🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook 100 Truyện Ngắn Hay Trung Quốc Tập 1 - Nhiều Tác Giả full prc pdf epub azw3 [Tuyển Tập]
Ebooks
Nhóm Zalo
LỜI NÓI ĐẦU
Truyện ngắn Trung Quốc là một thể loại đặc sắc, có nhiều thành tựu. Từ thời cổ cận đại, những truyện truyền kỳ, truyền thuyết, những câu chuyện của những bậc thuyết khách đã để lại những áng danh văn.
Các tác giả nối tiếp thời cận hiện đại lại có nhiều truyện ngắn nổi tiếng, đa dạng cả về nội dung lẫn phong cách thể hiện.
Đặc biệt những năm gần đây, truyện ngắn hiện đại Trung Quốc đang được mùa nở rộ. Nhiều tác giả mới xuất hiện. Có những tác giả đã trở thành những cây bút lão luyện trong thể loại này như Giả Bình Ao, Trương Thừa Chí, Sử Thiết Sinh, v.v...
Chúng tôi lựa chọn 100 truyện ngắn Trung Quốc, chính là nhằm để giới thiệu mùa truyện ngắn hiện đại với thành tựu nổi bật ấy. Để bạn đọc thấy được truyền thống của thể loại này, nhóm biên soạn có tuyển thêm một số truyện ngắn của những tác giả tiền bối tiêu biểu như Lỗ Tấn, Quách Mạt Nhược, Băng Tâm, Lâm Ngữ Đường, v.v...
Tập sách đã tập hợp được các bản dịch của các dịch giả Hán văn quen thuộc ở Việt Nam như Tản Đà, Cao Xuân Huy, Trương Chính, Phan Văn Các, Trần Đình Sử, Phạm Tú Châu, Lê Bầu, Hà Phạm Phú, Vũ Công Hoan, Xuân Du, Trinh Bảo, v.v...
Chúng tôi sắp xếp theo trình tự alphabet của âm Hán Việt. Riêng phan truyện truyền kỳ, truyền thuyết, thì xếp theo trình tự niên biểu.
Hi vọng rằng 100 truyện ngắn hay Trung Quốc sẽ là một tập sách bổ ích cho những bạn đọc say mê truyện ngắn Trung Quốc và những nhà nghiên cứu...
Trong lúc tuyển chọn, biên soạn chắc không thể tránh được những khiếm khuyết. Mong bạn đọc thể tình lượng thứ.
• NHÓM BIÊN SOẠN
A CHÂN
CON ĐÃ NHÌN THẤY ĐẠI DƯƠNG
T
ôi là bé gái tật nguyền. Mẹ tôi sợ tôi làm bà xấu mặt, sợ tôi ra đường bị mọi người mỉa mai trêu chọc, nên đến 8 tuổi mà tôi vẫn bị nhốt trong nhà. Tôi chỉ còn có khoảng trời bằng cái sân để chợtt nhìn một vài đàn chim vụt qua và không biết chúng bay về đâu.
Cha tôi qua đời năm tôi tròn 8 tuổi. Ít lâu sau mẹ tôi cải giá đi bước nữa, bà lấy một thủy thủ về hưu trên thị trấn. Lúc ấy mẹ tôi mới 40 tuổi, còn bố dượng đã ngoại lục tuần.
Bố dượng bảo tôi gọi ông là bác, và nói với tôi:
"Hà con, lại đây, bác đưa con đi chơi nhé?"
"Dạ không, dạ không". Tôi sợ quá và cứ thụt mãi ra phía sau. "Ra bên ngoài mà xem con ạ, nhiều thứ đẹp và hay lắm". Tôi đành lòng thú thật:
"Con xấu xí tật nguyền thế này, đi đứng khập khiễng, mẹ bảo ra đường người ta cười cho!"
Nói xong, tôi òa khóc.
"Con khỏi lo, Hà ạ, ai nói gì con, bác sẽ bồi cho cái này này" – bố dượng tôi giơ cao nắm đấm lực lưỡng của người thủy thủ tuy già nua mà vẫn còn rắn chắc, làm điệu bộ thụi thụi vào ai đó.
Tôi bật cười trong dàn dụa nước mắt.
Hôm sau bố dượng dẫn tôi đi phố. Lần đầu tiên tôi ra đường, trông thấy người là người, sao nhiều thế, tôi sợ quá và xấu hổ cúi gằm mặt xuống, hai tay níu chặt gấu áo ông như cái đuôi vậy.
"Hà con, ngửng mặt lên, sợ cái gì?". Ông hét to như lúc còn là thủy thủ trên đại dương nên làm mọi người chú ý xì xào, nhất là lũ nhỏ bằng tuổi tôi.
"Này, đến đây, làm quen nhau đi. Đây là Hà, là bạn của các cháu đấy". Bố dượng tôi nói vói đám trẻ thân mật và ngọt ngào như vậy nên cả bọn đã chạy đến bên tôi, hỏi cái này, hỏi cái kia và rủ tôi đi chơi.
Mùa đông đến, bệnh suyễn của bố dượng tôi tái phát và nặng thêm. Nhiều đêm không ngủ được, ông gọi tôi dìu đến bếp lò sưởi ấm. Trong cơn ho hen khó nhọc, ông kể cho tôi nghe câu chuyện về đại dương, về biển cả:
"Nước biển xanh, xanh như bầu trời, nước biển mặn, mặn như muối; biển rộng và sâu; dưới biển có cá, cá to, cá nhỏ, trên biển có thuyền, thuyền lớn, thuyền bé...
Tôi bị cuốn hút vào câu chuyện của ông và hỏi nhỏ: "Con có thể nhìn thấy biển đuợc không bác?"
"Đuọc chứ con, khi nào con lớn, lớn đến 15 tuổi, bác sẽ dẫn con đi xem biển".
Mắt tôi bừng sáng, vì sẽ có một ngày tôi đượcc nhìn thấy biển.
Tôi lớn dần theo năm tháng, hiểu nhiều điều, biết nhiều việc. Bố dượng bảo ban tôi mỗi ngày làm một việc gì đó giúp gia đình. Trường học không nhận trẻ em tật nguyền nên tôi dành ở nhà học với bố dượng, 5 chữ và 1 bài thuộc lòng mỗi ngày, còn lại là nghe ông kể câu chuyện về biển cả, câu chuyện về đại dương vô cùng vô tận: "nước biển xanh, xanh như..."
Cuối cùng thì mẹ tôi lại đi tiếp bước nữa, theo anh chàng thợ may đầu hẻm, vứt tôi và ông bố dượng sống nương nhờ vào nhau.
Sức khỏe của ông ngày một kém dần, nhưng ông vẫn đưa tôi đi chỗ này chỗ khác, động viên tôi một mình vào cửa hiệu hỏi mua vật dụng, bày vẽ cho tôi làm lụng trong nhà và học hành chữ nghĩa. Mỗi khi tôi làm được một việc nhỏ chả ra gì, ông đều mừng rõ hân hoan như thể công tích lớn, và khen tôi:
"Hà, con giỏi quá, con làm được việc rồi đấy".
Hai chúng tôi hẹn nhau sẽ đi biển vào mùa hè sang năm, lúc đó tôi tròn 15 tuổi và từ đây ông nhắc nhở tôi chuẩn bị mọi thứ, ông thường nói: "Bác phải dạy cho con biết ứng xử mọi điều trước khi đi biển".
Mùa đông cuối cùng dài dằng dặc, bố duợng tôi nằm liệt giường, rũ rượi theo từng cơn hen suyễn, mình tôi xuôi ngược giữa tuyết lạnh trên các nẻo đường của thị trấn nghèo, mời thầy, mua thuốc và tất tất mọi việc nội trợ trong nhà. Chính trong nhũng giờ khắc ấy tôi tự thấy mình như đang lớn lên.
Một buổi sáng vào xuân, bố dượng gọi tôi đến bên giường và chậm rãi nói:
"Hà con, bác không qua nổi rồi, có điều này bác phải nói thật với con, trước khi về hưu một năm ông bác sĩ dặn rằng: bệnh của bác phải xa biển con ạ, thế là hôm nay và mãi mãi sau này, bác không
đưa con ra được đến biển Hà ơi, bác đã lừa con, con bỏ qua cho bác..."
Tôi vô cùng thất vọng vì bao năm chuẩn bị và hôm nay lại như thế này, tôi òa khóc như hôm nào đã khóc với ông: "Bác ơi", và chính đêm hôm ấy, ông, người thân duy nhất của tôi đã ra đi, bỏ lại mình tôi côi cút.
Từ đó tôi tự làm lụng kiếm sống. Mỗi lần nhận được tiền công, tôi đứng lặng trước bàn thờ bố dượng và càng thấm thía ý nghĩa "xem biển" của ông, và như muốn nói với ông: "Bác ơi, con đã nhìn thấy đại dương rồi, con đã nhìn thấy biển cả rồi, thật đấy, bác ơi!".
THÁI NGUYỄN BẠCH LIÊN dịch
(Theo ĐỘC GIẢ VĂN TRÍCH)
ÂU DƯƠNG TỬ
LƯỚI
D
ư Văn Cẩn[1] về đến nhà người mệt rã rời. Tấm gương lớn trên tường hiện lên khuôn mặt nhợt nhạt của cô. Tay đỡ trán, cô dựa vào cửa phòng đứng một lúc rồi buông tay xuống, khẽ nhún vai, đi thẳng
vào phòng ngủ. Một chiếc giường đôi sang trọng xuất hiện trước mắt. Cô đứng ngẩn ra một lúc, như thể hai năm qua đây là lần đầu tiên nhìn thấy chiếc giường. Trong góc phòng có đặt một chiếc giường nhỏ, Bảo Bảo đang ngủ say, không một tiếng động. Văn Cẩn bước đến, ngắm nhìn Bảo Bảo hồi lâu, rồi thuận tay đặt bình sữa lên bục cửa. Sáng nay, khi cho Bảo Bảo ăn sữa, già Tần làm vỡ cái bình, Văn Cẩn phải vội ra phố mua cái khác. Đấy là một việc không hay. Đường Bồi Chi đã từng chú ý nhìn cái bình sữa. Cớ chi mình không báo cho anh ấy biết mình đã có con? Chính cô cũng không hiểu.
Xa nhau đã 3 năm, quan hệ đặc biệt giữa cô và Đường Bồi Chi chưa hề thay đổi. Hồi nãy họ lại tình cờ gặp nhau trên phố Hoành Dương. Văn Cẩn cơ hồ không còn tin vào mắt mình nữa. Ngay lập
tức, qua ánh mắt của anh, cô xác định được anh chưa hề thay đổi. Đường phố Hoành Dương người xe qua lại như thoi dưa, huyên náo vô cùng. Thế mà hai người dứng ngây ra nhìn nhau, xúc động thật sự, quên cả xung quanh.
"Anh... anh đến Đài Bắc từ lúc nào vậy?" Văn Cẩn lắp bắp hỏi, cô sung sướng suýt ngất xỉu. Đưòng Bồi Chi thì lại như giật mình.
"Từ bao giờ cơ?" Văn Cẩn lại hỏi, tự thấy có cái gì không phải.
"Sao cơ, em chóng quên thật", Bồi Chi bật cười (tất nhiên là không được tự nhiên)."Anh viết thư cho em rồi mà".
"Thư? Thư nào cơ? Chẳng có đâu! Sao... em..."
"Em còn viết thư trả lời anh mà!" Bồi Chi nói, mặt đỏ lên: "Em đã trả lời, đúng thế mà? Em nói, em nói hôm ấy là ngày... của em, của vợ chồng em, cho nên..." Bồi Chi bỗng ngừng bặt, mắt nhìn xuống đất. Mặt Văn Cẩn trắng bệch a. Hai người câm lặng hồi lâu.
"Đúng, có thể... em đã nhận thư thật..." Cô lúng búng định nói cái gì mà không nói tiếp được nữa. Cô vội vàng cáo từ Bồi Chi, lúc quay người bước đi, cô phát hiện ra vẻ mặt đau khổ của anh.
Cô biết nguyên nhân nào khiến anh đau khổ. Đúng thế, cả hai đều rất nhạy cảm, hơn thế đều quá hiểu đối phương. Nếu như người mà cô lấy làm chồng không phải Đinh Sĩ Trung mà là Đường Bồi Chi... Nhưng giả thiết ấy là thừa, cô hiểu rất rõ là Bối Chi không thể cùng cô kết hôn, trái tim hai người quá gần gũi, điều đó khiến họ vĩnh viễn không thể sống chung. Đinh Sĩ Trung thì khác, anh làm cho Văn Cẩn cảm thông, vui sướng và an toàn — bởi vì anh vui lòng tiếp nhận mọi sự hy sinh của cô. Cô rất cảm kích về điều đó. Sĩ Trung là cái cột để cô dựa, cô ôm chặt lấy nó, cô vĩnh viễn cảm thấy an toàn, không bao giờ bị thác lũ nhấn chìm. Bắt đầu từ ngày cưới, cô giao phó tất cả cho anh, tất tần tật - bao gồm thân xác, suy tư và
ý chí của cô. Sĩ Trung tiếp nhận hết, coi đó là quyền lợi đáng được hưởng. Văn Cẩn cảm thấy hoàn toàn thỏa mãn. Cảm giác thỏa mãn ấy cô không bao giờ có được từ Đường Bồi Chi. Cứ mỗi lần đến với Bồi Chi, không khí căng thẳng như cánh cung kéo căng, không làm sao chùng xuống được. Cả hai người ai cũng khao khát hy sinh, đồng thời ai cũng kiên quyết từ chối sự hy sinh của đối phương. Cô luôn luôn nói về âm nhạc, bởi vì anh thích âm nhạc, còn anh luôn luôn nói về văn học, bởi vì cô thích văn học. Rốt cục dẫn đến chỗ cả hai đều không hợp, chỉ còn cách chọn một đề tài vô can với cả hai. Mỗi một lời nói, mỗi một cử chỉ, họ đều không dám cẩu thả, chỉ sợ vô tình tổn thương đối phương. "Mình làm cô ấy bục mình?" "Mình làm anh ấy giận?" Họ thường lặng lẽ tự vấn lương tâm như vậy. Khi còn học ở trường, hai người ít khi ở một chỗ. Nhưng mỗi buổi sáng, Văn Cẩn vừa bước vào lớp là chắc chắn nhìn thấy nụ cười của Bồi Chi. Đôi mắt anh phát ra những tia sáng êm dịu, như nói với cô: "Em đấy à, anh ở đây!" Thế là cô thỏa mãn, không còn cảm giác cô đơn nữa.
Cuộc sống sau ngày cưới của Văn Cẩn có thể nói là không chê vào đâu được. Cô yêu Sĩ Trung, cảm thấy nếu thiếu vắng anh thì không sống nổi. Có điều, cô cũng thừaa biết là Bồi Chi vẫn luôn luôn ở trong tim cô. Xưa nay cô chưa hề cảm thấy như vậy là không chung thủy với chồng, bởi vì hai người trong con mắt của cô thuộc về hai thế giới hoàn toàn khác. Rất ít khi cô nghĩ về Bồi Chi như nghĩ về một người đàn ông. Cô yêu tâm hồn anh, yêu tinh thần anh; mà tâm hồn và tinh thần thì đâu có giới tính. Cô chưa hề ham muốn thể xác anh. Nếu Bồi Chi cầu hôn, cô biết chắc là mình sẽ đồng ý, nhưng cũng có thể sẽ vì thế mà thất vọng.
Bóng đen của hoàng hôn dần dà khỏa lấp cả căn phòng. Trong phòng tối om, mấy con muỗi kêu vo ve không ngớt, Văn Cẩn buông màn cho Bảo Bảo. Sĩ Trung sắp về rồi. Đồng hồ đã điểm 6 giờ 30.
Văn Cẩn bất giác cảm thấy một cái gì mờ ảo thức dậy trong cô — đó là tư tưởng của cô, đó là là ý chí của cô. Hai năm qua, cô chưa từng sống thực, Đinh Sĩ Trung thay cô suy nghĩ, sắp xếp mọi thứ. Anh ấy tinh thần khỏe khoắn, muốn che chở cô, không muốn để cô phải lo nghĩ. Anh ấy yêu cô điên cuồng, muốn chiếm hữu mỗi một tế bào của cô, muốn được cô tất cả. Về mặt này anh đã thành công mỹ mãn, bởi vì cô hết lòng nương tựa vào chồng, điên cuồng muốn hiến dâng.
Thế mà giờ đây, Văn Cẩn bỗng cảm thấy cái ý chí đã ngủ say hai năm qua bỗng đột ngột thức dậy. Hồi nãy gương mặt Bồi Chi lộ vẻ đau khổ, anh nhìn xuống tránh ánh mắt cô. Cô hiểu là anh đau khổ vì cảm thấy mình làm cô tổn thương. Lời nói là dư thùa, giữa họ xưa nay lời nói và chữ viết không có tác dụng gì. Họ hiểu nhau vô cùng, ngay cả những việc nhỏ nhặt cũng không cách gì giấu được nhau.
Bỗng nhiên, ngoài cổng vọng vào tiếng mở cửa, rồi thấy bước chân vang trong phòng khách. "Văn Cần à!" một giọng đàn ông vui vẻ và rất vang. Văn Cẩn không trả lời. "Văn Cẩn ơi!" Lại một tiếng gọi nữa, giọng càng vang hơn. Cô vẫn câm lặng. Tiếng bước chân càng lúc càng gần. Sĩ Trung xuất hiện trước của phòng ngủ.
"Sao em không bật đèn?" Sĩ Trung hỏi. Anh lặng lẽ nhìn cái bóng cô trong màn đêm.
Văn Cẩn bật đèn lên, "Em quên", cô nói, không nhìn anh. "Con vừa ngủ mà".
"Ôi, Bảo Bảo, Bảo Bảo của anh". Sĩ Trung bước nhanh tới bên cô, ôm lấy vai cô, áp mặt vào tóc cô. Anh vén màn lên, sung sướng ngắm đôi má bầu bĩnh của con. "Ôi, Bảo Bảo xinh đẹp của chúng mình". Anh cười, tay vân vê làn môi Văn Cẩn.
Văn Cẩn muốn khóc. Cô yêu Sĩ Trung, yêu đến phát điên. Cô cần
anh, cần đến phát điên. Nhưng cái ý chí vừa thức dậy trong cô lại nhìn ngó, đang đòi giải phóng.
Cơm tối xong, họ ngồi chơi trong phòng khách. Đinh Sĩ Trung vừa xem báo vừa chuyện phiếm. Anh ta là con người coi mình là trung tâm. Hễ cái gì anh thích, anh đều cho rằng mọi người cũng phải thích. Khi anh buồn phiền, anh không tin trên thế gian có người sung sướng. Khi anh vui thích, anh không hiểu nổi làm sao lại có người buồn bực. Văn Cẩn bên cạnh, câm lặng không nói năng chi. Sĩ Trung cảm thấy điều dó, nhưng anh không lấy làm lạ, anh biết rõ Văn Cẩn rất yêu anh, rất thích nghe anh.
"Sĩ Trung này..." Văn Cẩn bỗng lên tiếng, giọng rất lạ. Sĩ Trung hơi giật mình, vội ngẩng lên.
"Gì thế em?”
"Em biết là anh đã bóc thư em."
"Trời, thì xưa nay anh đã bóc hộ em bao nhiêu là thư. Sao vậy?" Anh hỏi lại.
"Thư của một người họ Đưòng gửi cho em".
"Họ Đưòng à? Người này chắc là ngọt ngào lắm nhỉ?" Sĩ Trung liếc nhìn nàng, "là con trai hay con gái hả em?". Anh làm ra vẻ ghen.
Văn Cẩn hờ hững nhìn anh. "Anh còn thay mặt tôi gửi thư trả lời nữa mà!"
