Đời Sống Của Các Loài Chim

Đời Sống Của Các Loài Chim

Tác giả:
Thể Loại: Khoa Học - Kỹ Thuật
Nguồn: https://thuviensach.vn
PDFĐỌC ONLINE

Sinh ra và lớn lên ở Yên Hồ (Đức Thọ, Hà Tĩnh, được trời phú cho một nghị lực, trí thông minh và lòng kiên trì hiếm có, tới tuổi 77, ông đã đặt chân lên hầu hết mọi miền rừng núi của Tổ quốc. Khi tiếp xúc với ông, bao giờ người đối thoại cũng cảm nhận được từ con người có đôi mắt sáng biết nói ấy một phong thái giản dị, dễ tiếp xúc, dễ trao đổi và dễ tìm được tiếng nói chung. Bạn bè, đồng nghiệp thường gọi ông là “nhà giáo”, “nhà sinh học”, “nhà điểu học”, “người bạn của thiên nhiên”. Ông chính là GS. Võ Quý. Sinh năm 1929, thuở nhỏ ông đã có duyên với thiên nhiên, thích quan sát, khám phá, tìm tòi những bí ẩn ở xung quanh. … Ông đến với nghề sư phạm như một định mệnh. Ông kể: “Lúc đầu tôi thích ngành Y lắm. Ba lần toan từ bỏ nghề “gõ đầu trẻ” nhưng không thành. Cực chẳng đã, nghĩ mình không thể thoát khỏi nghề “gõ đầu trẻ” thì phải làm thật tốt. Rồi mình trở nên yêu nghề thật sự. Thế mà lại hay.” Tại Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và nay là Đại học Quốc gia Hà Nội, ông đã đảm nhiệm nhiều cương vị công tác khác nhau: giảng viên, Trưởng phòng Đào tạo (1975 – 1980, Chủ nhiệm Khoa Sinh học (1980 – 1990. Ông còn tham gia giảng dạy tại các trường đại học khác như: Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Nông nghiệp Hà Nội, Đại học Sư phạm Vinh… Ngoài ra, ông đã được mời giảng bài tại Đại học Wisconsin, Đại học Berkley (Hoa Kỳ, Đại học Oxford (Anh… Từ năm 1985, ông sáng lập ra Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường trực thuộc Trường ĐHTHHN (nay là Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường trực thuộc ĐHQGHN- trung tâm đầu tiên của Việt Nam nghiên cứu và đào tạo về môi trường. Ông giữ chức vụ Giám đốc trung tâm trong 10 năm liền (1985 – 1995và từ 1995 tới nay là Chủ tịch danh dự của Trung tâm. Trải qua 20 năm xây dựng và phát triển, cùng với sự góp sức tích cực của ông, hiện nay Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường là một trung tâm mạnh, có đội ngũ cán bộ trẻ được đào tạo bài bản, có cộng tác viên ở hầu khắp các tỉnh và có quan hệ hợp tác với nhiều nước và nhiều tổ chức quốc tế. … Gần 50 năm đứng trên bục giảng về chuyên ngành Sinh học, từng là Chủ nhiệm Khoa Sinh học của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, GS. Võ Quý đã đào tạo nhiều thế hệ cán bộ nghiên cứu và giảng dạy sinh học cho đất nước. GS. Võ Quý có thể ngồi lặng hàng giờ để ghi lại tiếng chim Vốn là người yêu thiên nhiên, ham thích nuôi chim từ thuở thiếu thời, GS. Võ Quý đã sớm định hướng cho mình theo đuổi nghiên cứu chuyên ngành Điểu loại học ngay từ khi bắt đầu giảng dạy tại Khoa Sinh học, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (1956. Khi đã là một nhà sinh vật học, ông có dịp đi đây đi đó, từ Bắc chí Nam, từ miền núi đến vùng biển, được mắt thấy, tai nghe những cái hay, cái đẹp của tự nhiên, của đất nước và cả những cái chưa được. Qua nhiều dịp