Xin bạn đọc lưu ý, Nhà xuất bản Tri thức trân trọng giới thiệu cuốn sách Độc giác (Unicornis, Nxb Medio, Budapest, 2006) của Hamvas Béla, do dịch giả Nguyễn Hồng Nhung dịch một cách đầy đủ và mạch lạc.
Chúng tôi tôn trọng, nhưng không nhất thiết đồng tình với quan điểm, cách tiếp cận và lí giải riêng của tác giả về các vấn đề được đề cập đến trong cuốn sách.
Chúng tôi mong độc giả đọc cuốn sách này như một tài liệu tham khảo với tinh thần phê phán và khai phóng.
Xin chân thành cảm ơn!
Hamvas Béla sinh ngày 23.03.1897 tại Eperjes (nay thuộc Slovakia) trong một gia đình có người cha là mục sư truyền giáo. Năm 1898 vì nghề nghiệp của cha, gia đình ông chuyển đến Bratislava.
Năm 1915, sau khi tốt nghiệp trung học, Hamvas Béla tình nguyện gia nhập quân đội, sau một năm, bị thương, ông trở về nhà và bắt đầu đọc Kant, Rimbaud, Dostojevski, Schopenhauert, nhưng trước hết ông đọc Nietzsche.
Thời kì này ông viết trong tập tiểu luận Patmosz như sau:
“…Tác phẩm Phê phán thời gian của Kierkegaard rơi vào tay tôi. Không xã hội, không nhà nước, không thi ca, không tư tưởng, không tôn giáo, những gì hư hỏng và đầy rẫy dối trá. Đúng vậy, tôi nghĩ. Nhưng điều này cần phải bắt đầu từ một khi nào đấy. Tôi bắt đầu đi tìm chấm đen này. Hạt nguyên tử, hay sự dối trá đầu tiên…
Tôi quay trở lại từ giữa thế kỉ trước đến Cách mạng Pháp, đến thời kì Ánh sáng, đến chủ nghĩa duy lí, từ thời Trung cổ đến những người Hi Lạp, đến những người Heber, Ai Cập, đến người mông muội. Sự khủng hoảng đâu đâu tôi cũng bắt gặp, nhưng sự khủng hoảng còn nói lên một cái gì đó sâu sắc hơn. Chấm đen này còn ở phía trước, phía trước nữa. Tôi đã vấp phải lỗi lầm đặc thù của người châu Âu, đi tìm chấm đen bên ngoài con người mình, thực ra nó nằm trong bản thân tôi…
Năm 1919, cha ông vì từ chối không tuyên thệ trung thành với nước Slovakia nên cả gia đình bị đuổi khỏi Bratislava và chuyển đến Budapest.
Từ 1919-1923 ông học khoa Hung-Đức tại Đại học Pázmány Péter, và có 3 năm làm nhà báo tại báo Tin tức Budapest và Szózat.
Từ 1927-1948, ông làm thủ thư tại thư viện thành phố. Thời gian này ông viết các bài nghiên cứu, tiểu luận, phê bình cho 25 thể loại tạp chí, trong đó có những tạp chí nổi tiếng như Athenaeum, Nyugat.
Hamvas Béla cùng Kerényi Károly thành lập nhóm Đảo, một liên minh tinh thần lấy từ truyền thống Hi Lạp cổ. Nhóm này đã tụ hợp rất đông đảo các nhà văn, nhà triết học có tên tuổi của Hung như: Szerb Antal, Németh László, Kövendi Dénes, Dobrovits Aladár, Molnár Antal và nhiều người khác.
Năm 1935-1936, nhóm Đảo cho ra đời 3 ấn phẩm gồm các bài viết của các tác giả, rồi tan rã. Hamvas Béla đã ghi lại những kinh nghiệm cay đắng trong cuốn Hyperion Hungary:
“Tôi ở đây giữa mọi người, trên trái đất này, mọi ý định của tôi đều không có kết quả, mọi từ ngữ của tôi vô ích, moi kế hoach của tôi tan vỡ, tôi đã thất bại, không ai nhận ra tôi, tôi trở nên thừa thãi, và không được chấp nhận”.
Trong những năm 1930-1940 ông viết gần ba trăm tiểu luận. Đối với ông viết là thực hành yoga.
Ông lấy người vợ thứ hai, một bạn đời tinh thần rất quan trọng, bà Kemény Katalin (1909- 2004), người sau khi Hamvas Béla mất, đã cùng Dúl Antal, một đại diện của hậu thế rất ngưỡng mộ ông, cùng chăm lo việc xuất bản các tác phẩm của ông.
Trong thời kì Thế chiến II, Hamvas Béla ba lần bị gọi vào quân ngũ, nhưng không ngăn cản đươc công việc dịch thuật của ông, như tác phẩm của các tác giả: Lão Tử, Böhme, Hêraclit, Khong Tử, Henoch.
Năm 1943-1944 ông viết tập I tác phẩm Scientia Sacra (Minh triết thiêng liêng), cuốn sách đánh dấu giai đoạn sáng tác thứ hai của nhà văn. Với cuốn sách này, ông gia nhập trường phái truyền thống với những nhân vật ưu tú nhất của thời đại: Julius Evola, René Guénon và Leopold Ziegler.
Hamvas Béla cắt nghĩa: Truyền thống là sự trường tồn phi thời gian của tinh thần. Các tác phẩm của Hamvas – đầu tiên và độc nhất – lập ra một vũ trụ truyền thống, bằng sự tạo dựng nền tảng linh hồn nhận thức ra tinh thần.
