🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bài Ca Sư Phạm - A. X. Makarenko full prc, pdf, epub [Tiểu thuyết] Ebooks Nhóm Zalo Tác Phẩm: BÀI CA SƯ PHẠM Tập 1 Tác giả: A. X. MAKARENKÔ NHÀ XUẤT BẢN: VĂN HÓA - VIỆN VĂN HỌC Năm xuất bản: 1962 Người dịch: HƯỚNG MINH dịch Scan sách: Chợ Sách Cũ Đánh máy: kaoaye, sao truc, haiauLucky, lilypham, tmrquan, annie_tuongminh, lathanhvien, Lynk_xu, picicrazy, huynhnhukim, lemontree123 Soát lỗi & Tạo prc: lemontree123 Nguồn: tve-4u.org Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Dịch theo bản dịch tiếng Pháp POEME PEDAGOGIQUE của Jean Chamenois (Nhà xuất bản Ngoại văn, Mạc-tư-khoa, 1953), có tham khảo bản dịch tiếng Trung-quốc của Hứa Lỗi Nhiên (Nhân dân văn học xuất bản xã, Bắc Kinh, 1959). Mục lục LỜI NÓI ĐẦU LỜI NGƯỜI DỊCH A. MAKARENKÔ (1888 – 1939) 1. NÓI CHUYỆN VỚI ÔNG GIÁM ĐỐC SỞ GIÁO DỤC 2. NHỮNG BƯỚC ĐẦU KHÔNG VINH QUANG CỦA TRẠI GORKI 3. ĐẶC ĐIỂM CỦA NHỮNG NHU CẦU CẦN THIẾT NHẤT 4. ĐẤU TRANH NỘI BỘ 5. VIỆC QUỐC GIA 6. CHIẾM ĐƯỢC CÁI THÙNG SẮT 7. XÂY DỰNG MỘT THẾ GIỚI THÌ CŨNG PHẢI CÓ ĐỦ MỌI THỨ” 8. TÍNH CÁCH VÀ VĂN HÓA 9. ”Ở ĐẤT UKREN VẪN CÒN CÓ NHỮNG TAY HẢO HÁN" 10. NHỮNG “CHIẾN SĨ GIÁO DỤC XÃ HỘI” 11. THẮNG LỢI VỀ CÁI MÁY GIEO HẠT 12. BRATSENKÔ VÀ ÔNG ỦY VIÊN CUNG CẤP LƯƠNG THỰC 13. ÔTXATSI 14. NHỮNG LỌ MỰC “TỎ TÌNH LÂN MỤC” 15. “ĐỨA CỦA CHÚNG TA ĐẸP NHẤT” 16. “CHÁO YẾN MẠCH” 17. SARIN ĐƯỢC TRẢ NỢ 18. "LIÊN MINH" VỚI NÔNG DÂN 19. RÚT THĂM 20. SINH SÚC VÀ NÔNG CỤ 21. NHỮNG LÃO GIÀ TAI HẠI 22. CHẶT CHÂN TAY 23. NHỮNG HẠT GIỐNG CHỌN LỌC. 24. CON ĐƯỜNG ĐAU KHỔ CỦA XÊMIÔN 25. MỘT LỐI SƯ PHẠM THẦY QUYỀN 26. NHỮNG QUÁI VẬT CỦA TRẠI THỨ HAI 27. CHINH PHỤC ĐOÀN KÔMXÔMÔN 28. MỞ ĐẦU TIẾN HÀNH KHÚC THẮNG LỢI PHỤ LỤC LỜI NÓI ĐẦU Antôn Xêmiônôvich Makarenkô, nhà giáo dục học vĩ đại của Liên-xô, xuất thân từ một gia đình công nhân. Cha mẹ ông đã phải chịu mọi sự thiếu thốn để cho ông theo học. Thầy giáo của ông, Kaminxki, một nhà giáo dục tiến bộ, khuyến khích ông theo nghề dạy học. Năm 17 tuổi, ông vào ngành giáo dục, dạy học ngay ở xưởng làm việc của cha. Học trò là con công nhân. Cuộc thí nghiệm giáo dục đầu tiên trong một tập thể công nhân - ở đó sau này xuất hiện khá nhiều chiến sĩ bônsêvích - đã đóng một vai trò quan trọng trong những quan niệm sư phạm của Makarenkô. Lúc đó là năm 1905. Năm 1905, ông viết, một tiếng sấm làm rung chuyển đất nước Nga. Ông đã tham gia những cuộc mít tinh biểu tình của công nhân, thường xuyên đọc tờ báo bônsêvích "Cuộc sống mới", được biết Maxim Gorki, mê say những tác phẩm của Lênin, nhất là cuốn "Tổ chức Đảng và văn học của Đảng". Năm 1914, Makarenkô vào học ở học viên sư phạm Pôntava và bắt đầu viết văn, làm thơ. Năm 1917, tốt nghiệp sư phạm, ông trở về thành phố quê hương dạy học. Năm 1920, vì tình hình phản cách mạng và sự can thiệp của nước ngoài, nước Nga bị tàn phá, đói rét, hàng ngàn trẻ lang thang trên các đường phố, bám vào các toa tàu, phá phách các chợ búa, nạn mãi dâm nghiêm trọng. Nhà tù đầy thanh thiếu niên phạm pháp. Làm thế nào cải tạo chúng, đưa chúng trở lại cuộc sống bình thường, tham gia vào xã hội mới? Makarenkô là một trong những nhà giáo dục được cử ra đảm nhiệm công tác nặng nề đó. Và ông là nhà giáo dục đầu tiên đã đặt vấn đề và giải quyết vấn đề theo những phương hướng độc đáo. Mùa thu năm 1920, Ty Giáo dục tỉnh Bôntapski ủy nhiệm Makarenkô thành lập một công xã lao động gồm các em phạm pháp chưa đến tuổi trưởng thành, mang tên công xã Maxim Gorki. Công xã này được mô tả lại trong tác phẩm "Bài ca sư phạm". Năm 1927, Makarenkô xây dựng một công xã lao động thứ hai, mô tả trong tác phẩm "Những ngọn cờ trên tháp". Năm 1934, Makarenkô trúng cử hội viên Hội nhà văn Xô Viết và năm 1938, tham gia lãnh đạo Ủy ban phụ trách các công xã lao động ở Ukren. Ông là một nhà văn có biệt tài, đại biểu cho chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Tháng 2 năm 1939, ông được tặng thưởng huân chương Lao động Cờ đỏ vì thành tích rực rỡ và thành quả trong việc phát triển văn học xô-viết. Những tác phẩm chính của Makarenkô gồm: Bài ca sư phạm, Những ngọn cờ trên tháp, Tiến hành khúc năm 1930, Cuốn sách của những người làm cha mẹ, và rất nhiều bài diễn giảng, những bài báo về giáo dục. Có thể nói trong nền giáo dục học thế giới, ngoài Usinxki ra, không có một nhà lý luận và một nhà hoạt động thực tiễn nào xuất sắc như Makarenkô. Những tác phẩm của ông được dịch ra hàng chục thứ tiếng trên thế giới. Hiện nay ở Liên-xô, toàn bộ tác phẩm của ông được ghi trong chương trình học của tất cả các học viện sư phạm, và có ảnh hưởng sâu sắc đối với toàn bộ hệ thống giáo dục của Liên-xô. Những tác phẩm của ông có tính tư tưởng và tính nghệ thuật cao chính vì ông đã miêu tả sâu sắc cuộc sống và chính ông đã tham gia tích cực vào cuộc sống đó. "Bài ca sư phạm” là một trong những tác phẩm của Makarenkô được người đọc ham thích nhất. Tác phẩm này cũng đã được dựng thành phim. Bài ca sư phạm là gì? Đó là bài ca chiến thắng của những quan điểm giáo dục macxi - Lêninit. Đó là thành công rực rỡ của Makarenkô trong việc cải tạo hàng ngàn trẻ lưu manh, tội lỗi, biến chúng từ chỗ là "cặn bã” của xã hội trở thành những công dân tích cực của xã hội xô viết: những người công nhân, những nhà sử học, nhà địa chất, nhà giáo dục, những kỹ sư, bác học, thầy thuốc, nghệ sĩ; nhiều người được thưởng huân chương, có người trở thành anh hùng xô-viết. Bài ca sư phạm thể hiện những quan điểm cơ bản nhất về giáo dục của chủ nghĩa Mác - Lênin. Có thể tóm tắt những quan điểm cơ bản đó như sau: Quan điểm thứ nhất, quan điểm quan trọng nhất của Makarenkô, là “ý niệm về con người, thái độ macxit đối với con người”. Có thể coi quan điểm này là quan điểm xuất phát, tư tưởng giáo dục chỉ đạo của ông. Đó là lòng nhân đạo xã hội chủ nghĩa đối với con người. Makarenkô nói: “Tất cả hệ thống giáo dục xô-viết nhằm thực hiện khẩu hiệu của Xtalin về sự săn sóc thương yêu đối với con người”. Theo ông, khái niệm "trẻ hư hỏng” là một điều vô nghĩa. Ông không công nhận có trẻ xấu từ lúc lọt lòng mẹ, có trẻ phạm tội mà không thể cứu chữa được."