🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bão - J. M. G. Le Clézio full mobi pdf epub azw3 [Lãng Mạn] Ebooks Nhóm Zalo BÃO (Nobel Văn Chương 2008) Tác giả: J. M. G. Le Clézio Người dịch: Nhóm Dịch Giả Phát hành: Nhã Nam Nhà xuất bản Văn Học 04/2015 —★— ebook©vctvegroup 02/06/2020 Tặng những Haenyo*, tặng những người đàn bà của biển trên đảo Udo Đêm buông trên đảo. Đêm lấp đầy những chỗ trũng, len lỏi giữa ruộng đồng, một đợt thủy triều bóng tối dần bao phủ vạn vật. Cũng vào thời khắc đó, đảo vắng bóng người. Sáng nào du khách cũng tới trên chuyến phà lúc tám giờ, họ làm đông đúc những không gian trống, họ lấp đầy những bãi biển, họ trôi như một thứ nước bẩn dọc theo cả những con lộ lớn lẫn những nẻo đường đất. Rồi khi đêm tới, họ lại rời khỏi những vũng vịnh, họ lùi ra xa, họ mất tăm. Những con tàu mang họ đi. Và đêm tới. Tôi tới đảo lần đầu cách đây đã ba mươi năm. Thời gian đã biến đổi mọi thứ. Tôi chỉ loáng thoáng nhận ra những nơi chốn, những ngọn đồi, những bãi biển, và dáng hình của miệng núi lửa sạt lở phía Đông. Tôi quay lại vì lẽ gì nhỉ? Phải chăng không còn nơi nào khác cho một nhà văn đang kiếm tìm lối viết? Một chốn nương náu khác, xa sự ồn ào của thế gian, đỡ om sòm hơn, đỡ ngạo ngược hơn, một chốn khác để ngồi vào bàn làm việc và gõ lên máy những dòng chữ, đối diện với bức tường chăng? Tôi đã muốn thăm lại hòn đảo này, nơi tận cùng thế giới này, nơi không lịch sử, không ký ức này, một mỏm đá bị dập vùi bởi sóng gió đại dương, rã rời vì du khách. Ba mươi năm, tuổi đời của một con bò. Tôi từng đến vì gió, vì biển, vì lũ ngựa bán hoang dã lang thang kéo theo dây buộc, vì lũ bò cái ban đêm giữa những nẻo đường, tiếng rống thê thiết của chúng nghe như tiếng tù và báo sương mù, vì những tiếng sủa ăng ẳng của lũ chó bị xích. Cách đây ba mươi năm trên đảo không có khách sạn, chỉ có các phòng ngủ cho thuê theo tuần gần đê chắn sóng, và những lán gỗ bán đồ ăn bên bờ biển. Chúng tôi đã thuê một ngôi nhà gỗ nhỏ trên đồi, không tiện nghi, ẩm ướt và lạnh giá, nhưng vậy là lý tưởng rồi. Mary Song hơn tôi một giáp, mái tóc tuyệt đẹp đen nhánh gần như ngả biếc, đôi mắt màu lá thu, nàng hát những tình khúc buồn trong một khách sạn dành cho du khách giàu có tại Bangkok. Cớ gì nàng lại muốn cùng tôi tới hòn đảo hoang vu này? Tôi chắc đây không phải ý tưởng của mình, chính nàng đã bàn đến chuyện này trước. Hoặc nàng đã nghe ai đó nhắc đến một đảo đá hoang sơ, mỗi khi có bão là hết đường tới. “Em cần tĩnh lặng.” Hoặc giả đó là ý của tôi, chính tôi đã nghĩ tới sự tĩnh lặng. Để viết, để lại bắt đầu viết sau nhiều năm uổng phí. Sự tĩnh lặng, khoảng cách. Sự tĩnh lặng, trong gió và biển. Những đêm lạnh, những đám sao. Giờ thì toàn bộ chuyện này chỉ còn là một kỷ niệm. Ký ức không quan trọng, không hậu quả. Duy có hiện tại là đáng kể. Tôi đã học được điều ấy qua những kinh nghiệm xương máu của mình. Gió là bạn tôi. Gió thổi không ngừng trên các mỏm đá, gió đến từ chân trời phía Đông rồi vấp phải bức vách gãy vỡ của núi lửa, ập xuống những ngọn đồi rồi luồn lách giữa những bức tường nham thạch thấp, lướt trên cát san hô và vỏ sò vỏ ốc vỡ. Ban đêm, trong phòng khách sạn nơi tôi ở (Happy Day*, làm cách nào cái tên này tới được tận đây, một cái tên không trọn vẹn trên chiếc thùng gỗ mắc cạn), gió lùa qua khe cửa sổ và cửa ra vào, xuyên qua căn phòng trống nơi chiếc giường sắt han gỉ cũng y hệt một mảnh tàu đắm. Không có lý do nào khác cho chuyến biệt xứ của tôi, cho nỗi cô đơn của tôi, duy có sắc xám của trời và biển, và tiếng gọi ám ảnh của những người đàn bà mò bào ngư, tiếng kêu của họ, tiếng huýt của họ, một dạng ngôn ngữ cổ, xa lạ, ngôn ngữ của những động vật biển đã từng lui tới thế giới rất lâu trước con người... Aouah, iya, ahi, ahi!... Những thiếu nữ làng chài đã ở đó khi Mary dẫn tôi đi thăm đảo. Bấy giờ mọi chuyện khác hẳn. Những thiếu nữ mò ốc tuổi chừng đôi mươi, họ lặn không trang phục, thắt lưng buộc đá, đeo những mặt nạ dưỡng khí lấy từ xác lính Nhật. Các cô không có bao tay cũng chẳng có giày. Giờ đây họ đã già đi, họ mặc bộ đồ lặn liền thân bằng cao su đen, họ đeo bao tay dệt bằng sợi hóa học, đi giày nhựa màu sắc sặc sỡ. Kết thúc ngày làm việc, họ bước đi dọc con đường ven biển, đẩy xe nôi chở những thứ thu hoạch được. Đôi khi họ có xe máy điện, xe ba bánh chạy xăng. Họ có dao inox giắt ở thắt lưng. Họ cởi bộ đồ lặn giữa những mỏm đá, gần một túp lều gạch nén xây riêng cho họ, họ giội rửa ở vòi nước lộ thiên rồi trở về nhà bước thấp bước cao, tiều tụy vì chứng thấp khớp. Gió đã cuốn theo những năm tháng của họ, những năm tháng của tôi cũng vậy. Bầu trời xám xịt, màu của hối hận. Biển động, nổi sóng lừng, biển xô vào đá ngầm, vào những chỏm nham thạch, biển quay cuồng và vỗ bập bềnh trong những vũng lớn, nơi lối vào những vịnh hẹp. Không có những phụ nữ ngày ngày mò hải sản này, biển có lẽ sẽ thù địch, khó gần. Mỗi sáng tôi lắng nghe tiếng kêu của những người đàn bà của biển, âm thanh rè rè từ hơi thở của họ khi họ ngoi đầu khỏi mặt nước, ahouiii, iya, tôi hình dung khoảng thời gian đã qua, tôi hình dung ra Mary, đã mất tích, tôi nghĩ đến giọng hát tình ca của nàng, đến tuổi thanh xuân của nàng, đến thời trai trẻ của tôi. Chiến tranh đã xóa đi tất cả, chiến tranh đã phá tan tất cả. Thời đó tôi thấy chiến tranh đẹp, tôi muốn viết về nó, trải nghiệm nó và rồi viết về nó. Chiến tranh là một cô gái đẹp với thân hình trong mộng, mái tóc dài đen nhánh, đôi mắt sáng, giọng nói mê hoặc, rồi nàng biến thành mụ già tóc tai bù xù và nanh nọc, thành ác phụ báo oán, bất nhân, tàn nhẫn. Đây là những hình ảnh trở lại trong tâm trí tôi, chúng dâng lên từ nơi sâu thẳm nhất. Những thân thể trật trẹo, những cái đầu bị cắt rời, rải khắp các đường phố bẩn thỉu, những vũng xăng, những vũng máu. Một vị hắc trong miệng, một thứ mồ hôi nặng mùi. Trong một căn nhà không cửa sổ, chỉ có một bóng đèn điện không chao duy nhất, bốn gã đàn ông giữ chặt một người đàn bà. Hai gã ngồi lên chân cô, một gã đã trói hai cổ tay cô bằng một dây đai, gã thứ tư mải miết với một vụ cưỡng hiếp bất tận. Không có tiếng động, như trong những cơn mơ. Ngoại trừ tiếng thở khàn khàn, tiếng thở của kẻ cưỡng hiếp, và một hơi thở khác, nhanh, dữ dội, của người phụ nữ, nghẹt lại vì sợ, có lẽ thoạt đầu cô đã kêu bởi dấu vết một cú đánh vẫn còn lưu trên môi dưới của cô, nó đã rách toạc, và máu chảy tạo thành một vết loang hình sao trên cằm. Hơi thở của kẻ cưỡng hiếp dần gấp gáp, một dạng thở khò khè sâu, nghẹt lại, một âm thanh trầm và giật cục của máy móc, một âm thanh gấp gáp và dường như sẽ không bao giờ ngưng. Mary là lâu sau đó, Mary uống rượu nhiều quá mức, và biển đã mang nàng đi. “Em có thể làm điều đó,” nàng đã nói khi chúng tôi băng qua eo biển ngăn cách đảo với đất liền. Nàng đi vào lòng biển lúc hoàng hôn. Thủy triều đã làm láng mượt những con sóng, những vòng tròn chậm rãi tiến lên, màu rượu vang. Những người đã nhìn thấy nàng đi vào lòng biển đều nói rằng nàng điềm tĩnh, rằng nàng mỉm cười. Nàng đã mặc đồ bơi, một bộ liền màu lam không tay, rồi nàng luồn lách giữa những mỏm đá đen, nàng bắt đầu bơi cho đến khi những con sóng, hoặc ánh mặt trời lặn che khuất nàng khỏi tầm mắt những người chứng kiến. Tôi đã không biết gì, không thấy gì, không dự đoán gì. Trong phòng ngủ ở căn lều của chúng tôi, quần áo của nàng được gấp và xếp sắp như thể nàng đi du lịch, thế thôi. Những chai rượu gạo rỗng không, những bao thuốc lá bóc dở. Một túi xách đựng vài vật dụng thân thuộc, lược và bàn chải tóc, nhíp, gương, phấn, son môi, khăn mùi soa, chìa khóa, ít tiền Mỹ và tiền Nhật, mọi thứ như thể hai tiếng nữa nàng sẽ quay lại. Viên cảnh sát duy nhất trên đảo này - một người đàn ông trẻ tuổi, tóc húi cua, trông như một thiếu niên - đã kiểm kê. Nhưng anh ta đã để lại cho tôi mọi thứ, như thể tôi là một người họ hàng, một người bạn. Tôi là người được yêu cầu tùy tâm xử lý những di vật, nếu họ tìm thấy, hỏa thiêu chúng, quăng chúng xuống biển. Nhưng không bao giờ có gì khác ngoài những đồ dùng không quan trọng kia. Bà chủ nhà trọ đã chọn trong đám quần áo, bà ta giữ lại đôi giày màu lam xinh xắn, chiếc mũ rơm, đôi tất dài, cặp kính râm, chiếc túi xách. Tôi đã mang các giấy tờ ra sân đốt. Những chiếc chìa khóa, những đồ vật riêng tư, tôi đã quăng chúng xuống biển, từ boong con tàu đưa tôi trở lại đất liền. Một ánh vàng rực lấp lánh giữa hai làn nước, tôi nghĩ một chú cá phàm ăn, một chú cá tráp hồng, một chú cá đối đã nuốt chửng chúng. Thi thể chưa bao giờ được tìm thấy. Mary, với làn da mềm mại, óng vàng sắc hổ phách, đôi chân chắc lẳn của vũ nữ, của vận động viên bơi lội, mái tóc đen dài. “Nhưng vì lý do gì?” viên cảnh sát đã hỏi. Đó là tất cả những gì anh ta đã nói. Như thể một ngày nào đó tôi có thể có câu trả lời. Như thể tôi có chìa khóa giải mã ẩn ngữ. Giờ đây khi bão nổi, khi gió thổi liên hồi từ chân trời phía Đông, Mary trở lại. Không phải tôi gặp ảo giác, cũng không phải chớm điên (nhưng tay bác sĩ của nhà tù, khi thảo báo cáo, hắn đã viết lên đầu hồ sơ của tôi chữ Y nguy hại), ngược lại là khác, mọi giác quan của tôi thành sắc bén, cảnh giác, nhạy cảm đến cực độ để thu nhận thứ mà biển và gió mang lại. Chẳng có gì rõ rệt, tuy nhiên đó là một cảm giác sống chứ không phải chết, nó tỏa vầng hào quang quanh da tôi, điều này đánh thức ký ức về những trò yêu đương của chúng tôi, của Mary và tôi, những mơn trớn dài từ dưới lên trên, trong bóng tối phòng ngủ, hơi thở, vị đôi môi, những nụ hôn sâu khiến tôi rùng mình, cho đến tận con sóng tình chậm rãi, cơ thể hai chúng tôi hòa quyện, bụng áp bụng, toàn bộ những chuyện này tôi đã bị cấm đoán từ lâu, là tôi tự cấm đoán, bởi tôi đang ở chốn ngục tù cho phần đời còn lại. Trong bão tôi nghe thấy giọng nàng, tôi cảm thấy trái tim nàng, tôi cảm thấy hơi thở nàng. Gió rít qua các khe của vách kính lớn, lùa vào qua phía mặt hẹp han gỉ, xuyên qua căn phòng và khiến cánh cửa đập đập. Bấy giờ trên đảo mọi thứ ngưng lại. Những con phà không băng qua lạch nữa, những chiếc xe máy và ô tô ngừng vũ điệu của chúng, ngày giống như đêm, âm u, có những tia chớp không kèm tiếng sấm xuyên qua. Mary đã ra đi vào một buổi chiều tĩnh mịch, trong mặt biển phẳng lặng như một tấm gương. Nàng trở về trong cơn bão, từng mảnh nhỏ li ti bị biển thẳm tống xuất. Ban đầu, tôi không muốn tin vào điều đó. Tôi từng ghê sợ, từng ép chặt thái dương giữa hai bàn tay để dập tắt những hình ảnh này. Giờ đây tôi nhớ đến một người chết đuối. Không phải một phụ nữ mà là một đứa trẻ lên bảy, một tối nọ thằng bé mất tích, Mary và tôi đã cùng dân làng tìm bé nhiều giờ trong đêm. Chúng tôi men dọc bờ biển, tay cầm đèn pin, chúng tôi gọi bé nhưng không biết tên nó, Mary hét gọi: “Này cưng ơi!” Nàng thảng thốt, nước mắt giàn giụa trên má. Bấy giờ có chính cơn gió này, những đợt sóng này, thứ mùi đáng nguyền rủa này của vực biển sâu thẳm. Rạng sáng có tin báo đã tìm thấy xác thằng bé. Trên một bãi cát lẫn sỏi giữa các mỏm đá, chúng tôi lại gần, nhờ một tiếng thở than giống như tiếng gió dẫn đường, nhưng đó là mẹ thằng bé. Chị ngồi trên cát đen, thằng bé đặt trong lòng. Thằng bé trần truồng, áo quần biển đã lột sạch, trừ chiếc áo phông bẩn tạo thành một chuỗi vòng xoắn vặn quanh thân trên. Gương mặt bé trắng bệch, nhưng điều tôi tức khắc nhìn thấy, đó là lũ cua và cá đã bắt đầu rỉa xác bé, gặm chớp mũi và cu của bé. Mary không muốn lại gần, nàng run lên vì sợ và vì lạnh, và tôi đã ôm nàng sát gần mình, chúng tôi ở lại trong phòng, nằm quấn lấy nhau trên giường, không vuốt ve nhau, chỉ miệng kề miệng thở. Giờ đây hình ảnh ấy ám ảnh tôi, thân thể người đàn bà ấy nằm dang chữ thập trong khi tụi lính hành sự, và dưới khuôn miệng bầm giập máu đã khô thành hình ngôi sao đen. Và đôi mắt cô đang nhìn tôi, trong khi tôi lùi lại gần cửa, đôi mắt cô nhìn thấy xuyên qua tôi, nhìn thấy cái chết. Tôi chưa bao giờ nói gì với Mary, vậy mà chính vì cảnh tượng tàn bạo ấy nàng đã ngụp xuống biển để không bao giờ trở lại. Biển rửa cái chết, biển gặm nhấm, phá hủy và không trả lại gì, hoặc trả một cái xác trẻ em đã bị róc rỉa. Thoạt đầu, tôi đã nghĩ rằng cả mình cũng trở lại hòn đảo này để chết. Tìm lại được dấu vết của Mary, đi vào lòng biển một tối rồi biến mất. Giờ đây trong cơn bão, nàng tới phòng tôi. Đó là một giấc mơ tỉnh thức. Tôi bị mùi thân thể nàng quyện với mùi biển thẳm đánh thức. Một mùi hương nồng và hắc, chua, gắt, u uất, xộc lên. Tôi ngửi thấy mùi rêu tảo trong tóc nàng. Tôi cảm thấy làn da nàng hết sức mịn màng, nhẵn mượt nhờ sóng bào mòn, lóng lánh ánh xà cừ vì muối. Thân hình nàng bồng bềnh trong ánh sáng lờ mờ buổi hoàng hôn, luồn vào trong chăn, và bộ phận sinh dục cương cứng của tôi đi vào nàng, tới rùng mình, quấn siết tôi trong niềm mê đắm lạnh băng của nàng, thân nàng trườn sát thân tôi, môi nàng kề trên dương vật tôi, tôi hoàn toàn quyện vào nàng, nàng quyện vào tôi, cho tới cơn cực khoái. Mary, chết từ ba mươi năm nay, chưa bao giờ tìm thấy xác. Mary trở về từ đáy đại dương, đang nói vào tai tôi bằng chất giọng hơi khàn, trở về để hát cho tôi nghe những ca khúc bị lãng quên, những ca khúc về những ngôi sao trời, mà nàng đã hát tôi nghe ở quán bar khách sạn Phương Đông, lần đầu tôi gặp nàng. Không hẳn là quán bar dành cho lính tráng, và nàng không hẳn là ca sĩ quán bar. Khi nhìn thấy nàng tôi đã không hình dung ra nàng là ai, con một lính Mỹ được một gia đình nhà quê vùng Arkansas nhận nuôi, sinh ra từ một vụ cưỡng hiếp, bị bỏ rơi và trở về để chiến thắng kẻ thù truyền kiếp của mình, để hoàn thành một cuộc báo oán, hay đơn giản chỉ do sự lại giống vốn hay xua loài người đi theo vết cũ cội nguồn một cách tất yếu. Nhưng tôi, tôi đâu phải một tên lính, nàng hiểu vậy, và chắc hẳn đó là lý do nàng chọn tôi, cái gã mặc đồ lao động và mái tóc húi cua, bám theo đám lính trong những cuộc hành quân, tay cầm máy ảnh để tường thuật mọi cuộc chiến tranh. Tôi còn nhớ lần đầu chúng tôi trò chuyện, sau lượt trình diễn của nàng, vào lúc đêm muộn, hoặc sáng sớm, trên khoảnh sân hiên nhô ra trên dòng Menam Chao Phraya, nàng đã cúi xuống để nhìn thứ gì đó trên mặt đất, một con bướm đêm màu đen đang đập cánh hấp hối, và qua phần cổ khoét của chiếc váy đỏ nàng mặc, tôi đã nhìn thấy bầu ngực nàng buông lơi, hết sức mịn màng, khêu gợi. Nàng không biết gì về tôi và tôi cũng không biết gì về nàng. Bấy giờ tôi đã mang vết thương nham nhở của tội ác, tôi cứ ngỡ chuyện đó sẽ qua đi. Tôi từng quên đi quá khứ, việc xử vụ khiếu kiện bốn tên lính đã cưỡng hiếp một phụ nữ ở Huế. Cái gã giữ tay cô gái quặt ra sau đã thụi vào môi cô để bắt cô im miệng, còn gã kia xâm nhập cô chẳng ngại ngần, thậm chí không cởi quần, và tôi nhìn, không nói gì, không làm gì hoặc gần như thế, chỉ chớm cương cứng, nhưng nhìn và làm thinh, đó là hành động. Có lẽ tôi sẽ đánh đổi bất cứ thứ gì để khi ấy đã ở nơi nào khác, để không từng chứng kiến. Trước tòa, tôi đã không tự biện hộ. Thiếu phụ có mặt tại đó, ngồi hàng ghế đầu. Tôi đã liếc trộm và không nhận ra cô. Cô có vẻ trẻ hơn, gần như một đứa trẻ. Cô ngồi trên ghế băng, bất động, gương mặt được ống đèn nê ông của phòng xử án chiếu sáng. Khuôn miệng nhỏ, mím chặt, da mặt kéo căng ra vì búi tóc đen. Ai đó đã đọc lời chứng của cô bằng tiếng Anh, còn cô vẫn không nhúc nhích. Bốn gã nhà binh ngồi trên một ghế băng khác, cách cô vài mét, và chúng cũng không nhúc nhích. Chúng không nhìn ai, chỉ nhìn bức tường đối diện, cái bục nơi thẩm phán ngồi. Chúng thì ngược lại, tôi thấy chúng già hơn, đã phị ra vì mỡ, với nước da nhợt nhạt của những kẻ tù phạm. Tôi chưa từng kể chuyện này với Mary. Khi tôi gặp nàng tại khách sạn Phương Đông ấy, nàng hỏi tôi đã làm gì lúc rời quân ngũ. Tôi trả lời: “Không làm gì hết... Anh đi đây đi đó, vậy thôi.” Nàng không căn vặn, vả chăng tôi có lẽ chẳng bao giờ đủ can đảm để nói với nàng sự thật: “Anh đã bị kết án tù vì đã chứng kiến một tội ác, và đã không làm gì để ngăn cản tội ác đó.” Tôi muốn sống cùng Mary, đi đây đi đó cùng nàng, nghe nàng hát, san sẻ tấm thân nàng và cuộc đời nàng. Nếu tôi kể với nàng toàn bộ chuyện kia, hẳn là nàng sẽ xua đuổi tôi. Tôi đã sống cùng nàng một năm, cho tới khi đến hòn đảo này. Rồi một ngày nọ nàng đã quyết định đi vào lòng biển. Tôi chưa bao giờ hiểu được. Chúng tôi ẩn mình. Không ai quen biết chúng tôi, không ai có thể kể cho nàng nghe. Có lẽ nàng điên, chỉ vậy thôi, có lẽ chẳng có lời giải thích nào cho hành động của