Trong thời kì chiến tranh, tập tiểu luận triết học đầu tiên ra đời: Câu chuyên vô hình (1943).
Ngay thời đó ông đã bắt đầu một công trình lớn có nhan đề: Đại sảnh các vị tiền bối cổ, kéo dài đến tận những năm 60 của thế kỉ trước. Tác phẩm của ông là một công trình dịch thuật những cuốn sách cổ thiêng liêng quan trọng nhất, có chú thích cẩn thận.
Năm 1944, từ mặt trận nước Đức, ông trốn về Budapest. Căn nhà trên sườn núi Buda của ông bị trúng bom tan thành tro bụi.
Hamvas Béla trong một tiểu luận của tập Slentium đã viết như sau: “Trong những năm đen tối tôi đã bị mất tất cả của cải vật chất trên thế gian của mình… Một kẻ nào đấy đã tước toàn bộ quyền sở hữu của tôi. Da tôi cũng tuột theo, nhưng thế là tốt… Một sự tồn tại kiểu này chỉ có thể thực hiện sau khi thanh toán toàn bộ quyền sờ hữu. Hiện thực bắt đầu từ đây”.
Từ đó trở đi Hamvas Béla không bao giờ có nhà riêng và ông không bao giờ tích góp sách vở nữa.
Sau chiến tranh Hamvas Béla viết cuốn Những nghiên cứu nhỏ của nhà in Đại học gồm ba mươi bài, ông bắt tay vào viết 100 cuốn sách và bắt đầu thu thập tài liệu để soạn dịch tuyển tập Năm nghìn năm minh triết.
Ông tham gia hoạt động trong Hội Triết học và Mĩ học.
Từ 1945-1948 Hamvas Béla cùng Szabó Lajos và Tábor Béla thành lập một nhóm trí thức cấp tiến, được gọi là “Những buổi trao đổi thứ năm hàng tuần”, với mục đích phanh phui, phân tích và đánh giá toàn bộ các tình huống về tinh thần cùa thời đại, với sự tham gia của nhiều nhà văn có tên tuổi khác như Várkonyi Nándor, Weöres Sándor.
Nhưng đến năm 1948, trong những văn bản tranh luận, một nhà triết học Hungary khác, lúc bấy giờ nghiêng về triết học maxit – Lukács György (đồng thời là Bộ trưởng Bộ Văn hóa của Hungary dưới chế độ cộng sản) đã góp phần đình chỉ việc ấn hành cuốn sách Cách mạng trong nghệ thuật của Hamvas Béla viết chung với vợ – Kemény Katalin.
Bắt đầu từ đây Hamvas Béla bị tước tất cả các quyền biên tập, viết và xuất bản tác phẩm. Cũng năm 1948 ông bị buộc phải thôi việc, và tên ông bị liệt vào danh sách B – những người bị chính quyền theo dõi gắt gao.
Hamvas Béla buộc phải xin một giấy chứng nhận làm nghề nông, với nơi làm việc là vườn cây của anh rể. Từ 1948-1951 ông làm vườn, trồng hoa quả, và cuốn tiểu thuyết được coi là kiệt tác vĩ đại có một không hai của văn học Hungary cũng như văn học thế giới Karneval ra đời trong thời kì này.
Ngoài ra ông còn viết những tác phẩm nổi tiếng khác như Unicornis, Silencium, cuốn Biên bản bí mật, cuốn Magia sutra.
Từ năm 1951-1964 ông làm thủ kho tại khu công nghiệp xây dựng-nhà máy nhiệt điện ở Inot, Tiszapalkony, Bokon.
Bên cạnh công việc thủ kho này, ông học tiếng Heber, Sanskrit, dịch kinh Veda, Sankhya Karik, Sepher Jezirsh, Kathaka upanisad, Buddha… Trong thời gian này Hamvas Béla hoàn thành các tác phẩm: Patmosz, Đại sảnh các vị tiền bối cổ, tác phẩm Szarepta và Đêm giao thừa.
Năm 1964 ông về hưu. Trong ba năm cuối đời Hamvas Béla hoàn thành nốt các tác phẩm khác trong đó có Scientia Sacra tập II nổi tiếng.
Ông viết chủ yếu là tiểu luận, một thể loại tự do, như một thí nghiệm thể loại. Mọi sáng tác của ông đều viết dưới dạng tiểu luận. Kể cả tiểu thuyết Karneval ông cũng viết như một tiểu luận vĩ đại.
Ngày 7.10.1968 ông mất sau một cơn chảy máu não.
Cho đến tận những năm 70 của thế kỉ XX. tác phẩm của Hamvas Béla chủ yếu chỉ lưu truyền dưới dạng bản thảo đánh máy. Bắt đầu từ những năm 80 trở đi, dần dần tác phẩm của Hamvas Béla được ra mắt công chúng, nhưng vẫn bị kiểm duyệt, ví dụ tiểu thuyết Karneval (1985) bị cắt xén trước khi được in.
Năm 1990 Hamvas Béla được truy tặng giải thưởng Kossuth.
Năm 1996: Giải thưởng Di sản Hungary.
Năm 2001: Giải thưởng Vì Nghệ thuật Hungary.
Ngày nay Hamvas Béla được đánh giá là một trong những nhà văn, nhà triết học vĩ đại nhất của châu Âu thế kỉ XX, và của nền văn hóa Hungary.
Mời các bạn đón đọc Độc Giác của tác giả Hamvas Béla.