ra nước ngoài, ông nhận thấy điều mà các nước trên thế giới quan tâm nhất là môi trường và ông nghĩ: “Phải làm gì để không chỉ gìn giữ mà còn phát huy những điều kiện tốt đẹp của môi trường, đem lại nguồn lợi cho đất nước mình”. Và từ đó, nhiều người đã biết đến ông với vai trò của một nhà nghiên cứu, một người có nhiều tâm huyết với vấn đề bảo vệ môi trường, một nhà điểu học – nhà nghiên cứu về chim hàng đầu của Việt Nam. Ông đã có công phát hiện ra một loài Trĩ mới cho khoa học ở vùng Kẻ Gỗ (huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. GS. Võ Quý phát hiện ra con Trĩ lam Hà Tĩnh khi ông mới ngoài 30 tuổi, nhưng lúc ấy nghiên cứu của ông chưa được các nhà khoa học thế giới công nhận ngay. Ông đã kiên trì nghiên cứu và tìm tài liệu chứng minh con Trĩ lam Hà Tĩnh mà dân địa phương quen gọi là “Gà lừng” là một loài Trĩ mới. Thấm thoắt 20 năm trôi qua, sau nhiều lần kiểm chứng, Hội đồng Quốc tế Bảo vệ chim (ICBPđã công nhận nghiên cứu của ông là đúng và đặt tên cho loài chim này là “Vo Quy Pheasant” (Trĩ Võ Quýđể ghi nhớ công lao của người đã phát hiện và mô tả chính xác một loài Trĩ mới quý hiếm. Đời một người làm khoa học, hạnh phúc nhất là những công trình, niềm say mê của mình được ghi nhận. Ông cũng vậy. GS. Võ Quý đã cùng các đồng nghiệp, học trò “kiểm kê” tỉ mỉ, kỹ càng hơn 1.000 loài và phân loài chim ở nước ta. Ông đã là tác giả của 14 cuốn sách, tiêu biểu như: “Chim Việt Nam” (tập 1, 2, “Cuộc sống các loài chim”, “Danh mục các loài chim Việt Nam”…; là dịch giả chính của 3 cuốn sách về môi trường đồng thời cũng là tác giả của hơn 100 công trình khoa học đã công bố trong nước và nước ngoài. Sự gắn bó của GS. Võ Quý với thiên nhiên thể hiện ngay trong không gian sống gần gũi nhất của ông là nhà riêng và phòng làm việc với những bức tranh ảnh về các loài chim quý. Điều này khiến tôi chợt liên tưởng tới ông tiên trong truyện cổ tích. Tôi thắc mắc: “Tại sao giáo sư không nghiên cứu một loài khác, giống khác mà chỉ tập trung nghiên cứu về loài chim?”. Ông cười và bảo: “Cũng có nhiều người thắc mắc như cô đấy!… Tôi có thói quen quan sát chim từ lúc 5 – 6 tuổi nên tôi biết tất cả những loài chim của quê mình. Biết thói quen của từng loài như thức dậy lúc mấy giờ, bay về tổ lúc nào, ăn quả cây gì, sinh sản ra sao… Khi lên đại học, tôi quyết định đi theo con đường làm khoa học và các loài chim trở thành đối tượng nghiên cứu của tôi”. Đến nay, GS. Võ Quý đã thực hiện nhiều dự án nghiên cứu về chim, về các loài động vật quý hiếm, về bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường và về hậu quả của chất độc hoá học mà quân đội Mỹ đã dùng trong chiến tranh đối với môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Ông là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế như Hội đồng Vườn quốc gia và Khu bảo tồn quốc tế (WCPA/IUCN, Hội đồng quốc tế về Bảo vệ các loài nguy cấp (SSC/IUCN. Ở trong nước, ông là người đứng đầu hoặc là người sáng lập và thành viên tích cực của nhiều tổ chức như Tổng Hội Các nhà sinh học Việt Nam, Hội bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam, Hội Sinh thái học Việt Nam, Hội Nạn nhân chất độc Da cam/Dioxin Việt Nam… … GS. Võ Quý là đồng sáng lập và Phó chủ nhiệm, rồi Chủ nhiệm hai Chương trình quốc gia về môi trường từ năm 1981 đến năm 1990. Ông đã có những đóng góp quan trọng trong việc đề xuất các chính sách phát triển bền vững. Ông cũng là người biên tập và là đồng tác giả của bản thảo đầu tiên về Chiến lược bảo vệ môi trường và Luật bảo về môi trường. … Khó có thể kể hết những huân chương, huy chương, bằng khen cao quý tới những phần thưởng mà các tổ chức trong nước và quốc tế đã trao tặng cho GS. Võ Quý, từ Huân chương Kháng chiến hạng Ba, Huân chương Lao động hạng Ba, danh hiệu Nhà giáo ưu tú tới Huy chương vàng của Ngân quỹ Quốc tế Bảo vệ thiên nhiên (WWF, Bằng danh dự Global 500 của Liên hiệp quốc, Huy chương John Philipps – phần thưởng cao quý nhất của Hiệp Hội quốc tế Bảo vệ tự nhiên (IUCN… Ông đã dồn cả tâm huyết, công sức và cả tiền của để góp sức vào bảo vệ tài nguyên môi trường, xoá đói giảm nghèo cho nông dân. Ông đã tặng toàn bộ phần thưởng trị giá 150.000 USD giải Pew Scholars do Đại học Michigan (Hoa Kỳtrao để nghiên cứu bảo vệ tài nguyên thiên nhiên ở Hà Tĩnh. … Năm 2003, GS. Võ Quý vinh dự là nhà khoa học Việt Nam đầu tiên và là người châu Á thứ hai được nhận Giải thưởng Hành tinh xanh, giải thưởng quốc tế tương đương giải Nobel về môi trường, do Ashahi Glass Foundation trao tặng. Làm phim cũng là một niềm yêu thích thời trẻ của ông nhưng đầy tình cờ. … Chuyến đi khảo sát nào cũng thế, ông say sưa quay phim, chụp hình rồi lại cặm cụi ghi chép lại những điều đã mắt thấy, tai nghe. … với sự cộng tác của anh bạn họa sĩ, anh bạn làm nhạc và vợ ông, bà Lê Thanh, viết lời bình, bộ phim “Côn Đảo, viên ngọc quý của Tổ quốc ta” đã ra đời. … Sau này, GS. Võ Quý còn làm cố vấn khoa học cho hãng phim ACACIA (Anhvề bộ phim “Việt Nam sau khói lửa chiến tranh” đoạt giải nhì Liên hoan phim Canada (1989, giải phim truyền hình thời sự hay nhất tại New York (1990; với hãng BBC (Anhvề bộ phim “Việt Nam một đất nước, không phải chiến tranh”. … Ở Việt Nam, nhiều người đã quen mặt và rất có cảm tình với người dẫn chương trình trên chuyên mục “Đến với thiên nhiên”, KCT (VTV2- GS. Võ Quý. Hơn 200 chương trình phát sóng ông tham gia thì mỗi chương trình là một ý tưởng, một cách nói vui nhưng dễ phổ biến, dễ hiểu mà lại rất khoa học. … Ông còn dành nhiều tâm sức để nghiên cứu về đa dạng sinh học, các loài có nguy cơ tuyệt chủng, thiết lập và quản lý các khu bảo tồn, giúp đỡ các cộng đồng địa phương trong việc sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên để phát triển bền vững. Ông đi sâu vào tìm hiểu mối quan hệ giữa người dân, nhất là dân nghèo, với tài nguyên thiên nhiên để tìm ra những biện pháp hữu hiệu góp phần xoá đói, giảm nghèo, giúp đỡ người dân ở các vùng đệm của các khu bảo tồn phát triển kinh tế, nâng cao cuộc sống, không phá rừng mà còn tích cực bảo vệ rừng và đưa ra quan điểm “bảo vệ rừng có sự tham gia của cộng đồng”.