn điềmtĩnh hỏi:
- Tạisao ông không dạy ta những điều đó?
Quan sư phó sợ hãi thưa:
- Tâu bệ hạ, là vì nước nhà mới trải qua cơn suy loạn kéo dài. Cương thường đảo lộn. Rường mối nát mục. Dân nhờn luật pháp. Nếu bản triều ta không nghiêmpháp luật, thì khó có thể lập lại được kỷ cương.
Nhà vua nghiêmsắc mặt, nhìn thẳng vào cái mũi khoằmcủa quan sư phó mà phán rằng:
- Ta biết những điều ông dạy ta, đều có ở trong sách. Nhưng trong sách còn có cả các điều khác nữa, sao ta không nghe ông nói. Ta chưa nghe ông nói: “Phải lo cho dân cái gì”. Mà chỉ thấy ông nói: “Phải trị dân như thế nào”? Mấy bữa trước đọc sách thầy Mạnh(7), ta còn nhớ lời ngài dậy: “Dân vi quý xã tắc thứ chi, quân vi khinh”(8) thế là nghĩa làmsao?
Quan sư phó bằm mặt sợ hãi. Có ngờ đâu một cậu bé mới mười hai, mười ba tuổi mà đã thông tuệ khác đời. Ông tự nghĩ: Ta lĩnh lời uỷ thác của thái sư thống quốc: “Không được đem cái nhân của đàn bà để giáo hoá đức vua. Nếu biến đức vua thành một người uỷ mị yếu đuối là mang trong tội”. Thành thử vừa hầu giảng đức vua, ông vừa lo sợ. Trong việc này, phận sự của ông, phải làm đẹp lòng cả hai người. Nhưng không thể xem mãi đức vua như một đứa trẻ được. Non một năm gần đây ngài đã ý thức được ngôi vị của mình. Ngài hỏi han kỹ lưỡng những việc lớn quốc gia, có quan hệ đến sự bình trị ở đời. Lại bữa nay, nhà vua dồn ta tới mức như ngài không chịu nổi cái học hình danh. Ngài có cái tâm thật tốt. Mặc cho ông chú muốn uốn vót thành một thứ gai nhọn sắc. Mới hay cha sinh con, trời sinh tính!
“Thế nghĩa là làmsao?” Câu hỏi như một chiếc roi gai quất vào giữa mặt, khiến quan sư phó thấy đau lòng. Ông lúng túng giãi bày: - Tâu bệ hạ, ý thầy Mạnh nói ở đây, không có nghĩa là coi thường thứ bậc của ngôi quân trưởng, mà thầy muốn nhấn: “Phải lấy dân làmgốc. Vì không có dân thì không có nước. Nước đã không có thì đấng quân trưởng lấy ai mà chăn dắt, mà cai trị”. - Tiếc thay ông đã không truyền giảng cho ta các điều hay lẽ dở một cách đầy đủ! Nói xong, nhà vua đứng dậy. Đêm ấy trong nội tẩm, Trần Cảnh cứ trằn trọc mãi không ngủ được. Chiêu Thánh lặng lẽ đặt tay lên ngực chồng. Trần Cảnh vẫn lặng thinh. Không gian yên tĩnh tới mức hai người nghe rõ được cả hơi thở của nhau. Một lúc lâu sau, Chiêu Thánh mới thỏ thẻ hỏi chồng: - Bữa nay thị triều có điều gì làmnhà vua buồn vậy? Vừa hỏi, Chiêu Thánh vừa xoa bàn tay mềmmại của mình lên ngực chồng. Được vuốt ve, Trần Cảnh thấy lòng dịu lại, nắmlấy bàn tay hoàng hậu, nói vừa đủ cho hai người nghe:
- Ta bực vì ông sư phó dạy ta không đến nơi đến chốn. Ông ta thiên về cái học hình danh, khiến tâm con người trở nên ác độc. Ta cứ băn khoăn mãi về những điều ông ta rao giảng bấy lâu nay. Mãi cho tới khi ta tìmsách đọc, mới vỡ lẽ.
Hoàng hậu Chiêu Thánh đang ở tuổi mười ba. Cái tuổi dậy thì của con gái. Một vài tháng nay, hậu lớn vổng lên. Cặp má lúc nào cũng ửng hồng. Môi tươi như thoa son. Bộ ngực có đôi bầu vú nở căng như đội áo lên. Tính tình thay đổi bất thường. Có lúc nói cười hồn hậu. Có lúc lại buồn rũ rượi. Đầu óc lắm lúc cứ rối tung lên. Vừa chợt nghĩ ra điều gì, lại quên ngay mất việc đang làm dở. Hậu bắt đầu thích ngắm mình trong gương. Thích chăm sóc đến áo quần và trang điểm. Hậu cũng có những đòi hỏi khác thường. Hậu muốn được nhà vua săn sóc, muốn được vuốt ve âu yếm.
Tất cả những sự thay đổi của Chiêu Thánh, dường như Trần Cảnh không để ý tới. Ngoại trừ những việc buồng the kín đáo mà nàng hay khêu gợi khi đêm về. Lúc đầu chỉ làm cho Trần Cảnh thấy buồn cười. Sau lại thấy vui vui. Hai người thích được gần nhau luôn để được đầu gối tay ấp. Để được thủ thỉ chuyện trò. Và đúng là chỉ đêmxuống đôi lứa mới được sống với nhau bằng tình cảmthật. Bởi lẽ ban ngày, người thì đóng vai đạo mạo của một vị quân trưởng, người phải tỏ ra là bậc mẫu nghi thiên hạ, trong khi họ còn là những thiếu niên, họ cũng cần chơi bời, đùa nghịch như bọn trẻ bằng lứa.
Cùng với thời gian, cả hai đều dần dần ý thức được vai trò của mình. Chiêu Thánh chẳng hạn, hậu không còn bằng lòng với việc sắp xếp bọn nữ tì hầu hạ trong cung cấm theo ý của mẹ đẻ nữa. Chiêu Thánh đuổi bớt những đứa hầu cận trái ý mình, và lựa những đứa biết chiều theo sở thích của hậu. Cả Trần Cảnh cũng thế. Trần Cảnh càng ngày càng ham mải kiếm tìm sách đọc. Cũng như xem xét kỹ càng phép trị nước của các đời. Nhiều khi Cảnh đem các suy nghĩ thâu tóm được trong sách về nói chuyện với thượng hoàng. Trần Thừa không phải là người học hành giỏi giang gì, ông không lý giải được cho con về những điều cao rộng mà các bậc thánh hiền đã lưu lại. Ông bèn gặp Trần Thủ Độ. Anh emđàmđạo thật là cởi mở.
Thượng hoàng Trần Thừa nói:
- Chẳng giấu gì chú, ít lâu nay Cảnh nó thường hỏi tôi các điều về công việc của triều đình.
Trần Thủ Độ mỉmcười, đáp:
- Vậy là đáng mừng có gì bác phải băn khoăn. Ta chỉ mong sao cháu chóng trưởng thành, tự nó điều hành các công việc triều chính. Tôi với bác, làmsao cáng đáng được mãi các công việc lớn quốc gia. Đại loại cháu nó thường hỏi bác về cái gì?
