🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Anh Linh Thần Võ Tộc Việt - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ full prc pdf epub azw3 [Kiếm Hiệp] Ebooks Nhóm Zalo Mục lục Chương 1: Mở đầu Chương 2: Sứ đoàn xiêm la Chương 3: Kín cổng cao tường Chương 4: Trong ngọc trắng ngà Chương 5: Bán Dạ Quỳnh Hoa Uyển -(hẹn Nhau Vườn Hoa Quỳnh) Chương 6: Cúi đầu e thẹn Chương 7: Tử vì đẩu số Chương 8: Ngậm đắng, nuốt cay Chương 9: Nhớ ơn chín chữ cao sâu Chương 10: Trăm năm chữ tòng Chương 11: Ứng tuyển phò mã Chương 12: Triều đình đại tống Chương 13: Sáng tổ tiêu thuật Chương 14: Quốc sự tối khẩn Chương 15: Trọng tội khi quân Chương 16: Thiếu đoạn đầu của hồi 115. xin cáo lỗi cùng độc giã Chương 17: Thiên hạ hồng thiết Chương 18: Ma trướng nan giải Chương 19: Mối hận ba mươi năm Chương 20: Lục tổ huệ năng Chương 21: Ngổn Ngang Trăm Mối Bên Lòng -(đoạn-trường Tân Thanh) Chương 22: Tru diệt ma vương quỷ dữ Chương 23: Lấy chết chuộc tội Chương 24: Ưng sơn song hiệp Chương 25: Thượng bất chính, hạ tắc loạn Chương 26: Nam thiên đệ nhất mỹ nam tử Chương 27: Anh em như thể chân tay Chương 28: Phúc hoạ khó lường Chương 29: Thế Giới Phật A-di-đà Chương 30: Trên bến bắc ngạn Chương 31: Luyện tập đức nhẫn Chương 32: Đi sứ trường sinh Chương 33: Gió chẳng muốn đừng Chương 34: Trấn bắc, bình nam Chương 35: Hận Tình Chưa Trả Cho Ai -khối Tình Mang Xuống Tuyền Đài Chưa Tan - (đoạn-trường Tân Thanh) Chương 36: Trường hận thiên thu Chương 37: Thần võ tộc việt Chương 38: Anh linh tộc việt Chương 39: Thống nhất tộc việt Chương 40: Chi-lăng Xương Trắng Còn Chưa Mục, -tiên-yên Máu Đỏ Lại Chan Hòa Chương 41: Anh linh thần võ tộc việt Chương 42: Anh linh thần võ tộc việt ANH LINH THẦN VÕ TỘC VIỆT Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ www.dtv-ebook.com Chương 1: Mở đầu Những chữ viết tắt. Trong Anh Linh Thần Võ Tộc Việt những từ viết tắt sau: AHBC Anh-hùng Bắc-cương AHLN Anh-hùng Lĩnh-Nam AHĐA-DCBM Anh-hùng Đông-a dựng cờ bình Mông AHTS Anh-hùng Tiêu-sơn ALTVTV Anh linh thần võ tộc Việt ANCL An Nam chí lược CEP Coopérative Européenne Pharmaçeutique (Liên hiệp các viện bào chế châu Âu) CKDH Cẩm khê di hận CMFC Commité Médical Franco-Chinois (Ủy ban trao đổi y học Pháp-Hoa) DTLSVH Di tích lịch sử văn hóa được xếp hạng IFA Institut Franco-Asiatique (Viện Pháp-Á) KĐVSTGCM Khâm định Việt-sử thông giám cương mục ĐNLTCB Đại Nam liệt truyện chính biên ĐNLTTB Đại Nam liệt truyện tiền biên ĐNNTC Đại Nam nhất thống chí ĐNTLCB Đại Nam thực lục chính biên ĐNTLTB Đại Nam thực lục tiền biên ĐVSKTT Đại Việt sử ký toàn thư MCMS Mông-cổ mật sử NS Nguyên-sử TS Tống-sử TTDS Thuận Thiên di sử Thay lời tựa Thư viết cho tuổi trẻ Việt-Nam, Đây là những dòng tác giả viết cho tuổi trẻ Việt, dù ở trong nước hay ở ngoài lãnh thổ Việt-Nam. Xin các vị cao minh bỏ qua, chẳng nên bận tâm. Các bạn trẻ thân, Tôi ngồi viết những dòng tâm huyết này gửi đến các bạn, nhân Thư-viện Việt-Nam tại Hoa-kỳ tái bản lần thứ nhất bộ Anh-linh thần võ tộc Việt. Tôi khởi thảo thuật công cuộc dựng nước và giữ nước của tổ tiên ta vào tuổi 29 (1968). Tính đến nay trải 33 năm. Ba mươi ba năm so với lịch sử thì không dài, nhưng so với đời người, quả đã chiếm một khoảng quá quan trọng. Suốt thời gian đó, gần như tôi vượt qua tất cả những dịp may được hưởng thụ, để hoàn thành kỳ vọng của tiền nhân, để đạt được ước nguyện. Ước nguyện của tôi là thuật công cuộc dựng nước, giữ nước vĩ đại của tổ tiên ta trong năm nghìn năm lịch sử. Khởi thảo, tôi đã cùng phụ thân luận bàn đến gần một năm, để định rõ đoạn nào nên thuật, đoạn nào không nên thuật. Nhất, là sao trong bốn mươi năm, tôi có thể thực hiện trọn vẹn. Sau khi đẵn đo, tôi chia lịch sử làm 5 thời kỳ cần phải thực hiện: 1. Thời kỳ Lĩnh-Nam, thuật công nghiệp của vua Trưng cùng 162 tướng khởi nghĩa vào đầu thế kỷ thứ nhất. Đây là cuộc khởi nghĩa thành công, chỉ đạo bởi một những nữ anh hùng, mà trên thế gian chưa một phụ nữ nước nào có thể so sánh. Ba bộ sách thuật thời kỳ này mang tên Anh-hùng Lĩnh-Nam 4 quyển, Động-đình hồ ngoại sử 3 quyển, Cẩm-khê di hận 4 quyển, tổng cộng 11 quyển, 3510 trang. ... Chắc có bạn hỏi tôi rằng tại sao trước vua Trưng, tộc Việt từng có những thời rực hào quang như Phù-đổng Thiên-vương đánh giặc Ân. Trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung thời vua An-Dương phá quân Tần; mà không thuật? Xin thưa, những huân nghiệp đó đến thời vua Trưng đã trở thành chủ đạo của người Việt, nên được nhắc đến trong suốt 3510 trang. 2. Thời kỳ Tiêu-sơn, tiền nhân không khuyến khích tôi viết về thời kỳ Tiêu-sơn, vì viết về thời này thì phải thuật chiến công vượt biên Bắc phạt của Linh-nhân hoàng thái hậu (Ỷ-Lan) và Thái-úy Lý Thường-Kiệt. Nguyên do các người đều là nhà nho. Mà nhà nho thì cực kỳ ghét việc các bà Thái-hậu cũng như hoạn quan nắm quyền. Trong lịch sử Hoa-Việt, có không biết bao nhiêu các bà Thái-hậu nhân ấu quân lên ngôi, ngồi phụ chính, rồi chuyên quyền, dâm đãng, gây cho nước loạn. Còn bọn hoạn quan, nhờ vào vị thế tôi đòi hầu hạ vua, chúa cùng cac bà trong hậu cung mà nắm quyền, gây ra không biết bao nhiêu việc loạn ly, phá hoại kỷ cương đất nước. Nhưng ngày nay những bà Thái-hậu ngu dốt, những hoạn quan không còn nữa. Vì vậy tôi quyết định viết về thời kỳ Tiêu-sơn, thuật giai đoạn triều Lý dùng đức từ bi hỷ xả của Phật-giáo để trị nước, tạo hạnh phúc cho dân, cùng chiến công phía Bắc đánh Tống, phía Nam mở rộng bờ cõi. 3. Thời kỳ Đông-a, tức thời Trần. Vì trong chữ Nho, chữ Đông với chữ A thành chữ Trần, nên sử gọi triều Trần là triều Đông-a. Nội dung thuật ba cuộc thắng Mông-cổ của quân dân đời Trần. Như các bạn biết, quân Mông-cổ thắng từ Á sang Âu, đặt nền cai trị mấy trăm năm. Họ chỉ bại duy nhất tại Nhật-bản và Việt-Nam. Họ bại tại Nhật-bản thì dễ hiểu, vì Mông-cổ là quân Kỵ. Họ bỏ ngựa đánh thủy chiến, thì cái bại đã thấy trước. Nhưng tại Việt Nam tại sao họ bại? 4. Thời kỳ Lam-sơn, thuật cuộc khởi nghĩa đánh đuổi ngoại xâm, tái lập tự trị, do một nông dân là Lê Lợi chỉ đạo. (1418-1428) 5. Thời kỳ Tây-sơn, lại được chỉ đạo bởi những anh hùng áo vải, tái thống nhất đất nước, rồi chỉ một trận quét sạch 20 vạn quân Thanh và một trăm vạn dân phu. Khi tôi viết những dòng này, tôi đã hoàn thành tất cả 9 bộ, 35 quyển, khoảng 13.000 trang. Năm nay (2001), tôi đã bước vào tuổi 62 rồi, tuy nhiên sức khỏe còn tốt, tinh thần vẫn minh mẫn để thuật tiếp ba bộ nữa. Một là bộ Anh-hùng Đông-a gươm thiêng Hàm-tử, nói về chiến thắng Mông-cổ lần thứ nhì và ba. Hai là bộ Anh-hùng Lam-sơn. Ba là bộ Anh-hùng Tây-sơn. Tổng cộng, tôi còn nợ Tổ-tiên, nợ Dân-tộc, nợ các bạn khoảng 7.500 trang nữa. Tôi tin rằng tôi sẽ trả xong nợ trước khi gối mỏi, trước khi linh mẫn ra đi. Về thời kỳ Tiêu-sơn chia làm năm giai đoạn. Giai đoạn một, thuật lại công cuộc dựng nước của các tăng ni. Bằng cách nào, các vị tăng hồi đó đã dạy dỗ, giúp đỡ một thiếu niên cùng khổ trở thành đại tướng, rồi thành một hoàng đế nhân từ bậc nhất lịch sử. Giai đoạn này mang tên Anh-hùng Tiêu-sơn dài 1120 trang, 3 quyển. Tiêu-sơn là tên ngôi chùa, cũng là tên của một ngọn núi, theo khoa phong thủy thì nhờ ngôi mộ họ Lý kết phát trên núi Tiêu-sơn mà Lý Công-Uẩn trở thành hoàng đế, lập ra triều đình họ Lý làm vua 215 năm (1010-1225). Trong thời gian này, con trai thứ của vua Lỳ Thái-tổ là Lý Long-Bồ tước phong Khai-Quốc vương, cùng 9 người bạn kết thành Thuận-Thiên thập hùng; lập chí chiếm lại lãnh thổ Đại Việt bị Trung-quốc cướp sau khi đánh bại vua Trưng. Giai đoạn hai, vào thời vua Lý Thái-tổ trị vì. Đất nước thái bình, dân chúng sống yên vui. Nhưng khi vua Lý Thái-tổ lên ngôi, với sự cố vấn của các tăng ni, với đức từ bi khi còn ở chùa, ngài ban chỉ ản xá cho tất cả các tội đồ trong nước. Trong đám đó, có một tôn giáo, mà thời đó gọi là Hồng-thiết. Tôn giáo này du nhập từ phương Tây Trung-quốc, rồi vào đất Việt, giáo chúng rất đông. Nhân được án xá, giáo đồ Hồng-thiết quy tụ nhau mưu dâng nước cho Tống, rồi gây loạn. Nhưng cuối cùng bị Thuận-Thiên thập hùng dùng chủ đạo của tộc Việt đánh bại. Giai đoạn này mang tên Thuận-Thiên di sử, 1080 trang, 3 quyển. Thuận-Thiên là niên hiệu của vua Lý Thái-tổ. Giai đoạn ba, thuật lại tổ chức, sinh hoạt của 207 bộ tộc ít người nằm giữa Trung-quốc và Đại-Việt. Bằng cách nào họ luôn là hàng vào bảo vệ Đại-Việt, và họ đã chống lại cuộc xâm lăng tầm ăn đâu của triều Tống. Đây là vùng còn mang di tích sống theo chế độ Lạc-hầu, Lạc-tướng của thời vua Hùng, vua An-Dương, vua Trưng. Trên cao nhất có một vua Bà, do các động trưởng, châu trưởng bầu. Vua chỉ có tính cách tượng trưng của tôn giáo thờ các anh hùng dân tộc, đã được huyền thoại thành các vị thần. Còn thực quyền vẫn do các châu, động trưởng theo chế độ cha truyền con nối hoặc bầu cử. Các bộ tộc này, ngày nay vẫn còn tồn tại ở phía Nam Quảng-Tây, Vân-Nam và phía Bắc Việt-Nam. Trong những năm 1977-1992, nhờ công tác cho Ủy ban trao đổi y học Pháp-hoa (Commité Médical Franco-Chinois, viết tắt là CMFC), tôi đã lặn lội hầu hết những vùng này, và tìm ra biên giới thời Lý lên phía Bắc của biên giới ngày nay chỗ thì 45 cây số. Có chỗ lên tới 143 cây số. Bộ này mang tên Anh-hùng Bắc-cương, 1556 trang, 4 quyển. Bộ Anh-linh thần võ tộc Việt mà các bạn đang cầm trên tay, 1708 trang, gồm 4 quyển, thuộc giai đoạn bốn của thời kỳ Tiêu-sơn. Bộ này nối tiếp bộ Anh-hùng Bắc-cương. Đây là thời kỳ cực thịnh của triều đại Tiêu-sơn. Nội dung thuật bốn biến cố quan trọng: Một là cuộc đi sứ Trung-quốc của phái đoàn Việt, rồi đưa đến Lý-Tống kết thân, Hoa-Việt trải qua một thời gian dài thịnh trị. Hai là sau khi vua Lý Thái-tổ băng hà thì chư vương nổi loạn, rồi bị Thuận-Thiên thập hùng và Anh-hùng Bắc-cương đánh bại. Cuối cùng cuộc thống nhất 8 vùng tộc Việt: Đại-Việt, Đại-lý, Lão-qua (Lào), Xiêm-la, Chiêm-thành, Chân-lạp, Bắc-cương, và Nam-Việt (Lưỡng-Quảng)... thành công. Ba là Tống bỏ thỏa ước kết thân Tống-Lý, sai các biên thần Nam phương khích Chiêm, Lào đánh vào sau lưng Đại-Việt, Bắc họ chuẩn bị đánh xuống. Đại-Việt ra tay trước, đầu tiên phá Chiêm, rồi quay lên đánh chiếm lại lãnh thổ xưa. Bốn là, quân Việt do Nùng Trí Cao thống lĩnh đánh chiếm lại được cố thổ thời Lĩnh-Nam nay thuộc Quảng-Đông, Quảng-Tây, Vân-Nam, Quý-châu, Hồ-Nam Trung-quốc lập ra nước Đại-Nam. Các bạn trẻ thân mến, Tôi sống ở Pháp, một nước thuộc Cộng-đồng châu Âu (CĐCA). Đọc sử các nước của CĐCA, tôi thấy trong quá khứ họ cũng chém giết nhau khủng khiếp như Việt-Nam với Trung-quốc, như Việt-Nam với Cambodge, Lào quốc, Thái-quốc; thế mà họ bỏ qua tất cả, để kiến tạo một Cộng-đồng khiến cho dân chúng hạnh phúc. Từ đó tôi nhìn về cố quốc và tôi nảy ra ước vọng: Biết đâu một ngày nào đó, các nước trong ASEAN không trở thành một Cộng-đồng Nam-á châu? Riêng đối với Trung-quốc, tôi dám tự hào là một trong những người Việt từng đi khắp lãnh thổ rộng lớn này, kể cả Nội-Mông, Thanh-hải, Tân-cương, Tây-tạng, dĩ chí Mông-cổ, Nam-Bắc Hàn. Suốt 25 năm qua, khi thì tôi công tác cho Institut Franco-Asiatique (IFA) (Viện Pháp-á), khi thì tôi đi cho CMFC, khi thì tôi đi cho Coopérative Europénne Pharmaçeutique (CEP) ( Liên hiệp các viện bào chế dược phẩm châu Âu). Nhờ phương tiện tài chánh rộng rãi, nhờ hiểu biết tình hình Trung-quốc từ trung ương đến địa phương... tôi thành công trong mọi nhiệm vụ. Có thể nói, tôi từng tiếp xúc, mạn đàm, đối ẩm với hầu hết những người cao cấp nhất của Trung-quốc (1977-2001), tôi thấy rất ít người có tư tưởng bành trướng như người ta chụp mũ. Trung quốc không phải là một thế giới huyền bí. Chỉ cần đọc thực kỹ Tứ-thư, Ngũ kinh, Nhị thập tứ sử (24 bộ chính sử), cùng theo dõi những biến cố gần đây, rồi suy nghĩ như người Hoa, thì lập tức có cái chìa khóa mở được mọi cánh cửa Trung-quốc. Khi biết tôi là người Pháp gốc Việt, một vị (bậc nhì trong quyền lực Trung-quốc 1990) hỏi tôi rằng: " Nếu anh cầm quyền ở Việt-Nam, thì anh sẽ đối xử với Trung-quốc như thế nào?" Tôi trả lời: " Giống như anh và tôi hiện thời. Chúng ta ngồi ngoài vườn mà hoa đào, hoa mận đang nở. Chúng ta uống rượu Ngũ-gia bì, Thiệu-hưng và ăn xoài nhập cảng từ Lái-thiêu. Khi đàm đạo, chúng ta luôn nhắc tới những danh ngôn của Khổng, của Mạnh. Hơn nữa bà mẹ anh, tôi không thấy khác bà mẹ tôi làm bao. Cung cách của các con anh đối với anh không khác cung cách các con tôi đối với tôi. Nhất là gương mặt anh với tôi càng giống nhau. Chúng ta kính yêu nhau, tin tưởng nhau, thông cảm nhau. Tôi nghĩ là nếu tất cả người Hoa, người Việt có dịp gặp nhau, họ cũng sẽ đối xử với nhau như anh và tôi." Tôi nhấn mạnh: "Khổng-tử nói: Ta hồ binh đao chi sự, thánh nhân bất đắc dĩ dụng chi. Trung-quốc coi Việt-Nam như anh em, thì Trung-quốc có người bạn tốt ở Nam-thùy. Còn như Trung-quốc cứ gây hấn, thì Trung-quốc có một kẻ thù ở sau lưng". Các bạn trẻ thân, Những gì mà người bạn Trung-quốc với tôi đàm đạo không có tính chất ý tại ngôn ngoại. Câu nói trên đây của tôi, tôi xin lấy bộ Anh-linh thần võ tộc Việt để dẫn chứng. Thân chào các bạn. Paris ngày 15 tháng 4 năm 2001. Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ. ANH LINH THẦN VÕ TỘC VIỆT Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ www.dtv-ebook.com Chương 2: Sứ đoàn xiêm la Sau hơn nửa tháng dùng đường thủy, sứ đoàn Đại-Việt tới mới Tương dương. Bảo-Dân tỏ ra thông thạo đường lối. Y nói: - Bây giờ chúng ta lên bộ đi bằng xe ngựa. Sau một ngày tới Tân-dã, nghỉ đêm tại đây, rồi ta lại đi Nam-dương. Nam-dương đối với Trung-nguyên là đất thiêng, vì đã sản xuất ra nhiều nhân tài, trong đó có Gia-cát Lượng, một vị tể tướng nức tiếng thời Tam-quốc. Địa đanh Tương-dương, Tân-dã, Nam-dương đối với Khai-Quốc vương, Thanh-Mai, Mỹ-Linh thì rất quen thuộc. Vì cả ba đã đọc Bắc-sử thời Tam quốc. Còn Thiệu-Thái, chàng chưa từng nghe đến bao giờ. Tuy vậy, chàng tự nhủ: - Địa danh Trung-nguyên mình không thuộc là lẽ thường. Mình cũng chẳng cần thắc mắc. Vì vậy chàng không hỏi han gì cả. Bảo-Dân cho thuyền đậu tại ngoài Phàn-thành. Y nói: - Tương-dương là nơi phát xuất ra võ phái dương cương, đường đường chính chính từ đời Tần-Hán. Thời Đông-Hán có chín đại tướng danh tiếng nhất xuất thân phái này. Chín người được vua Quang-Vũ ban cho cái mỹ danh là Tương-dương cửu hùng. Họ từng giao chiến với các anh hùng thời vua Trưng. Mỹ-Linh đã thuộc làu sử Lĩnh-Nam. Nàng hỏi: - Có phải chín người đó là Sầm Bành, Mã Vũ, Cảnh Yểm, Tế Tuân, Tang Cung, Lưu Hân, Lưu Long, Đoàn Chí, Phùng Tuấn không? - Đúng thế. Khai-Quốc vương nhìn Bảo-Dân tủm tỉm cười: - Tương-dương cửu hùng thực ra chỉ có tám người. Vì Mã Vũ đâu phải là người Hán, ông là người Việt mà. Ông có tên Chu Kim-Hựu, vốn thuộc phái Cửu-chân. Cũng như hiện nay, danh sĩ Trung-nguyên không ngớt ca tụng Tương-giang tam tuyệt. Có ai ngờ đâu họ lại là Côi-sơn tam anh của Đại Việt. Bảo-Dân giật bắn người lên. Vì cách đây hơn mười năm, ba đại đệ tử của Côi-sơn đại hiệp Trần Tự-An là Trần Phụ-Quốc, Trần Bảo-Dân, Trần Trung Đạo võ công cực kỳ cao thâm, bản lĩnh không thua Đại-Việt ngũ long làm bao. Bấy giờ người người đều truyền tụng: Trên trời có ngũ long. Dưới đất có tam-anh. Ngụ ý nói tài Côi-sơn tam anh chỉ dưới có Đại-Việt ngũ long mà thôi. Ngoài võ công ra, Phụ-Quốc nổi danh bút mặc văn chương, cử bút thành thơ. Bảo-Dân nức tiếng âm nhạc. Đến nỗi phái Sài-sơn có hơn nghìn năm chuyên về nhạc, mà cũng phải tấm tắc khen tài. Trung-Đạo nổi danh về họa. Rồi giang hồ không hiểu sao ba người đều tuyệt tích. Họ có ngờ đâu sư phụ sai ba người sang Trung-nguyên lập hệ thống tế tác, phòng quân Tống sang đánh Đại-Việt. Cả ba cùng hoạt động ở vùng Trường-giang, Tương-giang, rồi họ được danh sĩ Trung-nguyên tặng cho mỹ tự Tương-giang tam tuyệt. Không ai ngờ Tương-giang tam tuyệt với Côi-sơn tam anh lại là một. Bây giờ thình lình Khai-Quốc vương nói ra, làm Bảo-Dân kinh ngạc. Mỹ-Linh biết Bảo-Dân bồi hồi trong lòng vì lời nói của chú mình. Nàng hỏi Kim-An một câu, để Bảo-Dân quên đi: - Khấu sư thúc này. Trong Tương-dương cửu hùng thì Sầm Bành bị Bắc bình vương Đào Kỳ giết. Tang Cung, Lưu Hân bị Thiên-ưng lục tướng bắt cho chim ưng ăn thịt. Đoàn Chí bị công chúa Gia-Hưng chém trên biển Đông. Cản Yểm bị giết tại điện Vị-ương. Rút cục chỉ còn Lưu Long, Phùng Tuấn, Tế Tuân không rõ sau ra sao? - Tôi cũng không nhớ nữa. Chỉ biết rằng hầu hết những anh hùng thời Đông-Hán đều chết vì tướng của vua Bà. Đau nhất là Sầm Bành bị giết ở Dương-bình-quan. Xin đọc Anh-hùng Lĩnh-Nam, Động-đình hồ ngoại sử, Cẩm-khê di hận, của Yên-tử cư-sĩ, do Nam-á Paris x.b. Nàng hỏi chồng: - Chúng ta có lên bờ dạo chơi không? Bảo-Dân đưa mắt hỏi Khai-Quốc vương. Vương cười: - Nên chứ. Ta là sứ đoàn Đại-Việt mà. Ta cứ đường đường chính chính dạo chơi. Bất quá quan quân Tống có hỏi, ta đưa thẻ bài ra, họ phải hộ tống ta về Biện-kinh là khác. Có điều ta không nên dụng võ. Sáu người lên bờ. Lập tức đám trẻ con rước khách cho phu xe chào đón đon đả. Kim-An thuê hai xe ngựa. Khai-Quốc vương, Thanh-Mai, Thiệu-Thái đi một xe. Người đánh xe xưng tên là lão Cố. Mỹ-Linh với vợ chồng Bảo Dân đi một xe. Người đánh xe tự xưng tên là lão Xa. Hai xe nối đuôi nhau vào thành. Hôm ấy trời lất phất mưa, gió thổi lạnh buốt, ngoài đường vắng bóng người đi. Xe sang của Tây, mưa càng nặng hạt. Màn cả hai xe đều phải đóng kín. Xe đang đi, thình lình phải đứng lại. Phu xe nói vọng vào: - Xin quý khách cảm phiền, vì phía trước có người tụ tập đông quá, xe đi không được. Mỹ-Linh hỏi: - Họ tụ tập làm gì vậy? - Thưa, họ xem bảng văn. Bảng văn yết thị tầm nã tội phạm. Tò mò Mỹ-Linh thò đầu ra ngoài nhìn. Bất giác nàng gật bắn người lên, vì bảng văn của quan kinh-lược sứ Kinh-châu yết thị cho ai bắt được năm tội phạm có hình dưới sẽ được thưởng trăm lượng vàng. Nhưng bảng văn không biết rõ tên tuổi tội phạm là gì. Trong hình năm tội phạm, một người giống hệt Bảo-Hòa. Một người giống hệt Thông-Mai. Phía dưới ba hình, Lê Văn, Tôn Đản, Tự Mai. Khai-Quốc vương kinh ngạc, vương nói bằng tiếng Việt: - Không hiểu sao năm người này để lộ chân tướng. Nay có lệnh truy nã thực khó mà hành động. Thanh-Mai an ủi chồng: - Dường như họ chỉ thấy người, mà không biết rõ lý lịch. Ta truyền tin bảo họ thay đổi y phục, hoá trang đi một chút ai mà biết được? Khai-Quốc vương lắc đầu: - Không cần, không nên làm thế. Anh thấy trong vụ này có điều gì bí ẩn. Vì bảng văn do Kinh-lược sứ truy tầm chứ không phải triều đình. Như vậy có nghĩa phạm trường xẩy ra trong thành Tương-dương. Nhưng Bảo-Hòa, Tự Mai, Tôn Đản, Lê Văn chưa từng đến đây. Nét mặt Vương cương quyết hơn: - Chúng ta đi sứ. Hai lần triều Tống cử người hộ vệ ta đều không làm tròn nhiệm vụ. Lần này chính hai lão Tôn, Lê quẳng ta tại núi Tam-sơn. Bây giờ Kinh-lược sứ Kinh-châu cáo thị truy tầm người của sứ đoàn. Như vậy tức y làm nhục quốc thể. Xưa nay sứ thần dù phạm tội gì, chỉ Hoàng-đế mới được phán xét. Có đâu kinh lược sứ vô phép? Thôi được bây giờ chiều rồi. Mai ta vào gặp kinh lược sứ chất vấn y cũng chưa muộn. Xe đi khắp thành, chỗ nào cũng thấy niêm yết cáo thị tầm nã. Bảo-Dân truyền lệnh cho phu xe: - Người đưa chúng ta đến một tửu lầu nào đi. - Thưa khách quan, có một tửu lầu danh tiếng tên Hán-dương, nhưng lại ở về phía Tây-thành đến năm dậm. Nếu khách quan không chê xa, lão xin đưa đến. - Được người dẫn chúng ta đến đó đi. Xe ra khỏi thành, hướng về phía Tây. Thanh-Mai để ý thấy thỉnh thoảng trong xe có mùi u hương bốc lên ngào ngạt. Nàng dùng lăng không truyền ngữ hỏi Thiệu-Thái: - Thiệu-Thái! Trên xe cháu có gì lạ không? - Cháu thấy dưới nệm xe để một chiếc khăn ướt tẩm hương ngũ-hoa, thì biết chúng muốn hạ độc mình, nhưng còn e dè. Vì vậy chúng cho mình ngửi hương ngũ hoa trước. Sau đó mới phóng độc tố. Chất độc này hơi giống Di hồn. Không lẽ bọn chúng thuộc phái Côn-lôn. Vì trước đây Đoàn Huy bị trúng thất trùng ngũ hoa rồi truyền sang mợ. - Công lực Thiệu-Thái cao, vậy cháu hãy dùng lăng không nói cho Mỹ Linh bên xe kia biết mà đề phòng. Nếu thấy vợ chồng nhị sư huynh ngủ gục, mình cũng vờ trúng độc xem tụi nó định làm gì. - Cháu đã báo rồi. Ngặt một điều Kim-An không đủ công lực chống với độc tố, e bị hại. - Không sao. Thanh-Mai dùng lăng không truyền ngữ nói với chồng: - Mình nên để yên, hay lột mặt nạ tên đánh xe này? Nghe vương phi hỏi, Khai-Quốc vương tự chửi thầm: - Mình đáng chết thực, vì đang mải lo nghĩ về nội loạn trong nước, mà thiếu thận trọng. May mà Thanh muội nhận ra cái khác lạ của gã đánh xe. Vốn thận trọng vương trả lời: - Cứ chờ xem y định dở trò ma trò quỉ gì. Em thấy y có hành vi nào khác lạ không? - Nhiều lắm. Thứ nhất, phía Tây thành Tương-dương không có tửu lầu Hán-dương. Y nói cách thành năm dặm, mà nãy đến giờ đã quá mười dặm rồi. Điểm nghi ngờ thứ nhì là hơi thở của y dài, nhỏ như tơ liên miên bất tuyệt. Như vậy y có nội lực thâm hậu vô cùng. Anh có để ý thấy họ dùng ngũ-hoa hương tẩm vào khăn để dưới xe cho mình ngửi trước, rồi hạ độc sau không? - Em nói anh mới biết. Nàng dùng lăng không truyền ngữ hỏi Mỹ-Linh: - Mỹ-Linh thấy gã đánh xe có gì khác lạ không? - Y là một đại cao thủ, nội công thâm hậu vô cùng. Chú hai định sao? - Bề gì chúng cũng chỉ có hai người. Nếu cần ta điểm huyệt kiềm chế chúng, đâu có khó. Mỹ-Linh hỏi lão Xa: - Ban nãy lão nói tửu lầu ở phía Tây thành năm dậm. Nãy giờ xe đi có tới mười dặm, mà sao chưa thấy? Lão chỉ vào một rừng ven con sông nhỏ: - Kìa! Tửu lầu Hán-dương kìa. Quan khách hãy nhìn xem có lớn không? Mỹ-Linh nhìn lên, chẳng thấy gì cả, trong khi mùi hương ngào ngạt từ cổ tay lão bay ra. Biết lão phóng độc, nàng vội vận công chống trả. Đến đây Kim-An gọi chồng: - Anh ơi! Tại sao chân tay em lại vô lực thế này. Bảo-Dân cũng cảm thấy chân tay tê dại. Biết bị trúng độc, nhưng nội lực y hùng hậu, nên thuốc chưa ngấm vào cơ thể. Y ra chiêu Cầm-long trảo chụp lão Xa. Lão Xa vọt mình lên cao tránh khỏi. Bảo-Dân đứng dậy, y đánh ngựợc lên chiêu Phong-ba hợp bích. Lão Xa đánh xuống mợt chưởng, nội lực hùng hậu vô cùng. Mỹ-Linh thấy công lực lão cao hơn bọn trưởng lão Lạc long giáo nhiều. Trong chưởng có mùi hôi tanh khủng khiếp. Mỹ-Linh than thầm: - Thì ra hai lão này luyện Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng. Không biết lão thuộc bang Nhật-hồ Trung-quốc hay thuộc Hồng-thiết giáo Đại-Việt. Một điều đáng lo là không rõ chúng có biết nói tiếng Việt không. Nhất định chúng không phải là người Hoa rồi, vì chúng nói tiếng Hoa hơi ngọng. Trong khi Mỹ-Linh nghĩ thì chưởng Bảo-Dân với lão Xa đụng nhau, binh một tiếng người lão Xa bay bổng lên cao. Sau khi đánh hai chiêu, thuốc độc ngấm mau chóng, người Bảo-Dân rơi xuống xe. Lão Xa đáp xuống nhẹ nhàng. Lão cười nhạt nói với Mỹ-Linh bằng tiếng Việt: - Công chúa điện hạ. Nghe nói nội công cùng kiếm pháp công chúa cao thâm vô cùng. Nên anh em lão phải thỉnh đại giá công chúa bằng thuốc ngũ hương di-hồn nhuyễn cân. Làm như vậy thực là vô lễ. Mong công chúa đại xá. Mỹ-Linh mỉm miệng cười: - Tiên sinh khỏi cần đánh thuốc độc. Chú cháu tôi đi sứ, nên tuyệt đối không dùng võ công trên đất Tống. Tiên sinh ơi! Khi chúng tôi không xử dụng võ công thì tiên sinh đánh thuốc chi cho mệt? Hai vị Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ đã từng đùng thuốc nhuyễn cân với chúng tôi. Chúng tôi có chống lại đâu? Lão Xa chỉ Bảo-Dân hỏi: - Công chúa! Dưới tay cường tướng vô nhược binh. Công chúa làm cách nào mà thu phục được gã này. Công lực gã thực khó có ai đạt được ngang hàng. Bảo-Dân bị trúng Chu-sa độc chưởng. Y đau đớn vô cùng, nhưng vốn can đảm, y nghiến răng chịu vận công chống độc, chứ nhất định không rên la. Lão Xa nói một mình: - Nội công của y là thứ tà môn giống như Thiếu-lâm. Nhưng hung dữ vô cùng. Chiêu Cầm-long trảo biến hóa thực kỳ diệu. Còn chiêu võ đánh ngược lên cao giống như Kim-cương ban nhược chưởng của Thiếu-lâm, mà sát thủ thực kinh người. Nghe giọng điệu lão Xa, Mỹ-Linh nghĩ thầm: - Tên này tin theo Hồng-thiết kinh, luận điệu giống Nhật-Hồ lão nhân đây. Tiên, Thánh, Thần, Phật đối với y đều thuộc ma quỷ hết. Dường như y không biết nhiều về võ công Đại-Việt. Y thấy võ công Đông-a giống võ công Tiêu sơn. Trong khi võ công Thiếu-lâm cũng giống võ công Tiêu-sơn. Y nhận lầm võ công Đông-a với Thiếu-lâm là một. Lão Xa không nói, không rằng, cho xe chạy vào khu đất hoang. Bên xe kia Khai-Quốc vương, Thanh-Mai, Thiệu-Thái cũng giả vờ ngồi bất động trên xe. Lão Cố cũng cho xe chạy theo xe lão Xa. Lão Cố nhìn lão Xa cười ha hả: - A ha, không ngờ chúng ta thành công dễ dàng thế nhỉ. Bọn này trúng Di hồn nhuyễn cân ngũ hoa phấn, ít nhất mười ngày mới cử động được. Trong thời gian đó ta cho xe chạy thực mau, có thể tới Biện-kinh. - Bây giờ ta cho cả sáu đứa này vào trong chiếc xe lớn, để lên đường. Có nên trói chúng lại không? - Không nên, vì trói chúng, dọc đường quan quân khám xét, hỏi han lôi thôi lắm. Ta cứ đặt chúng ngồi bên nhau, rồi cho xe chạy thì hơn. Thiệu-Thái hỏi lão Cố: - Lão là ai? Tại sao lại đánh thuốc độc bọn ta? - Bọn lão phu nói tên chắc thế tử cũng không biết đâu. Anh em lão phu có việc cần tới Khai-Quốc vương, nên phải nghênh đại giá bằng lối này, quả thực vô phép. Nhưng biết làm sao hơn? Lão Cố hú một tiếng dài. Từ trong vườn, một chiếc song mã lớn, trên có một thiếu niên đánh xe chạy ra. Gã chắp hai tay lại để lên trán, rồi cúi đầu hành lễ với hai lão Cố, Xa: - Đệ tử kính cẩn ra mắt nhị vị giáo chủ. Nghe