... Khoa sư phạm bình thường, hoạt động hướng theo một mục đích, sẽ biến đổi tập thể trẻ con thành một tập thể rất bình thường. Không có trẻ tội lỗi từ lúc lọt lòng, không có trẻ mới sinh đã mang tính xấu. Đối với tôi, theo kinh nghiệm bản thân, điều nhận định này được kiểm nghiệm đúng trăm phần trăm.”. Thái độ của ông là một thái độ lạc quan cách mạng. Chính những nhân vật của Maxim Gorki đã giúp ông có được thái độ lạc quan ấy. "Gorki lạc quan không những vì thấy trước một nhân loại sung sướng, không những vì thấy hạnh phúc trong dông tố, mà còn vì đối với Gorki mọi người đều đẹp. Đẹp không những theo ý nghĩa luân lý và xã hội, mà đẹp cả về mặt thẩm mỹ và sức mạnh". Vì vậy, theo Makarenkô, "nhà sư phạm phải đi đến với từng người với một giữ thuyết lạc quan, dù có phải lầm lẫn chăng nữa". Cũng như Gorki, ông từ chối không dựa trên những khía cạnh tiêu cực và ốm yếu của con người. Ông tìm ra ở mỗi trẻ, mặc dầu cảnh ngộ bi đát tuyệt vọng đến thể nào, một niềm hy vọng, một khía cạnh tích cực để phát huy lên, làm nảy nở ra mọi tiến bộ. Chính vì thương yêu con người, tôn trọng con người nên phải yêu cầu ở đứa trẻ càng nhiều càng tốt."Càng tôn trọng con người bao nhiêu, càng yêu cầu bấy nhiêu”. Yêu cầu đối với đứa trẻ biểu thị sự tôn trọng đối với sức lực và khả năng của nó. Và ngược lại, tôn trọng bao hàm ý nghĩa phải đòi hỏi, phải yêu cầu. Yêu cầu càng nhiều, đứa trẻ càng tin ở khả năng của nó, càng thấy tự hào. Bài ca sư phạm là một bức tranh tuyệt đẹp, một bài thơ tuyệt diệu về niềm tin tưởng ở bản chất tốt đẹp của con người. Có đứa trẻ, trước kia đã từng ăn cắp giết người, nay được Makarenkô trao cho giữ súng, ủy nhiệm cho đi lĩnh những món tiền rất lớn. Một lần, vì thái độ hỗn láo quá đáng, Makarenkô đánh Zađôrôp, một trong những đứa cầm đầu. Về sau, nhiều lần ông nhắc lại việc đó, cho đấy là dấu hiệu về sự hoang mang và tuyệt vọng cực độ của nhà giáo dục. Suốt đời, ông chống lại chủ trương trừng phạt về thể xác. Vì thế, ta không nên hiểu lầm sự việc đó mà cho rằng khi cần thiết cũng phải đánh trẻ. Công xã lao động trong Bài ca sư phạm mang tên Maxim Gorki và cuốn tiểu thuyết kết thúc với cuộc đến thăm công xã của Maxim Gorki nói lên ảnh hưởng sâu sắc của Gorki đối với những quan điểm sư phạm của Makarenkô. Quan điểm thứ hai là “giáo dục trong lao động”. Đây là nguyên lý cơ bản nhất của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, một nền giáo dục dựa trên học thuyết Mác - Lênin. Trong thực tế cũng như trong lý luận, Makarenkô chỉ rõ rằng: lao động không những là mục đích giáo dục mà còn là phương tiện giáo dục. Hoạt động lao động của trẻ trong công xã Gorki chiếm một vị trí hết sức quan trọng, lao động tự phục vụ và lao động sản xuất. Chính vì nắm vững nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về giáo dục, chính vì thực hiện sự kết hợp giữa học lập và lao động sản xuất trong các công xã lao động nên Makarenkô ngay từ đầu đã thấy rõ được những nét lớn về giáo dục kỹ thuật tổng hợp. Phần cuối tác phẩm Bài ca sư phạm cho biết Makarenkô lãnh đạo một trại lao động thứ hai ở Ukren, ông lập một trường phổ thông 10 năm, một xưởng chế tạo máy ảnh Lâyka và một xưởng chế tạo dụng cụ điện. Các xưởng này giúp trại tự lập hoàn toàn. Từ sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp đến sản xuất công nghiệp, đó là bước tiến mới về mặt giáo dục kỹ thuật tổng hợp. Trước khi chết, ngày 9 tháng 3 năm 1939, phát biểu trong một cuộc dạ hội, Makarenkô nói: "Tôi là người đứng về phía các quá trình sản xuất trong nhà trường, thậm chí quá trình sản xuất đơn giản nhất, dễ tiến hành nhất, buồn tẻ nhất. Tôi nghĩ rằng loại trường học sản xuất như vậy, một thời gian nữa chúng ta sẽ có,..”. Thí nghiệm của Makarenkô trong các công xã lao động giúp ích cho sự phát triển phương hướng giáo dục kỹ thuật tổng hợp. Đến đại hội 19, rồi 20, 21 của Đảng Cộng sản Liên-xô, nguyên lý giáo dục kỹ thuật tổng hợp được phát triển thành một hệ thống lý luận rất phong phú. Nhưng Makarenkô là nhà giáo dục học đầu tiên đã tìm ra cách áp dụng cụ thể nguyên lý giáo dục kỹ thuật tổng hợp. Trẻ ở trong công xã lao động đã làm quen dần với những nguyên lý chung về kỹ thuật, về tổ chức sản xuất, về những động tác đơn giản và cơ bản về sản xuất nông nghiệp, về cơ khí và về điện lực. Qua giáo dục lao động, nhiều trẻ "tội lỗi” đã được cải tạo về tư tưởng và về sau trở nên những nhà chuyên môn giỏi, công nhân lành nghề, bác sĩ, kỹ sư, phi công, bác học. Không những trẻ hư hỏng cần được cải tạo trong lao động mà trẻ bình thường cũng cần được giáo dục trong lao động, Không những nhà trường mà cả gia đình cũng cần giáo dục thanh thiếu niên qua công tác lao động từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp. Quan điểm lao động là đức tính tốt đẹp nhất là cơ sở của nền đạo đức xã hội chủ nghĩa. Theo Makarenkô, trên đất nước xô-viết, lao động phải là Lao động sáng tạo, lao động tự giác, lao động phải là hình thức biểu hiện chủ yếu của cá tính và tài năng. Chính quá trình tham giữ lao động sẽ rèn luyện đạo đức xã hội chủ nghĩa, đoàn kết chặt chẽ những người lao động, xây dựng tình bạn chân chính. Cần giáo dục trẻ chống tâm lý ỷ lại, đòi hỏi, ăn sẵn. Người giáo viên xã hội chủ nghĩa phải giáo dục những con người hăng hái lao động, động viên thái độ sáng tạo trong lao động, phát triển thể lực và trí