Thượng hoàng Trần Thừa vui vẻ nói luôn:
- Chẳng hạn như hôm trước, chú bảo tôi cho ngự sử đài bố cáo cho đầu mục các châu, quận, lộ, phủ phải làm sổ hộ khẩu, phân rõ độ tuổi, chia ra thứ bậc từ tiểu hoàng nam đến long lão(9) để tiện dụng cho việc binh, phòng khi có hoạ biến. Nó hỏi tôi: “Như thế có phiền cho dân không?” Lại cái hôm tết đoan ngọ, triều đình cử hành lễ điếu Khuất Nguyên cùng các người hiền đời trước, nó cũng hỏi:: “Lệ này này có từ bao giờ? Tạisao chỉ điếu những người hiền của Trung Hoa? Đại Việt ta qua các đời không có ai là người hiền chăng?”. Đấy, chú xem, những điều như thế, trước đây nó có biết gì đâu mà hỏi. Bây giờ không những hỏi, mà còn tranh biện cả với tôi.
Trần Thủ Độ lấy làmđắc ý lắm, ông nói:
- Thế thì đại phúc cho nhà Trần ta đấy, bác ạ. Tôi chỉ sợ nó khù khờ, bảo sao nghe vậy, thì lúc anh em mình khuất nẻo rồi, ai là người giúp nó lèo lái con thuyền quốc gia. Thằng bé được cái tâm thiện. Biết thế, tôi đã căn dặn kỹ càng viên sư phó dạy cháu trở thành người cứng rắn. Nghe đâu nó vừa quở ông ta. Có nhẽ phải chọn thầy khác cho cháu thôi, bác ạ.
- Chú định nhắm ai? Phải tìm cho cháu một ông thầy thật thông hiểu cả tam giáo(10), chú ạ. Dạo này, nó hay hỏi tôi về Đạo giáo lắm. Mình ngần này tuổi đầu, chữ nghĩa kémcỏi, chẳng biết đầu đuôi thế nào mà chỉ dẫn cho nó.
- Tôi định mời cư sĩ Phùng Tá Thang, ý bác thế nào? Ông này là cha đẻ của Phùng Tá Chu, người Long Hưng(11) học thức hơn đời, thông hiểu cả tam giáo, cửu lưu(12). Ông là một người tích thiện. Gặp những năm đói kém mất mùa, thường xuất của nhà ra chẩn cấp cho người nghèo. Khắp mấy châu quận, dân chúng đều mến mộ công đức ông ta. Ông ta là học trò yêu của Đỗ Đô(13) chủ suý phái thiền Hoàng Giang. Tôi đồ rằng Trần Cảnh sẽ hợp với tiên sinh.
Trần Thừa gật gù:
- Nếu chú thấy được, chú cứ làm. Mọi việc tôi đều trông cậy nơi chú.
===============.
1. Bốn bộ sách cơ bản của Đạo nho: Trung dung, Luận ngữ, Mạnh Tử, Đại học.
2. Ngũ kinh: Thực ra là lục kinh tức sáu bộ sách kinh điển của Đạo nho do Khổng Tử soạn: Dịch - Thi - Thư - Lễ - Nhạc - Xuân Thu. Kinh Nhạc bị đốt trong thời Tần Thuỷ hoàng, sau chỉ còn lại nămkinh.
3. Lục thao: Sách của Thái Công soạn gồmcó: Văn thao, Vũ thao, Long thao, Hổ thao, Báo thao, Khuyển thao. 4. Tamlược: Sách về binh pháp do Hoàng Thạch Công soạn.
5. Hình danh: một nhánh của học phái Pháp gia.
6. Pháp gia: Một học phái chủ trương trị nước thuần tuý trên cơ sở luật pháp nghiệt ngã.
7. Ámchỉ Mạnh Tử, một người có công chấn hưng đạo Nho sau gần 200 nămKhổng Tử mất.
8. Có nghĩa: Dân là quý, thứ đến đất nước, vua là bình thường, ý nói phải lấy dân làmgốc.
9. Lệ nhà Trần kê khai hộ khẩu con trai lớn trên 18 tuổi gọi là đại hoàng nam, dưới tuổi đó gọi là tiểu hoàng nam, 60 tuổi gọi là lão, già hơn gọi là long lão.
10. Ba đạo lớn: Nho - Lão - Phật.
11. Phùng Tá Thang gốc người Lý Nhân (NamHà ngày nay) sau dờisang làng Mỹ Xá (nay thuộc huyện Hưng Hà - Thái Bình). 12. Chín học phái thời Xuân Thu - Chiến Quốc: Nho gia, Đạo gia, Âm dương gia, Pháp gia, Danh gia, Mặc gia, Tung hoành gia, Tạp gia, Nông Gia.
13. Đỗ Đô quê ở làng Lạng (huyện Vũ Thư, Thái Bình ngày nay). Đỗ ưu khoa Minh kinh bác sĩ, Nguyên phong nămthứ sáu (1097) đời Lý Nhân tông. Sau lại đỗ ưu khoa thi tam giáo. Ông không ra làm quan mà về lập ra Hoàng Giang phái. Nội dung lớn mà ông lý giải là “Tamgiáo đồng nguyên”. Hoàng Giang được coi là tiền thân của phái Trúc Lâmsau này.
CHƯƠNG15
Từ khi mời được cư sĩ Phùng Tá Thang về triều làm thày dạy học thay cho quan sư phó, nhà vua lấy làm mãn nguyện. Những điều tiên sinh giảng giải rất hợp ý nhà vua. Trần Cảnh là người tôn sư trọng đạo. Nhà vua khẩn khoản mời tiên sinh vào ở ngay trong nội điện, để tiện việc học hành, và cũng là để được đàmđạo nhiều hơn.
Tiên sinh lấy cớ rằng ông không quen ở nơi đô hội. Ông chỉ muốn sống một mình cho tĩnh lặng, vừa tiện việc đọc sách và viết sách. Bởi thế nhà vua đã thu xếp để tiên sinh ở điện Cao Minh gần cửa Đại Hưng. Tuy vậy, tiên sinh cũng khéo léo từ chối và xin được ở chùa Thắng Nghiêm, đối diện với cửa Đại Hưng ở phía ngoài hoàng thành. Nhà vua vui vẻ chấp nhận, vì có đôi lần qua lại Thắng Nghiêm, ngài tỏ lòng mến mộ cảnh chùa u nhã, lại được vị thiền sư trụ trì là người đạo cao, đức trọng. Hằng ngày, tiên sinh thường đến giảng kinh sách cho nhà vua tại điện Nhật Minh. Xong ông lại lui về trụ tại chùa Thắng Nghiêm. Nhà vua đã dựng cho tiên sinh một mái thảo đường ngay dưới gốc cây bồ đề sum sê, soi bóng xuống hồ bán nguyệt, và kế cận với vườn hoa rợp bóng các loài mẫu đơn trắng, đỏ, vàng xen với ngâu, ngọc bút, bạch trà, ngọc lan…bốn mùa tỏa hương thơmngào ngạt.