thiếu niên gọi hai lão bằng giáo chủ, cả sứ đoàn đều ngơ ngác tự hỏi: - Rõ ràng hai lão này xử dụng Nhật-hồ độc chưởng, như vậy chúng thuộc Hồng-thiết giáo. Trung-quốc Hồng-thiết giáo hoạt động dưới danh nghĩa bang Nhật-hồ. Chỉ Đại-Việt mới có Hồng-thiết giáo, giáo chủ là Nhật-Hồ lão nhân. Vậy hai lão này là giáo chủ nào nữa? Lão Cố hỏi thiếu niên: - Người tên gì? Báo danh di. - Đệ tử tên Bủa Khảm thuộc đạo Vạn-tượng. - Người cho xe chạy vào thành mau, bằng không trời tối đến nơi rồi. Thanh-Mai dùng Lăng-không truyền ngữ hỏi Thiệu-Thái: - Nhị sư ca bị trúng Chu-sa độc chưởng. Thiệu-Thái nghĩ xem để lâu có hại không? - Công lực nhị thúc rất cao, nên dù bị trúng độc chưởng, mà hiện giờ chưa thấy phát tác. Cháu định giải độc cho nhị sư thúc, không biết có nên không? - Khoan! Thiệu-Thái nói cho nhị sư ca biết trước. Bằng không khi được giải độc, người lại dùng võ thì hỏng bét. Lão Cố cầm roi ngựa rung lên, roi quấn vào Mỹ-Linh. Lão giật roi một cái người nàng bay sang chiếc song mã, rơi xuống ghế êm ả, giống như đặt nàng ngồi vậy. Tiếp theo tới Thanh-Mai, Kim-An. Lão Xa dùng ưng trảo nhắc Khai-Quốc vương, Thiệu-Thái, Bảo-Dân bỏ sang xe lớn. Vô tình lão đặt Thiệu-Thái, Bảo-Dân cạnh nhau. Thiệu-Thái làm như người trúng độc, tay vô lực, chàng để lòng bàn tay lên đùi Bảo-Dân, rồi vận công chuyển sang người y . Bảo-Dân kinh lịch giang hồ nhiều, y bị trúng Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng đau đến toát mồ hôi lạnh. Song bản tính gan lỳ, y cắn răng vận công chịu đựng, chứ nhất định không rên la. Thình lình y thấy Thiệu-Thái để tay lên đùi, rồi chân khí cuồn cuộn tràn vào người y. Chân khí chạy đến đâu, cái đau biến mất đến đó. Trong khi ấy tiếng Thanh-Mai nói như rót vào tai y : - Sư huynh ơi! Thiệu-Thái giải độc cho sư huynh. Vậy sư huynh đừng chống lại. Sau khi hết đau đớn, sư huynh phải làm như mình vẫn còn bị độc tố hoành hành. Chúng ta cần im lặng, xem hai lão này định làm gì. Khoảng nhai dập miếng trầu, bao nhiêu cái đau đớn trên người Bảo-Dân biến mất. Y giả vận công chống dau. Lão Cố hỏi Khai-Quốc vương: - Vương gia! Vương gia thử đoán xem lão phu là ai? Tại sao lão phu lại vô phép như thế này? Khai-Quốc vương thản nhiên: - Hai vị với cô gia vốn cùng tộc Việt với nhau. Tại sao lại phải cúi đầu làm đương sai cho Lưu hậu. - Nhưng vương gia đã biết anh em lão phu là ai đâu? Khai-Quốc vương cười nhạt tỏ vẻ dung thứ. Thanh-Mai cười khúc khích: - Nhị vị giáo chủ thực không thông thế tục chút nào hết. Phu quân tôi vì đi sứ nên không thể dùng võ công. Chứ cái gọi là Nhật-hồ độc chưởng chúng tôi có coi ra gì? Nàng nhìn lão Cố: - Sử-Vạn vương gia, công lực đến như Nhật-Hồ, Lê Ba, Nhất-Trụ, mà chúng tôi còn trị được. Huống hồ vương gia chỉ là một Đông-phương sứ giả của y. Lão Cố kinh hãi đến rụng rời chân tay. Thanh-Mai nhìn lão Xa: - Khiếu tiên sinh. Đối với Đại-Việt, tiên sinh là Nam-phương sứ giả Hồng-thiết giáo, nay sao tiên sinh lại tự xưng là giáo chủ Hồng-thiết của sắc dân Khờ-me. Tôi nói thế có đúng không? Đến lượt lão Xa kinh sợ. Chiếc roi ngựa trên tay lão suýt rơi xuống đất. Lão lắp bắp, giọng đã có đôi phần khách sáo: - Bằng cách nào vương phi nhận ra anh em lão phu. Thanh-Mai chỉ lão Cố nói với Mỹ-Linh: - Vị này tên thực là Sử-Vạn Na-vượng con thứ ba tiên vương Lão-qua. Vương gia nức tiếng võ công đệ nhất trong nước. Vì không được truyền ngồi vua, vương gia bỏ sang Đại-Việt, mưu ngoại viện. Vương gia gặp Nhật-Hồ lão nhân, được lão nhân truyền Hồng-thiết thần công, rồi phong cho làm một trong ngũ sứ Hồng-thiết giáo, giao nhiệm vụ phát triển giáo chúng vùng Lão qua. Sau khi giáo chúng Lão-qua có cơ sở, Nhật-Hồ lão nhân thưởng công cho vương gia bằng cách truyền Hồng-thiết tâm pháp để có thể giải vĩnh viễn Nhật-hồ độc chưởng. Từ đấy vương gia tách ra, thành lập Hồng-thiết giáo Lão-qua, tự phong làm giáo chủ, không phụ thuộc Nhật-Hồ lão nhân nữa. Gần đây, vương gia được Lưu thái hậu phong cho làm Kiểm hiệu thái phó, Tĩnh hải tiết độ sứ, Đồng bình chương sự, Nam-phương tĩnh lự công thần, Lão-qua quận vương. Thực ấp vạn hộ. Thực-phong ngũ thiên hộ. Nhưng vương gia chưa vừa lòng, muốn được kiêm cả vùng Đại-lý. Nàng chỉ Khiếu Tam-Bản: - Còn vị này tên Khiếu Tam-Bản, được phong Thái-tử thiếu bảo, Nam-hải tiết độ sứ, Đồng bình chương sự, Khai-phủ nghị đồng tam tư, Chân-lạp quận vương. Thực ấp vạn hộ, thực phong tam thiên hộ. Nàng nói tiếp: - Quốc vương triều Sà-phạt có ba con trai. Con đầu lòng tên Phủ-mỹ Na vạn, do một hoàng hậu gốc Việt sinh ra. Khi mới lọt lòng Phủ-Mỹ Na-Vạn đã được phong làm Thái-tử. Na-Vạn tính tình hiền hậu, rất được lòng dân chúng. Khi phụ vương băng hà, ông lên nối ngôi làm vua. Con thứ tên Phủ-Vạn-Nặc Phụ-Mã, con một thứ phi người Chân-lạp sinh ra. Phủ-Vạn-Nặc, văn võ kiêm toàn, luôn tìm ngoại viện với Xiêm-la, Đại-Việt, Đại-lý, Trung-nguyên để cướp ngôi anh. Y lại khéo chiêu hiền nạp sĩ, nên dưới tay y có nhiều nhân tài. Khi anh y sắp băng hà, gọi y lại trao phó việc mai sau, mong y phò tá con côi. Phủ-Vạn là Phật-tử rất thuận thành. Do vậy y giao du với Nguyên-Hạnh. Nguyên-Hạnh khích y cướp ngôi cháu. Nhưng y sợ oai triều Lý, không dám ra tay. Nguyên-Hạnh khuyên y nên theo Tống. Khi được sắc phong của Tống, triều Lý sẽ không dám đem quân trừng phạt khi y cướp ngôi vua. Y được Triệu Thành tấu với triều đình phong cho chức tước. Nhưng âm mưu của y bị Khu-mật viện Đại-Việt khám phá ra. Trong đại hội Lộc-hà, Thuận-Thiên hoàng đế đem tất cả thư tín, cùng vàng bạc y cống Tống tặng lại y. Y kinh hoảng, bỏ Tống trở về với Đại-Việt. Nàng cười giòn dã: - Hoàng tử thứ ba tên Sử-vạn Na-vượng, do một cung nữ sắc dân Thái sinh ra. Vốn có sức khỏe, y sớm trở thành thiên tài võ học. Y nghĩ rằng: Lão qua tuy nằm trong tộc Việt, nhưng toàn sắc dân người Thái. Sinh mẫu y là người Thái, vì vậy y mới xứng đáng lên ngôi vua. Y sang Đại-Việt tìm hậu thuẫn với Lê triều, y kết hôn với một thiếu nữ Việt. Nhưng triều Lê từ chối. Y đang thất vọng, thì gặp Nhật-Hồ lão nhân. Lão nhận y làm sư đệ, truyền Hồng-thiết kinh cho y, rồi phong y làm Đông-phương sứ giả. Nàng chỉ Khiếu-tam-bản: - Khiếu Tam-Bản trước đây đã sang Tống du học, văn hay, chữ tốt. Một cơ duyên may đến với y. Y gặp Nhật-Hồ lão nhân. Y được lão kết huynh đệ, truyền Hồng-thiết công cho. Y trở về Chân-lạp truyền bá Hồng-thiết giáo. Hồng-thiết giáo của y đi đến đâu giết người đến đó. Khắp xứ Chân-lạp chỗ nào cũng trở thành điêu tàn, tưởng như tuyệt diệt. Nàng lắc đầu: - Còn Sử-vạn, sau khi liên kết với Tam-Bản. Y trở về Lão-qua truyền giáo. Thế lực của y cực lớn. Đến nỗi quốc vương phải phong cho y tước vương, cho giữ chức Thái-phó, coi toàn bộ binh lực. Nhật-Hồ lão nhân khen ngợi, truyền Hồng-thiết tâm pháp cho y, hầu y có thể giải vĩnh viễn Nhật-Hồ độc chưởng cho giáo chúng. Được Hồng-thiết tâm pháp rồi, y bèn tách khỏi Hồng-thiết giáo Đại-Việt, lập ra Hồng-thiết giáo Lão-qua, do y làm giáo chủ. ... Trong khi đó Khiếu Tam-Bản cũng thành công ở Chân-lạp. Cũng được truyền Hồng-thiết tâm pháp. Tam-Bản thấy Sử-Vạn Na-Vượng tách khỏi Hồng-thiết giáo Đại-Việt lập Hồng-thiết giáo riêng. Y cũng bắt chước, tự xưng giáo chủ. ... Vì sắc dân Thái sống khắp Đại-lý, Lão-qua, Xiêm-la, nên Hồng-thiết giáo của Sử-Vạn Na-Vượng có tổ chức khắp ba nước. Nhân sau đại hội Lộc hà, thấy anh hùng tộc Việt tôn Khai-Quốc vương làm minh chủ, trong việc thống nhất. Y xin Khiếu Tam-Bản giúp đỡ, tổ chức đại hội võ lâm Vạn tượng, làm lễ giỗ công chúa Nguyệt-Đức Phùng Vĩnh-Hoa, mục đích nêu cao ngọn cờ thống nhất sắc dân Thái, để tôn y làm minh chủ. Nhưng trong đại hội, y bị võ phái Thiên-tượng của Đoàn Huy, võ phái Tha-nôm của Rát-ta-Na phá tan. Y bèn cùng Khiếu Tam-Bản lộn trở sang Tống tìm ngoại viện. ... Giữa lúc đó Lưu hậu bắt buộc phải phong chức tước cho Chu Bội-Sơn, Đào Tường-Phúc, sai trấn ở ngoài. Bà thiếu chân tay võ công cao ở trong để làm những truyện bí mật. Bà phong cho y với Khiếu Tam-Bản chức tước, rồi sai đi khống chế bá quan văn võ. Chỉ thời gian ngắn hai lão lập được biết bao công. Bà trao cho Sử-vạn Na-Vượng chức Trấn-quốc đại tướng quân, Tổng lĩnh thị vệ. Còn Khiếu Tam-Bản được phong Hoài-hóa đại tướng quân, lĩnh chức Bắc-ban nội phẩm, phụ trách thị vệ Cấm-thành. ... Cách đây mấy ngày, tin tức từ Đàm-châu tâu về triều việc Chu Bội Sơn, Đào Tường-Phúc bị một thế lực bí mật bắt mất mười trưởng lão bang Nhật-hồ. Hai lão mất tích cùng sứ đoàn. Lưu hậu cho rằng việc này do Định vương ra tay. Bà vội sai y lên đường tìm sứ đoàn, bằng mọi cách đem sứ đoàn về triều. Sử-vạn tưởng võ lâm Hoa-Việt không ai biết y. Nào ngờ bây giờ y với Khiếu Tam-Bản bị Thanh-Mai nói đúng lý lịch. Dù trời mùa Đông, mồ hôi y cũng vã ra. Thanh-Mai thấy y sợ, càng dọa già: - Nhị vị giáo chủ. Rất đỗi hùng mạnh như Hồng-thiết giáo Đại-Việt, như bang Nhật-hồ Trung-quốc. Võ công cao như Nhật-Hồ lão nhân, như tả hữu sứ Chu Bội-Sơn, Đào Tường-Phúc. Bang trưởng Đặng Đại-Bằng cùng hai vị Phương Hổ, Phương Báo... nay đã thoát ra khỏi ma chướng, ma nghiệp. Nhị vị ơi! Buông dao mổ heo, lập tức thành Bồ-tát. Nhị vị giết người đã nhiều rồi mà nay còn đi vào đường tà, e rằng đại họa lâm đầu, bấy giờ có hối cũng không kịp nữa. Sử-vạn Na-vượng quay lại nói một tràng tiếng lạ với Khiếu Tam-Bản. Khiếu Tam-Bản cũng đáp lại bằng tiếng lạ. Hai người nhìn nhau cười khúc khích. Thiệu-Thái nghe hai lão đối đáp, chàng nhận ra họ dùng tiếng Thái. Tại Bắc-biên có đến năm khê động Thái trắng, ba khê động Thái đen. Chàng được song thân cho học đủ thứ tiếng Thái, Mường, Mèo từ nhỏ, nên nay nghe hai lão nói lén với nhau, chàng hiểu liền. Sử-Vạn Na-vượng: - Con nhỏ này là vợ gã Lý Long-Bồ phải không? Khiếu Tam-Bản: - Đúng thế. Nay mai gã lên làm vua Đại-Việt đấy. - Bỏ mẹ chúng mình rồi. Từ xưa đến giờ Chân-lạp, Lão-qua đều phải thần phục Đại-Việt. Chúng mình mưu làm vua, mà gây hấn với gã này, e không đất mà chôn. Gã như lửa cháy ở gần, trong khi Lưu hậu như nước lại ở xa. Làm sao bây giờ? - Tôi nghĩ chúng ta nên đánh thuốc độc giết cả sứ đoàn, rồi đổ cho người của Định-vương Nguyên Nghiễm. Như vậy sau này ai lên làm vua Đại-Việt cũng được, còn hơn để gã Long-Bồ sống, chúng ta không thể yên với gã. - Tạm thời ta cứ lên đường về Biện-kinh đã, rồi sẽ liệu. Thiệu-Thái dùng Lăng-không truyền ngữ thuật những gì hai lão nói với nhau cho Khai-Quốc vương cùng Thanh-Mai nghe. Xe đã vào trong thành. Lại gặp chỗ dân chúng tụ tập xem bảng văn tầm nã của Kinh-lược sứ làm xe bị nghẽn lối không đi được. Chợt Thanh-Mai thấy bảng văn như có gì khác với những bảng văn xem hồi trưa. Nàng đọc lên cho mọi người nghe: Quan Kinh-lược sứ Kinh-châu, cùng Tư-mã Tương-dương cáo tri cho dân chúng biết. Hiện có hai tên đại đạo khét tiếng đang lẩn trốn trong vùng. Một đứa có tên Sử-vạn Na-vượng người xứ Lão-qua. Một đứa có tên Khiếu Tam-Bản người xứ Chân-lạp. Ai bắt hoặc giết được một tên, bản chức sẽ thưởng cho trăm lượng vàng. Trên hai tấm vải lớn. Mỗi tấm vẽ hình một người theo hai thế. Một thế nhìn thẳng, một thế nhìn nghiêng. Tấm bên phải vẽ hình Sử-Vạn Na-vượng. Tấm bên trái vẽ hình Khiếu Tam-Bản. Nét vẽ sống động, trông giống như hai lão như bên ngoài. Cả sứ đoàn đều kinh ngạc đưa mắt nhìn nhau. Hai lão Khiếu, Sử tung mình khỏi xe đến sát dưới tấm bảng, đọc lại bảng văn. Một người dân ra vẻ hiểu biết nói: - Hai tên đại đạo này không vừa. Đêm qua chúng dám lọt vào dinh Kinh- lược sứ ăn trộm bảo vật của vua Xiêm cống Thiên-tử. Một người hỏi: - Sao cống bảo lại ở trong dinh Kinh-lược sứ? - Có gì đâu mà lạ. Sứ thần Xiêm-la là Thái tử An-nan Tam-gia-la-sun cư trú tại dinh Kinh-lược sứ. Không ngờ trong đêm hai tên đại đạo này lẻn vào ăn cắp cống bảo. Hai lão Sử-Vạn, Khiếu chưa đọc hết, dân chúng đã nhận ra mặt chúng giống hình cáo tri. Một người kêu: - Hai tên đại đạo đây rồi. Họ xúm vào bao vây hai lão. Một vài người có vũ khí, họ rút ra cầm tay. Hai lão kinh hãi, vội nhảy lên xe miệng hô: - Chạy mau. Gã đánh xe ra roi. Xe hướng cửa Bắc phóng đi như bay. Nhưng tới cửa Bắc, lại gặp đám dân chúng đang đứng xem bảng văn truy tầm hai lão. Gã đánh xe quát tháo, cho ngựa lao vào đám đông. Đám đông vội nhảy nhót tránh né. Cứ thế xe ra khỏi thành, gặp đến chín chỗ yết bảng tầm nã. Sử-vạn Na-vượng hỏi Tam-Bản: - Sư đệ! Rõ ràng chúng ta nhận chỉ dụ của Thái- hậu đi đón sứ đoàn, mà sao kinh lược sứ Kinh-châu lại cáo thị tầm nã rằng chúng ta là phường trộm cướp. Chúng ta phải vào thành hỏi cho ra lẽ. - Nhưng Thái-hậu muốn chúng ta âm thầm làm việc, cấm xuất hiện. Thôi, chúng ta mau về Biện-kinh, rồi sẽ tính sau. Sử-Vạn ra lệnh: - Lên đường. Xe đi đến khi trời tối thì tới một trấn nhỏ. Lão Khiếu hỏi gã đánh xe: Bủa Khảm. Trấn này tên gì vậy? - Trình