nàng. Nàng đã tự để sóng cuốn đi. Nàng vốn là tay bơi giỏi khác thường. Ngày còn ở Mỹ, năm mười sáu tuổi, nàng được chọn đi dự Olympic Melbourne. Nàng mang họ Farrell, Mary Song Farrell. Song bởi nàng được bố mẹ nuôi nhận về dưới cái tên này. Mẹ đẻ nàng tên là Song cũng nên. Hoặc giả bà ấy hay hát*, tôi không biết nữa. Có lẽ chính tôi về sau này đã suy diễn ra toàn bộ câu chuyện đó. Tôi không suy diễn cho những người khác, họ không khiến tôi bận tâm. Tôi không phải kiểu người kể chuyện đời mình trong những quán bar. Tôi không quen những người gốc Arkansas này, những người nhà Farrell này. Những chủ trang trại. Mary học cách chăm sóc gia súc, cách sửa xe máy, cách lái máy kéo tại nhà họ. Rồi một ngày nọ, năm mười tám tuổi, nàng bay đi để tới nơi khác sống, để hát. Đó là thiên hướng của nàng. Nàng đã có một cuộc sống khác, nàng chưa bao giờ trở lại trang trại. Khi nàng mất tích trên biển, tôi đã cố gắng liên lạc với bố mẹ nàng, tôi đã viết vài lá thư gửi đến quận, để biết địa chỉ của họ. Tuyệt không thấy hồi âm. Khi tôi quen Mary, nàng gần bốn mươi, nhưng có vẻ trẻ hơn tuổi nhiều. Bấy giờ tôi hai mươi tám. Tôi vừa mãn hạn tù. Bão truyền sang tôi cơn thịnh nộ. Tôi cần những tiếng ó biển của bão, những ống bễ lò rèn của bão. Chính vì bão mà tôi quay trở lại hòn đảo này. Bấy giờ, mọi thứ khép kín, mọi người mất hút trong nhà của họ, họ đóng cửa chớp và chặn cửa ra vào, họ thu lu trong vỏ ốc, trong lớp mai của mình. Họ cũng đã biến mất, những du khách mặt bự phấn, những kiểu tạo dáng, những điệu bộ, những trò õng ẹo của họ. Những cô gái mặc quần soóc cực ngắn đạp xe, những cậu trai cưỡi mô tô địa hình, những cặp kính Polaroid, những ba lô, máy ảnh, họ đã quay về thành phố, về những tòa chung cư, về xứ sở không bao giờ có bão của họ. Người dân đảo này đã tự chôn mình. Họ chơi bài, họ ngồi bệt trong những căn hầm với cửa kính mờ hơi nước mà uống bia. Ánh điện chập chờn, chẳng mấy chốc sẽ cắt điện trên diện rộng. Tủ cấp đông của các cửa hàng sẽ rỉ thứ nước vàng như nước tiểu, những con cá ướp muối sẽ chảy nước và long mắt, những thanh sô cô la đông lạnh sẽ mềm nhũn trong bao bì. Chính vì bão mà tôi quay trở lại. Tôi lại cảm thấy mình đang trong thời chiến, trong rủi may, theo cuộc bỏ chạy tán loạn của các đoàn quân, nghe những chiếc loa thét lác những mệnh lệnh khó hiểu. Tôi ngược dòng thời gian, dựng lại đời mình. Tôi những muốn quay trở lại ngưỡng cửa ngôi nhà ở Huế, nhìn, và cái nhìn của tôi sẽ ngưng thời gian lại, sẽ gieo mơ hồ lẫn lộn, sẽ giải thoát người đàn bà khỏi những kẻ hành hạ cô. Nhưng trong những điều tôi biết sẽ không có điều gì nhạt nhòa đi. Hòn đảo là sự đoan chắc về nỗi vô phương cứu chuộc. Bằng chứng của sự bất lực. Hòn đảo là ụ nổi cuối cùng, bến đỗ cuối cùng trước hư không. Chính vì điều này mà tôi trở lại. Không phải để tìm lại quá khứ, không phải để đánh hơi tìm lối như một con chó. Mà để chắc chắn rằng mình sẽ không nhận ra điều gì. Để bão xóa đi tất cả, vĩnh viễn, bởi biển là chân lý duy nhất. Tôi tên June. Mẹ tôi là một người đàn bà của biển. Tôi không có bố. Mẹ tôi tên Julia, mẹ có một cái tên khác, không phải tên Cơ Đốc, nhưng mẹ không muốn tôi nói đến. Khi tôi chào đời, bố tôi đã bỏ rơi mẹ tôi. Mẹ tôi đã tìm cho tôi một cái tên, ông của mẹ tên Jun, một cái tên Trung Hoa, bởi ông là người gốc Hoa, mẹ đặt tên tôi là June, bởi từ này trong tiếng Mỹ có nghĩa là tháng Sáu, và tôi được hoài thai vào tháng này. Tôi cao lớn, nước da sẫm, bên ngoại nguyền rủa tôi bởi tôi không có bố. Thế nên mẹ tôi dẫn tôi theo, và chúng tôi tới sống trên đảo này. Khi tới đây tôi bốn tuổi, và tôi không nhớ gì về quãng thời gian trước đó, cũng như về chuyến đi, ngoại trừ việc mẹ tôi đã lên một con tàu, và khi ấy trời mưa, còn tôi đeo một chiếc ba lô rất nặng, trong đó mẹ giấu toàn bộ nữ trang cùng những vật dụng giá trị, để không bị mất, bởi mẹ nghĩ người ta sẽ không trộm ba lô của một bé gái bốn tuổi. Sau đó, mẹ bán phần lớn nữ trang, nhưng vẫn còn lại đôi bông tai vàng và một sợi dây chuyền, cũng bằng vàng, hoặc giả chỉ là kim loại mạ vàng. Tôi nhớ khi ấy trời mưa trên biển. Có lẽ là tôi khóc. Hoặc chính mưa đã khiến mặt tôi ướt đẫm và tóc dính vào miệng. Suốt một khoảng thời gian dài tôi cứ ngỡ rằng khi trời mưa, đó là ông trời khóc. Giờ thì tôi không bao giờ khóc nữa. Mẹ tôi không hẳn là một người đàn bà của biển, ý tôi là giống như những người đàn bà ở đây vốn làm nghề này từ khi còn nhỏ xíu, và giống những con cá voi to màu đen, nhất là khi họ ra khỏi mặt nước và loạng choạng trên đôi chân gầy guộc già nua. Mẹ tôi vẫn còn trẻ, mẹ rất đẹp và mảnh dẻ, tóc mẹ láng đẹp còn gương mặt hầu như không có nếp nhăn, nhưng càng đi mò vớt nhiều, đôi tay mẹ thành ra đỏ ửng và móng tay gãy. Mẹ tôi không phải là người ở đây. Mẹ sinh ra và lớn lên tại thủ đô, khi dính bầu tôi mẹ đang là sinh viên. Khi bố tôi bỏ rơi mẹ, để lại ra đi đến đầu kia thế giới, bởi ông không muốn có con, mẹ tôi đã quyết định trốn đi để sinh tôi, và để khỏi trở thành nỗi ô nhục cho gia đình, mẹ đã tìm tới vùng nông thôn xa lắc mà sinh sống. Để mưu sinh, mẹ đã kinh qua đủ thứ nghề, mẹ từng sống trong một trang trại nuôi vịt, mẹ từng làm việc trong một nhà hàng, rửa bát và cọ hố xí. Mẹ đi từ thành phố này sang thành phố khác, cùng một hài nhi là tôi, tới tận phương Nam, rồi một ngày nọ, mẹ nghe nhắc đến hòn đảo này, mẹ đã bắt tàu thủy rồi tới tận đây. Thoạt tiên mẹ làm việc trong các nhà hàng, rồi mẹ mua một chiếc mặt nạ và một bộ đồ lặn liền thân, và mẹ bắt đầu mò bào ngư. Phần lớn những người đàn bà của biển đều đã già. Khi trò chuyện với họ, tôi thường gọi họ là “bà”. Khi tới đất này mẹ tôi còn trẻ. Thoạt tiên những người đàn bà ấy bảo mẹ: “Cô đến đây làm gì? Quay về thành phố của cô đi.” Nhưng mẹ đã trụ vững, và cuối cùng họ cũng chấp nhận mẹ. Họ đã chỉ cho mẹ biết phải làm thế nào, để lặn, để giữ hơi, để xác định những nơi sò ốc sống. Nhưng điều dễ chịu, đó là họ đã chấp nhận mẹ mà không hỏi han về chồng của mẹ, hay về tôi. Họ là gia đình của tôi, cái gia đình mà tôi chưa bao giờ có. Ngay khi tới tuổi có thể dạo quanh một mình, tôi đã đến thăm họ. Tôi mang cho họ một chút xúp nóng, khi họ ngoi lên khỏi mặt nước, hoặc giả những loại trái cây. Tôi thì sống cùng mẹ trong một ngôi nhà ở trên cồn, chúng tôi thuê của một bà lão xưa kia cũng là dân thợ lặn. Một bà lão gù và đen nhẻm, tôi gọi bà là bà trẻ, bà đã thôi không lặn nữa từ khi gặp một tai nạn do ở lại quá lâu dưới nước, và kể từ đó bà hơi đù đờ chậm chạp. Ban ngày, bà ở ngoài ruộng khoai, để xới đất và nhổ cỏ dại, tôi thường tới giúp bà mỗi khi tan học. Bà nuôi một con chó tên là Chubb, bởi nó to béo và chân ngắn ngủn, nhưng khá là khôn. Hồi năm ngoái, một gã đàn ông tới ở nhà mẹ tôi. Gã tự xưng là Brown, như thể gã là dân Anh, nhưng tôi thì không ưa gì gã. Trước mặt mẹ, gã nói năng nhẹ nhàng và ngọt ngào, nhưng khi có mình tôi với gã, gã dữ dằn, nói năng thô lỗ, gã sai khiến tôi, giọng gã nghe thật dị. Một hôm gã khiến tôi phát bực, tôi bèn nhại đúng giọng gã để nói với gã: “Vậy thì đừng có nói năng với tôi như thế nhé, tôi đâu phải con gái ông.” Gã nhìn tôi như thể muốn hành hung tôi, nhưng từ đó gã dè chừng. Tôi không mấy thích cách gã nhìn tôi, tôi có cảm giác gã tìm cách nhìn xuyên qua quần áo tôi mặc trên người. Khi ở bên mẹ, gã giở trò tình tứ, và tôi càng ghét gã hơn. Ở trường tôi không có bạn. Ban đầu, chuyện ổn cả, nhưng kể từ đầu năm học này, mọi thứ đã thay đổi. Có một bọn con gái cứ thích khiêu khích tôi. Tôi đã nhiều lần đánh nhau với chúng, tôi là đứa cao lớn nhất nên thường giành phần thắng, nhưng đôi lần nhiều đứa hùa vào cùng đánh tôi, khi tôi đang cuốc bộ về nhà, chúng ném những hòn đất hoặc những viên sỏi nhỏ vào tôi, chúng giả đò sủa. Chúng bảo tôi không có bố, bảo bố tôi là đồ ăn mày, là tù phạm, và chính vì thế ông chẳng bao giờ đến thăm tôi. Một lần tôi nói: “Bố tao không phải tù phạm mà đã hy sinh trong chiến tranh.” Chúng đã cười chế giễu. “Chứng minh xem,” chúng đã trả lời như vậy, còn tôi không thể chứng minh chuyện đó. Tôi đã hỏi mẹ: “Bố con còn sống hay đã chết?” Nhưng mẹ không đáp, mẹ cúi đầu, làm như thể không nghe thấy. Suy đi nghĩ lại, tôi cho là chúng nói đúng, bởi mẹ tôi đã dạy tôi nói tiếng Anh từ khi tôi còn nhỏ, mẹ bảo đó là vì tương lai của tôi, nhưng có lẽ là để tôi cũng thông thạo ngôn ngữ của bố mình. Trong cả đám học sinh ở trường, đứa độc ác nhất là một thằng con trai tên Jo. Nó cao và gầy, lớp nó ngay bên trên lớp tôi. Nó thật tai quái. Nó bảo tôi là mọi đen. Nó bảo bố tôi là một tên lính Mỹ da đen ở căn cứ quân sự, còn mẹ tôi là một ả điếm. Suốt ngày nó lải nhải câu đó, khi tôi một mình đi trên đường và người lớn không thể nghe thấy. Nó chạy theo tôi, và khi đi ngang qua, nó nói khẽ: “Mẹ mày là điếm, bố mày là mọi đen.” Nó biết tôi sẽ không nhắc lại chuyện đó với ai, nếu vậy tôi sẽ quá xấu hổ. Thằng Jo có đôi mắt gian xảo như một con chó khốn kiếp, mũi nó dài khoằm và đôi mắt vàng với những chấm đen ở giữa. Nó chạy tới sau lưng khi tôi đi một mình trên đường, nó túm lấy tóc tôi, bởi tóc tôi dày xoăn và những ngón tay nó ngoắc vào bên trong rồi giật cho tới khi tôi chúc đầu xuống đất, còn mắt thì ầng ậng nước nhưng tôi không muốn cho nó hưởng cái thú vui ấy. Nó những muốn tôi kêu lên: “Gọi mẹ mày đi, gọi đi!” Nhưng tôi không nói gì, tôi đá nó vài cú và cuối cùng nó buông tóc tôi ra. Biển chính là thứ tôi yêu hơn hết thảy mọi thứ trên đời. Từ khi còn nhỏ xíu, tôi đã dành phần lớn thời gian bên biển. Khi chúng tôi tới hòn đảo này, ban đầu mẹ làm việc trong những nhà hàng phục vụ các món sò ốc. Mẹ tới đó từ sáng sớm, và đặt tôi vào xe đẩy để trong một góc để tôi khỏi làm phiền ai hết. Mẹ dùng bàn chải cọ nền xi măng, mẹ rửa thau chậu và xoong nồi, mẹ quét sân rồi đốt rác, sau đó mẹ làm việc trong bếp, thái hành, rửa sò ốc, rồi nhặt rau nấu canh và xắt cá làm sushi. Tôi thì ngồi yên trong xe đẩy, nhìn mẹ mà chẳng nói chẳng rằng. Có vẻ như hồi đó tôi rất ngoan. Tôi không muốn ra ngoài chơi. Bà chủ thường nói: “Con bé này sao vậy? Cứ như thể nó sợ mọi thứ.” Nhưng tôi đâu có sợ mọi thứ, tôi ở yên để bảo vệ mẹ đấy chứ, để chắc chắn mẹ không gặp phải chuyện gì. Rồi một ngày nọ, mẹ phát ngấy việc làm đầy tớ cho những người này. Mẹ đã thỏa thuận với các bà già thường mang sò ốc tới, rồi cả mẹ nữa, mẹ cũng trở thành một người đàn bà của biển. Kể từ khi ấy, ngày nào tôi cũng tới bờ biển. Tôi cuốc bộ cùng mẹ, mang túi xách, giày và mặt nạ cho mẹ. Mẹ thay đồ giữa những mỏm đá khuất gió. Tôi nhìn mẹ khi mẹ ở trần, trước khi mẹ xỏ bộ đồ lặn liền thân. Mẹ không cao to như tôi, đúng ra mẹ vừa gầy vừa nhỏ người, da mẹ rất sáng, ngoại trừ gương mặt sạm nắng. Tôi nhớ mình thường nhìn xương sườn của mẹ nhô lên dưới da, và hai bầu vú với những núm thâm đen bởi mẹ đã cho tôi bú suốt một thời gian dài, cho tới tận khi tôi lên năm hay sáu tuổi. Da bụng và lưng mẹ trắng nõn, còn da tôi thì gần như đen ngay cả khi không phơi nắng, và chính vì thế mà ở trường lũ trẻ bảo tôi là mọi đen. Một hôm tôi hỏi mẹ: “Bố con đúng là một lính Mỹ và đã bỏ rơi mẹ con mình hả mẹ?” Mẹ nhìn như thể muốn bạt tai tôi, rồi bảo: “Đừng bao giờ nhắc lại điều con vừa nói. Con không có quyền nói với mẹ những điều độc ác như vậy.” Mẹ cũng nói thêm: “Nếu con nhắc lại những điều độc ác mà thiên hạ nói với con thì có khác nào con tự nhổ vào mặt mình.” Bởi thế tôi không bao giờ nói về chuyện này với mẹ nữa. Nhưng dù vậy tôi những muốn biết được sự thật về bố mình. Hồi nhỏ tôi không đến trường. Mẹ sợ tôi có thể gặp rắc rối, còn tôi tin chắc là mẹ cũng xấu hổ bởi tôi không có bố. Tôi ở lại giữa những mỏm đá. Tôi trông quần áo cho mẹ trong lúc mẹ mò sò ốc. Tôi thích việc đó. Tôi ở trong một thứ như cái tổ được làm từ những món đồ len, tôi nép mình giữa những phiến đá đen, và tôi nhìn biển. Có cả những con vật kỳ cục, những loại cua-bọ hung rụt rè ló ra từ những khe nứt để tới nhìn tôi. Chúng phơi mình dưới nắng không nhúc nhích, song hễ thấy bất kỳ cử động nhỏ nhặt nào là phóng vụt về chỗ nấp. Còn có nhiều loại chim, hải âu, chim cốc, và những chú chùn màu xám pha xanh đứng vắt vẻo trên một chân. Mẹ tôi mặc bộ đồ lặn bằng cao su, chỉnh lại mũ, bao tay, giày, rồi bước xuống nước, lúc đó mẹ mới đeo mặt nạ. Tôi nhìn mẹ bơi ra khơi, kéo theo sau cái phao đen trắng. Mỗi người đàn bà của biển có một màu phao riêng biệt. Khi đã ra đủ xa giữa những con sóng, mẹ lặn xuống và tôi nhìn thấy đôi giày màu lam của mẹ quẫy trong không trung, rồi đôi chân mẹ lướt về phía đáy biển và mẹ khuất hẳn. Tôi đã học được cách đếm giây. Mẹ từng bảo tôi: “Đếm đến một trăm nhé, nếu mẹ không ngoi lên con phải đi cầu cứu.” Nhưng mẹ không bao giờ lặn đến một trăm. Nhiều lắm là ba mươi hoặc bốn mươi giây mẹ đã ngoi lên. Tới đó, mẹ kêu lên. Tất cả những người đàn bà của biển đều kêu lên. Mỗi người một tiếng kêu riêng. Làm vậy là để lấy lại hơi, và tôi có thể nhận ra tiếng kêu của mẹ từ xa, ngay cả khi không nhìn thấy mẹ. Thậm chí là giữa những tiếng kêu khác, những âm thanh khác. Nghe như một tiếng chim hót, chói lói, rồi kết thúc trầm hết sức, thành tiếng rira! uu-rrraurrra! Tôi đã hỏi mẹ tại sao chọn tiếng kêu ấy. Mẹ bật cười, mẹ đáp không biết, cái đó đến tự nhiên, vào lần đầu tiên mẹ ngoi lên mặt nước. Để chọc cười mẹ bảo tôi cũng từng kêu như vậy, lúc chào đời! Không phải ngày nào mẹ cũng lặn cùng một chỗ. Chuyện này phụ thuộc vào gió, vào sóng và cả vào quyết định từ những người đàn bà của biển. Mỗi sáng họ chọn vị trí sẽ lặn, bởi họ biết sẽ tìm thấy những loại sò ốc mới. Người ta có thể tưởng sò ốc nằm dính dưới đáy nước không nhúc nhích, nhưng thực tế chúng di chuyển rất nhiều. Chúng thay đổi vị trí hằng đêm, bởi chúng đi tìm thức ăn, hoặc bởi chúng bị bọn sao biển tấn công. Lũ sao biển là kẻ thù của sò ốc. Thỉnh thoảng mẹ vớt chúng bỏ túi, rồi mẹ để chúng chết dưới nắng, còn tôi giữ lại những con sao biển đẹp nhất, và cả những nhánh san hô hồng, để bán cho các quầy đồ lưu niệm gần đê chắn sóng. Khi đã bắt đầu đi học rồi, tôi thôi không ra bãi biển cùng mẹ nữa, và chuyện này khiến tôi vô cùng buồn bã. Ban đầu, tôi bảo với mẹ là tôi không muốn đi học, tôi muốn trở thành một người đàn bà của biển giống mẹ, nhưng mẹ bảo tôi phải học hành rồi trở thành ông nọ bà kia, chứ không phải một kẻ mò ốc bắt sò, bởi nghề đó quá vất vả. Nhưng sang hè, mẹ dẫn tôi theo suốt quãng thời gian trường cho nghỉ học. Tôi mặc nhiều lớp áo phông chồng lên nhau, mặc nguyên chiếc quần jean cũ thủng lỗ chỗ, xỏ đôi giày nhựa, đeo mặt nạ dưỡng khí rồi bơi cùng mẹ, ra khơi xa, để quan sát đáy nước. Ban đầu tôi nắm tay mẹ vì hơi sợ. Tôi nhìn những đàn cá, rong tảo, sao biển và nhím biển với những chiếc gai màu đen chuyển động như thể nhím đang khiêu vũ. Dưới nước, tôi nghe thấy những âm thanh kỳ lạ, những bọt nước, những tiếng lạo xạo trong cát. Đôi lúc là tiếng ầm ầm xa xăm khi một con phà ngang qua eo biển. Mẹ đã chỉ cho tôi chỗ ẩn nấp của lũ bào ngư dưới đám rong tảo và làm cách nào dùng dao tách lấy chúng. Tôi có một chiếc túi lưới giống mẹ để bỏ vào bên trong những thứ thu hoạch được. Tôi không có bộ đồ lặn bằng cao su nên thường nhanh chóng bị lạnh, bởi vậy mẹ quan sát hai bàn tay tôi và đưa tôi về tận bờ khi nhìn thấy da tay trở nên trắng bợt. Tôi cuộn mình trong một tấm khăn và nhìn mẹ quay ra khơi. Khi ở trường, tôi không còn biết mẹ sẽ lặn ở đâu. Vừa tan lớp, là tôi chạy ra bờ biển, tôi cuốc bộ dọc đường bờ biển, và cố gắng nhận ra mẹ giữa những người đàn bà của biển. Tôi lắng nghe những tiếng kêu và khi nghe thấy tiếng uu-rrraurrral của mẹ, tôi biết mẹ đang ở đó. Nhưng cũng có khi tôi không tìm ra mẹ. Tôi đứng đó nhìn biển, tim thắt lại, tôi quan sát từng đợt sóng. Lũ chim cốc đậu trên đá ngầm với đôi cánh hơi xòe ra để hong cho khô trước gió, trông cứ như thể những lão ngư quàu quạu. Khi tôi về lại nhà, mẹ đã ở đó rồi, mẹ không đi lặn mò vì biển động, hoặc bởi mẹ cảm thấy mệt, và tôi nhẹ nhõm khi nhìn thấy mẹ đến nỗi muốn bật cười. Nhưng dĩ nhiên tôi không nói gì với mẹ, bởi chính vì tôi mà mẹ theo đuổi cuộc sống khó khăn này, để trang trải tiền ăn học cho tôi. Đôi khi mẹ kể với tôi về chú cá heo của mẹ. Ban đầu khi bắt đầu nghiệp mò lặn mẹ đã gặp chú, rồi thỉnh thoảng chú lại gần bờ thăm mẹ. Mẹ hào hứng kể về chú, mẹ bật lên tiếng cười trẻ thơ. Răng mẹ trắng đẹp nên khi cười trông mẹ rất trẻ. Còn răng tôi thì to cộ và xiêu vẹo giống những quân đô mi nô chuẩn bị đổ rạp! Mẹ rất đẹp. Để lặn, mẹ cắt tóc ngắn thành một vầng tóc đen hơi xù lên vì nước biển. Tôi thích gội đầu cho mẹ. Tóc tôi thì dài và xoăn, hẳn là thừa hưởng từ bố, nếu bố là người Phi như Jo nói, hoặc giả vì ông tôi người Hoa. Tôi không biết đã đọc ở đâu thấy hình như tóc người Hoa thường xoăn. Mẹ bảo mẹ rất thích tóc tôi nên không muốn tôi cắt tóc. Mẹ thường gội đầu cho tôi, sau đó mẹ xoa thêm dầu dừa để tóc tôi láng bóng. Tôi đã quen một mình đi dọc bờ biển. Sau giờ tan học, thay vì về nhà làm bài tập, tôi cuốc bộ ra tận bờ biển. Tôi tới bãi biển lớn bởi vào mùa đông nó vắng tanh. Tôi rất yêu mùa đông. Tôi có cảm giác vạn vật đều nghỉ ngơi, biển, những mỏm đá, thậm chí cả lũ chim. Vào mùa đông, mẹ không rời khỏi nhà sớm quá vì bóng tối vẫn còn bảng lảng nơi đáy nước. Trên mặt biển và dưới đáy biển, ngày không rạng cùng lúc. Tôi đến gặp mẹ giữa những mỏm đá. Biển xám, những con sóng được gió vuốt phẳng, chỉ hơi lăn tăn như thể da ngựa. Những ngày ấy phần đông những người đàn bà của biển không rời nhà. Mẹ không ngần ngại vì biết mình sẽ thu hoạch được gấp đôi. Những ngày đó mẹ có thể kiếm được sáu mươi đến bảy mươi đô. Mẹ bảo tôi mang giúp sò ốc tới các nhà hàng, nhất là khi có nhiều bào ngư, bởi chúng nặng trịch. Mẹ lặn không xa lắm, gần cảng, có con đê che chắn, hoặc trong bãi đá cuối bãi biển. Tôi trú trong lều của những người đàn bà của biển, và nhìn mẹ bước xuống nước, chân mẹ thẳng đuột trong không trung trước khi lặn xuống, đôi giày đẹp màu lam sáng lấp lánh, rồi nước khép lại trên mẹ, và tôi đếm, như khi còn bé, hết sức chậm rãi, mười, mười một, mười hai, mười ba, mười bốn, rồi mẹ lại xuất hiện, đầu ngửa ra sau, mẹ kêu: uu-rrraurrra, còn tôi đáp lời mẹ. Tôi đã xem trên truyền hình một bộ phim về loài cá voi, tôi bảo mẹ: “Các bà, những người đàn bà của biển, các bà kêu như cá voi vậy!” Câu nói ấy khiến mẹ bật cười, mẹ kể thêm với tôi về chú cá heo của mẹ, chú cá thỉnh thoảng vẫn tới thăm mẹ vào lúc hoàng hôn. Không riêng mình mẹ. Bà lão Kando bạn mẹ, hình như bà là con hoang của một lính Nhật, đã kể với tôi rằng bà cũng từng gặp gỡ một chú cá heo, và bà biết nói chuyện với chú. Bà kể với tôi rằng đôi khi, lúc sáng sớm, hoặc ngay trước khi đêm buông, chú cá heo lại gần bà, và bà nói chuyện với chú bằng cách phát ra những tiếng kêu khe khẽ dưới nước, miệng mím lại, hoặc bà vỗ tay, và chú cá heo sát lại gần bà, sát đến nỗi bà có thể vuốt ve làn da vô cùng trơn láng và mịn màng của chú, bà kể như thế đấy. Thế là lúc chiều tối, khi biển thật lặng sóng, tôi cũng ra biển, đeo mặt nạ rồi bơi với hy vọng gặp được chú cá heo, nhưng cho tới lúc này vẫn chưa thấy chú đâu. Chỉ có mẹ và bà lão Kando là từng gặp chú. Nhưng chú thân nhất với Kando, chú không sợ Kando bởi bà đã già rồi. Tôi từng hỏi Kando xem mắt chú cá heo màu gì. Bà suy nghĩ: “Ơ kìa, mày hỏi đến lạ,” bà bảo vậy. Bà nói bà không biết, có lẽ mắt chú màu xanh lơ, hoặc có thể là xám. Mẹ chưa từng nhìn thấy chú cá heo thật gần, đó chỉ là một bóng đen đôi khi lướt qua gần mẹ, nhưng mẹ hiểu ngôn ngữ của chú, những tiếng kêu nhỏ mừng rỡ khi chú bơi cạnh mẹ. Chuyện ấy không phải rất tuyệt hay sao? Chính bởi lẽ đó mà tôi cũng vậy, tôi cũng sẽ trở thành người đàn bà của biển. Biển chứa đầy bí ẩn, nhưng chuyện ấy chẳng làm tôi sợ. Thi thoảng, biển nuốt chửng ai đó, một người đàn bà của biển, hoặc một người câu mực, hoặc giả một du khách bất cẩn bị sóng cuốn phăng từ một mỏm đá bằng phẳng. Thường thì biển không trả lại xác. Buổi tối, khi những người đàn bà của biển tụ tập trước túp lều dựng bằng gạch nén, để trút bỏ quần áo và tắm dưới vòi nước, tôi ngồi cùng họ và lắng nghe họ chuyện trò. Họ nói bằng thổ ngữ của đảo, tôi khó mà hiểu được hết. Giọng họ trầm bổng kỳ cục như thể họ không quên được những tiếng mình hô gọi khi ra khỏi biển. Họ nói bằng ngôn ngữ của biển, thứ ngôn ngữ không hoàn toàn giống với ngôn ngữ của chúng ta, trong ngôn ngữ đó pha trộn những âm thanh ta nghe thấy dưới nước, những tiếng rì rào của bọt nước, tiếng cát lạo xạo, những tiếng vỡ òa trầm đục của sóng khi xô vào đá ngầm. Tôi cho rằng họ rất yêu quý tôi. Họ gọi tôi bằng tên, June, họ biết tôi không phải dân gốc vùng này, biết tôi sinh ra ở thành phố. Nhưng họ không bao giờ căn vặn tôi, cả về bố lẫn về mẹ tôi, họ kín đáo, ngay cả khi tôi dám chắc rằng họ vẫn buôn chuyện khi tôi đi khỏi, nhưng chuyện đó không quan trọng, tất cả mọi người đều làm vậy. Họ già nua, con cái ở xa, chúng làm việc cho các công ty, chúng đi đây đi đó. Họ rất yêu quý tôi vì chắc hẳn tôi khiến họ nhớ tới con gái họ, một đứa con gái đã lớn và họ chỉ còn gặp mặt mỗi năm đôi ba bận, vào dịp kỷ niệm hoặc lễ tết. Họ gọi tôi là “con gái ta”, hoặc giả “con bé con”, ngay cả khi tôi cao lớn hơn họ. Mẹ không thích lắm việc tôi suốt ngày ở bên những người đàn bà của biển. Mẹ đã cấm tôi đi bơi cùng họ. Mẹ sợ tôi giống như họ, sợ tôi cũng trở thành thợ lặn. Mẹ bảo tôi phải học ở trường cho giỏi, để sau này học lên đại học, để đạt được những gì mẹ đã vì tôi mà không thể đạt đến. Mẹ bảo tôi phải trở thành bác sĩ, hoặc luật sư, hoặc giáo viên trung học, một nghề hẳn hoi. Hoặc cùng lắm cũng là nhân viên văn phòng. Nhưng tôi không muốn làm nghề nào trong số ấy, ngày ngày tới cùng một chỗ, nhận lệnh từ một bà sếp cáu bẳn và tai ác, rồi tối tối lại về nhà ngủ. Cái tôi thích là những gì biển dạy cho tôi, những gì các bà dạy cho tôi khi họ rời khỏi mặt nước, nhóm lên một ngọn lửa từ những tấm ván và trú trong túp lều gạch nén, khi dưới ánh chiều tà họ trải ra trên phiến đá đen những kho báu từ đáy biển, những con bào ngư ánh xà cừ, những con sò gai ngạnh và đen đúa, những con sao biển, những con mực. Tôi nghĩ hẳn dưới biển có tồn tại một thế giới, một thế giới hết sức đẹp đẽ, khác với tất cả những gì ta thấy trên mặt đất. Một thế giới không hề cứng nhắc và khô khan, không làm trầy da hay nhức mắt, một thế giới nơi mọi thứ lướt qua chậm rãi, êm đềm. Có nhiều truyền thuyết về biển, ví như câu chuyện về bà lão đã thoát khỏi nanh vuốt của hổ nhờ có rồng biển, hoặc câu chuyện về những quái vật nuốt chửng đoàn thủy thủ, tất cả những gì người ta vẫn kể cho lũ trẻ. Nhưng tôi không muốn nghe những câu chuyện ấy. Đúng ra tôi muốn nghe loại chuyện về một cánh cửa mở ra một thế giới khác, một xứ sở nơi vạn vật đều xanh biếc, vừa sáng rỡ vừa ảm đạm, vừa trơn tuột vừa mạnh mẽ, một thế giới lấp lánh. Một thế giới lạnh lẽo, nơi sinh sống những đàn cá trong suốt, một thế giới nơi mọi âm thanh đều khác biệt, không phải âm thanh từ những con người đang trò chuyện, không có gì xảo trá hay độc ác, chỉ là tiếng ầm ì vây quanh ta, cuốn ta theo, và khi nó đã chiếm lĩnh ta rồi, ta không còn muốn trở lại mặt đất nữa. Đó là điều mà những bà lão của biển cho tôi thấy khi họ rời khỏi mặt nước. Họ loạng choạng bước đi trên những mỏm đá, hai cánh tay hơi dang ra, thân hình đen bóng hơi phình lên ở bụng và ngực, họ không còn vẻ duyên dáng nhẹ nhàng của nước, nét thanh xuân của nước, gió xô đẩy họ, bầu trời đè nặng lên họ, ánh nắng khiến họ ứa nước mắt. Họ lau mắt, họ đưa tay hỉ mũi, họ khạc vào những vũng nước. Họ đổ tất tật những thứ thu hoạch được như ốc xoắn và bào ngư, nhím biển ra một phiến đá phẳng, móng tay họ đen đúa và gãy nham nhở, da cổ họ nhăn nheo như da cổ rùa. Họ không trò chuyện. Họ cởi bộ đồ lặn cao su, tôi giúp họ kéo ống tay áo ra, không cười. Làn da họ tỏa mùi biển, mái tóc hoa râm xoăn lại vì ướt. Có lần tôi bảo: “Ơ này, hình như cháu sinh ra dưới biển nên tóc cháu xoăn sẵn hay sao ấy.” Rồi họ gom đồ vào xe đẩy, tôi nghĩ đó chính là những chiếc xe họ từng dùng để đẩy con gái đi dạo khi họ còn là những bà mẹ trẻ. Họ nối đuôi nhau rời đi trên con đường ven biển, không hề để ý đến những chiếc ô tô của du khách, đến những kẻ tò mò dừng lại chụp ảnh họ. Họ trở về nhà. Trên mặt đất, họ nặng nề, vụng về, cứ như thể lũ hải âu già trúng bẫy nhựa dính, nhưng riêng tôi thấy họ đẹp. Tôi yêu nhất bà lão Kando. Khi tôi về đến nhà, mẹ nhìn tôi nghiêm nghị. Brown đã có lần định lên lớp tôi, nhưng tôi lạnh lùng nhìn gã, và kể từ khi tôi coi khinh gã, gã trở nên dè chừng. Gã nên câm miệng thì hơn. Tôi quên kể về Ngài Kyo. Tôi gọi ông như vậy nhưng kỳ thực, tên thật của ông là Philip. Đó là một người ngoại quốc. Tôi đã gặp ông lần đầu trên bến cảng, bấy giờ ông đang ở trên đê chắn sóng để câu cá. Ông có hẳn một bộ đồ lề lủng củng cho việc ấy. Một bộ dụng cụ chuyên nghiệp. Một cần câu sợi thủy tinh, những ống cuộn dây câu cải tiến. Một hộp nhựa màu đỏ đựng đủ loại lưỡi câu, dây cước, phao, hòn chì, và thêm vào đó là một con dao nhỏ bằng inox có nhiều lưỡi và cây kéo gấp, một cái bấm móng tay. Ông có một hộp kim loại đựng đầy giun và tôm làm mồi câu. Tối hôm đó tôi tới đê chắn sóng để xem phà rời bến, và bấy giờ ông ngồi đó một mình. Vốn rất mến những người ngoại quốc nên tôi tới bắt chuyện với ông. Tôi không quen làm thế, vậy mà tối hôm đó tôi lại muốn trò chuyện với người đàn ông chưa quen biết ấy. Ông có dáng vẻ kỳ cục, hơi so vai rụt cổ và vụng về trong y phục phố thị, cùng với cả bộ đồ lỉnh kỉnh của dân câu. Trông khá kỳ quặc, và nói thực lòng, quả là mới lạ. “Ngài trang bị siêu đầy đủ thế kia, chắc ngài câu thạo lắm nhỉ!” Ông nhìn tôi như thể cố hiểu xem tôi có đang giễu cợt ông không. Thậm chí ông không có vẻ ngạc nhiên khi thấy tôi nói trôi chảy thứ tiếng của ông. “À ừ, cuối cùng ông lên tiếng. Nhưng trang bị thế nào thì đâu có quyết định được gì.” Ông khẽ mỉm cười thú nhận, và tôi thích thú vì đây là lần đầu tiên một người đàn ông không hề hổ thẹn khi nói ra điều này: “Ta chẳng biết gì đâu, đây là lần đầu tiên ta đi câu đó.” Ông có bộ mặt rầu rĩ, làn da hơi tái, mái tóc xoăn khá dài, ấy là những gì tôi nhìn được bởi ông đội một chiếc mũ lưỡi trai in số 1986. Ông lực lưỡng, vai rộng với đôi bàn tay to. Ông đóng bộ com lê và đi giày đánh xi đen, đương nhiên không hợp để đi câu rồi. Trông ông cũng chẳng giống khách du lịch. “Ngài đến đây để tập câu, đúng không?” Ông nhìn tôi không cười. Tôi đoán ông phải lấy làm lạ, cái con nhóc mười ba tuổi đang chất vấn mình. Ông quăng dây, nó rít lên trước khi đầu chì chạm xuống nước, cách mép đê khoảng chục mét. Ông bảo: “Thế cháu định dạy ta câu chắc?” Chắc chắn ông nói mỉa, nhưng tôi không nản lòng. Tôi trả lời ông: “Vâng, cháu có thể dạy. Cháu câu giỏi mà. Cháu câu từ hồi còn bé tí.” Tôi còn nói thêm để tỏ ra là một đứa thông minh: “Ngài biết đấy, ở đây nào có việc gì khác mà làm.” Ông không trả lời, chỉ cuốn dây câu, thế là tôi nói tiếp: “Phải biết chỗ câu cơ. Ví dụ như ở đây thì ngài sẽ chẳng câu được gì đâu. Nước không đủ sâu, rồi lưỡi câu lại vướng vào tảo cho mà xem.” Đúng lúc đó, cứ như trời xui đất khiến, dây câu của ông vướng dưới nước. “Ngài thấy chưa? tôi bảo. Ngài bị mắc rồi.” Ông buông một câu chửi thề và lấy hết sức kéo cần lên, đến mức nó suýt gãy. “Khoan đã, để cháu làm cho.” Tôi cầm lấy cần và lắc sang hai bên, nhẹ thôi, tôi bò ra trên kè và kéo từng tí một, như kéo một con vật bằng xích. Một lúc sau, dây tuột ra, ông ấy cuốn lại. Lưỡi câu kéo theo một khóm tảo lên mặt nước. Cuối cùng thì người đàn ông cũng mỉm cười, có vẻ hài lòng. “Đúng là cháu không nói dối.” Ông trở nên thân thiện. “Cháu câu giỏi thế, nếu có thời gian thì dạy ta nhé.” Tôi bảo: “Ngoài lúc đi học cháu đều rỗi.” Lúc này, ông nói tên là Philip Kyo. Tôi rất thích cái tên này. Ngay lập tức tôi đã nghĩ rằng chúng tôi có thể trở thành bạn bè, với cái tên như thế. Tôi nán lại một lúc lâu để giải thích cho ông phải câu như thế nào, tôi chỉ cho ông góc phía đằng kia con đê, nơi thủy triều không thể đẩy dây câu đi được. Đêm xuống, tôi trở về nhà. Nhưng trước khi đi, tôi nói với Ngài Kyo: “Mai là Chủ nhật, nếu ngài quan tâm, cháu sẽ đến chỉ chỗ câu cho ngài. Tức là những chỗ câu ngon ấy.” Ông vẫn khẽ mỉm cười nhìn tôi. “OK, sáng mai nhé?” Tôi nói: “Chiều đi, tại sáng cháu phải đi nhà thờ cùng mẹ.” Ông cất cần và mồi. “Cháu biết ta ở chỗ nào không?” Tôi ra hiệu là có: “Ai mà chẳng biết ngài ở đâu. Ở đây mọi người đều biết nhau cả, đảo này bé tí ấy mà.” Tôi nói thêm, vì không chắc ông hiểu: “Ngài chỉ cần đi ra khỏi nhà, chính cháu sẽ đón ngài.” Và chúng tôi đã thành bạn của nhau như thế đó, Ngài Philip Kyo và tôi. Cuối hè, mọi sức mạnh như hợp lại. Tôi căm ghét mùa hè, đó là mùa của quên lãng, nếu không thì cũng là mùa mà người ta giả vờ quên. Hằng ngày, người người ùn ùn kéo đến như thủy triều lấp đầy mọi ngóc ngách, một dòng nước đục và dập dềnh len lỏi vào mọi khoảng trống, rồi chia thành vô số các nhánh nhỏ, nhân lên gấp bội. Chỉ được một lúc, vào tầm sáu giờ sáng mà trời đã sáng trưng, khắp nơi còn vắng vẻ, chờ đợi. Chỉ có những người đàn bà mò bào ngư đang bồng bềnh ngoài khơi. Vài con chim. Loáng sau đó là sự xâm chiếm. Đám côn trùng đen bung ra. Chúng chạy khắp các ngả, râu vểnh lên rình rập, cánh dang rộng, chúng bơi, chúng lăn, đôi khi chúng còn bay nữa, tôi từng thấy rồi: một người đàn ông đeo đai được một con tàu kéo vào tận bãi cát, gió thổi căng lớp dù mềm, kéo ông ta bò bằng bốn chân như một con cua khổng lồ sặc sỡ. Tôi chặn ngang giữa đường chạy của ông ta. Ông ta quay lại nhìn tôi, gương mặt đỏ au. Ông ta phủi cát trên người, rồi nói với tôi: “Spassiba*!” Ngọn gió quái quỷ nào đưa ông ta đến tận đây thế không biết? Ồn ào và nóng bức buộc tôi phải ra khỏi căn phòng chật hẹp của khách sạn nằm gần cảng. Ông chủ khách sạn có cho tôi thuê một chiếc lều - vật chứng của số quân cụ thừa sau chiến tranh, tôi đoán vậy - nên tôi bỏ ra phía bên kia của đảo, chỗ không hề có bãi tắm, một bờ biển đầy đá đen lởm chởm. Ở đó, tôi bị lũ gián biển tấn công, nhưng thà chịu đựng chúng còn hơn lũ sâu-bọ-người. Mary bảo tôi suốt đời chỉ là một gã độc thân gàn dở. Nàng giễu tôi: “Ẻo lả, nhu nhược.” Nàng đâu biết gì về đời tôi. Nàng không hay nói về mình. Vào một đêm, vì nàng cứ hát rống lên lúc đi bộ dọc bờ biển, tôi liền bảo nàng rằng nếu ở bất cứ đâu không phải nơi đây nàng sẽ bị coi là điên. Nàng bèn ngừng hát, cay đắng kể về ngôi nhà nàng từng bị nhốt theo lời gửi gắm của một bác sĩ là bạn của gia đình. Nàng gọi nó là Nhà trắng. Bởi vì ở đó cái gì cũng trắng, từ tường, trần, đến áo bờ lu của y tá và thầy thuốc, cả nước da của bệnh nhân cũng trắng nốt. Tôi cảm thấy mình nợ nàng một điều gì đó. Tôi nói, với một giọng dửng dưng: “Anh cũng thế, anh cũng từng bị giam.” Nàng hỏi: “Cũng trong một Nhà trắng ư?” Tôi đáp: “Không, trong tù.” Bất cứ, ai khác hẳn sẽ hỏi: “Tại sao người ta lại bỏ tù anh, anh đã làm gì?” Mary không hỏi. Nàng im lặng, còn tôi không nói thêm. Tôi không có khiếu thú tội. Những lúc không đi câu tôi thường đi bộ xuyên qua đảo. Vào sâu bên trong, khách du lịch thưa dần. Họ thường để ý đến những bãi tắm và những điểm ngắm cảnh nổi tiếng chứ chẳng hề bận tâm đến những ruộng khoai lang và hành. Vào mùa hè những con đường mòn nóng như rang. Đất tỏa ra một mùi chua nồng. Đằng sau tường rào đám bò náu mình thản nhiên. Nắng nhức mắt. Tôi nhớ trước đây Mary và tôi thường ngủ ban ngày và sống vào ban đêm. Ngôi nhà chúng tôi thuê khi ấy nay vẫn còn, một căn nhà nhỏ bằng gạch nén và ván ép lợp mái tôn uốn lượn. Một người nước ngoài đã mua lại nó, một kiến trúc sư người Nhật, người ta kể với tôi như vậy. Ông ta có nhiều dự án lớn trên hòn đảo này, một khách sạn bốn sao có bãi đáp trực thăng và spa nước biển. Thần tượng của ông ta chính là kiến trúc sư Tadao Andõ, nói thế là đủ biết. Cũng tốt thôi! Thuở ấy Mary và tôi thường ra khỏi nhà khi hoàng hôn xuống, giống như ma cà rồng, vào lúc mặt trời nhòa trong màn sương. Chúng tôi bơi trong đêm, rùng mình mỗi khi những cành tảo chạm vào bụng. Vào một đêm trăng khuyết, chúng tôi làm tình dưới nước, ở bãi biển, quấn lấy nhau như cặp bò biển. Chuyện này xảy ra cách đây đã lâu lắm rồi. Tôi cứ ngỡ mình đã quên, nhưng khi quay trở lại đây, từng giây từng phút lại bắt đầu. Khi đến được đảo sau ngần ấy năm, tôi nghĩ mình sẽ không ở lại quá hai hoặc ba ngày. Tôi thuê phòng trong một khách sạn nhỏ ở cảng, gần bến phà, nằm bên trên những cửa hàng chuyên cho khách du lịch thuê xe máy và xe đạp. Thời gian đủ để kiểm chứng rằng không còn gì nữa, rằng quá khứ đã được xóa sạch, rằng mình không còn cảm thấy gì nữa, thời gian đủ để cười khẩy hoặc nhún vai. Ngày đầu tiên tôi không làm gì khác ngoài việc ngắm nhìn những con tàu đến rồi đi, đám đông xuống thang tàu lên bờ, xe máy và xe đạp qua lại. Phần lớn khách tham quan còn rất trẻ, những cặp tình