lực, phát huy khả năng tổ chức, biết "điều khiển, chú ý, tính toán, xem xét, sáng tạo, cần mẫn và vị tha ". Quan điểm cơ bản thứ ba của Makarenkô là “giáo dục trong tập thể, bằng tập thể”. Đây là tư tưởng giáo dục trung tâm của ông. Quan điểm này thể hiện rất rõ trong hoạt động của các công xã lao động, trong Bài ca sư phạmcũng như trong Những ngọn cờ trên tháp. Xuất phát từ lời dạy của Lênin về những quan hệ giữa cá nhân và tập thể trong xã hội xã hội chủ nghĩa, Makarenkô đã nghiên cứu những mối quan hệ đó và rút ra những ứng dụng thực tế vào công tác giáo dục. Makarenkô đã sớm thấy cùng với Krupxkaia và Kalinin, một nguyên tắc quan trọng: tập thể là biện pháp giáo dục tốt nhất. "Chính tập thể là người giáo dục tốt nhất”. Vì thế "tác động sư phạm có tổ chức phải hướng vào tập thể": tập thể công xã lao động, tập thể trường học, tập thể gia đình, tập thể Đoàn Thanh niên Đội Thiếu niên. Rút kinh nghiệm từ thực tế, Makarenkô đã xây dựng hẳn một lý luận về sự phát triển của tập thể, phong cách của tập thể. Tác phẩm Bài ca sư phạm là dẫn chứng cụ thể về quá trình hình thành tập thể. Lúc đầu, tập thể chưa hình thành, kỷ luật tự giác chưa có, nhà giáo dục phải đề ra yêu cầu, có khi phải độc đoán đề ra yên cầu. Khi chung quanh nhà giáo dục đã có một nhóm cốt cán, một cái nhân sẵn sàng bênh vực kỷ luật trật tự chung một cách có ý thức, đó là giai đoạn thứ hai. Giai đoạn thứ ba là giai đoạn mà tự tập thể đề ra yêu cầu. Lúc đó, nhà giáo dục chỉ còn đóng vai trò điều chỉnh lại một số yêu cầu nào đó đi hơi xa. Trình độ yêu cầu tới mức cao nhất khi mỗi đứa trẻ tự mình đề ra được yêu cầu cho bản thân và biết tự kiểm tra thái độ của mình. “... Từ yêu cầu độc đoán của nhà tổ chức đến yêu cầu tự do của mỗi đứa trẻ đối với bản thân nó trên cơ sở yêu cầu của tập thể, tôi cho đó là con đường cơ bản của quá trình tiến hóa của một tập thể trẻ xô viết. Trong một bức thư gửi Maxim Gorki, Makarenkô viết: "Tôi đã đạt được kết quả vì xuất phát từ nguyên tắc cơ bản sau đây: tập thể phải hoạt động, tập thể có thể xây dựng được bởi những con người hoạt động và chính trong sự hoạt động đó họ tự biến đổi.”. Nói về nguyên tắc giáo dục trong tập thể và bằng tập thể của Makarenkô, Zađôrôp, một đứa trẻ rất khó thích ứng, sau trở nên kỹ sư, đã viết: ". dần dà, quá trình giáo dục biến thành một quá trình tự giáo dục của tập thể. Thật là đặc sắc và không ngờ!". Trên đây, tôi chỉ nêu lên những quan điểm cơ bản nhất của Makarenkô về giáo dục. Nội dung tác phẩm Bài ca sư phạm còn chứa đựng nhiều bài học khác, phong phú và sinh động. Đọc kỹ tác phẩm, ta có thể rút ra nhiều bài học về quan điểm giáo dục, về kỹ thuật sư phạm. Tóm lại, tư tưởng chủ đề của Makarenkô trong Bài ca sư phạm là giáo dục những trẻ lưu manh, phạm pháp, sản phẩm của xã hội bóc lột, thành những công nhân yêu nước, giác ngộ, trung thành với chế độ xã hội chủ nghĩa, những chiến sĩ tích cực xây dựng chủ nghĩa xã hội. Để đạt được mục đích đó, nhà giáo dục phải tin tưởng sâu sắc ở bản chất tốt đẹp của con người, tôn trọng con người, phải nắm vững quan điểm giáo dục trong lao động, bằng lao động, và giáo dục trong tập thể, bằng tập thể. Đó là những quan điểm, những phương pháp giáo dục có tính vạn năng hiệu quả nhất, nó thể hiện căn bản nhất sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, nó là bản chất của giai cấp công nhân. Nội dung tác phẩm Bài ca sư phạmdiễn ra ở Liên-xô trong hoàn cảnh nội chiến, trong thời kỳ khôi phục kinh tế và bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hoàn cảnh miền Bắc nước ta hiện nay có khác hoàn cảnh của Liên-xô lúc đó. Đặc điểm trẻ em nước ta - kể cả một số trẻ em hư hỏng - có khác đặc điểm những đối tượng giáo dục của Makarenkô trong Bài ca sư phạm. Nhưng những nguyên lý, những quan điểm cơ bản về giáo dục xã hội chủ nghĩa không thay đổi. Tôi tin chắc rằng những quan điểm giáo dục tiên tiến của Makarenkô sẽ rất có ích cho chúng ta, các giáo viên cũng như các cha mẹ học sinh. Ở nước ta, các tác phẩm của Makarenkô chưa được phiên dịch đầy đủ. Nay Nhà xuất bản Văn hóa, lần đầu tiên, dịch tác phẩm Bài ca sư phạm, tác phẩm nổi tiếng nhất của Makarenkô. Tôi tin rằng bản Bài ca sư phạm sẽ được bạn đọc hoan nghênh, nhất là các bạn giáo viên. Đọc nó, nghiền ngẫm, suy nghĩ, chắc chắn chúng ta rút ra được nhiều bài học quí báu, không những để giáo dục trẻ em hư mà cả những trẻ em bình thường trong mỗi gia đình, trong mỗi trường học. Tháng 6 năm 1962 NGUYỄN SĨ TỲ Viện phó Viện nghiên cứu Khoa học giáo dục Bộ Giáo dục LỜI NGƯỜI DỊCH Đề cập tới vấn đề cải tạo những con người xấu của chế độ cũ để lại, chủ tịch N. X. Khrutsôp, trong bài nói chuyện ở Đại hội các nhà văn lần thứ ba, ngày 22- 5-1959, đã xác định rằng: Muốn đưa một con người như vậy vào con đường ngay thẳng, cần có một thái độ khác (với thái độ nghi kỵ, ruồng bỏ - H. M.) cần phải tin ở con người, tin vào những đức tính tốt nhất của con người. Người đó có thể tham gia tích cực vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản được không? Có thể được các đồng chí ạ! Trong việc miêu tả những trường hợp như thế, tôi khó lòng mà thi đua được với tác giả quyển Bài ca sư phạm, Antôn Xêmiônôvich Makarenkô, nhà văn nổi tiếng và được mọi người đều kính trọng. Ông đã cho ta thấy cái cao quý của con người, cái sức mạnh lớn lao của lòng tin ở con người. Và tất cả chúng đều biết rõ những người, trước kia là trộm cắp và giết người đã được săn sóc và tin tưởng đã đền đáp lại lòng tin ấy gấp trăm ngàn lần như thế nào[1]. Tên tuổi Makarenkô vang dội tới chúng ta từ lâu. Tác phẩm Bài ca sư phạm đã được giới thiệu với nhân dân Việt Nam ngay từ năm 1956 qua cuốn phim cùng tên và chỉ ít lâu sau, một cuốn phim khác, cũng