giáo chủ đó là huyện Tân-dã. Nghe nói đến Tân-dã, Mỹ-Linh đưa mắt nhìn Thanh-Mai. Cả hai cùng gật đầu, vì địa danh Tân-dã rất nổi tiếng trong chiến tranh thời Tam-quốc. Bủa Khảm tiếp: - Trước đây Tân-dã là một thành nhỏ. Sau dân chúng đông quá, cư trú khắp xung quanh rộng ra tới mấy dậm. Từ khi Tống triều lập lên, huyện thành di chuyển đi xa hơn chỗ cũ. - Người tìm cho ta một khách điếm. - Tuân chỉ giáo chủ. Bủa Khảm đánh xe vào trấn. Y gò cương cho ngựa dừng lại trước khách điếm Nghinh-phong. Một thiếu niên chạy ra đon đả chào, tay y đón dây cương. Quản lý cúi rạp người xuống chào, gọi phu khuân hành lý xuống. Một chiếc xe song mã từ phía sau phóng tới như bay. Bị xe Bủa Khảm cản đường, hai con ngựa dựng đứng bốn vó lên, hí inh ỏi. Gã đánh xe chửi: - Con bà tụi bay! Hết đất rồi hay sao mà tụi bay dừng ở giữa đường cản trở ông nội bay. Y vung tay, cái roi ngựa đập vào đầu lão Khiếu. Lão Khiếu vòng ngón tay chỏ cuốn lấy chiếc roi ngựa rồi kéo mạnh. Gã đánh xe buông roi ra, miệng chửi: - Tổ bà quân trộm cướp. Lão Khiếu tung roi trả y. Gã đánh xe bắt lấy roi, miệng hô: - Vắt! Hai con ngựa sải bước, kéo xe đi. Gã đánh xe vung roi. Chiếc roi cuốn lấy gói hành lý của lão Sử-Vạn. Vù một tiếng, gói hành lý bay sang xe song mã. Chiếc xe vọt lên thực mau. Gã đánh xe quay lại méo miệng trêu lão Sử-vạn. Lão Sử-vạn hô: - Quân ăn cướp. Mau đuổi theo. Bủa Khảm ra roi, chiếc xe tứ mã vọt lên như tên bắn. Nhưng chiếc xe song mã còn chạy mau hơn. Đuổi được một lát, chiếc xe song mã đã mất hút vào quãng đường xa xôi mờ mịt bóng chiều. Giữa lúc đó từ phía xa, một con ngựa đang phi nước đại ngược chiều. Ngựa không có người cỡi. Nhìn con ngựa phi, không người cỡi, cả Thanh-Mai lẫn Mỹ-Linh lại nhớ hồi mấy năm trước hai người bị bọn Triệu Anh bắt đem từ Thanh-hóa đến Vạn-thảo sơn trang, Lê Văn đã ẩn dưới bụng ngựa, rồi phi như bay. Ai cũng tưởng ngựa hoang. Triệu Huy sai Quách Quỳ bắt ngựa, bị Lê Văn đánh một cái bạt tai. Nay thấy việc cũ diễn lại, hai người nhìn nhau, mỉm cười. Vì biết việc này do Lê Văn bầy ra trêu hai lão già. Khiếu Tam-Bản đứng lên càng xe quan sát. Y nói lớn: - Ngựa hoang không người cỡi, không yên cương. Ta bắt lấy. Y ra lệnh cho xe chạy chậm lại, rồi bước xuống đường đứng chờ. Khi con ngựa phi tới, y tung mình nhảy lên đáp xuống lưng ngựa. Con ngựa hí inh ỏi, cất cao vó trước. Thành ra Khiếu đáp hụt. Y rơi xuống đất. Con ngựa hạ vó, đứng ngoan ngoãn giữa đường. Khiếu nhún chân định nhảy lên lần nữa, thì trên lưng đã có một thiếu niên ngồi kiết già từ bao giờ. Tay y cầm ông tiêu đang tấu một bản nhạc rất nhu hòa. Khiếu không hiểu bằng cách nào thiếu niên đã bắt được ngựa. Mỹ-Linh chú ý thấy thiếu niên đó trông không giống Lê Văn chút nào. Còn Khiếu không biết từ đâu thiếu niên đó đã xuất hiện. Nhưng Sử-Vạn Na-vượng lại nhìn rất rõ: Thiếu niên nấp đưới bụng ngựa, điều khiển cho nó chạy. Khi thấy Khiếu nhảy lên định bắt, thếu niên thúc chân vào bụng ngựa, khiến nó nhảy dựng vó trước, rồi y lộn lên lưng ngựa. Thiếu niên chỉ mặt Khiếu Tam Bản: - Giữa ban ngày ban mặt mà lão định ăn cắp ngựa ư? Nghe tiếng thiếu niên, Mỹ-Linh nhận ra y chính là Lê Văn. Khiếu Tam Bản quát: - Tên ôn con kia, mi không được hỗn. Ta đường đường là khâm sai đi đón sứ đoàn. Ai thèm ăn cắp ngựa của mi. - Khâm sai! Thế có gì làm bằng chứng không? Khiếu Tam Bản định móc túi lấy thẻ bài ra, thì Sử-Vạn Na-vượng nói: - Mi là tên ôn con, không có tư cách gì hỏi thẻ bài bọn ta. - Dĩ nhiên tôi không có quyền hỏi hai lão. Chỉ nguyên việc ăn cắp ngựa cũng đủ biết hai lão không thể là khâm sai. Khiếu Tam Bản nổi đóa, y dơ tay định tát Lê Văn, nó hô lớn: - Noong chả. Có tiếng đáp lại - Khả. Mỹ-Linh dùng Lăng-không truyền ngữ hỏi sẽ Thiệu-Thái: - Lê Văn nói tiếng gì vậy? - Tiếng Thái. Noong chả là em ơi. Khả là ơi . Chờ một lát, Lê Văn hô: - Lêu ( Mau lên). Từ trong vườn bên đường một thiếu nữ mặc quần áo mầu tím chạy ra. Lê Văn chỉ vào lão Khiếu: - Em coi, cái tên này định ăm cắp ngựa, rồi còn xưng là khâm sai nghĩ có chướng không? Nó tự chỉ tay vào thái dương, rồi nói trống không: - Pạt sạt. (Đồ khùng) Bỗng thiếu nữ áo tím kêu lên: - Ối! Hai lão này là đạo tặc, có bảng văn của quan nha niêm yết. Ai bắt hoặc giết một lão sẽ được thưởng vàng trăm lượng. Chính hai lão cướp của, đoạt xe của em tháng trước. Thiếu nữ áo tím nói tiếng Hoa bằng giọng rất ngọt ngào nũng nịu. Lê Văn chỉ lên xe: - Hai lão đạo tặc kia, bọn lão chở những ai trên xe thế? Lão Khiếu định lý luận, lão Sử-Vạn vẫy tay: - Chúng ta đi thôi, chẳng nên lý luận với bọn con nít này làm chi. Có tiếng lộp bộp vó ngựa. Từ phía sau một đoàn thiết kị khoảng hơn trăm người được chỉ huy bởi một viên tướng đi tới. Đoàn thiết kị chia làm hai. Toán đi trước gồm năm người dẹp đường. Toán sau gần trăm người. Giữa hai toán có hai kị mã gồm một nam một nữ. Nam mặc bộ quần áo mầu vàng coi rất lạ. Nữ mặc áo xanh. Quãng đường này hơi hẹp, lại vướng chiếc xe tứ mã, cùng con ngựa của Lê Văn cho nên toán kị mã ùn lại. Mấy thiết kị đi đầu hô lớn: - Tránh đường. Lê Văn thúc chân vào bụng ngựa. Con ngựa dựng hai vó trước lên, nó đứng bằng hai chân sau, đầu gật bốn cái như làm lễ. Cả toán thiết kị cùng đôi nam nữ đều kinh ngạc. Nữ nói: - Anh trông kìa! Tại sao có người giỏi thuật kị mã đến thế kia? Cặp nam nữ thấy thiếu nữ áo tím, cùng bật lên hỏi một tràng tiếng Thái. Thiệu-Thái dịch lại cho cậu nghe: - Em đấy ư? Em có sao không? - Không! Nàng chỉ vào Lê Văn: - Anh kia đã cứu em thoát. Chiếc xe tứ mã vẫn đậu giữa đường. Viên kị binh mắng: - Hai lão già chết bằm kia! Mi có tránh đường ra không? Nói dứt lời y vung roi quất vào mặt Sử-Vạn. Sử-Vạn bắt lấy roi, giật mạnh, rồi bẻ vụn ra ném xuống đất. Y giật mạnh quá, khiến viên kị binh suýt ngã ngựa. Viên kị binh nổi giận rút đao ra bổ một nhát vào đầu Sử-Vạn. Sử Vạn kẹp hai ngón tay vào sống đao. Viên kị binh cố sức giật đao ra, mà đao cứng như đinh đóng cột. Sử-Vạn rung tay một cái, mấy tiếng lách cách vang lên. Đao gẫy làm năm sáu mảnh. Thuận tay y phẩy sẽ hai cái. Những mảnh vụn hướng thiếu nữ áo tím. Kình lực kêu lên vo vo. Mọi người la hoảng. Lê Văn thúc chân vào bụng ngựa. Con ngựa chồm lên nhảy vào người Sử vạn. Trong khi nó phóng đến ôm lấy thiếu nữ lăn xuống đất, tay đẩy lên một chưởng. Những mảnh đao bị chưởng lực của nó đẩy bay ngược trở về người Sử-vạn. Sử-vạn vừa tránh thế chụp của con ngựa, thì bị những mảnh đao bay đến. Y kinh hãi vọt người lên cao, vừa kịp những mảnh đao bay qua chân y. Y chỉ mặt Lê Văn: - Mi vô lễ với ta như vậy, thì đừng trách ta ác độc. Y vung tay lên định phát chưởng. Thiếu nữ áo xanh quát lên: - Khoan. Nàng hỏi Lê Văn: - Công tử! bọn này là ai vậy? Lê Văn chỉ hai lão Khiếu, Sử: - Hai vị thứ lỗi. Tôi đang đi thì bị hai tên đạo tặc này định cướp ngựa, vì vậy làm cản trở đường các vị. Lão Khiếu nổi giận: - Chúng ta đường đường là khâm sai của triều đình, mi cứ mồm năm miệng mười là đạo tặc. Mi liệu giữ mồm bằng không ta chặt đầu mi liền. Thiếu nữ cất giọng nói một tràng tiếng Thái với hai kị mã. Nam kị mã hất hàm hỏi hai lão Khiếu, Sử-Vạn: - Hai người phải chăng một tên là Sử-vạn Na-vượng. Một tên là Khiếu Tam Bản, khét tiếng đạo tặc vùng Kinh-Tương. Kinh lược sứ Kinh-châu đang niêm yết khắp nơi tìm bắt hai người? Thiếu nữ chỉ vào xe: - Chúng bắt những người này khảo của thì phải. Viên tướng chỉ huy đội thiết kị vẫy tay một cái. Hai lão Sử-vạn, Khiếu bị bao vây vào giữa. Lão Khiếu quát lên: - Các người không được vô phép. Chúng ta là khâm sai triều đình sai đi đón sứ đoàn Đại-Việt. Các người nghe lời tên ôn con kia vô phép với ta sẽ bị chém đầu. Viên tướng nghiêng mình chắp tay: - Tiểu tướng Diêu Vạn, lĩnh chức Chiêu-thảo-sứ, chỉ huy đoàn thiết kị Kinh-châu. Tiểu tướng được lệnh hộ tống Thái-tử Xiêm-quốc cùng sứ đoàn lai kinh tiến cống. Nếu hai vị là khâm sai, xin cho biết danh tánh, chức tước cùng chiếu chỉ, lệnh bài. Nói rồi y trình lệnh bài ra. Sử-Vạn luống cuống ra mặt. Bởi lệnh bài, cũng như chiếu chỉ của Lưu hậu đều để trong bọc. Mà bọc bị tên phu xe ban nãy cướp đi mất rồi. Y trả lời: - Chúng ta không có lệnh bài. Đám thiết kị cùng bật cười. Một kị binh nói: - Trình tướng quân, lệnh quan Kinh-lược sứ truy nã hai tên đạo tặc Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản. Lệnh truy tầm có vẽ hình giống hệt hai lão này. Diêu Vạn nói lớn: - Khâm sai không có lệnh bài, chiếu chỉ, đó là một điều đáng nghi. Hai vị giống hệt hình hai tên đạo tặc, là hai điều đáng nghi ngờ. Thiếu niên kia tố giác hai vị bắt trộm ngựa là ba điều đáng nghi ngờ. Y hỏi sứ đoàn: - Thưa các vị. Các vị có biết hai lão này là ai không? Tại sao các vị lại đi cùng với hai lão. Khấu Kim-An vốn thạo về quan trường cũng như uẩn khúc triều Tống. Nàng tìm cách gây nghi ngờ trong tâm Diêu Vạn: - Thưa tướng quân, tiện thiếp xin trình để tướng quân rõ. Nàng chỉ vào sứ đoàn: - Vị này là trừ quân Đại-Việt, tước phong Khai-Quốc vương. Diêu Vạn chắp tay: - Tiểu tướng ở Tương-dương từng nghe danh vương gia như sét nổ ngang tai. Dường như võ lâm tộc Việt đồn rằng: Những ai chưa gặp Khai-Quốc vương đừng vội xưng anh hùng. Mới đây võ lâm Trung-nguyên không ngớt ca tụng vương gia dùng đức cảm hoá Trường-giang thất quỷ cùng bang Nhật hồ Trung-quốc trở lại chính đạo. Không ngờ tiểu tướng được hội kiến vương gia tại đây. Khai-Quốc vương đáp lễ: - Diêu tướng quân chẳng nên đa lễ. Cô gia từng nghe người đời ca tụng Diêu tướng quân vốn xuất thân đệ tử Bắc-sơn lão nhân phái Hoa-sơn. Võ đạo cực cao. Hôm trước đây tôn sư cùng các vị cao thủ quý phái có viếng thăm Bắc-biên bên Đại-Việt. Võ lâm Đại-Việt nức nở khen võ công, võ đạo phái Hoa-sơn cao bậc nhất Trung-nguyên. Tuổi Diêu Vạn còn trẻ, lại mới ra làm quan. Nhưng nhờ thế lực Đông-Sơn lão nhân, Dư Tĩnh, nên y mau chóng được thăng chiêu thảo sứ. Với thân phận nhỏ bé của y, lại ở quá xa Đại-Việt. Y tuyệt không ngờ Khai-Quốc vương cũng biết y. Nghe Quốc-vương khen mình, y hớn hở ra mặt. Viên sứ Xiêm xuống ngựa thi lễ với Khai-Quốc vương: - Tiểu đệ An-nan Tam-gia La-sun thái tử Xiêm, xin tham kiến vương huynh. Hôm trước sư phụ của tiểu đệ dự lễ giỗ Bắc-bình vương trở về không ngớt ca tụng công đức vương huynh. Cách nay hơn tháng, tiểu đệ qua Thăng long triều kiến bá phụ, có tìm kiếm vương huynh mà không gặp. Hôm nay được diện kiến vương huynh ở đây, thực vạn hạnh. Nói rồi y chỉ thiếu nữ áo xanh: - Vợ của tiểu đệ. Y lại chỉ thiếu nữ áo tím: - Em gái của tiểu đệ, tên Nong-Nụt. Khai-Quốc vương xuống xe đáp lễ: - Thì ra Thái-tử là đệ tử của lão sư Rát-Ta-Na đấy. Chúng ta cùng là con Rồng cháu Tiên cả. Nay gặp nhau trên đất nước người, thực không gì quý hơn. An-nan vẫy tay gọi thiếu nữ áo tím: - Nong Nụt, mau ra mắt vương huynh đi. Nong Nụt chạy lại. Hai tay nàng chắp để lên trán, rồi cúi đầu ba lần trước Khai-Quốc vương, nàng nói bằng tiếng Việt: - Chào anh vương. Dường như nàng chỉ biết có mấy tiếng đó. Tiếp theo nàng xổ ra một tràng tiếng Thái. Thiệu-Thái dịch: - Tiểu muội công chúa Nong Nụt xin tham kiến vương huynh và tỷ tỷ. Kim-An giới thiệu Thanh-Mai, Mỹ-Linh, Thiệu-Thái. Cuối cùng nàng chỉ vào hai lão Sử-vạn, Khiếu: - Vợ chồng chúng tôi làm nghề chở mướn trên sông Trường-giang, được vương gia mượn chở sứ đoàn. Khi sứ đoàn tới Tương-dương thì hai vị này xuất hiện dùng thuốc Di-hồn nhuyễn cân ngũ-hoa độc tấn công, rồi bắt bỏ lên xe mang đi. Nàng ngừng lại, chỉ vào lão Khiếu: - Vị tiên sinh đây có đại danh Khiếu Tam Bản, lĩnh chức Nam-phương sứ giả Hồng-thiết giáo Đại-Việt. Hiện là giáo chủ Hồng-thiết giáo Chân-lạp. Diêu Vạn hất hàm hỏi lão Khiếu: - Có đúng thế không? Mặt lão Khiếu cau có: - Đúng thì đã sao? Kim-An chỉ vào Sử-vạn Na-vượng: - Vị này đại danh Sử-vạn Na-vượng, lĩnh chức Đông-phương sứ giả Hồng-thiết giáo Đại-Việt, đương kim giáo chủ Hồng-thiết giáo Lão-qua. Diêu Vạn hỏi: - Tiểu tướng nghe Khai-Quốc vương phi, công chúa Bình-Dương, thế tử Thiệu-Thái võ công kinh nhân. Tại sao lại để cho hai tên đạo tặc này bắt như thế này? Mỹ-Linh lên tiếng: - Diêu chiêu thảo sứ hiểu cho. Chúng tôi đi sứ Đại-Tống. Uy danh Đại Tống lớn biết chừng nào? Đại-Tống đã cử thiết kị hộ tống, đời nào chúng tôi dám xử dụng võ công trên đất Trung-nguyên. Nếu chúng tôi xử dụng võ công, như vậy còn đâu lễ nghi nữa? Tuy nhiên, nếu như Tống thiên tử cùng bách quan cần đến sức mọn, chúng tôi sẽ ra tay. Như trường hợp bang Nhật hồ phạm giá Định-vương. Khi Định-vương truyền chỉ bắt giặc thì chúng tôi ra tay kiềm chế chúng liền. Sử-vạn Na-vượng quát lên: - Ta đường đường thụ phong tước tới quận vương. Văn tới thái bảo. Võ tới Tiết-độ sứ. Ta đang trên đường thi hành chỉ dụ của thái hậu. Không hiểu sao tên Kinh-lược sứ Kinh-châu lại yết bảng