"Ồ, đúng, đúng. Anh nhớ ra rồi." Sĩ Trung như sực nhớ điều gì: "Họ Đường, phải rồi, tên Bồi gì gì ấy... Nhưng em hãy thôi cái bộ mặt đưa ma kia đi, để anh nói cho em nghe sự thể thế này này. Ấy là chủ nhật tuần trước, em không có nhà, người đưa thư chuyển đến bức thư của họ Đường, tên Bồi gì gì ấy. Anh ngồi rỗi nên bóc ra xem, rồi thay em viết thư trả lời."
"Anh phải báo cho tôi biết chứ." Văn Cẩn lạnh lùng: "Thế thư để đâu rồi?"
"Xin lỗi, anh làm mất rồi."
Ôi, xin lỗi, làm mất rồi! Anh ta trả lời thật nhẹ nhàng, thật đơn giản. Thế mà mình lại vì lá thư mà đau khổ, Bồi Chi vì nó mà dau khổ...
"Đùng nóng nảy, anh còn nhớ lời lẽ trong thư." Sĩ Trung lạnh lùng: "Thư rất ngắn, trong thư nói anh ta vừa từ Bình Đông đến Đài Bắc. Phải rồi, tại sao anh chưa hề nghe em nói có bạn bè ở Bình Đông? Anh ta yêu cầu em chiều thứ 2 đến gặp ở nhà chị anh ta. Anh chàng này thật thiếu lễ độ, phải tự mình đi tìm em mới đúng! Tất nhiên, anh trả lời hộ em là thứ 2 bận việc. Xin lỗi, anh viết thế này — Thứ hai đúng là kỷ niệm hai năm ngày cưới của chúng tôi, không được đâu, chờ một dịp khác tôi sẽ đến thăm anh." Viết thế hay quá chứ gì nữa!"
"Anh mạo chữ ký của tôi?"
"Tất nhiên... Mà sao cơ, anh viết có gì sai nào?"
Văn Cẩn không trả lời. Thương thật Bồi Chi! Nhất định anh ấy phát hiện ra thư không phải mình viết mà là chồng mình viết. Chỉ có điều, chắc chắn anh không ngờ là mình không hề hay biết có bức thư, nếu không làm sao anh lại hỏi. Chờ đến khi anh biết là mình không biết gì cả thì muộn quá rồi, anh lại đau khổ vì sợ mình đau khổ. Anh hiểu cô biết bao! Anh cố tình tỏ ra không hề biết bức thư trả lời ấy không phải là của cô, thà tự hy sinh, cứ để cô nghĩ là anh không hiểu cô, chứ không muốn cô biết đuợc anh đã phát hiện ra quan hệ không tốt giữa vợ chồng cô. Bồi Chi đáng thương ơi! Nhất định là anh đã biết khát vọng hy sinh của Văn Cẩn này, và đó cũng là điều anh không thể làm em thỏa mãn.
Văn Cẩn ngẩng đầu lên. Sĩ Trung lại đã tập trung sức chú ý vào tờ báo rồi, điếu thuốc trong tay anh chỉ còn một nửa. Bỗng nhiên Văn Cẩn cảm thấy anh thật xa lạ. Lần đầu tiên cô thấy khuôn mặt anh hình vuông. Sự thực thì cả hai đều yêu nhau, không có anh thì cô làm sao sống được. Tất cả những điều ấy thật là quá lạ! Sĩ Trung dướn người ra gạt tàn thuốc, dáng dấp thật tự nhiên, trên thế gian này không mấy ai có dáng dấp tự nhiên như anh. Cô muốn lao vào lòng anh để nghỉ ngơi. Anh là sinh mệnh của cô. Chẳng cần cô phải lo toan, anh sẽ chu toàn mọi nhẽ. Còn Đường Bồi Chi. Bồi Chi chỉ làm cô đau khổ. Hai người cứ đau khổ vì sợ người yêu mình đau khổ. Nhưng cô lại yêu thương sâu sắc tâm hồn anh, trái tim của họ luôn luôn gắn kết với nhau.
"Anh ấy còn nói gì không?" Văn Cẩn hỏi.
Sĩ Trung dướn mắt lên. Rõ ràng anh không hiểu cớ chi cô không buông tha câu chuyện này.
"Anh quên rồi." Sĩ Trung trả lời, ra bộ không kiên nhẫn. "Có điều, anh nhớ cuối thư có một câu, một câu hỏi rất thú vị: Em có hạnh phúc không ?"
"Em... có hạnh phúc không?" Văn Cẩn rên rỉ.
"Bởi vậy, trong thư trả lời, anh thêm một câu như sau: Tất nhiên rồi, tôi rất hạnh phúc. Chúng em là nhũng người hạnh phúc nhất trên thế gian: tôi, Sĩ Trung và bé Bảo Bảo của chúng tôi".
Sĩ Trung! Bào Bảo của chúng tôi!... Văn Cẩn hơi rùng mình. Vậy ra, khi ánh mắt Bồi Chi dừng lại trên cái bình sữa trong tay cô thì anh đã biết cô có con rồi.
Bỗng nhiên, cô cảm thấy khó chịu, mất hứng.
"Thế nào, anh viết có đúng không?" Sĩ Trung mỉm cười, dướn lông mày lên, có phần đắc thắng. "Em xem, anh hoàn toàn hiểu
được những điều sâu kín trong lòng mà em muốn nói."
Những điều sâu kín trong lòng mình? Văn Cẩn nghĩ. Cô nhìn anh mỉm cười khổ sở. Nói ra cũng thật kỳ, từ sau ngày cưới, cô có bao giờ tự phân tích suy tư của chính mình đâu. Cô hoàn toàn tin cậy Sĩ Trung, đến mức phó mặc anh kiến tạo suy tư của cô, ngay cả việc cô có vui sướng không cũng do anh quyết định. Thế là không công bằng. Cái ý niệm "không công bằng" này, lần đầu tiên lóe lên trong đầu cô. Chính là nỗi đau khổ của Bồi Chi đã thức tỉnh cái "bản ngã" của cô. Em có hạnh phúc không? Em có sung sướng không? Tại sao Bồi Chi lại hỏi cô một câu khó trả lời như vậy? Nếu như tự cô — con bé Văn Cẩn này, viết thư trả lời anh, thì cô biết chắc mình cũng sẽ viết: "Có, em hạnh phúc lắm!" Có điều câu trả lời này nên để cô nói ra, không nên là Sĩ Trung. Đó là điều khác nhau rất lớn!
Văn Cẩn chống tay vào má, nhắm nghiền mắt lại. Cô cảm thấy khó khăn, không vui. Sĩ Trung là cột trụ của cô, cô không thể mất anh. Còn thần sắc đau khổ của Bồi Chi... Ôi! Cô nhớ thương Bồi Chi cũng chính là nhớ thương chính mình; nhờ sự hiện hữu của anh cô mới có cái bản ngã hoàn chỉnh. Hai năm vừa qua, cô để cho Sĩ Trung khống chế tất cả, như vậy khác nào giao Bồi Chi cho Sĩ Trung chi phối. Mà Bồi Chi vốn rất tự trọng! Điều đó làm cho anh đau khổ dài dài. Bỗng nhiên Văn Cẩn cảm thấy mình ích kỷ, cô cảm thấy trước mặt Sĩ Trung mà cứ nghĩ về mình là có tội. Làm cách gì tìm lại cái mà ta đã hiến dâng? Huống chi cô vẫn yêu Sĩ Trung, cô cần anh, khát khao hy sinh vì anh. "Nhưng mà mình không thể không nghĩ!..." Cô vật vã đau khổ, "Bồi Chi, ôi Bồi Chi..." Xa cách ba năm, trong niềm vui gặp lại cô bỗng đột ngột rời xa anh, không che giấu nỗi đau khổ anh dành cho cô. Bồi Chi dáng thương... Ta có nên đến thăm anh ấy không? Cô bỗng lóe lên cái ý nghĩ ấy. Cô biết anh ở chỗ nào, nhà chị anh ấy cô từng đến một lần. Nhưng đến để làm gì? Để anh ấy nhìn ta, ta nhìn anh ấy, rồi sau đó ta sẽ nói: "Ôi, Đường Bồi Chi,
em hiểu ra là em yêu chính mình hơn yêu anh ta."
... Anh ấy sẽ nghĩ sao? "Cô bé này lại muốn hy sinh vì mình đây, thật đáng thương... nhưng ta quyết không chấp nhận, quyết không chấp nhận." Anh ấy nhất định sê nghĩ như thế, nhất định. Ta sẽ làm thế nào đây?
"Văn Cẩn em!" Sĩ Trung đang gọi cô, giọng êm ru.
Văn Cẩn mở mắt ra, Sĩ Trung đang mỉm cười nhìn cô say đắm. Rõ ràng là anh đã nhìn cô một lúc lâu, có thể anh nghĩ là cô ngủ rồi. Cô vừa tắm xong, cánh tay trắng hồng hào lộ ra trong ống tay rộng. Mái tóc dài đen nhánh, xõa nhẹ trên bờ vai nhỏ. Cô thật xinh xắn hấp dẫn. Bộ ngực mềm mại phập phồng trong tà áo ngủ. Xưa nay cô chưa hề đẹp như vậy, chưa hề mê hồn như vậy.
Điếu thuốc lá trong gạt tàn tỏa lên một làn khói cong cong; tờ báo đã rơi xuống sàn nhà.
Sĩ Trung đột ngột đứng lên. Anh đến trước mặt Văn Cẩn, bế xốc cô khỏi đi-văng. "Văn Cẩn em!" anh gọi cô giọng êm như ru.
"Ồ, không!" Văn Cẩn nói, quay người định bỏ di. "Chưa bón sữa cho Bảo Bảo đó."
"Bón rồi, bà Tần bón rồi mà!" Sĩ Trung vừa nói vừa ngăn cô lại.
Anh đứng sau lưng ôm chặt lấy cô, cúi đầu xuống, hôn vào cổ cô, làn môi của anh nóng bỏng. Anh càng ôm càng chặt, chặt đến mức cô thở không được. Văn Cẩn giãy giụa. Cô rất hiểu anh. Anh thường bắt đầu như vậy.
"Ồ, không! Hôm nay. Không..." Cô nói, giọng khẩn cầu. Tôi đang nghĩ... đang..."
Sĩ Trung giả vờ không nghe thấy. Anh nới áo ngủ của cô, áp miệng vào đôi vai trần của cô. "Ồ, ngoan nào... bây giờ... đừng...
đừng nghĩ..." Anh thầm thì, lẩm bẩm. Sau đó, anh đột ngột bế bổng cô lên, bước vào phòng ngủ.
"Buông - tôi - ra!" Văn Cẩn hét to lên, hai tay cố sức đẩy ngực anh.
Sĩ Trung ngẩn ra. Anh thõng tay, buông cô, nhìn cô không hiểu. Xưa nay có bao giờ cô từ chối anh, đây là lần đầu tiên. Văn Cẩn đứng đó, mặt mũi nhòe nước mắt, một tay giữ lấy vạt áo ngủ bị lật ra.
"Tôi đang nghĩ..." Cô nghẹn ngào, như không thở được, "Chúng mình... có lẽ chúng mình... nên chia tay... ở riêng một thời gian..."
"Ở riêng?” Sĩ Trung cau mày lại, "Em nói gì vậy... là nghĩa làm sao?” Anh có vẻ giận dữ.
Vãn Cẩn nức nở khóc, không trả lời.
"Ồ, tôi hiểu." Sĩ Trung lạnh lùng nói, "Thì ra cô không yêu tôi. Chả sao cả, tùy cô".
Nói đoạn anh quay người, nặng bước đi vào phòng ngủ, ôm lấy gối và chăn. Không hề nhìn cô, anh ôm chăn gối vứt lên đi-văng.
"Cô yên tâm", Sĩ Trung nói, "Tôi ngủ ngoài này, cô cứ khóa cửa lại".
Văn Cẩn bỗng nín bặt, ngẩng mặt lên, mồm há ra, hai tay giơ về phía trước, ánh mắt hoảng hốt, như con thú nhỏ bị kinh động, bỗng thốt lên tiếng kêu hoảng sợ, bổ nhào theo, quỳ xuống bên chân Sĩ Trung. "Ôi, Sĩ Trung." Cô nức nở khóc, ôm chặt lấy đầu gối anh. "Không, đừng bỏ em... Sĩ Trung... đừng bỏ em." Cô nghẹn ngào, giọng run rẩy, thê thảm và tuyệt vọng. Cô phủ phục trên sàn, áp mặt vào chân anh, mái tóc đen lòa xòa trên mặt sàn.
Sĩ Trung hơi khựng lại, rồi cúi xuống đỡ cô dậy. Anh biết mình có
khả năng chế ngự, rốt cục thế nào cũng chiến thắng, nhưng anh đâu có ngỡ cô lại đầu hàng một cách quái lạ như vậy. Văn Cẩn dựa hẳn vào người anh, hai tay ôm lấy ngực anh. "Đừng, đừng bỏ em." Cô vẫn không ngớt cầu khẩn, run rẩy bi thương. Sĩ Trung vỗ nhẹ lên vai cô. "Thôi mà, đừng khóc nữa, ngoan, đừng khóc." Anh an ủi cô: "Sao anh lại bỏ em được. Văn Cẩn à, em là con búp bê xinh đẹp nhất của anh!” Anh ôm cô vào lòng, cọ má vào má cô.
Anh phát hiện ra cô rất mềm yếu. Gương mặt nhợt nhạt không còn hạt máu. Vẻ ăn năn hối hận hiện trên mặt cô.
"Anh thật không tốt, Văn Cẩn em!" Anh đột nhiên thốt ra, rồi nhìn cô vô vàn yêu thương, "Anh thật ích kỷ, chỉ biết có mình. Mặt em sao nhợt nhạt vậy, em mệt à? Phải không? Tối nay, anh nhất định phải để em ngủ thật ngon, anh đồng ý với em. Nhất định phải nghĩ đến em trước tiên..."
"Ồ, không!" Văn Cẩn ôm chặt lấy cổ anh, lại khóc. "Em... em mới ích kỷ, thật là ích kỷ... Nhưng em yêu anh, em yêu anh... Đừng xa em... Em chỉ định thử một chút xem, nếu không có anh thì em có sống nổi không, không, không thể... Em biết... Em biết từ lâu rồi, không thể được... đừng bỏ em, anh không được bỏ em..." Cô thở dốc, mệt rã rời.
"Thôi mà, thôi, đừng khóc, ngoan nào, tất nhiên là em yêu anh, dù phải chết anh cũng không xa em". Anh vỗ nhẹ vào lưng cô, như thể vỗ về một đứa bé đi lạc đường. "Đúng là một cô bé" Anh lẩm bẩm.
Văn Cẩn bình tâm trở lại. Cô không khóc nữa, nhắm mắt lại, gối đầu vào vai Sĩ Trung. "Anh biết không, vừa rồi là em ghen." Cô nói, như nói mê, thỏ thè như thì thầm, "Bởi vì em cảm thấy, cảm thấy em yêu anh hơn cả yêu chính mình."
Sĩ Trung không trả lòi, tay anh nhẹ nhàng ve vuốt mái tóc dài, rồi lại vuốt ve đôi má cô.
"Nhưng mà bây giờ em không ghen anh nữa đâu." Cô nói tiếp, "Em rất sung sướng, rất vui vì được yêu anh hơn cả yêu chính mình."
Gương mặt cô mỉm cười, nhưng cùng lúc một giọt nước mắt lại rơi vào tay anh.
"Ngày mai chúng mình nói chuyện tiếp", anh nói, êm như ru, "Còn bây giờ thì ngủ đi ngoan nhé!"
Văn Cẩn mở to mắt. "Anh, anh cùng em chứ?" Cô hỏi. "Tất nhiên." Sĩ Trung trả lời mỉm cười.
Anh ôm cô đi vào buồng ngủ. Văn Cẩn cảm thấy toàn thân mềm nhũn, nhưng cô không nói dối, quả thật cô thấy hạnh phúc.
(Hiện đại văn học Số 6, 1961)
LƯƠNG DUY THỨ dịch
Cẩn thuộc bộ ngọc, là một loại ngọc, Văn Cẩn là ngọc là hoa văn.
BÀNH BÁI
CÓ MỘT TÌNH YÊU NHƯ THẾ
T
ôi mồ côi bố từ nhỏ, bằng thu nhập ít ỏi do lao động thủ công, mẹ và bà ngoại đã nuôi tôi khôn lớn. Năm 18 tuổi đi học nghề ở một tiệm buôn của thị trấn Lộ Giang Nam, tôi có quen biết cháu gái một ông chủ cho thuê nhà. Hàng tháng đều đến nhà ông nộp tiền thuê nhà nên chúng tôi thường gặp gỡ, đi lại, xem ra tâm đầu ý hợp.
Chuyện này lọt đến tai bà và mẹ ở quê và thường được tô vẽ thêm. Tức tốc gửi thư lên, mẹ tôi bảo ở nhà đã nhờ người làm mối dạm hỏi một đám rồi, con phải về cưới ngay. Tiếp đến có điện gọi về. Gọi điện xong mẹ tôi lại lò dò tìm đến. Vừa nhìn thấy con, mẹ tôi đã "xạc" cho một trận, rồi đưa cho tôi một cái thỏi xương trâu, một trong những công cụ chủ yếu của bà tôi dùng để dệt sợi, nguồn thu nhập chính để nuôi tôi trưởng thành. Mẹ tôi bảo: "Bà ngoại mù chữ, cái này coi như là thứ bà gửi cho con".
Không thể cưỡng lại mẹ, cộng thêm đốc thúc của bà ngoại, hôm sau tôi khăn gói theo mẹ về quê.
Mọi việc ở nhà đã sửa soạn đâu vào đấy. Chọn ngày giờ tốt, kiệu hoa đến nhà. Tôi đón cô dâu từ kiệu bước xuống, cả hai cùng vái trời đất, vái tổ tiên, vái ông già bà cả rồi dẫn vào buồng cưới. Ba ngày tiếp theo, không phân biệt lớn bé, sang nghèo, họ hàng xóm làng đánh chén mừng cô dâu chú rể "động phòng". Sau đó vợ chồng sóng đôi vào bàn ăn cơm đoàn viên, trao rượu cho nhau cùng uống.
Cô dâu họ Liễu, tên là Ngọc Thục, cũng mồ côi bố từ nhỏ, được mẹ vất vả nuôi dạy nên người và bây giờ đã là vợ của tôi theo sự sắp xếp của mẹ hiền và của bà mối. Song trước đó cô ấy lo hơn tôi. Bởi vì khi mẹ cô nhận lời ăn hỏi có yêu cầu mẹ tôi cho xem một tấm ảnh. Hồi ấy kỹ thuật chụp ảnh tồi lắm, tấm ảnh của tôi bị đen một vài vệt dưới mũi. Cô ấy cứ lo tôi sứt môi, hay mang một cái sẹo to đùng. Cho nên khi trao cốc cho tôi uống rượu, cô ấy hồi hộp đánh bạo ngước nhìn thật nhanh. Thấy tôi không sứt môi, cũng chẳng có sẹo cô ấy mừng thầm và yên tâm. Tôi chẳng để ý gì tới chuyện đó. Để ý hay không cũng thế thôi. Số trời đã định, cứ phải vui vẻ chấp nhận, chứ biết tính sao (nếu tôi sứt môi thật, thì cô ấy cũng đành chịu). Ăn cơm đoàn tụ xong, khách khứa ra về, đã nửa đêm chỉ còn lại hai vợ chồng tôi trong buồng. Vậy mà khi vừa bước vào buồng, cô ấy cứ cúi đầu im lặng ở góc nhà, mặt quay vào tường, lưng quay ra ngoài, chẳng khác gì người gỗ.