Một hôm bất chợt Thái tôn vi hành tới thăm Phùng tiên sinh. Nhà vua cải dạng như một nho sinh, có tiểu đồng đi theo, quẩy hai chiếc tay nải nhẹ tênh. Qua tam quan, tiểu đồng dẫn nhà vua theo con đường quanh co trong vườn chùa. Khen thay chỉ có một vuông đất không rộng lắm, mỗi bề bất quá hơn một ngàn bước chân, mà nhà chùa sắp xếp cây cối, nhà cửa, đường đi lối lại cứ như là đường vào cõi thượng giới. Đây là rừng đại ngàn với những cây muỗm cổ thụ, thân cao vút, gốc xù xì, cành lá vươn dài, tán khép dầy. Loáng thoáng có những giọt nắng xuyến qua kẽ lá, trải lốm đốm trên nền cỏ đã ngả sang màu lục nhạt, nom như những bộ da của đám hươu sao trên thung Yên Tử. Kia là một dải suối, chảy róc rách qua những khe đá nằm lăn lóc trong lòng suối. Con suối nông choèn, nước chỉ ngập tới mắt cá chân cũng được bắc qua một cây cầu gỗ làm theo kiểu thượng gia hạ kiều(1), hai bên lan can con tiện. Lác đác còn có những lầu lục giác, bát giác ẩn dấu trong bóng cây. Nơi là đình Nghinh phong(2), nơi là lầu Tịch huyên(3). Qua suối lại đến khu vườn dược. Tại đây hàng trăm loài cây thuốc được đưa về trồng thành rừng.Loáng thoáng mộtvài chú tiểu đang lom khom đào, hái. Vẳng đâu đây một tiếng gà gáy của chú chim cu cườm. Con đường dẫn tới vườn hoa, vòng ra hồ bán nguyệt. Tại đây nhà vua đã nhìn rõ toàn cảnh ngôi thảo đường dưới gốc cây bồ đề. Ba gian nhà nhỏ, cửa mở toang. Tiên sinh đang rạp mình trên tờ giấy điều trải rộng với cây bút lông lớn trong tay. Vừa lúc tiên sinh phẩy nét bút cuối cùng, ngẩng đầu lên đã thấy nhà vua đang chăm chú nhìn mình. Tiên sinh vội đứng dậy vái nhà vua hai vái. Nhà vua cũng vái lại đáp lễ. Nhà vua đưa mắt nhìn nơi ăn ở của sư phụ. Gian giữa chỉ trải một chiếc chiếu rộng. Nhìn sang gian bên tả, thấy chiếc nệm cỏ đặt trên tấm chiếu cói. Gian bên hữu, vài kệ sách kê sát tường. Một chiếc bàn cuốn thư, một chiếc ghế triện. Trên bàn vài thứ đồ văn phòng tứ bảo.
Thấy cảnh sinh hoạt sơ sài như một đạo sĩ, nhà vua trạnh lòng hỏi:
- Bẩmsư phụ, quan thiên phủ(4) đã cho người đưa các thứ lại đây hầu sư phụ chưa?
Phùng tiên sinh ngẩng đầu nhìn nhà vua. Chiếc khăn nhiễu nâu hơi trùm búi tóc tuột ra một vòng, khẽ đung đưa. Tiên sinh nhẹ vén hai tay áo thụng rồi vuốt chòmrâu bạc mỉmcười.
- Đội ơn bệ hạ. Quan thiên phủ có đến gặp bần đạo, nhưng bần đạo với ngài thuyền sư đây vốn là chỗ bằng hữu, nên mọi thứ đã có
nhà chùa chu cấp. Ngay thuyền sư đạo hữu cũng nài nỉ bần đạo ở nhà phương trượng, nhưng bần đạo vốn quen cảnh lâm tuyền đạm bạc.
Nhà vua tự nghĩ: “Có nhẽ tiên sinh không muốn phiền đến ta. Đây là cái ơn tri ngộ, biết đến bao giờ mới đền đáp được”. Lúc này nhà vua mới chú ý tới đôi liễn tiên sinh vừa viết xong.
Thấy nhà vua liếc nhìn, tiên sinh vội đemtreo lên vách.
Nhìn hai bức liễn viết theo lối thảo tự, nhà vua xem như xem tranh chứ không đọc. Nét chữ bay bướm, một cách tài tình. Chỗ đậm, chỗ nhạt, khoảng sáng, khoảng tối nom thật thanh nhã, sâu lắng, ẩn giấu một triết lý cao siêu như tư chất của tiên sinh vậy. Nom những bức liên của tiên sinh, khiến Thái tôn liên tưởng đến những bức sơn thuỷ hoạ của Vương Duy(5) treo trong điện Thiên An. Thái tôn đã cố gắng đoán mà không đoán ra một chữ nào, bèn kính cẩn hỏi tiên sinh:
- Xin sư phụ đọc giùmcho, tiểu sinh quả là có mắt như đui.
Phùng tiên sinh liền cất cao giọng đọc:
PHẬT - NHO - LÃO TAM GIA NHẤT TRÙ
QUÂN SƯ PHỤ NÃI NGŨ LUÂN CHI YẾU(6)
Đọc xong, tiên sinh bèn giảng giải:
- Tâu bệ hạ, đấy là chữ của thầy tôi dùng trong bài văn sách, khoa thi tamgiáo nămHội phong thứ sáu(7) - Thưa sư phụ, Thái tôn nói - Cứ theo như ý trong đôi liễn này, có nghĩa là tamgiáo đồng nguyên?
Ngẫmngợi một lát, Phùng tiên sinh đáp:
- Tâu bệ hạ, sự không phải vậy, nhưng lý là vậy đó.
Thái tôn lắc đầu:
- Thưa sư phụ, tiểu sinh không hiểu.
Phùng tiên sinh đemra một be rượu kimcúc. Ông rót vào chén sành Bát Tràng men ngọc, dâng vua.
Thái tôn chắp hai tay vái, chối từ. Nhà vua vẫn có ý chờ tiên sinh chỉ giáo.
Phùng tiên sinh sửa lại khăn áo, đốt lò trầm, rồi thong thả nói:
- Tâu bệ hạ, ba đạo Nho, Lão, Phật là do ba nhà chủ trương. Tông chỉ của mỗi đạo cũng khác nhau về căn bản. Sự là như vậy, nên không thể nói ba đạo cùng một nguồn gốc. Đời nhà Đường, đạo Phật du nhập từ Tây Trúc sang Trung Hoa, đã bị nhà nước Trung Hoa chèn ép. Các giáo phái bài xích, phản bác nhau mạnh mẽ. Sự tranh chấp quyết liệt đôi phen đã đổ máu. Có người đã đứng ra hoá giải, cũng nói là “tam giáo đồng nguyên”(8). Vì sự không phải là đồng nguyên, nên cuộc hoá giải không thành. Tranh chấp kéo dài tới cả trăm năm, rồi ba đạo đó mới tìmđược chỗ đứng trong nhau, sống hoà thuận được với nhau.