rằng chúng ta làm đạo tặc? Rồi đến cái tên Chiêu-thảo sứ kia hạch hỏi ta. Lại đây, lại đây! Mi có giỏi thì bắt ta đi! Diêu Vạn hô thiết kị xông vào. Lão Khiêu, vung tay một cái, hai kị binh bay bổng lên cao, rơi xuống đất. Trong khi đó lão Sử-vạn nghĩ thầm: - Ta bị mất thẻ bài, chỉ dụ của triều đình, ta không thể chứng minh thân phận. Bây giờ ta có chống cự với bọn kị binh này, chẳng khác lấy chén kiểu đụng chén đá. Ta có thắng cũng không làm hay hơn. Nhược bằng ta bại có khi bị giết. Lão liếc nhìn sứ giả Xiêm-quốc: - Bọn này hộ tống sứ Xiêm. Vậy ta ra tay kiềm chế tên sứ này, bắt chúng phải lui binh, mới mong giải quyết được cục bộ ở đây. Nghĩ vậy lão tung mình lên cao. Chỉ nhấp nhô mấy cái lão đã tới trước An-nan. Tay lão ra chiêu cầm-long trảo chụp y. An-nan né đầu tránh khỏi rồi phát một chưởng đánh thẳng vào người lão. Chưởng của y cực kỳ trầm trọng. Lê Văn la lớn lên tỏ vẻ vui mừng, vì An-nan xử dụng Thiên-vương chưởng của phái Sài-sơn. Lão Sử-Vạn biến trảo thành chưởng. Hai chưởng gặp nhau bùng một tiếng lớn. Lão Sử-Vạn bay bổng lên cao. Từ trên cao, lão đánh xuống một chưởng rất quái dị. Lê Văn la lên: - Nhật-hồ độc chưởng. An-nan thấy thế chưởng hung dữ, chàng lăn từ mình ngựa xuống đất, rồi nhảy lùi liền hai bước. Chưởng trúng con ngựa chàng đang cỡi. Binh một tiếng, con ngựa khốn nạn ngã lăn ra. Nó dẫy đành đạch, hí lên những tiếng thê thảm, rồi máu miệng tuôn ra ồng ộc. An-nan chỉ vào mặt lão Sử-vạn Na-vượng: - Lão là ai? Ta với lão không thù không oán, hà cớ gì lão ra tay ám toán ta? Sử-vạn không nói không rằng, lão nhảy vèo đến chụp thiếu nữ áo xanh rồi tung mình khỏi đám thiết kị. Dường như nàng không biết võ công, nên y chụp dễ dàng. Y để tay lên đầu nàng hô lớn: - Ngừng tay! Mọi người đều lui lại. Lão Sử-vạn để tay lên đầu thiếu nữ áo xanh cười nhạt: - Thái tử An-nan Tam-gia La-sun. Thiếu nữ xinh đẹp này phải chăng là vương phi? Mỗ muốn thương lượng với Thái-tử, hơn là hai bên đánh nhau. An-nan cau mặt hỏi: - Lão muốn gì? - Giữa Chiêu-thảo sứ Diêu Vạn với mỗ vốn không thù không oán. Diêu nhận lệnh hộ tống sứ đoàn Xiêm. Mỗ nhận chỉ dụ hộ tống sứ đoàn Việt. Không ngờ Diêu can thiệp vào việc của mỗ, nên mỗ phải can thiệp vào việc của y. Y ngừng lại, nhìn Khai-Quốc vương: - Bây giờ xin Thái-tử ra lệnh cho Diêu cứ lo việc của hắn. Hai bên ngừng chiến. Chúng ta cùng đi Biện-kinh, có phải tốt đẹp không? Bằng y cãi lệnh Thái-tử, mỗ nhả chưởng lực, vương phi sẽ nát đời hoa. Thái-tử phải ôm mối hận cả đời, mà Diêu không làm tròn sứ mệnh quân vương, ắt bị toàn gia tru lục. Không biết Thái-tử nghĩ sao? An-nan hỏi Diêu Vạn: - Lão Sử-vạn Na-vượng nói vậy, Diêu tướng quân nghĩ sao? Diêu Vạn chưa kịp trả lời, thì tiếng vó ngựa lộp cộp. Có con ngựa phi tới, một người đứng co chân trên lưng ngựa. Còn một chân chĩa về trước. Cổ chân y móc cái túi. Đúng là cái túi hành lý của Sử-vạn Na-vượng. Con ngựa tới gần đám đánh nhau thì ngừng chân, cất cao vó, quay đầu trở lại. Gã kị mã để tay lên mũi trêu Sử-vạn Na-vượng. Tất cả những bực bội từ nãy đến giờ của Sử, Khiếu đều do bị mất hành lý, không còn thẻ bài, chỉ dụ chứng minh thân phận. Bây giờ thấy kẻ trộm trước mắt, lão Sử-vạn điên tiết lên: - Tên ăn cắp kia, mau trả hành lý cho ta. Gã ăn trộm cười, để tay lên tai làm bộ điếc: - Lão nói sao? Lão muốn ăn cắp hành lý của sứ đoàn Xiêm ư? Gã nói lớn: - Hôm qua có hai tên vào nhà ta ăn trộm. Ta đánh đuổi chúng đi, chúng sợ đến té đái vãi phân ra, vì vậy chúng ném hành lý lại rồi chạy. Ta thấy hai tên này khuôn mặt hao hao hai lão. Y hướng vào Diêu Vạn, tay chỉ Sử, Khiếu: - Đại tướng quân! Quan Kinh-lược sứ Kinh-châu đã có lệnh truy tầm hai tên đại đạo này. Kính xin đại tướng quân bắt chúng mà lĩnh thưởng. Khi rời Tương-dương, chính Diêu Vạn đã đọc lệnh truy tầm hai tên đạo tặc của Kinh-lược sứ. Hình hai tên giống hệt lão Sử-Vạn, Khiếu. Nghe gã kị mã nói, y phân vân, vì bỏ qua rất uổng, số vàng thưởng tới hai trăm lượng chứ đâu có ít? ANH LINH THẦN VÕ TỘC VIỆT Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ www.dtv-ebook.com Chương 3: Kín cổng cao tường Lão Khiếu quát lên: - Chính mi mới là tên trộm. Hồi nãy mi cướp túi hành lý của ta rồi bỏ chạy. Bây giờ mi vu vạ cho ta, làm ta khổ sở thế này. Kị mã ăn trộm cười lớn: - Thực là cái đĩ già mồm, cái trộm già miệng. Hai ông võ công cao thế, mà bảo tôi cướp hành lý của hai ông thực quả là vô lý. Nhưng tôi hỏi thực: Cái túi này đích là của hai ông, có phải không? - Đúng. - Thôi được, coi như hai ông không ăn trộm đi. Nhưng này hai ông ơi! Hôm qua có kẻ trộm vào nhà tôi, tôi giật mình thức giấc tri hô lên, chúng bỏ chạy, trong lúc hoảng hốt chúng đánh rơi cái túi này. Tôi biết là đồ gian không dám mở ra định đi trình quan. Bây giờ gặp quan đây, tôi xin trao cho người. Nói rồi y định trao cái túi cho Diêu Vạn. Diêu Vạn hỏi: - Chú em tên gì? - Thưa đại tướng quân, tôi tên Đặng Tông. Diêu Vạn hất hàm cho Sử-Vạn Na-vượng: - Đây là túi của hai người. Hai người cầm lấy đi. Hai tay Đặng Tông trịnh trọng đưa cái túi ra trước mặt. Sử-vạn Na-vượng đưa tay trái tiếp túi. Bỗng đầu ngón tay gã kị mã phóng ra hai chỉ véo, véo trúng huyệt Khúc-trì lão Sử. Tay lão trở thành vô lực, làm thiếu nữ áo xanh rơi xuống. Gã kị mã lạng mình chụp nàng nhảy đến bên An-Nan. Y trao nàng cho An-Nan: - Xin Thái-tử bảo vệ vương phi. An-Nan nói mấy câu cảm tạ. Tay lão Sử-Vạn chỉ bị tê dại mà thôi. Lão cho rằng lấy lại được túi rồi, tự nhiên thân phận lão được chứng minh, lão không cần bắt thiếu nữ áo xanh nữa. Lão nói với Diêu Vạn: - Diêu Chiêu-thảo sứ. Ta sẽ cho Chiêu-thảo sứ thấy ấn tín của ta, cùng lệnh bài của Thái-hậu. Y mở túi ra, liếc nhìn đồ đạc vẫn y nguyên, không hề bị xáo trộn. Yên tâm y lấy ra chiếc ống bằng ngà trao cho Diêu Vạn: - Đây là sắc chỉ của triều đình phong chức tước cho ta. Tướng quân hãy mở ra mà xem. Diêu Vạn tiếp ống ngà mở nắp ra. Bên trong quả có cuốn trục lụa. Y mở cuốn trục cho mọi người coi. Bất giác mọi người bật lên tiếng ồ. Vì trên trục lụa vẽ hình hai lão Sử-vạn Na-vượng, Khiếu-tam-Bản. Nét vẽ sống động như người thực. Cạnh đó viết bản văn của Kinh-lược sứ Kinh-châu truy tầm hai tên đại đạo Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam-Bản. Diêu Vạn cười nhạt: - Đây là sắc phong ư ? Khiếu Tam Bản kinh ngạc, lão tức đến điên người lên được. Lão lạng mình đến giật trục lụa trên tay Diêu, rồi đọc bản văn. Bản văn giống hệt bản văn trong thành Tương-dương. Khiếu Tam Bản mở tung túi ra. Trong trúi nào quần áo, nào vàng bạc lủng củng. Một chiếc hộp bằng ngà rơi xuống đất đến bộp một cái. An-Nan trông thấy hộp, mắt y sáng lên. Y quát: - Mi còn chối không? Kia là chiếc hộp trong đựng cống bảo của bản quốc cống Thiên-tử. Mi ăn cắp hôm trước. Mi còn chối nữa không? Chàng lạng người cầm chiếc hộp lên, rồi mở ra. Trong hộp có một tượng Phật Thích-ca mâu-ni bằng ngọc xanh biếc. Chàng trao cho vợ, rồi xòe tay hướng Khiếu: - Đưa đây! - Đưa cái gì? - Ta đi sứ, có mang theo ba bảo vật. Một là tượng mười tám vị La-Hán bằng ngà. Hai là tượng Phật bằng ngọc, ba là chuỗi ngọc trai trăm viên. Mi lẻn vào dinh Kinh-lược sứ Kinh-châu ăn cắp cả ba. Nay tượng Phật đây rồi. Còn hai bảo vật kia đâu? Mi có mau đem trả không ? Lão Khiếu đưa mắt nhìn tên kị mã ăn trộm: - Mi là ai mà dám hí lộng quỷ thần? Chính mi vào dinh Kinh-lược sứ ăn trộm bảo vật của sứ đoàn Xiêm. Rồi cũng chính mi đón đường ăn cướp bọc hành lý của chúng ta, sau đó bỏ bảo vật vào để vu oan giá họa cho ta. Gã kị mã cười ha hả hỏi Diêu Vạn: - Kính trình quan lớn xét cho. Khắp thành Tương-dương đều nói rằng hai tên trộm lẻn vào dinh Kinh-lược sứ Kinh-châu ăn cắp bảo vật của sứ đoàn Xiêm. Chúng giao chiến với quan Tư-mã, cùng Chiêu-thảo sứ. Hai vị ấy nhận diện được chúng, rồi về họa hình. Hình là hình hai lão này, đâu phải hình tôi? Diêu Vạn hỏi đám kị mã: - Các người ta giao chiến với hai tên trộm. Phải chăng trong đó có hai tên này? Một kị mã chỉ Sử-vạn: - Tiểu nhân nhận diện được y. Võ công y rất cao. Công chúa Nong-Nụt chỉ tay vào mặt với Sử-vạn Na-vượng, nói với anh: - Chính lão này. Hôm ấy tại Liễu-châu, y cùng bộ hạ bắt em, giết tùy tùng, rồi đem em giam hãm tra khảo thương tích khắp người. Diêu Vạn vẫy tay cho mọi người im lặng, rồi nói: - Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản. Có bằng này chứng cớ rành rành ra, người nên chịu trói cho rồi. Y chỉ vào Lê Văn: - Tiểu huynh đệ đây tố đích danh người toan cướp ngựa giữa đường. Đó là một chứng cớ. Công chúa Nong-Nụt cùng tuỳ tòng du ngoạn tại Liễu-châu, bị người bắt đi, cùng cướp của. Đó là hai chứng cớ. Hai tên cướp võ công cực cao lẻn vào dinh Kinh- lược sứ trộm bảo vật của sứ đoàn. Trong khi giao chiến, bọn chúng đánh nhau với vệ sĩ, vô tình để rơi hai tấm thẻ bài mang tên Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản. Đó là ba chứng cớ. Bây giờ bọn mi bị kị mã kia tố bọn mi vào nhà y ăn trộm, bị bại lộ, đành để cái túi lại. Anh ta mang đi trình quan. Chính mi nhận túi đó của bọn mi, trong có bảo vật cống. Đó là bốn chứng cớ. Từ lâu, bản triều truy lùng dư đảng Hồng-thiết giáo cùng bang chúng bang Nhật-hồ. Mà nay hai mi lại là giáo chủ Hồng-thiết giáo Lão-qua, Chân-lạp, là năm chứng cớ ta phải bắt hai mi. Sử-vạn Na-vượng biết rằng Đặng Tông là thủ phạm hại y. Y cần kiềm chế gã, ắt mọi việc ra ánh sáng. Y lạng mình chụp Đặng. Nhưng nhanh hơn, Đặng đánh một chưởng vào ngực Sử. Chưởng phong hùng hậu vô cùng. Sử tuyệt không ngờ một thiếu niên, mà võ công lại cao như vậy. Y vội biến trảo thành chưởng đỡ. Binh một tiếng. Cả hai người đều lảo đảo lui lại hai bước. Mọi người đều la hoảng. Vì rõ ràng công lực Sử-vạn cao thâm vô cùng. Y đã làm tới giáo chủ Hồng-thiết giáo đâu có tầm thường thế mà đấu ngang tay với Đặng Tông. Mỹ-Linh dùng lăng không truyền ngữ hỏi Khai-Quốc vương với Thanh Mai: - Chú đã nhận ra Đặng Tông là ai chưa? - Tôn Đản. Nó đảo ngược tên Tôn Đản thành Đặng Tông chứ có gì lạ đâu. Ngay từ lúc nó xuất hiện chú đã nhận ra. Có điều ai cải trang cho nó giỏi quá, khuôn mặt đổi đã đành, mà tiếng nói cũng khác. Thiệu-Thái hỏi Mỹ-Linh: - Lạ thực, sao công lực Tôn Đản cao đến thế kia. Có lẽ không thua gì mợ Thanh-Mai, trội hơn Hoàng Văn, ngang Vũ Nhất-Trụ. Mỹ-Linh gõ tay vào đầu Thiệu-Thái: - Anh quên việc Tôn Đản học được qui pháp âm dương của Bắc-bình vương rồi à. Trong trận đánh Tản-lĩnh nó hút công lực của hai đại cao thủ phái Hoa-sơn. Rồi trên đường sang đây, nó luyện Thái-cực quyền với điểm huyệt, nên công lực thâm hậu vô cùng. Mọi người im lặng theo dõi Tôn Đản đấu với Sử-vạn Na-vượng. Tôn Đản dùng võ công Cửu-chân. Sử-vạn dùng võ công Sài-sơn pha lẫn Hồng-thiết. Diêu Vạn cho thiết kị bao vây kín hai lão. Trừ sứ bộ Xiêm, còn lại mọi người đều biết Đặng Tông là Tôn Đản. Tất cả im lặng theo dõi trận đấu. Sử-Vạn bị Tôn Đản tấn công ráo riết quá, nên lão chưa có dịp vận Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng. Mỹ-Linh hỏi Thanh-Mai: - Thím có biết tại sao lão Sử-vạn lại xử dụng võ công Sài-sơn pha lẫn võ công Thiên-tượng không? - Dễ hiểu! Khi xưa công chúa Nguyệt-Đức Phùng Vĩnh-Hoa vốn thuộc phái Sài-sơn. Hồi trấn thủ đất Thục, bà có trao đổi võ công với anh hùng Thiên-sơn. Cuối thời Lĩnh-Nam bà bị quân Vương Bá ép, phải lui về giữ Vạn-tượng. Sau khi bà tuẫn quốc, đệ tử lập ra phái Vạn-tượng. Vì vậy võ công phái Vạn-tượng pha lẫn Sài-sơn với Thiên-sơn. Khiếu Tam Bản thấy Sử-vạn Na-vượng khó thắng nổi Đặng Tông. Y nhìn quanh để tìm kế thoát thân. Liếc qua thấy Nong-Nụt đứng bên Lê Văn. Y nghĩ thầm: - Con nhỏ này là công chúa Xiêm đây. Nó đứng bên thằng bé kia, mình phải bắt sống nó, mới mong giải quyết được cục bộ. Giữa lúc đó Mỹ-Linh vẫy Lê Văn lại gần. Nàng hỏi: - Em thuộc võ công Cửu-chân, lẫn Sài-sơn. Em mách nước giúp Tôn Đản thắng lão Sử-vạn cho mau. Lê Văn cũng đang định nhắc Tôn Đản, nhưng vì sợ lộ chân tướng nên nó chưa dám. Nghe Mỹ-Linh khuyên, nó khoan khoái nhìn trận đấu. Thấy Sử vạn sắp ra chiêu Lôi giáng Nam-nhạc theo chiêu này, một tay đánh từ dưới lên. Một tay đánh vòng sang trái, như vậy để hở ngực. Nó la lớn: - Đản! Kình ngư lăng ba. Chiêu này đánh thẳng về trước như con cá kình vượt sóng. Tôn Đản đang muốn thắng lão Sử-vạn mà không được. Nghe Lê Văn nhắc, không nghĩ ngợi, nó chập hai tay vào nhau, đẩy về trước. Binh một tiếng, lão Sử-vạn bay bổng ra xa. Tuy nhiên, kinh nghiệm chiến đấu có dư, lão mượn đà lộn đi hai vòng. Đúng ra sau khi thắng một chiêu, Tôn Đản rượt theo đánh tiếp mấy chiêu nữa, nó đã hạ được Sử-vạn. Nhưng vì thiếu kinh nghiệm, nó chần chờ một chút, khiến lão lấy lại được thăng bằng, lão tung ra hai chiêu Thiên-sơn tuyết phi chưởng. Lê Văn thấy Sử-vạn khoanh tròn hai tay, biết lão sắp