Thật ra mấy ngày nay tôi cũng như một người gỗ, một con rối, bị giật dây làm hết động tác này đến động tác khác trong một thủ tục cưới xin rườm rà. Bây giờ bỗng đuợc rảnh rỗi, cảm thấy toàn thân mệt mỏi, muốn được nghỉ ngơi. Song còn một thủ tục cuối cùng phải làm, đó là việc cởi áo dài đỏ sát nách cho vợ. Chuyện này được gọi là "Giải hoài" (cởi lòng), dứt khoát phải chờ chú rể tự tay cởi cúc, cô dâu mới được tiếp tục nới quần áo sửa soạn đi ngủ. Việc nới cởi áo này dứt khoát phải chậm, càng chậm càng tỏ ra tôn nghiêm, trang trọng. Đồng thời dứt khoát phải cho chú rể lên giường ngủ đâu vào
đấy, cô dâu mới từ từ buông man, vén chăn ngả người vào cuối giường, nằm co ro bên chân chú rể. Chờ khi nào anh chồng ra hiệu, cô vợ mới nhích dần lên. Tất cả động tác này đều phải từ từ và càng phải nhẹ nhàng êm ái.
Tiếp theo việc cởi áo nới, tôi còn phải tháo đôi khuyên vàng đeo ở tai vợ đặt lên bàn trang điểm và lấy mũ cưới của mình úp lên. Bà ngoại và mẹ tôi nhắc đi nhắc lại, điều này vô cùng quan trọng. Chỉ có đậy mũ lên đôi khuyên tai, thì tôi mới sai khiến, đe nẹt được cô ấy trong cuộc sống chung sau này. Tôi cứ răm rắp làm theo. Nào ngờ sớm hôm sau thức dậy chợt thấy đôi khuyên tai đã để ra chỗ khác. Thì ra, khi sắp sửa về nhà chồng, mẹ và ông bà cô ấy đã dặn kỹ, sau khi tôi tháo khuyên tai để lên bàn và đậy mũ lên, dứt khoát phải tìm cách len lén để đôi khuyên lên trên mũ. Điều này cốt tử lắm, có làm như vậy, cô ấy mới sai khiến đe nẹt được tôi trong cuộc sống chung sau này. Cô ấy đã ghi nhớ, chỉ có điều là làm theo ý mình. Cô ấy lấy đôi khuyên ra khỏi mũ, không đặt lên mũ, mà đặt song song với mũ trên bàn trang điểm. Làm thế có nghĩa là mong trong cuộc sống chung sau này không ai sai khiến đe nẹt ai, mà dựa vào nhau, cùng bình đẳng như nhau.
Tôi thấy thú vị chi tiết này lắm, quay người định hỏi xem sao, thì cô ấy đã ra khỏi buồng, dâng chiếc khăn vuông trắng vào buồng mẹ tôi.
Ngày xưa, có một loại "son trinh tiết". Từ thời còn bé, các cô gái đã lấy kim châm vào cổ tay rồi bôi máu con thạch sùng cho đỏ lựng lên, để có những chấm đỏ bằng nốt ruồi coi đó quý báu và trong trắng mãi mãi như trinh tiết của mình, cho đến khi lấy chồng mới xóa đi.
Sau khi cưới, buổi tâm sự đầu tiên giữa hai chúng tôi, tôi đã thật thà kể lại quan hệ giữa tôi với cháu gái ông chủ cho thuê nhà và trao
cho vợ vật kỷ niệm duy nhất của cô ấy tặng tôi. Vợ tôi tin hoàn toàn và cẩn thận bỏ vật kỷ niệm ấy vào chiếc hộp nhỏ xíu xinh đẹp chuyên để những thứ bản thân yêu thích.
Bắt đầu từ chuyện này, hai chúng tôi bước vào chặng đường đầu tiên của tình yêu — mối tình đầu. Đó là nắng sớm đầu xuân dịu ngát hương thơm. Đó là những giọt sương sớm long lanh trước gió. Một thời gian dài, cô ấy xấu hổ, sợ sệt, không nói to trước mặt tôi, cứ hé mồm là đỏ mặt, cúi đầu. Rửa mắt, rửa chân tay, lau người cô ấy đều gọi là "dùng nước”, bao giờ cũng giấu người vào cánh cửa sau màn, không để một tiếng động nhỏ. Đi cùng nhau cô ấy tụt lại đến dăm bảy mét, gặp người quen cũng cứ lảng tránh... Còn tôi mua được thứ gì cho vợ cũng cứ nhờ bà, nhờ mẹ chuyển cho, dẫn vợ đi xem phim, xem kịch, luôn luôn tìm lối hẻo lánh vắng vẻ cùng đi. Khi vợ có thai thèm của chua, tôi đi bộ hơn mười dặm về thôn quê mua chanh, mua khế, len lén nhét dưới gối. Đây không phải xa lánh và nhạt nhẽo, mà chứa đựng một tình yêu kín đáo, dịu ngọt vô cùng.
Là mối tình đầu, không phải tuần trăng mật nên giai đoạn đầu sau khi cưới kéo dài những mấy năm, mấy năm, mấy năm vẫn ngọt ngào liên tiếp...
Sau năm 1949, đất nước giải phóng. Vì vụ án sai Hồ Phong năm 1955, hai vợ chồng tôi phải sống cách xa nhau 24 năm. Trong 24 năm ấy, tôi bị bắt, bị tù, bị lao động cải tạo, bị đẩy về làng quê. Vợ tôi phải nuôi năm con ở nhà. Hai vợ chồng chỉ cách nhau có bức tường, hai cánh cổng sắt, mà xa xôi cách trở tựa trăm núi ngàn sông. Tuy không phải chân trời góc bể mà còn hơn chân trời góc bể, dù có "chân trời góc bể" cũng chẳng có sức mạnh nào ngăn được tình yêu của chúng tôi.
Tôi và Ngọc Thục tin nhau. Cô ấy tin tôi trung thành với nhân dân, với Tổ quốc, tôi tin cô ấy thủy chung, đức hạnh. Đồng thời chúng tôi
còn tin mùa đông sẽ qua đi, ngày xuân tươi đẹp nhất định sẽ đến. Bởi vậy trong 24 năm xa nhau này vẫn coi là thời kỳ yêu nồng nàn được ghi vào lịch sử của gia đình. Thời gian đầu bị giam giữ trong trại giam, tôi chịu được mọi sự giày vò, chỉ sợ nhất là nỗi trống trải
trong nhà giam sẽ gặm nhấm linh hồn, ý chí của tôi. Giữa lúc tôi cảm thấy không thể cưỡng lại được sự đổ vỡ, thì bỗng nhận được sách của vợ gửi đến. Một người đồng chí cùng trại giam được ra trước, báo cho vợ tôi tin ấy. Vợ tôi dăm lần bẩy lượt tìm đường vào mà các cánh cửa vẫn đóng im ỉm. Cuối cùng, trời chẳng phụ công người. Qua bao vật vã, cực nhục, vợ tôi đã gặp được một vị chức sắc hảo tâm cho phép vào gặp chồng và đã cứu được tôi khỏi nỗi cô đơn trống vắng. Từ đó cứ khoảng nửa tháng lại đưa vào một lần (chỉ cho đưa vào, không được trả về, sợ gửi lẫn cái gì đó kẹp trong cuốn sách). Vì vậy xung quanh tường buồng giam tôi đã chất đầy sách. Còn tôi mỗi khi đọc một cuốn sách, đều thấy hình ảnh Ngọc Thục ẩn hiện giữa những trang in. Đó là tưởng tuợng, là ảo giác, nhiều hơn cả là sự chuyển hóa các nhân vật trong sách. Thí dụ: Natasa trong "Chiến tranh và hòa bình" — những nhân vật ấy — Ngọc Thục của tôi luôn luôn sống bên tôi suốt một năm chín tháng.
Tiếp theo là lao động cải tạo, tôi có thể gặp vợ, song những cuộc gọi là gặp gỡ này thật ra còn chua xót cay đắng hơn không gặp gỡ. Ngọc Thục đến đem theo năm đứa con mà tôi thầm nhớ. Mỗi lần đi gặp chồng, cô ấy đều mượn quần áo mới của các chú, các thím, các anh, các chị hàng xóm láng giềng để mặc cho con, cho mình, cốt sao chồng khỏi lo nghĩ về đời sống gia đình. Ngọc Thục đến đem theo trứng luộc, mì, bánh rán, cháy cơm — những thức ăn nhiều chất bổ... Trước khi đi, phân phát cho mỗi đứa ít chút bỏ vào túi áo, chờ khi tôi nhận quà chia cho các con cùng ăn thì đứa nào cũng móc túi bảo "Phần của bố đấy! Chúng con có rồi! Có rồi!" Ngọc Thục đến, để khỏi ảnh hưởng đến tôi, luôn luôn kìm giữ bản thân và dặn
các con khi thấy bố không đuọc để nước mắt chảy ra. Đây cũng là quy định của chế độ gặp. Nhưng sau mỗi lần gặp gỡ thấy tôi đi khuất vào cửa sắt và tường vây, cô ấy không tài nào ghìm được lòng, dắt con chạy ra xa, ôm nhau òa lên khóc. Có lúc cố nín nhịn, lấy cái đau của da thịt giảm bớt nỗi đau thương trong lòng. Đến tận bây giờ vai vợ tôi còn mang những vết cắn đó. Một hôm, Ngọc Thục đến một mình, thức ăn đem tới cũng đặc biệt lắm: một cái phích nước, trong phích là gà hầm. Vì miệng phích nhỏ, phải xé thịt gà cho vào. Tôi vừa bước đến, vợ tôi đã mở nút phích và đưa bát đũa mang sẵn rót cho tôi ăn: "Ăn đi cho nóng. Hôm nay sinh nhật anh tròn 35 tuổi, ở nhà làm bánh trường thọ, các con chúc lạy cho bố..." Sau này mới biết, nỗi cay cực của cô ấy còn nhiều hơn thế và sự yêu quý săn sóc chồng của cô ấy cũng đâu chỉ có thế.
"Trai tài khó nuôi nổi ba miệng ăn”, vợ tôi vốn là một người đàn bà có gia đình, đằng sau là 5 đứa con lau nhau đói ăn đói mặc, sống được đâu phải dễ. Mặc dù vợ tôi đã kịp thời chạy chọt mọi việc, ban
ngày đi kéo xe tay ở nhà ga, ở công ty vận tải, ban đêm cùng các con làm dịch vụ đan áo len, khâu đệm giày, găng tay, làm lòng gà lòng vịt, mà vẫn không đủ tiêu, vẫn nghèo túng triền miên. Bàn chân giẫm phải đinh máu chảy ròng ròng, không chịu nghỉ, làm việc quá sức ốm ho ra máu, vẫn cứ đi làm. Bác sĩ khám bệnh cho phép phải nghỉ việc cũng không chịu nghỉ. Cuối cùng phải bán máu nuôi con nuôi chồng. Trong khoản thu nhập do chảy máu, nôn ra máu và bán máu ấy, vợ tôi đã dành phần khá hơn tiếp tế cho tôi. Thậm chí trong ba năm hạn hán thất thu lớn, tôi vẫn được ăn cá tươi, mỡ lợn, táo tàu, nên vẫn khỏe không bị nhiễm dịch lây lan ở nông trường cải tạo lao động. Khi tôi xa gia đình, con đầu mới 9 tuổi, con út mới 9 tháng. Mẹ phải đi làm, chị và anh đi học, để con út ở nhà một mình do sốt ruột Ngọc Thục đã nuôi một gà con làm bạn chơi, dần dần con gà lớn, biết chạy, bèn lấy dây buộc chân gà cột vào chân giường.
Không may gà bị chuột cắn đau quá nên chết. Ngọc Thục đã đem con gà ấy bỏ vào phích nấu cháo đưa đến trại giam nuôi tôi.
Tôi đâu có biết những chuyện như thế, song nỗi nhớ thương Ngọc Thục cứ cộng lên không lúc nào nguôi. Chỉ có hai cách bày tỏ lòng thương nhớ ấy, một là viết thư, hai là nằm mơ, mà viết thư thì phải viết công khai và hạn chế số chữ, nên từng câu từng chữ tôi đã gửi gắm tất cả nỗi lòng. Nằm mơ thì chẳng ai gò bó được, xong không hiểu sao đêm nào nằm mơ, thì kết cục vẫn là cảnh thê lương, đường trở về nhà rải đầy gai góc giữa cánh đồng hoang, và bao giờ cũng vậy, sắp sửa đến nhà, nhìn thấy cửa, nhìn thấy Ngọc Thục đang định chạy sà vào lòng vợ, dốc bầu nhớ thương, thì bỗng tỉnh dậy để lại toàn là nước mắt và lo âu...
Năm 1962, đơn vị cũ định đón tôi về định xét bố trí công tác, thì nửa chừng đứt gánh. "Chớ quên đấu tranh giai cấp", vì chủ thuyết đó mà tôi bị gạt ra rìa, tự tìm đường sinh sống. Lúc đầu ở nhà "đuổi gà", nấu ăn cho vợ cho con. Nhiều năm qua, Ngọc Thục một thân một mình vất vả, việc nhà việc nước, bây giờ được chia sẻ một phần gánh nặng cho vợ con âu cũng là điều nên làm. Song công việc này chẳng có thu nhập gì cả, chẳng khác gì ăn gửi sống nhờ. Chẳng bao lâu tôi chuyển sang giúp vợ kéo xe cho nhẹ bớt phần cô ấy. Hai vợ chồng, người lôi kẻ kéo, phối hợp nhịp nhàng từ sáng đến tối cặp kè rồng rắn bên nhau. Có cái vui của "vợ kéo chồng đẩy" song rốt cuộc vẫn là công việc phụ thuộc, chỉ có thể giảm chút cường độ lao động của người kéo, chứ chẳng làm ra của cải, chẳng thể cống hiến sức lực giải thoát cảnh nghèo đói cho gia đình. Vậy là tôi lại tìm việc khác, lúc đầu bốc vác thuê; sau chuyển sang kéo xe như vợ để kiếm thêm tiền. Kéo xe là việc nặng nhọc nhất thế giới này. Sau một ngày làm việc, hai chân cứ cứng lại, hai cánh tay tê dại, vai phải phồng rộp lên bằng nắm tay. Điều này khiến tôi càng khâm phục, kính nể Ngọc Thục đã bao năm kéo xe và làm những
việc nặng hơn kéo xe. Để khỏi mệt mỏi, phục hồi sức khỏe, kéo xe chạy đều, tôi đã dần dà hám uống chút rượu mà xưa nay tôi không hề nhấm nháp bao giờ. Ngọc Thục không hề ca cẩm điều gì. Cô ấy biết tôi uống rượu để đỡ mệt và giải sầu. Cho nên thường đi làm về
đặt càng xe xuống, lau vội mồ hôi, chưa kịp thở, đã huơ tay vào thùng đựng gạo, gạo chẳng còn một hạt, tiện tay nhấc chai rượu lên xem, rượu cũng chẳng còn giọt nào. Thế là ba chân bốn cẳng, vác cái mặt dày sang nhà hàng xóm vay chỗ này vài đồng, chỗ kia vài hào, về nhà giúi cái chai và bao đựng gạo vào tay con bảo:
- Mau! Mua rượu xong rồi mua gạo!
Gạo mua về, ngoài những ngày lễ tết, còn rất ít nấu cơm, thường là nấu cháo, nấu cháo rau, nấu cháo củ cải. Khi ăn cháo, bao giờ Ngọc Thục và đứa con cả cũng vớt nước nổi ở trên, dành chút sánh ở dưới nồi cho chồng và đứa con út. Khi ăn rau xanh, nếu Ngọc Thục gắp được cuộng rau là bỏ vào bát chồng. Bắt chước mẹ, mấy đứa con cũng cứ thế làm theo. Đại cách mạng văn hóa nổ ra, tôi bị liệt vào đàn "chó chết", song vẫn chịu quản chế và bắt phạt như trước. Một trong các hình phạt đó là quét dọn vệ sinh đường phố. Tôi được giao quét dọn vệ sinh dài khoảng 1000 mét đường phố, một mình tôi, quét dọn phải mất 5 tiếng đồng hồ mới xong. Cứ dậy sớm quét từ 3 giờ đêm cũng phải đến 8 giờ sáng mới xong, mệt mỏi khỏi cần nói, vấn đề là lỡ thời gian kéo xe, đến muộn ai người ta thuê. Chuyện này rầy rà to, Ngọc Thục đã cùng các con ra làm giúp mới giải thoát đuợc. Tôi ngăn lại "Không được! Không được! Mình là nhân dân các con là những đóa hoa của Tổ quốc." Cô ấy nhất định không chịu:
- Nhân dân thì sao nào? Đóa hoa của Tổ quốc thì sao nào? Những việc bố nó phải làm, mẹ con em đều làm được!
Tôi bảo: "Không! Không! Làm việc này nhục lắm! Cực lắm." Vợ tôi
gạt đi: "Nhục cùng nhục, cực cùng cực, không thì vợ chồng, bố con làm gì?" Lao động cực nhọc và hình phạt khắc nghiệt chẳng thể cướp đi niềm vui của cuộc sống gia đình. Hôm nào trời mưa phải ở nhà, gia đình tôi lại bày ra đủ thứ trò chơi, vật tay, thi chống tay, chơi cờ, hát, kể chuyện... Ngoài ra tôi còn trồng nho trước sân, trồng hoa sau vườn. Nho chín tôi hái rửa dành cho Ngọc Thục chùm to mọng nhất. Hoa vạn niên thanh quanh năm tươi tốt, tôi bắt cành qua song cửa vào nhà cho bò lên đầu giường Ngọc Thục để vợ tôi lúc nào cũng say đắm trong mùi thơm của hoa lá.
Năm 1969, để sạch đẹp thành phố của nhân đân, loại người bẩn thỉu như tôi bị thải về thôn quê bản quán để bần nông và trung nông lớp dưới giám sát cải tạo.
Công xã nguyên quán tôi cách thành phố chừng 20km. Ngọc Thục xin nghỉ việc, tiễn tôi. Đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng cô ấy bỏ việc. Chúng tôi cùng đi bộ về quê. Đằng đẵng mười năm qua đi. Trong mười năm đó có lần ngày quốc khánh, ngày Tết trung thu sát với sinh nhật của tôi. Trước đây, năm nào đến sinh nhật của tôi, dù tôi ở đâu Ngọc Thục cũng dẫn các con "chúc thọ" vắng mặt cho tôi. Lần này, nhân hai ngày lễ lớn cũng muốn làm bữa cơm đoàn tụ cho thật long trọng. Mọi việc đã sắp xếp đâuvào đây. Ngọc Thục chở con đi đón tôi về. Song cơ quan hữu quan không cấp "hộ khẩu tạm thời", họ bảo phải tăng cường giữ gìn trật tự trị an nhân ngày quốc khánh, những người như tôi không được ở lại thành phố. Tôi sợ rầy rà, Ngọc Thục cứ nằng nặc giữ lại. Thế là tôi lén lút ở lai. Khoảng 11 giờ đêm, tôi vừa chợp mắt thì chuyện xảy ra "Đội chuyên chính nhân dân" đến kiểm tra hộ khẩu. Những ánh đèn pin loang loáng, những cái roi to đùng. Những lời vặn hỏi nghiệt ngã: "Nhà có bao nhiêu nguôi?" Ngọc Thục đáp to: "Có tôi và mấy cháu nhỏ." "Còn ai nữa không?" "Không!" "Chồng chị chẳng về là gì?" "Không được đăng ký hộ khẩu, đi rồi." "Thật chứ?" "Thật!" "Kiểm tra
nếu có thì sao?" "Các người làm thế nào thì làm." "Chặt đầu nhà chị đấy!" "Chặt thì chặt!", Những người ấy soi đèn pin và thọc gậy vào góc tường, khe cửa, gầm bàn, gầm giường, sau bếp, chẳng bỏ sót một xó xỉnh nào. Bởi vì trước khi mở cửa, cô ấy đã kịp giúi tôi nằm vào giữa những đứa con trong cái giường bé nhỏ.