Nhưng ở ta thì khác, các đạo Nho, Lão của Trung Hoa tràn sang ta. Các cụ ta lý hội ngay được sự tinh tuý của hai đạo lớn đó. Tiếp đến khi đạo Phật từ Tây Trúc tràn sang. Rồi sau nữa đạo Phật cũng qua đường Trung Quốc tràn vào. Các cụ ta đều nhiếp thống được cái
tinh tuý của tam giáo. Thành thử ở ta không có sự chèn ép giữa các tông giáo. Đến đời nhà Lý, từ Lý Thái tổ đã lấy đạo Phật làm Quốc giáo. Song không vì đưa đạo Phật lên vị trísiêu việt mà có sự bài xích Nho, Lão.
Nhà vua nghe Phùng tiên sinh giảng giải thật là chăm chú. Đôi mắt nhà vua nhìn vào miệng Phùng tiên sinh - nơi phát ra những lời nói vừa mộc mạc vừa cao siêu, khiến nhà vua như uống lấy từng lời.
Nhấp một ngụmrượu, tiên sinh lại nói:
- Về sự là như vậy. Song về lý thì cả ba tôn giáo đều có chỗ nhất quán, nghĩa là vừa siêu nhiên, vừa hiện thực. Nho, Lão, Phật đều không phải là những hệ thống đóng mà là dòng nước luôn luôn lưu thoát. Ở nước ta, các bậc minh quân thường kiêm dùng cả ba đạo, gồm cả xuất lẫn nhập, cả siêu nhiên lẫn hiện thực, lấy cái nọ chế thắng cái kia cho thêm phong phú tinh thần về đường khai phóng. Bởi thế, việc kén hiền tài cũng xuất phát từ tam giáo. Ví như đã trúng cách khoa minh kinh bác học rồi, lại phải trúng cách khoa tam giáo nữa mới được bổ dụng.
- Tâu bệ hạ, vậy là các cụ ta, đã tạo ra được một đạo mới thấm nhuần ý nghĩa nhân văn siêu việt của tam giáo, trở thành nền đạo thống của quốc gia. Cái lý về tamgiáo đồng nguyên chính là ở đấy.
Thái tôn cuối đầu suy tư. Nom dáng vẻ nhà vua đã vượt ra khỏi tầm vóc của một thiếu niên. Phùng tiên sinh ngừng lời lâu rồi, nhà vua vẫn còn miên man với những ý nghĩ về dân, về đạo. Chợt Thái tôn ngẩng nhìn Phùng tiên sinh, nhà vua có cảm giác như là thầy đã biết cả gan ruột mình rồi.
Lúng túng vua nói:
- Sư phụ, những điều thầy nói vừa cao minh, vừa uẩn ảo, khiến tiểu sinh thấy băn khoăn khó nghĩ quá.
- Tâu bệ hạ, chẳng hay có điều gì làmbệ hạ phiền lòng? Bần đạo tuổi cao, tránh sao khỏi, sự khiếmkhuyết, mong bệ hạ đại xá. - Ồ không! Thưa sư phụ, những điều mà sư phụ thường giảng giải cho tiểu sinh sâu rộng quá, nó hàm chứa cả nhân, cả nghĩa, cả đạo nữa. Tiểu sinh tự thẹn vì mình ở ngôi cao mà chưa làm được điều gì ích dân lợi nước. Tự thẹn còn vì tiểu sinh được người họ Lý nhường ngôi. Mà rường mối cương thường lại cũng chính do các triều vua Lý đặt nền móng cả. Làm được như nhà Lý đối với dân, đối với đạo ở các thời thịnh đã khó. Vượt được nhà Lý về mọi mặt là muôn khó. Thưa sư phụ, gần đây tháisư thống quốc đã cho san định bộ bình luật, tiểu sinh đã chấp thuận bố cáo cho thần dân đều biết mà thi hành. Nhưng trong lòng vẫn còn áy náy.
- Bệ hạ áy náy điều gì? - Phùng tiên sinh nhẹ hỏi như là một sự khuyến nhượng, khiến nhà vua phấn chấn hẳn lên, ngài nói: - Thưa sư phụ, điều tiểu sinh thấy chưa được yên ổn trong lòng, ấy là hình luật xemra có bề hà khắc.
Phùng tiên sinh lấy làm cảm kích thiện tâm của đức vua. Ông không khỏi sung sướng vì đã dậy cho hoàng thượng nhuần thấm được cái đạo nhân nghĩa ở đời. Tự dưng nước mắt ông nhểu ra.
- Tâu bệ hạ, bần đạo đã có đọc qua bộ hình thư đó. Bần đạo cũng có cái cảm nhận như bệ hạ. Song le, mấy chục năm nay kỷ cương nát mục, luân thường đảo lộn, dưới trên lẫn lộn, ác thiện khó phân. Nhà Trần ta mới được thiên hạ, nhẽ ra phải làm trước hết là các việc thiện đức. Khốn nỗi xã hội rối như một mớ bòng bong, thế thì làm sao thi hành được cái đạo của nhà vua. Cho nên phải dựa vào hành pháp để khôi phục đạo thống, lập lại kỷ cương, rồi sau đó mới có thể làm sang việc khác. Bộ hình thư đó lúc này là cần thiết. Nhưng khi dân đã đi vào kỷ cương lễ luật rồi, hình pháp phải khoan giảm.
Thái tôn nhích lại gần Phùng tiên sinh hỏi:
- Thưa sư phụ, khi đã ổn cố được kỷ cương rồi thì phải làmgì?
Tiên sinh cười, vui vẻ đáp:
- Ổn cố được kỷ cương đâu phải chuyện một sớm một chiều làm được. Việc này cực kỳ hệ trọng, vì nó xây dựng rường mối cho một triều đại. Việc hình luật muốn có thành tựu là phải nghiêm. Trước hết đối với những người làmra luật pháp, những người cầmcân nảy mực trong bộ máy quốc gia, không được phép vi phạm. Có thế dân mới tin. Dân tin từ các điều nhỏ nhặt thì nhà vua mới làm được các điều to lớn khác.
- Tâu bệ hạ, việc này bần đạo nhớ có lần thầy Tử Cống hỏi đức Khổng Tử: “Việc chính nên như thế nào?”. Đức Khổng tử đáp:
- Đủ ăn, đủ binh, dân tin mình.
Tử Cống lại hỏi:
- Bất đắc dĩ phải bỏ một trong ba điều ấy thì bỏ điều nào trước?
Không ngần ngại nghĩsuy, đức thánh liền nói:
- Bỏ việc binh.
Lại hỏi:
- Còn hai điều ấy, bất dắc dĩ phải bỏ đi một điều nữa, nên bỏ điều nào trước?
Khổng Tử đáp:
- Bỏ ăn. Bỏ ăn thì chết. Nhưng xưa nay người ta vẫn chết. Còn như dân không tin thì hỏng. Hỏng hết. Sụp đổ hết. Phùng tiên sinh thủng thẳng nói rành rõ từng lời. Nhà vua cứ há mồm ra nghe. Đức vua đã nhích sát tới mép chiếc bàn chân qùi. Tức là hai thầy trò ngồi cách nhau chỉ còn một khoảng bằng cái mặt bàn, ước đôï hai gang tay.