xuất chiêu Lôi phục thiên ma , chiêu này tay phải như một cột khí đánh thẳng về trước. Tay trái chém ngang sang phải. Như vậy để hở hạ bàn. Nó hô lớn: - Kình ngư trầm hải. Tôn Đản lộn xuống đất, hai chân như đuôi cá quẫy quét trúng đầu gối Sử vạn. Binh một tiếng, lão bị đánh văng ra xa. Lần này có kinh nghiệm, Tôn Đản phóng theo chiêu Loa-thành nguyệt ảnh. Thấy sư huynh lâm nguy, lão Khiếu lạng người chụp Nong-Nụt, nhảy tới đưa nàng đỡ chiêu chưởng của Tôn Đản. Tôn Đản hoảng kinh vội chuyển chưởng lên trời. Lão Khiếu quát lớn: - Các người phải ngừng tay. Bằng không ta giết con nhỏ này liền. Lê Văn hoảng kinh, nó lạng người chắn trước Tôn Đản, nó nói bằng giọng run run: - Không... không nên hại nàng. Lão Khiếu đã tụng thuộc lòng Hồng-thiết kinh, một đời xảo trá, nên chỉ liếc qua, lão cũng biết Lê Văn có tình ý với Nong-Nụt. Lão khoan thai nói với An-nan Tam-gia La-sun: - Thái tử! Xin Thái-tử cho mở vòng vây, để anh em lão phu rời khỏi đây, bằng không lão phu đành chết với công chúa. An-Nan là đấng trừ quân tộc Thái, chàng vốn thông minh tuyệt đỉnh, vì vậy liếc qua, chàng đã biết sứ đoàn Đại-Việt, Lê Văn, Đặng Tông cùng là một nhóm người. Phía Đại-Việt bầy ra vở kịch này để làm nhục hai lão Sử vạn, Khiếu mà thôi. Chàng chắp tay nói với Khai-Quốc vương: - Xin vương huynh tha cho họ. Khai-Quốc vương nói với Diêu Vạn: - Diêu tướng quân. Đất có chủ. Đây thuộc đất Tống, xin tướng quân định liệu. Diêu Vạn nói với Tôn Đản: - Đặng thiếu hiệp. Xin thiếu hiệp buông tha cho hai lão đạo tặc này. Nói rồi y vẫy tay, thiết kị lùi ra. Hai lão Sử-vạn, Khiếu lườm lườm nhìn mọi người trong khi chân bước đi. Lê Văn quát lên: - Người phải để Nong-Nụt lại. Lão Khiếu cười nhạt: - Ta chỉ hứa không giết con nhỏ này, chứ ta đâu có hứa tha cho nó ? Nói rồi hai lão cười khành khạch rảo bước ra đi. Mỹ-Linh gõ tay lên đầu Lê Văn: - Cậu có muốn cứu Nong-Nụt không? - Chị Mỹ-Linh! Chị cứu Nong-Nụt cho em đi. - Cứu thì chị muốn cứu lắm. Song kể thì từ nay cậu không được gọi anh Thiệu-Thái bằng cái tên ông ỉn nữa. Rồi mỗi lần thấy bà chị phải khoanh tay cúi đầu ạ ba lần. Lê Văn không nghĩ ngợi, nó khoanh tay như con nít: - Ạ chị Mỹ-Linh! Ạ công chúa Bình-Dương, ạ giáo chủ. Ạ,ạ,ạ. Mau cứu Nong-Nụt. Khai-Quốc vương không ngờ cậu em ngang tàng bậc nhất Đại-Việt, bác học, đa năng, mà lại si tình đến thế. Vương hướng Mỹ-Linh gật đầu. Chỉ thấy bóng trắng vọt lên không như con hạc, thấp thoáng một cái, nàng đã đáp trước mặt hai lão Sử-vạn, Khiếu. Hai lão đang tự đắc bước đi, thì bị Mỹ-Linh chắn trước mặt. Hai lão gật mình, cùng nhảy lùi hai bước. Lão Sử-Vạn tung một chưởng vào ngực Mỹ-Linh. Nàng không tránh né, tay rút kiếm chênh chếch đưa ra, nếu lão không thu tay về, thì tay lão bị đứt ngay. Lão vội thu tay nhảy lui. Hai tay Mỹ-Linh cầm hai thanh kiếm chĩa vào cổ hai lão. Hai lão kinh hãi, không biết bằng cách nào, mà nàng ra chiêu nhanh như vậy. Cả hai lão cũng nhảy lui lại. Nhưng Mỹ-Linh theo như bóng với hình, kiếm chĩa vào cổ hai lão. Xoẹt xoẹt, hai cùi chỏ lão Khiếu bị trúng kiếm. Tay lão bị mất kình lực, để Nong-Nụt rơi xuống. Lê Văn lạng người tới ôm lấy nàng nhảy lùi lại. Biết rằng mất con tin Nong-Nụt, thì tính mệnh coi như chấm dứt. Hai lão Sử, Khiếu đồng phát một chưởng bằng tất cả bình sinh công lực hướng Lê Văn, với ý nghĩ chết cùng chết cả. Trong chưởng có mùi hôi tanh khủng khiếp. Mọi người kêu thét lên kinh hoảng. Lê Văn ôm Nong-Nụt nhảy vọt về phía trước, để giảm áp lực hai chưởng. Tuy vậy, mọi người biết, cả hai khó toàn tính mệnh. Thấp thoáng hai bóng người vọt tới. Thanh-Mai xuất chiêu Đông-hải lưu phong đẩy vào lưng Lê Văn, cho người nó bay xa hơn. Trong khi Thiệu-Thái phát chiêu Nhân-ngưu câu vong trong Mục-ngưu thiền chưởng đỡ chưởng hai lão. Binh một tiếng, bụi bay mịt mờ. Hai lão Sử, Khiếu bật tung trở lại, khí huyết đảo lộn cực kỳ khó chịu. Hai lão cố nghiến răng, nín thở, nhưng cuối cùng khí vẫn trào lên, hai lão oẹ một tiếng, miệng phun máu. Cả hai lão cảm thấy chưởng của Thiệu-Thái như có như không, sát thủ cực kỳ trầm trọng. Trong người hai lão bồn chồn khó chịu vô cùng. Lão Sử hướng An-Nan: - Không ngờ đấng trừ quân mà lại nói hai lời. Thái-tử đã hứa để anh em lão phu đi, sao còn đánh lén? Rồi bây giờ còn bao vây? An-Nan chỉ Mỹ-Linh: - Ta hứa tha cho hai lão đi, nhưng công chúa Bình-Dương đâu có hứa? Mỹ-Linh chỉ Diêu Vạn: - Nhị vị giáo chủ tha lỗi. Chúng tôi đi sứ, nên không thể xử dụng võ công trên đất Tống. Vừa rồi tôi ra chiêu là do lời yêu cầu của Diêu Chiêu-thảo sứ đấy chứ! Từ mấy hôm nay nhị vị làm nhục, hành hạ chúng tôi đủ điều, nhưng chúng tôi nào có chống lại? Khấu Kim-An tiếp: - Cái thứ thuốc Di-hồn nhuyễn-cân ngũ-hoa độc của hai vị đâu có làm gì được sứ đoàn Đại-Việt. Hai vị cứ tưởng sứ đoàn tê liệt, nào ngờ sứ đoàn không muốn động thủ mà thôi. Bây giờ hai lão mới thấy rùng mình kinh sợ, tự chửi thầm: - Mình ngu thực. Đáng lẽ mình phải biết trước mới phải. Thằng Thiệu Thái được tôn làm giáo chủ thay Nhật-Hồ lão nhân. Y đã dùng Hồng-thiết thần công giải độc cho hết giáo chúng, thì y có coi thứ thuốc độc của mình ra gì? Thì ra y âm thầm giải độc cho cả bọn mà mình không biết. Cả hai lão đứng dậy chắp tay hướng Khai-Quốc vương: - Đa tạ vương gia đại xá. Hậu hội hữu kỳ. Hai lão phóng mình vào đêm tối. Hai sứ đoàn nhập làm một, hướng Biện-kinh. Diêu Vạn cùng đoàn thiết kị theo bên cạnh hộ tống. Mấy hôm sau viên kị binh đi đầu trở lại báo với Diêu Vạn: - Chỉ còn hai mươi dặm nữa tới Biện-kinh. Xin tướng quân định liệu. Diêu Vạn nói với Khai-Quốc vương: - Vương gia. Tiểu tướng được lệnh hộ tống sứ đoàn Xiêm. Rất xấu hổ không làm tròn bổn phận, phải nhờ vương gia giúp đỡ. Lệnh trên nói rằng tiểu tướng phải đưa sứ đoàn Xiêm vào điện Nam-thiên, rồi cáo với bộ Lễ. Còn sứ đoàn Việt... Thanh-Mai vẫy tay an ủi y: - Vì tướng quân không có nhiệm vụ tiếp chúng tôi nên không giám tự chuyên đưa chúng tôi vào thành phải không? Thôi thì thế này vậy: Tướng quân cứ lo tiếp thái tử An-Nan. Còn chúng tôi xin cho tự tiện. An-Nan nắm tay Khai-Quốc vương: - Đại ca! Hôm nay tạm chia tay. Sau khi đại ca có chỗ ở, anh em mình sẽ gặp nhau. Lê Văn nhìn Nong-Nụt, rồi nhìn Khai-Quốc vương. Nó nửa muốn theo nàng, nửa muốn đi cùng vương. Tuy thương hại cậu em kết nghĩa, nhưng Khai-Quốc vương phải cương quyết, không để em mình làm mất quốc thể. Vương vỗ vai nó: - Em tạm biệt Nong-Nụt, mai này gặp lại. Hai thiếu niên nhìn nhau, tình yêu chứa chan, bịn rịn. Biết cậu em khó rời xa Nong-Nụt; Mỹ-Linh vung roi ngựa cuốn quanh mình Lê Văn, nàng rung động roi một cái, nó bay bổng lên lưng ngựa. Nàng hô: - Đi! Lê Văn, Tôn Đản cỡi ngựa đi trước, Bảo-Dân đánh xe tứ mã của sứ đoàn theo sau. Tất cả hướng cửa Đông thành. Trong khi sứ đoàn Xiêm hướng cửa Nam. Tôn Đản, Lê Văn cùng ngắm nhìn Thiệu-Thái. Hai người thấy Thiệu Thái như có gì thay đổi, mà cả hai không đoán ra. Tôn Đản hỏi Mỹ-Linh: - Bà chị xinh đẹp. Xa nhau có mấy tháng, mà em thấy dường như ông ỉ bớt ỉn đi nhiều quá. Không biết có gì lạ không? Lê Văn là thầy thuốc. Nó ngắm Thiệu-Thái thực kỹ rồi nói: - Lúc mới gặp lại giáo chủ ở Khúc-giang em đã thấy anh ấy thay đổi khá nhiều. Rồi từ Khúc-giang cách biệt, anh ấy thay đổi hơn nữa. Da sáng ra, mặt tươi hồng hơn trước. Nhất là cái bụng lợn sề không còn nữa. Cái mặt ụt ịt cũng biến đi. Bây giờ trông phong tư tiêu sái đáo để. Nó nói với Mỹ-Linh: - Bà chị coi chừng, bây giờ ông ỉn đẹp trai thế này, khi ổng tới Biện-kinh, công chúa Huệ-Nhu mà trông thấy, nhất định cô ta cưới làm chồng thì hỏng bét. Nghe Tôn Đản, Lê Văn nói, Khai-Quốc vương mới chú ý đến cháu mình. Quả thực Thiệu-Thái đã thay đổi gần như hoàn toàn. Nếu so sánh với ngày chàng đến trấn Thanh-hóa thì thực là hai người khác nhau. Song vì Thiệu Thái thay đổi dần dần, mà chàng lại luôn đi cạnh vương, nên vương không thấy. Nay Tôn Đản, Lê Văn xa chàng mấy tháng, chúng mới nhận ra. Thanh-Mai bảo Lê Văn: - Em thử đoán xem tại sao Thiệu-Thái lại thay đổi mau như vậy? Lê Văn tung người lên, nó đã ngồi sau ngựa Thiệu-Thái. Nó chìa tay ra trước bắt mạch cho chàng. Khoảng nửa khắc sau, nó bật lên tiếng kêu: - Tuyệt vời. Nó vọt người về ngựa mình rồi nói với Mỹ-Linh: - Bà chị phải ạ em ba lần em mới nói. Mỹ-Linh bật cười: - Chỉ có em ạ chị, chứ có bao giờ chị phải ạ em đâu? Lê Văn chợt nhớ lại Mỹ-Linh cứu Nong-Nụt, nó không dám đùa nữa: - Anh Thiệu-Thái bẩm sinh cốt lợn. Vì vậy từ bé ụt ịt. Ảnh lại ăn quá nhiều. Trong lần ở Hồng-hương mật cốc, ảnh được Bồ-tát Sùng-Phạm truyền cho một trăm năm Thiền-công. Thiền-công của ngài Sùng-Phạm là khô thiền. Đúng ra sau khi ảnh được truyền thiền công, thì gầy mau lẹ mới phải. Nhưng Đỗ phu nhân lại dậy anh ấy Hồng-thiết công, nên trong người Phật với ma lẫn lộn, ảnh chưa gầy được. Phải đợi đến khi ngài Huệ-Sinh dạy anh ấy tọa thiền cứu chị Thanh-Mai anh ấy mới biết vận thiền công. Rồi ngài Bố-đại dạy anh ấy Mục-ngưu thiền chưởng, hằng ngày anh ấy luôn tụng kinh Bát-nhã, bấy giờ Phật mới thắng ma. Vì vậy người anh ấy gầy dần. Thanh-Mai khen Lê Văn: - Em bác học thực. Trong mấy ông Thiên-lôi, trước kia em với Tự-Mai điển trai nhất, rồi tới Tôn Đản, Thuận-Tông, Thiện-Lãm. Thiệu-Thái hạng bét. Bây giờ thì thứ tự đổi rồi. Lê Văn tính đốt ngón tay một lúc, rồi nói: - Nếu không có gì xẩy ra ngăn trở, thì chỉ hai tháng nữa ông ỉn mất ỉn. Ông ấy sẽ trở thành đẹp trai nhất trong bọn em. Nếu nói theo nhà Phật thì thiện duyên của bà chị Mỹ-Linh có chồng đẹp trai, nên dù bả ưng ông ỉn, rồi duyên may đến, ổng cũng thành tiên ông. Cả sứ đoàn đồng gật đầu, công nhận lý luận của Lê Văn đúng. Bây giờ Khai-Quốc vương mới có thời giờ cật vấn Tôn Đản, Lê Văn về những biến cố xẩy ra từ khi năm ông mãnh rời Khúc-giang. Đoạn này Tôn Đản, Lê Văn tường thuật lại những biến chuyển từ khi năm ông mãnh vâng chỉ của Khai-Quốc vương, Định-vương theo Triệu Huy về Biện-kinh, và lý do nào lại trở ngược về Nam, rồi gặp sứ đoàn Khai-Quốc vương giữa đường. Sau khi Bảo-Hòa, Thông-Mai cùng Trần Kiệt, Nùng-Sơn tử hộ tống chiến thuyền chở kho tàng về đến lãnh hải Đại-Việt, thì gặp chiến thuyền chở Hoàng Hùng, Vũ Anh, Phạm Hào đi đón. Trên chiến thuyền có cả Hồng-Sơn đại phu, Trần Tự-An, Lâm Huệ-Phương, Đào Hà-Thanh. Đào Hà-Thanh, Lâm Huệ-Phương vốn có thiện cảm, lại kính trọng Bảo Hòa như một tiên cô. Vì vậy ba người ngồi riêng ra nói truyện. Hà-Thanh kể cho Bảo-Hòa nghe rằng sở dĩ nàng được đi thế này là do Trần Tự-An, Hồng Sơn đại phu muốn dẫn vợ thăm lại di tích đất tổ thời vua Hùng, nhất là di tích về những trận đánh thời vua Trưng. Thế rồi thuyền của Bảo-Hòa, Thông-Mai chở Trần Tự-An, Hồng-Sơn đại phu trở lại Quảng-Đông. Thuyền tới Khúc-giang giữa lúc Đào Tường-Phúc, Chu Bội-Sơn xuất hiện đem sứ đoàn về Biện-kinh. Tự-An giảng cho Bảo Hòa, Thông-Mai tất cả kí hiệu liên lạc với hệ thống tế tác Đông-a. Thế là Bảo-Hòa phối hợp bốn hệ thống Lạc-long giáo, Đông-a, Đại-Việt, Bắc-biên lại. Vì vậy bề ngoài sứ đoàn chỉ có bốn người với năm ông thiên lôi. Nhưng thực sự bề trong hoàn toàn do Bảo-Hòa, Thông-Mai điều động. Tất cả mọi hoạt động chìm nổi của Lưu thái hậu, Định-vương Nguyên Nghiễm đối với sứ đoàn, Bảo-Hòa đều nắm rất vững. Chỉ qua mấy hoạt động, Bảo-Hòa thấy ngay rằng Định-vương Nguyên-Nghiễm là một chính nhân quân tử. Ông ta nhất tâm nhất trí với Tống triều, sau những thất bại tại Đại Việt, ông không oán thù mà còn khâm phục Khai-Quốc vương. Ông lại biết đường tiến thoái, nhẫn nại với Lưu thái hậu. Dù Dư Tĩnh là cháu Lưu thái hậu, khi đi sứ Chiêm, ông mang y theo, hầu chứng minh rằng mình đường đường, chính chính. Sau khi Lưu hậu thất bại liên tiếp trong vụ Trường-giang thất quỷ, vụ bang Nhật-hồ. Bà dùng tới khả năng cuối cùng là Chu Bội-Sơn, Đào Tường Phúc cùng mười trưởng lão bang Nhật-hồ. Trong bóng tối Bảo-Hòa, Thông Mai dùng Trần Phụ-Quốc (Vương Văn), Trần Bảo-Dân cùng năm ông thiên lôi bầy ra vụ bắt sống mười trưởng lão bang Nhật-hồ, tiếp theo vụ con thuyền tấu nhạc, đưa sứ đoàn tới Tương-đài, Tam-sơn làm cho hai lão thành điên khùng. Tại triều đình, Lưu hậu lấy lý rằng việc tiếp sứ đoàn không thuộc thẩm quyền Định-vương Nguyên-Nghiễm, mà thuộc tể tướng. Bà cho biết đã sai Tào Khánh đi đón. Sự thực bà sai bọn Trường-giang bắt giam Tào, rồi cưỡng sứ đoàn đi tìm kho tàng. Không ngờ bang Trường-giang lại bị sứ đoàn chinh phục. Bà vẫn không lùi, quyết nắm quyền trong vụ này. Bà loan báo với triều đình rằng đã sai quan tổng lĩnh thị vệ cùng quan tổng trấn Nam-biên thay Tào Khánh, sứ đoàn sẽ tới Kinh-châu. Không ngờ đúng ngày hẹn, kinh lược sứ Kinh-châu sai thiết kị dàn ở Bắc Trường-giang tiếp sứ đoàn, thì sứ đoàn biệt tăm. Cuối cùng tin cho biết hai lão Lê-lục-Vũ, Tôn-đức-Khắc bị một lực lượng