mang tên một tác phẩm lớn khác của ông Những ngọn cờ trên tháp, lại được chiếu trên các màn ảnh Việt Nam. Gần đây, Nhà xuất bản Giáo dục cũng đã xuất bản các bản dịch những cuốn Lời khuyên các vị phụ huynh[2]và Cuốn sách của những người làm cha mẹ[3]của ông. Tất cả những phim và sách ấy đều được quảng đại quần chúng nước ta hết sức hoan nghênh. Đặc biệt phim Bài ca sư phạm đã gây một xúc động mạnh mẽ trong các tầng lớp thanh niên nam nữ và khiến các nhà giáo dục cũng như những người làm cha mẹ phải quan tâm suy nghĩ rất nhiều. Ở Liên Xô, sau khi cuộc cách mạng vô sản thành công và bắt đầu xây dựng cơ sở về mọi mặt cho chủ nghĩa xã hội, thì vấn đề giáo dục thanh niên, nhất là các thanh niên hư hỏng, nạn nhân của chế độ cũ và của thời kỳ tao loạn, lập tức được đặt ra với tất cả tầm quan trọng to lớn và cấp thiết của nó. Năm 1920 được giao cho cái trọng trách cải tạo những trẻ vị thành niên “phạm pháp ”, những trẻ con vô thừa nhận kéo lê cuộc sống bi thảm, đói rách trên những bờ hố của trụy lạc, bên cống rãnh của những thành phố chưa hẳn hết bị đe dọa vì nạn thổ phỉ, sau cuộc Cách mạng tháng Mười, Makarenkô đã làm thế nào để biến những thanh niên tưởng chừng không tài nào cảm hóa được ấy thành những người công dân tốt của tổ quốc Xô Viết, những người phải có cái nhiệm vụ tích cực xây dựng chủ nghĩa cộng sản? Marakenkô không phải là một nhà lý luận phòng giấy. Ông không dựa vào những nguyên tắc trừu tượng nào để tìmphương pháp sư phạm. Là một người hoạt động, và thấm nhuần sâu sắc nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, ông đã nhìn thẳng vào thực tế biện chứng của đời sống với những cá tính vô cùng phức tạp và sinh động của các trẻ nuôi giao phó cho ông. Một lòng tin mãnh liệt ở những khả năng tốt đẹp của con người hướng dẫn mọi hành động của ông, đem cho ông sức mạnh vượt qua mọi trở ngại trong những giờ đen tối nhất. Thêm vào đấy, một đức tính nhẫn nại vô song, không bao giờ biết nản, một tình yêu sâu sắc đối với con người mà ông luôn luôn tôn trọng ở mỗi đứa trẻ, một nhiệt tình nghệ sĩ lúc nào cũng tỉnh táo để phát hiện ở nó những ánh lửa thiêng, những bông hoa chớm nở mà ông hết sức bồi dưỡng, nâng niu, một tinh thần vì người cao cả, quên mình và hy sinh hết thảy để chăm lo săn sóc từng li từng tí đến đời sống của các trẻ nuôi, khiến ông dần dần đi sâu vào tận cùng các ngõ ngách tâm hồn chúng, được chúng kính trọng và nhất là yêu mến. Bài ca sư phạm cũng là một bài ca chủ nghĩa nhân đạo của con người cộng sản. Cuốn sách đó kết tinh những kinh nghiệm sống của Marakenkô trong việc xây dựng trại Gorki, trại lao động cải tạo đầu tiên cho thiếu nhi ở Liên Xô. Bị đặt trước những tình trạng khó khăn, có khi nguy hiểm, hầu như tuyệt vọng, ông thuật lại chuyện những nghi ngờ, những sai lầm, những lo âu, những tức giận và sau cùng là những thành công đã đền đáp lại cái nghị lực không thể khuất phục được của ông[4]. Nhưng không nên tưởng đây là một câu chuyện khắc khổ, với những hình thức khô khan, đóng chắc trong khuôn khổ một bản báo cáo. Trong Bài ca sư phạm, Marakenkô tỏ ra là một nhà nghệ thuật có tài, trên cơ sở những tài liệu cụ thể của cuộc sống đã tái hiện quá trình hình thành con người mới… Ông đã biết đem vào quyển tiểu thuyết của mình những yếu tố nói lên tiền đồ tương lai, sự tiến triển của đất nước, của xã hội, tức là thể hiện cuộc sống trong sự vận động đi lên của nó[5]. Những sự việc được miêu tả trong truyện là tất cả cuộc sống vô cùng phong phú của cải xã hội thiếu nhi không ngừng biến chuyển – cũng như cái xã hội lớn nói chung- cuộc sống có những khía cạnh ngây thơ nhất định nhưng cũng đầy rẫy những nét khiến người ta phải ngạc nhiên và nghi ngờ. Mấy trăm nhân vật, kể cả trẻ con và người lớn, xuất hiện trên những trang sách, là cả một thế giới rộng lớn vì quy mô diễn biến của nó trong không gian và thời gian, một thế giới phồn tạp, trong đó mỗi người mỗi vẻ đều được ghi rất nhanh bằng vài lời sắc gọn, chắc như một nhát dao, một nhát búa làm nổi bật ngay tính cách điển hình. Nếu có những trang đượm một ý vị thơ đầm ấm, tả sự vui sống một buổi chiều đông chung quanh lò sưởi, mà các cây củi trong lò tự kể chuyện mình (phần II, chương 3), thì cũng có những trang đầy sự náo nức của chú trại viên đi chân đất nhưng thực sự làm chủ nhân ông, đem hết sức mình ra lao động xây dựng trại, chế ngự và sửa chữa cả những thiếu sót của thiên nhiên (phần II, chương 10). Và liền ngay sau đó, ta được nghe giọng trữ tình kỳ thú của con người đứng chỉ đạo tất cả những công cuộc ấy: Mỗi đứa trẻ đó có đường đi của nó, cũng như trại Gorki có đường đi của trại. Tôi cảm thấy tôi nắm trong tay rất nhiều đường xuất phát của cuộc đời ấy, song nhận cho ra những phương hướng, triển vọng và điểm kết thúc của những con đường đó trong đám sương mù của tương lai gần gũi thật khó khăn biết nhường nào. Giữa đám sương mù ấy hiện đang quay lộn trong lốc bão những yếu tố mà người ta chưa chi phối được, mà các kế hoạch và các khoa toán học chưa đặt được cho chúng một tên gì. Cuộc hành quân của chúng tôi xuyên qua những lực lượng không cân lường được ấy có cái vẻ mỹ quan của nó, cho nên vẻ mỹ quan của những thửa vườn hoa, vườn quả kia đã hết làm cho tôi cảm động. Thảng hoặc ở đây, ở đó, đôi khi cũng có một chút âm thầm chua chát không thể nào tránh được, trong những giờ phút ngờ vực cái kết quả công việc mình làm, nghĩ đến sự bạc bẽo của cuộc đời mình, dệt toàn bằng những vất vả và hy sinh trong bóng tối, nhưng cái đó chỉ là thoáng qua và hãn hữu, còn thường thì tác giả để lộ trên mỗi trang, hầu như trên mỗi dòng, một nụ cười vô cùng tinh tế và tế nhị. Nói là “để lộ” có lẽ không đúng lắm, và nụ cười cũng không hẳn là luôn luôn rõ rệt. Đúng hơn, nhiều