Tiên sinh biết người học trò của mình có được cái tâm hiếu thiện. Ông thầm nghĩ: “Thật phúc cho nhà Trần, phúc cho trăm họ”. Ông tự hứa với mình, chừng nào còn có cơ may được hầu giảng đức vua, sẽ bằng mọi cách, giúp cho nhà vua hiểu thấu được điều nhân nghĩa, nhẽ trị loạn ở đời. Phải làm cho nhà vua biết kính cẩn và thận trọng, phải nắm được các điều mấu chốt của tam giáo. Biết yêu điều thiện, ghét điều ác. Chớ có ghét cái dân yêu mà yêu cái dân ghét, thì cơ đồ trường cửu bất quá không hơn chiếc bong bóng dưới giọt tranh.
Tiên sinh chợt nhớ, chưa nói điều vua hỏi: “Ổn cố được kỷ cương rồi thì phải làmgì?”. Nhìn vào khuôn mặt thơ ngây rất đỗi đáng mến của nhà vua, Phùng tiên sinh nói:
- Trở về cái chuyện hình luật. Tâu bệ hạ, khi đã ổn cố được kỷ cương rồi, tức là dân tin theo hình pháp. Trong xã hội không còn trộm cướp. Nhà nhà đủ ăn, đủ mặc. Cha con, chồng vợ hiếu thuận thì phải khoan nới hình luật. Các việc tiếp theo là khai phóng dân trí. Muốn khai phóng dân trí thì phải mở mang việc học. Phải trọng kẻ sĩ, chuộng người tài đức. Vì một nước trị hay loạn, thịnh hay suy là cốt ở nhóm người này. Đây chính là bộ phận thiểu số dẫn lối đưa đường cho toàn xã hội. Cho nên không thể không chăm lo quý trọng họ, để họ giúp rập trong việc đưa toàn xã hội phát triển lên về mọi mặt. Như mở trường học, truyền bá trí thức, giáo hoá nhân luân. Phát triển
nghề nông. Mở mang nghề công. Trau dồi nghề thương. Trong một xã hội, ai ai cũng lo làm việc. Nhà nhà đầy đủ ắt sẽ đua nhau làm điều thiện. Vậy lại phải giáo hoá cho dân ghét điều ác hiểm, gian trá, dối lừa, trộm cắp, ắt dân không bao giờ làm điều gian ác nữa. Dân ghét điều ác, điều xấu không làm, hơn là dân sợ hình pháp mà không làm điều xấu, điều ác. Như thế thì dân trở nên thuần phác, giàu có, nước của bệ hạ không muốn phú cường cũng không được.
Thái tôn hết đỗi vui mừng. Bởi mỗi lời nói của sư phụ như ngọn đuốc tuệ soi vào cõi vô minh, khiến nhà vua cảm thấy mình được sáng hoá, được gia tăng sức mạnh để tiến sâu vào đường đạo.
Thái tôn lại hỏi:
- Trình sư phụ, nếu dân trí được khai phóng rồi thì còn phải làmgì nữa?
Phùng tiên sinh suy ngẫmgiây lâu rồi đáp:
- Tâu bệ hạ, khi các việc lớn về dân trí, dân sinh đã xây đắp được rồi, lại phải nghĩ đến dân tâm. Tức là hướng tâm thức chúng dân đi vào con đường đạo. Xin bệ hạ cứ suy xét từ nay cho tới lúc viên mãn cuộc đời, nếu không có một đấng cao minh nào đó để tôn thờ và cũng là để nương tựa thân tâm, không phải là mối lo lớn cho bách tính sao? Xin bệ hạ hãy ghi nhớ nằm lòng, rồi di truyền lại cho cháu con đời đời, đừng có bao giờ nghe lời xúc xiểm của những người thiển cận mà tước bỏ phần tâm linh của nhân chúng. Lý Cao tôn đã dại dột nghe lời ĐàmDĩ Mộng(9) thu độ điệp(10), bắt tăng ni hoàn tục, phá bỏ chùa chiền, khiến nhân tâmcon người trở nên bơ vơ, náo loạn. Phá chùa, đuổi tăng, nhưng nhà vua lại không ngừng xây cất lầu son, gác tía, cung điện nguy nga, ăn chơi xa xỉ, mặc chúng dân lầm than đói khổ.
Xã hội rối loạn bắt đầu từ sự sa đoạ lương tri, tâmlinh đoạ lạc.
Từ đấy nhà Lý, bắt đầu từ Lý Cao tôn, và kết thúc ở Lý Huệ tôn. Hai cha con ông này đã chôn cất trọn vẹn sự nghiệp hơn hai trăm nămhuy hoàng của cả dòng họ.
Phùng tiên sinh ngừng lời, khiến Thái Tôn ngỡ ngàng, vì nhà vua đang chămchú lắng nghe. Thái tôn khiêmnhường hỏi tiên sinh: - Thưa sư phụ, có một điều tiểu sinh chưa rõ lắm, nếu các điều như tiên sinh dậy đã được hoàn tất, thì ngôi quân trưởng như tiểu sinh còn phải làmnhững gì nữa để dân chúng được an cư lạc nghiệp, nhà nhà hạnh phúc.
Nghe nhà vua hỏi, trong lòng tiên sinh loé lên một niềm vua lớn. Tiên sinh ao ước, nếu như vào tuổi trưởng thành, khi đã nắm trọn quyền lực trong tay, mà nhà vua vẫn còn muốn hỏi han những người am tường thế sự, những người có thiện tâm với dân, với nước. Ôi nếu được như vậy thì Thái tôn sẽ là ông vua mở nghiệp sáng giá. Mặc dù sự lên ngôi của nhà vua, ngay cả công việc điều hành triều chính, lèo lái con thuyền quốc gia đều do tay Trần thủ độ sắp đặt. Sợ rằng nhà vua không chịu tu chính nhân cách, trau dồi đạo học, để trở thành một người mẫn tuệ, thiện đức mà chỉ ham mải cung nữ, mê say các lạc thú trần gian thì sớm muộn cũng trở nên một bạo chúa. Mấy chục năm qua, chỉ vì bậc quân trưởng ngu tối. Xiết bao người chết oan khuất vì đói rét, bất công. Đi về nẻo nào cũng thấy xác người. Tai chất đầy tiếng rủa nguyền hờn oán của đám lê dân. Chính vì thế mà tiên sinh không tiếc sức mình để huấn hỗ cho đức vua trở thành đấng minh quân, đemhạnh phúc đến cho mọi nhà. Nghĩ vậy tiên sinh bèn nói:
- Tâu bệ hạ, thật là phúc cho trăm họ, khi người quân trưởng có bổn tâm chí thiện. Nay bệ hạ nắm giữ ngôi trời, mà lúc nào cũng lo đến làm lợi cho dân, ắt là dân được nhờ. Thế là nhà vua đã thể theo mệnh trời. Nhưng mệnh trời không nhất định. Thiện thì được. Không
thiện thì mất. Như nhà Lê mất về tay nhà Lý. Nhà Lý mất về tay nhà Trần. Chẳng qua là các triều đại về sau không giữ được đức thiện, làm trái lòng dân, nghịch mệnh trời. Vì sao vậy? Vì rằng Vua thay Trời trị dân, thì Vua muốn điều gì là Trời muốn điều ấy. Thế nhưng Trời lại chiều Dân. Cho nên Vua làm điều gì trái lòng Dân, tức là trái mệnh Trời. Bởi thế đức Vua tuy được quyền thay Trời, nhưng phải chịu trách nhiệm về mọi mặt đối với Dân. Dân tuy chịu quyền cai quản của Vua, nhưng vẫn có quyền bắt Vua phải theo điều thiện mà làm. Thành thử muốn biết lòng Trời thì hãy xem lòng Dân. Trời với Dân làm một thì trên dưới giao hoà được với nhau. Cứ theo cái lý ấy, thì người làm
vua, phải theo lòng dân mà tề chỉnh sự chính trị của mình.