Năm 1979, tôi được sửa sai, trở lại làm việc ở đơn vị công tác cũ. Tôi và Ngọc Thục hai đứa trẻ mồ côi, hai con người gỡ được sợi tơ hồng cốt chặt với nhau, trải qua phong ba bão tố, nay đã tóc bạc hoa râm. Người đời thường bảo: "Cựu biệt như tân hôn", trải qua thời kỳ mối tình đầu, thời kỳ tình yêu nồng nàn say đắm, bây giờ lại một lần nũa chúng tôi "vui đón tân hôn". Cuộc sống tình yêu thực sự thủy chung trong trắng đang đi vào thời kỳ nhuần nhuyễn và thăng hoa. Sửa sai xong, việc đầu tiên đơn vị sắp xếp cho tôi là đi thăm núi Hoàng. Tôi sắp xếp cho mình là xin cho Ngọc Thục nghỉ hưu. "Ai đã thăm Ngũ Nhạc về thì không cần xem Ngũ Nhạc nữa”. Tôi hâm mộ cảnh quan kỳ diệu của núi Hoàng từ lâu, nhưng tôi đã từ chối. Không có Ngọc Thục cùng đi thì tôi không thể hưởng thụ một mình. Ngọc Thục nghỉ hưu phải qua nhiều thủ tục rầy rà và tốn kém công sức, song tôi quyết gắng làm, tôi không muốn vợ tôi bước thêm một bước nào nữa trên con đường đầy mồ hôi, máu và nước mắt.
Mưòi năm của thời kỳ mới, trở lại con đường đúng đắn, vạn vật đã đổi mới. Theo đà cải cách mở cửa Tổ quốc, gia đình tôi cũng trở nên có sức phồn vinh. Con cái, cháu chắt bây giờ đã lên tới mười hai thành viên. Con cái đều lớn khôn, dã lấy vợ, lấy chồng ra ở riêng cả. Hai vợ chồng già, dựa vào nhau, ở chung nhà to, nằm chung giường rộng. Tôi ngủ hay ngáy, ngáy đến rung nhà, rung cửa. Vậy mà chỉ khi nào nghe tiếng ngáy của tôi, Ngọc Thục mới ngủ ngon, ngủ kỹ. Còn tôi hễ đêm nào nằm mơ tỉnh dậy sờ tay thấy Ngọc Thục vẫn nằm bên cạnh, tôi mới vững tâm ngủ tiếp được. Tôi thích ăn thịt dê, thịt bò và lươn, mà Ngọc Thục thì từ ngày còn bé đã kiêng
những thứ đó. Song biết nó có nhiều chất bổ, bà ấy đã cố gắng nhắm mắt nhắm mũi làm cho tôi ăn. Thường vì việc này Ngọc Thục bị nôn ọe. Ngọc Thục thích ăn táo ngọt không hạt, tôi tìm khắp chợ mua về, không bao giờ để chiếc hộp của vợ hết táo. Tôi bị đau mắt, chẳng thuốc nào chữa khỏi. Nghe người ta bảo chữa bằng nước bọt sẽ khỏi, Ngọc Thục mặc tôi từ chối nhiều lần, nhằm lúc tôi ngủ say đã dùng lưỡi liếm vào mắt đau của tôi và quả nhiên mắt tôi khỏi hẳn. Một lần vợ tôi bị đau ruột thừa phải vào viện mổ. Tôi đứng ngóng ngoài cửa một chút tưởng bằng một năm. Cứ thế "năm này qua đi, năm khác tới", tôi nghĩ bụng và quyết định: Vạn nhất có chuyện chẳng lành tôi sẽ chạy ra cửa đông nhảy xuống sông tự tử.
Trong cuộc sống hàng ngày, vợ tôi giặt quần áo, tôi đem phơi. Vợ tôi nấu cơm, tôi nhặt rau. Vợ tôi tưới hoa, tôi xách nước. Tôi tắm, vợ tôi kỳ lưng cho, lần nào thấy tôi béo lên hoặc gầy đi cũng vui hay buồn theo. Mỗi lần tôi mua thêm áo mới cho vợ, vợ tôi cũng gắt yêu một câu: "Tôi đã bảo đừng mua, nhiều quần áo thế này mặc bao giờ cho hết." Tôi liền đốp một câu: "Bà nói hồ đồ thế, sao lại không mặc hết, đến năm 120 tuổi, còn những 50 năm, tôi còn phải tiếp tục may sắm cho bà." Khi ra đường, bà ấy chẳng còn tụt lại sau dăm bảy bước như mối tình đầu ngày nào, mà sánh vai cùng bước. Dọc đường sợ ướt giày, tôi thường dắt vợ vòng qua chỗ lội. Sợ tôi cận thị không nhìn rõ, bà ấy thưòng hẩy hòn gạch, hòn đá ra xa để khỏi vướng vào chân tôi. Thỉnh thoảng tôi có việc đi ra phố một mình, vừa ra khỏi cửa đã vội bước nhanh, đi mau rồi về. Về đến nhà mới tự hỏi sao mình vội vàng như vậy. Bởi vì để bà ấy ở nhà một mình. Có lúc bà ấy sang chơi nhà hàng xóm, sang phòng đọc sách lấy báo hay đi chợ mua rau, thời gian lâu một chút (thật ra chưa hẳn đã lâu) tôi đã thấy sốt ruột, trách vợ: "Sao lâu thế, lên Bắc Kinh chơi đấy à?" Có lúc bà cảm thấy oan gắt lên: "Tôi chẳng có chút tự do nào ư? Ông là bố mẹ tôi sao?" Nói xong đẩy tôi vào chỗ kín hôn tay tôi. Sắp
70 tuổi, bà ấy vẫn chẳng biết hôn. Biểu hiện cao nhất của yêu mến quyến luyến chỉ là khoác tay, thơm tay... Đưong nhiên cuộc sống rất phức tạp.
Mãi đến lúc này tôi và Ngọc Thục không phải không có chút gì mâu thuẫn trong lòng. Mâu thuẫn của tôi là: Khi chết lên thiên đường hay xuống địa ngục, ngưòi muốn lên thiên đuòng nhiều quá, chen chúc quá, mà địa ngục thì u ám tối tăm quá. Cả đời tôi đã sống quá nhiều tối tăm u ám. Mâu thuẫn của Ngọc Thục là chết trước chồng hay chết sau chồng, chết trước thì để ông ấy sống một mình không chịu nổi. Chết sau thì tiếc không muốn để ông ấy đi trước. Mâu thuẫn của bà ấy cuối cùng cũng được giải đáp: chết cùng giờ, cùng ngày, cùng tháng, cùng năm với ông ấy. Mâu thuẫn của tôi cũng được kết luận: Bà ấy lên thiên đường tôi cũng lên thiên đường, bà ấy xuống địa ngục tôi cũng xuống địa ngục. Năm tháng trôi đi lạnh lùng và khắc nghiệt. Xem ra đã đến trạm cuối cùng. Song Ngọc Thục thì bái lạy Bồ Tát, tôi thì bái lạy hồn ông Marx trên trời mong các vị cho các trạm cuối cùng cùa chúng tôi lùi xa hơn chút nữa, lùi xa thêm chút nữa để tôi và Ngọc Thục được đi thêm một vài năm, đi thêm vài nãm nữa.
VŨ CÔNG HOAN dịch
(Theo "Thế giới người tình", NXB Ly Giang)
BẠCH TIỂU DỊ
TUYỆT CẢNH
V
ong Vũ lắc vai mãi, tôi mới nhận ra anh. Chúng tôi là bạn học thời trung học với nhau, nhưng đã gần hai mươi năm trời không gặp mặt. Cảm xúc thì nhiều, có phần lại quá xúc động bởi tôi nhận thấy thần kinh anh hình như có gì không bình thường. Và vì vậy nên tôi mới nói chuyện một cách dè dặt. Anh lập tức kể cho tôi nghe anh đã gặp bao nỗi bất hạnh của nhân gian như thế nào.
Câu chuyện của anh quả thật rất ly kỳ. Mấy năm trước anh đưa vợ và em gái đi du lịch, họ đã bị lạc đường giữa một vùng núi. Chạy đằng đông đằng tây, cuối cùng hoàn toàn mất phương hướng, càng lọt sâu trong rừng. Đến nằm mơ cũng không thể nghĩ rằng gặp phải ở đây. Anh nghĩ như có ai đó đang đùa mình vậy, nhưng anh cũng hiểu ngay rằng không thể đùa với chuyện này được. Bọn chúng đưa bọn anh vào trong một sơn động. Tên trùm phỉ thấy bọn anh chả có thứ gì đáng giá nên rất tức giận. Hắn định giết một người trong bọn họ cho hả giận.
— Vậy hãy giết tôi đi! — Lúc đó Vong Vụ xin chúng giết mình.
Tên trùm ngạc nhiên, rồi khâm phục và thấy mất thể diện. Hắn cười, nói rằng anh ta là một người đàn ông chân chính:
— Làm sao tôi có thể giết anh duọc, giết anh đi chẳng hóa ra tôi tự xóa thanh danh của mình sao? — Sự thành tâm của trùm phỉ càng làm anh khó xử hơn, anh phải chọn một trong hai người: vợ hoặc em gái.
Vong kể rằng khi đó anh im lặng không trả lời. Tên phỉcho anh ba giây để suy nghĩ. Chỉ cần để lại một người, người kia lập tức sẽ được thả cùng với anh.
Vong cầu xin chúng hãy giết anh đi. Nhưng tên trùm dứt khoát không giết anh. Và Vong im lặng.
Tên Trùm chờ mãi, hắn nôn nóng báo anh rằng nếu không chịu chọn một người thì hắn sẽ giết cả hai, Vong vẫn không chịu đáp. Hắn lệnh cho hai tên lâu la kề dao vào cổ hai người đàn bà, và hỏi lại lần cuối xem giết ai. Vong hết nhìn vợ lại nhìn em, đôi con ngươi muốn vọt khỏi tròng mắt, nhưng vẫn không chịu mở miệng.
Thế là bọn phỉ đem giết cả hai người.
Từ đó trở đi, gặp ai Vong cũng hỏi, nếu anh trong trường hợp ấy thì xử lý như thế nào? Và đương nhiên anh cũng hỏi tôi. Tôi im lặng nghĩ mãi, cảm thấy cũng chỉ có thể làm như anh mà thôi.
— Họ đã chết hết rồi. Khi ấy đáng ra tôi có thể cứu duợc một người cơ mà! Nhưng tôi cứu ai bây giờ. Ôi, những đôi mắt của họ cứ rưng rưng nhìn tôi... Tôi thật sự không biết làm thế nào! Làm sao mà tôi không nghĩ ra cách nào kia chứ. Lẽ ra tôi nên giữ lại một người. Vậy mà tôi đã đánh mất cơ hội ấy rồi. Lẽ ra một trong hai người ấy có thể còn sống...
Tôi bỗng nhận ra rằng người mình đẫm mồ hôi lạnh. Câu chuyện này quả thực quá khủng khiếp. Tôi cũng cảm thấy có gì thật trầm
trọng.
Vừa khi ấy có một người phụ nữ đứng tuổi chạy tới kéo Vong đi. Tôi bực mình chạy ngăn lại, vặn hỏi bà ta vì sao lại đối xử thô bạo như vậy với một người tâm thần.
— Anh tin vào những lời nói nhăng nói cuội của ông ta à? Tôi là vợ ông ấy! Đi thôi, ông cứ để tôi cho ở nhà một mình mãi à?
— Gì cơ? — Tôi quá kinh ngạc — Đừng đi vội, bà là vợ ông ấy à? Bà chính là ngời vợ bị giết ấy ư?
— Nói bậy, bị người ta giết rồi mà vẫn còn đấy ư?
— Vậy là bà không chết phải không, thế còn cô em? Chỉ có em ông ấy chết ư?
— Cái con hồ ly tinh ấy đang còn sống rất đàng hoàng. Nó mà lại chết đuọc ư?
— Xin hỏi cuối cùng thì là chuyện gì vậy. Bà và cô em gái ấy?
— Em gái cái quái gì, con bồ nhí của ông ấy đấy! Nó làm cho ông ấy ngơ ngơ ngẩn ngẩn. Từ trước đến nay lúc nào mà tôi chả ở bên ông ấy? Ông tin những lời quái quỷ ấy ạ?
Vong chầm chậm quay mặt lại phía tôi, giọng bi thảm: "Tôi hết rồi."
TRINH BẢO dịch
BÀNH BẠCH SA
KẺ KÉO CỐI
C
ó người đàn bà họ Triệu sống cùng đứa con 6 tuổi. Hai người mẹ góa, con côi sống rất vất vả. Gia cảnh bần cùng, có mỗi chiếc ghế dài ban ngày để ngồi, ban đêm dùng chặn cửa. Hàng ngày bà Triệu làm vườn, trồng trọt. Tối đến phải gò lưng xay đậu tương làm đậu phụ, thường xuyên dậy sớm thức khuya, số mệnh thật khổ.
Nhiều năm làm lụng vất vả nên bà ốm yếu, hay đau nhức xương cốt. Mấy ngày nay, bệnh đau lưng lại phát. Bà xay xong thùng sữa đậu, hòa thạch cao vào rồi vào buồng nghỉ ngơi. Khi quay ra, bà phát hiện thấy thùng óc đậu đã vơi đi nhiều. Thật đáng ngờ, có ai vào nhà đâu?
Để tìm ra nguyên nhân, một tối, bà làm xong sữa đậu rồi nấp vào sau vách để theo dõi. Chừng hút hết nửa điếu thuốc, cánh cửa bếp từ từ mở ra không một tiếng động và không một bóng người. Bà Triệu đang ngạc nhiên thì vừa lúc ấy một bóng đen lao ra. Nháy mắt, bóng đen biến thành một con ma trọc đầu, cao gầy, tay chân đầy lông lá. Con ma xiêu vẹo đến bên thùng nước đậu, vục đầu xuống
uống hết bát này đến bát khác. "Té ra con ma này ăn trộm óc đậu của ta." Không biết sức lực từ đâu, bà Triệu lao ra, hai tay túm chặt lấy cổ nó. Đôi mắt con ma biến thành trắng dã. Nó cố sức giãy dụa. Nhưng đã là ma thì làm sao chống chọi được với người sống. Nó khóc lóc thảm thiết cầu xin: "Con xin bà tha cho! Con vốn là người tốt chỉ vì nghèo khổ không có gì ăn nên chết đi trờ thành ma đói. Nào ngờ dưới âm gian càng thảm hơn, cũng chẳng có gì ăn cả. Con quá đói khát nên mới liều đi ăn trộm, xin bà mở luọng từ bi tha cho con." Bà Triệu không buông, nghiêm giọng nói: "Không, mày là ma quỷ, nhất định hại người. Ta sẽ nhốt mày vào thùng, đặt lên bệ thần rồi lấy đá đập nát, mày sẽ không bao giờ còn quấy nhiễu được nữa."
Con ma khiếp sợ, run rẩy kêu xin: "Xin bà thương đến thân phận hèn mọn của con, con xin hàng ngày đến xay đậu cho bà, bà tha cho con." Nói rồi khóc lóc thảm thiết.
Bà Triệu thấy thế mềm lòng, lại nghĩ đang cần người giúp việc. Nếu con ma này giúp đuọc mình kéo cối thì cũng là điều tốt, thế là bà tha cho nó.
Bà cũng không ngờ rằng con ma lại giữ lời hứa đến thế. Ngay tối hôm sau nó đến thật. Bà dạy nó cách cầm càng kéo cối. Ma sợ ánh sáng nên bà vặn nhỏ đèn và để cách xa. Từ đó bất kể mưa to gió lớn đêm nào con ma cũng đến giúp bà Triệu xay đậu. Nhờ có con ma giúp đỡ, việc buôn bán của bà cũng ngày một phát đạt. Nhà cửa cũng dần dần khấm khá. Con trai bà được học hành đến nơi đến chốn, 18 tuổi tài học đã nổi tiếng một vùng. Chẳng bao lâu sau nó thi đỗ ra làm quan.
Tôi hôm ấy con ma lại đến, bà Triệu bảo nó:
— Này con ma, từ ngày mai mày đừng đến đây nữa! Con ma kinh ngạc hỏi:
— Tại sao vậy?
Bà Triệu nở mày nở mặt bảo:
— Con trai ta đã làm quan lớn rồi, nó muốn đón ta lên kinh ở cùng.
Ma nghe thế đau khổ bật khóc. Nó không muốn bà Triệu đi đâu, hơn nữa bà đi nó sẽ lại đói khát. Nó quỳ xuống trước mặt bà cầu khẩn: "Xin bà hãy mang con theo, không có bà con sẽ bị đói khát." Bà Triệu thật khó xử. Mang đi ư? Nó là một con ma! Không đưa đi ư? Thật tội nghiệp!
Nhớ lại những năm qua, nhờ có con ma giúp sức, hai mẹ con bà mới có ngày hôm nay, làm sao mình lại có thể phụ nghĩa quên ân được. Ngẫm nghĩ trước sau bà chấp nhận đề nghị của nó.
Ma sợ ánh sáng nên bà phải nhét nó vào một cái hộp, đưa lên thuyền cùng bà đến kinh thành. Con ma rất biết nghe lời. Ban ngày nằm im trong hộp, đến đêm mới chui ra giúp bà làm việc vặt, ăn cơm xong lại về nghỉ. Không bao giờ quậy phá, làm hỏng việc.
Có một lần bà Triệu sắp cơm để trên bàn chờ nó ra ăn vừa khi con trai bà ở ngoài đi vào, thấy bà sắp cơm, ngạc nhiên hỏi:
— Mẹ dọn cơm cho ai?
Bà mẹ liền kể tường tận chuyện về con ma. Nào ngờ con trai nhát gan nghe thế sợ quá lăn ra chết.
— Trời ơi, làm sao đây hả trời! — Bà Triệu cuống cuồng kêu trời đất, than khóc thảm thiết.
Khi ấy con ma chui ra. Bà Triệu kể cho nó nghe con trai bà vì sợ nên lăn ra chết. Ma ngậm ngùi nghĩ đến bà Triệu phải chịu biết bao gian lao khó nhọc mới nuôi dưỡng con khôn lớn, giờ lại vì mình mà mắc họa, lòng cảm thấy bất nhẫn nên quyết tìm cách để cứu con trai
bà. Nó mò mẫm chịu biết bao khổ ải mới đến được cung điện của Diêm Vương. Nó định lấy trộm thuốc hoàn linh hồn trong hồ lô dưới gối Diêm Vương, không ngờ bị bắt. Con ma đành kể sự thật, Diêm Vương đang tức giận định trừng phạt nó thật nặng, nhưng khi nghe sự tình về mẹ con ba Triệu thì rất cảm động, cuối cùng đã cho con ma thuốc và giục nó mau mang về cứu người.
Có thuốc rồi, con ma không dám chậm trễ một khắc, vội lao như gió cuốn về nhà bà Triệu. Nó lấy đũa cạy mồm cậu con trai nhét thuốc vào. Một lát sau cậu ta tỉnh dậy. Bà Triệu ôm lấy con mà mừng vui khôn xiết, định quay lại cảm ơn thì con ma đã biến mất. Từ đó trở đi, con ma không hề xuất hiện lại.
Bà Triệu luôn ghi nhớ công ơn con ma, thường xuyên cùng con trai nhắc đến nó. Mỗi khi năm qua tết đến, bà thường cúng lễ hoa quả và đốt tiền vàng cho nó.
TRINH BẢO dịch
BÀNH KÌNH PHÒNG
ĐẬU PHỤ
K
hu nhà ấy là nơi "tàng long ngọa hổ". Hai mươi mấy tòa nhà cao tầng san sát thành hàng ngay ngắn chứa hơn ba trăm gia đình đạo quân "thiên binh vạn mã", có người đã từng nắm giữ chức danh tuyên giáo, tổ chức, bí thư... ở bộ máy lãnh đạo chóp bu. Khi còn tại chức, họ đã từng hét ra lửa. Bây giờ, người thì đã già, người thì chưa già nhưng yếu, người thì không già không yếu, chỉ vì một nguyên nhân nào đó nghĩ mà bầm gan tím ruột đành phải về vườn, họ đã lần lượt kéo về khu nhà dành riêng cho cán bộ hưu trí để nghỉ dưỡng thân.
Đời sống ở đây sang lắm. Theo cấp chức trước lúc về nghỉ, người thì bốn phòng một sảnh, người thì năm phòng một sảnh, người thì 6 phòng một sảnh. Mỗi căn hộ còn có đủ nhà bếp, nhà tắm, nhà xí và ban-công đằng trước đằng sau. Chiều chiều một chiếc ghế mây, một chén nước trà thanh ngồi vắt vẻo trên ban-công ngắm cành liễu rủ thuyền thoi ở bờ sông xa xa, và ánh nắng chiều ngả từ màu đỏ sang màu tím rồi nâu nhạt ở chân trời kể ra cũng thú
vị đấy.
Từ khi có đàn rồng bầy hổ của dĩ vãng về đây ở, mấy dãy phố lèo tèo dần dà trở nên ồn ào nhộn nhịp; tuyến xe ca mới được mở tận nơi, một cái chợ tự mọc ngay gần đó. Những anh nhà quê biết buôn bán chở đến nào quả tươi rau xanh. Cụ "rồng" cụ "hổ" đều sẵn tiền, sức mua mạnh hơn nhiều bọn thợ thuyền khu nhà máy, lại còn đời con đời cháu của các cụ nữa chứ (người thì là rồng là hổ tương lai, kẻ thì do các cụ ông cụ bà biết nhìn xa trông rộng, nhân khi còn chức còn quyền đã sắp đặt con cháu vào những chỗ có thể thành hổ thành rồng) cũng có sức mua dồi dào lắm.
Rồng, hổ nhàn rỗi liền đi phố, dạo các cửa hàng, nhân tiện ngó xem bảng giá và cảnh ăn uống của mấy quán cơm. Ngày trước họ bận bịu công việc, từ nhà đến cơ quan ai cũng có xe đưa xe đón, đi vội về vội làm gì đến được cái nơi dân quê chen chúc. Bây giờ mới bỗng dưng thấy giá cả làm sao mà đắt đỏ thế, một đĩa thịt rán nông choèn choẹt phải trả nhưng hai, ba đồng. Trong ấn tượng của họ, thịt ăn ngày ngày thuở trước, kể cả những món còn ngon hơn thịt cũng dường như chỉ đáng vài đồng. Đương nhiên việc nội trợ của họ đều do các bà cai quản nên trước đây cũng chẳng để tâm tới giá cả làm gì.
Có loài rồng, hổ trước kia xem thường các tài năng văn học, nay về vườn chẳng biết làm chi, nghe con cháu khuyên tìm đọc một số tác phẩm văn học. Lúc đầu còn xem thường không say sưa hào hứng bằng đọc chỉ thị, nghị quyết. Đọc thêm một số quyển nữa mới phát hiện rằng, ngoài cuộc đời binh nghiệp của mình, thế giới này bao la nhiều màu nhiều vẻ, thần bí và hấp dẫn biết chừng nào, dần dần họ không chỉ ham đọc sách mà còn muốn làm chút thơ tình và viết hồi ký. Họ cũng có chút hối hận trước kia chỉ đạo các "cuộc vận động", mình đã đối xử tàn tệ với các nhà văn để đến bây giờ chẳng
có ai là bạn văn thơ. Có vị còn lôi ra một số sách báo cũ tập viết các kiểu chữ gọi là "luyện thư pháp", khi thì thích viết kiểu chữ mềm mại uyển chuyển, khi lại thích viết kiểu chữ rắn rỏi chân phương, cũng có vị học viết ngoáy kiểu chữ con dấu, đến nỗi mấy hôm sau xem lại, ngay đến bản thân cũng không nhận ra chữ gì nữa.
Có vị muốn thăm lại những nơi mình đã từng chiến đấu ngày xưa để sửa soạn viết một cuốn hồi ký rõ dày, chỉ hiềm một nỗi nay đã khác xưa, không có chỗ thanh toán công tác phí, không có đơn vị để điều xe riêng, càng không có ai là tú tài thay ngài chấp bút, thế là tất bật chạy lên chạy xuống đòi hỏi giải quyết. Tuy mệt lắm, bấn lắm, công việc cũng chẳng suôn sẻ hài lòng, xong lại cảm thấy rất thích thú.
Có loài rồng, hổ sáng dậy đi chợ mua rau, buổi trưa tưới chăm chậu cảnh, buổi tối uống vài ly rượu, tự xưng là "Rau hoa rượu" xem ra cũng đắc ý lắm!
Trong số rồng, hổ ấy, có ngài Vũ Uy vốn là một bộ trưởng ngày xưa thuộc phái trẻ. Xét về tuổi đời, ngài mới năm năm cộng thêm tám tháng, lên một chức nữa còn làm thêm được mười năm, chẳng hiểu sao, hôm ấy ngài đang dọn tiệc rượu để mừng đại thọ năm năm tại nhà, bạn bè và cấp dưới tới tấp đưa rượu Mao Đài, Tập Thủy Đại Khúc và bánh ga-tô... đến chúc thọ. Giữa lúc náo nhiệt bỗng máy điện thoại reo vang, ngài Vũ đành buông chén rượu, ra cầm máy nói.
Người gọi điện cho ngài là anh bạn chí thân.
— Ông Vũ ơi, biết tin gì chưa?
— Tin gì vậy?
Nghe giọng nói của bạn đầy vẻ bí ẩn:
— Này, đã để Lưu Quân tiếp nhận cái ghế của ông rồi đó.
— Cái gì? Vị nào đã nâng đỡ hắn? — Ngài Vũ kinh ngạc, men rượu cũng vơi đi quá nửa.
— Điều đó sao nói được, đương nhiên là có người nâng đỡ. Đối phương không muốn nhiều lời.
— Mình biết thằng cha ấy cách đây một tháng đã đi công tác với sếp chắc là đã làm nên công chuyện.
Đối phương cảm thấy không thể nói nhiều bằng điện thoại, nên chỉ nói:
— Đừng có đoán mò! Phải bình tĩnh mới được.
Ngài Vũ vội hỏi:
— Còn mình, có sự sắp xếp mới nào không?
— Vẫn chưa biết. Mình chỉ báo tin để ông biết. Này, không được tiết lộ trước cho ai biết đâu đấy!
Không đợi Vũ Uy trả lời, đối phương đã bỏ máy. Vũ Uy ngồi phịch xuống, đệm ghế salon mềm nhũn cũng như có kim có gai đâm vào da thịt. Ngài Vũ có ngờ đâu sự việc lại đường đột đến thế. Tim ngài thắt lại đau điếng.
Khi đi ra nhận điện thoại, ngài Vũ không khép cửa nên người trong buồng tiệc ai ai cũng nghe rõ mồn một, họ nhìn nhau lúng túng, chẳng biết làm thế nào. Các món ăn trên bàn cũng dường như nguội hẳn đi, rượu ngon nổi tiếng cũng trở nên chua cay khó nuốt...
Sau đó Vũ Uy đã từng chạy vạy giữa một số vị lãnh đạo để kiếm một vị trí khác, song câu trả lời ngài Vũ là: "Tuổi đến hạn rồi, nên nghỉ thôi." Có vài vị muốn giúp đỡ Vũ Uy song vì thấy sếp số 1 không ưa anh ta lắm, nên đâu dám thọc tay vào. Đừng có đùa với lửa!
Vũ Uy tức đến ốm liệt giường, liệt chiếu, tóc ngài bỗng chốc bạc gần hết, trông càng tiều tụy. Lúc đầu ngài đóng kín cửa chẳng đi đâu, chỉ buồn phiền một mình tại nhà, may mà có bà vợ mách bảo:
— Ông còn ngồi lì mãi làm gì! Buồn phiền chẳng tích sự chi. Đã đến nước này mau mau ra khu nhà hưu trí mà giành lấy một căn hộ, kẻo trâu chậm uống nước đục, có căn nào tốt bọn chúng giành giật hết!
Lúc đó Vũ Uy mới như bừng tỉnh, vội vã đến Văn phòng cán bộ lão thành, túi bụi một chầu, cuối cùng mới đuọc dọn tới khu nhà mới dành riêng cho cán bộ hưu trí.
Lương ngài không giảm, còn tăng hàng chục đồng. Diện tích ở rộng và mới hơn so với nhà cũ, chỉ có điều bỗng dưng từ vị trí quan trọng có chiều hướng phát triển bị tụt mất thì làm sao tránh khỏi buồn phiền cô quạnh?
Đi dạo phố, trồng hoa, đánh mạt chược, tập viết các kiểu chữ và viết hồi ký, ngài Vũ Uy đều không ưa thích. Điều mà ngài ao ước là cuộc sống ngày hôm qua tuy bận rộn song quyền thế bề bề, có thể "nhất hô bách ứng". Sống cuộc sống đó đã như dòng nước trôi xuôi,
đóa hoa lụi tàn, đi mãi không bao giờ trở lại.
Những ngày tháng ấy, trong nhà ngài, dù là sáng trưa chiều tối, lúc nào cũng khách khứa vào ra nườm nượp. Còn bây giờ nhà cửa vắng teo, dăm bữa nửa tháng cũng chẳng có ma nào nhòm ngó. Sợ khách không tìm thấy nhà mình, vì các căn hộ ở đây có vẻ bề ngoài từa tựa như nhau, nên Vũ Uy đã tự tay viết lên cửa chính mấy chữ: "Nhà Vũ Uy ở đây." Toi công, vẫn chẳng thấy ai lui tới.
Đêm đêm Vũ Uy ngồi lặng lẽ trên ban-công nhìn mãi vào màn đêm như mực. Một ngôi sao băng bỗng lóe lên rồi vỡ vụn trong không trung khiến Vũ Uy thở dài.
Bà vợ Vũ Uy vẫn còn đi làm. Mỗi lần về nhà bà lại càu nhàu, hôm thì chuyến đi phố gặp người nọ người kia họ tránh mặt không chào, hôm thì ca cẩm tại ông về hưu nên tôi đi đến đầu người ta cũng thờ ơ lạnh nhạt...
Vũ Uy nghe vợ phàn nàn lại càng nẫu ruột. May mà một cậu ấm làm đại đội trưởng trong quân đội và một cô con gái rượu theo đại học đều ở xa nhà, nếu không chẳng biết con trai con gái ngài sẽ còn càu nhàu với bố biết bao nhiêu chuyên? Vũ Uy không ưa đi bách bộ trong sân, ngài không quen nhìn những khuôn mật ghẻ lạnh.
Một hôm Vũ Uy đang tựa cửa sổ suy tư, chợt thấy một đám đông ra vào căn hộ thứ 3 nhà số 9, trong số đó có cả cán bộ nghỉ hưu và nhân viên quản lý khu nhà.
Lúc ăn cơm tối, ngài Vũ nói lại với vợ hiện tượng lạ đó. Bà ta quả là một bà vợ giỏi giang. Nghe qua bà nói ngay:
— Có gì là lạ đâu. Lý chủ nhiệm ở căn hộ thứ 3 nhà số 9, ông ta được Ban quản lý khu hưu trí ủy nhiệm giám sát quan lý công việc của đội xe. Giám sát quản lý và nắm quyền là có quyền. Khu nhà này có hàng chục ô tô các loại, có cái phục vụ cán bộ lão thành, có cái chuyên chở hàng buôn bán. Ông bảo quyền lực không to à?
Ngài Vũ thở dài một cách thản nhiên, đường đường một cán bộ cấp sư đoàn mà rơi vào cái thế chỉ nắm giữ mấy cái ô tô thì thật là "anh hùng mạt lộ"
Khuôn mặt béo núc ních của bà vợ vênh lên, bà nói như băm bổ:
— Ông ấy à! Cứ như kẻ từ trên trời rơi xuống, đúng là đồ ngu lâu. Ăn cây nào rào cây ấy có thế cũng không biết. Ông xem đây, lão Lý nó sống đàng hoàng chẳng ai bì nổi đâu!
Vũ Uy ngại cãi vã với vợ đành cúi đầu và cơm. Bữa nay có măng xào thịt và cá rán đều là thức ăn ngon mà ngài Vũ chẳng buồn nuốt.
Vài hôm sau ngài Vũ gặp lại vị Lý chủ nhiệm về hưu nọ. Quả nhiên ông ta có vẻ mặt hồng hào béo tốt. Hai người vốn quen nhau, trước đây ngài Vũ đã có lần cưu mang giúp đỡ ngài Lý. Còn cách xa, Lý chủ nhiệm đã đon đả chào:
— Thế nào bác Vũ Uy, tới đây có đi điều dưỡng không? — Đi đâu?
— Nghe nói phân phối cho khu ta mấy xuất đi Thanh Đảo. — Không có suất tôi?
— Ờ, có thể là ưu tiên chiếu có mấy đồng chítuổi cao chức to. Vũ Uy cũng chỉ biết nói:
— Anh lại bận rộn thêm chứ gì?
Lý chủ nhiệm cười hể hả:
— Một chút nhiệt tình còn lại thôi mà!
Sau đó vài hôm Vũ Uy bỗng nhận được điện báo của anh vợ: sẩm tối sẽ đến thành phố này. Ngài Vũ bèn gọi điện cho đội xe xin điều một xe con đi đón. Người trực ban đội xe trả lời rất mềm mỏng:
— Thưa thủ trưởng, xe đi cả rồi, hôm nay nhiều người dùng xe quá!
Vũ Uy sốt ruột:
— Tôi phải ra ga đón người nhà mà.
— Chúng tôi rõ rồi. Quả thật là hết cách, giá thủ trưởng đăng ký sớm sớm tý nữa có hơn không!
Lời đáp vẫn rất từ tốn lễ phép.
Vũ Uy điên tiết bỏ máy (nếu như trước đây, ngài đã quăng máy đi, song bây giờ đã khác, không thể quăng đuợc).
Vũ Uy cau có hỏi vợ:
— Làm thế nào bây giờ?
Bà vợ tức tối vênh mặt lên:
— Thế nào thì thế cũng không được để anh hai tôi xuống tàu chen xe ca đi về đây, xấu mặt lắm!
— Phải rồi! — Vũ Uy càng sầu não.
Bỗng mất bà vợ sáng lên:
— Ông không biết gọi điện cho lão Lý à, Lý chủ nhiệm ấy mà! Ông ta quản lý đội xe.
— Ông ta ấy à?
— Ông hãy nghe tôi. — Bà quát như ra lệnh. Vũ Uy đành cầm máy gọi điện cho Lý chủ nhiệm.
Lý chủ nhiệm tiếp chuyện rất niềm nở, trả lời cũng rất nhẹ nhàng:
— Không sao! Không có xe tôi bảo họ đi mượn một chiếc ở khu hưu trí khác. Anh cần lúc mấy giờ?
Nửa giờ sau, một chiếc xe Volga màu tro bạc quả nhiên đã đến đậu ở dưới tầng nhà của Vũ Uy.
Hôm ấy, ngồi trong xe con, ngài Vũ Uy cứ thầm than thở mãi: — Ôi! Quyền lực! Quyền lực!
Ô tô đi vào phố lớn. Sau cơn mưa, dưới ánh đèn điện xanh tím đỏ vàng, lá cây ngô đồng hai bên đường biến đổi màu sắc đến kỳ lạ. Tiếng mưa rào rào, tâm tư Vũ Uy cũng biến đổi như ánh điện đèn trên đường phố...
Lại bẵng đi hơn một tháng. Một hôm bà vợ hớt hải từ đâu chạy về. Vừa bước vào cửa, bà đã nói:
— Mau lên! Mau lên! Ban quản lý khu hưu trí sắp sửa mời một cán bộ lão thành giám sát quản lý bán đậu phụ.
— Bán đậu phụ! — Vũ Uy sa sầm nét mặt. — Bảo tôi giám sát quản lý một quầy hàng xén còn đuọc. Ai lại đi làm đậu phụ.
Bà vợ cáu tiết, ngón tay chuối mắn của bá tưởng như chĩa thẳng vào trán ông chồng:
— Thế nào? Xấu hổ à? Còn hơn chán vạn cái cảnh nằm khườn ở nhà rồi ốm lăn ra đấy. Tôi vừa gặp Lý chủ nhiệm. Người ta có lòng tốt báo tin cho. Đó là sự quan tâm của bạn chiến đấu cũ, ông lại phớt đi ư?
— Thôi! Cảm ơn lòng tốt của ông ta!
Vũ Uy nghĩ bụng: tôi dù có mất hồn đi nữa cũng không đời nào đi bán đậu phụ. Bà vợ nóng tiết:
- Ông có đi không thì bảo? Ông không đi tôi chẳng tha đâu!
Mấy năm qua Vũ Uy có hai điều sợ. Một là sợ sếp, hai là sợ vợ. Bây giờ không còn sế[, song cái uy của vợ thì chỉ có tăng chứ không có giảm. Bởi vậy Vũ Uy đành cất tiếng.
— Tôi chưa từng làm đậu phụ bao giờ, biết làm thế nào!
— Ai bảo ông xắn tay áo lên làm. Giám sát và quản lý cơ mà, là làm lãnh đạo, là cầm quyền!
Tiếng đáp của bà vợ xỉa xói chát chúa nghe đến khiếp. Ông chồng nín thinh. Ông nghĩ bụng: Lão Lý nó đã coi trọng như vậy chắc là còn làm ăn được. Bà vợ lại giục:
— Ông hãy mau mau gọi điện cho trưởng ban quản lý đề nghị giao việc ấy cho ông.
— Còn phải gọi điện cho anh ta làm gì?
Trưởng ban quản lý khu nhà hưu trí vốn là một trợ lý nhãi nhép dưới quyền khi ông còn làm bộ trưởng, ông còn mặt mũi nào đi van xin anh ta.
Ngón tay chuối mắn của bà vợ lại xỉa xói vào mặt chồng:
— Này, đừng có làm bộ sĩ diện hão, bao nhiêu kẻ đang rắp tâm giành giật việc ấy đấy!
Thấy chồng vẫn ngồi im, bà vợ hầm hầm đến cầm máy điện thoại. Sau khi gọi được số máy trả lời, tiếng bà trở nên dịu dàng nhũn nhặn, thấy tỉnh hẳn lên.
— Trưởng ban quản lý đây ư? Ông Vũ Uy nhà tôi chẳng có việc gì làm, ông ấy muốn trình bày với anh. Ông ấy sẽ nguyện cố gắng phát huy nhiệt tình còn lại để tìm một việc làm. Chẳng hạn như việc giám sát quản lý đậu phụ. Sao cơ? Còn phải chờ Ban quản lý nghiên cứu ư? Vâng, vậy thì trăm sự nhờ anh giúp đỡ. Dạ, xin chào anh.
Bỏ máy điện thoại, bà hằn học nói:
— Ông còn sĩ, làm bộ làm tịch. Chắc gì người ta đã để ông làm. Trước đây ông làm bộ trưởng thì đã sao nào. Đó là trước kia. Ông nên hiểu rằng: Phượng hoàng rụng lông chẳng bằng gà ri.
Biết tính vợ đã càu nhàu việc gì là dai như đỉa đói, ngài Vũ Uy đành phải mở đài nghe kinh kịch. Ngài ưa nhất là vở Bá vương biệt thiếp "Sức bạt núi, khí trùm đời, thời bất lợi, ngựa không ngơi..." Lời bi tráng thê lương thường khiến ngài mủi lòng thở vắn than dài.