khi đó chỉ là một cái nhếch môi, hoặc ta tưởng tượng ra như vậy, một cái gì rất kín đáo nhưng vô cùng sâu sắc và thấm thía, nó chính là một nét đặc biệt Marakenkô. Là dấu hiệu không thể lẫn được của bản chất trào tiếu, phúng thích, cái gọi là “uy mua” (humour) riêng của ông vậy. Đọc Bài ca sư phạm ta luôn luôn tưởng được thấy nét mặt ông cũng có phần nào giống nét mặt Lapô mà ông tả cứ “tỉnh khô “đi, kiểu “cù không cười “, trong khi hắn làmcho những người nghe hắn phải bò lăn ra cười vì những câu hóm hỉnh của hắn. Cái duyên ấy chỉ có thể có được ở những người mang sẵn trong lòng một tình yêu đời bất trị, nó phản ánh một niềm tin vững chắc ở mình, ở sức mạnh thuyết phục của mình, biết mình nắm được lẽ phải, nắm được chân lý. Nét mặt Marakenkô mà ta tưởng tượng ra đó có lẽ không sai lạc lắm, nếu đem so sánh với cách nhìn của đại văn hào Maxim Gorki trong buổi gặp gỡ đầu tiên của người với Marakenkô, bấy giờ đã gần bốn mươi tuổi: Người miêu tả cho ta thấy ông mới thoạt trông khá tầm thường, tóc cắt ngắn kiểu bàn chải, một cái mũi khá lớn, một bộ ria mép ngắn, đôi mắt màu lam xámđột nhiên ánh lên vẻ tinh quái, một kiểu ăn mặc giản dị, hầu như kiểu quân nhân, dáng điệu vừa là của một nhà giáo thôn quê vừa là của một người lính. Thoạt mới gặp, Marakenkô cho người ta cái ấn tượng là hơi lạnh lùng, hơi kín đáo, bởi vì ông ưa lặng lẽ nghe hơn, đầu hơi nghiêng nghiêng tựa hồ ông đang in lấy một dấu hữu hình nào đó của người nói chuyện với mình (ông ta biết nắm ngay tức khắc được những nét đặc thù chủ yếu của một người mới đến, đóng nó vào một câu đầy ý nghĩa thấm thía và trào lộng), thế rồi một nụ cười hiền hậu bỗng làmbiến dạng cái bộ mặt hơi buồn ấy và đến lượt Makarenkô bắt đầu nói bằng một giọng hơi ồm ồm, hơi khàn khàn, nhưng vô cùng giàu tiết điệu ý nhị[6]. Tác giả của những dòng trên đây còn cho ta biết thêm: * Bản chất nghệ sĩ rất sâu sắc, say mê hết thảy mọi cảnh sắc thiên nhiên cũng như say mê sân khấu, âm nhạc và thi ca, Makarenkô biết tạo ra cái đẹp ở quanh mình, và bọn trẻ cảm thấy ngay tức khắc những cố gắng của ông để làm cho cuộc sống của chúng đẹp đẽ hơn lên. * Dậy từ 5 giờ sáng, ít khi ngủ trước 1 giờ, Makarenkô khiến những người xung quanh phải ngạc nhiên vì sức làmviệc không thể nào tin được của ông: ông có cái tài ở bất cứ chỗ nào cũng có mặt cùng một lúc mà không bao giờ có vẻ gì là hối hả cả. Là một nhà tổ chức giỏi bậc nhất, ông có thể đồng thời làm nhiều công việc song song mà không hề rối trí vì sự những đứa trẻ nuôi của ông cứ đi đi lại lại[7]. Chính cái sức làm việc không biết mệt ấy và cái tổ chức lạ lùng ấy đã khiến Makarenkô, “nhà sư phạm lớn nhất của thời đại chúng ta “(S. O. M. Nubarôp) đồng thời là nhà văn lỗi lạc mà Chủ tịch, N. X. Khrutsôp ca ngợi một cách rất xứng đáng ấy, đã có những địa bàn hoạt động rất khác nhau (xem lược kê những tác phẩm của ông ở phần phụ lục, tập 3) và đã kể lại cho chúng ta một di sản văn học và sư phạm vô cùng quý báu. Chúng ta cần phải khai thác cái di sản ấy. Nếu Makarenkô đã tìm những gương sống trong các nhân vật của Maxim Gorki để lần ra con đường đi vào tâm tư của con người, phát hiện ở nó những giá trị, những khả năng thiện mỹ, dù chỉ là một mầm mống rất non yếu, một liều lượng rất ít ỏi của cái bản chất tốt ẩn giấu dưới những hiện tượng thảm hại nhất của sự cùng khốn và sự hư hỏng đồi bại, thì đến lượt chúng ta, chúng ta há không thấy sự bổ ích tìm trong những gương sống ngay trong các nhân vật của chính Makarenkô? Những Zađôrôp, Burun, Bratsenkô, Karabanôp, Gut, Galatenkô, Fêđôrenkô, Kutlaty, Ôpriskô, Taranet, Tsôbô, Vecsơnep, Vetkôpxki, là chỉ kể những tên tình cờ nhớ tới, và những nữ trại viên Ôlia Vôrônôva, Natasa Pêtrenkô, Naxchia Nôtsêvnaia, Raitxa Xôkôlôva, v.v… Bao nhiêu tiêu bản của một cái nhân loại phức tạp mà giản dị, kỳ quái mà dễ hiểu, ô hợp mà đồng nhất, từ vẻ ngoài: y phục, tư thế, đến những nét chủ đạo của tâm hồn: tình vui sống, lòng tin yêu chế độ, quyết tâmbảo vệ nó đến cùng. Đồng nhất nhưng không phải rập khuôn, vì ai nấy vẫn mỗi người mỗi vẻ, không ai giống ai, như trên một bức khảm sà cừ mà mầu sắc lung linh thay đổi không cùng, tùy theo góc của người đứng ngắm. Có nhà sư phạmnào không thèm muốn được nói như tác giả: - Cuộc sống ở trại bây giờ tốt đẹp và có trật tự, trông thấy vậy tôi tự hào về phần đóng góp của mình làm cho đất nước này thêm đẹp đẽ. Song về phương diện thẩm mỹ tôi cũng có những ý thích riêng của tôi: các thứ hoa, các đường nhỏ đi dạo mát và các gốc cây cối um tùm đều không làm cho tôi một phút nào mất hút được những đứa trẻ mặc quần cụt màu lam và sơ mi trắng nọ. Các chú bé đó hiện thời đang chạy lăng xăng hay bình tĩnh đi lại giữa các tân khách, bận rộn chung quanh những bàn tiệc, hoặc đứng vững ở nơi phận sự, ngăn không cho ùa vào trại bằng mấy trăm kẻ ngốc nghếch đến xem một đám cưới xưa nay chưa từng có[8]: đó là các trại viên Gorki. Thon mảnh và chỉnh chện, mình lẳn chắc và mềm mại, gân guốc và lành mạnh, thân thể không biết đến thuốc men là gì và gương mặt nào cũng môi đỏ hồng hào. Những gương mặt như thế được tạo nên ở trại: khi ở ngoài phố vào đây chúng không như vậy? Kết quả thật nức lòng, tuy nó chỉ mới đánh dấu một chặng đầu tiên trên đường đi tới đích của trại. Nhưng đạt được tới được kết quả đầu tiên ấy cũng đã phải tốn biết bao tâm tư, trải qua biết bao giờ lo âu phiền muộn, mỗi lúc có thể chỉ muốn “tung hê” tất cả, bỏ đấy mà đi, như một vài giáo viên của trại đã có lần thoái chí thốt ra lời. Bởi vì mỗi “chú bé” kia là cả một thế giới riêng, mỗi hành động tội lỗi của chú đều bắt nguồn từ những động cơ ích kỷ và những ý nghĩ sai lầmmà quãng đời quá khứ của chú, trước khi vào trại, đã đeo nặng vào tâm hồn trẻ thơ của