Phùng tiên sinh ngừng lời. Thái tôn vẫn chămchú lắng nghe với niềmthành kính xúc động. Tiên sinh lại nói: - Tâu bệ hạ, những điều bần đạo tâu trình bệ hạ, phần theo chữ nghĩa của thánh hiền, phần theo sự thành tựu của các đời trước đã làm, xin bệ hạ lưu tâm.
Thái tôn cúi đầu vái tiên sinh hai vái.
======================.
1. Loại cầu có mái che.
2. Nghinh phong: Đón gió - nơi ngồi nghỉ mát.
3. Tịch huyên: Tĩnh lặng, không có tiếng ồn ào - thường là nơi đọc sách hoặc gẩy đàn.
4. Chức quan trông coi về các kho tàng trong cung vua.
5. Vương Duy (698-759) một thi hoạ nổi tiếng danh đời Đường. Ông được coi là người đã sáng lập ra phái Namthuỷ hoạ. 6. Có nghĩa là: Phật - Nho - Lão tuy ba nhà nhưng chung một bếp. Vua - Cha - Thầy là cái lõi của nămluân. 7. Thầy học của Phùng Tá Thang là Đỗ Đô, đỗ Minh Kinh bác học xong lại đỗ ưu khi vào thi tam giáo năm Hội phong thứ sáu, tức
năm Đinh Sửu (1097) triều Lý Nhân tôn. Đỗ Đô là người sáng lập giáo phái Hoàng Giang, tiền thân của phái Trúc Lâm sau này. Ông sống trên một trămtuổi, trải 5 triều vua.
8. Tam giáo đồng nguyên: chữ Hán có nghĩa là: Ba đạo cùng một nguồn gốc. Liễu Tôn Nguyên đời Đường đã đứng ra giải thích việc này. Đương thời không chấp nhận.
9. Đàm Dĩ Mộng làm tới chức Thái phó triều Lý Cao tông. Ông cho việc làm rối loạn xã hội, kinh tế khó khăn là do nhiều người đi tu quá. Chủ trương bắt tới quá nửa số sư sãi phải hoàn tục.
10. Độ điệp: một loại giấy chứng chỉ của chính quyền cấp cho người tu hành. Ai có độ điệp mới được miễn sưu dịch.
CHƯƠNG16
Bay đâu! Bà thiên cực công chúa Trần Thị Dung quát gọi đámnô tì.
- Dạ! Tiếng dạ ran lên từ miệng hàng chục đứa thị nữ. Chúng kéo đến vây quanh bà:
- Dạ, bẩmphu nhân, chúng con có mặt.
- Ta nghe có tiếng quân dẹp đường, có phải kiệu của đức ông về đấy không?
- Bẩmphu nhân, để con ra cổng ngó xem. - Trịnh Huyền vừa nói vừa nhanh nhảu chạy ra cổng. Một lát đã thấy về. - Trình phu nhân, đấy là kiệu của quan Thái uý(1) phụ chính đi dạo mát.
Phu nhân lắc đầu nói nhỏ, nhưng vẫn không giấu nổi vẻ bực dọc: “Đi dạo mát mà cũng tiền hô hậu hét. Ngông nghênh quá thể. Không trách ông chú ghét là phải”. Mà lạ, hai chú cháu cứ như xung khắc ấy. Bà thầm nghĩ: “Nếu không có ta can ngăn ông ấy, không biết tình chú cháu sẽ đi đến đâu. Ta vừa là mẹ vợ nó, vừa là thím nó, nói mãi cũng chẳng lọt tai nó. Từ dạo lập phủ riêng, mộ quân luyện tập ráo riết, nó lại càng vênh váo lên mặt”.
Đám thị nữ đã lui ra hết, chỉ còn Trịnh Huyền vẫn băn khoăn đứng gần phu nhân, như muốn bày tỏ điều gì. Trịnh Huyền chính là thị nữ đã mật chuyển tờ chiếu Cần vương do quan thừa chỉ thảo đến cho Lý Huệ tôn ký, chẳng may bị lính tuần thám của Trần Thủ Độ bắt được. Việc vỡ lở, nhưng cả hai thầy trò đều được Trần Thủ Độ đại xá. Không những thế, quan thừa chỉ còn được cất nhắc, thị Huyền vẫn được tin dùng. Thị vẫn được ở lại trong cung hầu hạ đức bà, khiến thị cảm kích cái ơn cứu tử, dẫu có kết cỏ ngậm vành cũng chưa báo đáp được.
Đức bà là người khoan nhân đức độ, không chấp nê những chuyện đã qua. Nhiều lần phu nhân còn gia ân cho tiền bạc để thị về quê, chu cấp cho cha mẹ.
Thị Huyền đứng mãi, không thấy đức bà cho lui, cũng không thấy sai bảo điều gì, Huyền bèn bê khay trầu từ bàn nước đưa lại chỗ đức bà đang ngồi trên kỷ. Thiên cực đang đắmchìmvào những suy tư, chợt giật mình, bà vẫy tay ra hiệu cho thị Huyền trở lui. Thiên cực đang mong Thủ Độ trở về để khoe biết bao là chuyện. Nhất là từ hôm được tin con gái bà - hoàng hậu Chiêu Thánh đã tắt kinh hơn một tháng, lòng bà chấp chới như muốn bay lên. Thế là bà yên tâm. Con gái bà đã ấm chỗ, chắc chân. Thảo nào nom con bé khác quá. Đang ăn chơi phổng phao thì ốm đứng ốm ngồi, chợt ngửi thấy mùi cơm đã ậm oẹ nôn mửa. Mừng thì mừng thật, nhưng bà hơi ngại. Vìsức Chiêu Thánh mảnh mai quá. Còn trẻ quá. Con bé mới chớmsang tuổi mười lămmà đã sắp làmmẹ. Bà bấm đốt ngón tay nhẩm tính từ ngày thái sư thống quốc đi khỏi kinh thành. Cứ như lời ông nói lúc ra đi: “Tôi chỉ đi trọn một tháng” thì hômnay đã là một tháng nămngày rồi, vẫn chưa thấy về.