bí mật bắt mất mười trưởng lão. Hai lão hóa điên khùng đuổi theo kẻ thù tới Giang-lăng. Bà hoảng hốt, nhưng vẫn tự ái nắm quyền. Bà sai Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản đi tìm sứ đoàn. Bảo-Hòa được tin, quyết làm cho hai tên này thân tàn ma dại. Vì vậy nàng mới sai Tôn Đản, Lê Văn hóa trang làm hai lão Sử, Khiếu, đột nhập đinh kinh lược sứ Kinh-châu ăn cắp bảo vật của sứ đoàn Xiêm, vờ đánh rơi kiếm lại. Trên kiếm khắc tên hai lão. Vì vậy kinh lược sứ mới niêm yết bẳng văn truy tầm. Tôn Đản kể: Sau khi năm đứa trẻ nhận chỉ dụ của Khai-Quốc vương, Định-vương Nguyên-Nghiễm đi cùng Triệu Huy, Ngô-cẩm-Thi về Biện-kinh. Vì Huy là một chức quan võ cao cấp, lại mang lệnh bài của quan phụ-quốc thái úy, nên suốt dọc đường không có việc gì xẩy ra. Trong khi đi đường, năm thiếu niên bàn về việc tuyển phò mã. Triệu Huy biết Thiện-Lãm, Thuận-Tông coi như trong tim đã có Kim-Thành, Trường Ninh, nên đều rửng rưng. Nhưng y không hiểu tại sao cả Tự-Mai, Tôn Đản cũng không mấy thiết tha. Y hỏi: - Trong ba công tử, tôi thấy từ võ công, nhân phẩm đều tuyệt vời. Tại sao không ghi danh ứng tuyển phò mã. Được làm phò mã chẳng sướng ư? Tôn Đản biểu đồng tình: - Võ công Lê Văn cao cường, lại bác học đa năng. Y thuật chú quán chúng. Chú mà ứng tuyển, nhất định thành phò mã. Lê Văn cười khúc khích: - Tôi không thích làm phò mã. Nếu như bố tôi tranh ngôi vua từ họ Lý, tôi cũng làm thái tử. Làm Thái tử không sướng bằng làm thầy thuốc, đi khắp nơi trị bệnh cho thiên hạ. Đến ngôi thái tử tôi còn không ham, huống chi ngôi phò mã? Thôi anh Đản ứng tuyển đi. Tôn Đản liếc nhìn Cẩm-Thi. Bốn mắt gặp nhau, chỉ thoáng qua, nhưng cả hai đã nói với nhau rất nhiều. Lê Văn hỏi: - Công chúa Huệ-Nhu có đẹp bằng chị Mỹ-Linh, Thanh-Mai hay mẹ trẻ Huệ-Phương của tôi không? - Tôi chưa thấy mặt Công-chúa, song nghe đâu võ công cũng vào hàng cao thủ. Hơn nữa xinh đẹp hơn Thái-hậu nhiều. - Thái hậu đẹp lắm sao? - Từ khi triều Tống thành lập đến giờ, chưa có cung nga nào sánh kịp. Chả vậy Thái-hậu xuất thân bần hàn, mà được sủng ái đặt lên làm hoàng hậu! Công-chúa lại văn hay chữ tốt. Tự-Mai cho ngựa chạy ngang với ngựa Ngô Cẩm-Thi: - Ngô tỷ tỷ. Tỷ tỷ cũng về Thăng-long treo bảng tuyển phò mã đi. Nhất định anh hùng thiên hạ sẽ đến dự đông đảo. Công-chúa Huệ-Nhu sao đẹp bằng tỷ tỷ. Còn võ công, e rằng anh hùng cũng khó bì kịp với tỷ tỷ, chứ đừng nói đến công chúa Huệ-Nhu. Trong năm ông thiên lôi, Cẩm-Thi thích nhất Tự-Mai với Lê Văn. Hai đứa khi thì gọi nàng bằng chị, khi thì gọi nàng bằng tỷ tỷ. Chúng luôn đùa vui, khiến nàng bật cười. Còn Tôn Đản, tuổi y ngang với nàng, nên y có thái độ dè dặt nam nữ. Nàng để ý thấy Tôn Đản trầm tư khác những ngày ở Khúc-giang. Y chú ý săn sóc nàng từng ly từng tý. Khi ăn, lúc trọ ở khách điếm. Dọc đường y luôn ruổi ngựa sát cạnh nàng. Tôn Đản thì kinh nghiệm đời sống có thừa. Nàng lại chứa đầy một đầu những gì chép trong sách vở, hai người bổ khuyết cho nhau. Dần dà, anh hùng với giai nhân cảm nhau bao giờ, mà chính họ cũng không biết. Bây giờ nghe Tự-Mai bảo nàng mở võ đài tuyển phu, thấy đề nghị vui vui, nàng đáp: - Tự-Mai này. Có lẽ chị sẽ mở võ đài ngay ở phủ Khai-phong, chứ không cần về Thăng-long. Tự-Mai bật cười: - Như vậy e rằng Công-chúa Huệ-Nhu ế chồng mất. Người ta ắt đổ xô sang võ đài của chị. - Chị mở võ đài, nhưng không phải để tuyển phu. - Vậy để tuyển gì đây? - Tuyển lấy mấy cậu em. Cậu nào cũng phải ngoan như Tự-Mai, Lê Văn hay Thuận-Tông, Thiện-Lãm. Tôn Đản bật cười: - Ngô tiểu thư mắng vốn bốn chú phá phách đấy. Trên đời này nếu có cậu em nào phá phách nhất, cũng còn thua bốn chú. Lê Văn nhăn mũi trêu Tôn Đản: - Cái anh Đản nói như vậy mà không sợ méo mồm ư? Bọn này phá phách theo lệnh của anh. Anh mới chính là chúa đảng phá trời. - Ta làm chúa mộc vị, chúa bù nhìn. Còn thực ra thì là Tự-Mai với Lê Văn. Triệu Huy xen vào: - Tôn công tử nói đúng đó. Có tiếng vó ngựa lộp cộp. Từ phía sau hai kị mã phi như bay. Một người mặc áo da mầu nâu. Một người mặc áo da mầu xám. Hai người tới gần bọn Tôn Đản, thì ghì cương cho ngựa chạy chậm lại. Người áo nâu cung tay hành lễ quân cách với Triệu Huy: - Hai chúng tôi là Tuyên-ứng sứ Lao Trấn và Tuyên-khánh sứ Hầu Định. Chúng tôi muốn thưa truyện với Triệu đại nhân. Nói rồi hai người trình ra hai tấm thẻ bài. Triệu Huy hiện đã lên tới Chiêu-thảo-sứ, một chức quan khá lớn trong hàng võ phẩm, nhưng y vẫn là quan ở ngoài. Còn hai tên Lao Trấn, Hầu Định tuy chỉ tới Tuyên-ứng, Tuyên-khánh, đẳng trật cách xa nhau. Nhưng bọn chúng là võ quan hầu cận hoàng đế. Vì vậy Huy phải nể vì. Huy cầm thẻ bài xem sơ rồi trả chúng. Tuyên-ứng Lao Trấn nói: - Chúng tôi được chỉ dụ của Thái-hậu giám sát Ngô Cẩm-Thi. Dụ ban ra rằng, khi y thị rời khỏi Khúc-giang, phải bắt trở về. Y thị không về, thì giết không tha. Lúc y thị rời Khúc-giang với đại nhân. Chúng tôi tưởng chỉ rời trấn ít dặm. Không ngờ cho đến hôm nay là bẩy ngày. Xin đại nhân cho biết y thị định đi đâu? Triệu Huy liệu chừng hai tên này chưa biết cuộc liên kết giữa Khai-Quốc vương với Định-vương. Y đáp: - Tôi được chỉ dụ của Định-vương đưa Ngô tiểu thư về kinh, thi hành sứ mạng quan trọng. Hầu Định nói như ra lệnh: - Xin đại nhân hiểu cho. Bắt buộc tôi phải cản trở. Nếu tôi không làm tròn sứ mệnh của Thái-hậu, e mạng sống không còn cũng chẳng tiếc. Nhưng tính mệnh toàn gia e nguy trong sớm tối. Khi Triệu Huy nhận chỉ dụ đưa Ngô Cẩm-Thi về kinh, y đã được Định vương cho biết dọc đường sẽ gặp nhiều sứ giả của Lưu hậu cản trở. Trường hợp này y cứ để Tự-Mai phản ứng. Nghĩ vậy y nói: - Nếu hai vị đã nói vậy, xin cứ tùy tiện. Hai gã Hầu, Lao không ngờ Triệu Huy đồng ý dễ dàng như vậy. Triệu Huy quay ngựa lại nói với Ngô Cẩm-Thi: - Ngô tiểu thư! Tôi được chỉ dụ vương gia đưa tiểu thư về kinh. Nhưng hai vị đây là Điện-tiền thị vệ lại tuân chỉ Thái-hậu cấm tiểu thư rời Khúc giang. Tôi không biết phải giải quyết ra sao. Tự-Mai đứng ngoài nghe hai gã Lao, Hầu đối đáp với Triệu Huy, nó đã ứa gan. Nó nói với Triệu Huy: - Khi Triệu đại nhân nhận chỉ dụ của Định vương, anh em chúng tôi cũng có mặt, cùng nghe thấy. Bây giờ hai tên này cản trở thực vô lý. Chúng tôi chỉ biết Triệu đại nhân mà thôi. Còn hai gã kia biết đâu chẳng là gian tế. Hầu Định quát: - Tên ôn con kia, thế lệnh bài của Thái-hậu là gì đây? Lê Văn cười nhạt: - Lệnh bài đó không chừng là đồ giả. Để ta coi lại xem đã. Nói rồi nó tiếp lệnh bài của hai gã Thị-vệ xem đi xem lại rồi bỏ vào túi: - Ta chưa thấy lệnh bài của Thái-hậu bao giờ, nên nào có biết thực giả ra sao. Bây giờ thế này: Hai vị cùng chúng ta tới Kinh-châu vào yết kiến quan Tư-mã, để quan Tư-mã phân biệt chân giả. Gã Lao nổi cơn điên lên: - Đưa trả lệnh bài ngay. Bằng không ta giết mi liền. Gã xuất chiêu ưng trảo chụp Lê Văn. Nó không tránh, chĩa ngón tay trỏ ra điểm hai cái véo, véo trúng huyệt Khúc-trì. Tay gã Lao tê liệt không cử động được. Gã kinh hoàng định há miệng chửi, thì nó điểm tiếp vào hai huyệt Hạ quan, miệng gã cứng đơ không há ra được. Gã Hầu kinh hãi phóng chưởng tấn công Lê Văn. Tự-Mai vung chưởng đỡ. Binh một tiếng, người gã Hầu bay bổng lên cao, rơi xuống trước ngựa Tôn Đản. Tôn Đản điểm vào huyệt Hoàn-khiêu, Kiên-ngung y. Chân tay y tê liệt, y rơi xuống đất đến bộp một tiếng. Thuận-Tông lấy roi ngựa vung lên quấn quanh người gã. Nó giật mạnh, người gã bay bổng lên cao, rơi xuống lưng ngựa mình, y như gã nhảy lên vậy. Gã tức quá miệng hét be be: - Mấy tên ôn con kia, bọn mi định làm gì ta đây? Thuận-Tông cười: - Chúng tôi kính mời hai vị Thị-vệ đại nhân theo hộ tống Ngô tiểu thư lai kinh chứ không làm gì khác. Gã Hầu Định ngoạc mồm ra chửi: - Bọn mi dùng tà thuật bắt Thị-vệ như thế này sẽ bị xử tử hình. Mi có biết không? Tôn Đản hỏi Lê Văn: - Trên người ta, đụng vào chỗ nào thì cười, chú có biết không? - Biết chứ. Nó phóng chỉ điểm vào huyệt Liêm-tuyền của Hầu-Định. Liêm-tuyền là huyệt nằm ngay dưới cằm. Hầu bật lên tiếng cười. Thấy kết quả, Lê Văn tháo giầy gã ra, điểm vào huyệt Dũng-tuyền dưới bàn chân gã. Lập tức gã cười dòn dã. Vì chân tay gã tê liệt, gã chỉ biết rụt cổ và lắc mình cười. Ngô Cẩm-Thi hỏi Tôn Đản: - Tôn đại ca này. Võ công mà Tôn đại ca với Lê Văn vừa xử dụng là võ công gì vậy? - Nó là môn điểm huyệt. Môn này đo anh cả với chúng tôi mới chế ra gần đây thôi. Còn điểm vào hai huyệt cho gã kia cười là do Lê Văn dùng gã thí nghiệm, không ngờ lại có kết quả ngoài ý muốn. Ngô Cẩm-Thi nói với Lê Văn: - Lê đệ đệ ơi. Đệ đệ mau giải khai huyệt đạo cho gã Hầu Định bằng không gã cười mãi thế kia, e mệt quá thì gã chết mất. Lê Văn dùng roi ngựa quất vào huyệt Khúc-tuyền, Khí-hải của Hầu Định, lập tức gã hết cười, miệng thở hổn hển. Tôn Đản nói: - Hai vị Hầu, Lao! Mong hai vị khuất thân đi với chúng tôi tới Kinh-châu để biệt chân giả rồi chúng tôi sẽ giải khai huyệt đạo cho hai vị. Bằng hai vị cứ la lối, buộc lòng chúng tôi phải điểm cho hai vị cười đến chết mới thôi. Hai gã Hầu, Lao đành thúc thủ, ngậm miệng theo bọn Tôn Đản. Khi qua Kinh-châu, bọn Tôn Đản không ghé dinh Tư-mã, mà đi thẳng lên Tương dương. Nhưng dù sao bọn Tôn Đản vẫn còn trẻ, thiếu cẩn thận. Chúng quên mất phép điểm huyệt chỉ có giá trị hai giờ. Sau hai giờ các huyệt tự giải. Đêm đó, hai gã Lao, Hầu thấy chân tay cử động được, bèn lấy ngựa trốn đi. Sáng thức dậy thấy mất hai gã Lao, Hầu, bọn trẻ vẫn thản nhiên như không có gì xẩy ra. Suốt dọc đường Tôn Đản, Ngô Cẩm-Thi luôn bên cạnh nhau. Tự-Mai kinh nghiệm về vụ Lý Long-Bồ, Thanh-Mai. Sau này đến Thiệu-Thái, Mỹ-Linh. Nó bàn cùng Lê Văn, Thuận-Tông, Thiện-Lãm luôn tìm cách lẩn tránh để hai người có dịp nói truyện riêng. Một lần chợt nhớ tới Thuận-Tường, Tự-Mai hỏi Triệu Huy: - Triệu huynh ơi. Không biết kỳ tuyển phò mã này phái Hoa-sơn có cử người tham dự không? - Tôi nghĩ là có. Không chừng giờ này phái đoàn Hoa-sơn đã đến rồi, nhưng chả biết họ cư trú ở đâu? Suốt dọc đường, Tôn Đản luôn đi cạnh Ngô Cẩm-Thi. Y nhiều kinh nghiệm thực tiễn dân dã, nhưng lại thiếu kiến thức trong sách vở. Ngược lại Cẩm-Thi thì đọc thiên kinh vạn quyển, mà chưa từng ra đời. Vì vậy họ bổ khuyết cho nhau, rồi mối tình nảy sinh. Tới Biện-kinh, năm quý khách được mời vào cư ngụ trong phủ Định vương. Như chỉ dụ của Định-vương, năm thiếu niên được trình bầy tổ chức triều Tống cùng đường xá trong Biện-kinh. Định-vương tuy chưa lập vương phi chính thức, nhưng trong phủ cũng có hơn chục mỹ nữ. Đa số họ là con quan trong triều, hoặc con nhà giầu. Một là họ thích được gần nhân vật quyền thế chỉ thua có Thiên-tử. Hai là họ hãnh diện vì Định-vương nổi danh tài trí vô song. Các nàng mỹ nữ thấy năm thiếu niên khôi ngô, nói năng lễ phép, kiến thức vô cùng rộng rãi, đều tỏ vẻ mến mộ. Năm thiếu niên thấy các mỹ nữ, chúng đều cung tay gọi bằng vương-phi. Nên bà nào cũng hài lòng. Chúng thi nhau kể truyện những ngày vương sang Đại-Việt. Tự-Mai đã ước hẹn với các bạn, tất cả đều tránh kể những thất bại của vương, mà chỉ kể truyện vương hào phóng, khiến võ lâm danh sĩ Đại Việt ngưỡng mộ. Vì vậy Hoa-Việt kết thân. Sau một ngày nghỉ ngơi, Triệu Huy nói với Ngô Cẩm-Thi: - Bây giờ chúng ta đi thăm Ngô đại hiệp. Không biết chúng ta cùng đi hay chỉ một vài người với Ngô tiểu thư? Ngô Cẩm-Thi hỏi ngược lại: - Song thân tôi bị giam cùng với các anh tôi ở đâu? - Ngô đại hiệp không bị giam. Cả gia đình bị quản thúc ở một trang ấp ngoài phủ Khai-phong. Những bộc phụ, tỳ nữ từ Khúc-giang đem theo vẫn y nguyên. - Trang ấp do binh sĩ của phủ Khai-phong, của Khu-mật viện hay phủ Thái-úy canh gác? - Của Khu-mật viện. Cẩm-Thi nói với Tôn Đản: - Tùy đại ca quyết định. - Vậy thì thế này: Lê Văn, Tự-Mai ở nhà. Còn Thuận-Tông, Thiện-Lãm theo anh đi thăm Ngô bá bá. Lê Văn cật vấn: - Tại sao hai đứa này không đi. Lỡ có sự thì sao? - Đây thuộc kinh thành ta không thể dụng võ, nên không cần đến hai chú. Mà có dụng võ, với bản lĩnh Ngô bá bá cùng ba vị Ngô công tử hỏi ai địch lại, các chú có đi cũng vô ích. Tôn Đản thấy Tự-Mai chưa hiểu ý mình, nó ghé tai Tự-Mai nói nhỏ: - Lúc sáng nay ta thấy cặp chim ưng mình cho Thuận-Tường hôm trước bay trên đầu, ắt nàng đang có mặt ở kinh thành. Em gọi chim ưng xuống gửi thư cho nàng, hoặc bảo nó dẫn đường tìm nàng. Tự-Mai liếc nhìn lên trời, quả đôi chim ưng đang bay lượn không xa là mấy. Tim nó đập rộn ràng, tay ôm lấy Tôn Đản tỏ ý biết ơn. Tôn Đản, Cẩm-Thi dẫn Thuận-Tông, Thiện-Lãm theo Triệu Huy rời vương phủ. Lê Văn nhìn Tự-Mai tủm tỉm cười. Hai thiếu niên cùng xuất thân giống nhau, nên tâm đầu ý hợp, chỉ thoáng qua, Lê Văn đã hiểu thấu tâm sự Tự-Mai. Nó bàn: - Tự-Mai định gọi chim ưng xuống viết thư cho nàng hay tìm đến thăm nàng? - Viết thư e không tiện, vì sợ phụ huynh