Sau một cuộc vật lộn, tuy có nhiều tay cạnh tranh công việc giám sát quản lý đậu phụ, song do có Lý chủ nhiệm hết lòng giúp đỡ, cuối cùng việc bán đậu phụ đã vào tay Vũ Uy.
Đối với khu nhà đông tới một hai ngàn con người này thì một
miếng đậu phụ cỏn con cũng đủ khuấy động thần kinh của từng gia đình, đậu phụ ở đây rẻ hơn nhiều so với thị trường tự do (một kilogram ở đây có chín hào, ngoài chợ phải mua một đồng mốt, mà chất lượng còn kém hơn). Vì thế, gia đình nào cũng thích mua ở đây. Song cũng phiền toái lắm, người thì ưa mềm, kẻ lại thích rán, người muốn mua sớm, kẻ lại thích muộn, có người lại tham mua nhiều. Hơi không vừa lòng là họ chau mày khó chịu, đến muộn hết phần thì cáu lên chửi đổng. Lúc đầu có một thợ chính và hai ba thợ phụ: làm việc này quả tình là bận túi bụi nên ban quản lý quyết định mời một cán bộ lão thành có uy tín cao đảm nhiệm việc giám sát quản lý.
Bà vợ sợ ông chồng "lâm trận" rụt rè, lại giáng cho một thôi một hồi đến quá nửa đêm. Bà vừa khuyên vừa đe: nếu không làm đến nơi đến chốn bà sẽ bỏ đi. Vũ Uy đành phải lao đầu vào chỗ nồng nặc mùi chua đậu phụ. Gắng hết sức một chầu, ngài mới chỉnh đốn được cái cơ ngơi nát bét ấy. Ngài quy định số lượng hàng ngày cho từng gia đình, lại hạch toán giá thành và bịt các lỗ rò rỉ tham ô lãng phí nên đã giảm giá mỗi kilogram đậu phụ từ chín hào xuống tám hào bốn xu. Đừng xem thường 6 xu đâu nhé! Cứ đặt con tính mà xem, mỗi kilogram giảm được 6 xu, một trăm kilogram sẽ là sáu đồng. Gia đình nào một năm chẳng đụng tới trăm kilogram đậu phụ? Hơn nữa từ giờ trở đi cán bộ hưu trí chẳng còn ai có hy vọng lên chức lên lương, nhà nào cũng phải tính chi ly từng xu từng hào.
Đùng một cái tên tuổi Vũ Uy làm náo động cả khu tập thể. Nhiều gia đình tấm tắc khen Vũ Uy là người biết làm ăn. Có người giở miếng đậu phụ ngon lên khen trước mặt Vũ Uy:
— Xem đây này. Vụ bộ trưởng có cừ không cơ chứ! Ôi, tiếc thay, tuổi chưa cao lắm đã về hưu...
Nhiều người truớc đây gặp Vũ Uy cứ lơ lơ chẳng nói chẳng rằng
thì bây giờ cũng gật đầu chào hỏi một cách khách sáo.
Vũ Uy cũng thấy lòng chộn rộn vui vui, làm có chút việc nhỏ nhoi mà cũng được tiếng thơm cơ đấy. Một hôm Vũ Uy dậy sớm ra kiểm tra quán làm đậu. Có anh lái xe tới gặp. Anh ta bảo gia đình cưới vợ cho em trai phải bày tiệc rượu cần mua vài ván đậu phụ. Giá vào lúc khác chỉ cần giúi vài điếu thuốc vào tay mấy chú thợ phụ là có thể bê đi liền, song hôm nay có mặt Vũ Uy, mấy chú thợ đâu dám nhận lời, đành phải đáp:
— Xin anh hỏi Vụ bộ trưởng.
Anh lái xe đến nài nỉ Vũ Uy.
Chỉ tính số lượng đậu phụ ít ỏi bán hôm nay mà bê đi vài ván thì ắt sẽ có nhiều người hết phần, rồi đâm ra sinh sự mè nheo, rước vạ vào thân. Vũ Uy thấy anh lái xe thuộc đội xe con và việc cưới xin không thể để chậm trễ, nên quyết đoán liền. Ngài ra lệnh bảo mấy chú thợ lấy thêm đậu tương xay vài thùng đậu nước. Thấy mấy chú thợ mặt khó đăm đăm không muốn làm. Vũ Uy liền động viên:
— Đừng có ỉu xìu như thế, tôi sẽ trả lương cho các cậu theo quy định làm thêm giờ trong ngày nghỉ lễ.
Trước khi bưng đậu phụ đi, anh lái xe cảm ơn rối rít: - Xin đa tạ, đa tạ Vũ bộ trưởng.
Vũ Uy nghe mà nở từng khúc ruột. Ông ta cũng cười đáp: — Lấy vợ là việc vui lớn sao lại không giúp đỡ.
Một hôm, sau bữa cơm chiều, Vũ Uy sửa soạn đi thăm bạn. Xe ca chật quá, ngài phải cuốc bộ. Thầy thuốc bảo rằng người cao tuổi phải đi lại vận động nhiều. Vũ Uy không tập khí công, ngày thường chỉ đi bách bộ.
Vừa ra khỏi cửa vài trăm bước thì phía sau có một xe con lao tới rồi dừng trước mặt Vũ Uy độ chục mét. Đó là anh lái xe mua đậu phụ hôm nào.
— Xin chào Vũ bộ trưởng. Ngài đi đâu vậy?
— Mình tới đường Bắc Kinh thăm bạn.
— Mời lên xe, tôi đưa ngài đi.
— Ấy, không! Không! Minh đi bộ cũng duọc.
— Mời ngài cứ lên. Trưởng ban quản lý cử tôi lên Bộ chỉ huy quân sự tỉnh đón người, tiện đường ấy mà, mời ngài lên xe.
Vũ Uy đành phải bước lên xe. Chiếc xe lao vun vút, chẳng mấy chút đã đến nơi. Lúc xuống xe, Vũ Uy nói:
— Cảm Ơn cậu! Xin gửi câu mấy cây số xăng xe.
Anh lái xe huơ tay gạt đi:
— Vụ bộ trưởng, sao ngài cẩn thận thế? Cho qua, cho qua! Rồi anh ta dấn ga cho xe lao nhanh vun vút.
Người bạn mà Vũ Uy đến thăm vừa đúng lúc ra khỏi nhà đi dạo mát. Nhìn thấy Vũ Uy đến vội reo lên:
— Hiếm có! Hiếm có! Đến nửa năm nay không thấy anh đến thăm.
Ngài Vũ đáp:
— Bận mà!
Bạn lại hỏi:
— Nghe nói dạo này anh làm đậu phụ cho khu hưu trí có phải không?
Vũ Uy gật đầu. Bạn ngại liền khuyên một cách thành thật:
— Ông ơi! Mình bao nhé: Đã nghỉ hưu rồi, thì cứ việc nghỉ ngơi cho thoải mái, làm đậu phụ làm gì, chẳng hay ho gì đâu!
Vũ Uy nhìn ráng chiều dang chuyển từ màu hồng sang màu tím ở chân trời, mỉm cười:
— Hay ho chứ! Rất hay ho là đằng khác.
VŨ CÔNG HOAN dịch từ
Tân Hoa văn trích - tháng 4, 1988
BÀNH THỤY CAO
ĐẤT SAY
N
gôi nhà của Bách Sâm lọt giữa những thửa ruộng màu mỡ nối tiếp nhau, chỉ cách cánh đồng lớn một con đường đất. Con đường mọc đầy cỏ gà. Gió đông mặc sức luồn vào mọi căn phòng của ngôi nhà cửa lớn, cửa nhỏ đều mở toang. Mùi bùn, mùi hoa, hơi nhòa trộn vào nhau từng đợt, từng đợt ào vô, dễ khiến người ta say được.
Bách Sâm và Bách Lâm ngồi đối diện nhau, uống rượu. Thức ăn bày trên chiếc bàn nhỏ, thứ nào cũng bóng nhẫy dầu rán và tương, có đủ rau, đậu, cá. Hai người ăn uống chậm rãi, chai rượu trắng đã vơi nửa.
Bách Sâm và Bách Lâm là hai anh em. Tiếng Trung Quốc chữ tượng hình, Sâm hơn Lâm một chữ mộc nên là anh. Hai người cách nhau sáu tuổi, nhưng cứ nhìn mặt thì người anh phải hơn em đến hơn mười tuổi. Cả hai đầu cắt cua, tóc người anh đốm bạc, tóc người em còn đen nhánh. Gương mặt khô khốc của người anh đầy nếp nhăn, gầy trơ xương. Người em thì ngược lại, da mặt láng bóng, lúc nào cũng như vừa rời bàn tiệc. Làng xóm coi sự khác biệt
này là do sự phân công khác nhau của xã hội: người anh từ trước tới giờ chuyên cày ruộng, người em thì chuyên giữ chức chủ tịch xã. Tuy nhiên, dù có thế nào họ vẫn là hai anh em, đối với nhau rất tốt, nổi tiếng trong làng. Hàng xóm láng giềng vẫn lấy anh em họ làm gương. Anh em nhà nào tranh chấp nhau, ba mẹ đều bảo: "Chúng mày cãi nhau cái gì! Hãy xem anh em nhà Bách Sâm, Bách Lâm đấy, chúng mày phải ngượng chứ! Anh em nhà người ta tuần nào cũng cùng nhau uống rượu, đến nay đã mười mấy năm rồi, thật là hòa thuận! Còn chúng mày, gà cùng một mẹ đá nhau, sao không chết đi!"
Mỗi tuần một lần cùng ăn uống chuyện trò, ai ai cũng thấy. Từ lúc anh em ra ở riêng, đến nay quả đã mười mấy năm thật. Tấm gương đó, khoan nói khắp huyện, thử tìm khắp vùng này xem được mấy nhà. Đâu cũng thấy anh chị em cãi cọ, đánh chém nhau. Ăn ở tốt với nhau cả đời như anh em Bách Sâm, Bách Lâm, không khiến người ta kính trọng sao được, không khiến người ta thèm muốn sao được.
Nồi cháo cạn nước sôi lục đục. Có mùi khét.
Người em nói:
— Mũi anh thính chứ?
Người anh nói:
— Chú nói cái gì?
Người em nói:
— Cháo khê rồi, hạ nhỏ lửa xuống.
Người em là chủ tịch xã, quen sai khiến mọi người. Người anh đi về phía bếp lò, dùng que cời vụn than ướt vào giữa, giảm bớt ngọn lửa. Đưa mắt nhìn, thấy trong lòng bếp nóng hừng hực tối đi một chút, người anh đứng dậy trở lại chỗ ngồi, đôi mắt cũng chợt tối đi.
Người anh ngồi xuống chiếc ghế nhỏ, cảm thấy nóng, bèn phanh cổ áo nói:
— Hừ, vừa mới qua lập hạ mà nóng không chịu nổi. Người em nói:
— Nóng dữ thật, năm nay nóng sớm.
Người anh nói:
— Trời bắt đầu nóng, sâu bọ cũng ra nhiều. Tuần sau tôi bắt con rắn làm thịt mời chú ăn.
Người em nói:
— Thịt rắn em cũng đã ăn rồi. Hôm trước đội chăn nuôi mời, nhưng chúng nó nấu kém, thịt không mềm lại không tươi.
Người anh nói:
— Hỏng bét rồi. Giết và làm thịt rắn tuyệt đối không được dùng dao hoặc các vật sắc bằng sắt. Phải dùng mảnh sành hoặc thủy tinh sắc.
Người em nói:
— Các bác sĩ cũng thừa nhận, ăn thịt rắn có nhiều cái tốt. Người anh nói:
— Lại còn phải bảo, ăn thịt rắn nhiều phòng được bệnh mụn ngứa, bệnh phong, da dẻ tốt lắm. Phàm người mắc bệnh nhiệt ăn thịt rắn đều tốt.
Đôi mắt người em vốn sáng, rượu vào bốc lên biến thành màu đỏ, nơi khóe mắt hắt ra cái gì đó khó hiểu. Anh ta nháy mắt phấn khởi hỏi:
- Thật anh bắt được rắn chứ?
Người anh nói:
— Sao lại không bắt đuọc? Chú quả không đáng làm người làng nữa. Ngày xưa ruộng phá bỏ, dùng thuốc trừ sâu, tôm cá, rắn lươn đều hiếm. Bây giờ chia ruộng rồi, vạn vật đẻ nhanh nhiều, kiếm con rắn có gì khó.
Người em hỏi:
— Rắn ráo chứ?
Người anh đáp:
— Tất nhiên là rắn ráo. Chú thích ăn nướng à?
Người em nói:
— Hôm qua đội chăn nuôi mời ăn. Nhưng thịt không ngon. Cá cú thịt mới tuyệt vời.
Người anh giật mình hỏi:
- Chú ăn thịt cá cú, liều mạng nhỉ?
Người em nói:
— Đâu có. Lúc chưa gắp, quả có sợ.
Nguời anh cười cười, nói:
— Điều này chú nói thật. Chú là chúa sợ chết.
Người em nói:
— Bọn họ chuyên ăn thịt cá cú, bảo: đừng có sợ, cá cú moi hết ruột gan, sửa sạch máu thì chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Họ còn chuẩn bị sẵn cả rễ lau, nói chẳng may trúng độc có thể lập tức giải độc.
Đôi mắt sáng lên, người anh hỏi:
— Mùi vị thế nào, có ngon không?
Đôi mắt cũng sáng lên, người em lúc lắc đầu nói:
— Còn nói thế nào đuọc nữa. Ăn cá cú rồi, các thức khác đều như rác cả. Cũng coi như mở rộng đuợc kiến thức.
Người anh lườm em, nói:
— Chú hay đi ăn cơm khách, cũng mở rộng được kiến thức đấy nhỉ?
Người em nhấp một hụm rượu, không giấu nổi tự mãn nói: — Chẳng có cách nào khác, mình là quan phụ mẫu của cả xã mà.
Người anh nhăn mũi, nhìn người em gần như miệt thị. Anh ta chẳng bao giờ coi người em là quan phụ mẫu cả: Ngữ ấy mà cũng là Chủ tịch xã. Thuở nhỏ, học thì dốt đặc cán táu, lưu ban mấy lớp,
chữ viết cho đến bây giờ vẫn như gà bới. Láo thì thành thần. Buổi sáng đi học bị thầy giáo mắng, buổi tối đem chậu nước đái đặt ở cửa ra vào nhà thầy. Thầy mở cửa bước ra đâm phải, mùi khai đeo cả buổi. Học mãi mà thi vào cấp hai không đỗ. Loại người như thế mà lại được chọn làm cán bộ. Nói về học vấn: đến tí, sửu, dần, mão cũng không hiểu, nói về làm ruộng thì không phân biệt nổi cày, búa, cuốc, thuổng. Tóm lại là văn dốt, võ dát nhưng gặp vận đỏ cứ lên vùn vụt: Từ đội phó sản xuất lên phó bí thư hợp tác xã. Mấy năm trước đây được cử đi học một lớp bồi dưỡng chính trị kiếm được mảnh bằng dọa mọi người sợ hết hồn, thế là leo lên làm Chủ tịch xã. Người khác không biết tổ chấy ở dau, còn ta là anh mi, chả lẽ ta lại không biết rõ mi. Một người như thế làm Chủ tịch xã hỏi dân xã trông mong gì được.
Chủ tịch xã thấy anh im lặng bèn đứng dậy bước ra ngoài, vạch quần đái ngay cánh cửa. Gió đầu mùa hạ mát rượi gợi lên cảm giác thỏa mãn khiến người em sung sướng muốn kêu lên. Người em
ngẩng đầu phóng tầm mắt nhìn ra xa, ôm trọn cả xã và mấy cánh buồm trắng trôi chầm chậm trên sóng Hoàng Phố, càng thấm thía sức mạnh của một chủ tịch xã. Tiếng nước tiểu phóng xuống đất mạnh mẽ và vang xa khiến người em cảm thấy tự tin vào sức lực sung mãn của mình, miệng lẩm bẩm: "Dưỡng khí còn vượng lắm!" Bất giác cười thành tiếng.
Người em vừa bước vào thì người anh ra thay.
Người anh hẳn có bệnh. Buồn đi tiểu là vậy, mà mãi không tiểu được. Chủ tịch xã lắc đầu cười nhạt. Anh ta cũng chẳng coi anh mình là gì. Năm mươi tuổi rồi vẫn chỉ xới đất, đầu óc cổ hủ, gàn dở. Kêu đi làm kế toán cho đội, một cơ hội tốt để thoát khỏi việc chân lấm tay bùn, mưa không tới mặt, nắng không tới đầu, lại không chịu đi. Nói nhà có một người làm cán bộ, đủ rồi, đi thêm người nữa dân làng lại bảo trục lợi. Dào ôi, trục lợi gì? Em thấy nhiều rồi. Lại bảo đi làm ở cửa hàng đại lý, bán thuốc lá, bán thực phẩm, việc nhàn nhã, cũng không đi, kêu sợ dính dáng đến tem phiếu. Gàn dở thế hỏi làm sao có đời sống tốt đẹp được. Chỉ độc trông vào cày mấy sào ruộng, nuôi vài con lợn lại muốn nhậu nhẹt hàng ngày! Sống suốt đời như thế thà chết còn hơn.
Tiếng tiểu ở ngoài cửa nhỏ, ngắt quãng, không liền mạch. Chủ tịch xã lại lắc đầu. Ôi, ông anh như mặt trời sắp lặn rồi. Nghe kiểu này chắc nước tiểu rớt ngay nơi chân. Thân xác yếu ớt vậy, sống còn có ý nghĩa gì nữa. Làm anh đàn ông phải như em đây, cuộc đời
mới có hương vị chứ. Người em cười, cảm thấy mình hơn đứt người anh, sung sướng đến run lên.
Người anh bước vào, ngồi xuống, tợp một hụm rượu, khà một tiếng, nhắm mắt để cho rượu từ từ trôi qua miệng, thực quản xuống dạ dày, để cảm thấy cái nóng của rượu vẽ lên một đường cong dài, sau đó mới hé miệng, mở mắt. Ngụm rượu không những làm cho
người anh khoái trá, mà kỳ lạ thay còn làm anh ta cảm động. Khi anh ta mở mắt thì nước mắt cũng ràn rụa.
— Em nghĩ anh phải cai rượu rồi.
Người em chợt cao giọng nói với anh.
Người anh giật mình nhìn chăm chăm vào em, giận dữ hỏi: — Bảo anh cai rượu? Có thật chứ nghĩ vậy không?
— Em thấy sức khỏe anh càng ngày càng yếu, — người em nói. — Rượu là thứ làm hại sức khỏe. Anh có đọc báo không? Cồn rượu làm giảm tuổi thọ. Uống rượu nhiều mặt cũng kém. Người vợ uống rượu cũng ảnh hưởng đến việc nuôi con. Em nghĩ, đối với anh phải cấm rượu. Cấm có nghĩa là không nên uống hàng ngày. Mỗi tuần anh em cùng nhau uống một bữa thì chả sao.
— Nghe báo có ăn cám, — người anh nói. — Trung y thì lại cho rằng, uống chút rượu lưu thông mạch máu, chỉ có tốt, không có hại. Uống rượu hại mắt ư? Tại sao mắt anh không vằn đỏ mà mắt chú lại vằn đỏ. Còn nói ảnh hưởng đến con cái, thì anh đã qua tuổi ấy lâu rồi. Chứ đừng nghe báo viết láo khoét. Chú đọc báo về nhà nói láo, lại còn nói láo khắp cả làng.
Người em khó chịu, rít liền mấy hơi thuốc, phát ho khan.
— Ngược lại, anh khuyên chú nên bỏ thuốc, — người anh nói. — Thuốc lá cũng là thứ có hại.