Bà mong chồng về còn vì có chuyện bà nhờ vả ông, xin cho một thằng cháu về bên ngoại. Tức là cái tên phải gọi bà bằng bà cô để được làmcâu đương(2). Chả là bữa tháisư sắp ra đi, bà hỏi:
- Ông lạisắp đi đâu đấy?
Tháisư mỉmcười, đáp:
- Tôi đi có công việc của triều đình.
- Thì có bao giờ tôi nghĩ ông đi làm việc gia đình. Chẳng qua là vợ chồng ăn ở với nhau, quen hơi bén tiếng, ông đi, vắng cửa vắng nhà, tôi cũng hỏi thế thôi. Thiên cực nói hơi có ý hờn mát.
Trần Thủ Độ làmlành:
- Tôi đi xét định hộ khẩu mấy châu Sơn Nam, Thanh Hoá. Tiện thể lựa một số câu đương.
Thiên cực hỏi:
- Vậy chớ thời bình, sao phải xét định hộ khẩu làmgì?
- Để phòng việc binh. Mình sống cạnh một nước khổng lồ. Sểnh ra là mất nước như chơi. Thôi thì cái gì lo sớmđược cứ lo, chẳng hơn lúc lâmsự, trở tay không kịp.
- Ông có về Long Hưng(3) chứ?
- Có. Tôi phải tuyển ở đấy hơn chục tên câu đương. Bởi có một số già quá không làm được việc. Còn một số trẻ quá lại chỉ ham cờ bạc, trai gái, hà lạm, đục khoét của dân.
Thấy Thiên cực có vẻ băn khoăn, Thủ Độ gặng hỏi tới hai, ba lần bà mới chịu nói:
- Tôi có một thằng cháu họ ngoại, muốn xin ông gia ân cho nó một chức câu đương.
Trần Thủ Độ cười lớn:
- Tưởng chuyện gì khó, chứ chuyện ấy trong tầm tay tôi. Bà cứ nói tên họ nó cùng quê quán, làng xã để tôi biên lại, thế nào tôi cũng cho nó làmcâu đương.
Bà Thiên cực thường nghĩ, mình xa quê quán kể tới mấy chục năm rồi. Nhất là họ hàng về phía bên mẹ cách sông cách đò, thảng có về thăm cũng không sang được. Nay cho thằng cháu làm chức câu đương, xem như đấy là một chút quà của bà với bên họ mẹ. Bà cũng biết tính chồng lắm. Ông ấy là người trọng nghĩa. Nhưng cũng là một người sống mẫu mực, nghiêm chính. Mấy năm ăn ở với nhau, bà còn lạ gì tính chồng. Ông chúa ghét bọn tham nhũng. Hạng người này ông ấy coi ngang với bọn lưu manh, trộm cắp. Cũng may, nhờ có nghiêmtừ nhà nghiêmđi. Nghiêmtừ trên nghiêmxuống, nên xã hội đã khôi phục lại được nền nếp, kỷ cương. Người dân đã được an cư lạc nghiệp. Bà Thiên cực cứ phiêu bồng hết ý nọ sang ý kia như một kẻ mộng du. Bỗng có tiếng trống điểm canh phía cổng dinh, một lát sau thị nữ Trịnh Huyền vào bẩm:
- Trình đức bà. Đức bà có người em bên quê ngoại ra thăm, đang chờ lệnh bà cho phép. Thiên cực công chúa gật đầu. Trịnh Huyền dẫn vào một bà nhà quê. Vừa trông thấy Thiên cực phu nhân, bà ta đã tru tréo lên:
- Ới cô ơi là cô, cô thương cháu mà suýt nữa cháu cô bỏ mạng rồi cô ơi.
Bà ta cứ hô hoán lên, vừa khóc vừa nói, khiến phu nhân phát hoảng. Không biết bà ta là ai, ở đâu đến. Bà ta la hét oán vọng cái gì mới được cơ chứ. Càng nghe bà ta nói, phu nhân càng không hiểu đầu đuôisự thể ra sao nữa.
Phu nhân tỏ vẻ bực mình, truyền cho thị nữ hỏi cho ra nhẽ. Bọn thị nữ dỗ dành mãi, bà ta mới hét toáng lên: - Thế ra cô vẫn không nhận ra tôi à? Bố tôi với mẹ cô là hai anh em ruột. Mới có một đời thôi mà đã quên hết cả họ nội, họ ngoại rồi
sao?
Phu nhân vừa nhìn ngắm bà, vừa ngẫm nghĩ lời bà ta nói: “Bố tôi với mẹ cô là hai anh em ruột”. Chả lẽ đây chính là chị ta sao? Đúng rồi, chị ấy có nốt ruồi đen ngang đầu con mắt. Hồi mình còn sống ở làng Ngừ, chị ấy thường sang sông cắt cỏ trâu. Hai chị em đánh chuyền với nhau mãi không chán. Vẫn cái thói bô lô ba la, chưa thấy người đã thấy tiếng. Từ tính nết đến lời ăn tiếng nói vẫn y hệt thời con gái. Chỉ có khác là chị ấy thay đổi nhiều quá. Chị già quá, tóc bạc gần hết rồi.
Trong khi phu nhân còn đang hồi tưởng về những ngày thơ âu của hai chị emthì bà ta la lên:
- Thế ra cô vẫn không nhận ra tôi thật à, cô Dung?
Đámthị nữ xanh mắt nhìn nhau. Thị Huyền vội chạy lại bịt miệng bà khách. - Bà ăn nói gì lại không biết giữ mồmgiữ miệng. Ai cho bà réo tên tục của phu nhân ra mà gọi.
Bà khách đấu dịu:
- Thế tôi phải gọi cô cháu bằng gì?
- Gọi là gì thì tuỳ bà. Hay bà cứ gọi là “Thiên cực công chúa”, hoặc “phu nhân” không thôi cũng được.
Chợt phu nhân sốc áo đứng dậy đi về phía người khách lạ. Phu nhân vái dài khách rồi nói:
- Chị Gái phải không? Bỏ lỗi cho tôi. Hơn mười năm không được về quê. Hơn hai chục năm chị em mình không gặp nhau. Bao nhiêu biến đổi tang thương đã xảy ra trên đất quê mình. Chị lên thămtôi, quí hoá quá. Nhưng vừa rồi chị kể lể cái gì tôi nghe khiếp sợ quá. Cái gì sống sống chết chết hả chị?
- Giời ơi, chính vì cái việc sống chết ấy mà tôi phải lặn lội lên đây tìm cô. Cô biết đấy. Từ cái thuở cô được tiến kinh, cô trở thành hoàng hậu, thì bên nội cô được nhờ vả thế nào không biết. Chứ bên ngoại, tịnh không có ai cầu cạnh xin xỏ phiền quấy gì cô. Có đúng thế không? - Bà Gái vừa nói vừa gạn hỏi, khiến phu nhân phải gật xác nhận.