chú, như một cái nợ tiền kiếp. Phải có một trí óc thực sáng suốt để nhìn thấy thủ phạm chính của những tội lỗi ấy thực ra không phải là chú, mà là cái xã hội cũ với nền trật tự bất công của nó đã gây nên bao sự đắng cay phi lý. Phải có một độ lượng rộng rãi để nhất thiết xóa bỏ, cố tình quên hẳn cái quá khứ đau đớn kia của chú, tự đặt cho mình thành một nguyên tắc bất di bất dịch là không bao giờ nhắc đến nó, trước mặt cũng như sau lưng chú, và cái đó không phải do một quan niệm mỹ cảm nào về phép “lịch sự”, cũng không phải do một thủ đoạn khôn khéo, có tính toán và cân nhắc kỹ, mà thực chỉ là do lòng nhân đạo vô cùng sâu sắc, hết sức tôn trọng con người đương hình thành ở đứa trẻ. Makarenkô, dưới giọng phúng thích nhẹ nhàng, đã chế giễu những lý thuyết giả ngụy với những bản “chứng nghiệm” đội lốt khoa học nhưng thực chất là phản khoa học của cái gọi là khoa “nhi đồng học” tư sản. Nụ cười cương nghị của ông tàng ẩn biết bao nhiêu dũng cảm trong khi chỉ có một mình ông, hay hầu như vậy, chống lại cả cái giới “Ôlanhpơ sư phạm”[9]đương thời, gồm những nhà giáo sư, bác học đạo mạo, mà thế lực phản động, đã gây cho ông nhiều trở ngại trong công tác giáo dục. Độc lực ở trong góc rừng hiu quạnh của ông, hằng ngày ông phải đương đầu với những khó khăn dấy lên từ những vấn đề nhỏ nhặt, liên quan tới đời sống vật chất của các trẻ nuôi, bánh mì, bơ, mỡ, củi, quần áo, chăn màn, giầy mũ, thuốc men… đến trăm nghìn chuyện eo óc, rắc rối, xảy ra không phải chỉ giữa các trại viên mà còn giữa các giáo viên và cả đến giữa các nhà đương cục địa phương trại nữa. Mỗi trường hợp ông trình bày lại là một kinh nghiệm thiết thực, mỗi vấn đề được giải quyết là một bài học gắn liền với thực tế khách quan. Nhưng tựu trung bài học quý giá nhất vẫn là cái tình yêu sâu sắc của ông đối với mỗi trẻ em mà ông chính là người cha tái tạo nó thực sự, tình yêu thắm đượm mỗi trang sách của ông, phổ vào giọng ông như một khúc nhạc trầm trầm, êm dịu, với những thanh âm, tiết điệu gợi cho ta thấy những màu sắc bất ngờ, những khả năng vô tận trong tâm hồn đứa trẻ. Lòng tin của ông có thừa sức mạnh để làm cho một cô gái “tính khí không thể nào chịu được” và hết sức ít tin tưởng ở chính mình đến như Marutxia Leptsenkô, sau cũng trở thành nữ cốt cán trại và ứng thí thắng lợi vào trường Trung học công nông, một việc mà trước đó cô đã không bao giờ dámngờ rằng mình có thể làm được. Cũng vẫn sự lạc quan cố định ấy, căn cứ trên cái khả năng cải tạo không thể nào ngờ vực được của tập thể, của chế độ xô-viết tốt đẹp đối với trẻ em hư hỏng, đã khiến Makarenkô thành công rực rỡ ngay ở trong những trường hợp tưởng là ít hi vọng nhất. Còn bao nhiêu điều nữa, không thể nào nêu hết trong khuôn khổ vài trang sách, mà ngày nay chúng ta phải rút ra, nghiền ngẫm, học tập ở những tác phẩmcủa Makarenkô nói chung và Bài ca sư phạm nói riêng. Giá trị của Bài ca sư phạm, “một trong những tác phẩm xuất sắc của nền văn học xô-viết”, theo lời của Maxim Gorki, được giáo sư E. Mêdynxki nhắc lại trong bài giới thiệu sau đây, sẽ không được nhận thức đầy đủ nếu người đọc chỉ xem nó như một cuốn tiểu thuyết hấp dẫn, bố cục chặt chẽ, khéo léo mà thôi. Muốn thấy rõ, như chính giáo sư nói:” Kể là một tác phẩmvừa văn học vừa sư phạm, thì Bài ca sư phạm là một tác phẩm vô song trên thế giới”, chúng ta còn cần phải coi nó như một cuốn sách giáo dục chỉ nam, đọc rồi, đọc lại nữa, suy nghĩ, đối chiếu những phát hiện phong phú của nó với cái thực tế sinh động của đời sống hiện tại ở xã hội ta, rút ra một cách sáng tạo những chỉ dẫn hữu ích cho công tác giáo dục các thanh niên ở gia đình, cũng như ở nhà trường và ở tất cả các đoàn thể, tập thể có trách nhiệm. Giữa lúc phong trào giáo dục đức dục đang được đẩy mạnh nhằm đào tạo những thanh niên mới, cần cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nước ta, ngày nay chúng tôi đem cống hiến bạn đọc bản dịch tiếng Việt đầu tiên của Bài ca sư phạm, tác phẩm tiêu biểu nhất của Makarenkô, với ý muốn được góp một phần nhỏ vào công việc tìm hiểu nhà văn và nhà sư phạm xô-viết lớn ấy. Chúng tôi sẽ rất sung sướng nếu bản dịch này có thể giúp ích một phần nào cho các nhà sư phạm, các bậc làm cha mẹ, các cán bộ phụ trách thanh niên, nhi đồng, và nói chung tất cả các bạn làmcông tác giáo dục, đôi khi tìm thấy được ở trong trang sách một vài lời giải đáp về những vấn đề mà các vị vẫn hàng ngày suy nghĩ trong khi lo làm nhiệm vụ bồi dưỡng những “mầm non” của đất nước. Chúng tôi dịch theo bản dịch tiếng Pháp Poème pédagogique của Jăng Sămpơnoa (Jean Champenois) – Nhà xuất bản ngoại văn, Mạc-tư-khoa, 1953 - , có tham khảo bản dịch tiếng Trung-quốc Giáo dục thi của ông Hứa Lỗi Nhiên – Nhân dân Văn học xuất bản xã, Bắc-kinh, 1959 – mà ở đây chúng tôi xin trân trọng cảm tạ tấm thịnh tình anh em đã khiến ông gửi cho chúng tôi sách với những lời khuyến khích nồng nhiệt, đồng thời cho phép chúng tôi được sử dụng một số những lời chú thích của ông trong tập truyện. Chúng tôi cũng xin thành thực cảm ơn ông Nguyễn Khánh Toàn, Chủ tịch Ủy ban Thiếu niên Nhi đồng, và ông Võ Thuần Nho, Thứ trưởng bộ Giáo dục, đã khuyến khích chúng tôi nhiều trong dịp đưa in bản dịch này. Chúng tôi rất mong được các bạn đọc chỉ bảo cho những chỗ còn thiếu sót để sau đây sửa chữa cho bản dịch được tốt hơn. Hà-nội, ngày kỷ niệm Quốc tế lao động 1962 HƯỚNG MINH A. MAKARENKÔ (1888 – 1939) Antôn Xêmiônôvich Makarenkô sinh ngày 13 tháng 3[10]năm 1888 ở Biêlôpôliê, thị trấn thuộc tỉnh Khackôp (Ukren). Cha của ông Xêmion Grigôriêvich, làm đốc công thợ sơn ở công xưởng ngành đường sắt. “… Một người cao lớn, gầy còm và nghiêm khắc, suốt đời chỉ biết có làm việc “, đó là lời Makarenkô miêu tả về cha, trong cuốn