nàng bắt được. Trước hết mình nên tìm xem nàng ở đâu đã. - Vậy ta gọi chim ưng xuống đi! Tự-Mai ngửa mặt lên trời hú một tiếng dài. Đôi chim ưng đang bay trên trời, chúng lượn một vòng rồi đáp xuống. Chúng nhận ra Tự-Mai, Lê Văn, cả hai con vật đều kêu lên những tiếng vui mừng. Lê Văn bàn: - Ta theo chúng đi liền chăng? - Ừ. Tự-Mai nói với cặp chim ưng mấy tiếng, rồi... Lê Văn dịch xong, Tự-Mai đã gọi chim ưng xuống buộc khăn vào chân nó chúng rồi tung lên không. Cặp chim ưng bay một vòng, chúng chao đi mấy cái, sau đó từ từ đáp xuống mất hút. Hai thiếu niên tìm một vườn hoa ngồi chờ tin tức. Không đầy nửa giờ, chim ưng bay lên không, rồi đáp xuống. Tự Mai run run mở ống tre dưới chân ra. Trong có tờ giấy hoa tiên. Nó đọc: Trần đại ca. Tự Tản-lĩnh cách biệt, tưởng kiếp này không gặp nhau nữa. Không ngờ đại ca đã dầy công đi tìm muội. Đại ca muốn gặp muội, phải tuyệt đối nghe lời muội. Bằng không chúng ta nghìn trùng cách biệt. Có hai việc phải làm: - Một là đại ca phải ghi danh ứng tuyển phò mã ngay. Dùng mọi cách thắng anh hùng thiên hạ. - Hai là đại ca ra tửu lầu Nam-phong chờ. Sẽ có người đến đưa đại ca gặp muội. Thư bất tận ngôn. Thuận-Tường. Lê Văn thấy Tự-Mai đờ đẫn cả người ra. Nó vội khuyên: - Ta tạm rời hoàng thành, tìm tửu lầu Nam-phong đợi nàng sai người đến dẫn đi. - Lạ một điều sao nàng bắt ta phải ghi danh ứng tuyển phò mã. Thành phò mã rồi, sao có thể làm chồng nàng? Lê Văn suy nghĩ một lúc rồi nói: - Có nhiều khúc mắc mà ta chưa biết. Ta cứ chờ gặp nàng rồi sẽ hỏi. Theo như em nghĩ, Lưu hậu treo bảng tuyển phò mã. Số vào chung kết tới mười tám. Lưu hậu cùng quan tả, hữu bộc xạ chọn một người. Còn mười bẩy người sẽ gả con các quan cho. Không chừng Thuận-Tường là một trong mười bẩy tiểu thư đó. Khi người ta yêu, thường u mê trong ảo tưởng. Hằng ngày Tự-Mai thông minh bậc nhất, việc gì nó cũng kiến giải sáng suốt. Nay nó đang trong vòng rạo rực tình ái, nên cảm thấy yếu đuối, phải nhờ Lê Văn bàn giúp. Rời hoàng thành, hai thiếu niên tìm đến tửu lâu Nam-phong, kiếm một chỗ trên lầu cao, gần cửa sổ ngồi. Lê Văn gọi mấy món ăn, rồi bàn: - Lát nữa đây, sẽ có người dẫn đường đi gặp Thuận-Tường, chỉ mình anh đi thôi. Còn em trở về phủ Định-vương. Lỡ có gì chim ưng báo cho em biết, để em còn thông tin cho anh cả với Định-vương. - Dĩ nhiên như vậy. Mình nghĩ việc gặp Thuận-Tường chắc không có gì nguy hiểm đâu. Dù sao giữa phái Hoa-sơn với võ lâm Đại-Việt có tình giao hảo, họ đâu nỡ gây khó dễ với mình. Bỗng có tiếng lăng không truyền ngữ rót vào tai Tự-Mai: - Thằng cà chớn mê gái. Có nhận được tiếng ta không? Nghe tiếng nói, Tự-Mai lạnh cả gáy, vì đó là tiếng Thông-Mai. Nó không hiểu sao, bố nó, Thanh-Mai đầm ấm như vậy, mà Thông-Mai lại lạnh lùng đến phát ớn. Nghe tiếng anh hỏi, nó nhìn sang bên cạnh, thấy hai ông bà già đang ngồi ăn uống. Mùi trầm hương xông lên, nó nhận ra cặp vợ chồng là Thông-Mai, Bảo-Hòa. Nó vội đáp: - Anh có gì dặn em không? - Anh thì không có gì, nhưng chị Bảo-Hòa thì có nhiều lắm. Tiếng Bảo-Hòa nói: - Đêm nay có thể em gặp một người đàn bà đặc biệt thuộc phái Nga-mi. Nội công Nga-mi xuất từ phái Thiếu-lâm. Mà nội công Thiếu-lâm, Tiêu-sơn, Đông-a đều xuất từ Thiền. Em hãy đem phương pháp phá Chu-sa độc chưởng dạy cho bà ta. - Chưa có phép của bố mà em dạy người ngoài, e bố đánh chết. - Chị với anh Thông-Mai đã xin phép bố rồi. - Chỉ dạy phép đẩy độc chất về cơ thể địch nhân hay dạy cả nội công lẫn chưởng pháp. - Em muốn dạy gì cũng được. Đến đấy Bảo-Hòa, Thông-Mai đứng dậy xuống lầu. Tự-Mai rùng mình: - Văn đệ này. Từ khi rời nước ra đi đến giờ, hằng ngày anh cả điều động chúng mình. Nhưng trên thực tế hai ông bà Thông-Mai, Bảo-Hòa sai khiến tất cả. Chúng mình đi thế nào, ông bà ấy cũng theo dõi được. Hai người đang nói truyện, thì có một thiếu phụ đến bên cung tay hỏi: - Trong hai vị, vị nào là Trần công tử? Tự-Mai đáp lễ: - Thưa là tôi. - Lão tỳ được bề trên ủy thác dẫn công tử đến gặp một người. Xin công tử theo lão tỳ. Tự-Mai đưa mắt cho Lê Văn, rồi đứng lên. Thiếu phụ dặn: - Tiểu tỳ họ Phương. Bề trên dặn: Công tử tuyệt đối không được dụng võ. Nơi công tử gặp bề trên thuộc cấm thành. Trong cấm thành đầy cung nga, thái giám, thị vệ. Vậy công tử phải hoá trang thành một thái giám. Nói rồi mụ trao cho Tự-Mai một cái túi: - Công tử hãy vào sau tửu lầu thay quần áo, trao kiếm cho người bạn. Trong cấm thành, thái giám không thể mang kiếm. Tự-Mai trao kiếm cho Lê Văn rồi vào trong thay quần áo. Khi nó ra, Lê Văn suýt bật cười vì chính nó cũng không nhận ra Tự-Mai. Mụ Phương trao cho Tự-Mai một thẻ bài: - Đây thẻ bài của công tử. Công tử có tên Mai-Tự, thuộc cung Ôn-đức, hầu hạ Lý thái phi. Tự-Mai hỏi: - Tại sao Thuận-Tường lại ở trong cấm thành? - Lát nữa gặp bề trên của lão tỳ, công tử sẽ rõ. Hai người xuống lầu. Kiệu chờ sẵn. Mụ Phương lên một cái. Tự-Mai lên một cái. Kiệu nhập cửa Chính-dương rồi vào cửa Tinh-võ cấm thành. Khi qua cửa, thị vệ hỏi thẻ bài, rồi cho đi. Kiệu đi vòng vèo mãi, tới một cung điện thì ngừng lại. Kiệu phu mở cửa. Tự-Mai bước ra, mụ đã Phương chờ sẵn. Mụ vẫy Tự-Mai đi theo. Liếc nhìn trên cửa cung có chữ Ôn-đức cung. Nó kinh hãi: - Hôm trước nghe anh Thiệu-Cực nói Ôn-đức là nơi thái phi họ Lý ở. Không lẽ Thuận-Tường lại là thái phi? Mụ Phương đưa Tự-Mai vào một thư phòng trang trí rất hoa mỹ. Trên tường treo đầy bút thiếp cùng danh họa. Mụ dặn: - Thôi, công tử ngồi đây chờ bề trên chúng tôi, xin đừng có đi đâu. Nói rồi mụ lui bước. Tự-Mai đi xem các bút thiếp, tất cả đều thự danh của những đại gia thời bấy giờ như Vương Khâm-Nhược, Lã Di-Giản, Khấu Chuẩn, Đinh Vị, Tào Lợi-Dụng, Trương Sĩ-Tổn. Có tiếng dép lẹp kẹp, rồi một mùi u hương thoang thoảng bốc lên. Tự-Mai nghĩ thầm: - Chắc là Thuận-Tường. Nó vội quay lại đón, thì ra một cung nữ. Cung nữ cúi đầu chào nó, rồi đặt chiếc khay bạc lên bàn. Trên khay bạc có đến mười thứ mứt kẹo khác nhau. Nàng lễ phép lui bước. Tự-Mai tò mò nhìn các đĩa mứt. Nó nhận ra được : Hạt dẻ, tùng tử, hạnh đào, đào nhân, ngọc quế. Còn lại nó chưa từng thấy qua. Lại có mùi u hương thoang thoảng, rồi cung nữ khác bưng vào một bình trà với hai chiếc chung bằng sứ bọc vàng. Cung nữ cúi chào, khoan thai lui bước. Tự-Mai nghĩ thầm: - Thuận-Tường là ai? Không lẽ nàng là Lý thái phi? Vua Chân-tông băng đã mười năm. Khi ngài băng, Thuận-Tường chưa quá mười tuổi, đâu có thể là cung phi của ông? Có mùi hoa quế thoang thoảng, rồi một cung nữ bước vào. Tự-Mai giật bắn người lên. Vì nàng chính là Thuận-Tường. Nhớ thương chồng chất, nay gặp lại, chân tay nó như tê liệt. Thuận-Tường cũng thế. Hai người ngây ngất nhìn nhau. Cứ như vậy không biết thời gian bao nhiêu lâu, Thuận-Tường lên tiếng: - Trần đại ca. - Thuận-Tường! Thuận-Tường mời Tự-Mai ngồi xuống chiếc bàn. Nàng ngồi đối diện, tay rót trà vào chung mời: - Đại ca dùng trà. Tự-Mai bưng trà lên uống, rồi hỏi: - Đây là đâu. Tại sao Thuận-Tường lại ở cung Ôn-đức? - Vì tiểu muội là cung nữ. - Cung nữ? - Đại ca ngạc nhiên lắm ư? Sau khi rời Tản-lĩnh về, tiểu muội bị tuyển làm cung nữ, rồi được đưa vào đây hầu Lý thái-phi. Trong đầu óc Tự-Mai nhớ lại truyện Đào Hà-Thanh, Lâm Huệ-Phương. Mỹ-Linh kể cho nó nghe: Những cung nữ xinh đẹp vua lưu giữ một số phong cho những gì mỹ-nữ, tu-nghi, tu-dung, dung-nghi, tức một thứ vợ nhỏ. Còn lại chia cho các hoàng tử. Những người xấu, bị chia hầu hạ các bà thái hậu, hoàng hậu, công chúa. Nó hỏi: - Tường muội đẹp thế này mà hoàng đế không phong làm chính cung nương nương ư? Sao đến nỗi hầu hạ thái phi? Thuận-Tường cười: - Đại ca đừng ngạc nhiên, vì muội thuộc thành phần con nhà dân dã, nên không thể được hầu vua cũng như hoàng tử. - Tường muội định chôn cuộc đời ở đây sao? - Chim lồng, cá chậu biết sao bây giờ? - Tường muội cùng anh trốn đi. - Đại ca tưởng! Trốn đi thì dễ rồi, nhưng còn gia gia, má má, anh chị em... Triều đình sẽ chặt đầu hết. - Anh nhất định không thể để như vậy! - Đại ca định làm gì? - Anh về rủ mấy sư huynh sư đệ vào cướp Tường muội ra. Khi Tường muội bị cứơp ra, triều đình đâu có thể bắt tội gia gia, má má. Thuận-Tường lắc đầu: - Trong cấm thành có hơn nghìn thị vệ. Dù đại ca có bản lĩnh nghiêng trời lệch đất cũng không thể đấu lại với bọn chúng. Làm như thế chỉ uổng mạng mà thôi. - Thà uổng mạng vì Tường muội còn hơn để Tường muội bị chôn cuộc đời trong cung như thế này. Thuận-Tường bật cười: - Trước đây, trong cấm thành đã xẩy ra một việc tương tự. Hồi đó tiểu muội còn nhỏ, nên chỉ nhớ lõm bõm thôi. Bấy giờ phụ hoàng... à vua Chân tông còn là tại thế. Nghe Thuận-Tường nói, Tự-Mai ngắt lời: - Cái gì phụ hoàng? - Tiểu muội muốn nói hoàng thượng còn là thái tử. Bấy giờ vua Chân tông tuyển con gái Khấu thừa tướng định đặt lên làm hoàng hậu. Giữa lúc vua cùng nàng yến ẩm, thì một võ lâm cao thủ xuất hiện. Y trói nhà vua lại, nhét dẻ vào miệng rồi bắt Khấu tiểu thư đi. Tự-Mai bật cười, vì biết gian nhân đó là nhị sư huynh Trần Bảo-Dân. Nó lắc đầu: - Theo anh nghĩ cao thủ đó không bắt Khấu Kim-An, mà cứu nàng ra. Thuận-Tường kinh ngạc: - Đại ca biết nhũ danh của Khấu tiểu thư ư? - Anh biết rất rõ. Kim-An không hề bị bắt, trái lại tình quân đã cứu nàng ra. Tình quân đó là nhị sư huynh của anh tên Trần Bảo-Dân. - Tuyệt vời! Mà gan cũng lớn vô cùng. Trên đời hỏi được mấy người như nhị sư huynh của đại ca. Y dám vì tình, mà làm truyện nghịch thiên, bạo địa. Ước gì muội được gặp con người đó. Tự-Mai thuật lại truyện tình của nhị sư huynh với Khấu Kim-An thực chi tiết tỷ mỉ, rồi nó kết luận: - Bây giờ đến lượt anh làm truyện bạo thiên, nghịch địa. Thuận-Tường nắm tay Tự-Mai. Cả hai cùng run lên bần bật: - Đa tạ đại ca. Bây giờ thế này: Đại ca ghi danh ứng tuyển phò mã. Cố sao được vào chung kết. Khi Thái-hậu cùng triều đình cho công chúa cùng con các quan xuất hiện. Tiểu muội sẽ có mặt theo hầu công chúa. Đại ca xin được kết hôn với tiểu muội. Như vậy là tốt đẹp nhất. - Tại sao Tường muội... Có tiếng nói vọng vào: - Thánh giá Thái-hậu giá lâm. Thuận-Tường kinh hãi chỉ cái sập, y muốn bảo Tự-Mai chui vào gầm ẩn thân. Nhưng Tự-Mai gan lớn bằng trời, nó không chịu chui vào mà tung người lên trên xà nhà, rồi nép mình bên cạnh kèo lớn. Thuận-Tường phóng ra cửa sổ mất dạng. Hai cung nữ bưng trà, mứt bước vào ban nãy, dấu vội khay, đĩa trong cái tủ, rồi ra cửa. Tiếng dép lẹp kẹp, hai thiếu phụ y phục sang trọng song song bước vào. Nhờ đã được Mỹ-Linh giảng giải, nhìn y phục, Tự-Mai nhận ra được phụ nữ gầy là Lý thái phi. Còn phụ nữ người vừa phải là thái hậu. Hai cung nữ quỳ gối: - Bái kiến thái hậu, thái phi. Một thái giám đi theo hô: - Bình thân. Tự-Mai nghĩ thầm: - Kẻ đại thù gây sóng gió cho Đại-Việt, Đại-lý, Tây-hạ, Thổ-phồn là bà Lưu thái hậu này đây. Cứ nhìn nét mặt, bà ta mới hơn bốn mươi, nhan sắc thực không thua gì Lâm Huệ-Phương, Đào Hà-Thanh. Có ai ngờ bà ta gây ra biết bao nhiêu bão táp cho thiên hạ. Lưu thái hậu, Lý thái phi ngồi đối diện nhau, mỗi người bưng một chung trà trong tay, không ai uống, cùng nhìn nhau. Một lát sau Lưu hậu nói: - Việc triều chính bớt bận rộn, ta tới thăm Thái- phi, muốn nói với Thái phi ít điều. - Thần ở đây thanh tĩnh quen rồi. Thái-hậu vì quốc sự mà thánh thể hao gầy, xin tĩnh dưỡng, không nên bận tâm về thần. Lưu Thái-hậu thở dài: - Dĩ nhiên ta không bận tâm về Thái-phi, mà bận tâm về các thân vương. Triệu vương ra dạ bất an. Hơn tháng qua y cáo bệnh không vào triều. Còn Định-vương! Hừ ! Ta đang điên đầu về y. Y chống lại ta chẳng nói làm gì. Có tin nói y định tạo phản. Lý Thái-phi lắc đầu: - Tin đó chắc người ta phao vu. Định vương hiện là rường cột xã tắc. Người là thầy, là chú Thiên-tử. Suốt đời người nhất tân lo cho Thiên-tử. Khắp nơi đều nói người là Chu-công, Trương Lương, Gia-cát Lượng. Thiếp nghĩ nếu Thiên-tử muốn, người cũng cắt tim cắt thịt cho thên tử ăn. Có đâu tạo phản? Lưu hậu lắc đầu: - Bề ngoài thì vậy, nhưng bề trong y liên kết với bọn Việt. - Vương đi sứ nước người. Việc ở ngoài, khó có thể quyết đoán bằng một tờ biểu. Ai đã tâu với Thái- hậu như vậy? - Dư An-phủ kinh lược sứ cùng Địch Thanh theo vương đi sứ Chiêm. Vương biết Dư là cháu Thái-hậu, đời nào vương mưu phản lại để lộ cho y biết? Vương mới về kinh, thần nghĩ Thái-hậu đường đường chính chính mời vương lâm triều hỏi cho ra lẽ, chẳng hơn ưu tư cho mệt thánh thể. - Ta đã tra hỏi nhiều người. Vương kết huynh đệ với Khai-Quốc vương Đại-Việt. Như vậy không phải là mối lo ư? - Đại-Việt là phiên thần của Tống. Xưa đức Thái-tổ chẳng từng kết huynh đệ với Trịnh Ân mà được Ân phò tá bản triều đó ư? Thần nghe, sứ đoàn Đại Việt đang trên đường sang tiến cống. Khai-Quốc vương mưu kết với Định vương làm phản, có đâu đem đầu đến cho ta chặt.