Phu nhân hai tay nâng khay trầu mời:
- Chị hãy cứ nhai một khẩu trầu đi đã. Suốt mấy chục năm chị em không gặp nhau. Chị trách, tôi chịu. Nhưng chị hãy bình tâm. Tôi có lỗi nhiều với quê họ mẹ. Chị biết đấy, tiếng rằng được về kinh, nhưng tính mạng tôi, lúc nào cũng như cá nằm trên thớt ấy, sung sướng gì đâu. Bà mẹ chồng, tức bà thái hậu, luôn rình rập bỏ thuốc độc vào thức ăn thức uống của tôi. Nếu Huệ tôn không tận lòng thương, chắc là tôi không còn sống đến ngày nay để nghe chị trách móc. Cực lắmchị ơi, nay nhómnày, mai phe khác, loạn lạc khắp nơi, triều đình chạy như vịt. May có ông thái sư tài hơn thiên hạ, nên đất nước mới được yên bình mấy năm. Dào ôi, cứ nghĩ lại những năm tháng đã qua mà sởn gai ốc.
Phu nhân đổ một hơi thở dài, như vừa trút đi cơn ác mộng.
Bà khách ở quê ra nhón một khẩu trầu. Cầmmiếng trầu têmcánh phượng rất khéo, bà ngắmnghía rồi mở ra. Vừa mở miếng trầu bà vừa nói:
“Ăn trầu phải mở trầu ra
Một là thuốc độc hai là mặn vôi”.
Xong bà ốp cả ba miếng trầu, cau, vỏ đút thỏm vào mồm nhai bỏm bẻm, nuốt nước miếng ừng ực. Bà lấy hai ngón tay tém từ hai khoé miệng đến vành môi, nhả miếng trầu ra cầmtay, lại nói:
- Ấy đấy, những chuyện cô nói chúng tôi bỏ ngoài tai hết. Cứ là ăn no vác nặng, tối lên giường đánh một giấc đẫy. Mặc cho ai tranh mồi phú quí, bả vinh hoa. Thời thế đổi thay như chong chóng, ai mà biết trước được. Đấy, mới hômtrước nhà Lý, hômsau lại Trần, rồi còn cái gỉ cái gì nữa, ai mà lường hết. Mất mạng như chơi. Cánh nông phu chúng tôi không dính. Cô ngẫm xem, cô vinh hiển thế, nhưng tịnh không có một ai trong họ nhà tôi cậy nhờ cô điều gì. Có đúng không?
- Quả có như vậy. Phu nhân buồn rầu xác nhận. - À, nhưng sao chị vẫn chưa nói cho tôi hay cái điều gì “sống chết”, mà chị la trời la đất lúc vừa trông thấy tôi ấy.
- Ừ, cũng chỉ có mỗi cái việc ấy, tôi mới phải cất công lên đây, nói với cô, rằng từ nay, cô đừng có ban ân ban phước gì cho bên ngoại nữa nhé. Thằng con tôisuýt mất mạng vì chuyện cô xin cho nó làmcâu đương đấy.
- Chị nói gì lạ thế chị Gái? Ông thái sư nói là đi xét định hộ khẩu, tuyển câu đương. Tôi hỏi có về vùng mình không. Ông ấy bảo “có”. Nhân tiện tôi dặn ông ấy tên tuổi làng xã thằng con chị, để ông ấy cất nhắc cháu. Tôi có ác ý gì mà chị bảo tôi giết cháu? - Thôi được rồi, cô để tôi nói rõ ngọn ngành cho cô chừa cái thói làm ơn, làm phúc ấy đi. Bà khách nhà quê bỗng nghiêm mặt lại. Bà vứt toạch miếng bã trầu ra thềmđiện, tay bà vẫn sờ sờ vào hông chiếc ống nhổ bằng đồng mắt cua mát lạnh. - Nó là như vầy cô ạ. Đúng là ông thái sư nhà cô có về xã tôi. Ông chìa mảnh giấy ra hỏi ông xã trưởng: “Làng này có tên mỗ này không? Tìm nó cho ta”. Thằng cả nhà tôi được xã trưởng cho người đến gọi ra hầu thái sư, mừng quá. Nó dặn vợ con: “Ta là dòng tôn thất ngoại tộc. Phen này ắt thái sư đưa ta tiến triều”. Nó hăm hở đóng khăn đóng áo đi gặp ông thái sư nhà cô. Bước ra khỏi ngõ, nó còn quay lại giơ nắm đấm doạ vợ con: “Phen này ông mà được vào triều, mẹ con mày biết tay ông. Còn coi thường ông nữa không nào”. Nói xong nó cắmcổ chạy. Đúng là nó chạy cô ạ. Chẳng biết đầu cua tai ốc ra sao, thế là tôi cũng chạy theo nó ra đình. Vừa đến nơi, tôi đã thấy nó phủ phục lạy ông tháisư nhà cô.
Ông ấy liền hỏi thằng con tôi:
- Có phải mày tên mỗ, tên mỗ…?
- Dạ, bẩmtháisư, đúng tên con đấy ạ. - Thằng cả giả nhời ông chú dõng dạc lắm.
- Mày có họ hàng gì với công chúa?
- Dạ bẩm, con là cháu gọi công chúa bằng cô đấy ạ. Dạ là về bên ngoại. Ông ngoại con và bà thân sinh ra công chúa là chỗ con cô con cậu ruột.
- Tuy là ngoại, nhưng vẫn là họ gần. Công chúa thương, xin cho mày làmcâu đương, mày có nhận không? Ông tháisư nhà cô vừa dứt lời, thằng con tôi như một đứa động rồ. Lập tức nó nhảy cẩng lên, rồi cúi rạp mình xuống: - Lạy tháisư, con thích lắmạ, con đội ơn tháisư.
Ông ấy liền nghiêmmặt, lạnh như tiền, nói dõng dạc:
- Ngươi vì có công chúa xin cho mới được làm câu đương, không ví như người câu đương khác được, phải chặt một ngón chân để
phân biệt với người khác.
Thằng con tôi sợ quá cô ơi. Mặt nó tái mét như con gà vừa mới cắt tiết, run lập cập, quỳ mọp trước ông thái sư nhà cô, xin được tha cho, không phải làmcâu đương. Mãi ông ấy mới chịu. Về nhà, nó như thằng mất hồn.
Tôisợ quá. Sau khi ông ấy sang xã khác, thế là tôi tốc táo lên gặp cô ngay. Sợ để lâu, cô không biết, lại xin cho cháu thăng thưởng lên chức gì đấy nữa, chắc là con tôi mất mạng!
Phu nhân chết lặng người đi. Bà không ngờ Trần Thủ Độ lại xử tệ với bà như thế.
=======.
1. Sau khi thượng hoàng Trần Thừa mất, Thái tôn phong cho anh ruột là Trần Liễu chức quan thái uý phụ chính. Đây là một chức quan đầu triều đứng trong hàng tamcông.
2. Câu đương: Một chức quan đứng đầu hàng xã, tương đương với xã trưởng, đình trưởng hồi xưa, hoặc lý trưởng thời Pháp thuộc, chủ tịch xã bây giờ.
3. Long Hưng: Vùng đất huyện Hưng Hà- Thái Bình, quê hương bà Trần Thị Dung.