tiểu thuyết Danh dự của ông. Ông cụ thọ sáu mươi sáu tuổi, mất năm 1916, trước khi Antôn ra khỏi Trường Sư phạm ít lâu. Bà mẹ của Antôn Makarenkô, Tatiana Mikhailôpna, khó tính đối với chính mình và đối với những người khác, là một người vợ và một người mẹ tốt và âu yếm. Gia đình Makarenkô sống nghèo khổ. Nhưng mối quan hệ điều hòa, kín đáo và đượm một tình yêu thương lớn đoàn kết mọi thành viên trong gia đình, người nào người nấy đều có những nhiệm vụ phân định rõ rệt. Sự ngay thẳng, ý thức bổn phận, cảm quan về phẩm cách con người, là những đức tính mà Antôn Makarenkô tiếp thụ được ngay từ hồi thơ ấu trong lòng gia đình. Antôn Makarenkô lên năm tuổi đã biết đọc. Năm mười hai tuổi ông vào trường cao đẳng tiểu học ở thị trấn. Theo học trường đó đã là con cái của những thương gia và công chức nhỏ; khi đưa con đến trường, ông bố bảo Antôn: “Họ xây dựng cái trường này lên không phải là cho bọn mình, nhưng mà con, con hãy tỏ ra cho họ biết! Những điểm bốn… thì đừng có mất công đem về nhà mà làm gì! Phải là những điểm năm, con đã hiểu chưa!” Và người con đã không khiếm khuyết trong việc làm toại ý muốn của ông bố. Suốt thời gian ở trường, cũng như sau này lên trường Sư phạm, Makarenkô chỉ có toàn những điểm năm (điểm cao nhất). Sau khi học hết sáu năm ở trường cao đẳng tiểu học, Makarenkô chuyên về ngành giáo dục. Được bổ làm giáo viên, ông nhậm chức lần đầu ở trường hỏa xa Kriukôvô, nơi gia đình ông sinh sống (ở đấy, năm 1951, đã khánh thành nhà bảo tàng Makarenkô). Những năm hoạt động sư phạm đầu tiên của Makarenkô là vào hồi cách mạng Nga lần thứ nhất. “Trong khoảng ba năm cách mạng (1905 – 1907), giai cấp công nhân và nông dân đã tiếp thụ được một nền giáo dục chính trị phong phú mà ba mươi nămphát triển bình thường trong hòa bình cũng không thể nào đem tới cho họ. Vài năm cách mạng đã làm cho thành hiển nhiên những sự việc mà hàng mấy chục năm phát triển hòa bình cũng không đủ để làm cho thành hiển nhiên được[11]”. Những tư tưởng của Makarenkô đã được hình thành vào những năm đó. Chính ông về sau này nhắc lại rằng: “Sự am hiểu lịch sử đã đến với chúng tôi do con đường tuyên truyền bônsêvich và do những biến cố cách mạng… Ở trường hoả xa là nơi tôi làm việc, bầu không khí thật là trong trẻo hơn những nơi khác, không thể nào so sánh được: một xã hội công nhân, chân chính vô sản, nắm chắc nhà trường trong tay mình”. Cái xã hội công nhân, nơi Makarenkô xuất thân và làm việc, đã góp một phần lớn vào sự phát triển những tư tưởng và quan điểm chính trị của ông theo chủ nghĩa Mác. Maxim Gorki, vào hồi đó và sau này nữa, đã có một ảnh hưởng lớn trong việc tu dưỡng tinh thần của Makarenkô. Về sau ông viết: “Gorki dạy cho chúng tôi biết cảm thấy cái lịch sử ấy, biết làm cho lòng mình chứa chất căm thù và nhiệt tình, và ngoài ra còn thêm một sự lạc quan tin tưởng lớn, thêm sự đòi hỏi lớn lao và vui vẻ này: Bão táp hãy nổi lên dữ dội gấp đôi đi!” Năm 1914, Makarenkô vào Trường Sư phạm Pontava, là trường đào tạo thấy giáo cho các trường cao đẳng tiểu học. Ông là một trong những học viên ưu tú nhất, đọc sách nhiều và trình bày những bản thuyết trình vừa chắc chắn vừa xuất sắc về các vấn đề sư phạm. Trong các giáo sư của trường ấy, “có một số lớn đã trở thành những người bônsêvich, mà nhiều người đã hi sinh tính mạng trên các mặt trận của cuộc nội chiến”. Makarenkô đã nhắc lại với một tình cảmbiết ơn đối với các thầy dạy của mình…“đó là những con người chân chính và họ đã giáo dục ở chúng tôi những nguyện vọng ưu tú nhất của con người. Và ngay trong sự phát triển của bản thân tôi về mặt sư phạm, họ cũng đã tạo nên những cơ sở chủ yếu nhất cho bất cứ một tin tưởng sư phạm nào: đòi hỏi ở con người nhiều hết sức và kính trọng nó hết sức”. Ở Trường Sư phạm ra, Makarenkô được nhận một huy chương vàng. Từ mồng 1 tháng 9 năm 1917, Makarenkô phụ trách những nhiệm vụ làm hiệu trưởng một trường cao đẳng tiểu học, ông đang giữ chức vụ ấy khi xảy ra cuộc Cách mạng tháng Mười.”Sau tháng Mười, ông viết, những viết cảnh bao la mở ra trước mặt tôi. Đối với bọn chúng tôi trong ngành giáo dục, những viễn cảnh ấy làm cho chúng tôi say sưa đến nỗi chính bản thân mình cũng không tự biết mình nữa”. Ngay từ hồi đó, Makarenkô đã nhiệt thành tìm tòi những hình thức và phương pháp giáo dục mới, những con đường mới trong phạm vi sư phạm. Ngay từ lúc đó, hồi 1918 – 1919, ông đã không quan niệm được một nền giáo dục xô-viết chân chính mà không có sự tổ chức một tập thể nhi đồng mạnh mẽ. Những công cuộc tìm tòi các hình thức tổ chức đó là hết sức táo bạo đối với thời ấy: nhiều người làm công tác giáo dục và công tác sư phạm bấy giờ tán thành cái thuyết mà người ta gọi là “giáo dục tự do” và là kẻ thù của một kỷ luật chặt chẽ. Mùa thu năm 1920, Sở Giáo dục của tỉnh Pontava giao cho Makarenkô tổ chức một trại cho những trẻ vị thành niên phạm pháp, về sau này lấy tên là: “Trại lao động Gorki”. Người ta đã dành cho trại đó, cách Pontava sáu cây số, một công sản rộng bốn chục éc-ta, với một số tòa nhà đã hủy nát đến một nửa. Từ trước cho đến Cách mạng tháng Mười, một trại thanh niên hình tội đã được thiết lập ở nơi ấy. Mọi vật liệu của cái trại ngày trước đó đã bị lấy trộm đi hết thảy: các kính cửa bị nạy, các cánh cửa tháo khỏi chốt, các lò sưởi phá hủy để lấy gạch. Ngay đến các cây ăn quả cũng bị đánh đi với cả rễ, và dĩ nhiên là được đem trồng ở nơi khác. Trong hai tháng làm việc cật lực người ta đã tạm sửa sang cho có thể ở được một trong những ngôi nhà của trại cũ và thu hồi về được một phần vật liệu. Những trẻ nuôi thứ nhất đến vào tháng chạp. Makarenkô biết rằng không thể nào đưa ngay ra cho các trại viên những đòi hỏi rộng lớn được. Ông mở rộng những đòi hỏi ấy dần dần