nhân và những nhóm trẻ em. Tôi cứ thế nhìn họ đến mức buồn nôn và đầu đau nhói. Họ đến đây làm gì? Lấy quyền gì mà đến? Họ mong đợi điều gì? Những kẻ săn mồi vô vị mặc áo gió màu sặc sỡ, đi giày thể thao, đội mũ lưỡi trai và đeo kính râm. Họ có biết gì về mối nguy hiểm đang lảng vảng quanh đây, có biết gì về những quỷ thần của đêm tối, những thế lực đang rình rập từ đáy biển, nấp dưới những khe sâu? Đã bao giờ họ thấy người chết đuối chưa? Tôi thực tình căm ghét những người này. Tôi cứ đếm họ đến rồi đi, hàng trăm, hàng nghìn người. Ai cũng giống ai hết thảy. Đêm xuống, tôi đi bộ trên những con đường, ven bờ biển, hết ngang lại dọc. Du khách bỏ đi hết rồi. Tuy nhiên dường như vẫn còn vài người nán lại, nấp sau bụi rậm để rình rập tôi. Trời lạnh, gió thổi cùng với thủy triều lên. Đêm không trăng, trời đặc quánh hơi nước, biển là một khối mịt mù tối tăm. Tôi cứ thế lảo đảo bước, hai tay hơi dang ra để giữ thăng bằng. Lũ chó bị xích sủa inh ỏi khi tôi đi ngang qua. Một con bò rống lên từ một kho chứa cỏ tối om. Rồi ký ức chợt ùa về. Tôi đứng đó, trên con đường này, cô độc và mù lòa, một lần nữa tôi trở lại ba mươi năm về trước, với Mary. Tôi đi cạnh nàng, và bất chợt hôn lên cổ nàng, lên gáy nàng. Nàng nhích người ra, chắc hơi bị bất ngờ, tôi kéo nàng lại, chúng tôi vừa bước vừa quấn lấy nhau ra đến tận bãi biển và ngồi xuống bờ cát. Chúng tôi lắng nghe âm thanh của biển. Đấy là lần đầu tiên chúng tôi hôn nhau. Hai chúng tôi nói chuyện khá khuya trước khi trở về căn nhà nhỏ. Đêm ấy vẫn còn trong tôi, và giờ đây nó sống lại như thể chưa có gì chia cắt nó khỏi chúng tôi. Đó là một nỗi đau, đồng thời là lạc thú, nó bứt rứt, cào cứa và mãnh liệt. Nó khiến tôi cảm thấy chóng mặt và buồn nôn. Lúc đó tôi hiểu ra rằng mình đến đây là để ở lại, không liên quan gì đến đám người như sâu như bọ nở ra và chết đi mỗi ngày. Tôi phải tiếp tục phần sau tất yếu của cuộc phiêu lưu này, sự mất tích của Mary chưa kết thúc gì cả. Tôi phải cố hiểu. Tôi phải đi đến tận cùng nỗi cay đắng, tận cùng niềm lạc thú trong bất hạnh. Thế là tôi giữ căn phòng khách sạn và ở lại đó. Để phỉnh ông chủ, tôi mua của ông ta một chiếc cần câu với bộ lưỡi và hộp mồi. Tôi thuê lều của ông ta. Những đêm gió lặng, tôi ra cồn cát, sát bờ biển hoang vắng, không xa khu nhà vệ sinh bằng xi măng. Tôi lắng nghe biển. Những người dân trên đảo không nói gì với tôi. Họ đã không chấp nhận, nhưng cũng không chỉ trích. Đấy là cái hay của những địa điểm nhiều khách du lịch. Cái từ người ngoại quốc không thực sự nói lên điều gì ở đây nữa. Không ai bận tâm đến tôi. Không ai còn nhớ ra tôi. Không ai còn nhớ cái tên Mary. Chuyện đó xưa rồi, vào một thời xa xôi lắm rồi, nhưng thời gian không phải là lý do. Nơi đây, gió biển xóa nhòa tất cả, bào mòn tất cả. Nơi đây có hàng chục người từng chết đuối. Những người đàn bà của biển, chìm nghỉm, ngạt thở, trôi dạt dưới đáy biển cùng đai lưng giắt chì. Rồi những tai nạn do giảm áp, ngừng thở, trụy tim. Gió thổi trên những mảnh ruộng nhỏ xíu này, rền rĩ qua những bức tường nham thạch lỗ chỗ khe thưa. Tôi đắm chìm trong một cuộc tìm kiếm cay đắng và vô vọng. Làm sao những con người này có thể hiểu được? Mối lo của họ là cuộc sống thường nhật, ngày nào hay ngày ấy, và những ai ra đi không bao giờ trở về nữa. Niềm đam mê trong tôi khiến tôi đau nhưng đồng thời cũng làm tôi dễ chịu. Theo ngôn ngữ y học thì người ta gọi nó là một nỗi đau tuyệt vời. Đám lính vẫn mô tả với tôi điều đó hồi tôi còn đi theo họ với quyển sổ ghi chép trên tay. Họ không nói về nỗi dằn vặt. Họ nói về một trò chơi, một nỗi đau lặp đi lặp lại, ám ảnh và trở nên không thể thiếu. Một nỗi đau mà ta phải yêu nó, bởi lẽ, nếu nó chấm dứt, thì mọi thứ trở nên trống rỗng và chỉ còn nước chết đi cho rồi. Ngày nào tôi cũng gặp Ngài Philip Kyo. Thời gian đầu, tôi tìm đến gặp ông. Sau giờ học, hoặc vào những ngày nghỉ, tôi băng qua cánh đồng, đi dọc bờ biển cho đến khi gặp được ông. Bây giờ thì ông đến tìm tôi. Tôi thường đợi ở bãi đá. Ông đến mang theo cần câu. Ông quăng cần một lúc, nhưng chán ngay bởi ông chẳng bao giờ câu được gì. Chỉ vài con cá bé tí trong veo mình đầy xương dăm. Tôi mà thả cần thì toàn được những con cá to, điêu hồng hoặc cá bơn chẳng hạn. Ngài Kyo không có khiếu cho lắm. Ông chật vật mãi mới móc được con tôm vào lưỡi câu, tôi đã giải thích cho ông phải làm thế nào, bắt đầu từ đầu rồi xiên đến tận đuôi nhưng vô ích. Ông vẫn không làm được. Ngón tay ông to, vụng về. Nhưng tay ông được giữ gìn cẩn thận, tôi thích thế. Móng tay ông không bị gãy, ông chăm sóc chúng bằng một chiếc bấm móng tay và chiếc giũa, và tôi thích vậy. Tôi không thích đàn ông có móng tay bẩn thỉu như gã Brown, bồ của mẹ tôi. Ngài Kyo có đôi bàn tay hơi nhăn nheo, da khá đen, và lòng bàn tay hồng hào. Kể cả là đôi tay ông có vụng về thì da lòng bàn tay lại rất nhẵn và khô, bởi tôi ghét nhất trên đời đàn ông có đôi tay ướt. Bàn tay nóng và ướt khiến tôi rùng mình ghê tởm. Tôi ấy à, tay tôi lúc nào cũng khô, khô và lạnh. Cả chân tôi cũng lạnh, nhưng hình như phần lớn phụ nữ đều vậy cả. Chúng tôi cùng nhau câu và trò chuyện cho đến khi trời tối. Thường thì chúng tôi chẳng để ý đến câu. Khi gió lớn và biển động thì câu cũng chẳng được gì. Đám cá sẽ ở sâu dưới nước, nấp trong hang của chúng. Ngài Kyo ngồi trên mỏm đá, bất động, ông ngắm biển. Khi ngắm biển trông ông buồn lắm. Cứ như thể màu của biển nhập vào đôi mắt ông. “Ngài nghĩ gì thế?” tôi hỏi ông. Liệu một con nhóc mười ba tuổi có thể quan tâm đến điều mà một người già suy nghĩ không? Ông thậm chí chẳng ngạc nhiên. “Ta nghĩ về đời ta, ông bảo vậy. - Ngài đã làm được nhiều việc trong đời chưa?” Ông không trả lời ngay. Tôi biết khá rõ người già, tôi vẫn thường gợi chuyện được những người đàn bà của biển. Tôi tin chắc nhiều người thấy thế thật kỳ, việc tôi hay nói chuyện với họ ấy. Nhưng tôi biết khi người ta già, người ta rất thích được người trẻ hỏi chuyện. Tôi cho là khi nào già tôi sẽ rất thích điều này. “Ta đã đi học để làm kiến trúc sư, rồi sau đó lại thành nhà báo. Ta vào nghề khi đi nghĩa vụ quân sự, ta gửi bài viết về những chuyện xảy ra ở mặt trận. Ta rất thích viết, nhưng không tài nào viết được một quyển sách. Ta đến đây để có thời gian viết một quyển.” Ông nói với một giọng lơ lớ, ông nghĩ mãi mới ra từ. Tôi rất thích cách ông nói tiếng Anh, ông có một chất giọng rất Anh, tôi nghe và nhắc lại các từ khi chỉ còn lại một mình. Tôi có cảm giác như đó là một ngôn ngữ khác với ngôn ngữ mẹ đã dạy cho tôi. Ngài Kyo bảo rằng ngữ điệu của tôi khá tốt, có thể vì bố tôi là người Mỹ, tất nhiên tôi không kể chuyện này với ông, nó chẳng liên quan đến ai cả. Tôi rất thích nói được một thứ ngôn ngữ khác, để bọn ranh ở trường không thể hiểu được. Vì thế tôi bảo Ngài Kyo: “Ngài dạy cháu những từ khác trong tiếng của ngài đi.” Tôi nghĩ ông cũng thích thế. Ông đã bật cười, tôi tin chắc là ông cảm thấy tự hào. Người lớn nào mà chẳng thích dạy điều gì đó. Nó bù vào việc ông câu không được giỏi. Thế là ông dạy tôi những từ mới như: “Angle, thread, hooks, snapper, starfish.”* Ông còn nói những từ tôi chẳng hiểu gì, những từ của thủy thủ: “Starboard, stern, seabass, bow, aft bow, mooring.”* Những từ này tôi không định nhớ, chỉ muốn nhớ cách phát âm. Cách hát chúng. Tôi yêu cầu ông nhắc lại những từ này, tôi nhìn miệng ông để nắm được âm điệu trong đó. Điều mà tôi thích là khác với phần lớn mọi người, Ngài Kyo không bao giờ hỏi tôi những câu riêng tư. Ông chưa bao giờ hỏi tôi: “Cháu bao nhiêu tuổi rồi?” hoặc “Cháu học lớp mấy?” Có lẽ ông cho là tôi đã lớn, chưa hẳn là một người lớn nhưng gần như thế, và vì vậy ông chấp nhận nói chuyện với tôi. Tôi thường bảo mình đã mười sáu thậm chí mười tám tuổi. Đúng là tôi khá cao lớn, tôi cao hơn đa số đàn bà con gái ở đây, và đã có ngực, còn kinh nguyệt thì cũng đã có được một thời gian. Tôi bắt đầu có từ đầu năm học. Lần đầu tôi thấy là ở trường, ngay trên lớp, tôi xấu hổ đến mức không dám đứng dậy khỏi ghế. Một lần khác, tôi làm giường ướt đến mức cứ ngỡ mình tè dầm trong lúc ngủ, nhưng hóa ra là máu. Tôi phải dậy giữa đêm và giặt ga ngoài trời với nước lạnh, bởi mẹ luôn nhắc tôi muốn giặt sạch vết máu phải dùng nước lạnh. “Thế còn ngài thì sao?” Tôi gọi ông là “ngài”. Giống như trong quân ngũ người ta thường nói: “Vâng, thưa ngài chỉ huy” hoặc “Không, thưa ngài chỉ huy.” Như thể đến lượt tôi có quyền được hỏi. Nhưng tôi quên mất là ông đã hỏi gì đâu. “Ngài có vợ không? Ngài có con không?” Ông lắc đầu: “Không, không vợ, không con. - Thế thì buồn nhỉ, ai sẽ chăm sóc ngài khi về già?” Ông nhún vai, rõ là ông chẳng bận tâm. Sau đó, cả tôi lẫn ông không nói gì thêm, một lúc lâu. Tôi nghĩ những câu hỏi đời tư làm phiền ông. Ngài Kyo có một gương mặt dễ dàng bưng kín lại. Đó không phải kiểu người mà bạn có thể gặp hằng ngày, kiểu người sẵn sàng hơi một tí là bắt chuyện. Ông là một người khá bí hiểm. Trên mặt ông có một bóng đen. Khi tôi nói với ông, bất ngờ có gì đó như một đám mây lướt ngang trước mắt ông, phía trên trán ông. Tôi và Ngài Kyo cùng nghĩ ra một trò chơi ngộ nghĩnh. Tôi không nhớ ông bắt đầu trước hay tôi nữa. Chúng tôi thường chơi trò này khi bóng đen ấy xuất hiện trên gương mặt ông. Lúc đầu chúng tôi chạm vào những vật trên bờ biển, những thứ vớ vẩn như mẩu gỗ hay lá tảo. Rồi chúng tôi quyết định làm như thế lần lượt từng người một, giả vờ như đang di chuyển những quân cờ hay những con bài đô mi nô. Chỉ là những thứ vớ vẩn thường tìm được trên cát, hoặc dưới hốc đá, những cành cây nhỏ, lông chim, vỏ sò rỗng. Chúng tôi đặt chúng trước mặt, trên khoảnh cát đã được dọn sạch và cào phăng. “Đến lượt cháu,” Ngài Kyo nói. Tôi đặt một mẩu dây. “Đến lượt ta,” Ngài Kyo nói. Ông để một cọng tảo khô xoắn vặn. “Đến lượt cháu.” Một mảnh thủy tinh nhám. “Đến lượt ta.” Ông đặt một hòn sỏi dẹt. “Đến lượt cháu.” Tôi đặt một viên sỏi khác, bé hơn, nhưng có vân màu đỏ. Ông bối rối, ông tìm kiếm xung quanh, nhưng rõ là không có gì khá khẩm hơn. “Cháu thắng rồi,” Ngài Kyo nói. Trò này có vẻ ngớ ngẩn, nhưng khi chúng tôi chơi với nhau nó thực sự có nghĩa. Viên sỏi có vân đỏ thực sự chiến thắng. Đặc biệt là khi chúng tôi chơi trò này, Ngài Kyo quên đi những muộn phiền. Vệt tối biến mất khỏi đôi mắt ông, chúng lại trở nên trong sáng và tươi cười. Chúng phản chiếu ánh nắng ngoài biển. Đó là trò chơi của chúng tôi. Tôi gọi nó là “Đến lượt ngài, đến lượt cháu”, đơn giản thế thôi. Khi chơi, chúng tôi không còn nghĩ đến bất cứ điều gì khác. Thời gian không còn tồn tại. Chúng tôi có thể chơi mãi không bao giờ ngừng. Tôi thì thấy buồn cười, nhưng Ngài Kyo tỏ ra nghiêm túc. Ngay cả khi ông đưa ra một cái gì đó kỳ quặc, hoặc buồn cười, thì gương mặt ông vẫn giữ vẻ nghiêm nghị. Nhưng mắt ông ánh lên điều ngược lại. Tôi thích màu mắt của ông khi chúng tôi chơi. Tôi đã nói về màu mắt Ngài Kyo chưa nhỉ? Chúng xanh lục. Nhưng là một màu xanh luôn thay đổi, màu xanh của rau xà lách, hoặc màu xanh của nước. Đôi lúc nó mang màu của lòng con sóng vỗ bờ, khi bọt khí và nước mưa hòa vào nhau. Trên gương mặt âm thầm của ông, đôi mắt như hai đốm ánh sáng. Nếu nhìn vào mắt ông nhiều quá, tôi có cảm giác chóng mặt. Thế là tôi thôi không nhìn nữa, tôi cúi xuống cát tìm một thứ gì đó để tiếp tục trò chơi. Tim tôi đập nhanh hơn, tôi có cảm tưởng nếu tiếp tục nhìn vào con ngươi ông, tôi sẽ ngã xuống. Hoặc ngất đi. Nhưng đương nhiên tôi không thể kể điều này với ông. Vả lại ông chẳng nhìn ai đăm đăm thật lâu bao giờ, thực ra tôi muốn nói là nhìn tôi ấy, bởi tôi đã bao giờ thấy ông đi với người khác đâu. Thế rồi, lúc ông ra về, tôi để ý thấy ông đeo kính râm, ngay cả vào lúc đêm đang buông xuống. Chúng tôi gặp nhau hằng ngày hoặc gần như thế. Ngài Kyo đã chiếm một vị trí quan trọng trong cuộc sống của tôi. Tôi đã viết điều này vào nhật ký, bởi tôi không thể kể với bất cứ ai khác. Cứ tan học, và cả vào Chủ nhật sau khi đi lễ nhà thờ, tôi lại chạy băng qua ruộng khoai đến tận bờ biển. Từ xa tôi đã nhận ra bóng dáng ông, bộ com lê phấp phới trong gió. Thời gian đầu, ông còn đeo cả cà vạt đi câu. Nhưng nó cứ quất vào mặt ông khi có gió mạnh, thế là sau này ông cởi nó ra. Nhưng tôi thích ông thanh lịch, trái hẳn với đám du khách lúc nào cũng nghĩ đã đi là phải mặc quần soóc hoa hòe hoa sói hoặc áo gió màu vàng. Những lúc trời mưa, ông mang theo ô, không phải loại ô gấp bé tí trông nực cười mà là một chiếc ô màu đen giống như những thương gia ở nước Anh. Cuối cùng thì nó bị gió thổi bật, thế là ông quyết định chẳng cần ô nữa. Nước mưa ròng ròng trên mũ lưỡi trai và ướt đẫm áo vest của ông. Những ngày thời tiết thực sự tệ, ông trú trong lều. Ông dựng lều trên một đụn cát khá xa các bãi tắm. Đó là một chiếc lều ni lông màu xanh lá cây, buộc vào cọc kim loại. Ông chủ khách sạn cho ông thuê. Thế là chúng tôi cùng trú mưa trong lều. Lều có một kiểu mái hiên, nên chúng tôi tuy ngồi trong nhưng Ngài Kyo thò được chân ra ngoài. Tôi cực thích điều này! Tôi có cảm giác chúng tôi đang ở một nơi rất xa, ở một xứ không ai biết tới, ở châu Mỹ, hoặc ở Nga. Một xứ sở nơi chúng tôi sẽ ở lại, không bao giờ trở về nữa. Tôi ngắm nhìn những con sóng đang nối đuôi nhau trên mặt biển trắng đục. Xa xa sương mù ngày càng dày. Tưởng như chúng tôi đang ngồi trên một con tàu, sắp ra đi đến đầu bên kia thế giới. Chúng tôi nói, nói và nói. Thực ra tôi nói là chủ yếu. Ngài Kyo trả lời được mọi câu hỏi, cái gì ông cũng biết. Ông là nhà văn mà. Nhưng ông không tự phụ, chỉ là ông có câu trả lời cho tất cả các câu hỏi, thế thôi. Ông đã biết mọi kiểu người, mọi đất nước, ông đã làm đủ mọi nghề. Tôi nghĩ cũng vì thế mà ông buồn. Cái gì cũng biết chẳng đáng buồn sao? Lúc đầu ông không trả lời nhiều. Ông ngồi nghe tôi nói ba lăng nhăng, có vẻ như ông nghĩ đến điều gì đó khác. Tôi hỏi ông về các chuyến đi, về nghề nhà báo, nhưng hình như ông không nghe thấy. Thế là tôi hích ông: “Này, thưa ngài!” Ông giật mình: “Cháu muốn gì? - Sao ngài không nghe cháu nói? Có phải ngài thấy cháu còn ít tuổi nên nghĩ cháu chẳng nói được điều gì ra hồn phải không?” Tôi thế đấy. Người lớn chẳng làm tôi sợ được. Kể cả các thầy các cô giáo. Tôi có thể đấm họ, cấu họ. Tôi làm thế một cách nhẹ nhàng dễ thương, chỉ để khiến họ chú ý thôi. “Ngài ngủ à? Ngài ngủ mở mắt được sao? Cẩn thận đấy, gió sẽ thổi ngài ngã, gió sẽ đẩy ngài xuống biển đấy!” Ông tươi tỉnh hẳn lên. Giờ thì ông để ý rồi. Thỉnh thoảng những câu đùa của tôi khiến ông bật cười. Tôi bắt chước giọng ông, cách ông nói, bắt đầu tất cả các câu bằng “ờ, à” bởi ông không biết phải trả lời ra sao. Nhưng ông biết rõ tên các loài chim, hải âu nhỏ, hải âu funma, chùn mỏ kéo, chim nhạn biển, cả côn trùng nữa, các loài bướm, bọ hung, và cả loài gián biển gớm ghiếc lúc nhúc ở bãi đá mỗi khi nước rút. Có thể ông là thầy giáo, một thầy giáo thôi không đứng lớp nữa. Có thể ông đã bị đuổi việc vì một vụ tai tiếng, bởi ông là kẻ ấu dâm, sờ soạng các nữ sinh trong một ngôi trường ở đất nước ông, và vì thế ông đến tận đây ẩn náu. Tôi thấy ý này thật hài hước, thậm chí tôi đã thử nói về chuyện đó, nhưng ông không hiểu. Hoặc ông không muốn nghe. Không, tôi không thể hình dung ông là một lão già đốn mạt lợi dụng giờ thể dục để sờ mông các cô bé. Vả lại trông ông không có dáng làm giáo viên. Ông không cao lắm, lưng hơi gù, nhưng đôi vai đẹp, những lúc ông không đội mũ mái tóc ông dày và xoăn điểm sợi bạc, trông thật thanh lịch. Có lẽ ông là cảnh sát, có lẽ ông đến đảo này để điều tra một tội ác. Ông đóng vai một người đi câu để quan sát kẻ đến người đi. Nhưng nếu vậy thì đóng bộ com lê đen và sơ mi trắng, ông sẽ là một tay cảnh sát kỳ cục. Tôi hỏi ông những câu lạ đời phi lý, ý tôi là lạ đời so với một đứa trẻ ở tuổi tôi. Thí dụ như tôi hỏi ông: “Ngài muốn chết ở đâu?” Ông nhìn tôi không trả lời, chắc hẳn chưa bao giờ ông nghĩ đến điều này. “Cháu ấy à, cháu muốn được chết dưới biển. Nhưng không phải chết đuối. Cháu muốn biến mất trong lòng biển, và không bao giờ trở về nữa. Cháu muốn được sóng cuốn đi thật xa.” Ông nhăn mặt lại, tôi cứ tưởng ông sắp cười to. Nhưng nhìn kỹ hơn tôi thấy đúng ra mặt ông nhăn lại vì tức giận. “Sao cháu lại nói như thế! Ai nói với cháu chuyện biến mất trong lòng biển?” Lần đầu tiên tôi thấy ông có vẻ cáu vì những gì tôi nói. Ông nói thêm, bằng một giọng dịu hơn: “Cháu có biết mình đang nói gì không! Cháu toàn nói những điều ngu xuẩn thôi!” Tôi xấu hổ quá, tôi nghĩ mình