Đôi mắt người em đỏ lên, nhìn anh với vẻ thù địch, hai ngón tay kẹp chặt điếu thuốc như sợ bị cướp mất.
— Bảo em cai thuốc? — Giọng người em lạc đi. — Anh tưởng tượng ra đấy chứ?
— Anh thấy chú ho, ho dữ hơn trước. Thuốc lá có nhiều độc tố.
Đài phát thanh nói, các nhà khoa học thí nghiệm, thấy chất độc trong một điếu thuốc lá có thể giết một con ngựa. Chả nhẽ chú chịu độc khỏe hơn ngựa ư?
Người em cười nói:
— Đài phát thanh mới đích thực là láo toét. Tại sao đến bây giờ em vẫn không bị chất độc thuốc lá giết chết?
Người anh nói:
— Hút thuốc không chết ngay, mà chết từ từ, gọi là tự sát dần dần.
Người em nói:
— Thôi đi, người ta sống đấy cũng có nghĩa là đang chết đấy. Em làm Chủ tịch xã, không hút thuốc lấy gì tiếp khách, lấy gì làm tư thế. Bỏ đi, sống chẳng còn mấy ý nghĩa nữa.
Người anh nói:
- -Thì thôi, anh không khuyên chú cai thuốc nữa.
Người em nói:
— Thì em cũng không khuyên anh cai ruợu nữa.
Vậy là hai người tiếp tục uống rượu, đầu cúi thấp, không nói một lời.
Một con mèo lượn đi lượn lại dưới chân hai người, kêu gừ gừ nhưng không đòi ăn. Lửa bếp cũng tắt ngấm. Căn phòng mát dịu đi.
Thời gian trôi qua, hai anh em đều lơ mơ. Nhìn ra như có hai người em, hai người anh. Mượn rượu say, hai anh em bắt đầu to tiếng.
Người em nói:
— Bách Sâm, anh nên bớt đi lại với cái mụ góa ngoài xóm, dân làng bàn tán ồn cả lên.
Người anh nói:
— Chú nói lăng nhăng cái gì đấy. Tôi chỉ những lúc đi đưa củi, đi gánh nước mới vào ngồi nghỉ. Chồng người ta đi làm cho xã, ngã từ tầng sáu xuống chết, chú không hỏi han giúp đỡ lại còn vấy bùn, có là người hay không?
Người em nói:
— Ai vấy bùn anh. Người dân có thư tố cáo gửi lên xã kia kìa. Người anh nói:
— Thư của người dân nào, chú cứ thử nói tên ra coi, tôi thì vặn đầu nó đằng trước ngược ra đằng sau.
Người em nói:
— Người ta sợ anh bảo thủ, mới không ký tên. Mà dù có ký tên tôi cũng không nói với anh. Đó là kỷ luật Đảng.
Người ánh nói:
— Thôi thôi! Kỷ luật Đảng, chú bôi xấu Đảng thì có. Người ta cưới nhau, chú đến đánh chén. Người ta mừng đầy tuổi con, chú đến đánh chén. Người ta dựng nhà mới, chú đến đánh chén. Nhà người ta có người chết, chú cũng đến đánh chén, chú đánh chén ở đội chăn nuôi, ở nhà trồng nấm, ở xuồng cơ khí. Đều tay không đi ăn chạc, lại còn nói đến Đảng.
Mặt người em càng đỏ tợn:
— Anh đừng nói bừa.
Ngược lại, mắt người anh trắng bệch:
— Ai nói bừa?
Người em nói:
— Tóm lại anh đừng dan díu với người đàn bà góa ngoài xóm nữa. Bấy nhiêu tuổi đầu rồi, cứ tiếp tục thì chỉ thân bại danh liệt mà thôi.
Người anh nói:
— Thôi thôi, chú cũng đừng ăn Đảng nữa, thật đấy. Người em nói:
— Ái chà chà, Đảng mà ăn được à? Anh say rồi.
Người anh nói:
— Sao lại không ăn được? Chứ không phải ba ngày hai bận ăn đó sao. Có mà chú say.
Có tiếng chân nhiều người. Một đám dân làng qua đường, thấy anh em Bạch Sâm ngồi uống rượu liền túm lại.
— Ông cả, uống rượu vui vẻ chứ?
— Vui, vui. Chúng tôi nhấm nháp một tý ấy mà.
— Chủ tịch, anh em đồng chí hòa thuận đến già đấy nhỉ? — Ừ, ừ. Hòa thuận đến già.
— Mọi người được như anh em nhà đồng chí có phải đời tốt biết bao không?
— Vậy hả? Tốt lắm, tốt lắm.
— Ăn ngon nhé!
— Ăn ngon, ăn ngon. Các đồng chí lại cùng uống chút nhé? Tiếng bước chân lại vang lên. Đám dân làng cảm kích, tan đi.
Hai anh em nhìn nhau, im lặng.
Lần nào cũng như vậy. Người ngoài không biết được. Anh em họ cũng chẳng để người ngoài biết. Bảo vệ danh dự của gia tộc cũng là sứ mệnh mà anh em họ ngầm thỏa ước với nhau.
Nghĩa là mỗi lần mọi người nhìn thấy anh em họ ngồi uống với nhau cũng là mỗi lần họ hoàn thành sứ mệnh đó. Đến lúc phải chia tay rồi.
— Tuần lễ sau lại đến nhé. Anh bắt con rắn làm thịt chú ăn.
— Vang tuần lễ sau lại đến. Có bình rượu Cổ Tinh đội thủy sản biếu, em sẽ mang lại.
— Được rồi! Được rồi!
— Được rồi! Được rồi!
Lại một cơn gió mát thổi tới. Tiếng còi tàu trên sông Hoàng Phố ngân nga trong không trung. Mặt đất đầy hoa vàng sáng lên dưới ánh trăng làm cho người say càng thêm say.
HÀ PHẠM PHÚ dịch
BÀO XƯƠNG
CỎ CHI CHI
N
gười nằm mơ đều là mơ mơ hô hồ cả.
Tôi rất thích nằm mơ.
Giấc mơ của người, có giả có thật. Giấc mơ của tôi thường là những hồi ức vê người thật việc thật.
Hôm nay tôi lại nầm mơ về hai mươi ba năm trước. Năm ấy tôi lên năm. Lúc ấy tôi nhìn trần thế cũng chỉlà mơ mơ hồ hồ.
Ba đón tôi đi.
Khi ấy tôi ở nhà cô Chương, kế tù khi tôi biết nhớ. Tôi đã ở nhà cô Chương — Tôi không có mẹ. Tôi gọi cô Chương là mẹ. Cô Chương cười nói:
— Trước kia con cũng có mẹ.
— Thế thì con phải đi tìm mẹ con!
Cô Chương không nói nữa, ôm tôi, hôn mấy cái liền.
Về sau tôi mới biết rằng, mẹ bỏ tôi đi mất. Tù khi ba tôi là phần tử "phái hữu", mẹ bỏ đi, không về nữa. Tôi chưa biết mặt mẹ. Nhưng "phái hữu" là cái gì? Tôi không hiểu.
Nhà cô Chương ở Bắc Kinh, một ngôi nhà lớn. Trong đó có năm gia đình, rất vui. Qua cổng lớn là tường hoa, trước tường hoa có bể thả sen. Bể thả sen không thả sen, mà nuôi cá. Tôi xin cô Chương mua cho mấy con cá vàng, thả trong bể nuôi. Về sau cá vàng bị Tiểu Hoa chén mất. Tiểu Hoa là con mèo, nó rất thân với tôi. Tôi ôm nó, nó gừ gừ. Vậy mà nó ăn trộm cá vàng! Hư thật!
Cả nhà cô Chương ai cũng tốt với tôi. Chồng cô Chương cũng giống như ba tôi, là "nhân viên địa chất” gì đó, đi miết. Bác là bạn học của ba tôi, cô Chương cũng là bạn học của ba tôi. Mỗi khi ba tôi về, tất cả đều vui lắm, quây lại uống rượu, ăn cá ăn cua. Tôi không thích ăn cua, mắc răng. Tôi thích ăn món cá cô Chương làm, thơm thơm, ngọt ngọt. Cô Chương bảo đó là "phong vị" của quê hương cô. Sao lại gọi là "phong vị", tôi chả hiểu.
Cô Chương có một người con gái, hơn tôi một tuổi, tôi gọi bằng chị. Cô Chương không có con trai, cô gọi tôi là con nuôi. Tôi nói:
— Con gọi cô bằng mẹ.
Cô cười, lại ôm lấy tôi, hôn một cái. Nhưng cô nói:
— Con ngốc nghếch, dại khờ lắm. Con chẳng khôn ngoan được bằng chị đâu!
Tôi không chịu.
Đá cầu, đá bóng, tôi đều thắng chị. Nhưng nhảy ô, tôi chịu, nhảy dây chun lại càng kém. Nhảy dây chun là trò của con gái, tôi chẳng
thèm chơi.
Cô Chương rất bận, cô đi làm hàng ngày. Cô làm trong Bộ Địa Chất ở Thượng Tứ. Mỗi khi ra khỏi nhà, cô đeo chùm chìa khoá vào cổ chị. Chúng tôi đi chơi, chơi mãi, chơi mãi, chị chơi đến mất cá chìa khóa, không vào được nhà, ngồi ở bậc thềm khóc.
Cô Chương đã từng đưa chúng tôi đi thăm phòng bảo tàng địa chất. Ở đấy, có đủ các loại đá, đủ màu sắc: Màu đen, màu trắng, màu hồng, màu lục, màu lam, màu vàng, màu bạc... màu gì cũng có. Tôi chẳng hiểu sao lại phải đặt nó vào tủ kính. Nó đáng giá gì? Mỗi khi Hội trường Bộ Địa Chất có biểu diễn, chúng tôi đi xem. Tôi được xem Bạch Mao nữ, được xem Náo Thiên Cung, lại được xem cả Mã Lan hoa. Con thỏ trắng trong Mã Lan hoa còn ngoan hơn con Tiểu Hoa bắt trộm cá.
Chúng tôi cũng được đi chơi Bắc Hải, Cố Cung, Di Hòa Viên, vườn thú. Tôi thích đi vườn thú nhất. Tôi khoái con gấu mèo, con khỉ, con voi mũi to. Tôi chỉ không thích con trăn. Cô Chương bảo con trăn toàn ăn thịt thỏ con.
Tôi ghét nó. Tôi cũng rất khoái hươu sao. Cô Chương bảo: "Sau này vào rừng, tôi có thể nhìn thấy những con hươu đẹp hơn".
Chúng tôi còn ăn kem. Ăn kem buốt lắm. Lại còn mua cả bóng bay. Chị với tôi, mỗi người một.
Cô Chương đối với tôi thật tốt.
Cho nên tôi không muốn đi, không muốn dời khỏi nhà cô Chương. Tôi khóc. Tôi thấy ba tôi, cô Chương, chị đều khóc.
Nhưng không đi không được, mấy năm ấy đói kém to, nhà cô Chương cũng mỗi ngày một túng bấn, các gia đình khác trong khu nhà ấy cũng mỗi ngày một bần cùng.
Trước kia chúng tôi ăn uống ngon lắm. Gạo trắng, bột mỳ, cá, thịt, miến, rau, lại còn cả lạc nữa. Bây giờ chẳng có gì. Toàn húp cháo loãng, ăn dưa muối, màn thầu (bánh mỳ hấp), lại còn cả bánh đúc ngô trộn cám.
Ba cứ một mực cảm ơn cô Chương, nói:
— Đêu là khó khăn cả. Tôi không thể chất thêm gánh nặng cho các bạn. Thôi cứ để cháu đi với tôi.
Như vậy là ba mang tôi đi.
Tôi chẳng hiểu thế nào là "gánh nặng"! Tôi nặng gì?
Ba đưa tôi dến thảo nguyên.
Chúng tôi ngồi xe lửa, ngồi ô tô. Đi xa lắm, xa lắm. Chúng tôi không được rửa mặt, người ngơm đầy bụi đất, ăn lương khô, uống nước trong bi-đông sắt tây. Tôi mệt lắm. Ô tô dừng lại một cái là tôi lăn ra ngủ.
Cuối cùng chúng tôi cũng tới được thảo nguyên. Ôi! Thảo nguyên, rộng vô cùng, rộng lắm.
Mọi người đều ở trong lều bạt. Những người ở đây gọi là đội thăm dò, có rất nhiều cô chú, cũng có cả mấy bạn nhỏ như tôi. Chúng tôi gặp nhau một cái là quen ngay.
Có một số cô chú làm việc trong lều. Các cô chú ấy suốt ngày viết viết, vẽ vẽ, lại còn lấy tay quay quay những chiếc máy tính gì đó. Ba với các cô chú ấy đều là chỗ quen biết, nhưng ba thì "lao động", ba đi cùng với công nhân, trên lưng đeo những máy đo từ, máy trọng lực gì gì ấy, hàng ngày phải đi rất xa.
Có khi ba phải đi nhiều ngày, mang cả tôi đi theo. Tôi thích lắm, bởi tôi có thể dong chơi, chơi thỏa thích trên thảo nguyên. Thảo nguyên toàn là cỏ, các kiểu, các loại cỏ; còn có cả hoa, các kiểu loại hoa. Hoa và cỏ đều có hương thơm, tôi thích ngửi hương thơm ấy.
Các bạn có biết trên thảo nguyên có những con vật gì không? Chỉ vài ngày là tôi biết hết.
Trên thảo nguyên có loài chuột đất, nó làm tổ ngầm dưới đất, cái đuôi ngắn ngủn, nhưng lại thích ngồi trên mặt đất. Có thằn lằn, đừng sợ, trông thấy người là nó chạy... Có cáo, có hoẵng, dê, lạc đà hoang, còn có cả nai vàng. Nai vàng chạy nhanh ra trò. Tôi đã trông thấy một con sói đuổi một con nai vàng. Bao nhiêu nai vàng như thế mà không đánh nổi một con sói, thật là kém quá. Tôi còn trông thấy cả hươu, không phải hươu sao. Chúng nó lẩn trong rừng. À! Trên thảo nguyên còn có những quả đồi nhỏ, cũng có cả cây cối. Những cây cối ấy, tôi chẳng biết tên gọi là gì. Có một loại cây có quả nhỏ màu tím, chua chua, ngọt ngọt. Chỗ nào có cây là có nước. Nước lớn gọi là biển. Chúng tôi đã đi qua một cái biển gọi là Ulongsu, có thiên nga rất dẹp. Những người công nhân đều mang súng, nhưng không ai bắn. Bảo thiên nga là do tiên nữ hóa thành, bắn nó phải tội.
Về sau chúng tôi đi rất xa, cuối cùng gặp được đồng bào Mông Cổ, những bác Mông Cổ, người cao, ngực rộng bế tôi, nói:
— Sai in, sai in nao! (Tốt, chào cháu).
Tôi chẳng hiểu gì.
Ở đó tôi ăn sữa khô, sữa đậu, lại uống cả một hớp sữa lên men. Mặt tôi đỏ bừng, nóng rực. Các bác Mông Cồ cười khà khà.
Buổi tối, vầng trăng vừa tròn, vừa đỏ mọc trên thảo nguyên, vầng trăng rất to, to hơn cả cái mâm.
Ba và các bác Mông Cổ rất vui. Họ đốt một đống lửa thật to kéo
đàn đầu ngựa, ca hát. Họ hát bài gọi là Catanâylin. Ba bảo Catanâylin là người anh hùng của nhân dân Mông Cổ. Ba bảo tôi phải noi gương Catanâylin, sau này đi đánh giặc giúp dân, chết cũng không sợ.
Tôi rất yêu thảo nguyên mênh mông. Chẳng bao giờ tôi quên.
Cách vùng đó không xa, các bạn của ba tôi đã tìm thấy một mỏ sắt lớn. Dãy núi ấy màu tím, từ xa đã nhìn thấy. Đỉnh núi có một đống đá, trên cắm nhũng cành cây, ba bảo đó là "aopao" của nguôi Mông Cổ. "Aopao" là cái gì vậy?
Ba bảo cả dãy núi ấy là mỏ sắt, có thể khai thác lộ thiên, đem đi luyện gang, nấu thép, rồi làm ra xe lửa, ô tô, máy kéo. Trời ơi! Quả núi to như thế, khai thác đến mấy trăm năm mới hết được? Tôi lo thay cho người lớn.
Từ trước tới nay, tôi chưa bao giờ thấy ba vui sướng như thế. Ba cùng với công nhân cười đùa, nhảy múa, ôm chầm lấy nhau, rồi vật nhau theo kiểu Mông Cổ. Các bác Mông Cổ cũng tới, các bác cũng vui mừng. Các bác lấy ngựa đi chở về một con cùu nướng, mồm miệng nhờn những mỡ. Lại kéo đàn, lại ca hát. Ba đứng dậy, ngâm một bài thơ, cánh tay múa múa... "Ôi! Tổ quốc ơi! Đất mẹ ơi!" Trông rất nhộn.
Sau đó lại tiếp tục đi, đi tới rìa sa mạc. Toàn là cát, tất cả. Gió thổi: Ào! Tất cả biến thành mù mịt. Những người bạn ba tôi nhào ra khỏi lều, hất cho sạch cát trên mái. Không hất sạch chúng tôi sẽ bị chôn sống. Ôi! Khiếp quá!
Mọi người không dám ở lại đó lâu, vội vội vàng vàng, đi ngay.
Đồ đạc chất hết lên lưng lạc đà. Gió rất mạnh, tưởng đến gãy mũi, tôi phải rúc đầu vào ngực ba. Ba chẳng sợ hãi gì cả. Cùng với tiếng lục lạc tinh tang của lạc đà, ba hát mãi một bài ca:
Ôi cát vàng mênh mang, chẳng thấy bến bờ
Đường di, đi mãi, dài không hết...
Tôi trải mộng ước trên lưng lạc đà,
Vẫn bước những bước chân dẻo dai, mải miết...
Tôi không hiểu hết những ý nghĩa của nó, nhưng tôi cũng thuộc. Tôi nghe hát, tôi ngủ trong ngực ba.
Trong sa mạc không có cây cối, một cũng không. Chỉ có một giống cỏ, từng bụi, từng bụi, lá của nó rất cứng, có thể đâm tay chảy máu, mùa hè, nở ra lớp hoa tím. Nó không sợ sa mạc, nó cứ dần dà vươn dài trong sa mạc, phủ lên cát, mở ra một miền xanh. Tôi hỏi ba:
— Nó là cái gì?
— Nó là ba! — Ba đáp.
— Sao nó lại là ba? — Tôi hỏi.
Ba cười nói:
— Nó không phải là ba, nhưng ba giống nó. Tên nó là cỏ chi chi, rất kiên cường. Nó đi trước mò dường, chinh phục gió cát, đằng sau nó xuất hiện một vùng xanh. Ba là người thăm dò địa chất, tìm quặng ở phía trước, phía sau mọc lên nhũng công trường. Con xem thế, ba có giống cỏ chi chi không? Và cỏ chi chi có phải là ba không?
Tôi cười, ba cũng cười. Từ đó, tôi biết: cỏ chi chi là một giống cỏ có ích nhất, được việc nhất.
Chúng tôi sống trên thảo nguyên được hơn một năm, rồi lại đi. Chúng tôi tới một dãy núi lớn ở tỉnh Tứ Xuyên. Núi lớn lắm, núi cao lắm, tôi chưa trông thấy bao giờ.
Chúng tôi không ở trong lều bạt nữa, mà ở trong một ngôi chùa lớn ở trên lưng chừng núi. Ngôi chùa to lắm, bên trong có một lớp điện thờ, bày rất nhiều tượng Phật. Cửa điện lúc nào cũng khóa. Tôi nhìn qua khe cửa sổ, chính giữa điện có một vị Đại Bồ Tát bằng vàng, nheo nheo mắt cười với tôi, làm tôi sợ hết hồn. Lần sau, cạch, không dám nhìn trộm nữa.