nhưng cương quyết. Để tạo nên tập thể, ông bắt đầu thành lập một hội hạt nhân trại viên tích cực. Cùng với chúng ông tổ chức việc canh phòng đường cái chống lại bọn trộm cướp, và cái món ấy không phải là thiếu gì trong thời buổi khó khăn đó, cũng như việc bảo vệ rừng chống lại những người đốn trộm cây”. Việc canh gác rừng, tài sản quốc gia, Makarenkô nói, nâng cao giá trị của chúng tôi lên rất nhiều ngay trong con mắt của chính chúng tôi, nó cũng cho chúng tôi một công tác vô cùng lý thú và sau cùng đem lại cho chúng tôi những thuận lợi lớn”. “Cái cá tính trở thành man rợ do sự cô lánh” của các trẻ nuôi gây nên cho Makarenkô nhiều giây phút cay đắng trong những năm đầu ấy, mặc dầu, như về sau này ông viết “những mầm mống tinh thần tập thể, nảy sinh ra trong những mùa đông đầu tiên, vẫn dần dà xanh tươi êmthắm trong tập đoàn chúng tôi”. Ông không tin ở những phép lạ sư phạm. Do kinh nghiệm lâu năm, ông biết rõ hơn ai hết những cố gắng lớn lao mà nhà sư phạm phải vận dụng để bảo vệ và biến thành ngọn lửa phấn khích, những tia cảm tính về bổn phận và danh dự, về kỷ luật và lao động, đang chập chờn trong ý thức các trẻ nuôi. Làm cho chúng nảy sinh ra hẳn là dễ dàng, nhưng thường là chúng tắt đi rất mau, dù là sau một cơn bùng cháy mạnh. Thức tỉnh được ý thức là việc nhỏ, nhưng làm nảy nở và điều khiển ý chí của đứa trẻ nuôi lại càng khó khăn hơn, đặc biệt là khi tất cả những quãng đời trước kia của nó đã cho nó cái thói quen buông thả. Trong Bài ca sư phạm của ông, Makarenkô thuật lại chi tiết những “mầmnon” của chủ nghĩa tập thể đã lớn lên và có sức mạnh như thế nào và sự chín chắn về tinh thần của những đứa trẻ vị thành niên phạm pháp cũ, di sản của chiến tranh thế giới lần thứ nhất để lại cho chế độ xô-viết, đã được hoàn thành như thế nào. Năm 1926, trại Gorki, đã có 120 trẻ nuôi, tự nguyện dời bỏ cái dinh nghiệp đẹp đẽ mà các trại viên đã tạo nên do chính lực lượng của họ, ở gần Pontava, để di cư sang Kurijê, gần Khackôp, trong những tòa nhà đã bị tàn phá một nửa mà một trại nhi đồng vô thừa nhận đang ở. Ở Kuriajê có 280 trẻ nuôi. Do sự bất lực trong công tác giáo dục, chúng hoàn toàn hư hỏng và chỉ trở về trại để ăn với ngủ mà thôi. Ruộng đất rộng lớn của trại không được cày cấy. Khi quyết định cứu vớt những đứa trẻ ở Kuriajê, Makarenô và các trẻ nuôi của ông không chỉ có hi sinh cái sản nghiệp đã được tổ chức rất chu đáo của họ ở tỉnh Pontava: họ còn nhận lấy một mối nguy cơ lớn, vì phải sợ rằng số 10 trại viên Gorki – mà trong số đó lại có chừng 40 đứa mới – bị chìmngập vào cái khối hoàn toàn hư hỏng 280 trẻ nuôi ở Kuriajê. Song nhờ một sách lược sư phạm khôn khéo, dựa vào tập thể những trại viên Gorki, và do một hành động nhanh chóng và cương quyết, chỉ trong một thời gian rất ngắn, Makarenkô đã thắng được sự buông thả lười biếng của bọn trẻ Kuriajê và biến chúng thành những thành viên của một tập thể cũng có kỷ luật như các trại viên “kỳ cựu” của Gorki trước kia. Công cuộc “chinh phục” Kuriajê đó là một thử thách chói lọi chứng tỏ sự đúng đắn của phương pháp sư phạm của A. Makarenkô. Mùa đông năm 1926-27, số trẻ nuôi của trại Gorki lên tới 450. Một dinh nghiệp mới và rộng lớn về nông nghiệp đã được tạo nên, nuôi sống gần 500 người (trẻ nuôi, thầy giáo và nhân viên phục vụ): các công xưởng được tổ chức, đáp ứng những nhu cầu của các trại viên. Một trường học đã mở ra, tất cả các trẻ bắt buộc phải theo học. Lại còn có một câu lạc bộ và nhà chiếu bóng, không những các trại viên mà cả nhân dân các làng lân cận cũng đều vui thích đến xem. Trong công tác giáo dục Makarenkô đặt tập thể lên vị trí hàng đầu. Ông đã lấy phương châm: giáo dục trong tập thể, do tập thể và cho tập thể. Về mặt công tác các trại viên đã được tổ chức thành những đội, mỗi đội gồm một số không nhất định những trẻ nuôi nam nữ, khác tuổi nhau, chịu trách nhiệm về một phần công tác của trại. Đứng đầu mỗi đội là một tổ trưởng, chọn trong các trẻ nuôi “Hội đồng đội trưởng” trở thành cơ quan điều khiển trại. Dưới sự lãnh đạo của Makarenkô, nó bàn luận và quyết định những vấn đề quan trọng nhất liên quan đến việc tổ chức dinh nghiệp, công tác và đời sống ở trại, xét xử và trừng phạt những lỗi lầm của các trại viên. Với một sự khéo léo lớn và một tài sản mẫn cảmlớn về sư phạm, Makarenô đã biết dung hòa quyền hành của giáo viên với những quyền rộng rãi của tập thể, những đòi hỏi lớn với một tình yêu mến lớn đối với các trại viên, sự tự do với sự cần thiết, những nhiệm vụ với những quyền lợi của các trẻ nuôi, hoạt động thực tiễn với trò chơi. Makarenkô đặt sự giáo dục đời sống tập thể, lao động, giáo dục kỷ luật, tình cảm về bổn phận và danh dự, làm cơ sở cho công tác của ông ở trại. Gorki, sau khi đến thăm trại năm1928, đã viết trong một bài nhan đề “Xuyên qua Liên bang Xô-viết”: Người nào đã có thể, bằng một cách không tài nào nhận ra như vậy, biến đổi, giáo dục lại hàng trăm đứa trẻ, bị cuộc đời chà đạp tàn bạo đến thế và nhục nhã đến thế? Makarenkô là người tổ chức và giám đốc của trại. Không thể nào chối cãi được, đó là một nhà sư phạm có tài”. Trong một bức thư ông viết cho Makarenkô, Gorki viết: “Ông hoàn thành một sự nghiệp tốt đẹp, nó phải đem lại những kết quả rực rỡ… Ông là một người kỳ lạ, đúng là một trong số những người mà nước Nga đang cần tới.” Trước đó, năm 1927, Makarenkô đã được giao cho kiêm nhiệm việc lãnh đạo Công xã lao động Dzecjinxki, vừa mới thành lập ở cửa ngõ tỉnh Khackôp. Đó là một trại giáo dục cho những thiếu nhi và thanh niên vô thừa nhận. Năm 1928, Makarenkô, được rảnh những nhiệm vụ ở trại Gorki, tập trung hết tinh lực của ông vào công xã Dzecjinxki, mà ông điều khiển trong tám năm (từ năm 1927 đến 19350. Số trẻ nuôi của trại này lên tới