nên ôm lấy cánh tay ông, dựa đầu vào vai ông để được ông tha thứ, nhưng thay vì làm thế, tôi lại thấy bực trong lòng: “Sao lại là ngu xuẩn ạ? Cháu có phải con ngốc đâu, cháu nghĩ đến cái chết, dù cháu còn rất ít tuổi.” Đúng vậy, đã nhiều lần tôi ra sát biển, toan lao mình vào những ngọn sóng, mặc cho biển cuốn đi. Chẳng vì một lý do thực sự nào, chỉ là vì tôi chán đến trường, chán gã bồ của mẹ tôi lúc nào cũng xoen xoét với mẹ những lời âu yếm và gian xảo. “Không nói về chuyện này nữa, nghe chưa June.” Đó là lần đầu tiên ông gọi tên tôi, nó làm tôi tan chảy, vì như thế có nghĩa là tôi cũng quan trọng đối với ông, chứ không chỉ là một con oắt ngu xuẩn chán đời đến cảng ngắm chiếc phao ở dây câu của ông bập bềnh trên mặt nước. Trước khi ra về, tôi thơm nhẹ lên má ông, thật nhanh, chỉ đủ để cảm nhận làn da thô ráp hơi chua của ông (người già không ít thì nhiều đều có mùi chua này). Như thể ông là bố tôi, ông tôi hay gì đó. Rồi tôi cắm đầu chạy mà không ngoái lại. Tôi không hiểu chuyện đó xảy ra với tôi như thế nào. Hơi giống kiểu phần lớn mọi chuyện vẫn xảy ra với tôi, tôi không để ý lắm, tôi nói, tôi nghe, tôi lơ đễnh, tôi nhận thấy có ai đó, ở đây, ngay bên cạnh, trong khi trước đó chẳng có người nào cả. Trên một ghế băng, trong một nhà hàng, hay trên bãi biển. Trên triền đê dài đổ bê tông nơi tôi đến để câu, dù tôi có biết câu kẹo gì đâu, chỉ là vì ra đó câu thì tôi có thể ngồi lì hàng giờ để ngắm biển mà không ai thắc mắc tại sao, thế thôi. Cô bé đến bắt chuyện với tôi. Cô bé đã ào vào cuộc đời tôi. Một con nhóc! Nó tự nhận mình mười sáu tuổi, nhưng tôi thừa biết nó nói dối, nó vẫn còn đi học mà, ở cái xứ này mười sáu tuổi là phải đi làm, lấy chồng, chứ chẳng ai lang thang trên đường hay dọc đê với một lão già bao giờ. Tôi cần điều đó lắm đấy. Quá khứ của tôi đã thế rồi, giờ đây người ta lại thấy tôi với một con nhóc! Tôi tin chắc viên cảnh sát duy nhất trên đảo vẫn theo dõi tôi, ở mỗi góc đường đều thấy anh ta, anh ta lượn chầm chậm trên chiếc ô tô hai màu, lườm nguýt tôi. Anh ta đang chờ thời cơ để bắt tôi ấy mà. Anh ta nhận ra tôi không phải đến đây chỉ để du lịch, mà là một gã ưa sống đơn độc, một kẻ khả nghi. Nhiều lần anh ta lái xe qua trước mặt chúng tôi lúc chúng tôi đi câu vẻ. Anh ta không nói gì, giả đò không trông thấy chúng tôi, điều này còn tệ hơn ấy chứ. Cô bé tên June. Phải thú thật rằng tôi rất thích tên nó. Tôi tin Mary nếu còn chắc cũng muốn quen biết nó. Cái mái tóc của nó, một bờm tóc đen, quăn, dày và ánh hung. Thường thì cô bé búi tóc lên rồi buộc lại bằng dây chun. Nhưng khi ra biển, nó thả tóc, cả mái tóc ánh lên dưới nắng để mặc gió thổi tung. Tóc Mary cũng rất dày, nhưng đen nhánh và mượt mà, những lúc búi tóc trông nàng giống như một geisha. Tôi phải định thần lại thôi. Tôi đến hòn đảo này đâu phải để đi câu vài con cá phèn và tám chuyện với một con bé chưa đến tuổi dậy thì! Tôi đâu phải gã du khách rỗi hơi lượn một vòng các địa điểm cần xem, chụp hình rồi lần lượt đánh dấu, kiểu như: ghế đá của nụ hôn đầu tiên, done*. Ngọn hải đăng ở nơi tận cùng thế giới, done. Con đường của nỗi cô đơn, khu vườn của những hẹn ước, bãi biển có tàu đắm, done, done, done. Rồi lại ra đi khi đã được thiên hạ làm cho cả đầu óc lẫn túi tiền thành rỗng tuếch! Với tôi hòn đảo này là một ngõ cụt không lối thoát, nơi mà người ta không thể vượt qua, sau nó không còn gì nữa hết. Đại dương, có nghĩa là quên lãng! Mary, cuộc đời nàng, thân thể nàng, tình yêu nàng đã biến mất, không để lại dấu vết, không để lại lý do. Và cả cô gái ấy nữa, ở Huế, người phụ nữ bị đè ngửa trên nền nhà và không hề kêu rên khi đám lính lần lượt qua cô. Miệng cô chảy máu, đôi mắt như hai vệt tối. Còn tôi đứng nhìn, trên ngưỡng cửa, không cử động, không một lời. Ánh mắt tôi là ánh mắt của kẻ sát nhân. Chính vì những hình ảnh đó mà tôi ở đây lúc này, để tìm ra thứ nắm giữ chúng, chiếc hộp đen giam kín chúng mãi mãi. Không phải để xóa nhòa chúng, mà để thấy được chúng, để không bao giờ thôi khiến chúng tái hiện. Để bước chân vào những dấu vết xưa, tôi giờ đây là một con chó đang đánh hơi tìm lối. Nơi đây hẳn phải có một lý do biện minh cho tất cả những gì đã xảy ra, một manh mối cho những sự kiện khiếp khủng này. Lúc tới đảo, tôi đã bị một cơn rùng mình. Nói đúng theo nghĩa đen là khắp da thịt tôi lông dựng ngược lên, sau lưng, trên cánh tay, trên vai. Một điều gì đó, một người nào đó đang đợi tôi. Một điều gì đó, một ai đó, nấp sau những tảng đá đen, giữa các vết nứt và các khe hở. Hệt đám côn trùng gớm ghiếc kia, hàng nghìn con gián biển đang bò dọc bờ biển tạo thành một tấm thảm lúc nhúc khi thủy triều rút khỏi đê và dải đá ngầm cản sóng. Thời còn Mary, không có đám sâu bọ này - hoặc chúng tôi không để ý đến chúng? Tuy vậy, Mary ghét côn trùng. Đấy là dạng sống duy nhất mà nàng gớm ghét. Một con bướm đêm đủ khiến nàng khiếp đảm, một con rết đủ làm nàng buồn nôn. Nhưng chúng tôi hạnh phúc, và bởi thế lũ côn trùng ấy không lộ diện. Chỉ cần một thay đổi trong cuộc đời, là lập tức những điều ta không biết đến bỗng trở nên cực kỳ rõ ràng trước mắt, và choán lấy ta. Tôi có mặt ở đây không vì một điều gì khác. Để hồi tưởng lại, để cuộc đời tội lỗi của tôi xuất hiện trong tôi. Để tôi thấy được từng chi tiết của nó. Để đến lượt mình, tôi có thể biến mất. June đang đợi tôi. June muốn hỏi tôi. Đôi lúc tôi muốn hung bạo với con bé. Tôi muốn nói với nó bằng những lời lẽ tàn ác, những lời khiến người ta đau: “Này bé con, ta sẽ giải thích. Ta từng bị đi tù vì tội đồng phạm trong một vụ hiếp dâm một cô gái trẻ trạc tuổi cháu. Vài thằng đã giữ cô ta rồi lần lượt cưỡng hiếp cô ta, còn ta chỉ đứng đó nhìn mà không làm gì. Chiến tranh mà, mọi điều đều được phép. Ta đã ở tù, xem này, ta vẫn còn số tù xăm trên cánh tay trái, vì thế lúc nào ta cũng mặc sơ mi dài tay và khoác áo vest.” Tôi biết rồi mình sẽ nói với cô bé. Tôi ghét bộ dạng ngọt ngào, ghét giọng líu lo con trẻ của nó. Tôi sẽ nói ra để cô bé sợ tôi, để nó hiểu rằng tôi có thể tái phạm, đè ngửa nó ra giữa các mỏm đá và làm bất cứ điều gì tôi muốn với nó, lấy tay bịt miệng nó để nó không thể kêu la, túm tóc mà giữ chặt nó dưới đất, các ngón tay ngoắc vào mái tóc xù của nó, hít thở nỗi sợ từ trong miệng nó! Khi thấy cô bé bên bờ biển, tôi thậm chí vẫn còn cơn thịnh nộ của đêm đen trong mình, con sóng mù quáng từ biển dội vào và lầm rầm không dứt suốt đêm, hòa vào cơn gió lạnh và màn sương mù, cái màn mờ đục bao phủ bầu trời, tắt hết trăng lẫn sao ấy! June ngồi trên bãi đá, mặc váy dài, tóc buông xõa trên vai, cô bé quay lại khi thấy tôi đến, ánh nắng làm làn da nó sáng rực lên và khiến đôi mắt lấp lánh. Còn tôi, tôi đến bên cô bé với bóng đêm đen, mang trên vai những mảnh tơi tả chiêm bao và ác mộng, mang gương mặt xám ngoét, mái tóc hoa râm, như thể vừa bước ra từ một chiếc giường đầy tro. “Ngài ngủ không ngon à?” cô bé hỏi bằng cái giọng vui vẻ mà tôi ghét. “Sao người già thường hay khó ngủ thế?” Nó đã tìm ra câu trả lời: “Vì họ thường ngủ ngày, thích ngủ trưa nên tối không ngủ được nữa.” Cô bé nói đúng. Hôm nay không phải ngày tôi sẽ kể cho nó các tội ác của mình. Tôi từng mơ Ngài Kyo là bố tôi. Không phải vì nước da và bộ tóc xoăn tự nhiên của ông mà tôi mơ như thế. Mà vì tôi tin ông quan tâm đến tôi như một người bố thực thụ. Thời gian gần đây thằng Jo trở nên hung tợn hết sức. Lúc tan học, nó thường đợi tôi ở góc phố và khoái tìm cách trêu chọc tôi. Khi nó chỉ nói bậy và chửi rủa, tôi mặc kệ và cứ tiếp tục đi. Nhưng bây giờ nó tóm lấy tôi, giả đò bóp cổ và gí chìa khóa chẹt cổ tôi, rồi nó túm tóc và ấn đầu tôi xuống đất cho đến khi tôi phải quỳ xuống. Tôi ứa nước mắt, nhưng cố kìm nén. Tôi không muốn nó thỏa mãn. Tôi không nhớ đã kể chuyện này với Ngài Kyo lúc nào. Ông chỉ nghe, không nói gì, tôi tưởng ông chẳng thèm bận tâm đến chuyện vặt của mấy đứa nhóc bẩn thỉu. Thế rồi một hôm, lúc tan học, khoảng ba giờ chiều, thằng Jo đã đứng đó, túm tóc tôi như mọi lần. Thế là Ngài Kyo đến, ông đi rất nhanh, băng qua đường và đến chỗ thằng Jo, tới lượt ông túm tóc nó và bắt nó quỳ trước mặt tôi. Ông cứ thế túm lấy nó một lúc lâu, thằng oắt vùng vẫy, cố giằng ra để thoát thân, nhưng Ngài Kyo giữ chặt. Ông không cao lắm, như tôi đã nói trước rồi, nhưng tay ông rất khỏe. Tôi đứng lùi ra xa, nhìn cảnh này và thấy tự hào vì có người bảo vệ mình. Vẻ mặt Ngài Kyo lúc đó rất lạ, một vẻ mặt mà trước đó tôi chưa bao giờ thấy, vẻ tức giận, hung bạo, mắt ông sáng lên trên gương mặt u tối, hai tia sáng xanh lục, không lạnh lẽo, mà lúc đó nóng bỏng và sắc lẹm. Rồi tôi nghe thấy ông nói: “Không bao giờ được làm thế nữa, nghe chưa? Không bao giờ!” Ông nói tiếng Anh, thằng Jo chẳng hiểu được gì, nhưng giọng ông gầm lên, tôi có cảm giác như tiếng sấm rền, và thằng oắt run lẩy bẩy khi nghe ông quát. Nhưng tôi lại không sợ. Ngài Kyo khỏe thật, đẹp thật, tôi có cảm giác ông từ một thế giới khác, hoặc từ mãi tít trời cao đến tìm tôi trên hòn đảo này và mang tôi đi khỏi nỗi bất hạnh của tôi. Như thể tôi vẫn luôn đợi ông từ khi còn là một đứa bé, và ông đã nghe thấy những lời cầu nguyện của tôi. Không phải một thiên thần, không phải một phúc thần, mà đúng hơn là một chiến binh, một chiến sĩ không cần đến áo giáp, một hiệp sĩ không cần đến ngựa. Tôi cứ đứng nhìn ông, bất chợt ông thả thằng kia ra, nó lủi một hơi. Còn Ngài Kyo không thèm quay lại nhìn nó chạy mất. Ông nán thêm một lúc, mặt vẫn sầm lại vì giận dữ, đôi mắt xanh trông như những mảnh gương vỡ, và tôi không thể nhìn ra nơi khác. Rồi ông rảo bước bỏ đi, còn tôi hiểu không nên đi theo ông lúc này. Chuyện xảy ra thế đấy. Tôi không kể cho ai, nhất là mẹ. Nhưng tôi hiểu rằng từ hôm đó mình có một người bạn. Thậm chí là hơn thế, tôi mơ ông là bố tôi, ông đến đảo này để tìm tôi, để một ngày nào đó dẫn tôi theo ông đi thật xa, tới đất nước ông, ở châu Mỹ. Không lâu sau, khi gặp lại Ngài Kyo, tôi bèn hỏi ông: “Ngài có muốn hôm nào đó qua nhà gặp mẹ cháu không?” Tôi nói thêm: “Mẹ cháu nói tiếng Anh giỏi lắm.” Tôi nói tiếp ngay, để ông không nghĩ rằng tôi nói thế vì phép lịch sự: “Chỉ là nếu ngài muốn như thế thôi, tất nhiên là cháu không ép đâu.” Ông chẳng bảo có cũng chẳng bảo không, ông không trả lời gì, và tôi có chút xấu hổ vì đã hỏi như thế. Vậy nên tôi vội vàng nói với ông về chuyện khác, chuyện câu cá, chuyện những con sò mẹ tôi bán cho các nhà hàng, như thể tôi muốn ông trở thành khách hàng của mẹ và mua bào ngư cho mẹ. Tuy nhiên, sau chuyện xảy ra ở cổng trường, thằng Jo không bao giờ quấy rầy tôi nữa. Nó vẫn lẩm bẩm chửi mỗi khi tôi đi ngang qua trước mặt, nó gọi tôi là đồ khỉ cái, nhưng có phần dè chừng. Tôi thấy hai con mắt bé tí, xảo trá của nó nhìn quanh nhìn quẩn, rình xem liệu Ngài Kyo có ở gần đó, nấp sau cột cổng, hay khuất trong bóng râm một cánh cửa. Hoặc trong tiệm thuốc, ở ngay ngã tư. Tôi quên kể cả chuyện này nữa, đó là một sự kiện mới xảy đến trong cuộc sống của Ngài Kyo. Một hôm, trong khi chúng tôi trèo lên mấy mỏm đá, trong cơn gió thốc lên bởi biển động, tôi trượt chân và đầu gối bị trầy xước vì va phải một hòn đá nhọn. Tôi đau, và còn bị chảy máu rất nhiều. Ngài Kyo đã lấy con dao nhỏ dùng để đi câu cắt ra một mảnh áo sơ mi và băng bó cho tôi. Nhìn miếng vải thấm máu, ông nói: “Cháu nên đến hiệu thuốc để họ khử trùng và băng bó cho cháu cẩn thận hơn.” Không có gì phải bàn cãi nữa. Tôi không thể nhảy trên mấy tảng đá, thế nên ông đã bế tôi ra đến đường, và dù cho đầu gối đang đau nhưng tôi vẫn vui vì được ông bế trên tay, ông rất khỏe và tôi cảm nhận được ngực ông kề sát người mình. Rồi chúng tôi đi bộ về làng, và tôi dựa vào ông, cố tình bước khập khiễng để được dựa sát vào cánh tay ông trong lúc bước đi. Tôi chưa từng đến tiệm thuốc của dược sĩ, cô là người mới đến đảo này. Cô xinh đẹp, với gương mặt khá trắng và đôi mắt có quầng. Quầy thuốc của cô rất nhỏ, phía ngoài được che bằng một tấm ri đô vải trắng phải vén lên mới vào được bên trong. Ngài Kyo ở trong hiệu thuốc một lúc lâu trong khi cô dược sĩ rửa vết thương của tôi bằng cồn, và bôi thuốc mỡ lên miếng băng, rồi quấn quanh đầu gối tôi bằng một dải dây vải. Tôi không thực sự đau nữa nhưng vẫn cố làm vẻ nhăn nhó và thở dài để gây chú ý. Tôi ngay lập tức hiểu ra rằng Ngài Kyo bị người phụ nữ ấy quyến rũ. Thật là lố bịch, nhưng điều đó làm tôi tức giận. Tôi không thích người lớn cư xử như trẻ con. Nhất là, tôi không muốn một người quan trọng như Ngài Kyo để cho một phụ nữ bình thường, cái cô dược sĩ ấy, phỉnh phờ, dù cô ta có xinh đẹp đi nữa. Chuyện đó khiến tôi cảm thấy ông trở nên giống cô ta, ý tôi là một người bình thường, không xứng làm bố tôi. Một người vô vị, nói những điều mà chính họ không tin, rồi cười cợt, ba hoa. Ngài Kyo thì hoàn toàn ngược lại, ông mạnh mẽ, ông có thể cất giọng như sấm rền, ông có thể nhìn bằng đôi mắt xanh lục khiến người ta phải sợ hãi. Nhưng sau đó, tôi ngẫm nghĩ và hiểu ra rằng chắc hẳn ông đã quen người phụ nữ ấy từ trước, và chính vì thế ông đã can thiệp vào sự việc xảy ra ở cổng trường. Khi Jo kéo tóc tôi, Ngài Kyo đang ở trong tiệm thuốc, chỉ cách vài bước chân. Tôi đã tưởng ông đến từ nơi nào vô định, vị thần hộ mệnh của tôi, nhưng chỉ là lúc ấy ông đang bận nói chuyện với người phụ nữ này. Điều đó làm tôi buồn, nhưng cùng lúc tôi cảm thấy yên tâm, bởi mình đã có một thiên thần hộ mệnh. Một vị thiện thần. Chung quy, cô dược sĩ cũng chẳng có gì quá quan trọng, đó chỉ là một cô gái xinh đẹp nói hơi nhiều. Một phụ nữ bình thường. Bây giờ khi chúng tôi đã thực sự là bạn bè, Ngài Kyo và tôi, tôi cảm thấy thực sự thoải mái khi ở bên cạnh ông. Chưa đến mức nói chuyện thân mật với ông hay gọi ông bằng tên riêng (mặc dù tôi rất thích cái tên Philip). Mà tôi thấy thoải mái vì được nói những gì mình muốn vào lúc mình muốn. Thí dụ như, tôi bịa ra nhiều chuyện, nhiều giai thoại, để ông khuây khỏa, để làm ông cười. Tôi hát cho ông nghe tất cả những bài hát tôi biết, những bài hát cũ bằng tiếng Anh, Little Boy Blue, Mary Quite Contrary, Old King Cole cứ đòi chiếc bát, cái thìa và ba nhạc công vĩ cầm. Và cả những bài tôi đã nghe trên radio, của Elvis, hoặc của Nina Simone, hay cả những bài trong phim The Sound of Music, vì tôi vẫn thường xem băng phim đó mỗi khi ở nhà một mình. Tôi thấy rõ điều đó làm ông thích thú, gương mặt ông trở nên dịu dàng hơn, đôi mắt không còn ánh thủy tinh ấy nữa, mà mờ nhòa đi. “Cháu có chất giọng hay đấy, một hôm ông nói với tôi. Khi nào lớn, cháu có thể trở thành ca sĩ.” Lời khen ấy làm tim tôi đập thình thịch, hai má nóng bừng. “Ồ vâng, cháu rất thích được làm ca sĩ, tôi đáp. Nơi duy nhất cháu có thể hát là ở nhà thờ, mục sư chơi dương cầm, còn cháu hát thánh ca.” Ông có vẻ quan tâm đến chuyện này. “Vậy thì có thể ta sẽ đến nghe cháu hát vào một Chủ nhật nào đó.” Tôi quá vui sướng, tôi nghĩ vậy, và reo lên: “Vâng, thưa ngài. Ngài hãy đến nhé, ngài đến nhé.” Tới đó, ông bỗng sa sầm nét mặt. “Có thể, ta sẽ tới, để xem đã.” Tôi nghĩ mình có đôi chút xấu hổ vì đã thể hiện niềm vui như vậy, nhưng tôi thật lòng tin rằng ông sẽ tới nhà thờ vào lần sau, là ngày Chủ nhật tới đây. Nếu có đến thật thì hẳn ông đã trốn rất kỹ, bởi tôi đã mất công tìm kiếm mà chẳng thấy ông đâu. Có lẽ ông không thích nhà thờ cho lắm vì tôi để ý thấy mỗi lần tôi nhắc đến nhà thờ, hay mục sư là ông lại nói sang chuyện khác, hoặc im lặng như những con cá chúng tôi câu được. Thậm chí có lần, khi tôi đang nói với ông về trời, về thiên đường, thì ông bật cười khẩy. “Cái đó chỉ là chuyện người ta kể cho trẻ con nghe thôi. Làm gì có ông trời nào.” Tôi không thích khi Ngài Kyo cười nhếch mép như vậy, ông để lộ hàm răng xấu xí, đặc biệt là ông có một cái răng khểnh, cái răng nanh sắc nhọn, một cái nanh chó đúng nghĩa. Tôi rất muốn đọc được suy nghĩ của ông, muốn hiểu lý do tại sao ông lại như vậy, ủ ê và lặng lẽ, đôi mắt ánh lên nỗi buồn. Nếu như ông quả thật là bố tôi, tôi sẽ có thể hiểu được về cuộc đời ông, tôi sẽ biết cách hỏi han, an ủi và làm ông cười. Thay đổi suy nghĩ của ông. Chia sẻ câu chuyện của ông. Đôi khi ông khiến tôi nghĩ đến cái chết. Tôi nghĩ về điều sẽ xảy ra nay mai, ông sẽ không còn ở đây nữa, cả mẹ tôi cũng vậy. Tôi nghĩ đến việc mình sẽ đơn độc, và không bao giờ tôi còn được gặp một người như ông nữa, không bao giờ còn có cơ hội mơ về bố nữa. Nhưng may sao việc đó không kéo dài. Tôi nghĩ ra thứ gì đó để làm ông khuây khỏa, một trò chơi, một câu đố. Một câu chuyện vui