Trong chùa trống tuềnh toàng, có một gia đình ở đó, đó là một nhà sư đã lấy vọ. Mọi người gọi ông là "sư phụ trong chùa", tôi gọi ông là bác sư, gọi vợ ông là cô sư, và gọi hai người con trai ông là anh sư. Bác sư béo tốt, tròn lu lu, lúc nào cũng cười tít mắt, giống như ông Phật Di Lặc ở tiền điện. Sáng ông dậy sớm lặng lẽ tụng kinh, sau đó vác cuốc đi làm, trồng ngô, trồng khoai, lại trồng cả rau nữa. Ông đối với tôi rất tốt. Mỗi khi gặp tôi, ông hay xoa cằm tôi:
— Này con, con khỏe chứ, sao mãi chẳng thấy lớn lên được tý nào? Đây, cho con cái này!
Ông rút từ trong túi áo ra, khi là củ măng tươi, khi là một chùm quà, khi là một vốc đậu rang. Còn có một lần - ôi, tôi sướng điên lên được - ông bố đến cho tôi một chú khỉ con, nó mới lớn bằng con Tiểu Hoa. Tôi nuôi nấng nó, cho nó ăn ngô, ăn quả. Nó chẳng bỏ đi đâu.
Ở đây toàn là núi, xa núi, gần núi, càng xa màu sắc càng nhạt, cuối cùng nó lẫn vào màu mây. Ban ngày, tôi nhìn thấy núi ở xa, ban đêm núi lại ở rất gần. Bóng đen lừng lững, tôi cũng thấy sờ sợ.
Tôi muốn vào rừng, ba không cho. Ba bảo: Trong rừng có mèo rừng, có báo, ăn thịt người. Tôi không dám đi đâu, đành ở nhà, chơi
trong chùa với con trai nhỏ bác sư. Chúng tôi bắt sên, đào giun, rồi lấy que, làm nhà cho chú khỉ, để nó làm xiếc. Chú khỉ rất hư, nó cứ nhe răng ra với tôi, lại còn cãi nhau với tôi nữa. Có lúc tôi thấy nó chẳng ngoan bằng con Tiểu Hoa đâu.
Chúng tôi còn được ăn quýt, quýt do bác sư trồng. Tôi ăn nhiều lắm, nhiều đến phát chán.
Tôi rất thích vùng Tứ Xuyên này, vui lắm.
Ba cũng rất thích. Từ khi đến đây, ba không đo máy đo từ nữa. Ba cũng giống như những người khác, lưng khoác ba lô vải bạt, tay cầm búa, đi "điều tra” khắp núi sâu, bãi bằng. Điều tra là cái gì? Dần dần tôi cũng hiểu, đó là đi chọn nhặt đá, trong ba lô vải bạt đựng đầy
đá, đủ màu, đủ kiểu, giống như tôi đã xem trong bảo tàng địa chất. MỖi ngày, mỗi đêm, họ vẽ địa đồ dưới ánh đèn dầu.
Người ở đây không nhiều, tất cả là mười ba người. Một làm cấp dưỡng. một là đội trưởng, còn lại là nhân viên điều tra. Họ bận lấm, buổi trưa không về ăn cơm. Chỉ chủ nhật, nghỉ nửa ngày, giặt giũ quần áo, vá víu chăn màn. Quần áo giặt ở phía sau chùa, chỗ đó có một lạch nước chảy từ trong khe núi ra, tụ lại thành vũng. Có khi thấy cá bơi trong vũng, động một cái là chúng tụt vào trong khe đá. Cá ở trên núi rất tinh khôn.
Nhưng ba mệt sinh bệnh, ho suốt. Cô sư tốt bụng, lo lắng sắc thuốc cho ba. Loại thuốc lá mọc trong rừng.
Bệnh của ba không bớt, người gày, mặt vàng. Tôi thấy các cô các chú khuyên ba nghỉ ở nhà vài ba hôm. Khi đó ba đang đọc báo, ba chỉ vào tờ báo cười nói:
— Bây giờ mọi người đang học cách lột xác, một người như tôi lại càng cần phải học.
Thế là ba vẫn đi làm, leo núi, chọn nhặt đá, buổi tối về nhà vẽ bản
đồ.
Chúng tôi ở trong núi hơn một năm, bỗng nhiên có tổ kiểm tra tới. Người đứng đàu tổ kiểm tra ấy là cán bộ cốp, thường thích dạy đời. Tôi không ưa lão.
Lão triệu tập các đội viên vào nhà họp. Tòi nghe trộm ở ngoài. Lão nói với mọi người:
— Các anh làm ăn ra sao hử? Có cái bản đồ địa chất 1/5000 đến bây giờ vẫn chưa xong. Các anh định kéo đến bao giờ?
Đội trưởng điều tra trả lời:
— Núi ở đây cao chót vót, rất khó trèo, so với dự kiến ban đầu thì khó khăn hơn nhiều.
Lão nói:
— Bây giờ có nhiệm vụ mới. Nếu thấy khó khăn thì các anh giải tán đi.
Đội trưởng đáp:
— Tốt nhất là không nên giải tán. Trong vòng non ba tháng nữa, chúng tôi nhất định sê hoàn thành.
— Được! — Lão cầm đầu tổ kiểm tra nói — Cho các anh một kỳ hạn ba tháng nữa, nhất định phải hoàn thành nhiệm vụ...
Đội trưởng hứa:
— Xin bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ. Chúng tôi sẽ lập công dưới cờ!
Như thế là đội điều tra địa chất còn lưu lại ở đây. Tôi thấy đội trưởng là người rất cừ. Như người lính, không hoàn thành nhiệm vụ không xong.
Việc đó coi như yên. Lão cầm đầu tổ kiểm tra nói:
— Thượng cấp cần rút một người ở đây, chi viện cho vùng Đại Tây Bắc. Các anh, ai tự nguyện xung phong?
Mọi người ngẩn cả ra, nhưng ba lại giơ tay:
— Tôi xung phong, tôi xin đi chi viện cho vùng Đại Tây Bắc! Đội trưởng hỏi ba:
— Sức khỏe của anh gần đây suy sụp như thế, liệu có đi nổi không?
Tôi thấy ba mỉm cười nói:
— Chẳng sao đâu. Tôi nghĩ chỉ có tôi đi là hợp lẽ.
Họp xong lão cầm đầu tổ kiểm tra bảo ba:
— Tốt tắm, anh vừa được xóa tội, cần phải có những biểu hiện tích cục. Anh chuẩn bị hành trang mai đi!
Thế là buổi tối ba thu xếp hành lý. Các cô các chú đều đến gặp, ba bảo tôi:
— Con đem con khỉ đi trả bác sư đi. Mai ta phải đi rồi. Tôi khóc, nói:
— Con không đi, các cô các chú chẳng ai phải đi cả, sao ba lại phải đi một mình?
Ba đáp:
— Ngoan nghe con! Ba đi làm cây cỏ chi chi. Con đã chẳng bảo rằng cỏ chi chi là có ích nhất, được việc nhất là gì?
Thế là tôi đành vậy. Sáng hôm sau chúng tôi đi. Các cô các chú, cả bác sư, lại có cả anh sư con đưa chúng tôi xuống tận ngã ba dưới núi. Bác sư nói:
— Này con, mai này con sẽ lại đến đây nhé.
Tôi cúi gằm, khóc. Tôi nghĩ: Tôi chẳng phải là nhân viên điều tra, làm sao tôi có thể trở lại dây?
Ôi! Bác sư của tôi! Anh sư của tôi! Chú khỉ bé bỏng của tôi! Con sên và những con giun...
Lại đi không biết bao nhiêu ngày, chúng tôi mới tới được Tân Cương. Trước tôi cứ tưởng thảo nguyên là to lớn nhất, bây giờ mới biết Tân Cương còn lớn hơn nhiều, hơn nhiều.
Chúng tôi đi qua các vùng các kiểu đất: Núi cao, vực sâu, đầm lầy, thung lũng, lại còn cả sa mạc, sa mạc Gobi. Bên rìa sa mạc, chúng tôi lại gặp cỏ chi chi.
Ôi! Cỏ chi chi mở lối cho người ở khắp nơi. Cỏ chi chi sao mà lợi hại thế.
Trên đường, chúng tôi đi ô tô. Vào sa mạc đi lạc đà. Ba lại bế tôi trên lưng lạc dà, hát bài hát quen thuộc.
Tôi trải mộng ước trên lưng lạc đà,
Vẫn bước những bước chân dẻo dai, mải miết...
Bây giờ tôi đã hiểu bài hát này. Trên lưng lạc đà là nơi thích hợp nhất cho những giấc mơ, cho nên tôi ngủ ở trên đó. Ngủ mãi, ngủ mãi, ngủ mê mệt.
Sau đó tôi lại đi ô tô, đi mãi, đi mãi cuối cùng chúng tôi tới được nơi cần tới. Ôi! Ở đây thích thật. Núi phía xa, đội mũ tuyết, núi ở gần, mọc đầy những cây thông thấp, xanh thẫm một màu. Thảm cỏ trên sườn núi mượt như nhung, nở dày những bông hoa vàng, hoa
đỏ. Đàn cừu chạy trên sườn núi giống như dòng suối chảy. Tôi thấy bầu trời nơi đây xanh hơn bất cứ nơi nào.
Người ở đây mặc quần áo thật đẹp. Trên đầu phụ nữ cài rất nhiều hạt ngọc. Ba bảo họ là người Kazac, người anh em tốt với người Hán.
Ở đây lại có một đội thăm dò. Mọi người ở trong những ngôi nhà gỗ làm bằng gỗ thông, vừa rộng rãi, vừa sạch sẽ, hơn hẳn nhà cô Chương ở Bắc Kinh.
Thật chẳng ngờ tôi gặp cả gia đình cô Chương ở đây. Việc đó ba cũng lấy làm lạ. Bác Chương nói với ba:
— Bọn tôi bị cắm cờ trắng, nên bị bắt về đây.
Tôi không hiểu nên hỏi bác:
— Ở dây toàn cờ đỏ, cháu có thấy cờ trắng đâu ạ?
Tôi làm tất cả người lớn bật cười khanh khách.
Đội thăm dò này rất lớn, dựa trên mấy dãy nhà ở, nhà làm việc, nhà ăn, nhà bếp, lại còn có cả một trường tiểu học nữa. Mùa thu, khai trường. Tôi vào học lớp một, chị học lớp hai. Học trò có hơn hai chục đứa, có cao, có thấp, chia làm năm lớp. Chỉ loáng cái, tôi đã quen tất cả.
Trường tôi chỉ có một hiệu trưởng, một giáo viên, khi giáo viên thiếu thì rút các cô chú bên đội thăm dò sang dạy. Cô Chương cũng đã đến đây dạy chúng tôi. Cách dạy của cô hay lắm. Cô đưa chúng
tôi ra ngoài lớp, chỉ trời xanh trên đầu, rồi dạy "trời", chỉ mây trắng trên đầu, rồi dậy "mây". Chúng tôi rất vui, chỉ cần tôi chịu khó một tý là đuổi kịp chị.
Chúng tôi khoái nhất là nhũng ngày nghỉ hè. Nghỉ một cái là thầy giáo đưa chúng tôi vào núi. Chúng tôi cắm trại trong rừng Vân Sam,
hái nấm, bắt bướm. Có khi các bác Kazac chuyển trại chăn nuôi về đây, chúng tôi vào các căn lều thảm của các bác "làm khách". Các chị lớn Kazac mặc những bộ áo liền váy bằng vải kẻ sọc, những chiếc áo gilet nhung kim tuyến, và đội những chiếc mũ thêu hoa trông rất xinh. Các anh Kazac đánh trống, kéo đàn, hát rất nhiều bài hát. Các anh hát về các núi tuyết, các sông băng, về những đàn cừu trắng, còn hát cả về những con ngựa Hải Lưu sắc hồng. Chúng tôi nghe say đến chết mê chết mệt. Chẳng hiểu sao, các cô, các chú Kazac rất mến tôi. Họ bảo mắt tôi vừa đen vừa sáng như nước sông Khalkh. Họ bảo tôi giống người Hán lại giống cả người Kazac. Có lần tôi bị ốm, họ bế tôi về lều thảm nằm nghỉ. Một chị Kazac nhân lúc tôi mơ màng đã đến hôn tôi. Tôi biết hết, người tôi nóng bừng bừng...
Tôi yêu mến biết bao những ngày tháng từ lớp ba về trước. Tiếc thay những ngày tháng như thế không dài.
Những ngày tôi sắp bước vào lớp bốn thì nổ ra cuộc "Đại cách mạng văn hoá".
Tôi thấy mọi thú đều đảo lộn hết cả. Các cô các chú không ra ngoài làm việc nữa. Tất cả ở nhà hội họp, hô khẩu hiệu, căng biểu ngữ, dán báo chữ to. Một tổ công tác tới đó, bị đả kích, rồi thành lập một đoàn "tạo phản", chống lẫn nhau. Trường tiểu học chúng tôi đành đóng cửa. Nhiều bạn tôi nhân đó vào rừng, hái nấm, bắt chim đùa nghịch thoải mái.
Tôi không đi, tôi nhìn thấy mấy tờ biểu ngữ lớn "bêu" tên ba. Ba cũng bị đấu tố với những người "đi theo đường lối tư sản", mấy lần ngồi "phản lực". Sau mấy tháng, hai người giải phóng quân áp giải ba đến công trường Công Cai để "lao động cải tạo".
Tôi khóc thảm thiết, đòi đi "lao động cải tạo" với ba.
Ba cau mày bảo tôi:
— Đừng khóc, nơi ba đến cấm mang trẻ con đi theo. Trên lãnh đạo đã sắp xếp rồi. Con ở lại với cô Chương. Con phải biết vâng lời cô. Ba sẽ về luôn.
Ba ngồi xe camion ra đi, đến công trường Công Cai trồng rừng, đốn củi. Cứ già nửa tháng ba lại đưa một xe củi về. Tôi thấy ba đen nhẻm, râu ria tua tủa, mặc chiếc áo vải xanh, vá chằng vá đụp. Nhưng ba có vẻ phấn chấn, lần nào gặp tôi ba cũng dặn dò:
— Con không phải lo cho ba, ở đó rất tốt, ba chẳng muốn trở lại đây làm gì. Con nhớ phải nghe lời cô Chương. Nếu như trường học ở đây không dạy tiếp, chưa biết chừng ba sẽ đón con lên đó.
Sang đông, hai ba tháng liền ba không về. Tôi lo lắng hỏi chú Giải phóng quân chở củi đến:
— Sao ba cháu không chở củi về?
Chú Giải phóng quân nói:
— Ba cháu không thích về. Ba cháu bận lắm. Đốn xong củi là đi khắp nơi chọn quặng, vẽ bản đồ. Ba cháu bảo, khi nào núi bị tuyết phủ kín, sẽ về thăm cháu.
Ba chỉ nhắn cho tôi có thế, nhưng lại gửi cho cô Chương, bác Chương những bức thư rất dày. Bác Chương, cô Chương đọc xong, cuống quýt xoa tay nói:
— Trời đất ơi! Sao mà cứ túm tụm lại ở đấy mà mù quáng đấm đá nhau mãi thế này. Tốt nhất là hãy đi vào lâm trường Công Cai đi.
Đúng vậy. Lúc ấy mấy người ở đoàn tạo phản đấu đá càng hăng. Đến cả bộ phận nhà bếp cũng chia làm hai phe. Chúng tôi ăn uống chẳng còn ra làm sao nữa, toàn những màn thầu khô, hoặc khoai muối với canh củ cải. Cái món khoai muối thật khốn nạn, nuốt vào
cứ mắc cứng lấy cổ họng.
Nhũng người Kazac không đến đây để trú đông nữa. Tôi không bao giờ còn được nghe tiếng trống tiếng kèn năm trước.
Khi đó tôi nhớ ba lắm, nhớ lắm.
Ba đã chẳng bảo khi nào núi bị tuyết phủ thì ba trở về là gì? Tôi mong trời có tuyết. Tôi bấm đốt ngón tay, tính từng ngày.
Lễ Quốc Khánh đã qua, ở đây tuyết đã rơi. Tôi mừng vô cùng. Suốt ngày tôi đứng trước cổng trại, vọng nhìn vào nẻo đường núi. Tôi mong chờ từ con đường ấy xuất hiện một điểm đen ngày càng gần, càng gần. Đó là xe ô tô chở củi của ba.
Có một buổi chiều, tôi nhìn thấy một điểm đen ở đầu con đường núi. Điếm đen ấy lớn dần, lớn dần, rồi vụt dến trước mắt tôi. Đó không phải là xe chở củi. Chiếc xe trống không. Người trên xe không phải là ba, chỉ là chú Giải phóng quân chở củi hôm trước...
— Ba cháu đâu? — Tôi hét lên hỏi.
Chú Giải phóng quân trả lời tôi, chú bế tôi lên cabin, cho xe chạy thẳng tới cửa nhà cô Chương. Chú ôm chặt tôi nói:
— Cháu ơi, cháu đừng khóc. Có chuyện với ba cháu rồi...
Bác Chương và cô Chương chạy ra, mọi người khiêng ba từ thùng xe xuống. Ba được bọc trong hai tấm khăn trải giường, người đầy máu me, đã cứng lại. Bác Chương cởi áo bông cho ba, làm hô hấp nhân tạo mãi mà chẳng ăn thua gì. Bỗng nhiên cô Chương gào lên khóc.
Chú Giải phỏng quân nói:
— Một mình anh ấy trèo lên mỏm núi chọn đá. Trượt chân, ngã lộn từ trên mỏm núi xuống...
Mắt tôi tối sầm lại, chẳng còn biết gì thêm nữa. Khi tỉnh lại trên giường cô Chương, cô ôm tôi nhỏ nhẹ vỗ về.
Tôi gào lèn hỏi cô Chương:
— Ba đâu? Ba đâu?
Ba được chôn bên bìa rừng Vân Sam. Không quan tài. Không bia mộ. Một nắm đất con con, bốn xung quanh là một màu vàng của hoa dại mùa đông đang nở rộ.
Tôi gục xuống nấm mộ khóc ròng, giống như một con hươu non giãy giụa. Tôi không làm sao bới được nấm mộ lên để có thể nhìn thấy mặt ba một lần nữa.
Bác Chương bế tôi lên, ứa nước mắt nói:
— Con ơi! Con nín dí. Kể từ hôm nay các bác đón nhận con, nuôi dưỡng con. Cho đến khi khôn lớn thành người.
Tối, bác bế tôi lên giường bác, nói nhỏ với tôi:
— Con ơi. Con không đọc sách của Mao Chủ tịch sao: "Chết vì lợi ích của nhân dân thì cái chết đó nặng hơn núi Thái Sơn." Ba con tuy đã chết rồi, nhưng ba con đã tìm ra cho nhân dân một núi quặng. Cái chết của ba còn nặng hơn núi Thái Sơn.
Nói rồi, bác lấy một phong thư, vung vẩy trước mặt tôi, đấy là thư của ba gửi cho bác và cô Chương. Lúc ấy bác không cho tôi đọc, nhưng về sau này tôi đã được xem.
"Mình vô cùng cám ơn cuộc sống "lao cải" ở lâm trường Công Cai này. Không có ai ngờ rằng, điều đó đã mở ra cho mình một cơ hội điều tra địa chất. Bây giờ mình xin báo cho các bạn biết một tin động trời. Mình đã phát hiện ra một vỉa S lộ thiên ở khắp các ngọn núi... Thật tuyệt vời, chỉ bằng nhũng vỉa lộ thiên này, mình đã tính được trữ lượng của nó, thuộc cấp C, không dưới 7 con số. Mình đã