trong vùng. Và đây là câu chuyện tôi đã kể cho ông nghe vào một chiều Chủ nhật, khi chúng tôi ở trên đỉnh vách đá, ngồi giữa những bụi hoa trà: CÂU CHUYỆN VỀ CON BÒ Ngày xưa trên một hòn đảo Hòn đảo không có súc vật, cũng chẳng chim chóc Chỉ có những người đàn ông và đàn bà Người dân ở đây buồn chán, vả lại họ cũng chẳng có nhiều thứ để ăn Chỉ có khoai lang và hành tây Nhất là vào mùa đông thì thật buồn vì đêm dài Trời lạnh, nhiều gió, và mưa, rồi sương mù Một hôm, có một người đến đảo Một du khách ngoại quốc giống như ngài Không ai biết tên ông ta là gì Đó là một người đàn ông thật kỳ lạ Ông cao lớn, khỏe mạnh, với gương mặt dài và đôi mắt vàng đáng sợ Ông ăn vận chỉnh tề choàng áo khoác dài và đội mũ đen Ông không nói chuyện với ai bao giờ Và nếu có nói thì giọng ông rất to và trầm, khiến tất thảy đều sợ Một đêm, người đàn ông ngoại quốc biến mất Một đêm sương mù Một đêm mà người ta sợ phải ra ngoài vì có thể bị rơi khỏi vách đá Và dân trên đảo nghe thấy một tiếng thét Đó là giọng của người đàn ông ngoại quốc Giọng ông vang vọng trong sương mù Và người ta còn nghe thấy tiếng bước chân trên đường phố Những bước chân lang thang, lọc cọc, lọc cọc Sáng ra, sương tan Người ta trông thấy một con bò giữa đồng Một con bò đen thật đẹp Chính là người đàn ông ngoại quốc ấy đã biến thành bò Đây là lần đầu tiên người ta nhìn thấy bò trên đảo này Vậy là dân đảo không còn sợ nữa Họ hỏi xin sữa của bò và trẻ con đã có sữa uống Chuyện là thế đấy Bây giờ, mỗi khi trên đảo có sương mù Một người nào đó lại biến mất Và sáng hôm sau lại có thêm một con bò Vậy nên ngài phải rất cẩn thận khi có sương đấy Vì ngài là người ngoại quốc mà Ngài Kyo lắc đầu: “Cháu đúng là giàu trí tưởng tượng.” Trong khoảnh khắc, đôi mắt xanh của ông chuyển sang hơi vàng, đúng y màu mắt bò. Lần đầu tiên tôi tới nhà thờ. Thực ra nhà thờ chỉ là tầng trệt ngang tầm mặt vườn của một tòa nhà nhỏ nằm ở giữa làng. Chỉ cần bước xuống vài bậc cầu thang là đã ở trước một cánh cửa đôi bọc nệm chần, và dù có lớp nệm chần ấy, tôi vẫn nghe thấy tiếng nhạc từ bên trong vọng ra, tiếng đàn dương cầm pha tiếng hát lao xao. Khi đẩy cánh cửa ra, tôi nghe thấy giọng June. Cô bé đứng trên một thứ giống như cái bục, xung quanh là những đứa trẻ trạc tuổi, nhưng June cao hơn chúng một cái đầu. Bên phải sân khấu, mục sư ngồi bên cây dương cầm, ông chơi một giai điệu hơi chậm và buồn, nhưng nhịp nhàng, và các cô bé vỗ tay theo nhịp. June hát bằng tiếng Anh: nobody knows but Jesus*, tôi biết lời bài này. Giọng cô bé rất trong, không lảnh lót như giọng trẻ con, mà khỏe và hơi trầm, và tôi thấy rùng mình. Tôi dừng lại trước cửa, mặc dù những người ở hàng cuối đã ngồi xích lại với nhau để chừa chỗ trên ghế băng cho tôi. Tôi không thể tiến lên. Có gì đó ngăn tôi bước hẳn vào phòng, như thể tôi không có quyền. Như thể người ta đột nhiên sẽ yêu cầu tôi ra ngoài, như thể họ sẽ nhận ra tôi và tôi không còn chỗ trong nhà thờ này nữa. Hoặc đó là bởi chính tôi, tôi không thể bước tiếp. Tôi cứ đứng dựa vào khung cửa, giữ nó không đóng lại, để cảm nhận khí lạnh bên ngoài, đẩy không khí nóng và đầy mùi người từ bên trong ra, một thứ mùi kỳ lạ của da và gỗ, hoặc của áo quần vải vóc mới, một thứ mùi gần gũi và nhạt nhẽo khiến tôi ghê tởm. Bỗng tiếng hát ngừng lại. June vẫn đứng trên sân khấu, một bóng đèn công suất lớn chiếu vào cô bé. Ánh đèn làm nổi bật thân hình cô bé dưới lớp váy, vết hằn chỗ bộ ngực mới nhú, phần bụng hơi nhô lên. Ánh đèn lấp lánh trên trán vì cô bé vuốt tóc ra sau thành một búi tóc dày, màu hung vàng. Khuôn mặt không tươi cười, cô bé dường như thu mình, chỉ khẽ nhếch miệng, cổ gập lại, mắt cụp xuống như đang nhìn một điểm bất định trước mặt, giữa cử tọa. Mục sư thuyết giảng một bài ngắn, và đọc mấy đoạn trích trong cuốn sách kinh. Ông ta còn trẻ, nhưng có vẻ tự phụ và thiển cận, và những cô bé con đứng quanh ông ta trông như lũ cào cào châu chấu. Chỉ riêng June là nổi bật giữa đám người lộn xộn và phù phiếm này, với đôi mắt cụp xuống, thân hình cao lớn, hai chân hơi choãi ra, cánh tay buông dọc thân người, không duyên dáng. Rồi cô bé chợt nhìn thấy tôi. Khuôn mặt bất động, không cười, nhưng tôi thấy đôi mắt cô bé mở to, tôi cảm thấy mối liên hệ của ánh nhìn ấy trong ánh mắt tôi, như thể đang nghe thấy tim cô bé đập qua một sợi dây. Cô bé không nghe lời mục sư nói nữa, cũng không quan tâm đến những đứa trẻ bên cạnh, hay các tín hữu đang nhìn mình. Cô bé hoàn toàn gắn với tôi bởi sợi dây đó, và không còn điều gì khác quan trọng nữa. Còn tôi, tôi cảm thấy một nỗi bối rối chưa từng biết đến, chưa từng trải qua. Tôi có cảm giác như thể chóng mặt, một cảm giác bạo lực. Tôi là chủ nhân, không phải một chủ nhân thống trị, mà là người có thể điều khiển được từng suy nghĩ trong cô bé, từng cử chỉ, từng ý nghĩ. Đã mấy lần mục sư hắng giọng, bắt nhịp lại câu đầu bài thánh ca, và tôi không biết mình đã làm gì, chắc là tôi đã giơ tay trái lên một chút, lòng bàn tay hướng về phía cô bé, không phải để chào, mà để bảo nó hãy bắt đầu, và June cất giọng hát. Phải chăng cô bé chưa bao giờ hát hay đến vậy, với giọng hát trong trẻo và mạnh mẽ như thế, hông cùng vai hơi lắc lư, tôi nghĩ đến Mary ngày xưa trong chiếc váy đỏ, khi ánh đèn chiếu rọi vào nàng? Mục sư chơi đàn say sưa một cách thái quá, mấy cô bé con gầy gò xấu xí vừa uốn éo vừa nhìn June, còn cử tọa bắt đầu vỗ tay, và khi bài thánh ca kết thúc, họ hoan hô, dù đó là điều cấm kỵ, không ai hoan hô một lời cầu nguyện, nhưng đây không chỉ còn là một lời cầu nguyện. Còn tôi, tôi chậm rãi lùi bước, cho đến khi cánh cửa bọc nệm chần đóng lại và cắt ngang sợi dây kết nối ánh mắt, cắt ngang làn sóng nhạc. Tôi đấu tranh với bản thân để không thay đổi. Tôi cảm thấy mối nguy hiểm bao quanh mình. Tôi cảm thấy điều đó, một âm mưu, một kế hoạch bí mật nhằm ép buộc tôi, hạn chế tự do của tôi. Để ngăn tôi di chuyển, chặn lối ra của tôi. Tôi không muốn quên đi mình là ai, và vì sao mình tới đây. Tôi không muốn bị ru ngủ bằng những lời hay ý đẹp, những lời tụng ca, tôi không muốn người ta gán cho mình những tình cảm tốt đẹp. Tôi không phải là người tốt. Tôi là một con yêu tinh, đúng vậy. Mary trước kia đã nói với tôi như vậy. Nàng bảo rằng tôi tồn tại chỉ để ăn thịt người khác, để quyến rũ rồi ăn thịt họ. Tôi tới đây để thấy. Để thấy khi biển hé mở, để lộ những vực thẳm, những kẽ nứt, và lớp tảo đen di động dưới lòng biển. Để nhìn những người chết đuối với đôi mắt đã bị đục khoét dưới đáy huyệt, nhìn những vực sâu nơi lắng đọng tàn tro hài cốt. Sự tình cờ đã để một thiên thần xuất hiện trên con đường tôi đi, một đứa trẻ thơ ngây và lạ lùng. Đã rất lâu rồi, đây là lần đầu tiên tôi được gặp một con người. Ở nhà tù, trong trung tâm cải tạo, tôi đã gặp đủ loại đàn ông và đàn bà, phần lớn đều là những kẻ bình thường. Chẳng độc ác hơn chẳng xấu xí hơn những kẻ khác. Còn giờ đây, khi tôi không còn trông đợi gì nữa... Nhưng tôi không muốn vậy. Tôi không muốn nữa. Đã quá muộn rồi. Tôi muốn cứ là mình của hiện tại, Philip Kyo, một nhà báo thất bại, một nhà văn kém cỏi, dù không muốn nhưng vẫn bị mắc bẫy do những bản năng xấu của mình giăng ra, bị kết án vì một tội mà mình không phạm phải. Không có hy vọng cải tà quy chính. Trong phiên tòa, công tố viên đã nói về tôi, ông ta bảo tôi là một quái vật máu lạnh. “Anh ta không tham gia vào tội ác, thưa quý vị. Không, không, các vị có thể tin là vậy, vì chính nạn nhân đã làm chứng cho điều đó. Anh ta không làm gì cả. Anh ta chỉ nhìn. Và khi nạn nhân, người phụ nữ vô tội đáng thương kia, hướng mắt về phía anh ta, để cầu xin, van nài anh ta trong im lặng rằng hãy cứu giúp cô ấy, anh ta không động đậy. Anh ta chỉ nhìn. Thế thôi. Anh ta không cảm thấy bất kỳ một sự thương cảm, hay phẫn nộ nào. Anh ta nhìn. Nhìn, liệu điều đó có nghĩa là vắng mặt hay không? Anh ta có làm điều gì khác không? Anh ta có cảm thấy bị kích thích, có nói gì để cổ vũ cho những kẻ hiếp dâm hay không? Anh ta từ chối nói về chuyện đó, thưa quý vị, anh ta giam mình trong im lặng, để không phải trả lời các câu hỏi, để không cảm thấy có trách nhiệm, để không đối mặt với sự thật. Ngay cả khi anh ta không trả lời các câu hỏi, những chiếc kim của máy phát hiện nói dối đã nói thay anh ta, chúng tố cáo anh ta. Các vị hãy xem, với những câu hỏi mà chúng tôi đặt ra cho anh ta về trách nhiệm, về vụ hiếp dâm qua ủy quyền trong đó anh ta không chỉ là nhân chứng, mà là một trong số những kẻ gây án, máy đã ghi nhận hiện tượng giải phóng adrenaline, nhịp tim tăng nhanh, mồ hôi toát ra mang ý nghĩa tiết lộ. Một sự thú nhận, thưa quý vị bồi thẩm. Một sự thú nhận.” Những cánh cửa khép lại. Trong sáu năm, tôi đã nghe tiếng cửa đóng mở, tiếng chốt cửa, tiếng khóa lạch cạch. Trong sáu năm, tôi đã bị nhốt trong sự im lặng. Những xà lim. Những hành lang. Những căn phòng ở bệnh viện tâm thần, chái nhà dành cho đám bệnh nhân nguy hiểm. Khi được thả tự do, sau ngần ấy năm, tôi không còn biết gì về thế giới nữa. Cùng với Mary, tôi tìm kiếm một nơi để ẩn náu. Với tôi là để chạy trốn quá khứ, còn với nàng là để thoát khỏi một cuộc tình tuyệt vọng. Tất cả vẫn còn có thể. Hồi ấy chúng tôi còn trẻ, chúng tôi đã nói đến chuyện có một đứa con. Và rồi một hôm, vì nàng say, nàng đã đi vào lòng biển và đã không trở về. Tôi đã quay lại đất liền, để rút tiền ở ngân hàng, hoặc gửi một bức thư, tôi cũng không biết nữa. Tôi đi chuyến tàu buổi sáng, tầm tám giờ. Chiều hôm ấy, Mary đi vào lòng biển. Nàng là một tay bơi giỏi. Biển không có bão. Chỉ có đôi chút sóng lừng, là biển nổi gió như người ta vẫn thường gọi. Chắc là đợt thủy triều lớn cuối hè. Mary để lại áo quần trên bãi đá, nàng mặc bộ đồ bơi không tay bằng cao su, nàng buộc gọn mái tóc dài, nàng đeo kính nhạt màu và nàng bơi về phía mặt trời. Vì sao tôi trở lại nơi này? Tất cả những chuyện ấy đã xảy ra từ rất lâu rồi, ở một cuộc đời khác. Tôi đã làm việc như hết thảy mọi người. Nghề báo, đã kết thúc rồi. Để sống sót, tôi nhận giảng dạy về ngôn ngữ tại một học viện ở Manila. Tôi từng môi giới chứng khoán, xuất khẩu thực phẩm khô, phân phối đất sét rải chuồng mèo, thậm chí tôi còn quản lý một quán bar ở Philippines, ở miền Nam, trên một bãi biển mà du khách Nhật Bản và Canada thường lui tới. Tôi quen biết nhiều phụ nữ, hầu hết là những gái làng chơi chuyên nghiệp, tôi từng mắc bệnh lậu ở Thái Lan, bị rận mu, có lúc tôi thậm chí còn ngỡ mình đã mắc sida, nhưng xét nghiệm máu âm tính. Lẽ ra tôi đã phải chết hai mươi lần rồi nhưng tôi vẫn đang ở đây. Đã từ lâu lắm rồi, tôi không còn điều gì giống như một gia đình. Lần cuối tôi nhận được tin tức về anh trai, khi ấy anh đang ở New Zealand, và đã kết hôn với một phụ nữ người Anh. Khi tôi ngồi tù, không ai đến thăm tôi. Không ai tìm tôi. Chắc chẳng có ai nhớ tôi. Có lẽ tôi quay lại hòn đảo này để chết. Tôi không thực sự nghĩ đến điều đó, vì xét cho cùng thì chết ở đây hay ở nơi khác với tôi đều như nhau. Dù sao người ta cũng đâu có được trải nghiệm cái chết của mình, không phải tôi đã nói điều đó. Nhưng June đã hỏi tôi, khi chúng tôi gặp nhau để câu cá trên đê, và câu hỏi của cô bé đã khiến tôi suy nghĩ. Một đường vòng dài bắt đầu từ bờ biển này rồi cuối cùng quay trở lại đó. Điều mà tôi không lên kế hoạch trước - đã lâu rồi tôi không còn lên kế hoạch cho tương lai nữa. Điều tất yếu sẽ xảy đến. Không có bất kỳ lối thoát nào khác. Không có lời giải thích nào khác cho việc tôi trở lại nơi đáng nguyền rủa này. Vì nàng, Mary, người mà tôi đã biết thân hình và đã hưởng thụ nó, giờ đây không còn lại gì, không một hình ảnh, không một ký ức có thể chạm tới được. Biển đã nuốt chửng tất cả, biển đã xóa đi thể xác và tinh thần của nàng khỏi mặt đất. Nàng không còn tồn tại, bởi vậy nàng chưa bao giờ tồn tại. Tôi đã tìm kiếm trong ký ức nhưng vô vọng, đã đi khắp những con đường mòn, ngồi trên những mỏm đá, mà chẳng nhận ra bất cứ điều gì. Vậy là đến lượt tôi phải chết. June có lý, tôi phải tìm ra nơi để chết, nhưng tôi không hề muốn chết đuối. Tôi biết chuyện đó diễn ra như thế nào, chúng tôi đã từng dìm vài người xuống nước trong những lần tác chiến, tôi đã chứng kiến cả việc ấy. Làm vậy để bắt họ khai. Tôi là thư ký, tôi nhìn và ghi vào sổ mấy điều rời rạc. Những thân thể bị đẩy vào chậu nước, cổ tay và mắt cá chân bị cùm, những khuôn mặt co giật vì sợ, tiếng thở khò khè. Những tiếng la hét. Tôi nhìn, tôi viết. Họ luôn khai ra, những gã kia bảo là họ hót! Không, đuối nước không dành cho tôi. Thà trèo lên đỉnh vách đá và nhảy xuống còn hơn. Cú va chạm với mặt biển cứng và đen y như một tấm gang đúc. Thân thể tôi nát tan, bị những dòng nước cuốn đi, thân thể tôi xé vụn dưới đáy sâu. Bởi vậy tôi đã nhiều lần đến chỗ vách đá hướng về phía mặt trời mọc. Tôi rất thích ý tưởng được chết trong khi ngắm cảnh bình minh. Dường như với tôi điều đó logic, và hợp lẽ. Giống như chết vào đúng giữa trưa. Khi mặt trời dừng lại trên thiên đỉnh vài mi li giây, bất động, suy tưởng về tận thế, rồi uể oải đi xuống phía chân trời, trong trang phục hoàng hôn diêm dúa. Dù không muốn nhưng hằng ngày tôi đều tới cuộc hẹn. Chẳng phải là trớ trêu sao? Cuộc hẹn với một cô bé con. Gọi là hẹn cũng được, vì chúng tôi không bao giờ nói gì, nhất là lời chào tạm biệt, không bao giờ hẹn gặp ngày mai, chẳng có gì định trước. Với cái vẻ tự tin kỳ cục của một đứa trẻ ở tuổi đó, chính cô bé đã quyết định: “Không cần phải nói lời hẹn gặp lại đâu, vì đằng nào chúng ta cũng ở trên một hòn đảo, có thể trốn đi đâu được chứ?” Chiều chiều, tôi ra chỗ con đê mang theo dụng cụ câu, tôi ngồi trên những tảng đá, giống một thứ bánh đường bằng bê tông có lũ hà bám vào. Tôi chuẩn bị lưỡi câu. Tôi đã thuộc bài, và biết rõ cách xâu con tôm từ đầu đến đuôi. Khi triều dâng, tôi quăng dây câu, và chờ đợi. Tôi đã luyện tập chút ít và giờ đã câu được cá, những con cá bống trắng, cá chào mào, và thi thoảng là một con cá thu đi lạc. Trên đê chỉ có mình tôi. Chỗ này không nhiều cá lắm, do là nơi những con phà qua lại. Thảng hoặc có một cặp du khách, cũng lạc đường, người đàn ông chụp ảnh cho người phụ nữ, hoặc có khi nhờ tôi chụp chung cho họ một tấm. June đang ở đây. Cô bé đến lặng lẽ, như một con mèo. Cô bé ngồi trên những tảng đá bên cạnh tôi, và chúng tôi cứ ngồi như vậy một lúc lâu, chẳng nói năng gì. Nó cũng đã quyết định chúng tôi không bao giờ phải chào gặp gỡ, để thời gian cứ tiếp diễn không gián đoạn. Nó kể tiếp những gì đang nói ngày hôm trước, mà chưa nói xong. Hoặc bắt đầu một câu chuyện mới, với cô bé, thời gian không tồn tại, từ khi nó ra về vào ngày hôm trước cho đến giờ mới chỉ có một tiếng đồng hồ, nó chỉ sống trong hiện tại. “Trong giấc mơ của cháu, có một con người lạ lùng ở dưới đáy biển, một cô gái to béo đang ngủ, một cô gái khổng lồ... Cô ấy ngủ dưới đáy biển và cháu bơi đến gần cô ấy, cháu nhận ra mắt cô ấy đang mở, đôi mắt to có màu xanh của cá chết, cô ấy nhìn cháu, còn cháu thì cố gắng thoát khỏi cô ấy, cháu bơi lùi lại, nhưng biển cứ đẩy cháu về phía cô ấy, cô ấy dang tay ra, thân hình bắt đầu động đậy, da cô ấy rung rung như lớp sương đông cứng, sợ lắm...” Chính những giấc mơ của cô bé nối liền ngày này với ngày khác. Cô bé chỉ sống vì những giấc mơ. “Ngài kể cho cháu nghe về những giấc mơ của ngài đi.” Nhưng tôi chẳng bao giờ ngủ mơ. Tôi chỉ có thể kể cho cô bé về người phụ nữ mà tôi yêu, người đã đi vào lòng biển, và không bao giờ xuất hiện trở lại nữa. Khi tôi quyết định kể cho cô bé nghe chuyện đó, nó kêu lên: “Cô ấy chính là người cháu đã nhìn thấy đấy thưa ngài, cô gái to béo nằm dưới đáy biển ấy!” Tôi đáp với giọng chua cay: “Nhưng người phụ nữ ta kể với cháu đâu có to béo, và mắt cô ấy không xanh biếc.” June vẫn cố nài: “Không, đúng là cô ấy mà, cháu chắc chắn đấy, và nhất là cô ấy có thể đã thay đổi, mọi người đều thay đổi khi già đi mà!” Tôi không biết tại sao chuyện đó lại làm cô bé bối rối. June không chịu hài lòng với những vẻ bề ngoài. Cô bé có nếp nhăn giữa hai chân mày làm khuôn mặt tối đi, bỗng nhiên nó không còn dáng dấp của một đứa trẻ nữa. “Sao vậy, bé con? Tại sao lúc này cháu lại buồn thế?” Cô bé quay mặt đi để giấu những giọt nước mắt, nhưng tôi thấy đôi vai nó rung lên vì thổn thức. “Sao cháu lại khóc?” Tôi vòng tay quanh người cô bé, ôm nó vào lòng, cảm nhận thân hình nó, chạm vào hai bờ vai tròn của nó. Cô bé giơ tay lên, úp hai lòng bàn tay che lấy mặt. Cô bé nói: “Bởi vì ngài sắp chết, ngài sắp ra đi và cháu chỉ còn lại một mình ở đây với những người cháu ghét.” Tôi gắng nói với nó: “Nhưng cháu ở với mẹ mà, cháu không ghét mẹ.” Cô bé không nghe tôi nói. Nước mắt vẫn lã chã rơi làm tóc dính bết vào miệng. Nó đặt nắm tay lên mí mắt để ngăn nước mắt trào ra. “Ánh mắt ngài thật buồn, cô bé nói rành rọt. Ánh mắt ấy nói với cháu rằng ngài sẽ chết, hoặc sẽ đi thật xa.” Đúng lúc ấy, tôi bỗng cảm thấy mình tươi mới, dường như tất cả những năm tháng tôi đã không sống đều được dung thứ, cuốn bay theo gió. Nhờ những giọt nước mắt của một cô bé mười ba tuổi. Tôi ôm June chặt hơn một chút, quên đi mình là ai, cô bé là ai, nó một đứa trẻ, còn tôi một ông già. Tôi siết chặt June đến nỗi xương cô bé kêu răng rắc. “Ái, ái!” Cô bé không kêu to, mà chỉ khẽ nói, và tôi hôn lên trán nó, gần mái tóc bù xù hoang dã, tôi hôn lên chỗ gần môi, để cảm nhận những lọn tóc ướt đẫm, để nếm những giọt nước mắt của cô bé, đó là chất rượu thần của tuổi xuân tôi. Và thế đấy, tôi không yêu cầu mà bỗng nhiên hai chúng tôi bắt đầu nói về Chúa. Ngài Kyo, chắc chắn là không tin vào Chúa rồi. Ông thậm chí còn không muốn nhắc đến tên Chúa. Ông bảo: “Tại sao, chẳng lẽ lại có thứ gì chăng? Tại sao, chẳng lẽ tất cả những thứ này, trái đất, động vật và con người, biển cả, như vậy vẫn chưa đủ hay sao?” Tôi chẳng biết trả lời thế nào, tôi không biết gì về cuộc sống. “Nhưng ngài không cảm thấy bên trong mình có cái gì đó khác ư? Còn cháu thì thấy, nó là một cục tròn nhỏ, ấm nóng ở bên trong cháu, ở đây, phía trên rốn, ngài không cảm thấy sao?” Trước khi ông kịp cười nhạo, tôi đã cầm lấy tay ông và đặt nó lên bụng mình, đúng vào chỗ ấy. “Ngài hãy nhắm mắt lại. Hãy nhắm mắt lại và ngài sẽ cảm nhận được cục nóng đó.” Ông đã làm như vậy, ông nhắm mắt ngồi yên, và tôi cảm thấy hơi ấm đi từ bụng mình đến lòng bàn tay ông, rồi quay trở lại. Tôi vô cùng chắc chắn là ông sẽ thấy được Chúa. Tôi vô cùng hạnh phúc khi ông không còn niềm ưu uất, nỗi tuyệt vọng. Tôi vô cùng tự hào vì đã tặng ông món quà ấy. Bây giờ thì ông không thể quên nó được nữa. Ngay cả khi chúng tôi có trở thành những người xa lạ với nhau, thì ông cũng sẽ nhớ mãi khoảnh khắc này, khi lối đi ấy đã mở ra tới chỗ ông, đi đến tận trái tim ông. Ông đã xúc động, tôi nghĩ vậy. Ông rụt tay về, nhưng không nắm lại, ông đặt tay lên đùi như thể bàn tay ấy vẫn đang chứa đựng hơi ấm từ bụng tôi. “June này, ta chỉ tin vào những gì mình nhìn thấy, ta là như vậy đấy.” Ông vẫn mang bộ mặt u tối, đôi mắt vô hình. “Có lẽ ta đã quá già để thay đổi rồi.” Tôi lại cầm lấy bàn tay ông, chỉ để siết chặt nó trong tay mình. “Nhưng ngài đã cảm thấy, đúng không? Ngài đã cảm nhận thấy điều đó trong mình phải không?” Ông không trả lời. Ông không thể nói ra. “Ta cảm thấy những gì bên trong cháu, nhưng ta không tin vào điều gì khác ngoài cháu, June ạ. Ta nói với cháu rồi, ta đã già và chai sạn, đừng cố bắt ta phải nói ra điều ta không thể nói.” Ông tiếp lời, giọng nhỏ nhẹ, từng từ một. “Nhưng còn cháu... Cháu là một cô bé tốt... Cháu chân thật... Ta tin những gì cháu nói... Ta tin cháu biết những điều ấy... Cháu đã được chọn, đúng vậy, được chọn cho những điều ấy.” Ông ở rất gần tôi, gần hơn bất cứ người nào hết, thậm chí là mẹ tôi hay mục sư David. Như thể ở ngưỡng cửa, chỉ cần một bước nữa thôi. Nhưng đúng lúc ấy, tôi biết ông sẽ không làm thế, ông sẽ không bước qua cánh cửa. Ông đã nói ra điều đó: “Ta ở phía xấu xa của thế giới, June ạ. Ta sẽ chẳng bao giờ đứng cùng phía với cháu.” Tôi nói nhỏ mà không nhìn ông. Có lẽ là để ông hiểu, hay có lẽ để tôi nhớ kỹ hơn. “Cháu chưa kể chuyện này với ai, không ai khác ngoài ngài. Nhưng ngài không bao giờ được nhắc lại chuyện này, cũng không được chế giễu cháu, ngài hứa chứ?” Ông gật đầu. Có lẽ ông nghĩ rằng tôi sẽ kể cho ông nghe những câu chuyện nhỏ ngọt ngào mà bọn trẻ con đôi khi bịa ra để dỗ dành người già. “Chuyện này xảy ra trong nhà thờ, sau khi hát xong, cháu ở lại một mình, mọi người đã về hết, cả mẹ cháu cũng vậy. Cháu đã hát trong đội hợp xướng, và cháu ngồi trên ghế của mình, cháu lạnh, cháu cảm thấy cô đơn và buồn, và rồi lúc sau, ở đây, trong bụng mình, cháu cảm thấy hơi ấm nóng dần lên, nó chạy trong cơ thể cháu, cháu cảm nhận được cục nóng đó, cháu thấy mình đang trôi, cháu nhắm mắt và cảm thấy hơi nóng ấy tận sâu trong mình, rồi cháu không còn sợ nữa, cháu không còn cô đơn nữa, có một tiếng nói phát ra bên trong cháu, trong tâm trí cháu, nó chỉ nói toàn những gì cháu hiểu được, không phải là những từ ngữ thông thường, đó là tiếng nói chỉ dành riêng cho cháu, cho một mình cháu.” Tôi nhắm mắt, và dường như tôi vẫn nghe thấy tiếng nói ấy, ở đó, bên bờ biển. Đó là một giọng nói không trầm không bổng, một giọng lao xao, vo ve. Tôi những muốn Ngài Kyo nghe thấy tiếng nói ấy, nếu nghe thấy nó, chắc ông sẽ không bao giờ còn như trước nữa. Liệu ông có nghe thấy không? Phải chăng là tôi đang nói? Tôi đặt tay ông lên bụng mình, bàn tay to và khỏe của ông, và giọng nói ấy chắc sẽ đi qua những ngón tay dài, qua lòng bàn tay mở ra, bàn tay ông hẳn có nghe thấy giọng nói đang thì thầm những lời rung động, những lời chậm rãi và nặng trĩu, những lời sẽ không chấm dứt. Ông là người duy nhất biết bí mật của tôi, tôi chưa từng nói chuyện này với mẹ hay bất cứ ai, chưa từng kể với mục sư. Nhưng còn ông, Ngài Kyo, ông đang đứng bên bờ, chỉ cần bước một bước nữa thôi là mọi thứ sẽ thay đổi. Có một lát, tôi thấy dường như ông đã nghe thấy tôi, rồi ông rụt tay lại, và nhích ra xa. Ông sợ những gì thiên hạ sẽ nghĩ nếu họ nhìn thấy chúng tôi, bàn tay ông đặt trên bụng một cô bé mười ba tuổi. Ông đã tránh ra, mặt tối sầm, đôi mắt không ánh sáng. Ông bảo: “Ta không thể, June ạ. Ta không phải là người tốt. Ta không thể là người mà cháu mong đợi, ta chỉ là một người như bao người khác.” Ông đã lùi lại, lưng dựa vào một mỏm đá. Ánh hoàng hôn như một đám sương mù giăng xuống mặt ông. Vào ban đêm, con người ta không còn là chính mình, điều đó tôi đã hiểu ra từ lâu, khi cái gã ấy đến ở nhà chúng tôi, và mẹ tôi cùng gã thì thầm những lời ngọt ngào. “Rồi cháu sẽ sống cuộc đời của cháu, cháu sẽ rời khỏi đảo này và đi ra thế giới. Cháu sẽ quên ta, sẽ quên tất cả, cháu sẽ trở thành một người khác, June ạ.” Những lời ông nói khiến tôi rất đau lòng. Những lời ấy đâm xuyên qua người và cắm sâu vào tim tôi. Tại sao ông không lắng nghe tôi? “Tại sao ngài không tin cháu? Cháu...” Nhưng nước mắt ngăn tôi thốt nên lời. Ông nhoài tới định ôm tôi vào vòng tay, nhưng tôi không muốn nữa. Không bao giờ muốn nữa. Tôi không cần sự âu yếm của ông. Tôi không phải là con bé đã làm hỏng mất đồ chơi, tôi không phải là người phụ nữ si tình bị người ta bỏ rơi. Muốn vậy, ông chỉ cần tới gặp cô dược sĩ của ông. Đây là chuyện khác, thế mà ông đã không hiểu gì hết. Tôi bỏ chạy, hướng về phía nhà mình. Tôi chạy ngược sườn dốc lên mạn cao của đảo, tôi muốn hét lên: “Cháu ghét ngài!” Tôi muốn chết. Lũ chó sủa trong những ngôi nhà, trời đã tối, đèn đã thắp, vài chiếc xe hơi từ từ lướt qua. Chúng tôi đã có một đêm bên nhau. Đừng nghĩ rằng chúng tôi là tình nhân rồi mọi chuyện. Tranh thủ lúc mẹ đang bận bịu với gã bồ, tôi nhảy qua cửa sổ và chạy băng qua những cánh đồng đến tận bờ biển, nơi Ngài Kyo dựng chiếc lều quân dụng nhỏ. Khi trời không có gió, và biển lặng, ông tới ngủ ở đó, để nghe tiếng sóng vỗ. Ông không biết là tôi sẽ đến, nhưng không có vẻ ngạc nhiên khi tôi dừng chân trước cửa lều. Tôi không biết ông có uống gì không, nhưng ông có vẻ vui, ông mỉm cười. “Vào đi, ông nói, cháu không muốn đứng mãi ngoài đó đấy chứ?” Bên trong lều rất nhỏ, với một cái mái thấp tè. Các mặt lều đính những loại túi may bằng vải chống muỗi. Khi ngồi xuống đất, không khí nhẹ nhàng lưu thông, và ta nghe được mọi âm thanh của biển. Mái lều đung đưa trong gió. Đêm nay, trời có trăng và nhiều sao, một ánh sáng mờ êm dịu chiếu vào bên trong lều. Thật dễ chịu, tôi không muốn nói chuyện. Chúng tôi ngồi yên, với cửa lều mở khẽ va đập trong gió, lắng nghe và nhìn ngắm. Tôi nghe tiếng tim mình đập trong lồng ngực, chậm, thật chậm. Tôi cũng nghe thấy cả tiếng thở của ông, lướt qua thật sâu, ra vào chuyển động như những con sóng. Thật dễ chịu, tôi không muốn động đậy. Tôi muốn cứ thế này mãi, cho tới sáng. Để lắng nghe và cảm nhận đêm tối, biển cả, gió, mùi của cát và tảo biển, tiếng nhịp tim tôi và hơi thở của Ngài Kyo, cho đến cuối, đến sáng mai. Tôi không muốn ngủ. Có lúc, Ngài Kyo đi ra ngoài, bước về phía những đụn cát. Tôi nghĩ ông đi tiểu ở nhà vệ sinh công cộng. Rồi ông trở lại, mang khuôn mặt ướt đẫm nước biển. Đến lượt tôi đi ra tận bờ, tôi cởi giày và lội xuống biển, còn ông ở bên tôi. Tôi còn đang ngập ngừng thì ông đã bế tôi lên và cùng tôi bước đi trong biển. Tôi cảm nhận nước biển đang ấm lên trong ống quần, dưới lớp áo thun của mình. Ông lội nước đến ngang người. Bãi biển nhợt nhạt dưới ánh trăng, nhưng dưới nước có rất nhiều con cá trong suốt đang lượn quanh chúng tôi. Khi trở lại lều, tôi run lên vì lạnh. Ngài Kyo đã giúp tôi cởi quần áo, rồi chà xát khắp người để sưởi ấm cho tôi. Tôi nhớ đôi tay to lớn của ông xoa trên lưng, trên vai tôi. Một lúc sau, tôi buồn ngủ, tôi cuộn mình trong chiếc khăn tắm và nằm sát bên ông, hai tay choàng qua người ông. Tôi không ngủ, nhưng cứ nằm yên như vậy, mắt mở to, không chờ đợi. Nhiều giờ trôi qua, trăng đã lẩn sau những đám mây, nước biển dâng lên gần cửa lều đến mức tôi cảm nhận được mùi của nó. Tôi chưa từng trải qua điều gì như vậy. Tôi đã quay về một thời gian khác, thời bố mẹ tôi yêu nhau. Được bế trong vòng tay người đàn ông này, tôi nhẹ lướt vào thời gian ấy. Có lúc, không hiểu vì sao, tôi quay mặt về phía ông. Ngài Kyo cúi xuống tôi, khuôn mặt u tối không thấy rõ. Nhưng đôi mắt ông sáng rực, đôi mắt ấy nhìn tôi, nghiến ngấu tôi. Tôi đã rùng mình, vì sợ hay vì tức giận, tôi cũng không biết nữa, nhưng ông giữ chặt tôi trong tay, và tôi giấu mặt đi để không nhìn thấy ông nữa. Thế rồi, sáng ra, tôi vội vàng mặc quần áo và chạy một mạch qua những cánh đồng chìm trong sương mù. Ngài Kyo đã già rồi. Ông cần tôi. Tôi quyết định kể từ hôm nay, ông sẽ là người đàn ông của đời tôi. Tôi biết các người sẽ nói gì. Khoảng cách đến như thế về tuổi tác giữa ông và tôi khiến ý tưởng này trở nên ngớ ngẩn, điên rồ và bất khả. Đúng là như vậy, đúng là có sự chênh lệch ấy, chính xác là bốn mươi lăm tuổi. Nhưng khi tôi nói ông sẽ là người đàn ông của đời tôi, tôi không có ý là mãi mãi. Có điều gì tồn tại mãi mãi được không? Ngay cả cây cối cũng không tồn tại mãi được. Ngay cả những vì sao. Thầy giáo khoa học của chúng tôi đã nói như vậy: “Những ngôi sao mà các em nhìn thấy trên trời ở xa đến mức một số ngôi đã chết mà ánh sáng chúng phát ra vẫn tiếp tục đi tới trái đất trong hàng triệu năm nữa.” Tôi thừa biết Ngài Kyo rồi sẽ chết. Một hôm, trong khi đang ngắm biển và những con sóng, ông đã thổ lộ với tôi điều này: “June à, cháu không nên yêu ta, bởi vì ta là một người chết đang hưởng án treo.” Thấy tôi có vẻ không hiểu, ông nói thêm: “Ta đã chết từ lâu rồi, ta đã gây ra một chuyện khủng khiếp, và không thể sửa chữa được. Mọi thứ ta nhìn thấy đều nói với ta về cái chết, cháu có hiểu không?” Tôi đáp: “Cháu không biết tại sao ngài lại nói như vậy, sự sống là một quà tặng cơ mà.” Ông nói: “Hãy nhìn biển mà xem. Nó dường như đang sống, nó di chuyển, chứa đầy tôm cá và sò ốc, mẹ cháu là một người đàn bà của biển, hằng ngày bà mò lặn dưới đó để cháu không phải chết đói. Nhưng biển cũng là một vực thẳm nơi mọi thứ biến mất, nơi mọi thứ bị lãng quên. Bởi vậy ta thường ra bờ biển mỗi ngày, để ngắm biển, để không quên, để biết rằng ta phải chết và biến mất.” Tôi ghi nhớ lời ông nói. Đó là những bài học thật nhất mà tôi từng được nghe. Không ai nói điều này ở trường hay nhà thờ cả. Người lớn không ngừng kể những điều dối trá. Họ cả quyết như đinh đóng cột điều mình nói, nhưng họ nói dối, họ chẳng biết gì. Ngài Kyo là người nói thật. Ông không tìm cách tô vẽ cuộc sống. Ông không ngọt ngào. Ông đắng và mạnh như cà phê. Giờ đây tôi mang vị cà phê trong miệng, vị đắng ấy, và tôi không thể sống thiếu nó. Chính Ngài Kyo đã ban tặng nó cho tôi, vào cái đêm tôi nằm nép vào người ông dưới mái lều. Bây giờ, khi tan học, tôi không còn đi cùng với bọn trẻ vào tiệm tạp hóa mua kẹo mút hay kem que. Tôi tới quán cà phê-pizza của một anh chàng đồng tính, như người ta đồn, nhưng tôi thây kệ, anh ấy là người tử tế và phục vụ tôi một tách cà phê đen mà không hỏi han gì. Khi tôi kể chuyện này với Ngài Kyo, ông mỉm cười: “Đồ uống đó không dành cho trẻ con!” Tôi đáp lại cộc cằn: “Nhưng cháu có còn là trẻ con nữa đâu!” Tôi không nói cho ông biết quyết định của mình, rằng ông sẽ là người đàn ông của đời tôi. Tôi không muốn đột ngột hấp tấp vì ông dễ phát hoảng. Có thể thực ra ông là người rụt rè, có thể ông sợ người đời đàm tiếu. Không, tôi không nghĩ vậy. Ngài Kyo thờ ơ với chuyện ngồi lê đôi mách, với điều đồn thổi, với mọi lời độc mồm độc miệng. Ông quả cảm. Vả chăng, ông từng là lính. Ông không kể với tôi như vậy, nhưng tôi hơi ngờ chuyện đó. Cách ông đi, đứng. Luôn thẳng băng, cả ánh mắt cũng vậy, cái cách ông đột ngột nhìn ta chằm chằm, không chớp mắt như thể muốn đọc suy nghĩ của ta, hay cân nhắc trong đầu ý nghĩa lời nói của ta. Cho nên mọi người sợ ông, họ dè chừng. Bố tôi cũng là lính, mẹ không muốn kể nhưng tôi tin chắc như vậy. Bố là lính, bố gặp mẹ rồi họ yêu nhau. Bố không bỏ tôi, không đâu, ông không thể làm việc đó được, có chuyện gì đó đã xảy ra với ông rồi ông chết, và thinh lặng bao phủ lên ông. Người duy nhất Ngài Kyo giao du là cô dược sĩ, như tôi đã nói, cô ta thuộc loại đàn bà thích ăn tươi nuốt sống đàn ông và bắt họ làm nô lệ, nhưng cô ta không thể làm thế với Ngài Kyo vì tôi đã quyết định ông thuộc về tôi. Chắc chắn cô dược sĩ có lợi thế (nhất là nếu ông cần đến thuốc men) nhưng cô ta không thể chăm lo cho Ngài Kyo tốt như tôi được. Vả chăng, trước đó, vào một chiều mưa, chúng tôi trú trong lều, trên bãi biển vắng bóng du khách. Ông buồn và ủ rũ quá nên tôi bắt đầu xoa bóp cho ông, mà không cần xin phép. Tôi biết cách xoa bóp. Hồi nhỏ, tôi đã tập xoa bóp cho mẹ. Buổi tối, khi đi biển về, mẹ đau ê ẩm khắp người, mẹ nằm duỗi dài và bảo: “Con làm đi, càng mạnh càng tốt, chỗ này, này và này.” Ngài Kyo bị bất ngờ nhưng để mặc tôi làm. Ông cởi chiếc áo vest đen ra, và tôi xoa bóp lưng ông qua lần áo sơ mi. Tôi quỳ bên trên người ông và đưa ngón tay dọc theo các bắp thịt, hai bên cột sống, trên gáy, tới tận chân tóc ông. Chúng tôi trú trong lều, bóng tối dần buông. Tôi cho rằng Ngài Kyo đã ngủ thiếp đi, vì ông đã nằm nghiêng người trên cát, và tôi cảm thấy hơi thở của ông trở nên êm ả hơn. Tôi nghĩ khi xoa bóp cổ và đầu tôi đã có thể lôi ra những suy nghĩ u tối, chết chóc trong ông, nắm bắt chúng trong tay, rồi chúng đã bị gió cuốn đi và tan vào biển. Trời đã tối hẳn, một đám sương mù màu trắng chia cắt bầu trời, ánh nắng vẫn còn kéo một vệt lớn phía chân trời. Qua cửa lều, tôi ngắm biển và trời rồi thầm nghĩ mình có thể ở bên Ngài Kyo mãi mãi, ban đầu làm con gái ông, rồi mai này khi lớn lên có thể thành vợ ông. Ý nghĩ ấy làm tôi vừa lòng dù tôi không thể thổ lộ với ông ngay. Tôi tưởng tượng sẽ đánh thức Ngài Kyo và cho ông hay: “Cháu quyết định mai sau sẽ lấy ngài đấy.” Tôi mỉm cười với ý nghĩ ấy, mọi chuyện thành rõ ràng, tôi đã mất thời gian mới hiểu ra. Tôi tiếp tục xoa bóp, nhưng nhẹ nhàng hơn, để ông không tỉnh giấc. Nhưng chuyện không diễn ra đúng như vậy. Khi thấy trời tối, Ngài Kyo đứng dậy, khoác áo vest và đội mũ, ông kéo tay tôi để băng gấp qua cánh đồng về làng. Ông dắt tôi tới trước cửa nhà rồi bỏ đi, và tôi giận dữ vì tin chắc ông sẽ không quay lại khách sạn mà đi gặp cô ả dược sĩ. Đã thế, khi tôi vào nhà, Brown, gã bồ của mẹ, còn hỏi: “Mày chui rúc ở đâu?” như thể gã có quyền tra vấn tôi. Gã muốn ra vẻ quan trọng vì mẹ đang tới, mẹ vừa bước ra khỏi phòng ngủ, có vẻ giận dữ, mẹ lớn tiếng, tôi cũng hét lên nói rằng sẽ làm theo ý mình, mẹ đã tát tôi, đó là lần đầu tiên. Tôi xấu hổ tột cùng khi mẹ tát tôi trước mặt gã khốn ấy, tôi đi vào phòng nằm, tôi cuộn tròn trong chăn. Má tôi bỏng rát nhưng tôi đã quyết sẽ không bao giờ khóc nữa. Tôi ghét mẹ, tôi hận gã bồ hay tỏ vẻ quan trọng của mẹ, khi mẹ đi vắng gã nhìn ngực tôi không biết ngượng. Rồi tôi trèo cửa sổ ra ngoài và bước đi trong đêm tối. Lúc qua trước phòng ngủ, tôi nghe thấy tiếng mẹ nói và giọng của gã khốn kia, rồi tiếng khóc nức nở, toàn diễn trò. Gã hẳn đang ra sức an ủi mẹ, vuốt tóc, rồi sau đó tôi biết mọi chuyện kết thúc như thế nào, đúng ra tôi những mong mình đừng biết thì hơn, những tiếng thở dài rồi tiếng “à hà hà” rồi “hừm” - chính gã tạo ra thứ âm thanh đó bằng mũi, như thể gã dùng tay bịt để hỉ mũi. Từ lúc gã tới ở nhà chúng tôi, tôi có thói quen đi dạo vào ban đêm mà mẹ không hay biết. Tôi đi theo lối mòn nhỏ qua ruộng khoai, không bao giờ ra đường lớn vì ở đó có thể gặp những gã say, hay viên cảnh sát đi tuần. Tôi ra tới biển. Đêm đó không trăng, bầu trời lúc ẩn lúc hiện sau những đám mây. Tôi ngồi ngắm sao trong một hốc đá, gần nơi những người đàn bà của biển thay đồ. Tôi còn tìm được một bãi sỏi cát đen, và đào một hố nhỏ để tránh gió. Tôi ngắm trời, nghe biển. Sau vụ to tiếng với mẹ, tim tôi đập thình thịch. Tôi đợi bầu trời làm mình tĩnh tâm như mọi lần. Nhưng việc này tốn nhiều thời gian. Tôi dõi mắt theo những vì sao, chúng trượt ra đằng sau, mặt đất sa xuống. Tôi thấy chóng mặt. Tôi nghĩ rằng cả mình nữa, đêm nay mình có thể chết, thủy triều sẽ nuốt gọn xác mình, mọi người sẽ không tìm thấy gì của mình, thậm chí một chiếc giày cũng không! Tôi nghĩ đến người đàn bà mà Ngài Kyo nói tới, người mà ông tới đây tìm kiếm. Hình như chính cô ấy đang gọi tôi, sâu thẳm trong giấc mơ. Cô muốn tôi đến gặp cô dưới biển. Tôi nghĩ tới đôi mắt mở trừng trừng của cô gái to béo trắng toát, tới ánh mắt của cô. Tôi cảm thấy rùng mình, thấy một hơi thở lạnh lẽo, thấy thần Chết lướt qua. Tôi chưa từng cảm thấy điều này trước đây. Tôi không cử động nổi nữa, tôi bị hàng ngàn sợi dây, sợi tảo, sợi thừng tết bằng tóc cột chặt xuống bãi cát giống như Gulliver. Tôi nghe thấy tim mình đập, thấy người sởn gai ốc từ chân tới đầu. “Ngài, ngài ơi, sao ngài không ở đây?... Sao không trả lời cháu? Cháu xin ngài...” Tôi rên rỉ, tôi mong ông sẽ nghe thấy, ông sẽ xuất hiện giữa những mỏm đá, mặc bộ trang phục đen bất di bất dịch. Bầu trời bị che phủ, mưa khẽ rơi, tôi cảm thấy những giọt nước lạnh băng chảy trên tóc rồi thấm đẫm gáy tôi. Từ biển dâng lên một màn sương mù dày đặc mà những ánh đèn trên tàu câu mực chỉ lờ mờ rọi qua. Tôi nghe thấy giọng nói của những ngư dân trên mặt nước, một chiếc đài lạo xạo tiếng nhạc. Có thứ gì đó đang ngấm vào người tôi qua cát, qua nước mưa, qua biển, thứ gì đó tối tăm và buồn bã xâm lấn trái tim và chiếm lĩnh mọi ngóc ngách tâm trí tôi, tôi không rõ đó là gì, thứ gì đó thuộc về một người khác, một người đàn bà khác, một cái bóng, một hơi thở, một màn sương. “Cháu cầu xin ngài... cháu cầu xin ngài.” Tôi rên rỉ, tôi xoay trở trên cát để thoát khỏi cái bóng ấy. Giờ đây tôi nhớ lại, có lúc mình đã kêu lên. Trong đêm tối, tiếng kêu của loài vật, tiếng kêu của bò! “Ọooooo, ọoooooo!” Nó giống y chang chuyện tôi kể về người hóa bò lang thang đêm đêm trên trảng đất. Lũ chó rè rè giọng sủa đáp lời tôi, cả chúng cũng sợ. Tôi kêu lên, rồi lịm đi. Sớm hôm sau, chính bà lão Kando tìm thấy tôi. Hình như tôi lạnh toát và trắng nhợt nên bà đinh ninh tôi chết trôi dạt vào bờ. Bà cho tôi uống rượu khoai của bà, chà xát hai gan bàn tay và má tôi cho tới lúc tôi mở được mắt. Bà nói chuyện với tôi, nhưng tôi không hiểu được thổ ngữ, nhất là bà còn khuyết răng cửa nữa. Những người đàn bà khác của biển lần lượt tới, mang theo xe đẩy và đồ bơi. Tôi nghĩ họ đang tính cho tôi ngồi vào một chiếc xe đẩy về làng, nhưng tôi đã tỉnh lại và bảo rằng mình ổn, rồi loạng choạng đi về. Trên đường đi, mẹ đã được tin, mẹ ôm choàng lấy tôi, nhưng tôi cao lớn hơn nên hai mẹ con âu yếm ôm chặt lấy nhau cùng đi về nhà. Gã khốn đã bỏ đi, gã nên làm thế thì hơn. Tôi ngủ cả sáng, buổi chiều Ngài Kyo tới. Đây là lần đầu ông tới nhà. Ông mặc bộ com lê đen, còn mẹ tôi cung kính tiếp ông, như thể ông là một thầy giáo hay thanh tra. Ông còn để lại danh thiếp, mẹ đặt trên bàn, sau đó tôi đọc được, thật lạ, nó dường như là tên của một người khác: PHILIP KYO Nhà văn - nhà báo Tôi thầm nghĩ sau này có thể dùng nó để trêu ông, hoặc để chơi trò dịch chuyển, đến lượt ngài đến lượt cháu. Mẹ trang trọng mang trà và bánh quy ra, ông nhấp môi uống trà nhưng không đụng tới bánh. Ông trầm mặc và lịch sự như thường lệ. Ông hỏi mẹ về việc lặn bắt bào ngư, liệu ông có thực sự quan tâm tới việc này hay chỉ làm ra vẻ thế? Tôi thích thú khi người lớn bối rối, khi họ không biết nói gì. Bởi tôi biết rõ mẹ muốn hỏi ông điều gì. Ý định của ông thế nào, ông muốn làm gì với tôi, liệu ông có chăm lo cho tương lai của tôi không? v.v., mọi thứ mà người mẹ thường đòi hỏi cho đứa con gái, còn ông không muốn trả lời, dù sao chắc ông cũng không biết nói gì, bởi ông vẫn chưa biết chúng tôi sẽ ở bên nhau cả đời, và dĩ nhiên ông không là cha tôi, nhưng lại quá già để làm chồng tôi. Dù gì, mẹ vẫn hỏi xem ông ở đảo tới khi nào, ông lạnh lùng trả lời: “Không lâu nữa. Tôi cảm thấy mình sẽ không ở đây lâu được.” Ông dửng dưng nói những lời đó, và tựa như hàng ngàn nhát dao đâm vào tim tôi, tôi nghĩ mình đã tái mặt đi, tôi đứng dậy rồi chạy vào phòng lẩn trốn, tôi xấu hổ vì sự yếu đuối, hèn nhát của bản thân. Cùng lúc đó còn là sự phản bội, bởi vì mới đây thôi Ngài Kyo còn nói với tôi là muốn được chết ở đây, nhưng tất cả đã bị quên lãng, hoặc đó chỉ là lời nói suông. Nhưng tôi không muốn ông thấy tôi xúc động, tôi vốn ghét thể hiện cảm xúc của bản thân, nhất là những cảm xúc yếu đuối và hèn nhát. Mẹ ngồi nói chuyện với Ngài Kyo một hồi, tôi tưởng tượng mẹ xin ông thứ lỗi cho tôi, nói rằng tôi rất mệt, và mong ông đừng phật ý. Rồi mẹ mở cửa phòng tôi và bảo: “Thầy giáo sắp về, con không chào thầy à?” Với mẹ, cứ người già và thanh lịch thì đều là giáo viên. Tôi không đáp lời, nhưng trước khi về, Ngài Kyo có nói: “Không việc gì đâu, chị đừng làm phiền cháu.” Như thể mọi sự chỉ là chuyện xã giao. Mẹ tiễn ông ra cổng, tôi nghe giọng mẹ vui vẻ nhưng lạc điệu: “Xin cảm ơn thầy, cảm ơn, chào thầy ạ.” Còn tôi nghĩ ông đã cho mẹ tiền nên mẹ mới cảm ơn bằng cái giọng khúm núm kỳ cục như thế, lảnh lót hơn bình thường, không hề giống giọng mẹ lúc mẹ tát tôi. Ngay lúc ấy, tôi không nói gì, nhưng sau một hồi tôi nhìn thẳng vào mắt mẹ. “Ông ấy cho mẹ tiền phải không?” Thay vì trả lời, mẹ làm bộ hiền từ: “Chúng ta thật là may, Chúa đã nghe thấy lời cầu nguyện của mẹ con mình và phái thầy giáo tới giúp con.” Tôi hiểu mẹ ám chỉ bài giảng đạo của mục sư David. Chủ nhật vừa rồi ông có kể câu chuyện về chiến tranh, khi không còn gì để ăn, nhưng người ta phải tổ chức một ngày lễ hay một đám cưới gì đó, tôi không rõ nữa, người dân cầu nguyện, rồi đột ngột có người gõ cửa nhà thờ, đó là nhà hàng gà quay gửi tới năm mươi suất ăn hộp, có thịt gà và khoai tây chiên, thậm chí cả tương ớt và Coca, mọi người được ăn uống thỏa thích, và người ta còn cho cả ăn mày những phần thừa nữa. Tôi hỏi mẹ: “Ông ấy cho mẹ bao nhiêu?” Mẹ vẫn không trả lời, nhưng bảo tôi phải nghe lời khuyên của ông và phải đến trường rồi sau đó học đại học để có địa vị cao. “Nhưng nếu con muốn làm người lặn bắt bào ngư thì sao?” Tôi chực gào lên, nhưng mẹ không chịu tranh cãi. Tôi giận tới mức nghĩ rằng sẽ không bao giờ gặp lại cái Ngài ấy nữa. Bóng đêm tràn ngập đảo. Tối tối, hết vũng này tới vũng khác, hết vết nứt này tới vết nứt khác. Bóng đêm từ biển ra, lạnh và âm u, hòa trộn vào sự sống ấm áp. Với tôi dường như mọi sự đã đổi thay, mọi sự đều chất chứa bóng tối và hao mòn. Hằng ngày tôi ra bờ biển sau giờ học. Tôi không biết mình đang tìm kiếm điều gì. Dường như tôi không còn học được gì ở người lớn nữa. Tôi biết điều họ sắp nói ngay cả khi họ chưa mở miệng, tôi đọc được trong mắt họ. Lợi ích, chỉ có lợi ích mà thôi. Chuyện tiền nong, của cải, tình dục, những thứ người ta sở hữu. Có một bí mật trong lòng biển, một bí mật mà có lẽ tôi không nên khám phá, nhưng mỗi ngày tôi lại tìm kiếm ráo riết hơn. Tôi thấy dấu vết, trong những hốc đá đen, trên cát, tôi nghe thấy những giọng nói lẩm bẩm. Tôi bịt tai lại để không nghe thấy nữa, nhưng tiếng thì thầm nhập vào tôi, choán đầy trí óc. Những giọng nói ấy bảo: hãy tới đây, hãy trở lại đây với chúng ta, lại đây với thế giới của ngươi, từ giờ trở đi nó thuộc về ngươi. Những giọng nói ấy lên tiếng, lặp lại không biết mệt, hết đợt này tới đợt khác: ngươi còn đợi gì nữa? Chúng còn trò chuyện với gió. Ban đêm tôi không tài nào ngủ được. Tôi trèo qua cửa sổ, tôi dạo bước trên trảng đất. Mới đây thôi, chắc tôi sẽ sợ chết khiếp. Chỉ một cái bóng, chỉ một bụi cây nhỏ cũng có thể khiến tôi rùng mình. Nhưng giờ đây tôi chẳng còn sợ nữa. Một người khác đã nhập vào tôi. Một người khác đã được sinh ra trong thân xác tôi. Tôi không biết đó là ai, không biết sự thể diễn ra thế nào. Từng chút, từng chút một mà tôi không hay biết. Những người khác không biết. Ở trường, Jo vẫn lăng nhục tôi, nhưng khi tôi nhìn nó thì nó lảng mắt đi chỗ khác. Qua gương tôi phát hiện ra một tia sáng màu xanh lục ở tròng đen mắt mình, một tia lạnh lẽo. Những điểm đen của đồng tử mắt tôi ngập trong một thứ nước lạnh băng. Màu nước biển mùa đông. Vì thế thằng Jo sợ ánh mắt tôi. Khi tôi soi gương, tim tôi bắt đầu đập nhanh và mạnh hơn, vì đó không phải đôi mắt của tôi. Tôi cảm thấy mình già, cảm thấy mình nặng nề và xấu xí, tôi không chạy được như trước, không còn nhảy qua bờ ruộng được nữa. Thêm vào đó, tới kỳ kinh nguyệt, tôi có cảm giác chướng bụng. Tôi ngồi trong sân trường, trên ghế băng, dưới ánh nắng, và xem bọn con gái con trai chạy tán loạn, xô nhau nô đùa, tán tỉnh nhau trong góc sân. Giọng chúng lanh lảnh. Giọng ấy phát ra những tiếng kêu của loài vật. Còn tôi, giọng trở nên trầm, nó làm tôi rát cổ họng. “Trò bị sao vậy? Trò ốm à?” Đó là thầy Andy, giám thị tôi rất quý, thầy cao và gầy, giống loài chim hay đậu lưng bò. Thầy đứng trước mặt tôi, thân hình mảnh khảnh chắn ánh mặt trời, cứ như một thân cây nhỏ. Tôi không biết nói gì. Tôi đáp với giọng khó chịu: “Thầy đừng che mất nắng của em.” Khi về nhà, sau giờ học, tôi không trò chuyện với ai. Mẹ nhìn tôi bằng ánh mắt lạ lùng, tôi không biết mẹ giận dữ hay lo lắng. Có thể mẹ sợ tôi thay đổi giới tính! Hình như Ngài Kyo đã tới nhà tôi hai lần. Ông có nói đến tương lai của tôi không? Tôi suýt đã hỏi: “Tháng này ông ấy cho mẹ bao nhiêu tiền?” Những người duy nhất tôi còn tới thăm là những người đàn bà của biển. Đặc biệt là bà lão Kando. Tôi đi bộ ra tận chỗ túp lều, ngồi xuống nền xi măng ẩm ướt và tôi đợi họ nhô lên từ biển. Rốt cuộc, tôi cho rằng họ đã chấp nhận tôi, dù tôi là người ngoại quốc. Thỉnh thoảng họ cho tôi lặn cùng. Tôi chui vào bộ đồ lặn cao su, hơi rộng bụng và mông, nhưng vẫn ổn, tôi đeo đai lưng giắt chì, đeo mặt nạ che mắt và miệng, rồi trườn xuống nước lạnh. Ngay lập tức tôi có cảm giác bị dòng nước túm lấy, tôi trườn xuống đáy biển cùng các bà. Tôi dùng tay không gỡ sò ốc, sao biển, tôi bỏ chúng vào một túi lưới nhỏ. Thinh lặng ép chặt tai tôi, một sự thinh lặng êm mượt như nhung, đầy tiếng thì thầm. Tôi ngắm những dải tảo đen dập dờn, những tia sáng lấp lánh ánh bạc của những đàn cá. Tôi nghĩ tới Ngài Kyo ngồi hàng tiếng đồng hồ và chẳng câu được gì, thật buồn cười. Lẽ ra ông nên thử xem, tôi tưởng tượng ông đang lặn biển trong bộ com lê đen, với mũ lưỡi trai và đôi giày đánh xi! Tôi để sóng cuốn mình đi, tay dang ra, mắt mở to, bất động, nín thở. Tôi đã học được cách ở dưới nước quá một phút mà không phải ngoi lên, và khi nhô đầu khỏi nước, tôi ngửa cổ và bật ra tiếng kêu, đó là tiếng kêu của tôi, không người nào khác kêu tiếng kêu của tôi, eeeaarh- yaaarh! Mấy bà già trêu tôi, họ bảo tôi rống như bò! Tôi thôi học. Học để làm gì chứ? Tất cả việc ta làm ở trường là ngồi hàng giờ liền, giả vờ lắng nghe và ngủ mở mắt. Trẻ con, toàn là trẻ con thôi. Ngay cả Jo cùng mớ trò hề của nó, vẻ độc ác, mấy câu lăng nhục nhỏ mọn thảm hại của nó. Một hôm, nó ném đá vào người tôi lúc tan học. Tôi quay lại nhìn và nó hét lên: “Mày, con điếm, đi gặp lão người Mỹ của mày đi!” Tôi tiến về phía nó và nó sợ hãi, nó vốn cao hơn tôi hẳn một cái đầu, vốn khoái giật tóc và dúi đầu tôi xuống sát đất, nó sợ một đứa con gái cao chưa tới vai mình và nặng chỉ bằng một nửa. Nó lùi lại. Bộ mặt chó đáng ghét của nó tỏ vẻ sợ sệt. Lúc đó tôi hiểu ra rằng tôi không còn là tôi khi trước nữa. Giờ đây tôi mang khuôn mặt của Ngài Kyo, khuôn mặt lúc ông giận dữ, bất động, xám ngoét, lạnh băng, với đôi mắt như hai khe nước màu xanh lục, đôi mắt giống như thủy tinh được biển mài nhẵn. Tôi tiến về phía thằng kia, và rốt cuộc nó bỏ chạy, chuồn mất ở chỗ đường rẽ ngoặt, chính hôm đó tôi quyết định sẽ không trở lại trường nữa, và sẽ trở thành một người đàn bà của biển. Tôi hãnh diện về quyết định này, nhất là việc có một diện mạo mới, thế nên tôi đi một mạch về nhà, nhưng mẹ không ở đó. Chỉ có gã bồ của mẹ, tôi nhìn gã bằng đôi mắt nước thủy tinh, nhưng gã ngà ngà say như mọi khi. Gã hỏi: “Mày về làm gì vào giữa trưa thế này? Lại trốn học hả?” Tôi đi qua trước mặt gã, thậm chí đẩy gã mà không thèm nói gì. Tôi thấy mình mạnh mẽ hơn gã, có thể tống gã trở lại chỗ của gã, trở lại công việc thảm hại của gã, trở lại quán rượu nơi gã chơi bài với lũ bạn say cùng hạng. Tôi đã vứt đồ dùng học tập lên giường, tôi đã thay y phục, tôi mặc quần áo mới, quần jean và áo phông đen, búi tóc rồi đi ra biển. Giờ đây tuổi thơ đã ở phía sau, tôi có thể lựa chọn đồ mình muốn mặc, đó là một bộ quần áo kiểu thành phố, trang trọng, có thể gọi là một bộ tang phục. Mọi người không nhận ra khi bắt gặp tôi, hẳn họ nghĩ tôi là một du khách muộn mằn của đợt nghỉ giữa mùa, một cô gái thủ đô, bị đuổi khỏi nhà giống như mẹ khi sinh tôi ra. Tôi không nói gì với Ngài Kyo. Tôi gặp lại ông ở chỗ quen thuộc, trên bờ kè. Ông không mang đồ câu. Ông mặc trang phục mà tôi không thấy quen, áo gió vàng, quần vải cũ, nhưng vẫn giữ đôi giày đánh xi. Tôi cho rằng ông không đi bộ được bằng dép tông. Ông đang ngắm mọi người cập bến phà, hàng đoàn ô tô, xe máy. Nhìn thấy tôi, ông nhoẻn miệng cười, lần đầu tiên, một nụ cười rạng rỡ bừng sáng gương mặt. “Ta không chắc là cháu sẽ đến, ông nói. Ta nghĩ cháu giận... Cháu không giận chứ?” Tôi không đáp lời. Nhìn thấy ông, đột nhiên oán hận lại trào lên, tôi lợm giọng suýt nôn. Chúng tôi đi bộ một hồi dọc theo bờ biển, đến tận bãi cát tôi từng ở qua đêm. “Sao ngài nói dối cháu?” cuối cùng tôi cũng cất lời. Nhưng tôi không biết ông đã nói dối ở chỗ nào. Tôi cảm thấy sự phản bội ở ông, tim tôi nhói đau. Ngài Kyo đáp: “Ta không nói dối cháu. Nếu ta bảo rằng cháu xinh đẹp thì đó là sự thật.” Ông không lắng nghe. Ông giễu tôi. Tôi có đòi ông dỗ ngọt đâu? “Ngài nói dối, nói dối, cháu biết. Cháu từng mong ngài là bạn cháu, nhưng ngài đã lừa dối cháu.” Đột nhiên, thay vì nói với tôi, ông bắt đầu chạy dọc bãi biển trên bờ cát rắn đanh vì nước triều đã rút. Ông chạy, quay lại, rồi chạy nữa, thành những vòng tròn nhỏ như một chú cún con. Thật lố bịch, không chấp nhận được. “Ngài dừng lại, dừng lại đi!” Tôi vừa kêu vừa dang tay chặn ông lại, nhưng ông né tránh rồi vừa chạy vừa cười. Tôi mệt quá nên ngồi luôn xuống bãi biển, hay đúng ra là buông mình, quỳ trên cát, tay buông thõng. Thế là ông dừng bước, quỳ xuống đằng sau tôi và vòng tay ôm lấy tôi. “Sao cháu khóc, June?” Miệng ông áp sát tai tôi, tôi cảm nhận được hơi thở ấm nóng của ông phả qua tóc tôi. Không xa lắm, có mấy người đi bộ trên bờ cát, trông giống những chú chim. Một cặp vợ chồng lớn tuổi, lũ trẻ con. Giọng họ vọng tới chỗ tôi đã nhỏ đi, mơ hồ. Chắc họ nghĩ tôi là một cô con gái lớn đang để cha dỗ dành. “Cháu không khóc,” tôi nói rành rọt. Tôi nhấn từng tiếng. “Cháu không khóc nữa, chỉ có trẻ con mới khóc.” Ông nhìn tôi không hiểu. Hay có thể ông hiểu điều tôi muốn nói và hài lòng với thay đổi ấy. Ông ngồi xuống bên tôi trên bãi cát rồi bắt đầu chơi trò dịch chuyển, như buổi đầu gặp gỡ. Ông dịch một cành tảo khô, một viên cuội đen, một mẩu nút bần, rồi nhường tôi thắng như mọi bận, tôi đã đặt một mẩu xương chim trắng muốt và nhẵn bóng, chắc chắn ông đã dành cho tôi mẩu xương kia để tôi thắng. Trong giây lát, tôi cảm thấy được trở lại là một bé gái, một đứa trẻ, đôi chút bối rối, mau cười mau khóc. Chúng tôi chạy cật lực trong gió dọc theo một mặt biển âm u màu xanh pha sắc trắng đục, trời đã trở lạnh, đông sẽ sớm về. Chúng tôi dừng lại trong một vụng cát, chính ông lại xoa bóp cho tôi, nhưng ông không rành việc này, tay ông khỏe và cứng quá, có lẽ vì trong nghề lính khi xưa, phải